Author: Hình ảnh Việt Nam

  • KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Thời xưa trang phục thường được phân loại theo cách cắt của cổ áo thành ba dạng: đối lĩnh (tức giao lĩnh), trực lĩnh và bàn lĩnh.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Đối lĩnh (trái), Trực lĩnh (giữa) và Bàn lĩnh (phải). Trích từ ‘Trung Quốc cổ đại nhân vật phục thức dữ họa pháp’.

    – Đối lĩnh, hay giao lĩnh, có cổ cắt vạt chéo cài sang bên phải. Đây là lễ phục trang trọng nhất trong các lễ phục cổ truyền, được mặc trong các lễ tế. Cao cấp hơn cả của loại này là áo cổn ở trong cung, may bằng đoạn thất thể rất quý hiếm, thường được vua, quan mặc trong lễ tế Giao. Tay áo giao lĩnh cắt thụng, khi buông xuống dài bằng gấu áo. Các nước Đồng văn trọng Khổng giáo ở Á châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều có áo này. Dưới thời Nguyễn ở Việt Nam phụ nữ không mặc giao lĩnh. Hiện nay trong nhiều lễ tế đình ở các làng, xã, người mình vẫn mặc áo giao lĩnh.

    – Trực lĩnh, tức là áo có vạt xẻ dọc ở giữa thân trước. Lễ phục trực lĩnh trong cung thời nguyễn dành riêng cho các bà và gọi là áo mệnh phụ. Áo này không được vua quan, nam phái trong triều đình Việt Nam xử dụng. Trong khi đó các nam đạo sĩ Lão giáo bên Trung Quốc lại có mặc áo được cắt y hệt như áo mệnh phụ của phụ nữ Việt. Áo nhật bình của các sư sãi trong nước cũng thuộc dạng trực lĩnh. Lễ phục trực lĩnh cũng may rộng, xẻ bên, và có tay cắt thụng dài bằng gấu. Áo được xẻ vạt bên hông.

    – Bàn lĩnh, tức áo cắt cổ tròn, có hay không có cổ đứng đính liền, vạt cài sang phải. Lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ở nước ta trước đây. Ở trong cung áo này được cả nam lẫn nữ phái xử dụng dưới dạng long bào, phượng bào của vua, hoàng thái hậu, hoàng quý phi; và mãng bào của thân vương, hoàng tử và các quan. Các áo bào này được may bằng gấm thất thể hay ngũ thể quý hiếm, và có cổ tròn không đính cổ đứng. Áo rất rộng, xẻ bên. Tay cắt thụng dài bằng gấu áo. Áo được mặc trong các lễ đại triều, triều yến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Nhưng lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ngày xưa của người Việt, cả ở trong cung lẫn ngoài phố, là bàn lĩnh có cổ đứng, gọi là áo Tấc. Áo cũng cắt rộng, xẻ bên, với tay thụng dài bằng gấu, cài khuy bên phải như áo dài. Áo Tấc rất thông dụng, được mặc trong các lễ yết miếu, từ đường, việc hỷ, cũng như các việc thăm viếng quan trọng.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo Tấc

    Sử sách cận đại của Nguyễn triều ít khi đề cập đến triều phục của quan lại. Thảng hoặc mới có nhắc đến một vài đạo dụ liên quan đến vấn đề này. Thí dụ như dụ năm 1886 của vua Đồng Khánh, hay các đạo dụ 1920 và 1921 của vua Khải Định. Các đạo dụ này thật ra có chủ ý khiển trách các sự cẩu thả trong việc xử dụng triều phục, cũng như tiếm lạm trong mầu sắc trang phục của các quan thời bấy giờ. Thí dụ như thường dân dám mặc áo mầu chính hoàng. Rồi việc quan cấp dưới dám tiếm dụng sắc áo của hoàng tử, hoàng thân. Hay về việc vì công quỹ không đủ để tiếp tục cấp nhung phục cho các quan với các sắc mầu và hoa văn đúng theo lệ cổ, cho nên phải thay bằng các áo tứ linh mầu xanh lá cây cho văn ban và mầu huyền cho võ ban từ chánh nhị phẩm đến tòng tam phẩm (thực ra hai sắc vải này có vẻ đã được dùng để may áo chầu nhiều hơn là may nhung phục).

    Nhưng điều quan trọng là qua các đạo dụ này người ta biết thêm một loại lễ phục nữa trong triều đình, bên cạnh các áo lễ tay rộng (phổ phục) vẫn phổ biến như áo cổn, áo chầu. Đó là nhung phục. Nhung phục cũng được may rộng như phổ phục, với cùng loại vải, hoa văn và mầu sắc với áo chầu của người mặc. Nhưng nhung y có tay áo cắt chẽn như tay áo dài. Nói cách khác, nhung y là áo tấc tay hẹp.

    Áo cổn thuộc dạng giao lĩnh là loại lễ phục cao quý nhất, chỉ dùng trong lễ tế giao. Áo đại triều, hay áo chầu, được mặc trong các dịp đại triều nghi vào các ngày 1 và 15 âm lịch tại điện Thái Hòa. Áo thường triều được xử dụng khi chầu vua trong các ngày 5, 10, 20 và 25 mỗi tháng tại điện Cần Chánh. Nhung phục được ban cho các ấn quan để mặc khi thù tiếp các quý quan (quan Tây), hoặc khi chầu vua ở điện Văn Minh.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Nhung y tòng nhất phẩm võ ban.

    Loại nhung phục cao quý nhất là những áo được vua ngự tứ đặc biệt cho các công thần, được lấy ra từ kho ngự dụng của nhà vua. Áo này thường được trang trí theo dạng cửu long, mà trên thực tế là các con phi giao hay còn được vua Khải Định gọi là rồng bay ngang.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Nhung y ngự tứ.

    Một loại áo chiến tay chẽn nữa, với hai đầu tay được may đáp miếng vải gọi là mã quải, được mặc khi dự lễ ngoài trời như duyệt binh hay tịch điền. Loại áo này khi vua mặc gọi là long trấn. Còn của thân vương, hoàng tử hay các quan thì gọi là mãng lan.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Mãng lan tòng nhị phẩm

    Điều quan trọng nhất khi khảo về trang phục của quan lại triều Nguyễn là việc phân biệt cấp bậc và ban hệ theo mầu sắc và hoa văn của áo.

    Trong tập Bulletin des Amis du Vieux Huế (tháng 7-9 năm 1916), cụ Nguyễn Đôn có viết rõ về mầu sắc của từng cấp bậc triều phục dựa theo lệ vào năm Thiệu Trị ngũ niên (1845). Theo tài liệu này thì mầu sắc áo chầu, tức áo đại triều, của các quan được định rõ như sau:

    Chánh nhất phẩm: Vải đoạn bát ti mầu cổ đồng (古銅), tiếng Pháp là vieux cuivre; dệt hoa văn ngũ thể (năm mầu) cộng thêm chỉ kim tuyến. Vải đoạn tức là satin gấm. Tất cả các loại vải từ đây trở xuống đều dệt bằng tơ tằm.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu chánh nhất phẩm văn ban mầu cổ đồng

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo cổn chánh nhất phẩm võ ban

    Tòng nhất phẩm: Vải đoạn bát ti mầu thiên thanh (天青), tiếng Pháp là pourpre sombre (tím đậm, hay mầu tương); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu tòng nhất phẩm võ ban mầu thiên thanh

    Chánh nhị phẩm: Vải đoạn bát ti mầu cam bích (紺碧), tiếng Pháp là poupre rougeat(tím đỏ); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu chánh nhị phẩm văn ban mầu cam bích

    Tòng nhị phẩm: Vải đoạn bát ti mầu quan lục (官綠), tiếng Pháp là verte (xanh lục); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu tòng nhị phẩm võ ban mầu quan lục

    Chánh tam phẩm: Đoạn bát ti mầu bửu lam (寶藍), tiếng Pháp là bleu foncé (lam đậm); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu chánh tam phẩm võ ban mầu bửu lam

    Tòng tam phẩm: Đoạn bát ti mầu ngọc lam (玉藍), tiếng Pháp là bleu de jade (xanh ngọc bích); dệt hoa văn ngũ thể viền kim tuyến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu tòng tam phẩm văn ban mầu ngọc lam

    Hai cấp tứ phẩm và ngũ phẩm cả văn lẫn võ ban đều mặc áo chầu may bằng vải trừu (lụa), dệt hoa văn tròn toàn hoa (trong sách viết nhầm là viên giao) mầu ngũ thể với kim tuyến. Áo tứ phẩm mầu quan lục. Áo ngũ phẩm mầu bửu lam. Phân biệt văn võ bằng mão đội đầu.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Hoa bào của chánh, tòng ngũ phẩm

    Chánh và tòng lục phẩm mặc áo bào may bằng loại lụa dệt hoa văn đơn sắc gọi là quang tố trừu, mầu ngọc lam. Nhưng thật ra cho đến thời điểm 1916, sắc áo đại triều của cấp bậc chánh tòng lục phẩm là quan lục. Từ cấp bực này trở xuống ở lễ đại triều phải đeo bổ tử.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu lục phẩm với bổ tử thêu con bạch nhàn (gà lôi trắng)

    Theo sách Khâm định Đại nam hội điển sự lệ thì mầu sắc và chất liệu áo chầu của chánh thất phẩm cũng giống như của lục phẩm, chỉ khác nhau ở bổ tử. Nhưng trên thực tế thì từ trước thời Khải Định các quan từ chánh thất phẩm trở xuống đến cửu phẩm đã không còn được cấp áo đại triều nữa. Tất cả đều chỉ mặc áo giao lĩnh thường triều may bằng vải sa đoạn với bổ tử các cấp.

    Cũng theo Khâm định Đại nam hội điển sự lệ thì áo rộng giao lĩnh thường triều được may bằng vải sa đoạn (sa Bắc), với các mầu lam, lục hay hắc; với cổ mầu bạch tuyết. Nhưng trên thực tế thì áo thường triều của tất cả các quan từ nhất phẩm đến cửu phẩm đều may bằng vải sa đoạn mầu lam. Cấp bậc được phân biệt qua nội dung bổ tử.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo thường triều

    Một vài mẫu bổ tử thời cuối Nguyễn triều:

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Bổ tử trên quan phục Văn nhất và nhị phẩm (Tiên Hạc), mẫu Huế [trái] và trên quan phục Văn cửu phẩm (liêu thuần-đa đa) mẫu Bắc[phải]

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Bổ tử trên quan phục Võ thất phẩm (bưu, tức hổ nhỏ) mẫu Huế [trái] và Võ tứ phẩm (hổ) mẫu Bắc [phải]

    Sự khác biệt hoa văn giữa văn và võ ban không thấy chỉ rõ trong tài liệu này. Và cũng không được nhắc đến trong bộ Khâm định Đại nam hội điển sự lệ hay bất cứ một tài liệu nào khác. Nhưng trong bài viết về lễ Nguyên Đán trong cung năm Bính Tuất (1886) thời Đồng Khánh, bác sĩ người Pháp là Hocquart có nhắc đến việc quan văn mặc áo chầu có chim phượng và quan võ mặc áo có trang trí mặt tròn (medaillon). Có lẽ vì từ xa nhìn loáng thoáng không rõ cho nên khi các quan văn đứng chầu với hai tay chắp trước ngực, con phượng trên tay áo rộng được thấy rõ nhất và che phủ các chi tiết khác của áo tứ linh.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Tượng quan văn đội mão đỉnh tròn với hoa văn tứ linh trên áo

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Tượng quan văn đội mão đỉnh tròn với hoa văn tứ linh trên áo

    Nhưng rõ nhất là chi tiết thấy được trên những tượng quan hầu ở các tôn lăng. Các tượng quan văn đội mão viên phác đầu (đỉnh tròn) đều mặc áo chầu tứ linh. Trong khi các tượng quan võ đội mão phương phác đầu (đỉnh vuông) trên áo có hoa văn ổ tròn.

    Trịnh Bách

  • Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến trải gần 5.000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 1: Hình ảnh tổ tiên ta vào thời An Dương Vương ăn mặc như thời mông muội in trong sách do Nxb Giáo dục xuất bản.

    Nhà xuất bản Giáo dục đã cho phép in cuốn sách minh họa hình ảnh tổ tiên ta vào thời An Dương Vương ăn mặc như thời mông muội trong lịch sử nhân loại: Chung quanh người chỉ cuốn lá cọ (ảnh 1). Mà vào thời đại tương đương với thời gian lịch sử ấy, có thể nói rằng: Hầu hết các dân tộc khác trên mặt địa cầu này đã có một nền văn minh phát triển. Điều này khiến tôi có thể chắc chắn rằng: Không phải chỉ một mình tôi cảm thấy đau lòng vì sự miêu tả tổ tiên một cách thấp kém của những cuốn sách truyện loại này.

    1. Một trào lưu hạ thấp giá trị cội nguồn dân tộc

    Tôi không có thành kiến riêng với người họa sĩ minh họa cho bộ chuyện tranh này. Anh ta chỉ là một trong rất đông người nằm trong trào lưu của quan điểm phủ nhận những giá trị truyền thống về cội nguồn trải gần 5.000 năm văn hiến của dân tộc Việt.

    Cách đây không lâu trong cuộc thi thể hình ở Đài Loan, Nguyễn Tiến Đoàn – mệnh danh là Hoa vương của cuộc thi – cũng đã ăn mặc như truyện tranh trên miêu tả và hiên ngang phát biểu trước tất cả các đại diện thi thể hình nam của các dân tộc trên thế giới: “Đây là y phục dân tộc truyền thống của dân tộc Việt”. Điều này khiến tôi – người viết bài này thấy nghẹn ngào khi y phục truyền thống của các dân tộc khác trên thế giới rất đẹp và chứng tỏ họ là một dân tộc văn minh.

