Author: Hình ảnh Việt Nam

  • Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Giữa trung tâm Sài Gòn từng tồn tại một pháp trường đặc biệt, nơi các vụ hành quyết diễn ra công khai trước sự chứng kiến của công chúng…

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Năm 1965, tình hình Miền Nam Việt Nam hết sức rối ren, các cuộc đảo chính, biểu tình và tấn công vũ trang diễn ra thường xuyên. Cùng với điều đó là nạn đầu cơ, lũng đoạn thị trường của giới thương gia. Trước tình hình này, chính quyền VNCH đã dựng lên phía trước chợ Bến Thành một pháp trường để hành quyết công khai các phạm nhân nhằm mục đích răn đe.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Mới đầu, pháp trường giữa trung tâm thành phố này chỉ được bố trí để xử bắn một người. Về sau nó đã được mở rộng để có thể hành quyết cùng một lúc ba người. Hoạt động của pháp trường đã bị truyền thông quốc tế lên án mạnh mẽ, buộc chính quyền phải dẹp bỏ nó sau một thời gian.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Khung cảnh trên pháp trường ngày 6/10/1965, khi ba phạm nhân bị hành quyết cùng lúc vì những tội danh khác nhau.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Một vụ hành quyết nổi tiếng trong thời gian pháp trường hoạt động là vụ xử nhà tài phiệt Tạ Vinh, một người Việt gốc Hoa 34 tuổi. Ông bị kết tội đầu cơ phá hoại kinh tế và chịu án tử ngày 14/3/1966.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975
     
    Tạ Vinh gục xuống sau loạt đạn, trên người vẫn mặc bộ vest lịch sự.
    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Vợ ông Tạ Vinh đã liều mạng lao về phía chồng và bị cảnh sát chặn lại.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Bên cạnh các tội phạm hình sự, kinh tế, nhiều nhân vật đấu tranh chống chính quyền VNCH cũng bị hành quyết công khai.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Sinh viên Lê Văn Khuyên bị xử bắn ngày 29/1/1965, thời điểm Sài Gòn đang chấn động sau các cuộc biểu tình và nổ bom.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Cái chết của chàng trai 20 tuổi Lê Văn Khuyên.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Một chiến sĩ biệt động bị chính quyền VNCH xử bắn ngày 22/6/1965.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Cột hành quyết sau khi bản án tử được thi hành, ảnh của phóng viên Nhật bản Akimoto Keiichi.

    Theo KIẾN THỨC

  • Ảnh chụp chi tiết chiếc trống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Có thể nói trống đồng Ngọc Lũ I là một kiệt tác được sáng tạo trong thời kỳ cực thịnh của văn hóa Đông Sơn.Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam ở Hà Nội, trống đồng Ngọc Lũ I được đánh giá là chiếc trống đồng đẹp nhất của văn hóa Đông Sơn từng được tìm thấy từ trước đến nay.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Trống còn khá nguyên vẹn, có hình dáng cân đối, đường kính 79 cm, cao 63 cm. Trống được chia làm 3 phần: Tang trống nở phình, thân trống hình trụ đứng, chân trống hình nón cụt hơi choãi.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Nét đặc sắc nhất của trống đồng Ngọc Lũ I là hệ thống hoa văn hết sức phong phú, được chia làm hai loại là hoa văn hình học và hoa văn người, động vật và đồ vật.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao nổi 14 cánh. Xen giữa các cánh sao là những họa tiết hình tam giác.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Có ý kiến cho rằng, họa tiết trang trí giữa các cánh sao thể hiện hình tượng sinh thực khí nữ theo quan niệm phồn thực của người Việt cổ.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Từ trong ra ngoài mặt trống có tất cả 16 vành hoa văn đồng tâm bao bọc lấy nhau. Các vành 1, 5, 11 và 16 là những hàng chấm nhỏ. Các vành 2, 4, 7, 9, 13 và 14 là những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành 3 là những hình học gãy khúc nối tiếp. Vành 12 và 16 là văn răng cưa. Vành 6, 8 và 10 là vành có hình người, động vật được xếp xung quanh ngôi sao và ngược chiều kim đồng hồ.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Hình người trên mặt trống thể hiện ở dạng mặc váy dài, có hai vạt tỏa ra hai phía, vừa đi vừa múa, có người tay cầm rìu, có người thổi kèn, có người cầm giáo, cán giáo có trang trí lông chim. Hoặc có thể người đang quay mặt về phía nhà cầu mùa, xõa tóc, mặc váy hay có đôi trai gái đang cầm chày giã vào một chiếc cối, đầu chày có trang trí lông chim.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Hình nhà: Có hai dạng, thứ nhất là hình nhà liên quan đến nghi lễ tôn giáo, có mái hình cung, hai đầu là hai trụ đứng để chắn phên.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Thứ hai là nhà hình thang nóc cong lên như hình thuyền, hai đầu có hình chim mắt to, hai bên có cột chống đỡ. Nóc nhà có hai con chim đậu, một con trong giống hình chim công, một con trông giống hình gà trống…

