Những hình ảnh hiếm hoi ở Việt Nam ghi lại cuộc sống của những người dân Huế và Đà Nẵng khoảng thời gian 1970. Chúng là ảnh màu và được đăng tải trên trang Swan Point Studio.
Những bức hình hiếm về Miền Trung những năm 1970
























Những hình ảnh hiếm hoi ở Việt Nam ghi lại cuộc sống của những người dân Huế và Đà Nẵng khoảng thời gian 1970. Chúng là ảnh màu và được đăng tải trên trang Swan Point Studio.
Những bức hình hiếm về Miền Trung những năm 1970
























Áo dài là trang phục tôn lên nét thanh nhã phụ nữ. Áo dài Việt Nam có lịch sử “tiến hóa” khá lâu đời và ngày càng đơn giản theo hướng tinh tế hơn, thoải mái hơn. Xem thêm : lịch sử áo dài Việt Nam
Thời kỳ trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam do ảnh hưởng của các nền văn hóa mới hội nhập. Áo dài được cách tân và phối kết hợp với nhiều hình ảnh thời thượng khác nhau, như xe Solex, kính râm…





















































Ảnh về thành phố Tuy Hòa- Phú Yên được chụp bởi Steve (MACV Advisory Team 280) trong chuyến hành trình khám chữa bệnh những năm 1970-1971.













Sông Cầu là thị xã nằm ở ven biển địa đầu của tỉnh Phú Yên. Đồi núi chiếm đa số, xen kẽ là một số cánh đồng lúa nhỏ.





CHIẾC MÁY BAY DO NGƯỜI VIỆT NAM CHẾ TẠO
Máy bay đó có tên là “Tiền Phong 001” có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, tên là “Tiền Phong 001”, vì dự định sau đó sẽ chế tạo thêm Tiền Phong 002, Tiền Phong 003 và 004 v.v.
Kỹ sư trưởng của công trình này là ông Nguyễn Tú.
Máy bay dùng để huấn luyện căn bản các phi công Việt Nam, vì vậy loại máy bay này được chế tạo theo kiểu máy bay cánh thấp giống khu truc, máy bay có hai ghế ngồi gần nhau với hai cần điều khiển song hành và có khả năng nhào lộn nhẹ nhàng thích hợp cho một chiến đấu cơ căn bản.
Chuyến bay thử nghiệm được thực hiện vào ngày 01/7/1972 (hoặc 1973), phi công đầu tiên bay thử là ông Võ Xuân Lành và ông Nguyễn Tú, máy bay đã bay nhiều vòng trên bầu trời Sài Gòn.


Nguồn: FB

Tôi đã và đang ăn thường xuyên bánh bao mang cái tên mộc mạc và ngồ ngộ – Cả Cần . Loại bánh bao ngon nhất mà tôi từng được ăn ở đất Sài Gòn này!
“Bánh bao Cả Cần” là thứ bánh bao đặc chất của người miền Nam (sản xuất ở Sài Gòn), khác với bánh bao của người Hoa. “Bánh bao Cả Cần” không trắng như bánh bao gốc của người Hoa, mà hơi hẩm, vì không dùng bột tẩy. Vị bánh bao bùi hơn, ăn không dính răng, nhân bánh bao hoàn toàn là thịt băm, không pha lẫn cá và dầu mỡ như bánh bao của người Hoa. “Bánh bao Cả Cần” nổi tiếng ở Sài Gòn từ đầu thập niên 70 thế kỷ trước xuất hiện ở vài quán nhỏ tại khu vực đường Nguyễn Tri Phương (quận 5 – Chợ Lớn cũ), sau đó, bánh bao mang tên Cả Cần trở thành một quán độc lập, nằm trọn trên khoảng khuôn viên sát cạnh ngã 4 Nguyễn Tri Phương – Hùng Vương, phía trước công viên Văn Lang.

Người đầu tiên sản xuất thứ bánh bao này là ông Trần Phấn Thắng (đã qua đời từ lâu). Từ nhiều năm nay, Sài Gòn có nhiều nơi sản xuất bánh bao (không kể bánh bao của người Hoa), với những thương hiệu không thể nhớ hết. Bên canh những xe bán bánh bao mang biển hiệu: bánh bao Singapore, bánh bao Đài Loan, bánh bao Malaysia… nhưng bánh bao Cả Cần vẫn cứ đông khách như mọi khi. Và ngày nay, thương hiệu “Cả Cần” đã đi vào lịch sử ẩm thực của Sài Gòn.