    Còn hình ảnh y phục truyền thống dân tộc Việt, theo như Nguyễn Tiến Đoàn công bố thì chỉ “Ở trần đóng khố”!?. Sự việc cũng không chỉ mới ở Nguyễn Tiến Đoàn và truyện tranh An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc.

    Từ năm 1996, Nxb Trẻ cũng in một bộ truyện Lịch sử Việt Nam bằng tranh, khi miêu tả về thời Hùng Vương thì chúng ta cũng lại chỉ gặp hình ảnh những người dân “ở trần đóng khố” (ảnh 2 và ảnh 3).

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 2: Vua Hùng và các quan lang (Lịch sử Việt Nam bằng tranh), Tập 3, Nxb Trẻ 1996.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 3: Vua Hùng và Chử Đồng Tử (Lịch sử Việt Nam bằng tranh), Tập 3, Nxb Trẻ 1996.

    Những bài viết về y phục dân tộc thời Hùng Vương miêu tả như những con người sống ở thời bán khai, nhan nhản, có thể không khó khăn lắm khi tìm những tài liệu này rải rác trên báo chí và sách, mạng…và ngay cả trong sách giáo khoa phổ biến từ trước 2004 từ cấp I đến Đại học.

    Quan niệm về một hình ảnh thấp kém của tổ tiên không còn là một suy nghĩ riêng lẻ, một thứ tư duy lạc loài mà người ta quen gọi là “hiện tượng cá biệt”. Nó đã trở thành một tư duy khá phổ biến.

    Họ đã căn cứ vào đâu để có một nhận định như vậy về y phục dân tộc Việt thời Hùng Vương?

    Có thể xác định rằng: Không hề có một căn cứ khoa học nào hết.

    Nhưng ngược lại, tôi có thể xác định rằng: Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến trải gần 5.000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. Nhưng bằng chứng mà tôi trình bày dưới đây, xác định quan điểm này.

    2. Y phục thời Hùng Vương – cội nguồn lịch sử 5.000 năm văn hiến Việt

    2.1. Y phục giới bình dân

    Để chứng minh cho nhận định trên, bạn đọc so sánh những bức vẽ minh hoạ, những hình ảnh di vật khảo cổ và những luận cứ được trình bày sau đây:

    Ảnh 4 được chép lại từ cuốn Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ 20 (Nxb Trẻ 1989 – Nguyễn Mạnh Hùng giới thiệu). Đây là công trình sưu tầm của một học giả người Pháp có tên là Henri Joseph Oger. Nói một cách khác, ngay ở thế kỷ 20 này người ta vẫn ở trần đóng khố, nhưng đó không phải là y phục phổ biến trong sinh hoạt xã hội ở thời gian này.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 4: Tranh của Henri Oger.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 5: Đánh ghen – Tranh Đông Hồ.

    Hình lớn trong ảnh 5 mà bạn đang xem là bức tranh dân gian nổi tiếng: Đánh ghen, thuộc dòng tranh dân gian của làng Đông Hồ. Đó là bức tranh giàu tính nhân bản, thể hiện ở hình người con chắp tay lạy cha mẹ.

    Hình ảnh hai người phụ nữ trong tranh tuy không thuộc thời Hùng Vương, nhưng bạn đọc có thể so sánh với bức tranh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở góc trên bên trái của ảnh 5, được in lại trong cuốn Lịch sử Việt Nam bằng tranh (Nxb Trẻ 1996, tập 3). Chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên về sự tương tự của người phụ nữ trong hai tranh. Đương nhiên bức tranh minh họa trong cuốn Lịch sử Việt Nam bằng tranh không phản ánh sự thật về y phục phổ biến trong sinh hoạt của thời Hùng Vương. Bởi vì nó không thể liên hệ được sự giống nhau trong khoảng cách gần 2.000 năm theo quan điểm lịch sử mới về y phục thời Hùng Vương mà họ miêu tả với bức tranh dân gian Việt. Ngược lại, chúng ta so sánh y phục trong bức tranh Đánh ghen và y phục dân tộc truyền thống của phụ nữ miền Bắc với hình người trên cán dao bằng đồng trong hình mô tả dưới đây:

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 6. Hình minh họa của Thiên Sứ.

    Ảnh 6 và ảnh 7 là một cụm hình, được ghép bởi hình chiếc cán dao bằng đồng từ thời Hùng Vương – có niên đại được xác định là 300 năm trước CN, được tìm thấy ở Lãng Ngâm – Hà Bắc – trên có tạc người phụ nữ với y phục thời Hùng Vương và hình vẽ miêu tả y phục của một phụ nữ miền Bắc (ãnh Võ An Ninh) và ảnh Tượng chùa Dâu, do người viết ghép lại thành cụm hình để tiện so sánh.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 7: Ảnh Tượng chùa Dâu: Thiên Sứ; Ảnh người phụ nữ nông thôn: Võ An Ninh.

    Kiểu y phục của hình vẽ này tuy không còn phổ biến, nhưng bạn vẫn có thể gặp ở một bà già cao tuổi sống trong một vùng nông thôn xa thành thị nào đó ở miền Bắc Việt Nam, ngay trong năm 2009 này. Đó là thế hệ cuối cùng nằm trên võng ru con, bằng cách kể lại những câu chuyện cổ tích từ thời xa xưa và truyền thuyết về một nước Văn Lang – nơi cội nguồn của người Việt – trước khi nhường lại cho những phương tiện thông tin đại chúng và những người nghiên cứu thông thái nói lại về những câu chuyện của họ.

    Qua hình ảnh minh họa đã trình bày với bạn đọc ở trên, chúng ta cũng nhận ra sự trùng khớp hoàn toàn bởi những đường nét chính giữa y phục trên cán dao đồng và y phục của người phụ nữ Việt hiện đại còn mặc, tuy không còn phổ biến.

    Điều này chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: Y phục của người phụ nữ miền Bắc còn mặc hiện nay chính là sự tiếp nối truyền thống y phục từ thời Hùng Vương thể hiện trên chiếc cán dao đồng. Đồng thời sự so sánh này cũng cho thấy: Từ 2.300 năm qua trở lại đây – về căn bản – hình thức y phục phổ biến trong dân gian không có sự thay đổi đáng kể.

    Như vậy, có thể khẳng định: Dưới thời Hùng Vương, ông cha ta đã có những y phục phổ biến trong giới bình dân, tương tự như y phục dân tộc còn tồn tại ở các vùng thôn quê Việt Nam.

    Qua đó, chúng ta cũng nhận thức được rằng: Y phục của tầng lớp bình dân trong xã hội thời Hùng Vương đã mang tính văn hoá đặc thù của dân tộc Việt và xã hội này phải có một nền văn minh phát triển để chế tác ra những cấu trúc y phục cầu kỳ đó. Chúng ta tiếp tục tìm hiểu về y phục của tầng lớp trên trong xã hội Việt thời Hùng Vương.

    2.2. Y phục tầng lớp trên trong thời Hùng Vương

    Tất nhiên, khi mà trang phục phổ biến của các tầng lớp bình dân đã hoàn chỉnh và đa dạng thì y phục của tầng lớp trên cũng phải phù hợp với đẳng cấp của nó vì sự trang trọng và việc thực hiện những nghi lễ quốc gia văn hiến. Để chứng minh điều này, bạn đọc tiếp tục xem xét các vấn đề và hiện tượng được trình bày sau đây:

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 8: Hình bộ truyện tranh “Tam quốc diễn nghĩa” do họa sĩ Trung Quốc thực hiện.

    Hình trong ảnh 8 được chép lại từ bộ truyện tranh Tam quốc diễn nghĩa do chính các họa sĩ Trung Quốc thực hiện, Nxb Mũi Cà Mau in lại vào năm 1995, trọn bộ 30 tập. Đây là hình thứ 3795 trong tập 16. Hình người nổi bật trong tranh bên chính là Tôn Quyền (Thế kỷ II và III sau CN).

    Hình người phụ nữ ở giữa cụm tranh trong ảnh 8 này chính là Tôn Phu Nhân, em gái Tôn Quyền, vợ Lưu Bị cũng được chép lại từ bộ truyện tranh trên. Bạn hãy so sánh y phục của tất cả những nhân vật Tam Quốc, thể hiện nền văn hoá Hán trong các tranh trên với hình người trên cán dao bằng đồng của thời Hùng Vương có trước đó 500 năm (Tư liệu trong sách Thời đại Hùng Vương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1995).

    Bạn sẽ thấy một sự tương tự trong y phục. Chỉ có khác chăng là tay áo thụng của các nhân vật Tam Quốc và tay áo bó của hình người trên cán dao đồng, còn phần y phục gần như hoàn toàn giống nhau. Nếu như y phục của các bậc vương giả thời Tam Quốc không phải là bắt chước y phục thời Hùng Vương, thì chắc chắn y phục của cô gái ở trên cán dao đồng thời Hùng Vương không thể bắt chước các nhân vật Tam Quốc. Bởi vì, chiếc cán dao này có niên đại trước thời Tam Quốc ít nhất 500 năm. Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây.

    Về y phục của tầng lớp trên trong xã hội Văn Lang, người viết xin được trình bày một đoạn trích dẫn trong Kinh Thư. Kinh Thư là một trước tác từ trước đến nay vẫn được coi là sản phẩm của nền văn minh Trung Hoa, nhưng lại có rất nhiều dấu ấn chứng tỏ thuộc về nền văn minh Văn Lang. Dấu ấn đầu tiên của người Lạc Việt trong Kinh Thư được chứng minh trong sách Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại (Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Văn hóa Thông tin tái bản lần thứ 2, 2002) chính là Hồng phạm cửu trù, bản hiến pháp đầu tiên của người Lạc Việt.

    Đoạn trích dẫn sau đây liên quan đến y phục dân tộc thời Hùng Vương được trích trong cuốn Thượng Thư – sách ghi chép thời thượng cổ (bản dịch Võ Ngọc Liên, Trần Kiết Hùng, Nxb Đồng Nai 1996, trang 156): “Ba loại như mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú thì làm tinh kỳ, rồng chỉ y phục của vua, hổ chỉ y phục của đại thần theo sự phân biệt ba loại y phục khác nhau: cổn miện (của vua), tệ miện, tuyệt mịch. Tên của ba loại quần áo là dựa vào hình vẽ trên y phục mà gọi, như “cổn” thì có long cổn, cổn miện có chín bậc trong đó có long cổn đứng đầu. Tệ tức là chim trĩ, tệ triều có bảy loại trong đó có hổ đứng đầu”.

    Qua đoạn văn trên, bạn đọc nhận thấy rằng “cổn miện” (tức là mũ của vua) có chín bậc, trong đó long cổn đứng đầu; “tệ miện tức là cái mũ có hình chim trĩ”. Về hình ảnh mũ có hình tượng rồng của vua và mũ có hình chim trĩ của các quan – Oái oăm thay – nó lại được chứng tỏ trên trống đồng của nền văn minh Văn Lang.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 9a và 9b: Hoa văn trên trống đồng Đông Sơn cho thấy trên mũ của những hình người này thể hiện chiếc đầu rồng và đầu chim phượng đã được cách điệu để chứng tỏ địa vị của người đó trùng hợp với văn bản của Kinh Thư.

    Qua ảnh 9a và 9b, bạn đọc cũng dễ dàng nhận thấy, trên mũ của những hình người trên trống đồng này thể hiện chiếc đầu rồng và đầu chim phượng đã được cách điệu để chứng tỏ địa vị của người đó trùng hợp với văn bản của Kinh Thư.

    Nếu như hình vẽ trên trống đồng và những vấn đề y phục của vương triều nói trên trong Kinh Thư chỉ là một lần trùng hợp duy nhất thì có thể coi đó là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nhưng vấn đề lại không phải đơn giản như vậy! Khi mà một thiên được coi là quan trọng nhất của Kinh Thư: Thiên Hồng phạm, lại hoàn toàn mang nội dung của người Lạc Việt và một lần nữa cũng không chỉ dừng lại ở đấy.

    Người viết xin được đặt vấn đề để các bậc trí giả minh xét với đoạn trích dẫn sau đây (Việt lý tố nguyên, Kim Định, 1971): “Trong mấy thiên đầu Kinh Thư chữ ‘Viết’ cũng đọc và viết là ‘Việt’”. “Viết nhược kê cổ” cũng là “Việt nhược kê cổ”. Các nhà chú giải lâu đời nhất như Mã Dung và Khổng An Quốc cũng chỉ giải nghĩa rằng đó là câu nói giáo đầu (phát ngữ từ) nhưng không đưa ra lý do tại sao lại dùng câu đó, tại sao chữ viết với Việt lại dùng lẫn lộn… Vì thế mà có câu lập lờ mở đầu “Viết nhược kê cổ”. Cả Mã Dung lẫn Khổng An Quốc đều cho chữ “nhược” là thuận, chữ “kê” là khảo. Và, câu trên có nghĩa rằng: “Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa”. Nếu nói “Viết nhược kê cổ” thì ra câu văn thiếu chủ từ. Còn khi thay vào bằng chữ Việt thì có chủ từ là người Việt, nhưng phải cái phiền là ghi công người Việt vào đầu Kinh Thư không tiện, nên cho rằng chữ “Việt” với “Viết” như nhau…”

    Qua phần trích dẫn của ông Kim Định, người viết không cho rằng: “Việt nhược kê cổ” tức là “Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa” và càng không thể là người Việt có công chép lại Kinh Thư cho nền văn minh Trung Hoa. Từ những sự phân tích trên, hoàn toàn có cơ sở để đặt một dấu hỏi hoài nghi về nguồn gốc đích thực của Kinh Thư. Và câu trên có thể hiểu là: “Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt”.