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Về hình tượng động vật, vành 8 gồm hai nhóm, mỗi nhóm có 10 con hươu cách nhau bằng hai tốp chim bay, một tốp 6 con và một tốp 8 con. Cứ một con hươu đực thì đến một con hươu cái.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Vành 10 gồm 36 con chim, 18 con chim đậu và 18 con chim đang bay. Chim bay là loại chim mỏ dài, có mào, đuôi và chân dài, mình gầy thuộc loại cò, sếu hoặc vạc, thường gọi là chim lạc. Chim đậu có nhiều loại. Con thì mỏ ngắn vênh lên, con thì mỏ dài chúc xuống, phần đông là chim ngậm mồi. Các con chim đậu đều có đuôi ngắn.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Tang trống chính là chiếc hộp cộng hưởng khuếch đại âm thanh. Phần trên có 6 vành hoa văn hình học. Vành 1 và 6: Những đường chấm nhỏ thẳng hàng. Vành 2 và 5: Văn răng cưa. Vành 3 và 4: Hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối với nhau bằng những tiếp tuyến song song.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Phần dưới tang trống là 6 chiếc thuyền chuyển động từ trái sang phải, chở chiến binh tay cầm vũ khí và tù binh, xen giữa là những hình chim cò ngậm cá, chó săn được thể hiện theo lối cách điệu.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Có bốn chiếc quai chia làm hai cặp gắn vào tang và phần thân trống, được trang trí hình bện thừng / bông lúa.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Phần giữa của thân có những hoa văn hình học chạy song song cắt nhau tạo thành 6 ô hình chữ nhật.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Trong ô là các võ sĩ đầu đội mũ lông chim, tay cầm vũ khí vừa đi vừa múa.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Phần dưới của thân là ba vành hoa văn hình học, giữa là vành văn vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Hai bên là hai đường chấm nhỏ. Ngoài cùng là hai đường chỉ trơn. Chân trống không có trang trí.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Trống đồng Ngọc Lũ I được phát hiện vào khoảng năm 1893 – 1894 dưới độ sâu 2 mét của bãi cát bồi khi các ông Nguyễn Văn Y, Nguyễn Văn Túc và một số người khác đắp đê Trần Thủy ở xã Như Trác, huyện Nam Xang (phủ Lý Nhân, Hà Nam). Các ông đem về cúng vào đình làng Ngọc Lũ, để khi có đình đám cúng tế thì dùng.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Năm 1902 nhân cuộc đấu xảo ở Hà Nội, trống được đem ra trưng bày. Viện Viễn Đông Bác cổ bèn xuất 550 đồng bạc Đông Dương mua lại và lưu trữ ở Hà Nội.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Các nhà nghiên cứu xác định Trống đồng Ngọc Lũ I có niên đại 2.500 năm trước, được xếp vào loại H1 – Heger (theo sự phân loại dựa trên 165 chiếc trống đồng được biết đến thời điểm ấy của học giả F.Héger – người Áo – vào năm 1902).

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    H1 là loại trống đồng “cổ nhất, cơ bản nhất và từ loại này mà các loại khác ra đời”. Ngọc Lũ là một trong số không nhiều trống đồng giữ vai trò ấy.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Trong văn hóa Đông Sơn, trống đồng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong sinh hoạt xã hội của người Việt cổ. Về cơ bản thì trống là một nhạc khí dùng trong những lễ tiết lớn của cả cộng đồng. Trống đồng còn được dùng trong lễ mai táng chôn theo người chết, trong lễ hội cầu mùa và là biểu tượng quyền lực của tầng lớp thống trị thời kỳ Hùng Vương dựng nước.

    Chiêrống đồng đẹp nhất văn hóa Đông Sơn

    Có thể nói trống đồng Ngọc Lũ I là một kiệt tác được sáng tạo trong thời kỳ cực thịnh của văn hóa Đông Sơn. Hiện vật lịch sử mang tính biểu tượng của văn hóa dân tộc này đã được công nhận là bảo vật quốc gia của Việt Nam.

    Theo KIẾN THỨC

  • Phu Văn Lâu, di tích được in trên tờ tiền 50.000 Đồng

    Được coi như một trong những biểu tượng của Cố đô Huế, hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000 phát hành năm 2003.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Nằm trên trục chính của Hoàng thành Huế, ở phía trước Kỳ Đài và phía sau Nghênh Lương Đình, Phu Văn Lâu là một công trình kiến trúc đặc sắc trong quần thể kiến trúc Cố đô.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tên gọi Phu Văn Lâu nghĩa là cái lầu trưng bày văn thư của triều đình, Côn trình được xây dựng vào năm 1819 dưới thời vua Gia Long để dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Đây là một tòa lầu hai tầng hai tầng duyên dáng, cao 11,67m, có hệ thống lan can bao xung quanh. Công trình được chống đỡ bằng 16 cột sơn màu đỏ sậm, gồm 4 cột chính xuyên suốt cả hai tầng, 12 cột quân.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Mặt trước và hai mặt bên của Phu Văn Lâu có bậc cấp dẫn lên nền tầng dưới. Bấc cấp phía trước có lan can hình rồng.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Không gian tầng dưới Phu Văn Lâu hoàn toàn để trống, có cầu thang dấn lên tầng trên, bên ngoài có lan can bằng bê tông.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tầng hai có bốn mặt đều dựng đố bản, kiểu đồ lụa khung tranh, mặt trước có cửa sổ chữ nhật, hai bên trổ cửa sổ tròn, lan can bên ngoài bằng gỗ. Trên của sổ mặt tiền có treo hoành phi sơn son thếp vàng, trang trí dây lá cách điệu “lưỡng long triều nguyệt”.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Mái phu văn lâu lợp ngói ống tráng men vàng.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Hai bên mặt trước Phu Văn Lâu có đặt hai khẩu súng thần công nhỏ bằng đồng hướng vào nhau.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Dưới thời vua Thiệu Trị, triều đình cho dựng ở hai bên hai tấm bia đá khắc 4 chữ “khuynh cái hạ mã”, nghĩa là ai đi qua đều phải cởi mũ và xuống ngựa.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Gần bên phải Phu Văn Lâu còn có tấm bia trên khắc bài thơ “Hương giang hiểu phiếm” nói về cảnh đẹp của sông Hương, cũng được dựng dưới thời vua Thiệu Trị.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Không chỉ là nơi niêm yết văn bản, Phu Văn Lâu còn là nơi diễn ra nhiều hoạt động khác của triều đình.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Năm 1829, vua Minh Mạng dùng nơi đây làm địa điểm tổ chức cuộc đấu giữa voi và hổ. Năm 1830, nhà vua dùng Phu Văn Lâu làm nơi tổ chức cuộc vui chơi yến tiệc suốt 3 ngày để mừng sinh nhật của mình.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Trong gần 200 năm tồn tại, Phu Văn Lâu được trùng tu khoảng 10 lần, lần sớm nhất vào năm 1905, lần gần đây là vào năm 2015-2016, sau khi một phần cồng trình bị sụp đổ do mối mọt năm 2014.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tuy đã được tu bổ nhiều lần nhưng công trình vẫn giữ nguyên cốt cách đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Được coi như một trong những biểu tượng của Cố đô Huế, hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000 đồng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành từ năm 2003.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Một số hình ảnh khác về Phu Văn Lâu.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Theo KIẾN THỨC

  • Vẻ đẹp kỳ vĩ của vịnh Vũng Rô

    Vẻ đẹp kỳ vĩ của vịnh Vũng Rô

    Do được bao quanh bởi ba dãy núi cao hiểm trở, vịnh Vũng Rô của Phú Yên là nơi có khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ khiến lòng người ngây ngất.

    Auto Draft

    Thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên, vịnh Vũng Rô là một thắng cảnh nổi tiếng của khu vực Nam Trung Bộ.

