Author: Hình ảnh Việt Nam

  • The Origins of The Vietnamese

    The Origins of The Vietnamese

    According to a national legend telling the origins of the Vietnamese, the first Vietnamese descended from the dragon lord Lac Long Quan and the female heavenly angel Au Co. They married and gave birth to a sac of 100 eggs from which hatched 100 humans. One day Lac Long Quan told Au Co: “I am descended from dragons, you from fairies. We are as incompatible as water is with fire. So we must live apart from each other” the husband then went seawards with 50 of their children, while his wife went to the mountains with the other half of the clan.

    The oldest son, Hung Vuong, later installed himself as Vietnam’s first monarch. Because of that, Vietnamese people refer to themselves as the dragon’s son and fairy’s grand children.

     

    The Origins of The Vietnamese

     

    Most Vietnamese considers Van Long of the Hong Bang Dynasty, exited from 2879 BC to 257 BC as the first state, and Hung Vuong as the first king, the founding father of the country.

    Vietnam has exited for nearly 4000 years; they are ancient people with their own identity and culture. Their salient tradition is fighting for national independence. Even from the ancient time they had to struggle against foreign domination. China occupied and assimilated Vietnam for almost 1000 years, the Vietnamese finally expelled the Chinese in 938 AD.

     

    The Origins of The Vietnamese

     

    However, anthropologists said Vietnamese belong to an ethnic called Austro-Asiatic, which was born of a cross between the Mongoloids and the Austro-Negroid inhabitants 10,000 years BC. This ethnic settled in a territory extending from south of the Yangtze River in the present day China to the northern part of present day Vietnam. During the Bronze Age 3000 years BC the group of Viet people in the red river basin created a cultural and national identity before the formation of Chinese Empire. This later was known as the first state of Vietnam.

     

    Therefore in Vietnamese, Vietnam is written in two words, Viet and Nam, Viet is the name of an ethnic group, and Nam means south. Vietnam, then, refers to the country of Southern Viet people. To Vietnamese, South (Nam) often evokes what pertains to Vietnam, while North (Bac) evokes China.

     

    There are 54 officially recognized ethnic groups living in the territory of Vietnam, making the total population of this country over 93 millions. Sizes of those ethics are big different, Viet people makes up of 86% of the national population and is the largest ethnic group in Vietnam, the second largest group is Tay People, with 1,7 m. The smallest is Ơ Đu, with less than 400 people.

     

    The Origins of The Vietnamese

     

    Each ethnic group in Vietnam has its own cultural identity while still sharing certain similarities with mutual exchanges within the national border, and influences from China, India and Southeast Asian Countries. Generally, most of ethnic in Vietnam rely on wet rice agriculture or swidden farming, combining with raising poultry, collecting, hunting and fishing; and handicrafts and on commerce of different level.

    http://www.incensetravel.com

  • Đối chiếu tên đường Sài Gòn xưa & nay

    Đối chiếu tên đường Sài Gòn xưa & nay

    Bây giờ mời các bạn cùng chúng tôi đi dạo một vòng quá khứ (back to the past) của một thời hoa mộng trên mảnh đất yêu dấu từng đườc mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông.

    Tên thời Pháp thuộc – Tên thời Đệ II Cộng Hòa

    Boulevard Bonard – Lê Lợi (Trụ sở Quốc Hội – Nhà Hát Lớn, bệnh viện Sài Gòn, nhà sách Khai Trí, nước mía bò bía Viễn Đông, rạp Vĩnh Lợi, quán cơm Thanh Bạch, quán giải khát Pôle Nord, Hà Nội ice cream, quán kem Mai Hương, Thư Viện Abraham Lincoln, Nhà hàng Kim Sơn, Bồng Lai)

    Boulevard Chanson – Lê văn Duyệt Ngã Bảy trở xuống (Trụ sở Tổng Liên Đoàn Lao Công, Chợ Đủi, trụ sở Tòa Đại Sứ Miên, nơi hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu góc Phan Đình Phùng, rạp Nam Quang – ngã tư Trần Quý Cáp, rạp Kinh Đô sau là văn phòng Usaid, trường trung học tư thục Trường Sơn, Câu Lạc Bộ Kỵ Mã Sài Gòn) – CMT8

    Boulevard Charner – Nguyễn Huệ (rạp Rex, rạp Eden, passage Eden, Thương xá Tax, bánh mì pâté Đô Chính, phòng trà Queen Bee, Tổng Nha Ngân Khố, Kỹ Thương Ngân Hàng, Hôtel Palace,Hãng Charner)

    Boulevard Galliéni – Trần Hưng Đạo (Bộ Lao Động, Nha Cảnh Sát Đô Thành, Sở Cứu Hỏa Đô Thành, rạp Nguyễn văn Hảo, Hưng Đạo, rạp Đại Nam, vũ trường Tour d’Ivoire, Bộ Tổng Tư Lệnh quân lực Đại Hàn, Bộ Tổng Tham Mưu cũ, sân bóng rổ Tinh Võ, Khiêu vũ trường Vân Cảnh, Arc en Ciel, Đêm Màu Hồng, trường tiểu học Tôn Thọ Tường, Nhà thờ Tin Lành)

    Boulevard Kitchener – Nguyễn Thái Học trường tiểu học Trương Minh Ký, trường tư thục Huỳnh Thúc Kháng, rạp Nam Tiến, rạp cải lương Thành Xương, Chợ Cầu Ông Lãnh)
    – Boulevard Norodom – Thống Nhất (Toà Đại Sứ Mỹ, Phủ Thủ Tướng, Rạp Norodom-Thống Nhất – xổ số quốc gia giúp đồng bào ta mua lấy xe nhà giàu sang mấy hồi – Trần văn Trạch, hãng nhập cảng xe Peugeot Jean Compte, Bộ Tư Pháp, hãng xăng Shell, Esso) – Lê Duẩn

    Boulevard Paul Bert – Trần Quang Khải (Đình Nam Chơn, rạp Văn Hoa)

    Boulevard de la Somme – Hàm Nghi (Đài Pháp Á, Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín,BanqueFranco-Indochinoise, Tổng Nha Thuế Vụ, chợ Chó,chợ Chim,trung tâm Cờ Tướng, tiệm incils quân đội Phước Hùng)

    Rue – 11e RIC (Régiment d’Infanrerie Colonniale)- Nguyễn Hoàng (bến xe lục tỉnh, cư xá hỏa xa)– Trần Phú

    – Abattoir – Hưng Phú (Lò Heo Chánh Hưng)

    – d’Adran – Võ Di Nguy Phú Nhuận (Chợ Phú Nhuận, rạp Văn Cầm, rạp Cẩm Vân, cư xá Phú Nhuận) – Phan Đình Phùng

    – Albert 1er – Đinh Tiên Hoàng (Sân vận động Hào Thành – Hoa Lư – Citadelle, Tổng Nha Thanh Niên, Asam Đakao, mì Cây Nhãn, Chè Hiển Khánh)

    – Alexandre de Rhodes – Lục Tỉnh (trung tâm quân báo Cây Mai, bò 7 món Ngân Đình), đường Alexandre de Rhodes tới thời Cộng Hòa thay thế đường Paracels trước dinh Độc Lập –  Alexandre de Rhodes

    – Alexandre Frostin – Bà Lê Chân (hông chợ Tân Định, rạp Moderne sau đổi là Kinh Thành)

    – Alsace Loraine – Phó Đức Chính (biệt thự chú Hỏa – Hui Bon Hoa)

    – Amiral Dupré – Thái LậpThành (Phú Nhuận)Phan Xích Long

    – Amiral Roze – Trương Công Định(Chùa Chà, chạy xuyên qua vườn Tao Đàn – Vườn Pelouse) – Trương Định

    – d’Arfeuille – Nguyễn Đình Chiểu

    – Armand Rousseau – Hùng Vương(Trường Trung Học Chu văn An,cư xá sinh viên Sài Gòn)

    – d’Arras – Cống Quỳnh (Bệnh viện Từ Dũ, rạp Khải Hoàn, trường trung học tư thục Hưng Đạo-Giáo Sư Nguyễn văn Phú)

    – Arroyo de l’Avalanche – Rạch Thị Nghè

    – Audouit – Cao Thắng (rạp Việt Long, rạp Đại Đồng Sài Gòn, Chùa Tam Tông Miếu, bánh mì pâté Phò Mã, tư gia nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Lâm Tuyền)

    – d’Ayot – Nguyễn văn Sâm(rạp Kim Châu) – Nguyễn Thái Bình

    – Ballande- Nguyễn Khắc Nhu

    – Barbier – Lý Trần Quán (chả cá Thăng Long)

    – Barbé – Lê Quý Đôn (Trung Học Lê Quý Đôn-Chasseloup Laubat) – Hồng Thập Tự Nguyễn Thị minh Khai

    – Blan Subé – Duy Tân (Viện Đại Học Sài Gòn, Đại Học Luật Khoa, công trường Chiến Sĩ, Con Rùa, Vương Cung Thánh Đường) – Phạm Ngọc Thạch

    – Bourdais – Calmette

    – Catinat – Tự Do (Bộ Nội Vụ, bánh mì pâté Hương Lan, Nhà Hàng Caravelle, Nhà Hàng Continental Palace, La Pagode, Brodard, Vũ trường Maxim’s, Hotel Restaurant Majestic, rạp Majestic, Tiệm quý kim Đức Âm, nhà may Cát Phương, Adam,Tân Tân, Phòng Thông Tin cho các cuộc triễn lãm) – Đồng Khởi

    – Chaigneau – Tôn Thất Đạm (khu Chợ Cũ, rạp Nam Việt)

    – Champagne – Yên Đổ (Cư xá Đắc Lộ, trường Anh Ngữ Khải Minh) – Lý Chính Thằng

    Charles de Coppe – Hoàng Diệu (hiệu giày Gia, quán nhậuTư Sanh Khánh Hội – cari dê)

    – Charles Thomson – Hồng Bàng (bệnh biện Hồng Bàng, đại học Nha Khoa) – Hùng Vương

    – Chasseloup Laubat – Hồng Thập Tự (Trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Hội Hồng Thập Tự Việt Nam, Rạp Olympic, bàn ghế Phan văn Nhị, khu quán cháo vịt, Bộ Y Tế, Bộ Tài Chánh, Tổng Nha Ngân Sách Ngoại Viện, Cơ quan Tiếp Vận Trung Ương, Hông vườn Tao Đàn – vườn Ông Thượng – vườn Bờ Rô-Pelouse, Hông Dinh Độc Lập, Hông Thảo Cầm Viên, trường trung học kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ) – Nguyễn Thị minh Khai

    – Colonel Budonnet- Lê Lai (Rạp Aristo – nhà hàng Lê Lai – tiệm bánh trung thu Tân Tân, cơm chay Vạn Lộc)

    – Colonel Grimaud – Phạm ngũ Lão (Chợ Thái Bình, tòa soạn nhật báo SàiGòn Mới – bà Bút Trà, rạp Thanh Bình, ga xe lửa, quày bán vé Hàng Không Việt Nam)

    – Cornulier – Thi Sách (nhà in Ideo)

    – Danel – Phạm Đình Hổ – Denis Frères – Ngô Đức Kế (Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam)

    – Dixmude – Đề Thám

    Docteur Angier – Nguyễn Bỉnh Khiêm (Thảo Cầm Viên, hồ tắm Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tổng Nha Trung Tiểu Học & Bình Dân GiáoDục, trường Trung Học Trưng Vương, Võ Trường Toản, Nha An Ninh Quân Đội)

    – Docteur Yersin – Ký Con

    – Đỗ Hữu Vị – Huỳnh Thúc Kháng (Trường trung học kỹ thuật Cao Thắng, khu chợ Trời)

    – Douaumont- Cô Giang (chợ, rạp hát Cầu Muối)

    – Dumortier – Cô Bắc (hãng cao su Labbé)

    – Duranton – Bùi thị Xuân (trường trung học Nguyễn Bá Tòng, trường Les Lauriers)

    Eyriaud des Verges – Trương Minh Giảng (Chợ Trương Minh Giảng, rạp Văn Lang – Minh Châu -, cổng xe lửa số 6, Viện Đại học Vạn Hạnh) – Lê Văn Sĩ

    – l’Église – Trần Bình Trọng( Hôtel Massage Hồng Tá)

    – d’Espagne – Lê Thánh Tôn (Tòa Đô Chánh, Cửa Bắc Chợ Bến Thành, tiệm vàng Nguyễn Thế Tài -Thế Năng, tiệm incils quân đội An Thành, Rạp Lê Lợi, nhà may Văn Quân)

    – Faucault – Trần Khắc Chân

    – Frère Louis – Nguyễn Trãi từ Ngã Tư Cộng Hoà đổ vô Chợ Lớn (trung tâm đào tạo huấn luyện viên thanh niên thể thao, Nhà thờ Chợ quán)

    – Frère Louis – Võ Tánh (Sài Gòn) từ Ngã Tư Cộng Hòa đổ xuống Ngã Sáu (cổng chính Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, rạp hát Quốc Thanh, phở 79, nhà mồ Á Thánh Matthew Gẫm, trường nữ trung học tư thục Đức Trí) – Nguyễn Trãi

    Frère Guilleraut – Bùi Chu (Nhà thờ Huyện Sĩ) – Tôn Thất Tùng

    Filippiny – Nguyễn Trung Trực (Nhà hàng Thanh Thế với tuyệt chiêu suôn, nhà hàng Quốc Tế, Bồng Lai, Kim Sơn, rạp Les Tropiques, Văn Khoa cũ, Pháp Đình Sài Gòn)

    Fonck – Đoàn Nhữ Hài

    – Gallimard – Nguyễn Huy Tự (Chợ Dakao, chùa Ngọc Hoàng)

    Gaudot – Khổng Tử (Chợ Bình Tây)

    Georges Guynomer – Võ Di NguySài Gòn (Khu Chợ Cũ)

    – Guillaume Martin – Đỗ Thành Nhân (Q4, cầu Calmette)

    Hamelin – Hồ văn Ngà

    Heurteaux – Nguyễn Trường Tộ

    Hui Bon Hoa – Lý Thái Tổ (Phở Tàu Bay, quán Hạ Cờ Tây)

    – Jaccaréo – Tản Đà (khu tiệm thuốc Bắc)

    – Jauréguiberry – Hồ Xuân Hương (Bệnh viện da liễu – Bạc Hà)

    Jean Eudel – Trình Minh Thế – Ng(thương cảng Sài Gòn, kho 5, kho 10) – Nguyễn Tất Thành

    Lacaze – Nguyễn Tri Phương ( Mì vịt tiềm Lacaze, hủ tiếu Mỹ Tiên, hủ tiếu Cả Cần, bánh bao bà Năm Sa Đéc, quán sò huyết lề đường)

    – Lacotte – Phạm Hồng Thái (toà soạn nhật báo Dân Ta – ông Nguyễn Vỹ)

    – Lacaut – Trương Minh Ký (Lăng Cha Cả – Linh mục Bá Đa Lộc – Pigneau de Béhaines) – Hoàng Văn Thụ

    – De Lagrandière – Gia Long (Dinh Gia Long, Bộ Quốc Phòng, Thư viện Quốc Gia, rạp Long Phụng – phim Ấn Độ, tiệm bánh Bảo Hiên Rồng Vàng, tiệm Đồ da Cự Phú, tiệm quần áo trẻ em Au Printemps, tòa soạn nhật báo Tiếng Chuông – ông Đinh văn Khai, nhật báo Việt Nam của ông Nguyễn Phan Long 1936, nhật báo Tiếng Dội, Tiếng Dội Miền Nam, Dân Quyền của ông Trần Tấn Quốc và nhiều nhật báo khác) – Lý Tự Trọng

    – Larclause – Trần Cao Vân (bộ Thông Tin)

    – Lefèbvre – Nguyễn công Trứ

    – Legrand de la Liraye – Phan Thanh Giản (Bệnh viện Bình Dân, Chợ 20, Trường Nữ Trung Học Gia Long, bệnh viện St Paul, Trường tư thục Phan Sào Nam, Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi – Đất Hộ, cư xá Đô Thành, rạp Long Vân, bánh xèo Đinh Công Tráng) – Điện Biên Phủ

    – Le Man – Cao Bá Nhạ

    – Léon Combes – Sương Nguyệt Ánh (văn phòng bác sĩ quang tuyến Lý Hồng Chương, võ trường Hàn Bái Đường ở góc Sương Nguyệt Ánh – Lê văn Duyệt 1954)

    – Lesèble – Lý văn Phức

    – Loucien Lecouture – Lương Hữu Khánh (đường rầy xe lửa Mỹ Tho, miền Trung)

    – Luro – Cường Để (thành Cộng Hòa, Trường Đại Học Y, Dược Khoa,Văn Khoa, Nông Lâm Súc) – Đinh Tiên Hoàng

    – Mac Mahon – Công Lý (Dinh Độc Lập, Dinh Hoa Lan, Phủ Phó Tổng Thống, Chùa Vĩnh Nghiêm, trường tư thục Quốc Anh,Thương xá Crystal Palace – Tam Đa, rạp Hồng Bàng) – Nam kỳ Khởi Nghĩa

    – Marchaise – Ký Con

    – Maréchal Fox – Nguyễn văn Thoại ( trường đua ngựa Phú Thọ, bệnh viện Vì Dân) –Lý Thường Kiệt

    – Maréchal Pétain – Thành Thái (trường trung học Bác Ái) – An Dương Vương

    – de Marins – Đồng Khánh (tửu lầu Á Đông, Đồng Khánh, Bát Đạt, Arc En Ciel – Đại Thế Giới) – Trần Hưng Đạo B

    – Martin des Pallières – Nguyễn văn Giai

    Massiges – Mạc Đĩnh Chi (Hội Việt Mỹ, Ty Cảnh Quốc Gia Quận Nhứt, nhà hàng thịt rừng Trường Can, phở Cao Vân, trường trung học Les Lauriers, bộ Canh Nông)

    Mayer – Hiền Vương (Nguyễn Chí Nhiều dược cuộc, trung tâm phở gà, giò chả Phú Hương, rạp Casino Đa Kao) – Võ Thị Sáu