    Như vậy, với những dấu chứng của văn minh Văn Lang trong Kinh Thư; hoàn toàn không thể cho rằng: Y phục của các vị vua thời Nghiêu, Thuấn trùng hợp một cách ngẫu nhiên với những hình ảnh trên trống đồng. Hiện tượng này chỉ có thể giải thích một cách hợp lý rằng: Y phục của vương triều được nhắc tới trong Kinh Thư, chính là y phục của vương triều Văn Lang. Việc gán ghép cho vua Nghiêu, Thuấn chế tác ra y phục cũng giống như sự gán ghép những học thuật của văn minh Văn Lang cho các vị vua cổ đại Trung Hoa, khi những hình ảnh của y phục vương triều lại được thể hiện trên trống đồng Lạc Việt. Kinh Thư chính là cuốn “Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt” mà điều này đã ghi rõ ngay trên câu đầu của cuốn sách “Viết nhược kê cổ” và nội dung của nó hoàn toàn trùng khớp với hình ảnh trên trống đồng của nền văn hóa Việt đã trình bày.

    Nếu theo quan niệm mới cho rằng: Thời Hùng Vương chỉ tồn tại khoảng vài trăm năm (thế kỷ thứ VII trước CN) và địa bàn nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở miền Bắc Việt Nam, thì sẽ không thể liên hệ và có sự minh chứng một cách chặt chẽ về sự liên quan giữa y phục trên trống đồng Lạc Việt với vương triều của vua Nghiêu (khoảng 2.000 trước CN theo bản văn chữ Hán) thể hiện trong Kinh Thư, bởi một khoảng cách hàng vạn dặm về địa lý và hàng thiên niên kỷ về thời gian.

    Trở lại vấn đề y phục, qua sự so sánh trên cho thấy: Sự có mặt của vua Nghiêu (2253 trước CN) trong việc quy định y phục vương triều, gắn với hình ảnh trên trống đồng Lạc Việt (là một di vật khảo cổ), đã chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: nền văn minh Văn Lang không những đã chế tác ra y phục phổ biến cho con người trong xã hội, mà ở tầng lớp trên đã có những y phục thể hiện sự trang trọng trong nghi lễ quốc gia và sự phân biệt ngôi thứ.

    Điều này minh chứng bổ sung cho những vấn đề được đặt ra ở những phần trên và có sự liên hệ tiếp nối như sau:

    * Hình người trên trống đồng mà giáo sư Nguyễn Khắc Thuần viết trong Thế thứ các triều đại Việt Nam cho rằng: “Hình người đang múa” thực ra đây là hình ảnh thể hiện những người đứng đầu nhà nước Văn Lang đang thực hiện những nghi lễ quốc gia. Điều này được minh chứng qua hình ảnh đầu rồng và đầu chim phượng trên những chiếc mũ của các ngài đang đội.

    * Từ đó đặt vấn đề: Hình chữ nhật được cách điệu trên tay các ngài chính là những văn bản được đọc trong khi hành lễ. Tính văn bản được chứng tỏ bằng nếp gấp phía trên góc hình chữ nhật. Giả thuyết này bổ sung việc minh chứng cho sự tồn tại một hệ thống chữ viết của người Lạc Việt.

    * Sự tồn tại hình ảnh những người đứng đầu nhà nước Văn Lang trên trống đồng là: Vua: đội mũ có hình đầu rồng; đại thần: đội mũ gắn hình chim phượng, đã khẳng định sự tồn tại một nhà nước có tổ chức chặt chẽ ở thời cổ đại, tương tự như các quốc gia cổ đại hùng mạnh khác vào thời bấy giờ. Chính những y phục đã tồn tại hàng thiên niên kỷ trước Công nguyên trong nền văn minh Văn Lang, đã trở thành căn nguyên cho bản sắc văn hóa thể hiện trong y phục truyền thống của người Việt Nam hiện nay.

    Những lập luận và hình ảnh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở trên được bổ trợ bằng một phát hiện của ngành khảo cổ như sau: 19.2.1.1 Trước hết, đó là tơ tằm. Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất sớm. Trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kỳ đá mới cách đây khoảng 5.000 năm (như di chỉ Bầu Tró), đã thấy có dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung.

    Đến giai đoạn Đông Sơn (cách nay khoảng 3.000 – 2.500 năm), hình người trên trống đồng đều mặc áo, váy và đóng khố. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang – đó là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của nền nông nghiệp Việt Nam. Người Hán từ xưa cũng luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam: đó chính là hai đặc điểm đầu tiên mà Từ Tùng Thạch kể đến trong cuốn Việt giang 178 lưu vực nhân dân (Kim Định, 1971a: 108); trong chữ “Man” mà người Hán dùng để chỉ người phương Nam có chứa bộ trùng chỉ con tằm. (Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm).

    Trong sách Luận ngữ, thiên Hiến vấn, khi nhận xét về vai trò của Quản Trọng đối với nước Tề và ảnh hưởng của nó tới xã hội Trung Hoa, chính Khổng Tử đã nói: “Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải búi tóc và vắt vạt áo bên tả như người Man Di”.

    Bạn đọc có thể tìm thấy câu nói đã dẫn của Khổng Tử ở trên trong hầu hết các sách dịch ra Việt ngữ liên quan đến Luận Ngữ, như: Luận ngữ – thánh kinh của người Trung Hoa(Nxb Đồng Nai 1996, Hồ Sĩ Hiệp biên soạn, Trần Kiết Hùng hiệu đính, trang 208); hoặc ngay trong cuốn Lịch sử văn minh Trung Hoa, (Witt Durant, do Nguyễn Hiến Lê dịch. Nxb Văn hoá Thông tin, 1997, trang 32)…

    Quản Trọng – tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu – sống vào giai đoạn đầu thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, không rõ năm sinh, mất năm 654 trước CN, người đưa nước Tề trở thành một cường quốc, bá chủ các chư hầu nhà Chu. Đây là thời điểm tương đương với thời kỳ mà không ít những nhà nghiên cứu đã căn cứ vào Việt sử lược, cho rằng: “Đó là giai đoạn khởi đầu của thời Hùng Vương”Việt sử lược viết: “Vào thời Trang Vương nhà Chu (698 – 682 trước CN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương”.

    Như vậy, qua sự trích dẫn ở trên quí vị cũng nhận thấy sự tương đương sát sao về niên đại của thời Quản Trọng (mất năm 654 trước CN và thời Trang Vương nhà Chu: 698 – 682 tr.CN) và thời điểm lập quốc của các vua Hùng theo cái nhìn mới – mà họ cho rằng: “Thời Hùng Vương chỉ xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VII trước CN”. Thật là một sự vô lý, khi chính Khổng Tử thừa nhận một nền văn minh phát triển ở ngay bên cạnh địa bàn cư trú của người Hoa Hạ, có khả năng ảnh hưởng và chi phối đến sự phát triển của nền văn minh này.

    Đã có nhà nghiên cứu cho rằng: “Người Man di ở phía Bắc Trung Quốc”(?). Trên thực tế, trong các thư tịch cổ chữ Hán chưa lần nào dùng từ Man di để chỉ giống người phương Bắc Trung Hoa. Ngược lại, trong các thư tịch cổ chữ Hán, Man di là từ được dùng nhiều lần để chỉ người Việt. Từ “người Man” trong câu nói của Khổng Tử không phải là một danh từ chung để chỉ những tộc người có trình độ phát triển khác nhau, cư ngụ ở miền Nam sông Dương Tử. Ở đây, Khổng Tử đã nói đến nền văn minh Lạc Việt. Bản văn sau đây do chính Tô Đông Pha, một danh sĩ thời Tống – sau Khổng Tử ngót 1.500 năm xác nhận lại điều này. Tô Đông Pha chép rằng: “… Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 – 207 trước CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại tình trạng man di. B’Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành. Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đã mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ”.[1].

    [Nguồn: http://tuanvietnam.net/2009-12-07-thoi-hung-vuong-to-tien-an-mac-the-nao-; Ngày: 08/12/2009 06:40 GMT+7]

    Chú thích

    [1]. An Nam chí lược; Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục Cổ tích. Viện Đại học Huế 1961. Giáo sư Linh mục Cao Văn Luận.

    Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta lại một lần nữa thấy tính hợp lý giữa các hiện tượng và vấn đề liên quan đến việc vạt áo cài bên trái của chín quận Nam Việt. Điều này chứng tỏ tính thống nhất về văn hóa ở vùng đất nam sông Dương Tử này hoàn toàn khác biệt với văn hóa Hoa Hạ.

    Đây cũng chính là vùng đất: Bắc giáp Động Đình Hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba Thục; Đông giáp Đông Hải của nước Văn Lang xưa. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đã chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 trước CN, và xa hơn – Từ thời Tam Đại – nền văn hóa Lạc Việt đã là một nền văn hóa ưu việt cho khu vực. Ảnh hưởng của nền văn hóa này rất lớn, để “nếu không có Quản Trọng thì người Hán đã phải cài vạt áo bên trái”.

    Hình ảnh của việc cái vạt áo bên trái (bên tả) cho y phục truyền thống Việt trong các bản văn trên, được minh chứng tiếp tục trong di sản văn hóa Việt tiếp nối qua các thời đại lịch sử đến tận ngày hôm nay. Bạn đọc tiếp tục so sánh với các hình ảnh dưới đây:

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 10: Hình khắc nổi tiếng trên một hang động ở tỉnh Hồ Nam, thuộc Nam Dương Tử, có niên đại trên 2.500 năm, tương truyền là hình bà Nữ Oa và vua Phục Hy. Chúng ta lại nhận thấy vạt áo cài bên trái của vua Phục Hy và bên phải của bà Nữ Oa. Có thể nói: Đây là dấu chứng cổ xưa nhất minh chứng về y phục truyền thống Việt liên hệ đến câu nói của Khổng Tử trong sách Luận ngữ viết về hiện tượng áo cài vạt bên trái vào thế kỷ thứ VII trước Công Nguyên.

    Hình trong ảnh 10 là một hình khắc nổi tiếng trên một hang động ở tỉnh Hồ Nam, thuộc Nam Dương Tử, có niên đại trên 2.500 năm, mà người sống ở vùng này vẫn tương truyền rằng: Đó là hình bà Nữ Oa và vua Phục Hy. Chúng ta lại nhận thấy vạt áo cài bên trái của vua Phục Hy và bên phải của bà Nữ Oa. Có thể nói: Đây là dấu chứng cổ xưa nhất minh chứng về y phục truyền thống Việt liên hệ đến câu nói của Khổng Tử trong sách Luận ngữ viết về hiện tượng áo cài vạt bên trái vào thế kỷ thứ VII trước CN.

    Mối liên hệ này chúng ta sẽ còn tiếp tục tìm thấy những dấu chứng qua các thời đại, mà điển hình là hình tượng những con rối nước sau đây:

    Hình ảnh mà người viết trình bày trong bức ảnh 11 được chép lại từ tạp chí Heritage số tháng 9/10 năm 1996 của Hàng không Việt Nam. Hoàn toàn không có sử dụng kỹ thuật vi tính để lật ngược lại bức tranh. Bạn đọc có thể kiểm chứng điều này qua tay phải của một số nhân vật cùng đứng trong tranh.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 11: Hình ảnh mà người viết trình bày trong bức ảnh 11 được chép lại từ tạp chí Heritage số tháng 9/10 năm 1996 của Cục Hàng không Việt Nam.

    Bạn đọc cũng thấy vạt áo của nhân vật rối nước này ở phía bên “tả” (trái) và mấy cái búi tóc của những hình rối nước này. Cho đến đầu thế kỷ 20, phần lớn đàn ông của dân tộc Việt vẫn búi tóc. Điều này chắc không cần phải chứng minh.

    Hình tượng những con rối nước – một nghệ thuật dân gian truyền thống của người Việt – cái vạt áo bên trái sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi đó chính là sự tiếp nối của y phục dân tộc Việt từ hàng ngàn năm trước, khi liên hệ với câu của Khổng Tử trong sách Luận ngữ“Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải cài vạt áo bên tả và búi tóc như người Man di”.

    Rất tiếc! Những con rối nước cài vạt áo bên trái ngày nay rất hiếm gặp. Người ta đã hiện đại hoá nó bằng cách tạo cho nó một cái vạt áo bên phải. Đây là sự biến dạng của những di sản văn hóa phi vật thể. Nhưng cũng may mắn thay! Đây không phải bằng chứng duy nhất cho y phục dân tộc thời Hùng Vương.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 12: Y phục dân tộc Dao ở Phú Thọ. (Trích từ bài “Cạy cửa tìm nhau”, Ngọc Vinh và Lương Ngọc An – Tuổi Trẻ 8/6/2002).

    Xin bạn đọc tiếp tục xem ảnh 12. Tất nhiên tác giả bài báo này không có nhã ý nhằm giới thiệu y phục dân tộc Dao và giúp minh chứng cho luận điểm của người viết. Dân tộc Dao là một dân tộc có nền văn hóa lâu đời tồn tại trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, y phục dân tộc này cũng còn giữ được những nét văn hoá cổ truyền của nước Văn Lang xưa: Trên y phục của cặp vợ chồng ở hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy người đàn ông áo vạt đưa sang bên trái, người phụ nữ vạt đưa sang bên phải.