    Auto Draft

    Vịnh có diện tích 16,4 km² mặt nước, nằm tiếp giáp với biển Đại Lãnh thuộc vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa, được ba dãy núi cao che chắn là Đèo Cả, Đá Bia và Hòn Bà từ ba phía Bắc, Đông và Tây.

    Auto Draft

    Do được bao quanh bởi những dãy núi cao hiểm trở, vịnh Vũng Rô là nơi có khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ khiến lòng người ngây ngất.

    Auto Draft

    Phía Nam vịnh là đảo Hòn Nưa cao 105 m với những vách đá dựng đứng như một pháo đài. Trên đảo có ngọn đèn biển lớn.

    Auto Draft

    Ven bờ vịnh Vũng Rô có nhiều bãi cát vừa và nhỏ, trong đó có một số bãi đẹp như Bãi Chùa, Bãi Bàng, Bãi Lau.

    Auto Draft

    Trong lòng vịnh có nhiều loại tôm cá trú ngụ, là cơ sở cho sự phát triển của nghề nuôi trồng, đánh bắt hải sản ở nơi đây,

    Auto Draft

    Sự hiện diện với mật độ lớn của các nhà bè nuôi cá làm nên nét đặc trưng của vịnh Vũng Rô so với so với các vịnh biển khác ở Việt Nam.

    Auto Draft

    Không chỉ là thắng cảnh đẹp, vịnh Vũng Rô còn là một di tích lịch sử gắn với huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển.

    Auto Draft

    Từ năm 1964 – 1965, vịnh là địa chỉ tiếp nhận vũ khí bí mật từ miền Bắc chuyển vào Nam qua những chuyến tàu không số lịch sử.

    Auto Draft

    Trong giai đoạn này, Vũng Rô đã tiếp nhận bốn chuyến tàu cập bến an toàn, đưa được hàng ngàn tấn vũ khí đạn dược chi viện cho chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

    Auto Draft

    Ngày nay, tận dụng cảnh quan và vị trí địa lý thuận lợi của vịnh, nhiều loại hình du lịch đã được phát triển như tắm biển, thưởng thức hải sản ở nhà bè, khám phá vịnh bằng ca nô, lặn ngắm san hô…

    Auto Draft

    Ngoài tiềm năng du lịch, vịnh Vũng Rô là một trong ba địa điểm có điều kiện tự nhiên tốt nhất tại Việt Nam để xây dựng cảng biển lớn, bên cạnh vịnh Cam Ranh và vịnh Vân Phong của tỉnh Khánh Hòa.

    Auto Draft

    Nhằm khai thác lợi thế này, cảng Vũng Rô và khu kinh tế Nam Phú Yên đã được thành lập.

    Auto Draft

    Một số hình ảnh khác về vịnh Vũng Rô.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Theo KIẾN THỨC

  • Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Chuyên trang ẩm thực Việt Viet Street Food đã đăng tải những hình ảnh rất hấp dẫn kèm theo lời giới thiệu về các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Phở tất nhiên sẽ là món ăn đầu tiên được nhắc đến. Món ăn này xuất xứ từ miền Bắc Việt Nam, nhưng đã được đưa vào miền Nam và trở nên nổi tiếng toàn cầu.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Cơm tấm là món ăn đặc trưng của miền Nam, có thành phần chính là cơm nấu bằng hạt gạo vỡ ăn với chả, trứng, thịt, nước mắm và nhiều loại thức ăn khác kèm theo.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Xôi là món quà sáng tuyệt với nấu từ gạo nếp, có nhiều loại khác nhau tùy theo vùng miền. Trong ảnh là xôi ngô ngọt kiểu miền Bắc.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Xôi trắng ăn với thịt gà xé nhỏ.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Xôi ngọt phong cách miền Nam.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bánh mỳ cũng là một món ăn nổi tiếng thế giới của Việt Nam, trong đó ngon nhất phải kể đến bánh mỳ Sài Gòn. Nó gồm một chiếc bánh nhồi đủ thứ bên trong như giăm bông, pa tê, rau, dưa chua v..v.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bún là tên gọi chung của những món ăn có thành phần chính là sợi bún, làm bằng bột gạo. Có rất nhiều loại bún khác nhau, trong đó bún chả hay bún thịt nướng (trong ảnh) là một trong những loại được ưa thích nhất.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bún bò Huế có hương vị đậm đà và khá cay.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bún riêu cũng rất phổ biến, với hương vị đặc trưng của thịt cua và nước dùng có vị chua.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Cùng là một món ăn, nhưng có hai phiên bản khác nhau ở hai miền, đó là bánh ướt miền Nam và bánh cuốn miền Bắc. Món ăn này làm từ bột gạo tráng mỏng, hấp lên và cuộn lại. Trong ảnh là bánh ướt miền Nam, thường được phục vụ trong các xe đẩy trên đường phố.

    Auto Draft

    Bánh cuốn miền Bắc khác ở chỗ có thêm nhân thịt lợn băm.

    Auto Draft

    Gỏi (nộm) bò là món ăn vặt được ưa thích, có thành phần chính là đu đủ thái sợi ngâm dấm cay, ăn cùng lạc, rau sống, thịt bò…

    Auto Draft

    Bánh canh là một loại mỳ sợi lớn, có xuất xứ từ miền Trung, ngày nay rất phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Trong ảnh là bánh canh cua kiểu Huế.

    Auto Draft

    Gỏi (nem) cuốn được đánh giá là 1 trong 50 món ăn ngon nhất thế giới. Nó gồm các thành phần khác nhau như bún, thịt lợn, tôm, rau, trứng… cuộn trong một tấm bánh tráng.

  • Phục chế ảnh màu tuyệt đẹp về xứ Nam Kỳ năm 1946

    Dinh xã Tây ở Sài Gòn, Chùa Khmer Trà Vinh, tháp Hồi giáo Châu Đốc… là những hình ảnh tô màu hiếm có về xứ Nam Kỳ năm 1946 của người Pháp.

    Auto Draft

    Kênh Hàng Bàng (rạch Bãi Sậy) ở Chợ Lớn.

    Auto Draft

    Dinh xã Tây ở Sài Gòn, nay là Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

    Auto Draft

    Trong Thảo Cầm Viên ở Sài Gòn năm 1946.

    Auto Draft

    Bên ngoài khu điện thờ ở lăng Ông Bà Chiểu (lăng Lê Văn Duyệt), Sài Gòn.

    Auto Draft

    Đường Catinat ở Sài Gòn, nay là đường Đồng Khởi.