1. VỀ CÁI TÊN ÔNG CẢ CẦN:
Người ta chỉ suy đoán chữ CẢ CẦN dựa theo cái nghĩa đen của nó để thêu dệp rằng: Ông Thắng có cha làm ông Cả tên Cần, theo kiểu HAI LÚA thì chắc có em tên BA GẠO.
Thật ra thì Ông Thắng là người gốc Mỹ Tho là người thứ ba trong nhà, có ông anh tên Trần Phấn Phát, sỹ quan Quân Lực VNCH. Cha ông gốc Tàu Minh Hương, không có làm Hương Cả gì cả. Cả hai anh em rất thích văn chương văn nghệ và có một nhóm bạn rất là văn nghệ sỹ trong đó phải kể đến Nhạc Sỹ Lê Thương (tác giả Hòn Vọng Phu) cũng như nhà báo và dân biểu đối lập thời VNCH là Lý Quý Chung chẳng hạn.
Ông Thắng tâm sự: Cần là tên một người bạn thơ ấu của hai anh em chẳng may mất sớm. Chữ Cả ông ghép vào vì cá tính của ông thích những chữ cùng phụ âm như kiểu Tin – Tình – Tiền – Tù – Tội. Và ông tâm đắc câu quảng cáo của ông dùng bao năm nay toàn bằng chữ C:
Có Cả Cần Cần Chi Có Cả
Cũng vì thích loại câu dùng cùng một phụ âm này mà tên con ông đặt toàn chữ T. Ông Bà Thắng có đông con (tôi nhớ không lầm thì cũng gần chục). Tôi nhớ được tên của bốn cô con gái của ông là:
Trần Mỹ Tiên
Trần Mỹ Trinh
Trần Mỹ Thanh và cô út là
Trần Mỹ Tâm
2. VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA QUÁN ÔNG CẢ CẦN:
Ông Bà Cả Cần xuất thân từ công chức VNCH. Bà người gốc Bến Tre, nấu ăn rất ngon. Ông có tài ăn nói duyên dáng và khả năng ngoại giao bạn bè rất rộng. Từ sự kết hợp đó, ông bà quyết định bỏ nghề công chức ra mở quán Hủ Tiếu và Bánh Bao Mỹ Tho. Tên Cả Cần được ông chọn đầu tiên cho Quán đầu tiên nằm ở ngã tư Công Lý – Trương Quốc Dung (tôi mang máng nhớ tên đường này là vậy). Trước năm 1975, nếu ai đi lại con đường ra sân bay Tân Sơn Nhất sẽ không thể không thấy cái Bánh Bao To Tướng trước khi băng qua cổng xe lửa.
Sau thời gian ngắn thì Quán Ông Cả Cần thành công rất nhanh nhờ tài nấu ăn của bà và tài ngoại giao của ông. Cũng vì quen biết giới văn nghệ sỹ thời đó nên ông Thắng mượn nghệ danh của cô Năm Sa Đéc (vợ của ông Vương Hồng Sễn) làm tên quán thứ hai ở Ngã Tư Nguyễn Tri Phương – Nguyễn Trãi (Chợ Lớn) . Đến đây thì nãy sinh một vài đồn đoán rằng:
– Ông Cả Cần gốc Sa Đéc không phải gốc Mỹ Tho
– Bà Năm Sa Đéc có quan hệ với ông Cả Cần
– Bà Năm Sa Đéc có phần hùn trong quán Cả Cần
Cả ba điều này đều là đồn đoán và không có thật. Ai có đến quán Bà Năm Sa Đéc (của ông Trần Phấn Thắng) thì đều biết quán này nằm giữa đường gần như chắn ngang con đường Nguyễn Trãi chạy từ Sài Gòn ra. Vì thế khoảng thập niên 70, ông Thắng bị Đô Trưởng lúc đó là Đỗ Kiến Nhiễu (nghe đâu cũng gốc Mỹ Tho) bắt tháo dỡ. Ông theo vụ kiện đến cùng, kết cục thì ông Thắng thắng và quán vẫn còn tồn tại như ngày nay. Nhưng vì vụ kiện này mà Bà Năm Sa Đéc rút tên ra. Quán mang tên MỸ TIÊN . Mỹ Tiên là tên cô con gái lớn của ông Thắng . Sau 1975, quán vẫn mang tên Mỹ Tiên.
3. GIA ĐÌNH CẢ CẦN NAY ĐÂU?