    Vấn đề cũng không chỉ dừng ở đây: Ảnh 13 được người viết chụp trực tiếp hình ảnh trên chương trình truyền hình VTV1, có nội dung miêu tả đám cưới người dân tộc Mông. Chúng ta lại một lần nữa tìm thấy dấu ấn y phục từ ngàn xưa của tổ tiên với người nam mặc áo bên “tả” và nữ bên “hữu”: Dân tộc Dao và Mông sống trong vùng rừng núi hẻo lánh, cho nên ít chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 13: Miêu tả đám cưới người dân tộc Mông. Chúng ta lại một lần nữa tìm thấy dấu ấn y phục từ ngàn xưa của tổ tiên với người nam mặc áo bên “tả” và nữ bên “hữu”.

    Do đó, hiện tượng cài vạt áo bên trái của người đàn ông trong y phục của những dân tộc này còn lại đến nay, cùng với các tư liệu đã trình bày ở trên cho thấy: Đó là những chứng cứ có sự tiếp nối văn hóa từ ngàn xưa và cho đến tận bây giờ – khi bạn đọc đang xem bài viết này – của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ ở nam Dương Tử. Những chứng cứ rõ ràng đó và luận điểm trình bày hoàn toàn phù hợp với những tiêu chí khoa học: “Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng, nếu nó lý giải một cách hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó; có tính khách quan; tính hệ thống, tính quy luật và có khả năng tiên tri”.

    Những vấn đề được hân hạnh trình bày với bạn đọc, nhằm chứng minh cho một nền văn hoá cao cấp tốn tại ở miền Nam sông Dương Tử mà chính Khổng Tử nói tới với sự tiếp nối, liên hệ của những giá trị đó trong những di sản văn hóa Việt Nam hiện nay.

    * Tính đa dạng trong y phục của Việt tộc thời cổ xưa

    Sự đa dạng trong y phục của Việt tộc xác định qua sự liên hệ với hình ảnh những con rối nước là một minh chứng “Y phục dân tộc thời Hùng Vương” được tiếp tục qua những hình ảnh sau đây.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 14: Hình ghép được chép lại trong sách “Thời đại Hùng Vương”, chiếc cán dao bằng đồng miêu tả y phục thời Hùng Vương và hình nhân vật rối nước trong trò “Múa Tiên”.

    Ảnh 14 là một hình ghép được chép lại trong sách Thời đại Hùng Vương (sách đã dẫn) chiếc cán dao bằng đồng miêu tả y phục thời Hùng Vương và hình nhân vật rối nước trong trò Múa Tiên.

    Qua hình ảnh trên, chắc quí vị sẽ nhận thấy một sự trùng hợp hoàn toàn về hình thức cái mũ trên đầu hình rối nước và cái mũ trên cán dao đồng. Ngoài sự trùng hợp về cái mũ, còn một số nét tiêu biểu khác trên y phục của hai vật thể này cũng trùng hợp gần như hoàn toàn. Từ đó có thể dẫn đến sự liên hệ hợp lý cho một cấu trúc đặc thù chung của y phục thời Hùng Vương qua y phục rối nước. Hay nói một cách khác: Hoàn toàn có căn cứ khoa học thực sự khi dùng những hình mẫu có chọn lọc của những con rối nước truyền thống để phục chế lại y phục thời Hùng Vương.

    Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây, khi chúng ta tiếp tục so sánh chiếc mũ trên hình cán dao đồng – được khẳng định niên đại từ thời Hùng Vương – với chiếc nón trong hình rối nước Múa Tiên (ảnh 15) và chiếc nón trên hai bức tượng Tiên Dung và Ngọc Hoa công chúa hiện đang thờ ở đền Hùng Phú Thọ.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 15: Chiếc nón trên hai bức tượng Tiên Dung và Ngọc Hoa công chúa hiện đang thờ ở đền Hùng Phú Thọ.

    Hiện nay, có rất nhiều trò rối nước được sáng tác ngay thời hiện đại, hoặc vào những thế kỷ trước. Nhưng trò Múa Tiên là một trò truyền thống có từ rất lâu trong nghệ thuật rối nước Việt Nam, tất cả các đoàn rối đều có trò này. Do đó, hình rối nước trong trò Múa Tiên chắc chắn đã xuất hiện từ thời xa xưa.

    Qua một khoảng cách thời gian của hơn 1000 Bắc thuộc, nghệ thuật rối nước được ghi nhận lần đầu tiên trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh – đời Lý – của chùa Đọi Sơn (Huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà), tức là vào đầu thời hưng quốc của Đại Việt, cách đây cả ngàn năm. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng múa rối nước chỉ xuất hiện vào thời kỳ này.

    Đền thờ Tổ 18 thời Hùng Vương xác định xây dựng (hoặc được trùng tu vào thế kỷ XIV). Chiếc cán dao bằng đồng có cách đây khoảng 2.500 năm và chỉ mới được phát hiện vài chục năm gần đây.

    Trước hết chúng ta cần phải khẳng định rằng: Trò Múa Tiên, tượng công chúa đền Hùng và chiếc dao đồng là những sản phẩm của trí tuệ sáng tạo. Trò Múa Tiên và tượng công chúa đền Hùng đều có trước khi tìm ra chiếc cán dao đồng với khoảng cách hơn 2.000 năm cho sự sáng tạo ra hai vật thể này. Do đó, nó không thể được coi là sự sao chép từ chiếc cán dao đồng hoặc là một sự trùng khớp ngẫu nhiên.

    Hình thức tồn tại giống nhau của những di sản văn hoá nói trên với khoảng cách tính bằng thiên niên kỷ, đã xác định sự tiếp nối truyền thống xuyên thời gian của y phục dân tộc Việt từ thượng tầng xã hội cho đến các tầng lớp bình dân là đa dạng và phong phú, thể hiện qua y phục của những con rối nước trong di sản văn hóa truyền thống Việt. Những hình thức y phục của những con rối nước Việt còn thấy tồn tại trong y phục dân tộc của các quốc gia láng giềng với Việt Nam ngày nay.

    * Lịch sử gần 5000 năm văn hiến qua y phục dân tộc

    Qua y phục dân tộc thời Hùng Vương trình bày ở trên, chúng ta hoàn toàn có đầy đủ cơ sở khoa học để xác quyết về một truyền thống văn hóa sử được chính sử xác định: Thời Hùng Vương có niên đại 2879 BC và kết thúc vào 258 BC, có biên giới: Bắc giáp Động Đình Hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba Thục; Đông giáp Đông Hải. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đã chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 trước CN, và xa hơn – Từ thời Tam Đại – nền văn hóa Lạc Việt đã là một nền văn hóa ưu việt của phương Đông cổ đại. Và chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng thừa nhận.

    Bạn đọc xem đoạn trích dẫn dưới đây:

    * Phát hiện mộ cổ bí ẩn ở Trung Quốc

    Các nhà khảo cổ nước này vừa khai quật một ngôi mộ hơn 2.500 tuổi, có thể thuộc về một vị vua của triều đại Ba (Ba Kingdom) bí ẩn. Ngoài 500 đồ vật bằng đồng, trong mộ còn có bộ xương của 2 người đàn bà và một người đàn ông, mặt ngửa lên trời và hướng về phía đông.

    Nhóm nghiên cứu cho rằng đó có thể là những tuỳ tùng hoặc chư hầu được chôn cùng vị vua. Nếu được xác nhận, đây sẽ là phát hiện khảo cổ quan trọng nhất liên quan tới triều đại Ba. Ngôi mộ nằm ở Luo Jiaba, tỉnh Tứ Xuyên, mang đặc điểm điển h́ình của một ngôi mộ thuộc đẳng cấp cao nhất trong số các ngôi mộ thuộc triều đại Ba đã được tìm thấy. 31 ngôi mộ khác cũng đã được khai quật ở khu vực. Hầu hết các đồ đồng là vũ khí (như giáo, gươm, dao găm và rìu), hay các vật cúng tế tương ứng với vị trí tối cao của chủ nhân ngôi mộ.

    Triều đại Ba bao trùm các vùng Tứ Xuyên, Hồ Nam và nhiều nơi khác ở miền nam Trung Quốc trước khi biến mất một cách bí ẩn khoảng 2.000 năm trước đây. Người dân thời đại này được miêu tả là những chiến binh hiếu chiến và gan dạ. Tuy vậy, nguồn gốc, cấu trúc xã hội và văn hoá của họ vẫn còn là một điều bí ẩn. [Minh Thi theo Tân Hoa Xã (Nguồn VNexpress)].

  • Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925

    Album dưới đây đến từ thư viện cũ Pasquier tại Hà Nội, mà nay đã là một phần thuộc thư viện quốc gia Việt Nam (http://www.nlv.gov.vn/).

    Dieulefils là nhiếp ảnh gia nổi tiếng của miền bắc Đông Dương. Ông cầm máy từ năm 1888 đến năm 1925 và đã đi khắp Đông Dương để chụp những bức ảnh rất thành công. Bưu thiếp của ông được in và bán hàng ngàn bản, là thứ luôn làm các nhà sưu tập ngày nay rất hài lòng. Tuy nhiên tìm ra nguyên cả album ảnh của ông thì khó hơn.

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925“Đông Dương đẹp như tranh”, album xuất bản năm 1910 (trong hình là vua Duy Tân)

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Hai cô gái vùng đồng bằng Bắc bộ

    Hà Nội

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Cầu Long Biên (Le pont Paul Doumer)

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925

    Phố Tràng Tiền (La rue Paul Bert)

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Vườn Bách Thảo (Jardin botanique)

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Dinh Thống Sứ (nay là Phủ Chủ Tịch)

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Khu phố Tây, gần Hoàng thành

    Hải Phòng

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Con đường chính của Hải Phòng và bờ sông Tam Bạc

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Hải Phòng, Toà thị chính và tượng Jules Ferry

    Đồ Sơn

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Bãi biển Đồ Sơn

    Bắc Kỳ

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Kiến An

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Lạng Sơn

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Nam Định, khu phố cổ

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Bắc Kỳ: Một ông quan và lính hầu

    Trung Kỳ

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Huế, hội đồng phụ chính triều Duy Tân. Từ trái sang phải: Tôn Thất Hân (thượng thư bộ Hình), Nguyễn Hữu Bài (thượng thư bộ Lại), Huỳnh Côn (thượng thư bộ Lễ), Hoàng thân Miên Lịch, Lê Trinh (thượng thư bộ Công), Cao Xuân Dục (thượng thư bộ Học).

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Hoàng thành Huế

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Hoàng thành Huế

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Huế, cấm thành.

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Nhà vua trẻ Duy Tân trên kiệu.

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Cấm vệ quân

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Huế, tang lễ Thái hậu

    Bắc Kỳ, Trung Kỳ từ năm 1888-1925Một ngôi chùa ở Đà Nẵng.

    Nguồn: http://belleindochine.free.fr

  • Hình ảnh Annam năm 1911

    “Trung Kỳ (Annam) khá khác với Nam Kỳ, nơi mà hệ thống đường sá, đường sắt và đường sông hoàn chỉnh đã làm cho việc đi lại trở nên rất dễ dàng. Nam Kỳ vốn được chiếm đóng (bởi người Pháp) rất lâu trước Trung Kỳ. Tài nguyên thiên nhiên và các giá trị kinh tế của nó đã ngay lập tức khiến người Pháp đứng ra thiết lập và tổ chức một hệ thống giao thông nhanh và hiệu quả. […] Trung Kỳ không có những lợi thế đó. Biển dường như là con đường giao thông duy nhất thuận lợi để đi từ nơi này đến nơi khác. Tuy thế, mặc dù có một dải bờ biển dài với những bến cảng tương đối an toàn, lượng giao dịch lại rất ít. Vận tải nội địa được thực hiện bằng những chiếc thuyền mà nếu dùng vào các hoạt động giải trí cho người Âu thì có lẽ thích hợp hơn, và chỉ trong điều kiện khi gió mùa thuận lợi. Trên mặt đất, có Đường Cái Quan (La Route Mandarin) dọc theo bờ biển từ bắc xuống phía nam; nhưng con đường này chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu đi lại.”

    Tạp chí Le Tour du Monde – trích cuốn sách “Ba Năm Của Tôi Ở Annam” – Tác giả: Gabrielle M. Vassal. 1911

    Một con đường ở Mũi Đại Lãnh (Le fameux Cap Varella), trên Đường Cái Quan (la Route Mandarine) sau thời gian dài khai phá và xây dựng. Nơi đây đã từng là biên giới thiên nhiên tưởng như không thể vượt qua.
    Một con đường ở Mũi Đại Lãnh (Le fameux Cap Varella), trên Đường Cái Quan (la Route Mandarine) sau thời gian dài khai phá và xây dựng. Nơi đây đã từng là biên giới thiên nhiên tưởng như không thể vượt qua.
    Hải Vân Quan (La porte d’Annam) trên Đường Cái Quan (la Route Mandarine), với độ cao 900 bậc, phía nam Hà Tĩnh, cách Huế 200km ; một tầm nhìn tuyệt vời !
    Hải Vân Quan (La porte d’Annam) trên Đường Cái Quan (la Route Mandarine), với độ cao 900 bậc, phía nam Hà Tĩnh, cách Huế 200km ; một tầm nhìn tuyệt vời !

    Auto Draft

    Auto DraftChùa Cầu (còn gọn là Cầu Nhật Bản) ở Hội An (Fai-Fo) năm 1911 và ngày nay.