    Auto Draft

    Cổng chợ Củ Chi.

    Auto Draft

    Thảo nguyên sông La Ngà, Đồng Nai.

    Auto Draft

    Tháp cổ Bình Thạnh của văn hóa Óc Eo ở Trảng Bàng, Tây Ninh.

    Auto Draft

    Chùa Ông Mẹt (chùa Bodhisálaràja) của người Khmer ở Trà Vinh.

    Auto Draft

    Tháp giáo đường Hồi giáo (minaret) của người Chăm ở Châu Đốc, An Giang.

    Auto Draft

    Hai phụ nữ người Chăm Nam Bộ.

    Auto Draft

    Chợ cá Sóc Trăng.

    Theo KIẾN THỨC

  • Vua Bảo Đại về nước sau 10 năm du học ở Pháp

    Vua Bảo Đại về nước sau 10 năm du học ở Pháp

    Sau 10 năm du học ở Pháp, ngày 16/8/1932, vua Bảo Đại xuống tàu về nước. Ngày 8/9/1932 tàu chở vua về đến Đà Nẵng…Auto Draft

    Auto Draft

    Bộ ảnh vua Bảo Đại về nước gồm 40 tấm, do tiệm ảnh Thanh Ba ở Huế thực hiện.

    Auto Draft

    Đám đông đang chờ tàu Alerte chở vua Bảo Đại cập bến Đà Nẵng, 8/9/1932. Tên gọi chính thức của thành phố khi đó là Tourane.

    Auto Draft

    Đám đông quan sát tàu Alerte tiến vào cảng Đà Nẵng.

    Auto Draft

    Tàu Alerte khi chuẩn bị cập bến.

    Auto Draft

    Các thủy thủ neo tàu vào cảng.

    Auto Draft

    Hoàng đế Bảo Đại xuống tàu trên cầu tàu được trang hoàng.

    Auto Draft

    Hoàng đế Bảo Đại đi qua cầu tàu cùng đoàn tùy tùng.

    Auto Draft

    Toàn cảnh cầu tàu nhìn từ xa.

    Auto Draft

    Vua Bảo Đại bước ra từ cầu tàu.

    Auto Draft

    Vua Bảo Đại bước ra từ cầu tàu.

    Auto Draft

    Từ cảng, vua sẽ đến Tòa thị chính Đà Nẵng.

    Auto Draft

    Quan chức Pháp ra đón vua Bảo Đại trước Tòa thị chính.

    Auto Draft

    Quan chức Pháp ra đón vua Bảo Đại trước Tòa thị chính.

    Auto Draft

    Từ phía trước Tòa thị chính Đà Nẵng, hoàng đế Bảo Đại lên đường đi Huế bằng đoàn tàu hỏa đặc biệt.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương đến Huế. Đội quân danh dự tập trung trước nhà ga Huế để đón vua.

    Auto Draft

    Khâm sứ Pháp đến nhà ga.

    Auto Draft

    Cuộc gặp của vua Bảo Đại với ông Toàn quyền.

    Auto Draft

    Cuộc gặp của vua Bảo Đại với ông Toàn quyền.

    Auto Draft

    Cuộc gặp của vua Bảo Đại với ông Toàn quyền.

    Auto Draft

    Toàn quyền tiễn vua Bảo Đại ra xe.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương rời ga.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương bước vào xe của mình.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương đã lên xe.

    Auto Draft

    Hoàng thành Huế (phía sau Ngọ Môn) thời điểm vua Bảo Đại trở về.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương viếng thăm vua Bảo Đại tại điện Cần Chánh ở Hoàng thành.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương viếng thăm vua Bảo Đại tại điện Cần Chánh ở Hoàng thành.

    Auto Draft

    Nghi lễ Đại bái để đón mừng vua về tại điện Thái Hòa ở Hoàng thành.

    Auto Draft

    Binh lính Pháp chào Toàn quyền Đông Dương theo nghi thức nhà binh trước Ngọ Môn.

    Auto Draft

    Quan toàn quyền và binh lính Pháp thực hiện nghi thức chào cờ và hát quốc ca Pháp ở trước Ngọ Môn.

    Auto Draft

    Quan toàn quyền và binh lính Pháp thực hiện nghi thức chào cờ và hát quốc ca Pháp ở trước Ngọ Môn.

    Auto Draft

    Hoàng đế Bảo Đại bước ra từ Ngọ Môn để tham gia lễ trao tặng huân chương cho những người có công.

    Auto Draft

    Những người được ban thưởng đứng thành hàng diện kiến hoàng đế.

    Auto Draft

    Những người được ban thưởng đứng thành hàng diện kiến hoàng đế.

    Auto Draft

    Hoàng đế Bảo Đại trao huân chương cho người đại diện.

    Auto Draft

    Sĩ quan Pháp nhận huân chương từ cấp trên.

    Auto Draft

    Sĩ quan Pháp nhận huân chương từ cấp trên.

    Auto Draft

    Lính Pháp đứng trước Kỳ đài của Hoàng thành Huế để chuẩn bị cho buổi duyệt binh.

    Auto Draft

    Thủy quân lục chiến Pháp trong buổi duyệt binh.

    Auto Draft

    Bộ binh thuộc địa trong buổi duyệt binh.

    Auto Draft

    Xe tăng Pháp trong buổi duyệt binh.

    Auto Draft

    Lính xe tăng Pháp bên những chiếc xe tăng của mình.

    Theo KIẾN THỨC

  • “Thảm họa Titanic” phiên bản Việt Nam vào năm 1924

    Các tư liệu lịch sử của nước Pháp đã ghi nhận rất nhiều vụ đắm tàu dọc theo bờ biển của Việt Nam thời thuộc địa. Hầu hết các vụ việc này đều không được chú ý vì hiếm khi có người Pháp gặp nạn, và đây là chuyện thường xảy ra ở vùng biển nhiều bão tố của Việt Nam.

    Nhưng thảm họa của tàu con hơi nước mang tên “Hải Phòng” năm 1924 lại là một ngoại lệ đặc biệt vì mức độ thảm khốc của nó.

    Tàu “Hải Phòng” được đóng vào năm 1885 ở xưởng La Ciotat với chiều dài 89 mét dài, tốc độ di chuyển đạt 15 hải lý (28 km một giờ). Sau 38 năm chuyên chở hành khách và hàng hóa ở Đông Dương, nó đã trở nên xuống cấp và được đưa vào danh sách loại bỏ.