    – Miche Phùng – Phùng Khắc Khoan(tư dinh đại sứ Mỹ trước đó là tư dinh của tướng Năm Lửa Trần văn Soái)

    Miss Cawell – Huyền Trân Công Chúa

    – Nancy – Cộng Hoà (Trung Học Pétrus Ký, Đại Học Khoa Học, Đại Học Sư Phạm, cửa hôngTổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia) – Nguyễn Văn Cừ

    Nguyễn tấn Nghiệm – Phát Diệm – Trần Đình Xu

    Noel – Trương Hán Siêu

    Ohier – Tôn Thất Thiệp (hủ tiếu Thanh Xuân, Tài Nam Restaurant với món đuôn chà là chiên bơ rất mắc, Chùa Chà Và)

    d’Ormay – Nguyễn văn Thinh (tòa soạn nhật báo Thần Chung – ông Nguyễn Kỳ Nam, Restaurant Admiral) – Mạc Thị Bưởi

    – Paracels – Alexandre de Rhodes (Học ViệnQuốc Gia Hành Chánh cũ, Bộ Ngoại Giao)

    Paris – Phùng Hưng (chợ thịt quay vịt quay)

    – Pavie- Trần Quốc Toản (Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Viện Hóa Đạo – Việt Nam QuốcTự, trường tư thục Hồng Lạc, cục Quân Cụ, chợ cá Trần Quốc Toản) – Đường 3 tháng 2

    – Paul Blanchy – Hai Bà Trưng (Chợ Tân Định, Tổng Cuộc Điện Lực, BGI – Brasseries et Glacières de l’Indochine, Phở An Lợi, cà phê Quán Trúc, vũ trường Mỹ Phụng, công trường Mê Linh,nhà thờ Tân Định)

    – Paulin Vial – Phan Liêm

    Pellerin – Pasteur (Viện Pasteur, Khu Phở Gà, Phở Minh, Nhà sách Khai Trí, rạp Casino Sài Gòn sau đổi thành rạp Rạng Đông, nước mía bò bía Viễn Đông)

    Pierre Flandin- Đoàn thị Điểm (hông trường Nữ Trung Học Gia Long, hông Tổng Nha Ngân Sách Ngoại Viện)

    – Laregnère – Bà Huyện Thanh Quan(Cư xá nữ sinh viên Thanh Quan, Chùa Xá Lợi)

    – Renault – Hậu Giang

    René Vigerie – Phan Kế Bính

    – Résistance – Nguyễn Biểu (Cầu chữ Y)

    Richaud – Phan Đình Phùng (Tổng Nha Kiến Thiết và Thiết Kế Đô Thị, Đài Phát Thanh Sài Gòn, Bảo sanh viện Hồng Đức, Kỳ Viên Tự, Trường Rạng Đông, chợ Vườn Chuối, Restaurant Sing Sing, nhà hàng La Cigale, sân vận động PĐP) – Nguyễn Đình Chiểu

    – Roland Garros – Thủ Khoa Huân

    – Sabourain – Tạ Thu Thâu (cửa Đông chợ SàiGòn, Nhà thuốc tây Nguyễn văn Cao, nhà sách & xuất bản Phạm văn Tươi)

    – Sohier – Tự Đức

    – Taberd – Nguyễn Du (Sở xuất nhập di trú, Nhà thương Đồn Đất- bệnh viện Grall, trung tâm văn hóa Pháp – Centre Cul turel Francais) – Lý Tự Trọng

    – Testard – Trần Quý Cáp (Vũ trường AuBaccara, Đại Học Y khoa cũ, Trường Âu Lạc)– Võ Văn Tần

    – Tong-Kéou – Thuận Kiều (bệnh viện Chợ Rẫy)

    – Turc – Võ Tánh (Phú Nhuận)  (Văn Phòng Quận Tân Bình, Phở Quyền, Lăng Cha Cả, bệnh viện Cơ Đốc) – Hoàng Văn Thụ

    – Verdun – Lê văn Duyệt Ngã Bảy trở lên (Ngã Ba Chợ Ông Tạ, rạp Thanh Vân) –CMT8

    Vassoigne – Trần văn Thạch

    – Yunnam – Vạn Tượng (Q5) bên cầu Ba-Lê Cao

    – Quai de Belgique – Bến Chương Dương (Thượng Nghị Viện- Hội Trường Diên Hồng,Tổng Nha Kế Hoạch) – Võ Văn Kiệt

    – Quai Le Marne – Bến Hàm Tử – Võ Văn Kiệt

    – Quai Le Myre de Vilers – Bến Bạch Đằng (Hotel Restaurant Majestic, Phủ Đặc Ủy Trung ƯơngTình Báo, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, bến đò Thủ Thiêm, Cột Cờ Thủ Ngữ – Point des BlagueurS, tư dinh Thủ Tướng, Sở Ba Son – Arsénal – Hải Quân Công Xưởng)

    – Quai de Fou-Kien – Bến Trang Tử

    Tài liệu tham khảo : – Đặc Trưng Net – Đa Kao trong tâm tưởng

    MÀU NẮNG SÀI GÒN

    (Cảm đề khi sưu tầm bảng đối chiếu tên đường Sài Gòn)

    Tôi nhớ Sài Gòn nắng chói chang

    Những hàng cây ngả bóng bên đàng

    Ngựa xe xuôi ngược về muôn nẻo

    Tà áo thướt tha đưới gió ngàn

    Cờ kéo (1) taxi bung rãi rác

    Chuông reo (2) xe điện nhịp rình rang

    Bồn Binh thổ mộ qua xe kéo

    Hợp tấu rộn ràng vui ánh quang

    Nguyên Trần (Toronto)

    (1) Cờ kéo : khi lên taxi (hầu hết là chiếc Renault 4 có hai màu : xanh nửa phần dưới và vàng nhạt nửa phần trên), tài xế bẻ cờ đồng hồ tính tiền.

    (2) Chuông reo : xe điện (tramway-street car) Sài Gòn reo chuông khi dừng lại ở các trạm. Nếu tôi nhớ không lầm thì thời bấy giờ có hai lộ trình chính :

    – Thứ nhất là lộ trình Galliéni (Trần Hưng Đạo) chạy suốt con đuờng Trần Hưng Đạo từ Chợ Lớn vô Sài Gòn mà hai trạm chính là ga Nancy và ga Arras

    – Thứ hai lộ trình Boulevard de la Somme (Hàm Nghi) chạy trên đường Hàm Nghi ngừng ga Chợ Cũ rồi quẹo xuống bến Bạch Đằng rẽ vô Hai Bà Trưng chạy tới chợ Tân Định.

    Hai bên thành xe điện có nhiều mẫu quảng cáo khác nhau nhưng nổi bật nhất là 4 hiệu : – Một viên Cửu Long Hoàn bằng 10 thang thuốc bổ của nhà thuốc Võ văn Vân của ông bầu bóng tròn Võ văn Ứng – Thuốc dưỡng thai Nhành Mai – Dầu khuynh diệp bác sĩ Bùi Kiến Tín – Kem Hynos anh Bảy Chà.

    Lúc đó tôi rất thích nhìn cần câu điện trên nóc xe chạm vào hệ thống dây điện xẹt lửa màu xanh xanh tím tím rất lạ và đẹp mắt. Bây giờ ở Toronto xe điện cũng chạy đầy đường và cũng xẹt lửa sáng ngời nhưng tôi thấy nó vô vị làm sao, có lẽ tâm lý là cái gì đã mất đi, đã vào kỷ niệm thì đều quý cả.

    SÀI GÒN CỦA TA ƠI !

    Chiều nay ngồi ngắm mưa bay

    Chạnh lòng tôi nhớ đến Sàigòn xưa

    Niềm đau nói mấy cho vừa

    Mưa giăng giăng lối lưa thưa giọt buồn

    Đâu còn những buổi hoàng hôn

    Cà phê tình tự góc Pôle Nord sầu

    Tự Do rực rỡ muôn màu

    Maxim dìu bước em vào thiên thai

    Duy Tân bóng mát trải dài

    Queen Bee vang tiếng hát ai dặt dìu

    Đường Trần quốc Toản thân yêu

    Trường Hành Chánh trong nắng chiều nghiêng nghiêng

    Bạch Đằng xóa nỗi ưu phiền

    Chợ hoa Nguyễn Huệ ghe thuyền Chương Dương

    Đường về Gia Định muôn phương

    Dừng chân Phú Nhuận nghe thương nhớ nhiều

    Đa Kao xe cộ dập dìu

    Phố khuya Tân Định hắt hiu dáng gầy

    Lăng Ông Bà Chiểu giờ đây

    Còn đâu hương khói những ngày đầu Xuân

    Từ Cây Thị đã bao lần

    Loanh quanh đưa lối mãi gần Cây Mai

    Qua Cầu Khánh Hội chia hai

    Lối đi Thương Cảng dấu hài còn in

    Quán ăn Chợ Lớn linh đình

    Phú Lâm ngả rẽ tâm tình từ lâu

    Nguyên Trần (Toronto một ngày nhớ về Sài Gòn)

    Bài “Tên đường phố Sài Gòn xưa và nay” của Nguyên Trần là một công trình nghiên cứu công phu và rất  thú vị. Bài đã được bổ sung nhiều lần cho thật hoàn chỉnh. Nhóm chủ trương xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc version mới nhất của anh. Kính.

    Bài viết gốc : https://cafevannghe.wordpress.com/2011/08/01/d%E1%BB%91i-chi%E1%BA%BFu-ten-d%C6%B0%E1%BB%9Dng-sai-gon-x%C6%B0a-nay/

  • Những hoài niệm đẹp của Sài Gòn xưa

    Những hoài niệm đẹp của Sài Gòn xưa

    Chỉ có người yêu Sài Gòn mới nhận ra nét đẹp xưa còn mãi trong kiến trúc, con đường, nếp sống…

    Sài Gòn năng động và vun vút đi. Ít người có thời gian và chịu bỏ công sức để cảm nhận Sài Gòn một cách trọn vẹn từ quá khứ đến hiện tại, qua những thứ “ngày nào cũng thấy”.

    Thời gian làm nhiều thứ bị lu mờ và biến mất, nhưng lại tăng thêm sự quyến rũ, giá trị lịch sử cho những công trình. Mang vẻ đẹp độc đáo, lộng lẫy một thời, các kiến trúc như nhà hát lớn thành phố, UBND thành phố, nhà thờ Đức Bà, bưu điện thành phố… vẫn đậm hơi thở của “hồn Sài Gòn”.

    Nhà thờ Đức Bà được xây bằng những viên gạch làm tại Marseille (Pháp), để trần, không tô trát và mang màu đỏ đặc trưng

    Nhà thờ Đức Bà được xây bằng những viên gạch làm tại Marseille
    Nhà thờ Đức Bà được xây bằng những viên gạch làm tại Marseille (Pháp), để trần, không tô trát và mang màu đỏ đặc trưng
    hợ Bến Thành - biểu tượng của Sài Gòn, có trước khi người Pháp xâm chiếm Gia Định. Cho đến nay, kiến trúc của chợ gần như vẫn nguyên vẹn
    hợ Bến Thành – biểu tượng của Sài Gòn, có trước khi người Pháp xâm chiếm Gia Định. Cho đến nay, kiến trúc của chợ gần như vẫn nguyên vẹn
    Bến đò Thủ Thiêm nay chỉ còn trong các bức hình và trí nhớ của những người dân khu vực xung quanh
    Bến đò Thủ Thiêm nay chỉ còn trong các bức hình và trí nhớ của những người dân khu vực xung quanh
    Bưu điện thành phố ngày xưa không đông khách du lịch mà nhộn nhịp người đến vì công việc
    Bưu điện thành phố ngày xưa không đông khách du lịch mà nhộn nhịp người đến vì công việc
    Khách sạn Intercontinental
    Khách sạn Intercontinental

    Từng công trình cũng có câu chuyện của riêng mình với những biến cố thăng trầm theo sự phát triển của thành phố. Ví như tiệm cà phê – bánh ngọt Givral ở ngay góc đường Lê Lợi và phố Đồng Khởi.

    tiệm cà phê - bánh ngọt Givral
    Tiệm cà phê – bánh ngọt Givral

    Sài Gòn, chẳng có lấy một cái hồ tự nhiên với liễu rủ, bóng cây tỏa mát. Nhưng Sài Gòn có hồ Con Rùa mang dáng vẻ hiện đại, hình khối hợp tuyệt vời với phong cách năng động của thành phố này. Bao năm qua nó vẫn hòa với nhịp thành phố, chẳng bị lệch tông chút nào.

    Hồ Con Rùa với kiến trúc hòa hợp với phong cách của thành phố
    Hồ Con Rùa với kiến trúc hòa hợp với phong cách của thành phố

    Đường Sài Gòn xưa, vẫn những hàng cây thẳng tắp nhưng vắng vẻ và thoáng đãng hơn bây giờ. Có lẽ vì thế nên cho người ta có cái cảm giác người Sài Gòn trước hình như thơ hơn, mộng hơn.

    Đường Sài Gòn xưaĐường Sài Gòn xưa

    Những con đường thoáng đãng, rộng rãi hơn của hiện tại vì lượng xe và người còn hạn chế
    Những con đường thoáng đãng, rộng rãi hơn của hiện tại vì lượng xe và người còn hạn chế

    Sài Gòn ngày xưa cũng ngập tràn xe máy, xe đạp và ô tô. Tuy nhiên, những chiếc Mobylette, Vélosolex, Vespa, Lambretta, Honda… khiến cho Sài Gòn xưa mang nét đẹp cổ điển, thanh tao.

    Xem thêm: Xe máy Sài Gòn xưa

    Một bãi giữ xe thời xưa
    Một bãi giữ xe thời xưa

    xe máy sài gòn xưa

    Sài Gòn xưa với các dòng xe thế này là niềm mơ ước của dân chơi xe bây giờ
    Sài Gòn xưa với các dòng xe thế này là niềm mơ ước của dân chơi xe bây giờ

    Bên cạnh đó, xích lô, xe lam, xe buýt góp phần làm Sài Gòn xưa thêm gần Sài Gòn nay. Hẳn những người từng nghe tiếng nổ giòn tan của xe lam nhớ lắm cái mùi khói phả vào mặt khi vô tình đứng sau xe. Có khó chịu đấy, có nhăn mặt đấy nhưng nó lại là kỷ niệm khó phai.

    Xe lam là phương tiện giao thông phổ biến trước năm 1975
    Xe lam là phương tiện giao thông phổ biến trước năm 1975
    Xích lô, xe buýt khiến Sài Gòn xưa gần hơn với Sài Gòn nay
    Xích lô, xe buýt khiến Sài Gòn xưa gần hơn với Sài Gòn nay
    xe lam Sài Gòn xưa
    xe lam Sài Gòn xưa
    Và xe lam với tiếng nổ giòn
    Và xe lam với tiếng nổ giòn

    Nói đến Sài Gòn dịp tết, người ta nghĩ ngay đến đường hoa Nguyễn Huệ. Theo lời kể, kênh đào Charner nối liền với sông Sài Gòn được người Pháp lấp đi, hình thành đại lộ Charner, sau đổi tên thành đường Nguyễn Huệ.

    Mỗi dịp tết về, hoa từ khắp nơi theo những con thuyền về bến gần đó được tập kết trải dài trên con đường này, khiến nó thành nơi buôn bán sầm uất, nhộn nhịp người chơi hoa, du xuân và tham quan. Dù không mua bán như trước đây, nhưng đường Nguyễn Huệ cũng là một nét rất riêng được lưu giữ lại của thành phố.

    Đường Nguyễn Huệ xưa nhộn nhịp bán mua và người vãn cảnh mỗi dịp tết
    Đường Nguyễn Huệ xưa nhộn nhịp bán mua và người vãn cảnh mỗi dịp tết

    Không chỉ bây giờ mà trước đây, phim ảnh là một thú vui của nhiều tầng lớp người dân sống ở Sài Gòn. Do đó, các rạp cũng mọc lên như nấm với đủ dạng kiểu và giá thành khác nhau.

    Thậm chí có rạp mang gu riêng, không chiếu phim Trung Quốc mà chỉ hướng đến quảng bá phim đạt giải lớn với những diễn viên tài tử nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Còn các rạp như Eden hay Rex giá vé cao, chỉ thích hợp cho “con nhà giàu” hay những người có điều kiện kinh tế dư giả.

    Còn các rạp bình dân như Văn Cầm, Kinh Thành, Casino Đakao… thì “mềm” hơn, là điểm tới lui thường xuyên của học trò. Ngoài ra, còn vô số các rạp khác chứng kiến sự đổi thay một thời kỳ của điện ảnh như rạp Cầu Bông, Đại Nam, Cathay, Nguyễn Văn Hảo…

    Bảng quảng cáo phim của rạp Eden, một trong những rạp chiếu bóng có thâm niên nhất ở Sài Gòn. Mặt trước bên đường Tự Do không có chỗ cho bảng quảng cáo lớn nên họ đặt ở mặt sau bên Nguyễn Huệ. Rạp Eden hoạt động từ thời Pháp thuộc cho đến tận năm 1975
    Bảng quảng cáo phim của rạp Eden, một trong những rạp chiếu bóng có thâm niên nhất ở Sài Gòn. Mặt trước bên đường Tự Do không có chỗ cho bảng quảng cáo lớn nên họ đặt ở mặt sau bên Nguyễn Huệ. Rạp Eden hoạt động từ thời Pháp thuộc cho đến tận năm 1975
    Người Sài Gòn yêu điện ảnh từ xưa, các rạp chiếu bóng thời đó lúc nào cũng đông người đi xem
    Người Sài Gòn yêu điện ảnh từ xưa, các rạp chiếu bóng thời đó lúc nào cũng đông người đi xem

    Trong chợ Sài Gòn, các gánh hàng rong, xe đẩy dường như vẫn thế bao năm qua, khiến đất này mang dư vị khó quên trong lòng người đến và dời đi. Vẫn những món hàng thường ngày, từ trái cây, đồ khô, đồ ăn… cảnh mua bán tấp nập nhưng gánh hàng rong, xe đẩy dường như nhẹ nhàng và thong dong hơn.