Sau năm 1975, gia đình ông Thắng còn giữ được một số tài sản và quyết định ra đi. Vì gia đình có gốc Hoa nên đi cả nhà, thậm chí những người đầu bếp giỏi, phụ bếp và cả phụ vụ bàn. Giá vàng ông phải trả lúc đó khoảng 12 cây vàng cho một đầu người.
Gia đình ông ra đi suôn sẻ trong một đêm lặng gió. Cuối cùng thì định cư tại Montreal, Canada . Đến đất tạm dung Montreal chẳng bao lâu thì với số vốn mà nhân lực mang theo ông bà đã mở được hai quán để tên ONG CA CAN: một ở dưới phố trên đường St Catherine gần trường Đại Học McGill , một ở Côte des Neiges. Cũng vẫn với khiếu chữ nghĩa bẩm sinh của mình, ông Thắng đã dí dỏm gọi quán ở Côte des Neiges là TRÊN DỐC TUYẾT, Montreal là Mộng Lệ An.
Hai ông bà thành công rất nhanh ở xứ Canada cho nên khi VN mở cửa năm 89 thì năm 90 cô con gái lớn ông đã thực hiện chuyến về VN đâu tiên và ông bà cũng lần lượt về sau đó để tìm lại cơ hội làm ăn cũng như lấy lại nhà hàng cũ.
Sau khi ông bà ra đi thì nhà hàng cũ do một người bà con xa cai quản. Ông bà cũng thường gởi tiền về giúp đở. Nhưng về phẩm chất nấu ăn thì không giữ được như trước cho nên nhà hàng dần dần mất tiếng và suy sụp. Đây là điểm yếu của đa số nhà hàng Việt Nam nói chung và nhà hàng Ông Cả Cần nói riêng. Bà Cả Cần là người giỏi giang quán xuyến, nhưng nhà hàng là phương tiện sống của đại gia đình cho nên bà giữ bí quyết rất kỹ. Thậm chí ở Canada, chưa chắc con bà lúc ấy nấu được như bà.
Khi công cuộc điều đình mua lại đất đai nhà hàng cũ còn đang được tiến hành thì bà Cả Cần đột ngột bị TAI BIẾN MẠCH MÁO não và năm bất động. Tội nghiệp cho bà. Bà nằm thế đến gần 2 năm trời và bà qua đời năm 1995.
Sau khi bà qua đời thì ông Thắng về Việt Nam thường hơn để làm ăn. Nhà hàng bên Canada thiếu bà không còn đông như trước. Các cô các cậu lập gia đình chỉ còn vài người theo nghề cha mẹ. Chỉ vài năm sau đó thì Ông Cả Cần Trần Phấn Thắng cũng qua đời tại Việt Nam . Nhà hàng TRÊN DỐC TUYẾT đóng cửa. Giờ chỉ còn nhà hàng dưới phố St Catherine.
Có người nói bảng hiệu sau này của nhà hàng trên đường Nguyễn Tri Phương là ÔNG CẢ CẦN. Có thể nhà hàng đổi tên lại sau khi ông Cả Cần về nước. Bao năm trước đó nó vẫn mang tên MỸ TIÊN. Tên Mỹ Tiên là cái tên thứ hai sau cái tên BÀ NĂM SA ĐÉC …
Nói thêm về hủ tiếu Mỹ Tho của quán Cả Cần:
Có nhiều người cứ nhầm hủ tiếu Mỹ Tho với hủ tiếu Nam Vang. Khác hoàn toàn. Nước hủ tiếu được nấu bằng khô mực nhí (vụn), tôm khô và xương nên nước ngọt tự nhiên, thơm và trong. Bánh hủ tiếu, sợi nhỏ dai và là bánh khô. Hủ tiếu Mỹ Tho không có để trứng cút hay tôm tươi mà chỉ có xương, thịt heo hoặc thêm gan heo thôi….
Ở Sài Gòn, có duy nhất 1 chỗ có hương vị hủ tiếu giống với hủ tiếu Mỹ Tho, đó là quán hủ tiếu Mỹ Tho – bánh bao Cả Cần – nằm ngay trước công viên Văn Lang, góc đường Hùng Vương – Nguyễn Tri Phương, Q.5.
Nguồn: Sưu tầm (honngocviendong)