    Thảm họa Titanic phiên bản Việt Nam vào năm 1924
    Tàu “Hải Phòng”.

     

    Tuy vậy, sự thiếu hụt của tàu thuyền tại Đông Dương thời điểm này đã khiến con tàu cũ kỹ lọt vào mắt xanh của một công ty Trung Quốc có tên Bay A. Con tàu được công ty này mua lại với ý định tiếp tục khai thác.

    Nhưng người chủ tàu đã gặp phải trở ngại khi con tàu hai lần bị văn phòng kiểm định tại địa phương từ chối cấp phép hoạt động. Cuối cùng, nó cũng được cấp phép từ một văn phòng khác.

    Với thủy thủ đoàn chủ yếu là người Hoa, con tàu rời Sài Gòn 27/11/1904 và khó nhọc cập bến Qui Nhơn sau 6 ngày hành trình, thay vì 2 ngày như những con tàu khác. Tình trạng của nó thật sự tồi tệ, bánh lái bị méo, nhiều cánh quạt trong buồng máy bị mất, hàng hóa sắp xếp tràn lan, xăng dầu rò rỉ tỏa ra mùi vô cùng khó chịu đối với hành khách. Một sự thật khủng khiếp là 170 tấn xăng dầu đã được chứa trong chiếc bồn bị thủng và chắp vá bằng xi măng.

    Không nhận được bất cứ một sự sửa chữa nào, con tàu tiếp tục khởi hành đến Đà Nẵng ngày hôm sau. Và đó là thông tin cuối cùng mà người ta biết được về nó.

    Trên con tàu “Hải Phòng” hoàn toàn không có các thiết bị thông tin liên lạc và cứu hộ. Nó đã mất tích trên quãng đường từ Quy Nhơn về Đà Nẵng.

    Con tàu đã bị nhấn chìm bởi một cơn bão? Hay xăng dầu rò rỉ đã bốc cháy và thiêu rụi nó? Nguyên nhân của vụ tai nạn đến bây giờ vẫn là ẩn số. Nhưng hậu quả của nó thì vô cùng khủng khiếp: 140 người đã chết, gồm 128 người Việt và Hoa, 12 người Pháp. Không có một ai trên con tàu được xác nhận là còn sống sót.

    Thảm họa này đã làm chấn động dư luận Pháp và Đông Dương, dẫn đến việc Bộ trưởng Bộ thuộc địa của Pháp ở Đông Dương bị bắt hai tháng sau đó. Vụ việc cũng buộc chính quyền Pháp phải đặt ra các quy định gắt gao trong việc kiểm định và cấp phép cho những con tàu chở khách để tránh những thảm họa tương tự xảy ra trong tương lai.

    Theo KIẾN THỨC / BELLE INDOCHINA

  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những câu nói để đời

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những câu nói để đời

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh là vị tu sĩ Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên thế giới, những câu nói của thầy luôn có giá trị cao

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh là vị tu sĩ Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên thế giới, những câu nói của thầy luôn có giá trị cao
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh là vị tu sĩ Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên thế giới

    “Nhiều người nghĩ rằng sự phấn khích là hạnh phúc… Nhưng khi bạn đang phấn khích, bạn không bình yên. Hạnh phúc thật sự được dựa trên sự bình yên”.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những câu nói để đời

    “Đôi khi niềm vui của bạn là nguồn gốc của nụ cười của bạn, nhưng đôi khi nụ cười của bạn có thể là nguồn gốc của niềm vui của bạn”.

    “Mọi người thường xem xét việc đi trên mặt nước hoặc trong không khí mỏng một phép lạ. Nhưng tôi nghĩ rằng phép lạ thực sự không phải là đi bộ hoặc nước hoặc trong không khí, mà là bước đi trên trái đất. Mỗi ngày chúng ta đang tham gia vào một phép lạ mà chúng ta thậm chí không nhận ra: một bầu trời xanh, mây trắng, lá xanh, màu đen từ đôi mắt tò mò của một đứa trẻ – đôi mắt của chính chúng ta. Tất cả là một phép lạ. “

    “Hãy mỉm cười, hít thở và đi từ từ”.

    “Bởi vì bạn đang sống, tất cả mọi thứ là có thể”.

    “Thức dậy buổi sáng này, tôi mỉm cười. Hai mươi bốn giờ mới trước mắt tôi. Tôi nguyện sống trọn vẹn trong từng thời điểm và xem xét tất cả chúng sinh với đôi mắt của lòng từ bi. “

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những câu nói để đời

    “Thông qua tình yêu của tôi dành cho bạn, tôi muốn bày tỏ tình yêu của tôi đối với toàn bộ vũ trụ, toàn bộ nhân loại, và tất cả chúng. Bằng cách sống chung với bạn, tôi muốn tìm hiểu để yêu thương tất cả mọi người và mọi loài. Nếu tôi thành công trong yêu thương bạn, tôi sẽ có thể yêu thương tất cả mọi người và tất cả các loài trên trái đất … Đây là thông điệp thực sự của tình yêu. “

    “Cuộc sống chỉ có trong giây phút hiện tại”.

    “Cảm giác đến và đi như những đám mây trên bầu trời lộng gió. Ý thức về hơi thở là nơi nương tựa của tôi. “

    “Hy vọng là quan trọng bởi vì nó có thể làm cho giây phút hiện tại không khó để chịu đựng. Nếu chúng ta tin rằng ngày mai sẽ tốt hơn, chúng ta có thể chịu đựng khó khăn hôm nay. “

    “Nhiều người nghĩ rằng sự phấn khích là hạnh phúc… Nhưng khi bạn đang phấn khích, bạn không bình yên. Hạnh phúc thật sự được dựa trên sự bình yên. “

    “Uống trà của bạn từ từ và cung kính, như thể nó là trục trái đất trên thế giới xoay chậm, đều, không vội vã hướng tới tương lai”.

    “Đi bộ như thể bạn đang hôn trái đất với bàn chân của mình”.

    “Tôi hứa với bản thân mình rằng tôi sẽ tận hưởng từng phút của ngày hôm đó cho tôi sống”.

    “Giữ cơ thể khỏe mạnh là một biểu hiện của lòng biết ơn đối với toàn bộ vũ trụ – những cây, những đám mây, tất cả mọi thứ”

    “Quá khứ đã qua, tương lai thì chưa đến, và nếu chúng ta không quay trở lại với chính bản thân mình trong thời điểm hiện tại, chúng ta không thể bắt nhịp với cuộc sống”.