    Chợ và hàng rong là điều không thể thiếu khi nhắc đến Sài Gòn. Thậm chí, có những khu chợ mang danh tiếng của tính cách Sài Gòn như chợ Dân Sinh, chợ Bà Chiểu…
    Chợ và hàng rong là điều không thể thiếu khi nhắc đến Sài Gòn. Thậm chí, có những khu chợ mang danh tiếng của tính cách Sài Gòn như chợ Dân Sinh, chợ Bà Chiểu…

    Xe đẩy ngày xưa cũng bán những mặt hàng như bây giờ nhưng hình như mang dáng vẻ thong dong, nhẹ nhàng hơn
    Xe đẩy ngày xưa cũng bán những mặt hàng như bây giờ nhưng hình như mang dáng vẻ thong dong, nhẹ nhàng hơn
    Sài Gòn luôn tận tình trong các dịch vụ đi kèm, tiệm hoa giao tận nơi này là một thí dụ
    Sài Gòn luôn tận tình trong các dịch vụ đi kèm, tiệm hoa giao tận nơi này là một thí dụ

    Cuộc sống của người Sài Gòn xưa cũng như Sài Gòn nay phóng khoáng và niềm nở
    Cuộc sống của người Sài Gòn xưa cũng như Sài Gòn nay phóng khoáng và niềm nở
    Sài Gòn xưa còn các cuộc thi nữ công gia chánh nhân ngày lễ như thêu, nấu ăn, viết văn…
    Sài Gòn xưa còn các cuộc thi nữ công gia chánh nhân ngày lễ như thêu, nấu ăn, viết văn…
    Cảnh đánh cờ của các anh, các chú, các bác vẫn là điều quen thuộc của Sài Gòn
    Cảnh đánh cờ của các anh, các chú, các bác vẫn là điều quen thuộc của Sài Gòn

    Sài Gòn khiến người ta phải nhớ mãi nó như câu hát tươi vui: “Một tình yêu mến ghi lời hát câu ca. Để lòng thương nhớ bao ngày vắng nơi xa. Sống mãi trong tôi bóng hôm nay sẽ không phai. Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi! Sài Gòn ơi!”

    Tạ Ban Ảnh: Sưu tầm từ Flickr

  • Nguồn gốc Phở ở Sài Gòn

    Nguồn gốc Phở ở Sài Gòn

    Phở là một đặc sản của miền Bắc. Người ta cho rằng Phở chỉ mới xuất hiện ở Saigon vào những năm 1951-1952, cùng một thời gian với hai nhà hát ả đào, một ở xóm Monceau và một ở xóm Đại Đồng.

    Phở gánh Hà Nội xưa
    Phở gánh Hà Nội xưa

    Cả hai thứ ấy đều rất xa lạ với người Saigon thuở đó. Kiếm được một quan viên biết cầm trống chầu không phải chuyện dễ. Cho nên họ chỉ cầm cự được một hai năm rồi dẹp tiệm, mặc dù họ đã biến nó thành một hình thức như ”kem sờ” ở Bờ Hồ (Hà nội) vào những năm 30 hoặc như ”bia ôm” của Saigon hôm nay. Và phở cũng chịu chung một số phận với nó. Người ta chỉ thích hủ tíu, hoành thánh, bánh xếp nước… Chỉ có độc một tiệm phở được gọi là ”Phở Tuyệc”, nằm trên đường Turc (nay thuộc khu vực Đồng Khởi) là kiên trì bám trụ.

    Phải đợi tới sau năm 1954, phở mới thực sự thực hiện một bước nhảy vọt từ Bắc vào Nam. Phở khởi đầu sự bành trướng của nó vào giữa thập niên 50 tới giữa thập niên 60. Có cả một dãy phố phở nằm trên hai con đường Pasteur và Hiền Vương.

    THƠ PHỞ…

    Những nhà hàng phở ngon của Saigon thuở ấy nhiều vô số. Nhưng được người ta chiếu cố nhất chỉ có bốn hoặc năm tiệm, trong đó có phở Trần Minh ở hẻm Casino. Trong cái ngõ cụt ấy, ê hề các hàng quà : phở, bún ốc, bún ốc sườn… Từ đầu ngõ, người ta đã chạm trán với khách ẩm thực, kẻ ra người vô tấp nập. Phở Minh ngon thiệt là ngon. Nó không giống như kẹo kéo “ăn một lại muốn ăn hai, ăn ba ăn bốn lại nài ăn năm”. Người ta chỉ có thể ăn một bát để cho nó thòm thèm rồi mai lại ăn nữa ! Có một người nghiện phở của ông ta, và nghiện luôn cả truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Đó là ông X, chủ một tiệm giày ở đường Lê Thánh Tôn. Ông vừa ăn phở vừa theo dõi cuộc tình của Triệu Minh – Vô Kỵ, hoặc của Doanh Doanh – Lệnh Hồ Xung trên mặt báo. Và tình bằng hữu giữa ông chủ tiệm giày với ông chủ tiệm phở đã thắm thiết hơn lên nhờ một bài thơ phở của ông chủ tiệm giày. Gọi là thơ phở vì đọc lên nghe thấy… toàn mùi phở. Tuy nhiên nó được làm theo thể Đường thi, và chữ nghĩa đối nhau chan chát. Rất tiếc, người viết chỉ còn nhớ được có bốn câu :

    Nổi tiếng gần xa khắp thị thành
    Trần Minh phở Bắc đã lừng danh
    Chủ đề : tái, chín, gầu, gân, sách
    Gia vị : hành, tiêu, ớt, mắm, chanh…

    Sau đó, ”mông xừ” Trần Minh đã nhờ một người nhái những nét chữ rồng bay phượng múa của Vũ Hoàng Chương để viết bài thơ ấy và treo ở trong tiệm.

    … VÀ CÂU ĐỐI PHỞ

    Saigon thuở ấy chỉ có một tiệm duy nhất ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu, có món tái sách tương gừng và phở tái sách : tiệm Y. Thịt tái mềm, sách ròn nhai gau gáu, chấm với tương Cự Đà thì tuyệt cú mèo. Người ta bèn đổ xô tới để thưởng thức một món ăn lạ miệng. Và tiệm Y phất lên như diều. Từ ngôi nhà lụp xụp, ông đã sửa sang lại cho khang trang và mua thêm một nhà khác để ở cho thoải mái. Phú quí sinh… máu văn nghệ, ông bắt đầu giao du thân mật với cánh nhà văn, nhà báo.

    Sau cuộc đảo chính của Dương Văn Minh, trong làng báo có hiện tượng “trăm hoa đua nở”, hễ có tiền là có quyền làm chủ một tờ báo. Thế là ông chủ tiệm phở Y bèn ra báo. Từ tái, chín, nạm, gầu, sụn, nhảy sang địa hạt chữ nghĩa, ông hoàn toàn bỡ ngỡ. Cho nên báo của ông chỉ có thể đến với độc giả bằng con đường ve chai. Dĩ nhiên nó phải chết. Và ít lâu sau ông cũng chết theo nó. Người vợ góa trẻ đẹp kế tục ”sự nghiệp” của ông chồng quá cố. Tiệm Y phát đạt trở lại. Những người bạn văn nghệ của ông Y vẫn lui tới ăn phở như xưa, nhưng mục đích chính của họ là… ngấp nghé ngôi vị chủ tiệm. Sau mấy năm trời theo đuổi mà chẳng đi tới đâu, một người trong bọn họ, tức cảnh sinh tình, bèn mượn danh nghĩa bà quả phụ để ra một vế câu đối như có ý thách thức thiên hạ rằng : “Nếu ai đối được thì em xin nguyện lấy làm chồng”

    “Nạc, mỡ nữa làm chi, em nghĩ chín rồi không tái giá ”

    Câu đối sặc sụa mùi phở, nhưng hắc búa nhất là cụm từ “tái giá”, nó vừa có nghĩa là ”đi bước nữa” lại vừa có nghĩa là “phở tái giá”. Cũng như “da trắng vỗ bì bạch” của bà Điểm đố Trạng Quỳnh vậy. Hơn ba mươi năm trôi qua, câu đối ấy hiện nay vẫn chỉ có một vế.

    PHỞ GÀ TRỐNG THIẾN

    Ngay cả Hà Nội – quê hương của phở – từ trước đến nay cũng chưa bao giờ có phở gà trống thiến, cho dù ở phố Huyền Trân Công Chúa, vào đầu những năm 50, đã có một hàng phở gà ngon nổi tiếng khắp Hà thành, đến nổi cụ Nguyễn Tuân khi theo đoàn quân về tiếp quản Thủ đô, ăn xong đã phải khen rằng ”tuyệt phở !”. Người bán phở tên là Chí. Ông ta mới hồi cư, không có đủ tiền để mướn mặt bằng, phải làm phở gánh. Con đường mang tên vị công chúa nhà Trần bé bằng cái lỗ mũi, với cái vỉa hè rộng hơn một mét, khách ăn kẻ đứng, người ngồi, húp xì xụp.

    Phở Hà Nội xưa
    Phở Hà Nội xưa

    Phở gà trống thiến xuất hiện ở Saigon vào những năm 60, ở phía chợ Vườn Chuối – tuy chưa được liệt vào loại tuyệt phở, nhưng cũng được khách ẩm thực đặc biệt chiếu cố. Phở ngon là một lẽ : thịt gà trống thiến thơm và mềm như gà mái tơ, nước phở trong hợp với khẩu vị của những người kén ăn, nhưng cũng còn một lẽ khác : người ta vừa ăn, vừa ngắm cái vẻ thướt tha yêu kiều của con gái ông chủ tiệm, thỉnh thoảng đi ra đi vô, mỉm cười với người này, gật đầu chào người kia, giơ tay ‘bông rua’ người nọ, tự nhiên như một cô đầm non.

    Đó là nữ ca sĩ Y.V, một giọng ca lả lướt của các phòng trà. Ban ngày, nàng giao thiệp với phao câu, đầu cánh, thịt đùi; ban đêm, chìm đắm trong ánh đèn màu. Thế rồi, không kèn không trống, nàng tuyệt tích giang hồ. Người ta bảo rằng nàng đi Tây. Đi Tây thật chứ không phải Tây Ninh. Tiệm phở vắng khách dần và ít lâu sau thì phải dẹp.

    PHỞ KHÔNG RAU KHÔNG GIÁ

    Phở Sài Gòn
    Phở Sài Gòn

    Tiệm này nằm trên đường Công Lý- cách ngã tư Công Lý – Yên Đỗ (nay là ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lý Chính Thắng) khoảng 100m – trong một cái hẻm rộng. Người ta gọi là phở Bà Dậu. Nó có những đặc điểm không giống bất cứ một tiệm phở nào : không rau, không giá và rất sạch, và nhất là không có cái mùi phở kinh niên. Thịt thái mỏng và bánh phở to bản thích hợp với cái gu của người Hà Nội. Vì ở sâu trong hẻm, nên thoạt đầu khách tới ăn uống rất lơ thơ tơ liễu buông mành, chỉ có dăm bảy mống. Sau đó, nhờ sự cổ động của người Hà Nội, người ta mới bắt đầu chiếu cố tới hương vị không rau không giá đó.

    Trải qua hơn 30 năm, Phở Bà Dậu sau vẫn tồn tại và có phần phát đạt hơn xưa. Có thêm một món mới : tái bắp, thịt mềm và nhai sần sật như sụn. Giá cả cũng tăng, từ 10đ/ bát trong những năm 60 đến 10.000đ/ bát, năm 1996. Nhưng khách ăn vẫn nườm nượp
    Trải qua hơn 30 năm, Phở Bà Dậu sau vẫn tồn tại và có phần phát đạt hơn xưa. Có thêm một món mới : tái bắp, thịt mềm và nhai sần sật như sụn. Giá cả cũng tăng, từ 10đ/ bát trong những năm 60 đến 10.000đ/ bát, năm 1996. Nhưng khách ăn vẫn nườm nượp

    TỪ PHỐ PHỞ ĐẾN… BẮC HUỲNH

    Hà Nội, quê hương của phở, và thời bao cấp đã sản sinh biết bao thứ phở : phở vịt, phở ngan, phở lợn (thậm chí có cả phở chó), vậy mà chưa có một phố nào chuyên bán phở, trong khi ấy Saigon lại có cả một dãy phố phở. Đó là khu Hiền Vương (Võ Thị Sáu – Pasteur). Hiền Vương chuyên bán phở gà, còn Pasteur, phở bò. Nhưng dù gà hay bò, các tiệm phở ở khu này chưa có một tiệm nào – nếu nói về phở bò – có thể so với phở Tàu Bay ở Lý Thái Tổ, còn nếu nói về phở gà, thì thua xa phở Vọng Các (đường Võ Văn Tần) và phở Bưu Điện hôm nay.

    Phở Tàu Bay
    Phở Tàu Bay
    Phở Tàu Bay
    Phở Tàu Bay

    Những tiệm phở bò nổi tiếng thời ấy còn có phở Tàu Thủy ở Nguyễn Thiện Thuật, phở Quyền và phở Bắc Huỳnh ở miệt Phú Nhuận. Sau khi ông Tàu Thủy qua đời, người con trai không có đủ khả năng kế nghiệp ông bố, bèn dẹp tiệm để chuyển sang nghề khác. Còn phở Bắc Huỳnh nguyên là phở Ga Đà Lạt một thời nổi tiếng; Sau 75 ông mò về Saigon, mở tiệm phở Bắc Huỳnh trên đường Võ Tánh góc Trương Tấn Bửu đối xéo góc với nhà thờ Nam. Chỉ mấy tháng sau, Bắc Huỳnh lại nổi tiếng như cồn. Hàng ngày, từ 6 giờ sáng khách mộ điệu phở đã nườm nượp nối đuối kéo vào. Và chỉ tới 10 giờ là bánh, thịt, nước phở đã láng cóong. Phải công nhận phở Bắc Huỳnh hết chỗ chê. Nuớc trong vắt thơm lừng; Miếng thịt chín mùi thơm như pa-tê, thái tay vừa đủ dầy để cắn ngập răng. Miếng gầu sữa trắng toát mịn như miếng thạch, vừa thơm vừa bùi lại ròn tan; Không một chút hoi. Đặc biệt tiệm BH không bán phở toàn tái. Thế mới là chính thống. Phở bò mà lại ăn phở tái thì đúng là nhà quéo.

    Đang phát đạt như thế, chẳng biết sao khoảng năm 1982 bỗng dưng ông dẹp tiệm. Dân ghiền phở cứ tiếc hùi hụi. Trong số này có ông cao thủ bóng lông Trần K., khi đó đang chủ trì sân quần vợt đuờng Lê Duẩn. Ông này ghiền phở BH không thua gì mấy anh ghiền thuốc phiện. Sáng sáng, sau khi dợt cho đệ tử mà không được bồi dưỡng hai tô phở BH là ông ngáp lên ngáp xuống. Ông bèn gạ một người bạn ông để người bạn này yêu cầu cô con gái ông BH mượn nồi niêu soong chảo bát đũa của ông già ra sân quần vợt mở một tiệm phở xe. Dân ghiền phở lại kéo tới ăn đông như chẩy hội. Hồi đó nữ ca sĩ Thái Thanh và nữ ca sĩ Tâm Vấn ở tít trong Chợ Lớn, sáng nào cũng ngồi xích lô ra sân quần vợt – không phải để đánh banh lông – mà là để đớp phở.

    Cao thủ Trần K. có ông anh cũng tên Trần K. và cũng là cao thủ bóng lông, còn mê phở hơn cả ông em. Sáng nào ông K. anh cũng gò lưng đạp chiếc xe đạp ọp ẹp chở người tình 200 pao từ Chợ Lớn ra sân quần với mục đich cao quý duy nhất là đớp phở của con gái ông BH. Có nhiều lần, có lẽ tại tối trước ông K. anh chơi bóng lông hơi nhiều và hơi khuya, sáng ra chân chùn gối lỏng, ông đạp xe hơi chậm, tới hơi trễ, đã thấy cái thùng nước phở chổng mông lên trời.

    Phở chính thống là thế : bao nhiêu thịt là bấy nhiêu nước. Hết nước là hết thịt, hết thịt là hết nước. Và hết là hết, chứ không có cái trò đổ vài lon nước lèo hộp, hay ném mấy cục bouillon vào nước, thêm tí mắm tí bột ngọt, đun sôi lên bán với thịt tái. Sau mấy lần đạp xe phờ râu tôm tới nơi lại hụt ăn, ông K. anh đành thương lượng với cô chủ phở như thế này: Mỗi sáng cô cứ vui lòng để riêng ra hai tô, cất đi cho tôi. Tôi tới kịp để ăn hay không tới ăn được cũng kệ cha tôi. Tôi vưỡn cứ trả tiền như thường. Ấy thế mà, chỉ được hơn năm, chả biết lý do gì, tiệm phở xe này cũng bỗng mất tích. It lâu sau thấy tiệm Bắc Huỳnh lại tái xuất giang hồ. Được ít năm rồi lại dẹp không kèn không trống. Ngày nay nghe đâu ông Bắc Huỳnh và cô con gái đẹp như mơ đã mở hai tiệm phở bên Calgary, Canada. Chả biết còn giữ tên Bắc Huỳnh nữa không.

    …PHỞ NGẦU PÍN

    Dạo ấy, cả Saigon chỉ có độc một tiệm của chú Woòng ở đường Lý Thái Tổ bán phở ngầu pín. Chú là người Quảng Đông, trước khi di chuyển vào Nam đã mở tiệm phở ở phố Huế, Hà Nội. Vào đầu thập niên 50, phở ngầu pín đối với dân thủ đô, thật hoàn toàn xa lạ. Có mà nhử thính các tiểu thư Hà Nội cũng không dám tới ăn.