    Auto Draft

    Auto DraftĐường phố Hội An năm 1911 và Chùa Cầu (ngày nay)

    Vịnh Nha Trang
    Vịnh Nha Trang

    Auto DraftVịnh Đà Nẵng (Tourane)

    Auto DraftĐường cái quan xuyên qua một rừng cọ

    Auto DraftMột khúc sông ở Huế

    Đập Bái Thượng ở Thanh Hoá (do người Pháp xây năm 1918 và là hệ thống thủy nông đầu tiên được xây dựng ở Trung Kỳ).
    Đập Bái Thượng ở Thanh Hoá (do người Pháp xây năm 1918 và là hệ thống thủy nông đầu tiên được xây dựng ở Trung Kỳ).

    Auto DraftBệnh viện ở Quãng Ngãi

    Auto DraftNhà máy vôi và xi-măng ở LongTho, gần thành phố Huế

    Auto DraftMột con đường ở Bình Giã (Bà Rịa – Vũng Tàu)

    Auto DraftMột bữa cơm nhà giàu.

    Auto DraftMột ông quan và các “đồ nghề” (điếu tráp, quạt…)

    Auto DraftBờ biển Đà Nẵng (Tourane)

    Auto Draft“Người Annam thích nước; giặt giũ là một trong những hoạt động thường xuyên của họ”

    Auto DraftThuyền binh.

    Auto DraftMột vở diễn

    Auto DraftGuồng quay đưa nước lên ruộng

    Auto DraftMột nghệ nhân đàn tam thập lục

    Auto DraftSản xuất đường

    Auto DraftMột người nông dân

    Auto DraftBức ảnh toàn cảnh về sinh hoạt bên trong một nhà giàu với nhiều hoạt động của nhiều thế hệ.

    Auto DraftThuyền tam bản

    Auto DraftSản xuất đường : Rót mật vào khuôn

    Auto DraftChợ quê

    Đôi lời về tác giả: “Tôi” trong bài này là bà Gabrielle M. Vassal – một phụ nữ người Anh lấy chồng là sỹ quan quân y người Pháp J.J. Vassal. Khi ông được bổ nhiệm làm việc ở Viện Pasteur Nha Trang, bà đã theo ông và có thời gian 3 năm ở đây. Trong khi ông bận rộn với công vụ và việc nghiên cứu những chứng bệnh nhiệt đới sau này sẽ làm ông nổi tiếng, bà đã thu vén công việc và để bớt nỗi nhớ nhà, đã bỏ công nghiên cứu cuộc sống xung quanh mình, thích thú tìm hiểu cảnh vật và con người. Bà quan sát cảnh quan, phong tục người An Nam với cặp mắt tinh tường rồi thuật lại một cách rõ ràng sinh động. Không chỉ quan sát, bà còn lặn lội đến tận nơi những dân tộc thiểu số sinh sống mà từ trước đến giờ ít ai biết rõ. Bà Vassal là tác giả của một vài cuốn sách được xuất bản ở châu Âu kể lại về cuộc sống, đất nước, con người của những nơi bà đã đến (In and Round Yunnan FouOn and Off Duty in AnnamMes Trois Ans d’Annam). Cuốn Mes Trois Ans d’Annam đã được dịch ra tiếng Việt với nhan đề Ba Năm Ở An Nam Hay Nha Trang 100 Năm Trước

    Auto DraftChân dung bà Gabrielle M. Vassal (1880 – 1959)

    Nguồn: http://belleindochine.free.fr

  • Thanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Thanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Thanh kiếm này được trưng bày tại bảo tàng Quân Đội Paris

    Xem thêm bài viết: Bộ sưu tập Kiếm & Đao của các danh tướng Việt Nam https://hinhanhvietnam.com/bo-suu-tap-kiem-dao-cua-cac-danh-tuong-viet-nam/

    Khách du lịch ghé qua Paris không thể không lại viếng Điện Quốc gia Phế binh (Hôtel National des Invalides) có tiếng nhiều nhờ đã chứa mồ của Vua Napoléon. Nhưng chớ nên quên trong tòa nầy còn có Viện Bảo tàng Quân đội (Musée de l’Armée) là một trong những viện lớn nhất thế giới về mỹ thuật, kỹ thuật và lịch sử quân sự. Đặc biệt Phòng Đông Phương, Cận Đông và Viễn Đông từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 (Sale Orient, Proche Orient et Extrême-Orient du 15ème au 19ème siècle) trưng bày nhiều khí giới Ba Tư, Ấn Độ, Tích Lan,…những thanh gươm Trung Quốc, Nhật Bản… bao quanh một thanh bảo kiếm được ghi là của vua Gia Long.

    Thanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Thanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Tôi không phải là người độc nhất tò mò đi tìm xem thanh gươm nầy. Nhưng tôi lại đã xin được ông Quản đốc Viện Bảo tàng mở tủ cho tôi chụp hình. Không biết bao giờ mới có dịp may như thế nầy, tôi đã chụp ngang, chụp dọc, chụp trên, chụp dưới,… Thanh kiếm gồm có hai phần: một lưỡi dài khoảng một thước và một cán ngắn bằng một phần năm lưỡi. Đầu cán là một đầu rồng, có thể đầu một con giao hay một con cù không sừng, bằng vàng chạm trổ. Có người Pháp cho nó giống một đầu con chó (Note E)(4). Cổ rồng nối liền đầu rồng và đốc kiếm (garde) làm thành đốc gươm (fusée) là một dãy bảy vòng ngọc thạch giống bảy đốt tre dính liền với nhau qua những đường gân bằng vàng với đằng cuối một vòng mạ vàng nằm giữa bốn chuỗi san hô xanh đỏ. Miệng rồng nhả ra một băng mạ vàng cũng mang phía ngoài bốn chuỗi san hô xanh đỏ uốn quanh về đốc kiếm làm thành cánh đốc kiếm (quillon). Ở đằng cuối, cánh đốc kiếm nầy mở rộng ra quanh lưỡi kiếm, có chạm trổ những hình lá và nạm những hột kim cương. Lưỡi kiếm hình hơi cong là một thanh thép sáng ngời, khắc ở phần trên một mặt trời nằm giữa mấy cuộn mây và tên gươm bằng ba chữ Hán: Thái A Kiếm. Tên nầy không phải ngẫu nhiên mà có.

    Trong hai cuốn Từ điển từ ngữ điển cố văn họcTừ ngữ văn Nôm1 có sự tích nầy: “Lúc nhà Tần chưa diệt được Ngô, Trương Hoa xem thiên văn thường thấy giữa sao Đẩu và sao Ngưu có luồng khí màu đỏ tía, các đao thuật đều nói đó là điềm báo nước Ngô đang buổi cường thịnh, chưa đánh được. Riêng Trương Hoa cho lời nói đó không đúng. Đến khi đánh lấy được Ngô rồi, luồng khí lại mạnh và sáng hơn. Trương Hoa mới đem chuyện hỏi Lôi Hoán, người giỏi về thiên văn thuật số. Lôi Hoán cùng Trương Hoa lên lầu cao quan sát một hồi lâu. Lôi Hoán nói: ‘Chỉ giữa sao Đẩu và sao Ngưu là có luồng khí lạ đó. Ấy là cái tinh của bảo kiếm ở Phong Thành xông lên tận trời đấy’. Trương Hoa nói: “Quả vậy, nay tôi muốn phiền anh ra làm quan lệnh ở đất ấy rồi ra công tìm gươm báu cho”. Lôi Hoán nhận lời. Ông đến Phong Thành, cho đào nền nhà ngục, thì tìm ra được một cái hòm đá nằm sâu dưới lòng đất hơn bốn trượng. Khi sáng lóe ra, bên trong có hai thanh gươm, một thanh có khắc chữ ‘Long Tuyền’, và một thanh khắc chữ ‘Thái A’. Đêm hôm đó không thấy luồng khí lạ ở giữa sao Đẩu và sao Ngưu nữa”.

    Kinh luân đã tỏ tài cao,

    Thớ co rễ quánh thủ dao Long Tuyền.

    Nguyên quán hai thanh kiếm trống Long Tuyền và mái Thái A nầy trong Tể tướngkiếm, trước mang tên Can Tương và Mạc Da trong Nguyên nhân kiếm được giải thích trong cuốn Thành ngữ điển tích từ điển2: “Ngô Hạp Lư đời Đông Châu giết anh lên ngôi, khiến Can Tương là một tên thợ rèn gươm có tiếng, rèn riêng cho mình một lưỡi gươm. Can Trương tìm sắt tốt vàng ròng, rồi lựa ba trăm con gái còn tơ đốt than nung lò ba tháng mà vàng không chảy. Vợ Can Tương là nàng Mạc Da nói, rèn cái gì mà không hóa thì cần phải có người để cúng mới nên. Mạc Da mới tắm gội sạch sẽ, cắt tóc nhổ răng, khiến người quạt lửa cho đỏ rối gieo mình vào lò than. Vàng sắt đều chảy. Can Tương lấy đó rèn hai lưỡi gươm, một lưỡi thuộc dương đặt tên là Can Tương, một lưỡi thuộc âm đặt tên là Mạc Da. Rồi can Tương đem lưỡi Mạc Da dâng cho Hạp Lư, còn lưỡi Can Tương thì dấu để lại cho mình. Hạp Lư biết được giận lắm, sai người qua đoạt. Can Tương lấy gươm liệng lên hóa rồng cỡi đi mất”. Sáu trăm năm sau, tới triều Tấn, tiếp theo là câu chuyện Lôi Hoán, Trương Hoa đã thấy ở trên. Thì ra Thái A Kiếm là lấy từ sự tích bên Tàu.

    Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,

    Dứt tình phó lưỡi Thái A cho nàng.

    Trong một bức thư viết cho ông Carnot năm 1922 để trả lời một câu hỏi của ông André Salles, Thanh tra Thuộc địa, ông Đại tá Payard, Phó Giám đốc Điện Quốc gia Phế binh tả lưỡi kiếm chỉ có một rãnh khoét (gorge d’évidement) (Note E)3, thành thử có tác giả, trong một thiên khảo cứu tìm tòi4, xác định thanh kiếm nầy là một sản phẩm Âu châu, chỉ có gắn vào một đốc kiếm Á châu thực hiện tại chỗ. Tuy nhiên, ở Viện Bảo tàng Quân đội Paris, bảo kiếm nầy được trình bày là thanh gươm của vua Gia Long. Thật hay không, cần phải có một bằng chứng, chẳng hạn một cái ảnh vua Gia Long mang kiếm hay một văn bản xác định thanh kiếm Thái A chính là của vua Gia Long. Ví như thật là của vua Gia Long thì ai đã đem biếu tặng kiếm cho vị quốc vương Việt Nam và trong điều kiện nào kiếm được đem về trưng bày trong tủ kính Viện nầy? Ông Quản đốc viện không có một tài liệu nào để giải thích sự kiện nếu không là một bản tin vắn tắt cho biết thanh kiếm được đem từ An Nam về sau cuộc viễn chinh đầu tiên (Note B).5 Nếu khó lòng biết được lúc nào kiếm đã đến với vị vua nhà Nguyễn, có thể đoán biết làm sao kiếm đã rời khỏi hoàng thành. Thanh nầy khác hẳn thanh kiếm vua Khải Định sau nầy hay đeo như thấy trong ảnh. Nó cũng không thể là thanh kiếm vua Hàm Nghi đã mang theo với chiếc ấn khi cùng triều thần xuất bôn, khởi hịch Cần Vương sau đêm kinh đô thất thủ vì một cặp kiếm cùng các bảo vật đã được phát hiện gần đây ở thôn Phú Hòa, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh6 đồng thời một thanh gươm khác “dùng để chém những dân phu chôn vàng” rỉ, mục, nhặt được bên cạnh một gốc cây tươi trên đồi Yên Ngựa ở vùng Mả Cú thuộc xóm Rôồng, thôn Đặng Hóa, xã Hóa Sơn.7 Ta không thể tưởng tượng một ông vua nào hay một vị đại thần nào đã đem dâng biếu cho một người ngoại quốc thanh kiếm của nhà vua, “một bảo vật lịch sử và tượng trưng quan hệ đến hạnh phúc và sự bảo tồn dân tộc” như vua Đồng Khánh đã nói với nhà văn Jules Boissière năm 1888 khi tiếp kiến ông nầy ở Huế và tỏ ý được hoàn lại (Note F).8 Nếu kiếm rơi vào tay người Pháp thì có thể là vì họ đã tự tiện đoạt lấy, đặc biệt vào lúc tình hình rối ben, không còn trật tự chẳng hạn vào lúc biến cố Ất Dậu 05/7/1885.

    Bộ Lại cho đến bộ Binh,

    Phố phường hai dãy nép mình cháy tan.

    Bao nhiêu của cải bạc vàng,

    Nửa thì nó lấy, nửa đốt tàn thành tro…

    (Vè Thất thủ kinh đô)

    Còn có câu hỏi tại sao vua Hàm Nghi khi xuất bôn không đem thanh kiếm nầy theo cùng với cặp kiếm của ông, trừ phi kiếm đã bị cướp mất trước hay trong thời gian biến cố. Dù sao, cướp bóc thời chinh chiến là chuyện thường thấy ở nhiều nơi, huống hồ quan quân thuộc địa còn làm những việc tầy trời như tháng giêng 1913, dưới triều vua Duy Tân, viên Khâm sứ Georges Mahé dám cho đào lăng vua Tự Đức để chiếm lấy những bảo vật, một điều điếm nhục đã gây nhiều phẫn nộ trong dân chúng cùng triều đình Việt Nam và cũng không ít tai tiếng trong giới bảo hộ đến nỗi sau đó thủ phạm bị triệu hồi về nước. Xin nhắc lại, cướp kiếm chỉ là một giả thuyết, đến nay chưa có một tài liệu nào chứng xác sự kiện. Sự can thiệp của J. Boissière không thấy có kết quả vì thanh kiếm luôn còn nằm ở Viện Bảo tàng Quân đội Paris. Và ở đây lại xảy ra một sự kiện khác cũng có phần lý thú.