    “Nếu bạn yêu ai đó, món quà quí nhất bạn có thể tặng họ là sự có mặt của mình”.

    “Từ bi là một động từ”.

    “Vì bạn cười, bạn làm cuộc sống này đẹp hơn”.

    “Người ta nói rằng Thiên Chúa đã tạo ra người đàn ông trong hình ảnh của mình. Nhưng sự thật có thể là nhân loại đã tạo ra Thiên Chúa trong hình ảnh của nhân loại. “

    “Sự hiểu biết có nghĩa là vứt đi kiến thức của bạn”.

    S.T

     

  • Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu Mỹ

    Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu Mỹ

    Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm, người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ.

    Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.

    Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hoà Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.

    Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu MỹTuy không phải sứ giả, nhưng Lê Kim đến Hoa Kỳ trước Bùi Viện 20 năm
    .

    Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về thành phố Xanh–Phát–Lan–Xích–Cố (phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờDaily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.

    Trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.

    Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là từ ngữ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.

    Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu Mỹ

    .
    Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.

    Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.

    Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu Mỹ
    Ở Hoa Kỳ, Lê Kim vừa tìm vàng, vừa làm nhà báo và được một nhà văn viết trong cuốn “Đổ xô đi tìm vàng”.

    Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.

    Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.

    Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.

    Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.

    Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.

    Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.

    Người Minh Hương cầm quân chống Pháp

    Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương.

    Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.

    Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: “Gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về”, Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.

    Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi Pháp xâm lược Việt Nam. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi.

    Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu MỹDi tích làng Xuân Lũng – quê gốc Lê Kim.

    Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăng trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối:

    “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
    Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.

    Ghi công ông, hiện ở phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm nối phố Nguyễn Xiển với phố Mạc Hiển Tích.


    Cuộc đời sinh động và bi hùng của Trần Trọng Khiêm được hai nhà văn hư cấu nghệ thuật trong hai cuốn tiểu thuyết có nhan đề: La rueé vers l’or(Đổ xô đi tìm vàng) của Rene Lefebre (Nhà Xuất bản Dumas, 1937) và Con đường thiên lý của Nguyễn Hiến Lê (năm 1972).

    Con đường Thiên lý
  • 4 chiếc ấn tín độc nhất triều Nguyễn

    4 chiếc ấn tín độc nhất triều Nguyễn

    Trong 143 năm tồn tại của mình, nhà Nguyễn cũng như các vương triều trước đó đều coi ấn tín biểu thị cho quyền lực tối cao, là báu vật của quốc gia và tượng trưng cho đế quyền. Triều Nguyễn đã cho làm hơn 100 chiếc ấn báu, có rất nhiều loại ấn tín khác nhau từ hình dáng đến họa tiết, chất liệu… Rất nhiều trong số đó là những ấn tín độc đáo có một không hai.

    1. Vua Minh Mạng và những chiếc ấn ngọc “tình cờ có được”

    Điển hình nhất, có giá trị cao nhất là loại ấn tín của hoàng đế được gọi chung là “Kim ngọc Bảo tỷ”. Kim Ngọc Bảo tỷ là những ấn của nhà vua dùng trong trường hợp danh nghĩa quốc gia trọng đại hay được đóng trên các văn bản quan trọng. Những loại ấn này nếu được làm bằng ngọc gọi là “Ngọc tỷ”, được đúc bằng vàng gọi là “Kim Bảo tỷ”.

    Vua Minh Mạng trong thời gian ở ngôi đã cho làm nhiều loại ấn tín bằng các chất liệu khác nhau với mục đích sử dụng cụ thể. Ngoài ra trong số ấn tín của vua lại có những chiếc ấn có được một cách tình cờ. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết vào năm Mậu Tý (1828) “có người ở Quảng Trị là Nguyễn Đăng Khoa, được viên ngọc tỷ đem vào dâng vua, trong có khắc bốn chữ: “Vạn thọ vô cương” bằng lối chữ triện.”

    4 chiếc ấn tín độc nhất Việt Nam
    Ngọc tỷ khắc chữ “Vạn Thọ vô cương” của vua Minh Mạng. (Ảnh: Doanhdoanh)

    Các quan đều tâu mừng rằng: “Đây là điềm đức Hoàng thượng thọ khảo và phúc quốc gia vô cương vậy!”. Nhà vua đem việc ấy mà dụ các quan rằng: “Khi trẫm mới lên ngôi, người ở Long triều đã từng dâng ngọc tỷ khắc bốn chữ: “Trung hòa vị dục”, nay lại được ngọc tỷ này, xem nghĩa bốn chữ ấy thì có lẽ là bảo vật của triều trước di truyền, để lâu ngày mờ ám nên chưa biết rõ”.

    Về sau người ở Đông Trì, tỉnh Thừa Thiên là Hoàng Nghĩa Thắng đào được một ngọc tỷ đem dâng, trong có khắc bốn chữ nổi là: “Phong cương vạn thổ”.

    4 chiếc ấn tín độc nhất Việt Nam
    Phong cương vạn cổ được làm bằng loại bích ngọc, quai núm vuông, 4 mặt vát hình thang chạm khắc 2 hàng hồi văn chữ S, 4 phía thành hình chữ nhật. (Ảnh: Internet)

    Trên mặt núm vuông chạm hình rồng. Mặt ấn chạm 4 chữ Triện: Phong cương vạn cổ. Ấn này không thấy ghi chép trong sách vở nào nhưng rất cổ kính và độc đáo.

    Sách Quốc sử di biên cũng cho biết như sau: “Lấy được ấn ngọc ở Quảng Bình. Tôn Thất Sưởng bắt được ở xã Nhan Biều, trấn Quảng Bình, ấn có bốn chữ “Vạn thọ vô cương”. Chiếu cho dùng ấn ngọc này đóng vào tờ ấn chiếu tiết Vạn Thọ. Trước có 6 ấn ngọc như “Quốc gia tín bảo”, “Trị lịch minh thời”.v.v…, đến đây, tăng thêm 6 ấn ngọc nữa là “Hoàng đế chi tỷ”, “Tôn nhân chi tỷ”, “Khâm văn”, “Duệ vũ”, “Sắc chánh vạn dân” và “Thảo tội an dân”, cộng với 6 ấn cũ thành 12 ấn ngọc, đều tùy việc mà dùng”.