    Phở ngầu pín vào tới Saigon cũng chả khấm khá gì hơn. Vẫn cái tiệm xập xệ tối thui, như ở phố Huế. Khách tới ăn toàn những ông râu ria xồm xoàm hoặc lún phún râu dê hoặc nhẵn nhụi bảnh bao chẳng có một sợi râu nào. Nhưng tuyệt nhiên không hề có bóng dáng đàn bà.

    PHỞ SAU 75 VÀ CƠN SỐT PHỞ BẮC HẢI

    Phở leo lên tới tột đỉnh vinh quang bắt đầu từ cuối thập niên 80. Phở tràn ngập thành phố, ngoại trừ khu vực Chợ Lớn, bởi nó không thể địch lại được với hủ tíu, hoành thánh, bánh bao, xíu mại. Nhưng đặc biệt nhất là cơn sốt phở Bắc Hải. Ở thành phố có chí ít vài ba chục tiệm mang cái tên ấy. Tại sao người ta lại không chọn một bảng hiệu khác ? Cũng có nguyên nhân đấy.

    Phở Bình Lý Chính Thắng
    Phở Bình Lý Chính Thắng

     

    Phở Hùng
    Phở Hùng
    Phở Hòa đường Pasteur
    Phở Hòa đường Pasteur

     

    Số là vào thời bao cấp, ở phố Thuốc Bắc, Hà Nội có một tiệm phở chui mà ông chủ tên là Bắc Hải. Đó là bí danh, biệt hiệu hay tên thật của ông ? Chả có ai rỗi hơi tìm hiểu. Chỉ biết cứ thế mà gọi. Tiệm của ông dĩ nhiên là đông khách, nhưng toàn khách quen. Những cái mặt lạ hoắc đừng có hòng bước vào. Trong khi phở quốc doanh “chạy qua hàng thịt”, thì phở Bắc Hải cả bánh lẫn thịt đều có chất lượng. Ngoài ra lại còn cái thú uống rượu quốc lủi nhắm với món “bốc mả” (xíu quách). Thịt do dân”bờ lờ” (buôn lậu) từ Phú Xuyên, Thường Tín hoặc ngả Gia Lâm đi theo xe khách thành, đưa vào bán cho các mối. Còn quốc lủi do ngoại thành cung cấp.

    Ông Bắc Hải đựng quốc lủi trong cái bong bóng trâu, giấu ở trước bụng, cái áo phủ bên ngoài. Khách nào muốn uống, giơ cái ly xây chừng ra, ông cởi khuy áo, tháo cái nút vòi bong bóng rồi xịt một phát vào ly. Rượu vừa đúng tới mép ly, không tràn ra một giọt nào. Ông bảo đó là cả một nghệ thuật, phải tập mất một tháng mới thực hiện thành công thao tác ấy. Nói cũng đáng tội, phở của ông cũng chả ngon lành gì. Chẳng qua là vì ”trong xứ mù thằng chột làm vua”. Vả lại, nó có đầy đủ chất béo, chất cay. Với một người ”thích đủ thứ”, như vậy là đúng tiêu chuẩn. Từ đó, anh hùng nhất khoảnh, phở Bắc Hải danh trấn giang hồ.

    Sau 75, một số đệ tử của ông Bắc Hải vào Nam. Họ kiếm một đầu hẻm, dựng một quán phở lộ thiên. Một trong những đệ tử nổi bật nhất của ”mông xừ” Bắc Hải là Ch. Râu. Gọi như thế là vì trên mặt anh có cả một rừng râu. Trẻ con trong khu phố, mỗi khi thấy anh xuất hiện lại chạy theo trêu chọc : ”Ơ cái râu lồm xồm, ơ cái râu loàm xoàm, cái râu mọc quanh cái mồm”.

    Lại vừa may mắn lại vừa có sẵn ít vốn, Ch. Râu kiếm được một mặt bằng ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Phở Bắc Hải của anh ra đời, trội hơn các tiệm Bắc Hải khác với món áp chảo nước, áp chảo khô, và đặc biệt là rượu rắn-bìm bịp, tráng dương bổ thận.

    Hiện nay, phở Bắc Hải không những bành trướng trong thành phố mà còn xuất hiện tại các vùng ngoại ô, nhất là khu Tân Sơn Nhất.

    Khoảng giữa thập niên 80, tại Bến Sỏi, mé trái cầu Điện Biên Phủ, có một tiệm phở đuôi bò và ngầu pín do một người đàn bà đứng bán. Quán hàng thiết lập trên một vùng đất lổn nhổn sỏi đá. Khách ăn, kẻ đứng người ngồi. Đôi khi cái ghế lùn tịt được dùng thay cho bàn. Và lần đầu tiên trong lịch sử của ỀpínỂ, ngầu pín được các bà các cô chiếu cố. Họ tỉnh queo cắn từng miếng một và nhai sần sật. Đuôi bò của Bến Sỏi cũng tuyệt trần. Mỗi miếng bằng cái nắm tay của trẻ con. Thịt được ninh nhừ nên khi ăn cũng không đến nỗi vất vả.

    Phở Bến Sỏi chỉ bán đến 9g30 sáng là hết. Nhưng thông thường, người ta đến sớm hơn. Để tránh cái nắng như đổ lửa xuống đầu. Trông các bà vừa ăn vừa thấm mồ hôi, phấn son nhòe nhẹt, thấy mà thương !

    Vài năm sau khấm khá, bà chủ tiệm tậu được một miếng đất rộng lớn ở phía xa lộ rồi chuyển cửa hàng ra đó. Bây giờ gọi là quán phở N., vừa bán phở vừa bán lẩu ngầu pín đuôi bò. Một cái lẩu 20.000đ hai người ăn căng bụng.

    PHỞ THẦY CÔ

    Bởi lương nhà giáo không đủ sống nên 5 cô và một thầy đã hùn nhau mở một tiệm phở ở vỉa hè đường X., phía sau cổng trường M.C.

    Phở thầy cô ra đời khoảng gần hai năm nay. Có một dạo nhà nước dẹp lòng lề đường, có lúc họ phải di chuyển vào mé sân sau trường. Tiệm này chuyên bán phở gà và chỉ bán vào buổi sáng. Dĩ nhiên phở của họ không thể nào ngon bằng các tiệm nhà nghề như phở gà Bưu Điện hoặc Vọng Các hay các tiệm ở đường Võ Thị Sáu, nhưng nó lại có một hương vị đặc biệt – hương vị gia đình. Khách ăn có cảm tưởng như người nhà mình nấu cho mình ăn vậy. Phở ở đây rất có ”chất lượng” và rẻ – rất rẻ là khác : 4.000đ/ tô đầy tú ụ cả thịt lẫn bánh.

    Phở Đô Thành
    Phở Đô Thành

    Giữa họ đã có sự phân công : mỗi người nấu phở rồi coi phở một ngày. Không có ai trong số họ có sẵn tay nghề. Thoạt đầu thì lúng túng như thợ vụng mất kim, ít lâu mới thành thạo. Nhưng dù sao đối với họ nghề phở cũng là một cái nghề bất đắc dĩ. Đứng trên bục giảng vẫn tốt hơn.

    Ở thành phố, ngoài nhóm thầy cô kể trên, còn có một cô giáo nữa cũng đang đứng bán phở, nhưng lại giã từ hẳn cái nghề kỹ sư tâm hồn. Cô nguyên là giảng nghiệm viên của Đại học khoa học, nhà lại sẵn có mặt bằng nằm trên một trục lộ đông đảo người qua lại, bèn quyết định từ bỏ ống nghiệm và các công thức hóa học để ”giao thiệp” với phở. Vốn là một nội trợ giỏi nên từ nấu thức ăn đến làm phở cũng không đến nỗi khó khăn. Cửa tiệm nằm ở phía chân cầu Bông, khách ăn sẽ dễ dàng nhận ra khi thấy trước cửa đậu một dãy xe gắn máy.

    Phở Cầu Bông ngoài các món thường lệ như tái, chín, nạm, còn có món đuôi bò. Phở rất ngon nhưng giá một tô có 5.000đ, chỉ bằng một nửa tiền nếu so với phở Hòa ở đường Pasteur, tục gọi là phở Việt kiều, với giá chém treo ngành 12.000đ/ tô. Sở dĩ gọi thế là vì khách ăn đa số là Việt kiều. Họ quen ăn phở với giá 8 đôla/ tô, chưa kể tiền ”bo” 10%, nên với họ, đó là một giá rẻ mạt.

    Phở Cầu Bông cũng không làm theo kiểu đại trà với thịt thái sẵn chất đầy một cái khay. Khách ăn tới đâu làm tới đó. Thịt thái mỏng bốc mùi thơm phức. Mỗi miếng thịt mang hình kỷ hà, màu nâu gụ của nó dính với màu mỡ gàu đặt trên nền trắng của bánh trông giống như một bức tranh tĩnh vật.

    Cô giáo của trường Khoa học đã đưa cả khoa học lẫn nghệ thuật vào phở.

    PHỞ T.D. Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ

    Phở có bảng hiệu mang tên số nhà, nhưng người ta cứ quen miệng gọi là phở T. D., tên ông chủ, mặc dù anh không đứng bán. Căn nhà đó, xưa kia, anh mở tiệm cơm Tây với hai món đặc sản : chateaubriand và chân giò nấu đậu trắng. Các bằng hữu của anh đa số là những người làm văn nghệ. Anh cũng được liệt vào số đó, bởi giọng ca tuyệt diệu của anh. Nhưng mỗi năm anh chỉ hát có một lần và chỉ hát có một bài vào đêm Giáng sinh : “Đêm thánh vô cùng” (Silent Night). Một điệu nhạc tắt đèn. Trong lúc tiếng ca thánh thiện của anh vang lên, người ta ôm nhau đi một đường slow.

    Sau khi thưởng thức phở Quyền, phở Tàu Bay, phở bà Dậu, nếu muốn đổi hương vị, người ta có thể đến T.D để nếm món ”vú sữa”, tức là khoảng thịt bụng có những núm vú, ăn béo ngậy, thơm và sần sật, nhưng không giống như sụn hoặc nậm của thịt chó. Nhà hàng có mặt bằng rộng, quạt máy quay vù vù, khách ăn không phải chịu cái cảnh mồ hôi mẹ mồ hôi con cùng chảy.

    PHỞ CÔNG TỬ SÀI GÒN

    Đó là tiệm phở gà H. B. ở đường Võ Thị Sáu. Ông chủ tiệm tên là Q., một người thuộc giới giang hồ mà cả hai đạo hắc bạch đều biết… tiếng từ khi Q. ở địa vị một ông chủ.

    Nghề phở đến với anh một cách tình cờ. Trong một cuộc đọ tài cao thấp với một tay anh chị, anh bị hắn thưa về tội đả thương, và sau đó bị đưa đi cải tạo. Thời gian chém tre đẵn gỗ trên ngàn, anh thường hay giúp đỡ một anh bạn đồng cảnh ngộ. Thấy bạn bị bắt nạt là anh can thiệp ngay. Không phải bằng vũ lực, mà chỉ với một chiêu số thôi : bấm vào huyệt nội quan ở cổ tay và huyệt khúc trì ở khuỷu tay, là địch thủ phải thổi bài kèn ”ô rơ lui” ngay. Q. lại còn thường giúp anh ta trong các công tác lao động. Để đáp lại ân tình ấy, người bạn kia đã truyền cho anh nghề nấu phở. Anh ta dạy Q. từ cách lựa chọn gà – phải là gà được nuôi ở nông thôn – đến cách pha chế gia vị cho thùng nước lèo, và cách nấu nướng làm sao cho gà khỏi bị vỡ da.

    Sau thời gian cải tạo, Q. về đường Võ Thị Sáu mở tiệm phở H.B. – tiệm phở ngon nhất trong khu phố ấy. Chỉ trong vòng ba năm, anh đã phất lên như diều. Và bây giờ, với 8 năm trong nghề phở, anh chỉ giữ vai trò chuyên viên, và để cho một số đệ tử đứng bán. Còn một chàng nữa cũng phất lên như Q., nhờ phở. Đó là anh D., chủ một tiệm phở ở trong một con hẻm đường Nguyễn Thị Minh Khai, cách nhà thương Từ Dũ khoảng 500m. Từ Hà Nội vô thành phố Sài Gòn, anh chỉ có đủ tiền để làm một gánh phở ở đầu ngõ. Mới đầu, anh chả biết một tí gì về cái nghề này. Toàn đi học mót. Hỏi người này, học người kia, rồi tới ăn ở các tiệm phở danh tiếng để thử nghiệm. Phải mất gần một năm anh mới thành thạo.

    Phở D. hôm nay nổi tiếng ngang với phở Quyền ở Phú Nhuận. Tiệm của anh có một món đặc biệt : tái bắp. Muốn ăn món này phải đi sớm, bởi 8 giờ sáng là hết. Có một điều ly kỳ là phở D. ăn vào buổi chiều bao giờ cũng ngon hơn buổi sáng. Cả chủ lẫn khách đều công nhận chuyện đó. Hỏi nguyên nhân tại sao ? Anh lắc đầu vì không giải thích được. ”Sáng và chiều cùng một thùng nước lèo. Nửa thùng buổi sáng còn lại, buổi chiều chỉ việc đun sôi, không pha thêm một chút gia vị nào, thế mà nó lại ngon hơn buổi sáng”, anh mỉm cười nói.

    Bây giờ thì phở có bề thế lắm rồi. Anh mới tậu thêm một ngôi nhà ở đầu hẻm. Phở là một đặc sản của Việt Nam. Đó là điều ”quốc tế phải công nhận”. Nhưng ông Tây lại bảo nó là “soupe chinoise”, còn ông Tàu thì lại bảo nó là “ngầu phấn” chỉ là tiếng Quảng Đông, phiên âm ra tiếng Hán Việt là “ngưu” (bò hoặc trâu), ”phấn” (bột gạo). Một điều nữa, hỏi ông tổ của nghề phở là ai ? Các ông chủ tiệm phở đều lắc, mặc dù nhờ phở, họ đã có của ăn của để.

    Phan Nghị

  • Những di tích nổi tiếng ở Sài Gòn có nguy cơ biến mất!

    Những di tích nổi tiếng ở Sài Gòn có nguy cơ biến mất!

    Sài Gòn đã đi qua hơn nửa chặng đường của năm 2015, thành phố cũng đã hơn 300 tuổi. Có lẽ đã đến lúc để nâng cấp các công trình đã có tuổi ở Sài Gòn. Dưới đây là top 10 các di tích đã đang có nguy cơ sẽ biến mất khỏi Sài Gòn, khi thành phố thay áo mới.

    Các cửa hàng ở cửa Tây chợ Bến Thành

    Các cửa hàng ở cửa Tây chợ Bến Thành
    Các cửa hàng ở cửa Tây chợ Bến Thành

    Sài Gòn từng chịu ảnh hưởng rất lớn của kiến trúc châu Âu do lịch sử 61 năm bị thực dân đô hộ. Ngày nay, đa phần các công trình ấy đã bị phá hủy, thành phố chỉ còn sót lại một vài địa điểm mang dư âm Pháp và tập trung chủ yếu ở khu vực quận 1, quận5. Ẩn sau những tấm pano quảng cáo lớn, khu nhà cao 3 tầng nằm ngay góc đường Lê Lai – Phan Chu Trinh là một trong các công trình mang sự pha trộn giữa các kiểu nhà truyền thồng thống châu Á nhưng vẫn phảng phất chút nét Âu. Tuy nhiên, theo thời gian thì khu nhà này đã cũ và rất cần được nâng cấp. Trong vài năm tới đây, hi vọng cùng với sự hình thành của tuyến tàu điện ngầm thì các khu vực quanh chợ Bến Thành sẽ được nâng cấp và cùng với đó, cư dân Sài Thành sẽ được thấy góc đường quen khoác lên mình một màu sắc mới đẹp và hiện đại hơn.

    Các shop trên đường Nguyễn Huệ

    Các shop trên đường Nguyễn Huệ
    Các shop trên đường Nguyễn Huệ

    Dãy số 85 – 115 Nguyễn Huệ là các ví dụ tuyệt vời cho kiểu shop có 2 tầng có mái hiên đặc thù kiến trúc xưa được các nhà bảo tồn hi vọng có thể tân trang lại như một phần của dự án phố đi bộ Nguyễn Huệ. Đáng tiếc thay, 6 căn nhà từ số 89 – 99 đã bị đập bỏ để xây một khu mua sắm mới và những căn nhà còn lại được dự đoán cũng sẽ chịu “chung số phận”.

    Thương xá Tax

    SAIGON 1965 - Thương xá TAX
    SAIGON 1965 – Thương xá TAX

    Thương xá Tax từng là biểu tượng của Sài Gòn phồn hoa một thời. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, ít ai nghĩ rằng sẽ có ngày khu thương mại sầm uất ngày nào lại bị đóng cửa. Tháng 1 năm 2015, Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố – đơn vị quản lý trực tiếp thương xá Tax – đã chấp nhận giữ lại phần bên ngoài của Grand Magasins Charner được xây dựng vào năm 1924 để làm mặt tiền của tòa nhà 43 tấng và quan trọng hơn hết là giữ lại được cầu thang khảm gốm moisaic để làm điểm nhấn trong sảnh của tòa nhà mới. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, cầu thang này sẽ được tháo rã ra và lắp lại sau khi công trình hoàn thành. Công việc tháo – lắp này cần được thực hiện bởi các chuyên gia bảo tồn giàu kinh nghiệm. Do đó, công ty SATRA đã tìm kiếm các chuyên gia trong lĩnh vực nhằm thực hiện công việc khó khăn và phức tạp này.