    Ngày 03/10/1913, tờ báo Journal (Note A)9, đăng một tin nhỏ: Hôm qua, thứ năm là ngày Viện Bảo tàng mở cửa, lúc bốn giờ, sau lúc viện đóng cửa, những người canh giữ khám phá một tủ kính bị phá vỡ và đã bị mất cắp một thanh gươm An Nam, bao gươm và vòng đai. Những bảo vật nầy mạ vàng, nạm đá, ngọc, có một giá trị lớn. Cuộc điều tra chẳng đem lại kết quả gì. Những dấu in trên kính đã được ghi lại nhưng khách rất đông, phần lớn là người nước ngoài. Tủ kính đã được khôn khéo mở ra với những dụng cụ cắt thép tí hon. Ngày hôm sau, 04.10.1913, tờ báo Temps (Note B)10 cũng cho đăng tải một tin tương tự với chi tiết bao gươm bằng da nạm kim hoàn và cặp móc chạm trổ dát một viên đá quý lớn. Sau khi đọc tin nầy, lập tức ông André Salles, Thanh tra Thuộc địa, viết thư cho Trung tướng Niox, Giám đốc Viện Bảo tàng, Tư lệnh Tòa Quốc gia Phế binh, người có nhiệm vụ thực hiện cuộc điều tra với ông Guérin, để tố cáo những nhà cách mạng An Nam. Lời buộc tội nầy không có một bằng chứng nào, có thể chỉ phát xuất từ thái độ hiềm khích của ông André Salles đối với những chí sĩ Việt Nam. Ông Niox cũng không tin và cho biết thêm thanh gươm không bị mất cắp, chỉ cái bao gươm thôi (Note C).11 Theo Đại tá Payard, bao gươm không phải bằng vàng mà mạ vàng, hai vòng ngoài (chape) và đường viền đồng (bouterolle) đều nạm đá cả hai mặt. Móc vòng đai (crochet de ceinture) và khâu treo (bélière) bằng lụa và vàng nạm ngọc san hô, vòng đai bằng lụa và vàng cũng bị mất cắp cùng bao gươm (Note E).12 Cần giải thích thêm chăng bao gươm và đai gươm mềm, dễ xếp vào túi hơn thanh gươm dài cứng…

    Theo hai học giả quan tâm đến những bảo vật của hoàng gia thì vua Gia Long còn có một thanh gươm khác mang tên Thanh gươm quy y. “Thanh gươm này nguyên là bửu kiếm của tiên triều, thường dùng để chém đầu giặc, những kẻ phản quốc… Một điều lạ là nếu ngày mai có người bị giết thì đêm ấy gươm đã thoát ra khỏi bao. Vua Gia Long thấy thanh kiếm ưa giết người nên đem dâng cửa Phật và mới gọi là Thanh gươm quy y (Quốc triều chánh biên)”.13 Có lẽ là tình cờ, hai cái gươm của vua Gia Long đều có sự tích với cái bao: Thanh kiếm Thái A không còn bao nữa, còn Thanh gươm quy y tự thoát ra bao, bây giờ ở đâu? May ra, ví chi được trưng bày trước những cặp mắt dửng dưng của người ngoại quốc, nó được kín đáo thờ phụng như cặp kiếm của vua Hàm Nghi ở thôn Phú Hòa: “Một mái nhà tranh. Một tấm lòng thành. Một bảo tàng lòng dân. Một ngôi làng sơn cước cũng làm nên một cõi sống đẹp như huyền sử khi con người không quên quá khứ”.14

    Xô thành tiết đại thử 2007

    V.Q.Y.

    Tài liệu tham khảo

    1 Nguyễn Thanh Giang, Lữ Huy Nguyên, Từ điển từ ngữ điển cố văn học, (Hà Nội: Văn học, 1989), 569; Nguyễn Thanh Giang, Từ ngữ văn Nôm, TPHCN: Khoa học xã hội, 1998: 673.

    2 Diên Hương, Thành ngữ điển tích từ điển, (Đồng Tháp: Đồng Tháp, 1992), 117-118.

    3, 5, 8, 9, 10, 11, 12 L. Cadière, H. Cosserat, “Documents A. Salles”, Bulletin des Amis du Vieux Hué, 4 (1933), 295-301.

    4 Dominique Rolland, “Le sabre de l’Empereur Gia Long”, Bulletin de la Nouvelle Association des Amis du Vieux Hué, 9/2005, 3-17.

    6, 14 Văn Cầm Hải, “Gặp kiếm báu và voi vàng của vua Hàm Nghi”, www.tuoitre.com.vn, 10/02/2007.

    7 Nguyễn Quang Trung Tiến, “Theo dấu chân vàng của vua Hàm Nghi”, Huế Xưa Nay, 80 (3-4)/2007. 30-39.

    13 Bửu Diên, Hoàng Anh, “Thanh gươm của vua Gia Long, vị vua đầu tiên của triều Nguyễn”,  Nghiên cứu và Phát triển, 4 (34)/2001, 55-9.

  • Bộ trang sức của một Vương Phi thời nhà Nguyễn

    Nhà sưu tầm cổ vật Vũ Kim Lộc ở Sài Gòn vốn xuất thân từ nghề kim hoàn. Vì thế, những món đồ cổ bằng vàng, bạc và đá quý… luôn được anh quan tâm sưu tầm và nghiên cứu. Anh đã từng sưu tập được những cổ vật Champa, cổ vật Óc Eo hay cổ vật triều Nguyễn… bằng vàng, xứng đáng liệt hạng quốc bảo. Nhưng có lần anh nói với tôi: “Cổ vật bằng quý kim của Champa, Óc Eo hay của các triều đại phong kiến Việt Nam tôi gặp khá nhiều, nhưng tôi chưa bao giờ được cầm trên tay một món đồ vàng thời chúa Nguyễn. Trong khi, nghề kim hoàn lại là một thành tựu nổi bật của nền thủ công truyền thống thời chúa Nguyễn”.

    * Vàng và nghề kim hoàn thời chúa Nguyễn

    Đàng Trong vốn là “vùng đất của vàng”, nơi mà các tiền nhân Champa, Óc Eo… đã tạo nên biết bao kiệt tác nghệ thuật bằng quý kim vẫn còn lưu truyền cho đến đời nay. Vì thế, các chúa Nguyễn đã thực thi những chính sách để phát triển nghề khai thác vàng và nghề kim hoàn. Theo sách Phủ biên tạp lục do Lê Quý Đôn biên soạn vào năm 1776, thì các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã cấp phát lương thực, tiền công cho người dân để khuyến khích họ đi tìm vàng, khai thác vàng cho nhà nước. Các chúa cũng không hạn chế người dân buôn vàng và tự túc khai thác vàng, mà chỉ thu thuế và tạo điều kiện cho họ được kinh doanh và khai thác. Nhà nước cũng lập các đội tìm vàng chuyên nghiệp, giao cho các tướng lĩnh phụ trách. Không chỉ tìm vàng ở các vùng mỏ trong đất liền, các chúa Nguyễn còn lập đội Hoàng Sa, phái người đi đến các vùng biển đảo như Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa để thu nhặt vàng bạc, hàng hóa từ các tàu thuyền của nước ngoài bị đắm trong các vùng biển này. Triều đình nhà chúa còn lập 3 cơ quan gồm: Nội lệnh sử ty chuyên đi thâu nhận vàng, Ngân tượng ty chuyên việc tinh luyện vàng bạc và Nội kim tượng cục chuyên chế tác vàng thành phẩm và làm đồ trang sức để phục vụ cho nội cung và xuất khẩu. Theo các nguồn sử liệu viết về thời kỳ này, thì vào năm 1634, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho xuất khẩu sang Nhật Bản 50 cái bát và 50 cái đĩa, một nửa làm bằng vàng và một nửa làm bằng bạc. Cuốn hồi ký Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, một nhà sư người Trung Hoa có mặt ở Đàng Trong dưới triều chúa Nguyễn Phúc Chu, chép rằng các chúa Nguyễn dùng toàn đồ làm bằng vàng và bạc, chế tác rất công phu, còn các hạng người sang trọng thì mũ mão và yên cương ngựa của họ đều được trang sức bằng vàng bạc. Đàn bà con gái đều mặc hàng tơ lụa, cổ áo thêu hoa, coi vàng bạc như cát, lúa thóc như bùn.

    * Bộ trang sức của một vương phi thời chúa Nguyễn

    Một ngày, tôi vào Sài Gòn, ghé nhà Vũ Kim Lộc, anh khoe với tôi bộ ảnh chụp những món trang sức bằng vàng và bảo: “Đây là những cổ vật bằng vàng đầu tiên của thời chúa Nguyễn mà tôi tận mắt chứng kiến. Theo tôi, đây là trang sức của một bà phi đời chúa Nguyễn Phúc Khoát”.

    Bộ trang sức gồm một cái bác sơn bằng vàng để gắn trên chiếc mũ của các bậc vua chúa; 12 chiếc trâm hoa; 1 chiếc trâm phượng và 2 chiếc vòng tay, đều làm bằng vàng, gắn đá quý. Tất cả đều rất tinh xảo và sang trọng.

    Bác sơn là một dải trang sức, thường làm bằng quý kim, được chạm trổ công phu, trang trí cầu kỳ, để gắn lên mũ của vua, hoàng hậu, quan lại, quý tộc thời xưa. Chiếc bác sơn này dài 18,5 cm, nặng 42 g, được làm từ một miếng vàng mỏng, chạm lộng hình tản vân và văn thủy ba, làm nền cho các đồ án trang trí đính kèm gồm 3 hình chim phượng và 3 cụm hoa lá. Nhìn vào bố cục trang trí của các đồ án đính kèm, có thể nhận thấy số cụm hoa lá lẽ ra phải là 4, nhưng có lẽ cụm hoa lá ở ngoài cùng bên phải bác sơn đã bị thất lạc. Trên bác sơn còn có một hàng lỗ nhỏ, là nơi đã từng gắn các viên đá quý hoặc trân châu nhưng đã bị mất. Vì đồ án trang trí chủ đạo trên bác sơn là hình chim phượng, nên theo điển chế ngày xưa, thì đây là bác sơn trên chiếc mũ của hoàng hậu, vương phi.

    Bác sơn bằng vàng trang trí trên mũ vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
    Hình chim phượng bằng vàng gắn trên bác sơn. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Bộ trâm hoa gồm 12 chiếc, dài từ 9,4 cm đến 12 cm, tạo dáng như những cánh hoa. Phần đầu của những chiếc trâm là những cụm hoa lá bằng vàng, được tô điểm bởi những viên đá quý màu ngọc bích. Có 4 loài hoa được thể hiện trên bộ trâm, trong đó có hai loài hoa được nhận diện là hoa mai và hoa cúc. Phần chuôi để cài vào mái tóc của 12 chiếc trâm hoa này được làm bằng bạc.

    Chiếc trâm hoa mai của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Chiếc trâm hoa cúc của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Chiếc trâm phượng hoàn toàn làm bằng vàng, dài 14,25 cm, nặng 15 g. Phần đầu trâm thể hiện hình chim phượng đang ngậm chiếc lồng đèn rất tinh xảo. Thân chiếc trâm cũng chính là thân và đuôi của chim phượng, được tạo thành hai nhánh và hơi cong xuống ở phần đuôi. Đầu chim phượng được thể hiện rất sắc sảo, với mỏ quặp, mắt và đuôi mắt dài, có bờm ở trên đầu, dưới cằm và sau cổ. Mỏ chim phượng ngậm chiếc lồng đèn có tán che bên trên, khánh treo bên dưới và những chùm hoa văn treo xung quanh.

    Chiếc trâm phượng bằng vàng của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Bộ vòng tay gồm 2 chiếc, một chiếc có đường kính 6,18 cm, nặng 20,17 g, chiếc kia có đường kính 6,41 cm, nặng 20,36 g. Tất cả đều làm bằng vàng. Thân vòng đúc rỗng, mặt ngoài có 16 lỗ tròn, nổi trên nền hoa văn hình cánh hoa liên hoàn. Những lỗ tròn này là nơi gắn các viên đá quý nhằm tăng thêm giá trị của chiếc vòng. Phần khóa của chiếc vòng là một đồ án trang trí hình hai con rồng chầu một hạt châu (hay hạt đá quý) nay đã bị thất lạc.

    Vòng tay bằng vàng của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Đồ án lưỡng long trên vòng tay vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Hạt pha lê khảm trên vòng tay vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Bộ trang sức này được tạo tác một cách công phu với kỹ thuật điêu luyện chứng tỏ trình độ tay nghề của nghệ nhân chế tác món đồ này thuộc vào hạng thượng thừa. Đối chiếu các kiểu thức trang trí có trên bộ trang sức này với những miêu tả trong các nguồn sử liệu viết về mỹ thuật và thủ công mỹ nghệ thời chúa Nguyễn, đồng thời so sánh với những kiểu thức trang trí trên Đại hồng chung chùa Thiên Mụ (do chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc năm 1715), trên trán bia mộ của bà Chiêu phi họ Nguyễn (một vương phi thời chúa Nguyễn) ở Quảng Trị) và trên trán bia mộ bà Chiêu Nghi Trần Thị Xạ (vợ chúa Nguyễn Phúc Khoát) ở Huế, tôi đồng tình với ý kiến của Vũ Kim Lộc rằng đây là bộ trang sức của một vương phi thời chúa Nguyễn.