    2. Chiếc ấn báu của vua Thiệu Trị được làm từ một viên ngọc cực quý hiếm

    Theo sử sách ghi lại, vào năm Bính Ngọ niên hiệu Thiệu Trị thứ 6 (1846) có người dân trong khi tìm vàng và đá quý ở núi Ngọc, huyện Hòa Điền, vùng đất Quảng Nam đã đào được một viên ngọc cực lớn, ánh sắc rực rỡ vô cùng bèn dâng vua. Thấy đây là viên ngọc quý hiếm, vua Thiệu Trị rất mừng cho là điềm may mắn liền sai quan Hữu tư mang đi mài dũa, chế tác làm thành quả ấn.

    4 chiếc ấn tín độc nhất Việt Nam
    Ấn ngọc “Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ”. (Ảnh: Internet)

    Sau thời gian một năm trời bỏ công sức, trổ hết tài năng, thợ khắc đã chế tác xong chiếc ấn dâng lên, vua Thiệu Trị xem thấy ngọc tỉ cứng rắn, đẹp đẽ, ôn nhuận sáng sủa, trên núm ấn là hình rồng uốn khúc, cao hơn 4 tấc, mặt hình dấu khắc theo hình vuông, kích thước 3,1×3,1cm. Nhà vua cũng quyết định chọn thời điểm đẹp, ngày tốt là ngày 15 tháng 3 năm Đinh Mùi (1847), tổ chức việc khắc chữ triện vào Ngọc tỉ đúng theo nghi lễ.

    Hôm đó vua Thiệu Trị đích thân làm lễ Đại tự, thỉnh mệnh trời đất, kính yết Tổ khảo giúp vận nước lâu dài, và khắc lên mặt ấn ngọc 9 chữ Triện: “Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỉ” (Ngọc Tỷ truyền quốc của nước Đại Nam, nhận mệnh lâu dài từ trời)Nghi lễ xong xuôi, vua lệnh cho các cung giám phụng mang cất giữ cẩn thận ở điện Trung Hòa trong Càn Thành.

    Với bảo ấn đó, vua Thiệu Trị cho dùng đóng trên những bản sắc mệnh ban cho các nước chư hầu, những việc ban bố cho thiên hạ và nó được coi trọng bảo vệ như Kim bảo “Nam Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn tri bảo” được đúc theo lệnh của chúa của Minh Vương Nguyễn Phúc Chu và truyền lại sử dụng trong thời gian cầm quyền của các chúa Nguyễn sau đó.

    4 chiếc ấn tín độc nhất Việt Nam
    (Ảnh: Internet)

    3. Vua Đồng Khánh và chiếc ấn làm từ “thiên thạch”

    Để tỏ ý thân thiện hữu hảo với vua Đồng Khánh, chính phủ Pháp một món quà rất đặc biệt. “Đối với một vị con Trời như vua Đồng Khánh, không gì hay hơn là nên tặng vua một bảo vật đến từ trời. Vậy, tôi xin yêu cầu chính phủ xứ ta hãy cố tìm cho ra một thiên thạch, sau đó hãy khắc và tiện nó ra thành một cái ấn qúy”, Stanislas Meunier – nhà địa chất học, khoáng vật học, nhà báo khoa học- đã cố vấn cho Tổng thống Pháp và nhận trọng trách đi tìm báu vật.

    4 chiếc ấn tín độc nhất Việt Nam
    Viên thiên thạch ‘trong mơ’ ấy cuối cùng cũng đã được tìm thấy tại thành phố Vienne – Áo. (Ảnh minh hoạ: Internet)

    Stanislas Meunier đã phải khắp các nơi để tìm một thiên thạch vừa ý, cuối cùng, tại thành phố Vienne (Áo), ông mới mua được một khối đá đã rơi xuống trái đất vào ngày 30/1/1868 tại Pultusk (Ba Lan). Thiên thạch này không bị nứt nẻ, có dáng đẹp mắt, kích thước thích hợp. Ông mừng quá và mang về giao cho thợ kim hoàn chế tạo. Mặt ấn bằng vàng ròng, có khắc chữ: “Le gouvernement de la République Française à S. M. Dong-Khanh, roi d’Annam” (Chính phủ cộng hoà Pháp tặng vua Đồng Khánh, quốc vương xứ An Nam).

    4 chiếc ấn tín độc nhất Việt Nam
    Chiếc ấn của chính phủ Pháp tặng vua Đồng Khánh và mặt ấn. (Ảnh: Sachxua)

    Theo sách “Đồng Khánh chính yếu”, món quà này được gửi tới vua Đồng Khánh vào tháng 12 năm Đinh Hợi (1887). Khi nhận được chiếc ấn ngọc được gọi là Kim tinh hắc hỏa, vua đã viết thư cảm ơn chính phủ Pháp sau đó ban hành tờ cáo dụ cho toàn dân được biết.

    4. Chiếc ấn báu nặng nhất thuộc về vị vua cuối cùng Bảo Đại – 10,7kg

    Chiếc ấn quan trọng nhất, biểu tượng cho hoàng đế là ấn Hoàng đế chi bảo. Chiếc bảo ấn lớn và đẹp nhất Triều Nguyễn này được đúc bằng vàng ròng vào mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ tư (15-3-1823). Căn cứ theo ảnh tư liệu có được, TS. Phan Thanh Hải – Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, mô tả bảo ấn này như sau:

    4 chiếc ấn tín độc nhất Việt Nam
    Ấn Hoàng Đế chi bảo nặng nhất (10,7kg vàng) hiện đang ở tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. (Ảnh: Internet)

    … Ấn đúc hình vuông, quai ấn là một con rồng uốn khúc, đầu ngẩng cao, mắt nhìn thẳng về phía trước. Đỉnh đầu rồng khắc hình chữ vương; kỳ (vây lưng) dựng đứng; đuôi cũng dựng đứng, vây đuôi uốn cong về phía trước; 4 chân rồng đúc rõ 5 móng, tư thế chống chân xuống mặt ấn rất vững vàng. Mặt dưới của ấn khắc 4 chữ triện Hoàng đế chi bảo. Mặt trên của ấn, phía 2 bên quai khắc nổi 2 dòng chữ: Minh Mạng tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo (đúc vào giờ tốt mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4); Thập thành hoàng kim, trọng nhị bách thập lạng cửu tiền nhị phân (đúc bằng vàng, trọng lượng 280 lạng 9 chỉ 2 phân – Nếu tính 27 lạng tương đương 1kg thì chiếc ấn này nặng khoảng 10,7kg)”.