    136 Hàm Nghi

    136 Hàm Nghi
    136 Hàm Nghi

    Ít ai biết rằng tòa nhà trụ sở đường sắt Sài Gòn đã có mặt ở đất Gia Định xưa hơn 1 thế kỉ. Gần đây, tòa nhà đã đươc tân trang và sơn lại và được đưa vào dự án tái phát triển thành văn phòng và căn hộ cho thuê. Đây là một phần trong thỏa thuận hợp tác với Kinh Đô Land (theo bài báo “Thành lập Trung tâm ứng phó sự cố, thiên tai và cứu nạn Đường sắt”, được in trên báo GTVT ngày 20 tháng 7 năm 2012)

    606 Trần Hưng Đạo

    606 Trần Hưng Đạo
    606 Trần Hưng Đạo

    Được xây dựng vào năm 1932 bởi công ty nhượng quyền sổ số từ thiện tên là “Société pour l’amélioration morale, intellectuelle et physique des indigènes de Cochinchine (SAMIPIC). Sau năm 1954, lần lượt tòa biệt thự này đã trở thành trụ sở của quân đội Mỹ (MAAG, MACV) và lực lượng vũ trang Hàn Quốc. Theo một nguồn tin đáng tin cậy thì hiện nay, một trong các di sản lịch sử của Sài Gòn sẽ bị phá hủy và thay thế bởi một dãy văn phòng mới.

    26 Lý Tự Trọng

    26 Lý Tự Trọng
    26 Lý Tự Trọng

    Cũng như Bót Catinat, tòa chung cư có kiến trúc nghệ thuật vô cùng hoài cổ được biết đến với tên “tòa nhà Tự Do” nằm trên ngã ba “đất vàng” Đồng Khởi – Lý Tự Trọng này cũng đang trong tình trạng chờ bị phá dỡ dù những người dân sống ở khu chung cư này vẫn chưa được thông báo thời gian chính thức khi nào việc này sẽ diễn ra. Được xây dựng vào năm 1926 – 1927 để làm ……….. và được biết đến như khu chung cư có giá trong lĩnh vực bất động sản. Đồng thời, tòa nhà này cũng là trụ sở của nhiều công ty và văn phòng thường trực của các công ty nước ngoài, điển hình như Đại sứ quán Mỹ trong giai đoạn 1930 – 1940. Đại sứ quán Mỹ đã tồn tại cho đến ngày 23/11/1941, hiến binh của Nhật thực hiện một cuộc đánh bom liều chết bằng xe hơi nhằm vào người Mỹ ở Việt Nam. Vụ tấn công này đã gây thiệt hại nặng nề cho tòa nhà Tự Do. Và 2 tuần sau đó, Nhật tiến hành tấn công Trân Châu Cảng và trục xuất tất cả các nhà ngoại giao Mỹ ra khỏi Đông Dương.

    151 Đồng Khởi

    151 Đồng Khởi ( Grand Hôtel de France)
    151 Đồng Khởi ( Grand Hôtel de France)

    Đây là địa chỉ quen thuộc của nhiều người, không chỉ là công dân Việt mà cả khách du lịch và người nước ngoài sống ở Việt Nam bởi đây là nơi tọa lạc của cà phê Lu’sine nổi tiếng. Tuy nhiên, vào đầu năm nay thì địa chỉ này cũng chính thức góp mặt vào danh sách “chờ khai tử” ở Sài Gòn. Ngược dòng lịch sử về đầu thế kỉ 20, tòa nhà này được xây dựng lại dựa trên tiền thân của khách sạch “Grand Hôtel de France” (xây dựng năm 1870). Đến cuối thời kì thuộc địa, tầng trên của tòa nhà này được sử dụng làm căn hộ cho thuê còn tầng trệt dùng để mở cửa hàng kinh doanh. Điều đặc biệt của tòa nhà này chính là rạp chiếu phiếu Catinat-Cine được đưa vào sử dụng vào năm 1930. Ngày nay, vách tường khảm moisaic của rạp chiếu bóng xưa vẫn còn tồn tại trong Lu’sine café.

    59 – 61 Lý Tự Trọng

    59 – 61 Lý Tự Trọng
    59 – 61 Lý Tự Trọng

    Từng xuất hiện torng phim “Người Mỹ thầm lặng”, 59 – 61 Lý Tự Trọng, tòa nhà 120 năm tuổi này lại là một công trình chúng ta hi vọng sẽ được giữ lại. Năm trước, Ủy ban nhân dân Thành phố đã tổ chức một cuộc thi thiết kế lại trụ sở hành chính mới ngay phía sau trụ sở cũ như để đáp lại những lời chỉ trích cho việc tháo dỡ khu chung cư 213 Đồng Khởi. Cuộc thi này khuyến khích các thiết kế kết hợp hài hòa giữa phần được bảo tồn của văn phòng chính phủ Pháp cũ với mặt tiền của văn phòng mới và cả kiến trúc của các khu vực xung quanh. 6 tháng sau khi phát động cuộc thi, 11 bản thiết kế đã được trưng bày để mọi người có thể bình chọn và người chiến thắng vẫn chưa được công bố. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 2/2/2015 với báo Sài Gòn Online, ông Nguyễn Thanh Toàn, phó giám đốc “Sở Quy hoạch và Kiến trúc TP.HCM” đã tiết lộ rằng Sở sẽ không trao giải nhất cho bất kì thiết kế nào bởi “Đa số các bài dự thi đều có chất lượng ngang nhau” và sau đó lại thông báo rằng kế hoạch số 107 là bài thi được đánh giá cao với bản dự kiến sẽ bảo tồn khu nhà 59 – 61 Lý Tự Trọng nhưng đồng thời sẽ di dời vị trí địa lý khoảng 500 mét, như thế sẽ thích hợp hơn với trục trung tâm của tòa nhà Ủy Ban Nhân Dân.

    Xưởng tàu Ba Son

    Xưởng tàu Ba Son
    Xưởng tàu Ba Son

    Chắc chắn chẳng có gì bất ngờ khi xưởng tàu Ba Son cũng nằm trong danh sách này. Đây là di sản hàng hải lâu đời và quan trong bậc nhất ở Sài Gòn đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia (Nghị định 1034-QĐ/BT) bởi bộ Văn hóa thông tin vào nằm 1993. Trong vài năm qua, một vài chuyên gia trong lĩnh vực du lịch đã đề nghị biến khu xưởng tàu này thành khu giải trí phức hợp như khu South Street Seaport của New York. Nhưng giờ đây, có vẻ khu Ba Son sẽ được bán cho một nhà đầu tư đến từ Hàn Quốc để được tái quy hoạch thành các cao ốc văn phòng, khu căn hộ và trung tâm mua sắm.
    Nguồn: http://saigoneer.com/saigon-buildings/4733-saigon-s-endangered-heritage-buildings-the-top-10

  • Tại sao “White mice” là biệt danh của cảnh sát VNCH?

    Tại sao “White mice” là biệt danh của cảnh sát VNCH?

    Cảnh sát VNCH tại Phan Thiết 1968
    Cảnh sát VNCH tại Phan Thiết 1968

    White mice là gì?

    Lính Mỹ thường gọi cảnh sát VN hồi đó là White mice nghĩa là chuột trắng vì đồng phục từ áo quần đến găng tay đều màu trắng giống chuột bạch.

    Gọi cảnh sát là chuột bạch là vì lính Mỹ không thích cảnh sát VNCH hồi đó. Cũng bởi lính Mỹ thường thích đi bar, party ồn ào mà cảnh sát hồi đó không thích điều này. Họ thường kiểm tra vấn đề say rượu của lính Mỹ ngoài đường cho nên lính Mỹ rất “không ưa” cảnh sát VN và họ gọi cảnh sát VN là Chuột bạch  :mrgreen:
    Theo chia sẻ của anh Kenny Nguyen: https://www.facebook.com/kenny317

  • Sài Gòn: Thời Trang Ngày Ấy

    Hình ảnh Việt Nam xin phép được đăng 1 phần bài viết của bác Chính Vũ Văn! những chia sẻ rất thật cho ta thấy một phần thời trang Sài Gòn trước năm 1975.

    Thời Trang Ngày Ấy.

    ( Một thời để nhớ và để quên )

    Tôi chỉ còn nhớ các kiểu thời trang của các bậc cha chú hay mẹ , các cô và dì thời thập niên 60 qua những hình ảnh mà thôi , vì lúc đó tôi cũng còn nhỏ lắm. Ngày ấy thời trang thật cổ kính với tà áo dài cao cổ và hai tà áo dài phủ xuống ngang quá đầu gối. Phần eo áo được thít chặt hai bên hông .Về sau khoảng năm 63 thì tà áo dài mới được cách tân một chút là không còn cổ cao mà được khoét sâu hơn một chút xuống phần ngực. Theo mốt của bà cố vấn Lệ Xuân. Tóc thì các bà cổ điển thì vẫn để dài ngang quá lưng. Còn các bà tân thời thì đủ kiểu từ mái tóc bồng của nữ diễn viên Catherine Deneuve , Brigit Bardo hay các nữ ca sỹ Sylvie Vartan ,Francois Hardy.

    Vui lòng bấm vào hình để xem:

    Bác Phạm Duy có viết một câu trong bài Quán Bên Đường như sau : À a a nhớ,nhớ em còn mái tóc “bánh bèo” ..Cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa hình dung ra mái tóc “bánh bèo” của các Mẹ các Chị ngày xưa ra sao nữa. Ngoài áo dài ra còn có các loại jupe dành cho các chị đi làm ở các sở Mỹ hay các hãng ,công ty của người Việt. Dù sao thì đó cũng là thời trang kín đáo của các quý bà quý cô vào thập niên 60. Sang thập niên 70 , chiếc áo dài được phong phú hơn với kiểu gọi áo dài Raglan . Có hàng nút đính ngay giữa thân áo và hai tà áo ngắn hơn kiểu cũ. Ngày đó có tiệm may áo dài rất nổi tiếng ở Sài Gòn. Đó là tiệm may Thiết Lập nằm trên đường Pasteur.

    >>Xem thêm:

     

    Còn quý ông thì đơn giản hơn với mái tóc uốn bồng lên phía trước giống như cái máy sấy tóc của quý bà !. Có ông điệu đàng hơn thì để đầu theo kiểu ca sỹ nổi danh Elvis Fresley. Còn quần áo thì đơn điệu hơn với áo chemise rộng ,hay áo thun lóng lánh kim tuyến . Quần thì phồng lên phía phần đùi hay hơi bó sát đùi một chút , càng đi xuống càng bó sát với ống quần nhỏ. Chẵng hiểu ngày ấy cha chú mỗi lần cởi ra có cực không ta ? . Với hai ống quần nhỏ xíu xiu kia mỗi lần cởi ra chắc cũng khó khăn chứ chẳng chơi. Giầy thì là giầy da trơn láng màu đen hay nổi hơn nữa thì chơi màu trắng ,bó sát lấy đôi chân và nhọn hoắt phía mũi giầy . Mỗi lần thấy bố tôi xỏ đôi giầy cực lắm dù có dây cột đàng hoàng. Phải có một cái miếng đồi mồi trơn nho nhỏ, mà mỗi lần muốn xỏ vào thì để nó ra sau gót chân và cứ thế ấn chân nhè nhẹ vào đôi giầy thì mới xỏ được.

    Rồi tới thập niên 70 thì mọi chuyện ăn mặc thời trang của quý bà quý ông và các quý choai choai như tuổi của tôi thì thay đổi đến chóng mặt. Thường thì thời trang của các thanh niên nam nữ Sài Gòn thời bấy giờ đều lấy theo kiểu mẫu của thời trang Mỹ , nhất là thời trang thanh lịch của Pháp qua các tạp chí Mademoiselle Arge Tendré , Elle hay các tạp chí nhạc trẻ như Salut Les Copains.. Nhất là từ khi xem các hình ảnh từ buổi đại hội nhạc trẻ Woodstock 1968 kéo dài 3 ngày ở Mỹ. Thì tuổi trẻ ở Sài Gòn bắt đầu để tóc dài thòng tới vai đối với nam , còn nữ thì có mốt tóc cắt ngang trán theo kiểu ca sỹ Stone , mà hồi đó hay gọi là cắt tóc kiểu xì – tôn. Về sau hình như vào năm 71,72 gì đó thì có thêm kiểu tóc ngắn giống đàn ông con trai , nên còn gọi là kiểu Demi Garcon ( nửa con trai ). Hoặc kiểu tóc xõa và uốn lượn dài xuống vai như kiểu của nữ ca sỹ Carol King. Hay như của chị…Cathy Huệ. Đó là nữ.

    Còn các ông thì chỉ trừ mấy ông trong các ban nhạc là được phép để dài hay các anh sinh viên . Còn ngoài ra các ông học sinh hay thanh niên vô công rỗi nghề thì không được phép . Mà chỉ được phép để kiểu …húi cua 3 phân ! Bởi vì ông nào tới tuổi đi lính là chắc chắn có cái đầu ngắn húi cua ngay khi vừa mới nhập trại. Còn mấy ông học sinh thì đố mà dám. Nhưng vào những năm 74,75 thì các ông cũng được phép để dài nhưng cũng dài vừa phải thôi , luôn luôn là phải thấy hai cái tai thì mới được chấp nhận. Nên ngày ấy có lúc tụi tôi phải vén tóc hai bên tai lên cho dễ thấy và gọn bớt.

    Còn quần áo thì thôi đủ kiểu , các chị các cô các dì thì khỏi nói . Bên Mỹ bên Pháp có kiểu quần áo gì là các “mợ” ở Sài Gòn có cái đó liền. Như những chiếc áo không cổ dài tay và không có túi , với hoa văn chạy trên quần áo giống như dân Hippy bên Mỹ hay quần ống rộng kiểu Patte ( hơi bó sát đùi và loe dần xuống dưới chân) , Cigar Patte ( từ trên xuống dưới hơi phẳng trông như điếu cigar )của Pháp. Thời trang này nam nữ mặc giống nhau , nhưng ở các “mợ” vì thân hình 3 vòng đẫy đà và mũm mĩm nên mặc đẹp hơn ,gợi cảm hơn mấy “cậu” nhiều. Thời ấy đa số mấy “cậu” không hiểu ăn uống ra sao mà đa số ốm nhom ốm nhách. Mặc cái quần bó sát và ống lại rộng nhìn vào thấy “thảm” quá . Đã vậy lại còn mặc áo chemise bó sát người với hai lằn chỉ sau lưng dọc theo hai bên sườn . Nhưng đã là dân chơi thì sợ gì mưa rơi.

    Áo chemise nam thì lúc có cầu vai , và có hai túi trên ngực. Quần thì có khi có túi sau và có thêm cái nắp đậy, có khi túi quần nằm xeo xéo giống như túi quần jean. Về sau này có model mặc quần cigar patte với hai ống quần được may gấp ra bên ngoài một gấu quần nổi. Quần này nam nữ đều mặc giống nhau vào cuối năm 74. Tôi còn nhớ một kỷ niệm về ông anh. Cuối năm 74 ông có bồ và đã được hai gia đình chấp thuận sẽ làm đám cưới sau khi ông tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ra. Ông đi may một bộ đồ thật model vừa mới ra lò . Đó là cái áo chemise ca rô màu xanh biển bằng loại vải Cheviot ( loại vải này có pha thêm sợi Nylon mặc rất mát do Việt Nam vừa mới sản xuất và được giới trẻ rất ủng hô. Cái quần cigar patte màu đen với hai gấu quần may nổi ra ngoài ,có hai cái túi sau và có “nắp đậy” đàng hoàng. Ông sắm luôn đôi giày da cũng vừa mới là model mới nhất,nó giống đôi chabo nhưng mũi giày gồ lên như mõm con chó Bull của Mỹ vậy.

    Ông ưng ý với bộ đồ vía thật thời trang này của ông lắm. Nên ông mới chỉ mặc một lần đi chơi với người yêu của ông vào cái Tết 75 xong là ông khăn gói lên đường vào trường Võ Bị. Quần áo của tôi thì cũng nhiều ,nhưng hôm bữa tình cờ mở tủ quần áo của ông anh và khám phá ra ông anh “điệu hạnh” của mình có một bộ đồ model mới vừa ra lò mà tôi cũng rất thích. Cùng với đôi giày mới tinh ông xếp gọn gàng phía dưới tủ. Một bữa tôi có hẹn với cô bạn gái cùng đám bạn tính rủ nhau ra Sài Gòn đi dạo phố ngày Thứ Bảy cho thỏa thích. Tôi bèn mượn tạm của ông anh bộ đồ vía này để giựt le với đám bạn bè. Buổi đi chơi thật vui và trọn vẹn nếu chiều Thứ Bảy không đổ cơn mưa thật lớn. Tụi tôi ướt như chuột lột và sau đó đành tan hàng .

    Về nhà tôi ngâm bộ đồ ướt và tính giặt sạch sẽ rồi ủi thẳng thớm để trả cho ông anh . Ai dè chưa kịp giặt thì ổng ở đâu lù lù về phép . Chuyện này quá bất ngờ mà tôi xui xẻo không ngờ tới. Nhìn bộ quần áo ngâm trong chậu là ông anh đã hiểu ra thằng em cũng điệu hạnh và xí xọn của mình đã làm gì với nó. Quay qua nhìn đôi giày mới tinh ướt sũng nước đang phơi ở góc phòng là ông lắc đầu ngao ngán. Nhìn mặt ông hình sự lắm ,ông kêu tôi lại và ký cho hai cái lên đầu rồi vò đầu bức tóc lẩm bẩm : Mai Chúa Nhật tao lấy đâu ra bộ quần áo đẹp để đi với người yêu tao hở mi?. Thấy tình hình có vẻ căng thẳng quá nên tôi len lén chuồn lên phòng cho khỏe. Hú vía !.

    Đó là nói về quần áo . Còn nói về giầy dép thì ôi thôi đủ kiểu. Vào năm 70 khi cái mốt mặc mini jupe mới ra lò được các cô các dì các chị hưởng ứng nồng nhiệt. Cái jupe ngắn cũn cỡn táo bạo này chỉ dài tới ngang đùi . Đã một thời làm cho các bác các chú các anh ngẩn ngơ trông theo , và suýt đụng đít xe đằng trước hay cột đèn trước mặt vì cứ ngoái nhìn cô kia mặc Mini Jupe đi xe Honda vừa mới chạy ngang qua. Bộ đồ sexy làm quý ông lóa mắt một thời này mà đi guốc cao gót nhọn hoắt hay đôi giày chabo sau này thì hết sẩy con bà bẩy. Nói tới cái guốc cao gót thì ông nào ông nấy rùng mình , lỡ làm mấy “mợ” nổi giận tặng cho một cái gót nhọn hoắt lên đầu là đi nhà thương liền . Sợ lắm !. Cuối năm 74 khi cái đôi giầy chabo dành cho phái nữ mới ra đời với đủ màu sắc vào có cái gót cao 10 phân được các “mợ” đón chào nồng nhiệt. Sau đó là các đôi chabo của quý ông cũng ra đời ,nhưng không lòe loẹt như các mợ và chỉ có hai màu đen và màu vàng da bò,. Dĩ nhiên là gót giầy cũng chỉ cao 0,5 phân thôi vì phần đông các quý ông cao ráo chứ không thấp bé!.