    Đồ án chim phượng trang trí trên Đại hồng chung chùa Thiên Mụ, đúc năm 1715. Ảnh. Trần Đức Anh Sơn.

    Đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia Nguyễn Chiêu phi. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.

    Bản dập đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia mộ Nguyễn Chiêu phi. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.

    Đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia mộ Chiêu Nghi Trần Thị Xạ. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.

    Và đây cũng là bộ bảo vật đầy đủ nhất và quý hiếm nhất của thời chúa Nguyễn mà giới nghiên cứu và sưu tầm cổ vật Việt Nam từng biết đến từ trước tới nay.

    Nguồn :Trần Đức Anh Sơn’s Blog

  • Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn

    TRANG SỨC CỦA QUYỀN UY VÀ ÂN THƯỞNG

    Hình ảnh các vị vua, hoàng hậu, hoàng tử… triều Nguyễn trên các bức ảnh chụp vào đầu thế kỷ XX thường được thể hiện trong trang phục triều hội, với các “phụ kiện” như cân đai, hia, mão và các món trang sức bằng vàng, ngọc và đá quý rất độc đáo. Tùy theo chất liệu và hình dáng, những món trang sức này được gọi là kim bài, kim khánh, kim bội ngọc bội. Đó không phải là thứ trang sức thông thường của vua chúa, quý tộc hay đình thần, mà là những phục trang thể hiện danh phận, quyền uy và vinh hạnh của người phục sức. Đó còn là những kỷ vật ghi nhận công trạng hay sự ân thưởng của nhà vua đối với những người có công lao với quốc gia và triều đình.

    Kim bài là những chiếc thẻ bài làm bằng vàng hình chữ nhật (8,5cm x 5cm), phía trên tạo hình tựa chiếc khánh, có lỗ để xâu dây đeo. Dưới triều Gia Long (1802 – 1820), triều đình cấp cho các quan trong Cơ Mật viện những chiếc thẻ bài bằng bạc (ngân bài) như một thứ “giấy thông hành” để họ ra vào Đại Nội. Đến năm 1834, vua Minh Mạng (1820 – 1841) bắt đầu cấp các thẻ bài bằng vàng (kim bài) có khắc 4 chữ Hán Cơ Mật đại thần thay cho các ngân bài được cấp trước đây. Với các chức quan không thuộc Cơ Mật viện, thì tùy theo chức tước và phẩm hàm, thẻ bài cấp cho họ có thể làm bằng vàng, bằng bạc mạ vàng hay bằng bạc.

    Kim bài quý nhất là của nhà vua, có khắc dòng chữ Hán Thái bình thiên tử trên nền hoa văn “lưỡng long” và có gắn 10 viên kim cương, bên ngoài có 3 đường viền kết bằng ngọc trai. Ngoài ra, nhà vua còn có kim bài khắc dòng chữ Hán Đại bang duy bình và có gắn 10 viên hồng ngọc.

    Kim khánh cũng được làm bằng vàng, được vua ban cho các tướng lĩnh, quan lại cao cấp vì những công lao của họ đối với triều đại và đất nước. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, kim khánh chỉ được thưởng cho các thành viên hoàng gia và các quan lại có điện hàm đại học sĩ (Tứ trụ).

    Từ năm 1873 trở đi, vua Tự Đức (1848 – 1883) còn ban thưởng kim khánh cho các quan chức cao cấp người Pháp ở Đông Dương để tỏ tình giao hảo. Từ triều Hàm Nghi (1884 – 1885) trở về trước, kim khánh chỉ có 2 hạng: đại hạng kim khánh (kim khánh hạng lớn) và kim khánh (kim khánh hạng thường), đều làm bằng vàng 8,5 tuổi nhưng khác nhau về kích thước, trọng lượng và hoa văn trang trí. Sang triều Đồng Khánh (1885 – 1889), kim khánh được phân thành 4 hạng: đại (hạng lớn), trung (hạng vừa), thứ (hạng dưới trung bình) và tiểu (hạng nhỏ). Đến năm 1900, vua Thành Thái (1889 – 1907) quy định kim khánh chỉ có 3 hạng, đều khắc dòng chữ Hán Thành Thái sắc tứ ở mặt trước, nhưng mặt sau thì phân biệt bởi các dòng chữ Hán: Báo nghĩa thù huân (hạng nhất), Gia thiện sinh năng (hạng hai) và Lao năng khả tưởng (hạng ba). Mỗi kim khánh đều có một chùm tua kết bằng các hạt ngọc trai, mã não và cườm nhiều màu nhập từ Ấn Độ. Đặc biệt, kim khánh của triều Khải Định (1916 – 1925) thường có các chữ Hán Khải Định ân tứ hoặc Ân tứ khắc chìm và được khảm ngọc trai trong lòng chữ. Những kim khánh này được đựng trong những chiếc hộp bằng bạc, chính giữa khắc 4 chữ Hán Khải Định niên tạo và có chữ ký nghệ nhân chế tác kim khánh khắc ở phía dưới. Riêng những kim khánh vua ban cho phái nữ thì các hoa văn hình rồng được thay thế bằng hình chim phụng.

    Kim bội là vật trang sức hoàng gia, chỉ xuất hiện từ năm 1889 trở đi. Kimvàng,  bộiđeo, treo. Kim bội là (vật bằng) vàng để treo, đeo. Kim bội dáng hình thuẫn hoặc hình chữ nhật cách điệu ở 4 góc. Một mặt của kim bội khắc các dòng chữ Hán ghi niên hiệu của vua như: Thành Thái niên tạo, Duy Tân niên tạo…, mặt kia khắc dòng chữ Hán Quỳnh diêu vĩnh hảo. Lúc đầu, vua Thành Thái cho đúc kim bội để thưởng cho những người có công, nhưng về sau kim bội chỉ được ban tặng cho phụ nữ, chủ yếu là các công chúa, để làm vật trang sức và thể hiện danh phận của họ. Do vậy nên dòng chữ Hán Quỳnh diêu vĩnh hảo trên kim bội được thay bằng các dòng chữ Hán: Hoàng trưởng nữ công chúa, Hoàng thứ nữ công chúa, hay Hoàng thứ nữ. Hoa văn trang trí trên kim bội thường là thuộc đề tài hoa thảo hay các dạng hồi văn chữ Thọ, chữ Công liên hoàn.

    Ngọc bội có hình dáng tương tự kim khánh nhưng được làm bằng ngọc quý, chủ yếu là bằng cẩm thạch. Một mặt của ngọc bội khắc chìm dòng chữ Hán thếp vàng Thụ thiên vĩnh mệnh, mặt kia khắc niên hiệu của vị vua đang tại vị như Thiệu Trị trân bửu, Khải Định trân bửu… Thời Nguyễn sơ, ngọc bội được coi là hàm tước danh dự hay quan huy và được ban thưởng cho cả nam lẫn nữ. Từ triều Khải Định trở đi, ngọc bội chỉ còn là một thứ trang sức biểu trưng cho vương gia và quyền quý.

    Việc chế tác kim bài, kim khánh, kim bội, ngọc bội dưới thời Nguyễn do Kim ngân tượng cục thực hiện. Kim ngân tượng cục là quan xưởng do vua Minh Mạng cho lập vào năm 1834 đặt dưới sự cai quản của Sở Nội tạo. Đây là nơi tập trung những người thợ kim hoàn giỏi nhất trong nước, chuyên chế tác các vật dụng bằng vàng, bạc và đá quý để phục vụ cho nhu cầu của hoàng gia và triều đình. Ngoài Kim ngân tượng cục, triều Nguyễn còn cho mở thêm hai tượng cục khác để chế tác các vật dụng có liên quan đến vàng bạc. Đó là Kim mạo tượng ty chuyên chế tạo mũ mão bằng vàng cho vua và hoàng gia và Kim tương tượng ty chuyên chế tạo các vật phẩm có thếp vàng.

    Vua, hoàng gia và đình thần thường đeo kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội trong các dịp quốc lễ, triều hội hay trong những dịp nghinh tiếp quốc khách. Cùng với các bộ triều phục lộng lẫy, những kim bài, kim khánh, kim bội, ngọc bội… của triều Nguyễn là những trang sức không thể thiếu trong trang phục cung đình Huế. Những trang sức ấy đã góp phần tạo dựng nét uy phong và quyền quý của một lớp người từng nắm giữ quyền lực ở Việt Nam một thuở. Để rồi giờ đây, khi buổi hoàng kim của triều Nguyễn đã trở thành quá vãng, những món trang sức ấy lại trở thành những cổ vật vô giá và là niềm mơ ước của những nhà sưu tập có tinh thần hoài cổ.

    Trong những di sản văn hóa do triều Nguyễn để lại, có một loại cổ vật có giá trị lịch sử, mỹ thuật và văn hóa rất cao, được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau, nhưng được gọi chung bằng một cái tên là thẻ bài. Đây là tên dùng để gọi một nhóm vật dụng, chữ Hán tự ghi là bài, nghĩa là “cái bảng, mảnh ván đề chữ làm dấu hiệu để yết thị; chiếc thẻ dùng để làm tin”. Từ tên chung là thẻ bài, tùy theo chất liệu làm nên chiếc thẻ mà có sự phân biệt là: kim bài (bài bằng vàng), ngân bài (bài bằng bạc), mộc bài (bài bằng gỗ), thạch bài (bài bằng đá)…; hay tùy theo công năng của từng chiếc thẻ mà gọi là: bội bài (bài để đeo), tín bài (bài làm tín vật), lệnh bài (bài giao việc)…

    Những thẻ bài này là vật dụng đặc biệt, dùng để ghi công hay để phân biệt danh tính, phẩm hàm, địa vị, chức phận của các hạng quý tộc, quan binh thời Nguyễn. Theo khảo cứu của Đặng Ngọc Oánh trong bài Les distintions honorifiques annamites (B.A.V.H. No.4/1915) và của L. Sogny trong bài Les plaquettes des dignitaires et des mandarins à la Cour d’Annam (B.A.V.H. No.3/1926), thẻ bài gồm hai loại: một loại là những huân chương, huy chương để tưởng thưởng công trạng hay huy chương danh dự của triều đình ban tặng cho các bậc vương công, đại thần, binh sĩ và cả những người nước ngoài phụng sự cho triều Nguyễn. Loại kia là những “phục trang” đặc biệt để phân biệt địa vị, phẩm hàm của những hạng người khác nhau trong xã hội. Ngoài ra, còn có những chiếc thẻ bài có giá trị như giấy thông hành, dùng để ra vào nơi cung cấm, hay được dùng như giấy ủy nhiệm của quan lại cấp trên giao việc cho thuộc hạ.

    Khởi thủy, vua Gia Long (1802 – 1820) cấp cho các quan trong Cơ Mật Viện một ngân bài (bài bằng bạc) để ra vào Đại Nội. Năm 1834, vua Minh Mạng (1820 – 1841) bắt đầu cho làm các thẻ bài bằng vàng, gọi là kim bài, có đề 4 chữ Hán: Cơ Mật Đại Thần để ban cho các quan lại cao cấp được sung vào Cơ Mật Viện. Tùy theo chức tước và phận sự, các thẻ bài do triều Nguyễn ban tặng cho các quan được làm bằng vàng, bằng bạc mạ vàng hay bằng bạc. Từ năm Thành Thái thứ 16 (1906) trở đi, quan lại văn võ từ hàm thất phẩm trở lên nhận thẻ bài làm bằng ngà, từ thất phẩm trở xuống nhận thẻ bài làm bằng sừng trâu. Bài của quân lính phục vụ trong Đại Nội thì làm bằng chì, sau đổi làm bằng gỗ mun.

    Quý nhất trong các loại thẻ bài chính là các kim bài của các bậc đế hậu hay quý tộc cao cấp. Đây là những món đồ trang sức của vua chúa, đồng thời cũng là vật thể hiện địa vị và đẳng cấp của người sở hữu chúng. Ngoài kim bài, vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa và các vương tôn còn đeo kim khánhngọc khánh. Nhà vua còn dùng kim bài, kim khánhngọc khánh như vật phong tặng, quà kỷ niệm hay vật ân thưởng cho quý tộc và quan lại cao cấp trong những dịp đặc biệt.

    Kim bài của các vua triều Nguyễn thường có hình chữ nhật (8,5cm x 5cm), có 4 chữ Hán Thái bình thiên tử bằng vàng chạm nỗi và nạm 10 viên kim cương. Ngoài ra còn có loại kim bài hạng hai, khắc 4 chữ Hán Đại bang duy bình bằng vàng chạm nỗi và nạm 10 hồng ngọc, xung quanh có viền hoa văn hình lưỡng long khắc chìm.