Tự hào với siêu thị đầu tiên của Việt Nam ở Sài Gòn !
Siêu thị Nguyễn Du, khu siêu thị đầu tiên ở Sài Gòn và có thể nói là toàn cõi VN mở cửa năm 1967, mang đến cho nhiều gia đình công tư chức ở Sài Gòn những tiện lợi trong chuyện mua sắm mà trước đó không hề có.

Đi trước cả Bangkok
Sau khi siêu thị Nguyễn Du được thành lập không lâu, ông Cung được SMI (Viện Siêu thị – Super Marketing Institute) mời qua Bangkok (Thái Lan) gặp các nhà buôn Thái để trình bày kinh nghiệm khi hình thành siêu thị đầu tiên này. Như vậy, dù đang trong hoàn cảnh chiến tranh, Sài Gòn đã đi trước Bangkok, một thành phố lớn sống trong hòa bình về việc buôn bán lẻ qua hệ thống siêu thị.
(Trích từ Sài Gòn – Chuyện đời của phố phần 2 do NXB Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM và Phương Nam Book ấn hành)
Theo vivusaigo



Tân Cảng Saigon – Saigon Newport 1965-1967


















Bộ ảnh Sài Gòn năm 1965
Photo by Jerry Cecil















Đây là Công trường Hồng Bàng, tức khoảng không gian phía trước chợ Bà Chiểu, nơi hôi tụ của 4 con đường: Chi Lăng, Lê Quang Định, Bạch Đằng và Bùi Hữu Nghĩa (chứ không phải đường Hồng Bàng).









Quán Café Brodard góc Tự Do – Nguyễn Thiệp những năm 1963
” … Nhà hàng Brodard nằm ở góc Tự Do – Nguyễn Thiệp, nhìn sang bên kia là vũ trường Tự Do của ông Cường lùn và chị “tài pán” Nhựt, bà chị này hành nghề cai quản các em “ca nhe” từ vũ trường Ritz Hà Nội vào Nam. Ở đây lại đông vui vào những buổi sáng muộn và buổi tối khi “gà lên chuồng”. Nơi lui tới của những “dân đi chơi đêm” Sài Thành. Những anh hùng “hảo hớn” như Khê – Thăng Long Xích Thố, anh em ông Kim đầu bạc, Kính Tennis, Chương Marine cũng lui tới ngồi tán chuyện giang hồ. Các “đại gia, tiểu gia” thời đó không nhiều, chỉ vỏn vẹn một số ông dược sĩ, tu bíp, doanh nhân có “xế bốn bánh” đủ để chở các em đi ăn đêm. Thỉnh thoảng một vài em vũ nữ, thường là loại có hạng như Lệ Hằng, Thủy Điên, Mỹ Khùng… ở mấy cái vũ trường gần đó như Tự Do, Mỹ Phụng, Olympia cũng la cà vào đây tán dóc.
Ba nhà hàng ấy -Brodard, Givral, La Pagode- là 3 sắc thái riêng biệt làm nên cái trục “văn hóa không tên”, cái linh hồn của Sài Gòn, khó phai mờ trong ký ức của những người Sài Gòn.
Còn một địa chỉ nữa ở gần chợ Bến Thành là nhà hàng Thanh Thế, nơi này là chỗ gặp nhau của những ký giả thể thao như đàn anh Huyền Vũ, Thiệu Võ và một số những nhà báo miền Nam… ”
Photo by Ken Hoggard:
Gene Long’s Vietnam Photos 1965 to 1966:

Nguồn : internet





HÌnh bên dưới chụp theo hướng ngược lại:



































Khác với nét đài các của thiếu nữ Hà Nội hay vẻ thùy mị thướt tha của con gái Huế, những thiếu nữ Sài Gòn xưa gây ấn tượng bởi vẻ phóng khoáng, tươi trẻ và tự tin.
Xem thêm: Phong cách thời trang Sài Gòn xưa
Hình ảnh người đẹp Sài Gòn rất gắn bó với những chiếc xe “thời thượng”. Thời đó, những chiếc Vespa chạy trên đường đông như mắc cửi. Dù xe do người đàn ông cầm lái nhưng xe chỉ đẹp khi có các cô gái Sài Gòn trẻ trung, duyên dáng ngồi trên yên sau.