    Cuối năm 74 có một mốt quần áo mới ra lò và cũng được giới trẻ nam nữ đón nhận. Đó là chiếc áo không cổ ,dài tay và có xẻ hai bên sườn được may bằng vải sô như vải mùng. Nó rất nhẹ và mặc mát mà lại đẹp nữa. Chỉ có một màu trắng duy nhất. Mặc nó với cái quần cigar patte may bằng vải jean thì tuyệt vời. Không hiểu sao trước 75 giới trẻ lại không chuộng quần jean cho lắm . Hay là nghĩ rằng loại quần jean này chỉ dành cho giới chăn bò bên Texas ở nước Mỹ nên không thích chăng?. Đó là model cuối cùng trước khi Sài Gòn bị đứt phim vào ngày 30-4-75.

     

  • Bộ ảnh quý giá về Đà Lạt thời Pháp thuộc

    Bộ ảnh quý giá về Đà Lạt thời Pháp thuộc

    Hình ảnh Việt Nam đã từng cung cấp khá nhiều bức ảnh về các địa danh nổi tiếng như Sài Gòn, Hà Nội, Huế,.. Thế nhưng, thật thiếu sót khi chưa kịp bổ sung 100 bức ảnh quý giá về Đà Lạt mà bạn sẽ xem bên dưới.

    Nếu nhìn lại Đà Lạt những năm 1925, 1930,…bạn sẽ thấy Đà Lạt đã trải qua một quá trình khai phá thế nào. Bộ ảnh  Đà Lạt ngày xưa do những nhiếp ảnh gia Pháp và một số nhiếp ảnh khác ghi nhận lại và lưu giữ đến ngày hôm nay.

    Đà Lạt nổi tiếng với vẻ đẹp thơ mộng và quyến rũ e ấp giữa bạt ngàn rừng thông xanh mướt. Nơi đây đã từng là nơi nghỉ dưỡng của các bậc vua chúa thời xưa và bây giờ phát triển thành một thành phố nổi tiếng và du lịch và nghỉ dưỡng

    Người có công khám phá và khai sinh ra vùng đất này chính là bác sĩ Yersin, ông được ghi nhận đã có công thám hiểm cao nguyên Lang Bian và khai sinh ra đô thị Đà Lạt ngày nay.

    Đà Lạt ngày ấy và bây giờ nhìn chung hầu như không thay đổi nhiều, vẫn e ấp, vẫn quyến rũ, vấn níu kéo người đi ở lại. Có chăng đi nữa chỉ là một Đà Lạt đẹp hơn, tráng lệ hơn, lộng lẫy hơn mà thôi.

    Đà Lạt có lẽ nổi tiếng với hai điều: một là thành phố hoa lệ với dinh thự sang trọng, những khách sạn Đà Lạt đẳng cấp tồn tại cả thế kỷ vẫn giữ nét cổ kính xen lẫn hiện đại đan xen, những rừng thông bạt ngàn xanh ngắt. Hai là những cô gái Đà Lạt đẹp dịu dàng, đắm thắm nhưng kiêu sa, mang dòng máu lai quý tộc Việt và Pháp.

    Bản đồ Đà Lạt ngày xưa - được mệnh danh là thiên đường nơi hạ giới
    Bản đồ Đà Lạt ngày xưa – được mệnh danh là thiên đường nơi hạ giới
    Ảnh chụp Đà Lạt năm 1925 - 1930
    Ảnh chụp Đà Lạt năm 1925 – 1930
     Người bản xứ và xe hơi chụp ở Lang Bian năm 1925
    Người bản xứ và xe hơi chụp ở Lang Bian năm 1925
    Thác Liên Khương những năm ngày xưa
    Thác Liên Khương những năm ngày xưa
    Thác Ponggour Đà Lạt
    Thác Ponggour Đà Lạt
    Thác Cam Ly Đà Lạt (1925 - 1930)
    Thác Cam Ly Đà Lạt (1925 – 1930)
    Thác Gougah đổ từ trên cao xuống
    Thác Gougah đổ từ trên cao xuống
    Người Pháp và dân bản địa trên đỉnh LangBian
    Người Pháp và dân bản địa trên đỉnh LangBian
    Quang cảnh khu vực hồ Xuân Hương ngày trước và khách sạn Palace Đà Lạt
    Quang cảnh khu vực hồ Xuân Hương ngày trước và khách sạn Palace Đà Lạt
    Một góc thành phố Đà Lạt ngày ấy còn hoang sơ
    Một góc thành phố Đà Lạt ngày ấy còn hoang sơ
    Một khách sạn Đà Lạt
    Một khách sạn Đà Lạt
    Toàn cảnh thành phố Đà Lạt chụp từ trên núi.
    Toàn cảnh thành phố Đà Lạt chụp từ trên núi.
     Hồ Xuân Hương ngày ấy còn hoang sơ chưa khai thác triệt để như bây giờ
    Hồ Xuân Hương ngày ấy còn hoang sơ chưa khai thác triệt để như bây giờ
    Một phần Hồ Xuân Hương, sau này sẽ mọc lên những sân Gôn, những hàng rào vây quanh.
    Một phần Hồ Xuân Hương, sau này sẽ mọc lên những sân Gôn, những hàng rào vây quanh.
    Hotel Palace ngày xưa đã lộng lẫy nguy nga mang dáng dấp cung điện Pháp
    Hotel Palace ngày xưa đã lộng lẫy nguy nga mang dáng dấp cung điện Pháp
    Và Palace Hotel Đà Lạt hiện nay trải qua 80 năm lịch sử vẫn giữ nguyên vẹn hình hài ngày trước
    Và Palace Hotel Đà Lạt hiện nay trải qua 80 năm lịch sử vẫn giữ nguyên vẹn hình hài ngày trước
    Đường phố Đà Lạt 1925
    Đường phố Đà Lạt 1925
    Phụ nữ Đà Lạt bản địa, khác với Phụ nữ  Đà Lạt danh tiếng hiện giờ.
    Phụ nữ Đà Lạt bản địa, khác với Phụ nữ Đà Lạt danh tiếng hiện giờ.
    Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt lộng lẫy
    Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt lộng lẫy
    Bản đồ đỉnh LangBian
    Bản đồ đỉnh LangBian
    Trường Lycee Yersin Đà Lạt
    Trường Lycee Yersin Đà Lạt
    Một bảng cảnh báo thú dữ ở LangBian Đà Lạt
    Một bảng cảnh báo thú dữ ở LangBian Đà Lạt
    Thẻ ID của bác sĩ YERSIN
    Thẻ ID của bác sĩ YERSIN
    Ảnh chụp ngôi nhà của bác sĩ YERSIN ở Đà Lạt
    Ảnh chụp ngôi nhà của bác sĩ YERSIN ở Đà Lạt
    Cảnh vật xung quanh Hotel Palace Đà Lạt năm 1925
    Cảnh vật xung quanh Hotel Palace Đà Lạt năm 1925
    Cận cảnh Hồ Xuân Hương năm 1920
    Cận cảnh Hồ Xuân Hương năm 1920
    Một tờ quảng cáo của khách sạn Palace
    Một tờ quảng cáo của khách sạn Palace
    hình ảnh ĐÀ LẠT
    hình ảnh ĐÀ LẠT
    Quang cảnh khu vực trung tâm Đà Lạt 1960
    Quang cảnh khu vực trung tâm Đà Lạt 1960
    Chợ Hòa Bình Đà Lạt ngày ấy
    Chợ Hòa Bình Đà Lạt ngày ấy
    Đỉnh LangBian ngày trước
    Đỉnh LangBian ngày trước
    Khu chợ mới xây dựng tại Đà Lạt 1961
    Khu chợ mới xây dựng tại Đà Lạt 1961
    Nhà Địa Cư 1940 tại Đà Lạt
    Nhà Địa Cư 1940 tại Đà Lạt
    Một con đường trên phố Đà Lạt
    Một con đường trên phố Đà Lạt
    Một gian hàng rau quả tại khu chợ mới Đà Lạt 1961
    Một gian hàng rau quả tại khu chợ mới Đà Lạt 1961
    Thác Ponggour  Đà Lạt 1968
    Thác Ponggour Đà Lạt 1968
    Khu trung tâm tập trung nhiều tòa nhà lớn sang trọng bậc nhất của Đà Lạt trong đó có Nice Dream, và Tulip
    Khu trung tâm tập trung nhiều tòa nhà lớn sang trọng bậc nhất của Đà Lạt trong đó có Nice Dream, và Tulip
    Trực thăng mang số hiệu UH-1H 92AHC đáp tại Hồ Xuân Hương 1968
    Trực thăng mang số hiệu UH-1H 92AHC đáp tại Hồ Xuân Hương 1968
    Bùng binh Đà Lạt ngày ấy và bây giờ đã thay đổi rất nhiều
    Bùng binh Đà Lạt ngày ấy và bây giờ đã thay đổi rất nhiều
     Trường YERSIN Đà Lạt nhìn từ trên cao
    Trường YERSIN Đà Lạt nhìn từ trên cao
    Những máy bay của hãng hàng không Việt Nam năm 1968
    Những máy bay của hãng hàng không Việt Nam năm 1968
    Trực thăng mang mã số 92 AHC bay trên núi Vôi 1968 Đà Lạt
    Trực thăng mang mã số 92 AHC bay trên núi Vôi 1968 Đà Lạt
    Bờ hồ Xuân Hương
    Bờ hồ Xuân Hương
    Chiếc may bay mang mã số DC-4 cất cánh tại sân bay Liên Khương 1968
    Chiếc may bay mang mã số DC-4 cất cánh tại sân bay Liên Khương 1968
    Núi Vôi ở Đức Trọng Đà Lạt
    Núi Vôi ở Đức Trọng Đà Lạt
    Trực thăng Mỹ mang mã số 92 AHC đáp xuống nhà máy thủy điện Song Pha khi họ phát hiện ra một ống dẫn nước bị hư hại.
    Trực thăng Mỹ mang mã số 92 AHC đáp xuống nhà máy thủy điện Song Pha khi họ phát hiện ra một ống dẫn nước bị hư hại.
    Chợ Hòa Bình nhìn từ phía đường Duy Tân 1968
    Chợ Hòa Bình nhìn từ phía đường Duy Tân 1968
    Máy bay DC-4 tại Liên Khương Đà Lạt 1968
    Máy bay DC-4 tại Liên Khương Đà Lạt 1968
    Một hành khách nữ quý tộc tại sân bay Liên Khương 1968
    Một hành khách nữ quý tộc tại sân bay Liên Khương 1968
    Một chuyến bay sắp cất cánh tại Liên Khương
    Một chuyến bay sắp cất cánh tại Liên Khương
     Toàn cảnh trung tâm tp. Đà Lạt nhìn từ trên cao
    Toàn cảnh trung tâm tp. Đà Lạt nhìn từ trên cao
    Đà Lạt chụp từ trực thăng
    Đà Lạt chụp từ trực thăng
    Nhà hàng Thủy Tạ ngày ấy và bây giờ không khác là mấy.
    Nhà hàng Thủy Tạ ngày ấy và bây giờ không khác là mấy.
    Khu trung tâm tập trung các toàn nhà cao cấp của Đà Lạt như khách sạn Nice Dream, Red Tulip...
    Khu trung tâm tập trung các toàn nhà cao cấp của Đà Lạt như khách sạn Nice Dream, Red Tulip…
     Lối kiến trúc của tp Đà Lạt mang đậm chất phong cách châu Âu sang trọng.
    Lối kiến trúc của tp Đà Lạt mang đậm chất phong cách châu Âu sang trọng.
    à Lạt ngày xưa đã được xây dựng rất khang trang và lộng lẫy để phục vụ cho các giới quý tộc đến đây nghỉ dưỡng.
    à Lạt ngày xưa đã được xây dựng rất khang trang và lộng lẫy để phục vụ cho các giới quý tộc đến đây nghỉ dưỡng.
    Một góc khu trung tâm sang trọng
    Một góc khu trung tâm sang trọng

    Trường học viện Quân Sự quốc gia chi nhánh phía nam tại Đà Lạt
    Trường học viện Quân Sự quốc gia chi nhánh phía nam tại Đà Lạt
    Trực thăng mang mã sô US 92 AHC bay trên bầu trời sân bay Liên Khương 1968
    Trực thăng mang mã sô US 92 AHC bay trên bầu trời sân bay Liên Khương 1968

    Cầu Ông Đào Đà Lạt 1957

    Câu lạc bộ thể thao nhìn từ phía bờ hồ Xuân hương 1950
    Câu lạc bộ thể thao nhìn từ phía bờ hồ Xuân hương 1950
    Một buổi sớm mai 1950
    Một buổi sớm mai 1950
    Đường Hàm Nghi năm 1941
    Đường Hàm Nghi năm 1941
    Đường Phan Đình Phùng 1957
    Đường Phan Đình Phùng 1957
    Nhà hàng Thủy Tạ 1960
    Nhà hàng Thủy Tạ 1960

    Một buổi diễn binh tại Học viện Quân sự Quốc gia
    Một buổi diễn binh tại Học viện Quân sự Quốc gia

    Núi Langbian
    Núi Langbian
    Đất đỏ Đà Lạt
    Đất đỏ Đà Lạt

    Cam Ly Đà Lạt
    Cam Ly Đà Lạt
    Nhà Ga Đà Lạt 1948
    Nhà Ga Đà Lạt 1948
    Nhà Địa Dư Đà Lạt 1948
    Nhà Địa Dư Đà Lạt 1948
    Nhà Thánh Vincent-de-Paul Đà Lạt 1948
    Nhà Thánh Vincent-de-Paul Đà Lạt 1948
     Hồ Suối Vàng mùa cạn nước
    Hồ Suối Vàng mùa cạn nước
    Nhà thờ đạo Tin Lành 1948
    Nhà thờ đạo Tin Lành 1948
    Một câu lạc bộ thể thao gần hồ Xuân Hương
    Một câu lạc bộ thể thao gần hồ Xuân Hương

    Bệnh viện Đà Lạt
    Bệnh viện Đà Lạt
    Nhà thờ Con Gà nổi tiếng một thời
    Nhà thờ Con Gà nổi tiếng một thời

    Thác Gougha 1948
    Thác Gougha 1948
    Du Parc hotel
    Du Parc hotel
     Du Lac hotel 1948
    Du Lac hotel 1948
    Palace Hotel nhìn từ trên cao 1931
    Palace Hotel nhìn từ trên cao 1931
    thác  Liên Khương 1926
    thác Liên Khương 1926
    Người bản địa tại một buổi sớm 1926
    Người bản địa tại một buổi sớm 1926
    Chợ Đà Lạt
    Chợ Đà Lạt
    Lycee YERSIN 1948
    Lycee YERSIN 1948

    Những nữ Sinh tại trường LYVEE YERSIN 1948
    Những nữ Sinh tại trường LYVEE YERSIN 1948
     LYCEE YERSIN 1948
    LYCEE YERSIN 1948
    Villa của giám đốc cục cảnh sát Đà Lạ
    Villa của giám đốc cục cảnh sát Đà Lạ

     

     

     

  • Cây đàn Organ ống cổ xưa nhất tại Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn

    Cây đàn Organ ống cổ xưa nhất tại Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn

    [Nhân việc nhà thờ Đức Bà sắp được trùng tu]

    VIETNAM’S OLDEST TUBE ORGAN – Cây đàn Organ ống cổ xưa nhất tại Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn.

    Ngay phía trên cao phía cửa chính là “gác đàn” với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay.

    Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn.

    Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm.

    Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh.

    Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.

    (Dung Dang st)

    Cây đàn Organ ống cổ xưa nhất tại Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn

    Cây đàn Organ ống cổ xưa nhất tại Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn

  • Nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sài Gòn

    Nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sài Gòn

    Nguồn gốc  và ý nghĩa của tên Sài Gòn

    Trong “Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị” của ông Huỳnh Tịnh Của thì Sài tức là củi thổi, Gòn: tên loại cây cỏ bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong Nam hay dùng để dồn gối, dồn nệm. Về địa danh Sàigòn thì Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị ghi: tên riêng của đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé.

    Ðịnh nghĩa Sàigòn của quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị cho ta thấy rằng tên Sàigòn trước đây dùng để chỉ vùng Chợ Lớn hiện nay, còn vùng mà ta gọi là Sàigòn hiện nay thì trước đây lại gọi là Bến Nghé. Ðiều này được xác nhận nhờ hai người Anh là Crawford và Finlayson đã đến vùng này năm 1922. Cứ theo lời những người này thuật lại thì Sàigòn và Bến Nghé (mà các tác giả trên đây viết là Bingeh hay Pingeh) là hai thành phố phân biệt nhau và cách xa nhau độ 1 hay 2 dặm, Bến Nghé là nơi đồn binh và đạt cơ quan chánh phủ, còn Sàigòn là trung tâm thương mãi và là nơi cư ngụ của người Hoa kiều và các thương gia (tài liệu của Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises tức là Tập san của Hội Cổ Học Ấn Hoa, năm 1942, tập số 2). Vậy, Sàigòn và Bến Nghé là hai thành phố phân biệt nhau và có hai tên khác nhau đàng hoàng, nhưng đến khi người Pháp chinh phục ba tỉnh phía đông Nam Kỳ năm 1861, họ dùng tên Sàigòn để chỉ đất Bến Nghé cũ, mà họ dùng làm trung tâm hành chánh, vì Bến Nghé là một tiếng khó cho người ngoại quốc phát âm hơn Sàigòn. Người Việt Nam bắt buộc phải theo họ mà gọi Bến Nghé là Sàigòn, còn vùng trước đó gọi là Sàigòn thì được gọi là Chợ Lớn theo một cái tên mà sử gia Phan Khoang trong bộ Việt Sử, Xứ Ðằng Trong, cho là dường như đã có từ đời vua Gia Long.