    Theo quy định của Triều Nguyễn, ấn Hoàng đế chi bảo chỉ dùng khi “…gặp khánh tiết ban ơn, đại xá thiên hạ cũng là các cáo dụ thân huân, đi tuần thú các nơi để xem xét các địa phương, mọi điển lễ long trọng ấy, và ban sắc, thư cho ngoại quốc”.

    4 chiếc ấn tín độc nhất Việt Nam
    Kim Ngọc Bảo Tỷ “Sắc mệnh chi bảo” thời vua Minh Mạng (Ảnh chụp lại từ sách “Kim Ngọc Bảo Tỷ của hoàng đế và vương hậu triều Nguyễn Việt Nam”).

    Ánh Trăng tổng hợp

  • Vua Hùng tên thật là gì?

    Vua Hùng tên thật là gì?

    Vua Hùng tên thật là gì?

    1. Hùng và Lạc

    Chữ Hùng (雄: trong Hùng vương, Hùng điền) hay chữ Lạc (雒: trong Lạc vương, Lạc điền, Lạc hầu, Lạc tướng) chữ nào có trước?

    Chữ Lạc có trước, xuất hiện trong văn bản Giao Châu ngoại vực kí [交州外域記, Jiaozhou waiyu ji]. Cụ thể như sau:

    交州外域記曰,交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民。設雒王雒侯主諸郡縣。縣多為雒將。雒將銅印青綬。

    Giao châu ngoại vực kí viết: “Giao Chỉ tích vị hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền, kì điền tòng triều thủy thượng hạ/thướng há, dân khẩn thực kì điền, nhân danh vi lạc dân. Thiết lạc vương lạc hầu chủ chư quận huyện. Huyện đa vi lạc tướng. Lạc tướng đồng ấn thanh viện.”

    Giao châu ngoại vực kí nói rằng: ‘Jiaozhi/ Giao Chỉ thời xưa khi chưa có quận huyện, đất đai (thì) có ruộnglạc. Những ruộng này theo (sự) lên xuống của con nước, và người dân cày cấy lấy cái ăn [ở] ruộng đó vì thế được gọi là dân lạc. Đặt các ông hoàng lạc (lạc vương), các ông quanlạc (lạc hầu) cai quản ở các quận huyện. Nhiều huyện có tướng lạc (lạc tướng). Các tướng lạc có dấu đồng và dải xanh.’

    Chữ Hùng có sau, xuất hiện trong Nam Việt chí. Cụ thể như sau:

    交趾之地頗爲膏腴,徙民居之,始知播植,厥土惟黑壤,厥氣惟雄,故今稱其田為雄田,其民為雄民,有君長亦曰雄王,有輔佐焉亦曰雄侯,分其地以為雄將。(出南越志)

    Giao Chỉ chi địa phả vi cao du, tỉ dân cư chi, thủy tri bá thực, quyết thổ duy hắc nhưỡng, quyết khí duy hùng, cố kim xưng kì điền vi hùng điền, kì dân vi hùng dân, hữu quân trưởng diệc viết hùng vương, hữu phụ tá yên diệc viết hùng hầu, phân kì địa dĩ vi hùng tướng.

    Vùng đất Jiaozhi/ Giao Chỉ tương đối màu mỡ. Di dân đến sống ở đó, mới bắt đầu biết gieo trồng. Đất ở đây rặt là đất phì nhiêu đen. Khí ở đây mạnh (hùng). Cho nên bây giờ gọi những ruộng ở đây là ruộng hùng, dân ở đây là dân hùng. Có người lãnh đạo tối cao (quân trưởng) cũng gọi là vua hùng (hùng vương). Có những người phụ tá ông ấy [tức ông vuahùng] thì cũng gọi là quan hùng (hùng hầu). Chia đất ở đây để cho các tướng hùng (hùng tướng).

    2. Hùng hay Lạc

    Nam Việt chí ra đời sau Giao Châu ngoại vực ký hàng trăm năm. Quan trọng hơn, chữ Lạc (雒) chữ chỉ là để phiên âm từ tiếng Việt cổ qua chữ Hán cổ. Còn chữ Hùng (雄) là một chữ có nghĩa.

    3. Chữ Lạc từ đâu mà có

    Người Việt cổ không có họ. Tên đặt theo nghề. Đến đời Trần vẫn đặt tên theo nghề cá. Lần ngược lên thời Hai Bà, tên người được đặt theo nghề nuôi tằm (Trứng Chắc, Trứng Nhì, rồi được người Tàu văn bản hóa bằng hán tự, rồi được các nhà sử học ngày xưa của VN dịch về tiếng ta thành Trưng Trắc, Trưng Nhị. Có rất nhiều ví dụ về tên nôm của danh nhân được người Tàu hán tự hóa rồi dịch ngược ra tiếng ta. Ai đọc Tạ Chí Đại Trường sẽ nhớ trường hợp rất thú vị của Lý Thường Kiệt – Thằng Kặc. Ngay cả trong lịch sử cận đại, nhiều tên riêng do phiên âm qua chữ latin rồi sau này dịch ngược lại qua tiếng Việt cũng có những biến thể thú vị như Chí Hòa – Kỳ Hòa, Vũng Quýt – Dung Quất).

    Quay trở lại với văn bản Giao Châu ngoại vực ký đã nói ở trên, thời cổ người dân sống bằng nghề nông, trồng cây lạc, trên các thửa ruộng lạc, tưới tiêu bằng thủy lợi tự nhiên, dân sống trên ruộng lạc, gọi là dân lạc, thủ lĩnh của dân lạc gọi là lạc vương, dưới lạc vương là các lạc hầu, lạc tướng.

    Chữ lạc chính là chữ lúaRuộng lạc là ruộng lúaDân lạc là dân (trồng) lúa. Tiếng Việt cổ gọi lúa là lọ. Phiên âm qua tiếng Hán rồi phiên âm ngược lại tiếng Việt mà trở thành lạc.

    Người Mường (cùng ngôn ngữ với người Việt cổ) gọi lúa là lọ hoặc . Tục ngữ người Mường có câu “Cơm mường Vó, lọ mường Vang”.

    Qua bao năm lạc lối, tên riêng lúa của cha ông chúng ta, chạy qua bên Tàu, quay về với các nhà viết sử Việt thời cổ, lạc tiếp vài lần nữa, thành chữ lạc. Nay nhờ 5xu biết google nghiên cứu mà tìm ra nghĩa gốc của từ. Chúc mừng Vua Lúa (nước) tục gọi Hùng Vương. Chúng con xin trả tên đúng về cho cụ.

    (Nguồn: http://5xublog.org. Ngày 06/01/2012)