Phụ nữ Sài Gòn xưa thích trải nghiệm cái mới, chiếc xe Velo Solex, loại xe của Pháp có gắn động cơ phía trước cũng rất được chị em ưa chuộng. Ði Solex là cả một nghệ thuật, đòi hỏi sự khéo léo vì phía đầu xe rất nặng. Ấy thế mà những cô gái Sài Gòn vẫn tha thướt trên chiếc Solex trước những cặp mắt mê mẩn của cánh đàn ông
Phụ nữ Sài Gòn xưa rất thích làm ăn buôn bán kiếm tiền, nhưng tiêu tiền cũng rất “phóng tay”, ưa sống xa hoa, ít chịu tiết kiệm. Bởi thế sự phóng khoáng của phụ nữ Sài Gòn những năm 60 trong mắt nhiều người là “dân chơi thứ thiệt”, làm bao nhiêu xài bấy nhiêu và dù sống trong khó khăn, nghèo khổ nhưng vẫn giữ cho mình những thú vui giải trí hưởng thụ.
Trên phố, những cô gái dù buổi sáng tất tả bên quầy bán nước giải khát, buổi chiều vẫn cuốn tóc mặc áo dài thoa môi đỏ đi dạo phố. Mẹ dắt bầy con, đứa chạy trước, đứa theo sau, kêu nhau inh ỏi. Họ rất thích mua sắm, trong những cửa hàng, những cô gái ăn mặc đàng hoàng chen lẫn với những người mặc đồ lao động không chút ái ngại, mà trên mặt ai cũng lộ ra vẻ hân hoan hớn hở.

Những năm 60, ngoài những tầng lớp thượng lưu, con gái Sài Gòn thường làm một nghề rất đặc biệt là nghề gánh nước mướn, trở thành một trong số những nghề có chỗ đứng trong xã hội. Lý do vì Sài Gòn những năm 60 chưa có hệ thống nước kéo vào nhà, đồng hồ nước vào thời điểm đó là một trong số những thứ quá xa xỉ. Người dân muốn có nước thì ra các phông – tên đựng nước được lắp sẵn ở những nơi công cộng. Vậy là nảy sinh nhu cầu gánh nước về tận nhà của những gia đình giàu có.
Trong số những cô gái gánh nước mướn thời đó có hoa khôi chân đất Bùi Thị Ba. Tuy rất vất vả cực nhọc nhưng vẻ đẹp mỹ miều của cô đã lọt vào mắt xanh rất nhiều công tử con nhà giàu. Ngày ấy, ngắm nhìn nàng quẩy đôi gánh nước đi về mỗi ngày đã làm xốn xang trái tim chàng hắc công tử nổi tiếng miền Nam thời đó.
Thời đó, vào mỗi chiều cuối tuần, phụ nữ Sài Gòn nói chung và nữ sinh Sài Gòn nói riêng lại cùng nhau đi dạo bát phố trên đường Lê Lợi, Tự Do. Họ vừa đi, vừa nói chuyện với nhau rất vui vẻ. Vào dịp giáp tết, các trường hay tổ chức những buổi giao lưu văn nghệ. Lúc đó, mỗi trường đều làm Nội san Xuân, xong đóng tập đem bán gây quỹ tặng các bạn nghèo. Những nữ sinh xinh xắn và có tài ăn nói được chọn để lập những nhóm đi bán nội san ở các trường khác. Khoảnh khắc đó thật đáng nhớ khi đang giữa mùa mát trời Sài Gòn, các cô gái bất ngờ vào lớp với tập báo trên tay và nụ cười rạng rỡ trên môi khiến các nam sinh đứng ngồi không yên.
Khoảng giữa những năm 60, các mốt thời trang khác như jupe hay mini jupe và các thứ váy đầm cập nhật nhanh chóng. Nhiều người nước ngoài bước chân vào “hòn ngọc Viễn Đông” thời bấy giờ đã ngỡ ngàng khi thấy thời trang Sài Gòn theo sau phương Tây chỉ sau một vài tháng. Tuy cập nhật “mốt” rất nhanh, phụ nữ Sài Gòn xưa vẫn tự gạn lọc và tìm cách tạo nét riêng cho mình chứ không thích mặc giống nhau hay na ná nhau.