    Cũng theo quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của thì tên Sàigòn có nghĩa là củi gòn. Nhà học giả Trương Vĩnh Ký đã theo thuyết này mà ông cho biết là dựa vào bộ Gia Ðịnh Thông Chí của ông Trịnh Hoài Ðức. Trong tập Souvenirs historiques, ông Trương Vĩnh Ký lại kể lại rằng người Khmer xưa có trồng cây gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính ông còn thấy vài gốc cổ thụ này tại vùng ấy năm 1885.

    Sau ông Trương Vĩnh Ký, còn có ông đốc phủ Lê Văn Phát đi xa hơn trong thuyết kể trên đây. Theo ông Lê Văn Phát thì trước đây, vùng Sàigòn Chợ Lớn hãy còn bị rừng bao phủ và tên Sàigòn có lẽ phát xuất từ tên Khmer Prei Kor tức là Rừng Gòn (Forêt des Kapokiers). Prei Kor là tên mà người Khmer dùng để gọi một địa phương mà trọng tâm là Chùa Cây Mai ở Phú Lâm ngày nay. Mặt khác, ông Lê Văn Phát cũng cho biết rằng người Lào (mà ngôn ngữ gần như ngôn ngữ Thái) đã gọi vùng này là Cai Ngon, mà Cai Ngon theo tiếng Thái cũng có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn (Brousse des kapokiers).

    Thuyết về nguồn gốc tên Sàigòn của các học giả Việt Nam trên đây sau này đã bị một số học giả khác bác bỏ. ông Vương Hồng Sến trong bộ Sàigòn Năm Xưa cho biết rằng theo tiếng Khmer thì Kor có nghĩa là gòn mà cũng có thể có nghĩa là con bò, và Prei Kor có thể là Rừng Bò chứ chưa ắt hẳn là Rừng Gòn.

    Mặt khác, các nhà học giả Pháp nghiên cứu về nước Cam.Bu.Chia đã tìm được trong bộ sử chép tay của nước ấy một dữ kiện quan trọng về vùng này. Theo bộ sử ấy, năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đã đến Cam.Bu.Chia xin vua Cam.Bu.Chia cho đặt một số sở thuế ở vùng Prei Nokor va` Kas Krobey. Vua Cam.Bu.Chia lúc ấy có một hoàng hậu la` con gái chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Bởi đó, ông đã chấp nhận lời yêu cầu của chúa Nguyễn.

    Theo ông Etienne Aymonier thì Nokor là xứ, quốc gia và Prei Nokor là rừng của vua (forf royale). Nhưng linh mục Tandart lại bảo rằng tiếng Nokor do tiếng nam phạn Nagaram mà ra, và có nghĩa là Thành phố của rừng hay thành phố ở giữa rừng (ville de la forêt). Bởi vậy theo ông, Prei Nokor có nghĩa là thành phố.

    Nhà học giả Pháp Louis Malleret khi nêu ra tài liệu về Prei Nokor đã dựa vào ý nghĩa của tiếng Khmer này theo linh mục Tandart để bác bỏ thuyết của các học giả Việt Nam trước đó cho rằng Sàigòn có nghĩa là Củi Gòn. Ông đã theo ý kiến của một người Pháp khác là Maurice Verdeille theo đó tiếng Sàigo`n có lẽ phát xuất từ tiếng Tây ngòn có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tribut de l’ouest). Tiếng Hán Việt có nghĩa là cống phẩm của phía tây nếu đọc theo V.N là Tây Cống và Tây Ngòn hẳn là Tây Cống, nhưng phát âm theo giọng Trung Hoa. Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này là vì ông đã dựa vào một dữ kiện lịch sử do ông Trịnh Hoài Ðức chép lại, là khi Cam Bu Chia bị phân ra cho hai vua thì cả hai vua nầy đều nạp cống phẩm cho chúa Nguyễn ở Prei Nokor, vốn là thủ đô của vua thứ nhì từ năm 1674 (trong khi vua thứ nhứt đóng đô ở Oudong ở phía bắc Nam Vang).

    Một tác giả khác, ông Vương Hồng Sển, nhắc lại trong quyển Sàigòn Năm Xưa rằng người Hoa Kiều đã tập trung vào vùng Chợ Lớn ngày nay để mua bán năm 1778 sau khi Cù Lao Phố (gàn tỉnh lị Biên Hòa ngày nay) là nơi được thành lập để mua bán từ cuối thế kỷ thứ 17 đã bị Tây Sơn phá tan khi họ kéo vào đánh Miền Nam. Sau khi thành phố này đã vững, người Hoa Kiều đã đáp thêm bờ kinh Chợ Lớn, cẩn đá cho cao ráo kiên cố. Và có lẽ để ghi công việc này, họ đặt tên chỗ mới này là Ðề Ngạn, tức là bờ sông cao dốc trên có đe ngăn nước. Ðề Ngạn là tiếng Hán Việt, chớ người Trung Hoa phát âm theo giọng Quảng Ðông thì nói thành Tài Ngon hay Thầy Ngồnn. Ông Vương Hồng Sển cho rằng tiếng Sàigòn chính do Thầy Ngồnn mà ra.

    Về đất Bến Nghé thì người Trung Hoa gọi là Xi Cong. Ông Vương Hồng Sển cho rằng đó là họ đọc trại lại tiếng Sàigòn của ta và khi viết ra Hán văn thì họ dùng hai chữ mà ta đọc là Tây Cống.

     

    Vậy, có ba thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sàigòn:

    1. Thuyết của các ông Trương Vĩnh Ký và Lê Văn Phát: Sàigon do tiếng Khmer Prei Kor mà ra, và có nghĩa là củi gòn.
    2. Thuyết của ông Louis Malleret: Sàigòn do tiếng Tây Ngòn, tức là Tây Cống phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía tây.
    3. Thuyết của ông Vương Hồng Sển: Sàigòn do tiếng Thầy Ngồnn tức là Ðề Ngạn phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao dốc trên có đê ngăn nước. Còn về tiếng Tây Cống, ông Vương Hồng Sển lại cho rằng nó chỉ được người Trung Hoa dùng sau này để phiên âm lại tên Sàigòn sau khi tên này được dùng đẻ chỉ đất Bến Nghé cũ.

    Ba thuyết trên đây cái nào cũng có vẻ có lý phần nào nhưng thật sự, không cái nào có thể làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn. Như thế có lẽ vì những người nêu ra các thuyết ấy đã quên để ý đến cách ông bà chúng ta đặt các địa danh ở Nam Kỳ trước đây. Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong việc đạt địa danh này, ông bà chúng ta đã theo một số nguyên tắc:

     

    1. Các cụ có thể phiên âm một địa danh Khmer đã có và bỏ dấu cho thành tiếng Việt Nam. Thí dụ như Psar Deck thiếng Khmer là Chợ Sắt đã được các cụ gọi lại là Sa Ðéc, hay Me So tiếng Khmer là Người Ðàn Bà Ðẹp hay nàng Tiên được các cụ gọi là Mỹ Tho. Trong một bài kỷ niệm ngày 30 tháng tư, đăng trong tờ Việt Báo, ông Phạm Nam Sách khi nói về tỉnh Ba Xuyên đã nhắc đến một địa danh mà ông nói là là Bảy Sào, Bải Sào, Bảy Sau hay Bải Sau chi đó. Thật sự đó là Bải Xào, một tiếng phát xuất từ tiếng Khmer Bai Xao có nghĩa là Cơm Sống. Ðịa danh này sở dĩ có là vì trong trận đánh nhau voói người Việt Nam, người Khmer đã thua chạy về đến đó và ngừng lại nấu cơm ăn, nhưng cơm chưa kịp chín thì quân Việt Nam lại kếo đến và người Khmer phải bỏ chạy. Ðể đánh dấu việc này, họ gọi đất đó là Cơm Sống, tiếng Khmer là Bai Xao và các cụ ta bỏ dấu thêm thành Bải Xào.

     

    1. Các cụ có thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đã có. Thí dụ như tên Bến Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa la Vũng Trâu. Theo sử Khmer mà ông Malleret viện dẫn thì ngoài Prei Nokor, vua Cam.Bu.Chia còn cho chúa Nguyễn đạt sở thuế ở Kas Krobey. Chữ Krobey rất gần Krabei, và có thể Kas Krobey với Kompong Krobei cũng là một và có nghĩa là Vũng Trâu, Bến Trâu gì đó.

     

    1. Nhưng tên theo hai loại trên đây là do người Việt Nam bình dân đặt ra khi mới đến một địa phương, về sau, khi đã có nhiều người Việt Nam ở và triều đình Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh, thì triều đình lại dùng tiếng Hán Việt như Trấn Biên, Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy v.v… Mặt khác, khi viết sử hay viết sách địa lý mà gặp một tên nôm do người bình dân đã đặt, các cụ đã dịch phăng nó ra tiếng Hán Việt chớ ít khi chịu chép tên nôm. Như Ba Giỗng, các cụ dịch là Tam Phụ và Bến Nghé, các cụ dịch lại là Ngưu Chử khi chép vào sách chớ không chịu viết tên nôm là Ba Giồng, Bến Nghé.

     

     

    Nếu lấy các qui tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn dể suy luận thì ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ý nghĩa của Sàigòn không ổn.

     

    1. Nếu các cụ ta ngày xua muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt thì các cụ đã dùng tên Củi Gòn, Cây Gòn hay Rừng Gòn để đạt cho địa phương này, chớ không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với một tiếng nôm là Gòn để thành Sàigòn, cũng nhu khi dịch Kompong Krabei ra tiếng Việt, các cụ đã gọi là Bến Nghé chớ không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé (Tân, Chử và Ngạn là những tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến sông, bờ sông). Nếu bảo rằng gòn là một loại cây không có tên Hán Việt và các cụ đã dùng tên ấy như tiếng Hán Việt thì các cụ đã theo văn phạm Hán Việt mà gọi Củi Gòn là Gòn Sài chớ không thể gọi là Sài Gòn
    2. Chữ Sài là tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng làm chữ nôm thì lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm hoàn toàn hai chữ mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta đang nghiên cứu thì ta có Thầy Gòn. Tên này rất gần với Tây Ngòn hay Thầy Ngồnn là những tiếng Hán Việt Tây Công hay Ðề Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa. Nhưng các cụ ngày xua rất sính dùng tiếng Hán Việt. Ðến như tiếng nôm hoàn toàn là Ba Giồng, Bến Nghé mà các cụ còn nhứt định phải dịch ra là Tam Phụ, Ngưu Chử khi viết vào sách vở thì không lý do gì các cụ lại không dùng các tiếng Hán Việt đã sẵn có là Tây Cống hay Ðề Ngạn, mà lại dùng tiếng Thầy Gòn là tiếng phiên âm theo giọng của người Trung Hoa.

    Vậy, các thuyết kể trên đây đều không vững cả.

    Cuối cùng, chỉ còn một dấu vết nhỏ trong các tài liệu nói về ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giúp ta một lối thoát: đó là việc ông Lê Văn Phát cho biết rằng người Lào đã gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cai ngon, mà Cai ngon theo tiếng Thái có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn. Chúng tôi không biết tiếng Lào hay tiếng Thái nên không thể xác nhận được ý nghĩa của Cai Ngon theo tiếng Thái, nhưng nếu quả đúng như ông Lê Văn Phát nói thì tên Sàigòn do ông bà ta phiên âm từ tiếng Thái Cai Ngon và bỏ dấu theo giọng Việt Nam như thông lệ.

    Xét về mặt nguyên tắc đạt địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, thì vấn đề này có thể kể là tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn còn lại là tại sao lại có tiếng Lào hay tiếng Thái lọt vào đây? Hiện nay, không có nhiều tài liệu lịch sử giúp chúng ta có một sự hiểu biết rộng rãi và chánh xác về thời kỳ người Việt Nam mới vào ở đất Nam Kỳ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào một số dữ kiện sau đây để suy luận:

    1. Vào đầu thế kỷ 17, nước Cam Bu Chia đã bị người Xiêm (Thái Lan hiện nay) uy hiếp nặng nề, và chính vì muốn dựa vào người Việt Nam để chống lại Xiêm mà vua Chey Chetta II đã đi cưới công chúa Ngọc Vạn (là con gái chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên) về làm hoàng hậu năm 1620, rồi đén năm 1623 lại đẻ cho chúa Nguyễn đạt những cơ sở thâu thuế ở vùng Sàigòn, Chợ Lớn ngày nay.
    2. Vùng Chợ Lớn chỉ trở thành một vùng thương mãi thạnh vượng từ năm 1788 với khối người Hoa Kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố bị Tây Sơn phá hủy. Vậy, lúc chúa Nguyễn mới đạt cơ sở thuế hơn 150 năm về trước vùng này chưa có mua bán gì nhiều.
    3. Người Việt Nam chỉ vào ở Nam Kỳ nhiều từ khi có lực lượng của ông Trần Thượng Xuyên đóng thường trực để bảo vệ cho họ từ năm 1680. Vậy, lúc chúa Nguyễn đạt sở thuế ở vùng Chợ Lớn ngày nay, hơn 50 năm trước đó, chưa có đông người Việt Nam và chưa có sản xuất nhiều lúa gạo để bán.
    4. Như thế, cơ sở thuế của chúa Nguyễn chắc chỉ đánh vào một vài sự buôn bán nhỏ, không quan trọng lắm, và do đó mà vua Cam Bu Chia đã dễ dàng cho chúa Nguyễn thâu lấy nguồn lợi này, chớ nếu có sự mua bán quan trọng và quyền lợi thuế vụ lớn thì vua Cam Bu Chia lúc đó vốn còn hoàn toàn độc lập với chúa Nguyễn, chắc không phải chấp nhận dễ dàng lời yêu cầu của chúa Nguyễn. Vậy, sự mua bán đó dựa vào móng hàng gì? Có thể một trong những món hàng được buôn bán thời đó là gòn, vì vùng này có nhiều cây gòn, có lẽ không nhiều đến thành rừng, nhưng cũng đạt mức quan trọng để có thể gọi là rừng chổi được. Người Xiêm có thể đã đến đó mua gòn để đem về nước dồn gối, dồn nệm. Một ít thương gia Xiêm có thể đã có mặt ở vùng này trước khi chúa Nguyễn đạt sở thuế tại đó, và vì thấy vùng này có nhiều cây gòn, họ gọi nó là Cai Ngon tức là Rừng Chổi Cây Gòn, rồi các viên chức Việt Nam liên lạc với họ để đánh thuế lúc mới đến đã theo họ mà gọi đất này là Sàigòn, thay vì phiên âm hay dịch nghĩa tên Khmer của địa phương này.
    5. Về cái tên Khmer này, các học giả đã không đồng ý kiến với nhau, người thì nói là Prei Kor, người thì nói là Prei Nokor. Ông Malleret đã dựa vào sử Khmer mà bảo đó là Prei Nokor và theo linh mục Tandart để dịch Prie Nokor là thành phố của rừng. Vì không biết tiếng Khmer và văn phạm Khmer, chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này, nhưng vẫn thấy có những chỗ không ổn.
      1. Nếu Prei Kor có nghĩa là Rùng Gòn hay Rừng Bò thì văn phạm Khmer cũng như văn phạm Việt Nam đạt tiếng rừng lên trên, tiếng phụ nghĩa cho rừng ở dưới. Như vậy Prei Nokor dịch ra là rừng của vua như Aymonier thì vẫn hợp với văn phạm đó, còn dịch ra như linh mục Tandart là thành phố giữa rừng thì lại đi ngược với văn phạm đó rồi. Hiểu theo văn phạm như nói trên đây thì Prei Nokor là rừng của thành phố mới phải, nhưng tên Rừng của Thành Phố thì cố nhiên là không có ý nghĩa gì.
      2. Mặt khác, nếu Prei Nokor là thành phố giữa rừng hay rừng của vua thì nó chỉ có thể có từ năm 1674 là năm mà vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia chua chúa Nguyễn đến đặt sở thuế tại đó thì đất này hãy còn là một thị xã nhỏ, không có vua ở nên không thể mang tên Prei Nokor là thành giữa rừng hay rừng của vua được.

    Do các nghi vấn trên đây, chúng ta thấy rằng thuyết của ông Malleret không vững. Và chúng ta có thể đua ra giả thuyết khác: địa điểm mà vua Cam-Bu-Chia cho chúa Nguyễn đạt sở thuế vẫn tên là Prei Kor vì nơi đó có nhiều gòn và là nơi mua bán gòn, nhưng sau đó, khi vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia đến đóng đô tại đó, nó có tên mới là Prei Nokor (hiểu theo nghĩa là rừng của vua hay thành phố giữa rừng đều được cả). Các sử gia Cam-Bu-Chia sau này chép lại việc cho chúa Nguyễn đến địa phương này đặt sở thuế đã chép lại tên Prei Nokor mà họ được biết nhiều hơn mà bỏ tên Prei Kor đi. Với giả thuyết này thì ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giải quyết được: đó là một tên phiên âm từ tiếng Xiêm Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chổi Cây Gòn, và phù hợp vớ tên Khmer nguyên thủy Prei Kor cũng có ý nghĩa tương tự.

    Vì không biết ngôn ngữ và văn phạm Khmer và Thái (Xiêm) nên chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này và chỉ xin nêu ra những nhận xét trên đây. Chúng tôi mong ước rằng có vị nào thông thạo tiếng Khmer hay tiếng Thái lưu tâm đến vấn đề này để làm sáng thêm ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn yêu dấu của chúng ta.

    (Viết vào thập niên 80).