Áo dài thướt tha cũng là lựa chọn của nhiều phụ nữ Sài Gòn xưa. Theo những lời kể lại, thì dù có vận áo dài hay đồ tây, phụ nữ Sài Gòn cũng đi lại rất nhanh nhẹn, chân bước dài, tay vung nhẹ nhàng, vừa phải. Dáng đi rất nhanh nhưng vẫn giữ được sự thanh thoát, uyển chuyển.
Với áo dài, váy ngắn, tóc thời trang, các thiếu nữ Sài Gòn xưa quyến rũ, đài các ngay trong cuộc sống đời thường.
Thời trang của họ ảnh hưởng nhiều bởi thời trang Pháp thời bấy giờ. Vẻ đẹp tổng hòa và độc đáo, cởi mở nhưng không hề dễ chinh phục
Sài Gòn là mảnh đất phóng khoáng, cư tụ nhiều dân cư khắp nơi trên đất nước đổ về làm ăn, sinh sống. Bởi thế vẻ đẹp của các giai nhân trên đất Sài Gòn là vẻ đẹp tổng hợp từ nhiều vùng miền tạo thành, nhưng vẫn có nhiều nét riêng độc đáo.
Phụ nữ Sài Gòn xưa giản dị nhưng rất thanh lịch, sang trọng. Vẻ đẹp tươi vui, hiện đại và phóng khoáng của Phụ nữ Sài Gòn xưa là vẻ đẹp hình thành từ cuộc sống nhộn nhịp của Sài Gòn từ cuối thế kỷ 19, cuộc sống luôn bận rộn trên bến dưới thuỵền và nhiều cơ hội làm ăn. Cũng có thể do Sài Gòn không có một mùa lạnh để mà co ro, lặng lẽ hay trầm ngâm trên đuờng đi. Phụ nữ cũng không chịu nhiều lề thói phong kiến nghiêm khắc, cuộc sống bung ra đường cũng khiến họ thoải mái và tự nhiên

Nhưng nếu nhìn vào vẻ bề ngoài cởi mở mà đánh giá tính cách phụ nữ Sài Gòn xưa thì rất sai lầm. Phụ nữ Sài Gòn ngày ấy có thể ngồi ăn hàng ngoài đường rất hồn nhiên nhưng cử chỉ không hề suồng sã. Họ cũng có thể ăn mặc thoáng mát với quần short, áo không tay hay váy ngắn nhưng không có nghĩa là chơi bời buông thả. Họ có thể không ngại chạy thử một lọai xe mới, đánh tennis, bơi thuyền thậm chí tham gia một trận đá bóng nhưng không hề cố tỏ mình là “có cá tính” như các “Hot Girl” bây giờ. Họ dễ bắt chuyện nhưng không dễ làm thân, rất cởi mở vui vẻ khi làm quen nhưng không dễ “cưa đổ” như nhiều chàng tưởng bở.
Nếu những giai nhân Hà thành mang vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, e lệ, đoan trang, với nét duyên thầm thì nhan sắc Sài Gòn đẹp rất đỗi tự nhiên pha chút hoang dại, vừa phóng khoáng lại vừa kiêu sa. Phụ nữ Sài Gòn xưa không mang nét đẹp hoài cổ, đằm thắm, mà có hơi thở của sự tự tin, trẻ trung và thời thượng.
Thời nay, phụ nữ Sài Gòn vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng, như chính đặc trưng của vùng đất ấm áp mến khách này, họ luôn đẹp một vẻ đẹp thông minh, cá tính và phóng khoáng. Tuy thế, ngắm lại những tà áo dài, những tấm lưng ong, những mái tóc bồng bềnh của một thời nhan sắc Sài Gòn đằm thắm ngày xưa, chúng ta cũng không khỏi một thoáng bồi hồi thương nhớ.
Nguồn: http://www.saigontrongtoi.com/