     

    © http://vietsciences.free.frhttp://vietsciences.net Nguyễn Ngọc Huy

    Vài hình ảnh Sài Gòn xưa:

     

  • Sài Gòn, trong thanh âm vô lượng

    Sài Gòn, trong thanh âm vô lượng

    Mỗi người dân Sài Gòn nhập cư đều có một cố hương để hoài nhớ. Thành phố này ôm trong lòng nó đủ hạng người với nhiều cung bậc cách biệt, nhưng không biệt xứ. Có cõi quê trở về cho tròn lời hứa Xuân này con trở về, rồi lại khắc khoải nỗi tha hương Lạy mẹ con đi. Đi để về và đi là về.

    Xe Hủ Tíu đặc trưng của người Hoa
    Xe Hủ Tíu đặc trưng của người Hoa

    Vài mươi năm trước, tôi vẫn bị hấp dẫn bởi những tiếng gõ nhịp của xe mì đêm. Những chủ xe mì đẩy dọc vỉa hè ban đêm luôn có một, hai tùy tùng lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm để rao mì bằng tiếng gõ độc đáo.

    Đó là những nhịp điệu không quá chói tai để tránh làm phiền người ngủ sớm.

    Có lần được nói chuyện với A Hoành, một ông già Trung Hoa đầy kiến thức dân gian, ông nói việc gõ mì cũng báo hiệu bang hội và đẳng cấp. Để phát ra tiếng kêu thanh và chắc đó, người bán mì sử dụng hai miếng gỗ dài, mặt hơi cong để tạo âm vang, và sau này thường là hai miếng tre. Hình thức này rất giống với người mõ làng ngày xưa vẫn đi tuần trong thôn xóm, gõ báo sang canh cũng như phòng trộm cắp. Nhưng gõ mì thì nhịp điệu thôi thúc và nhiều nhạc tính hơn.

    A Hoành nói ngày xưa người bán mì rong vỉa hè cũng có bang hội. Người vào nghề bán mì nếu là hạng thứ, chỉ được gõ chứ không được đứng bán. Học gõ rao mì không dễ, có người phải tập một, hai tuần mới được. Người Hoa từ xưa đã mang nghề bán mì đi khắp thế giới để kiếm sống, nên người đến trước có quyền hạn như đại ca. Tiếng rao mì của vùng do đại ca quản lý, tiếng gõ có những âm thanh khác biệt mà dân trong nghề nghe phải biết và tránh lấn vào vùng làm ăn của đại ca như một cách bày tỏ sự tôn trọng.

    Những ngày tháng xã hội biến động, không chỉ ở Trung Hoa hay Việt Nam, những xe mì tham gia hội kín cũng hay dùng tiếng gõ mì như một loại truyền tin mà chính quyền nào cũng bó tay, không tài nào hiểu được.

    Khi thêm hiểu biết, tôi thú vị vì giá trị của tiếng gõ mì như một loại truyền thông tiếp thị đường phố – street marketing, loại quảng bá kinh doanh quan trọng được đưa vào sách giáo khoa của các đại học lớn trên thế giới sau nhiều thập kỷ nghiên cứu, vậy mà ông cha sử dụng tự nhiên từ một cảm giác trời ban, không cần loằng ngoằng lý luận.

    Năm 1995, khi ông vua nhạc pop Michael Jackson phát hành album History, tôi từng sửng sốt khi nghe nhịp điệu của bài They don’t care about us: nó không khác gì nhịp điệu của mì gõ Sài Gòn, được thêm thắt bằng những âm thanh hiện đại. Nhịp điệu thôi thúc và hấp dẫn này lọt vào top 10 của hầu hết các quốc gia châu Âu. Còn tiếng gõ mì, nếu được bình chọn, tôi tin rằng nó sẽ lọt vào top 10 của những âm thanh làm nên một Sài Gòn hoa lệ và bao dung, che chở và nuôi nấng hàng triệu người nhập cư.

    Đã nói đến bình chọn thì không thể không nhắc đến tiếng trống – phèng rao bán đầu lân ông địa mùa Trung thu. Cùng với tiết tấu của hip hop, điệu trống bán đầu lân luôn khiến đám nhỏ nhảy múa quanh chiếc xe. Đứa nào được gia đình cho tiền mua một cái thì như lên tiên, cứ tung tăng không ngừng nghỉ bên nhịp điệu “tùng cheng”. Điệu trống làm trẻ nhỏ nôn nao đó là cột mốc thời gian, báo hiệu một thời khắc của mùa, của đời đang đến.

    Sài Gòn đã nhận vào lòng mình muôn muôn tiếng động, như nhịp đập của trái tim của vùng đất, như hơi thở của thị dân linh hoạt và tự do thiên định trong dòng máu của mình. Vô cùng sáng tạo, người ta có thể nhớ nhiều đến tiếng răng rắc rao đấm bóp đêm, tiếng leng keng của xe bán kem, tiếng kèn bóp hơi của người mua bán ve chai, tiếng mu rùa lốc cốc của người coi bói dạo… kể cả tiếng kèn tây đám ma tiễn đưa người chết.

    Nhưng cũng như tuổi thanh xuân đẹp nhất của mỗi người đã đi qua và không bao giờ trở lại, cô gái Sài Gòn nhiều tuổi hơn và cũng mất mát những điều diễm lệ đời thường đã từng có. Những thanh âm độc đáo đó cũng mất dần. Những tiếng rao hàng cũng xa xôi. Sài Gòn giờ rực rỡ hơn, ồn ào hơn… Nhưng cũng chừng như ít nhiều vô vị.

    Những thanh âm được sáng tạo của người xưa giờ được thay bằng những chiếc loa sắt và các phần ghi âm sẵn. Nền công nghiệp bèo nhèo của hệ thống tiếp thị kinh doanh đường phố đã giết chết những điều rất “người” và kỳ thú còn sót lại của thành phố.

    Tiếng nhạc kẹo kéo giữa những đêm bên các tụ điểm sôi động của Sài Gòn với dòng ca sĩ bắt kịp thời sự của Mỹ, là một dấu ấn khác. Những Michael Jackkeo, những Lady Keokeo…

    Có lẽ rất nhiều người vẫn thầm nghĩ tiếng loa rao bán keo bẫy chuột hay tò te tí vô hồn của xe kem cây đời mới, không bao giờ so được với tiếng rao của con người, dù yếu ớt giữa muôn vàn tiếng động đô thị. Nhưng những đổi thay buồn chán đó vẫn được ôm trọn trong lòng Sài Gòn bằng sự bao dung rộng lớn, vì đó cũng là những cách để mưu sinh.

    Trong những điều rất mới của âm thanh Sài Gòn, có những chiếc xe ba gác chở đầy đĩa nhạc, xập xình những bài hát được yêu chuộng. Nhưng âm thanh được phát ra trên những chuyến xe đó, vang vọng lời ca một thời của Thanh Tuyền, Duy Khánh, Sĩ Phú… cũng là những điều xưa cũ, hoặc làm người ta nhớ đến những điều rất xưa cũ.

    Sài Gòn là vậy đó. Sài Gòn bao dung ôm trong lòng mình tương lai nhưng không bao giờ phản bội quá khứ.

    Tuấn Khanh
    (12/2013)
    Nguồn: https://nhacsituankhanh.wordpress.com/2014/04/02/saigon-trong-thanh-am-vo-luong/

  • Xe xích-lô máy Sài Gòn

    Xe xích-lô máy Sài Gòn

    Những hình ảnh và thông tin thú vị về xe xích lô máy Sài Gòn trước năm 1975

    Một phương tiện di chuyển tương đối rẻ tiền tại Sài Gòn là xe xích-lô máy, thông thoáng dưới ánh nắng nóng nực của thành phố so với cung cách ngồi xe Taxi Renault 4CV không có máy điều hoà không khí, với tiếng nổ của động cơ 2 thì dùng xăng pha nhớt nhả khói – là hình ảnh đặc biệt khó quên của Sài Gòn, sau ngày thành phố được giải phóng vào tháng tư 1975, những chiếc xe xích-lô máy cũng biến mất như số phận của những chiếc xe Taxi Sài Gòn xưa.

    Xem thêm :

    Xe xích-lô máy Sài Gòn
    Xe xích-lô máy Sài Gòn

    Sơ lược về xe 3 bánh Peugeot

    Được sản xuất vào năm 1939 dựa trên kiểu xe mô-tô Peugeot 100cc Type 53, vì nhu cầu vận chuyển hàng hoá vào những con đường phố cổ chật hẹp mà xe ô-tô vận tải khó lưu thông và khối lương hàng hoá tương đối nhỏ, không cần đến những phương tiện vận tải lớn.

    Xe mô-tô Peugeot 125cc kiểu 55 GLT 1932
    Xe mô-tô Peugeot 125cc kiểu 55 GLT 1932

    Kiểu xe 3 bánh Triporteur Peugeot đầu tiên là kiểu 53 TN, vay mượn cổ máy 100cc 2-thì của xe Type 53 cùng nhiều cơ phận khác của xe nầy ngoại trừ bộ khung xe khác biệt. Động cơ được thiết kế đằng sau thùng chở hàng nên ngăn cản không khí làm mát máy, do đó trên cổ máy được thiết kế thêm một quạt máy nằm bên cạnh. Với sức mạnh 4 mã lực, hộp số gồm 3 số với cần sang số bên cạnh bình xăng, xe 3 bánh có thể chở 100 kilô hàng hoá với tốc độ tối đa 45 Km/giờ.

    Kiểu xe 3 bánh Triporteur Peugeot
    Kiểu xe 3 bánh Triporteur Peugeot
    Kiểu xe Triporteur Peugeot 55TN sản xuất sau chiến tranh tại Pháp Quốc
    Kiểu xe Triporteur Peugeot 55TN sản xuất sau chiến tranh tại Pháp Quốc

    Nhưng ưu điểm của xe Triporteur Peugeot so với những xe 3 bánh tải hàng hoá vào thời điểm ấy là bộ phận cơ khí tay lái điều khiển xe, được thừa hưởng từ thiết kế xe ô-tô Peugeot, bộ cơ khí tay lái điều khiển được đơn giản hoá với trục bánh trước độc lập rất tiện nghi và bẻ lái dể dàng. Về bộ khung trục bánh trước được thiết kế 2 vè chắn bùn bằng thép lá rập khuôn, ốp lấy thùng chở hàng hoá có cánh cửa mở về phía trước.

    Triporteur Peugeot 55TN
    Triporteur Peugeot 55TN
    Triporteur Peugeot 55TN với 3 phiên bản khác nhau trong tài liệu của Peugeot
    Triporteur Peugeot 55TN với 3 phiên bản khác nhau trong tài liệu của Peugeot

    Sau Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945, việc sản xuất xe Triporteur Peugeot được khởi động lại một cách khiêm nhượng với kiểu xe biến cải đôi chút, kiểu xe 54 TN, nhưng phải chờ đến năm 1949 mới thấy xuất hiện kiểu xe với động cơ 125cc, Triporteur 55 TN.

    Cổ máy 125cc vay mượn từ xe mô-tô Peugeot Type 55, với sức mạnh 4,5 mã lực cho phép xe 3 bánh tải một trọng lượng đến 150 Kg do đó bánh xe được nâng lên với kích cở 550×85 để chịu sức tải nặng và mầu sơn từ mầu xám xưa cũ chuyển sang mầu ngà.xe mô-tô Peugeot Type 55

    Kiểu xe Triporteur Peugeot cuối cùng 57 TM
    Kiểu xe Triporteur Peugeot cuối cùng 57 TM năm 1954
    Vài chi tiết kỹ thuật cơ khí: động cơ 125cc một xi-lanh 2-thì mát máy bằng quạt, hộp số gồm 3 số tay bên cạnh bình xăng, 4,5 mã lực với vòng quay máy 4.000 vòng/phút, bộ chế hoà khí Gurtner RN 17, bộ đánh lửa Volant SAFI SSY 40W, bánh xe 550×85, dài 2,35 mét, rộng 1,15 mét, cân nặng 120 Kilô.

    Kiểu cuối cùng của loại xe Triporteur Peugeot là kiểu 57 TM được ra mắt vào cuộc triển lãm xe vào năm 1954 tại Pháp Quốc. Với động cơ vẫn là cổ máy 125cc nhưng bộ dàn xe với 2 vè chắn bùn phía trước được thiết kế bằng thép lá uốn thẳng góc, giúp cho việc chuyển vận hàng hoá dể dàng hơn, 2 đèn phía trước được thay bằng một đèn duy nhất lớn hơn và chiếu sáng hơn. Kiểu 57 TM được trình làng với 3 phiên bản: khung trơn không thùng chở hàng (57 TN), thùng chở hàng có cửa mở phía trước (57 TNO) hoặc thùng chứa hàng với nắp đậy (57 TNC).

    Xe xích-lô máy tại Việt Nam

    Tại Việt Nam sau khi quân đội Hoàng Gia Nhật Bản thua trận phải đầu hàng và rút về nước năm 1945, ở Sài Gòn quân đội Anh Quốc đến tiếp quản rồi giao lại cho chính quyền thuộc địa Pháp. Nhu cầu vận tải hàng hoá rất cần thiết nên đã nhập cảng những phương tiện chuyên chở mà chiếc xe 3 bánh Triporteur Peugeot đã được đưa vào Sài Gòn.

    Từ chiếc xe 3 bánh chở hàng hoá, xe Triporteur Peugeot được cải tiến thành xe xích-lô máy
    Từ chiếc xe 3 bánh chở hàng hoá, xe Triporteur Peugeot được cải tiến thành xe xích-lô máy

    Đa số kiểu xe được sử dụng tại Sài Gòn là kiểu Triporteur Peugeot 55 TN với động cơ 125cc – thoạt đầu được sử dụng để vận tải hàng hoá nhưng sau đó được biến cải thành xe xích-lô máy. Trong thập niên 1930, Sài Gòn đã có những chiếc xích-lô đạp thay thế cho những phu xe kéo, qua thập niên 1940 đã có khoảng trên 6.500 xe xích-lô đạp nhưng số dân cư Sài Gòn ngày một tăng lên, xe xích lô đạp không đáp ứng lại nhu cầu vận chuyển vì lẽ dùng sức người, tốc độ chậm và quảng đường ngắn – trong khi xe Taxi đáp ứng lại nhu cầu về tốc độ và khoảng cách xa nhưng giá cả khá cao, khách đi xe xót ruột khi thấy đồng hồ taximètre cứ nhảy số tiền phải trả ngay cả khi xe dừng ở đèn lưu thông…

    Xe xích-lô máy và Taxi Renault 4CV là 2 biểu tượng của Sài Gòn xưa
    Xe xích-lô máy và Taxi Renault 4CV là 2 biểu tượng của Sài Gòn xưa
    Xích-lô máy là một phương tiện di chuyễn nhanh chóng và mát mẽ dưới nắng Sài Gòn
    Xích-lô máy là một phương tiện di chuyễn nhanh chóng và mát mẽ dưới nắng Sài Gòn

    Do đó từ một xe 3 bánh chở hàng hoá – gọi theo tiếng việt thời ấy là xe ba-gác máy (từ chử bagages = hành lý) – đã được cải tiến thành xe xích-lô máy. Rập theo cấu trúc của xích-lô đạp, người ta đặt lên khung xe một cái nôi bằng thép uốn với băng ghế nệm, dưới ghế nệm biến thành khoang chứa dụng cụ bảo trì xe cùng xăng nhớt, ruột lốp xe và tấm bạt để che phía trước hành khách khi trời mưa. Bên cạnh 2 hông ghế là bộ khung thép bọc mái che bằng vải dầu gấp xếp lại được, dùng để che nắng và mưa.

    Hình ảnh quen thuộc xe xích-lô máy chạy quanh Công trường Diên Hồng xưa, trước trạm xe buýt Công Quản Chuyên Chở Công Cộng đối diện với Chợ Bến Thành
    Hình ảnh quen thuộc xe xích-lô máy chạy quanh Công trường Diên Hồng xưa, trước trạm xe buýt Công Quản Chuyên Chở Công Cộng đối diện với Chợ Bến Thành

    Trong cuối thập niên 1940 qua đầu thập niên 1950, có khoảng 1.800 xe xích-lô máy hoạt động quanh Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định và là biểu tượng duy nhất của thành phố Sài Gòn không có nơi nào khác.

    Dòng xe xích-lô máy Sài Gòn biến mất dần sau ngày miền nam Việt Nam được giải phóng vào tháng tư 1975, xăng dầu vào lúc ấy trở thành khan hiếm và được xem là “vật tư chiến lược” của chính quyền mới, những xe xích-lô máy cũng cùng số phận với những xe Taxi Sài Gòn xưa.

    Hình ảnh xe xích-lô máy Sài Gòn theo thời gian

    Xích-lô máy và ông Pierre Coupeaud, ngưới sáng chế xe xích-lô đạp đầu tiên ở Phnom Penh trước nhà hàng khách sạn Continental Sài Gòn
    Xích-lô máy và ông Pierre Coupeaud, ngưới sáng chế xe xích-lô đạp đầu tiên ở Phnom Penh trước nhà hàng khách sạn Continental Sài Gòn
    Hai bà "đầm" trên một xe xích-lô máybiến cải từ xe Triporteur Peugeot 54 TN
    Hai bà “đầm” trên một xe xích-lô máybiến cải từ xe Triporteur Peugeot 54 TN
    Hai người lính gendarmes Pháp ở Sài Gòn
    Hai người lính gendarmes Pháp ở Sài Gòn
    Một thiếu nữ Pháp kiều tại Sài Gòn
    Một thiếu nữ Pháp kiều tại Sài Gòn
    Một bến xe xích-lô máy
    Một bến xe xích-lô máy
    Chờ khách...
    Chờ khách…
    Một lính Mỹ thích thú trên xe xích-lô máy Sài Gòn
    Một lính Mỹ thích thú trên xe xích-lô máy Sài Gòn

    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc

    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Vài xe Triporteur Peugeot được tân trang và trưng bày trong các lể hội
    Vài xe Triporteur Peugeot được tân trang và trưng bày trong các lể hội
    Một người bán hạt dẻ rang nóng trên đường phố Paris
    Một người bán hạt dẻ rang nóng trên đường phố Paris

    Theo http://hoangkimviet.blogspot.ch/