    Kim khánh làm bằng vàng có đính các hạt trân châu, mã não, là thứ huy chương quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, kim khánh chỉ dành riêng cho các thành viên hoàng gia và các quan lại có hàm đại học sĩ. Dưới triều Thiệu Trị (1841 – 1847) và Tự Đức (1848 – 1883) kim khánh gồm hai hạng: đại kim khánhkim khánh. Từ năm 1885 triều đình đổi thành bốn hạng: đại kim khánh có đề 4 chữ Hán Báo nghĩa thù huân; trung kim khánh (hình dáng như đại kim khánh như nhẹ hơn); kim khánh có đề 4 chữ Hán Sanh thiện thượng công tiểu kim khánh có đề 4 chữ Hán Lao năng khả tưởng. Mặt sau các kim khánh thường khắc ghi niên hiệu của triều vua cho chế tác và ban tặng kim khánh. Năm Thành Thái thứ 2 (1900), triều đình bỏ hạng trung kim khánh và thiết lập hệ thống kim khánh mới gồm ba hạng: nhất hạng kim khánh, nhị hạng kim khánh tam hạng kim khánh dùng để trao trặng cho quần thần và cho cả người Pháp. Mặt sau các kim khánh này có khắc các chữ Hán Đại Nam hoàng đế sắc tứ. Đến triều Khải Định (1916 – 1925), kim khánh làm bằng vàng, có đề 4 chữ Khải Định ân tứ, được đựng trong một hộp bạc, chạm trỗ hoa văn lưỡng long triều nhật, chính giữa mặt trong có một ô hình trái xoan đề 4 chữ Hán Khải Định niên tạo và phía dưới có chữ ký nghệ nhân chế tác ở bên trái. Đối với các kim khánh ban cho phái nữ thì xung quanh các Hán tự có trang trí 2 hình chim phụng.

    Ngọc khánh có hình dáng tương tự như kim khánh nhưng được làm bằng ngọc quý, chủ yếu làm bằng cẩm thạch. Mặt trước ngọc khánh thường khắc 4 chữ Hán Thụ thiên vĩnh mệnh. Mặt sau khác niên hiệu của vị vua đang trị vì vào thời điểm ngọc khánh được chế tác hay ban tặng.

    Việc chế tác các kim bài và kim khánh dưới thời Nguyễn được giao cho Kim ngân tượng cục thực hiện. Kim ngân tượng cục do vua Minh Mạng cho lập vào năm 1834, trực thuộc Sở Nội tạo. Đây là nơi trưng tập các thợ thủ công tài giỏi trong cả nước về nghề kim hoàn. Họ được tuyển vào làm việc ở Kim ngân tượng cục này để chuyên chế tác các vật dụng bằng vàng và bạc, cung ứng cho nhu cầu của hoàng gia và triều đình. Ngoài Kim ngân tượng cục, triều Nguyễn còn cho mở thêm hai tượng cục khác, chuyên chế tác các vật dụng liên quan đến vàng bạc. Đó là Kim mạo tượng ty chuyên chế tạo mũ mão bằng vàng cho vua và hoàng gia và Kim tương tượng ty chuyên chế tạo các vật phẩm có thếp vàng.

    Vua, hoàng hậu và các thành viên hoàng gia thường mang kim bài, kim khánh, ngọc khánh… trong các dịp thiết đại triều, trong những lễ lạt quan trọng của triều đình và trong các dịp nghinh đón quốc khách. Riêng vua Khải Định, thì ngoài kim bài, kim khánh ngọc khánh, nhà vua còn đeo thêm các huy chương như Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh… mà chính phủ Pháp trao tặng, nhất là trong các dịp lễ lạt có sự hiện diện của quan lại mẫu quốc.

    165 năm sau ngày nhà Nguyễn cáo chung, phần lớn kim bài, kim khánh, ngọc khánh… của triều Nguyễn đã trở thành cổ vật trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân ở nước ngoài. Trong một bài viết mới công bố gần đây, nhà nghiên cứu Philippe Truong (hiện sống ở Pháp) cho biết: Cách nay hai tháng, trên mạng eBay có đưa ra đấu giá một thẻ bài bằng bạc mạ vàng của An Tĩnh Công, giá bán cuối cùng lên đến 1919 euro. Ngoài ra, trong sưu tập huy chương của đại sứ Ý Antonio Benedetto Spada, hiện đang trưng bày tại bảo tàng Légion d’Honneur (Paris), có trưng bày 8 kim bài, 6 ngân bài và một số bài bằng ngà và sừng, kim khánh, ngân khánh, kim bội và kim tiền thời Nguyễn. Trong số đó, đáng chú ý nhất là kim bài khắc 4 chữ Hán Đại bang duy bình của vua Khải Định làm bằng vàng nạm 10 hồng ngọc, viền hoa văn lưỡng long và kim khánh bằng vàng có đề bốn chữ Hán Khải Định ân tứ, chứa trong một hộp bạc, khắc hoa văn lưỡng long triều nhật, chính giữa có một ô hình trái xoan đề chữ Khải Định niên tạo và chữ ký của nghệ nhân khắc ở phía dưới bên trái.

    Giới khảo cứu và dân chơi cổ ngoạn trong nước hiếm khi có dịp tận mắt chiêm ngưỡng những trân bảo ấy. May mắn lắm cũng chỉ nhìn thấy hình dáng “của hiếm” trong những catalogue in ấn ở ngoại quốc mà thôi. Âu đó cũng là một thiệt thòi cho giới sưu tầm và ưa chuộng cổ vật nước nhà vậy.

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim bài khắc dòng chữ Thái bình thiên tử của vua Khải Định

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn

     

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim bài khắc dòng chữ Đông cung hoàng thái tử của hoàng thái tử Vĩnh Thụy

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim bài khắc dòng chữ An Tĩnh công, triều Khải Định

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim khánh khắc hai chữ Ân tứ, triều Đồng Khán

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim khánh khắc dòng chữ Báo nghĩa thù huân, triều Khải Định

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim khánh khắc dòng chữ Khải Định ân tặng

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim bội khắc dòng chữ Hoàng trưởng nữ công chúa

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim bội khắc dòng chữ Hoàng thứ nữ công chúa

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn

     

     

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Ngọc bội khắc dòng chữ Thiệu Trị trân bửu
    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Ngọc bội khắc dòng chữ Khải Định trân bửu

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Chân dung vua Đồng Khánh mặc hoàng bào, đeo ngọc khánh, tay cầm hốt trấn khuê, ngự trên ngai vàng

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Vua Thành Thái mặc long bào, đeo ngọc khánh và kim tiền
    Vua Khải Định mặc trang phục kiểu Âu châu, đội nón, đeo kim bài, ngọc khánh và huy chương (do người Pháp tặng)
    Vua Khải Định mặc trang phục kiểu Âu châu, đội nón, đeo kim bài, ngọc khánh và huy chương (do người Pháp tặng)

    Vua Bảo Đại mặc quốc phục, đeo kim bài và huy chương (do người Pháp tặng)
    Vua Bảo Đại mặc quốc phục, đeo kim bài và huy chương (do người Pháp tặng)

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Hoàng tử Bảo Long mặc quốc phục, đeo kim bài và ngọc khánh

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Hoàng tử Bảo Long mặc quốc phục, đeo kim bài và huy chương (do người Pháp tặng)

    Nguồn : Trần Đức Anh Sơn’s Blog

  • Trận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa học

    Trận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa học

    Trận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa học

    Trận thủy chiến ngày 09/04/1288 trên sông Bạch Ðằng giữa quân Mông Cổ và quân ta, dưới triều đại nhà Trần, đã được nhiều sách sử (1)(2) kể lại. Ðặc biệt là trong trận này, quân ta dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn đã dựa vào địa thế, địa hình để đánh trận mai phục, đóng cọc trong lòng sông để cản thuyền địch, và lợi dụng lúc thủy triều rút xuống để dòng chảy đẩy thuyền địch vào bãi cọc. Mấy chục năm sau trận chiến, nhà văn Trương Hán Siêu (? – 1354) đã thăm viếng trận địa này, gặp và hỏi ý các bô lão đã chứng kiến sự kiện, và viết bài « Bạch Ðằng Giang phú » nổi tiếng và còn được lưu truyền.

    Ngày nay chúng ta đã xác định được vị trí bãi cọc và tìm lại được một số cọc thời xưa.

    Năm 2000, tàu con thoi Endeavour đã dùng radar để đo cao độ trên phần lớn các lục địa trong chương trình SRTM (Shuttle Radar Topographic Mission) (4).

    Cao độ Z phần đất Việt Nam được đặt trên trang Web (5), cứ mỗi ô vuông kích thước (3 giây Kinh)* (3 giây Vĩ) địa cầu (khoảng 90m*90m trên mặt đất) có một trị Z.

    Tức là cho mỗi ô vuông địa cầu (1 độ Kinh) *(1 độ Vĩ) ta có 1200*1200 trị của Z.

    Trên trang Web (5) thì có mảng cao độ Z cho ô vuông (5 độ Kinh)*(5 độ Vĩ) : mỗi  mảng chứa 36 triệu trị Z.

    Tôi đã tải xuống những mảng (5 độ*5 độ) và trích ra thành những mảng nhỏ hơn (1 độ*1 độ), mỗi mảng chỉ có 1.44 triệu Z, và sắp xếp thành bảng (ma trận) 1200 hàng* 1200 cột. Toàn thể đất liền Việt Nam (và những đảo gần bờ) được chứa trong 57 ô vuông (1 độ Kinh*1 độ Vĩ).

    Tôi đã dùng MatLab để xử lý cao độ Z của vùng đất trận địa Bạch Ðằng và vẽ các hình 1, 2 và 3.

    Hình 1 cho thấy toàn thể trận địa trên vùng đất vuông khoảng (10 km*10 km) và hình 2 và 3 cho vùng đất (4 km*10 km) hai bên bờ sông Bạch Ðằng, khi ta đứng trên đỉnh núi Tràng Kênh nhìn về thượng lưu, nơi khúc sông quanh chuyển hướng 90° và nhìn về hạ lưu, nơi có bãi cọc và Ghềnh Cốc.

    Trận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa họcTrận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa họcTrận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa học

    Trên một vùng đất rộng như vậy, nếu ta có cùng tỉ lệ cho độ cao Z và độ ngang dọc X, Y, thì rất khó nhìn địa thế. Nên ở đây tôi đã nhân Z với 10, để ta thể hiện địa thế rõ ràng hơn.

    Tôi cũng tải xuống bản đồ hàng hải 93626 của NGA từ trang Web (6), để xác định vị trí của Ghềnh Cốc (Hình 4).

    Trận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa học

    Trương Hán Siêu đã dùng thuyền nhỏ, xuôi dòng từ cửa Ðại Than (gần Hà Nội, nơi một phần nước sông Hồng chảy vào sông Ðuống) để đến sông Bạch Ðằng :

    Bèn giữa dòng chừ buông chèo,

    Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.

    Qua của Ðại Than, ngược bến Ðông Triều,

    Ðến sông Bạch Ðằng, nổi trôi mặc chèo.

    Lớp lớp sóng kình muôn dặm,

    Xanh xanh đuôi trĩ một màu.

    Nước trời một sắc : phong cảnh ba thu.

    (Nhng dòng viết nghiêng ly t bn dch Bch Ðng Giang phú, ngưi dch Ðông Châu Nguyn Hu Tiến và Bùi Văn Nguyên)

    Ðầu tháng 4 năm 1288, đoàn chiến thuyền Mông Cổ do Ô Mã Nhi thống lĩnh bắt đầu rút lui từ Vạn Kiếp cũng theo tuyến thủy này để ra biển. Ngày 09/04/1288, đoàn thuyền đến cuối sông Ðá Bạc, chỗ dòng chảy chuyển hướng đột ngột để đổ nước vào sông Bạch Ðằng (vị trí quân ta, quân địch, bãi cọc được lấy từ sơ đồ « Chiến thắng Bạch Ðằng ») (1).

    Trên hình 1, ta thấy khi còn trên sông Ðá Bạc và nhìn về phía sông Bạch Ðằng, thì sông Bạch Ðằng hoàn toàn bị che khuất bởi nhiều dãy đồi cao khoảng 100 m, chạy dài theo sông Ðá Bạc: quân địch chỉ có thể  phát hiện trận địa mai phục vào lúc cuối cùng ! Nhất là còn hăng say đuổi theo chiến thuyền ta giả thua rút chạy để nhử thuyền địch vào trận địa mai phục, (trải dài khoảng 4 km hai bên bờ sau khúc sông quanh.). Lúc đó thủy triều xuống, nước chảy xiết.

    Theo bản đồ cho địa hình đáy lòng sông Ðá  Bạc (hình 4), ta thấy hố nước sâu 5m – 7m nằm bên bờ trái khúc sông quanh (bờ lõm), khi đến giữa sông Bạch Ðằng thì chuyển sang bờ phải, và sâu tới 16m – 18m.

    Có nghĩa là dòng chảy chủ lưu khi thủy triều xuống đi từ bờ trái chuyển sang bờ phải để tránh Ghềnh Cốc và chảy ra cửa sông. Như vậy thuyền nhỏ của Trương Hán Siêu, « nổi trôi mặc chèo », cũng tự nhiên trôi ra biển, mà không vướng mắc Ghềnh Cốc.

    Trương Hán Siêu diễn tả hình ảnh đoàn chiến thuyền Mông Cổ hùng hổ đuổi theo chiến thuyền ta đang theo triều rút chạy vào sông Bạch Ðằng (Hình 2):

    « Ðương khi :

      Muôn đội thuyền bày, rừng cờ phấp phới,

      Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.

      Thắng bại chửa phân, Bắc Nam lũy đối.

      Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ :

      Bầu trời đất chừ sắp hoại. »

    Theo hình 4, nếu thuận xuôi theo dòng chủ lưu khi triều rút, thì chiến thuyền Mông Cổ sẽ dồn sang bờ phải và ra biển mà không mắc phải bãi cọc và Ghềnh Cốc. Nhưng bị quân mai phục đánh dạt sang bờ trái, thuyền trôi đến cửa sông Chanh thì vướng bãi cọc và xa hơn nữa thì vướng Ghềnh Cốc, nên bị lật nghiêng và chìm đắm.

    Ðại quân của vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông lại kịp thời đến tiếp ứng:

     « Bên sông các bô lão, hỏi ý ta sở cầu.

      Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.

      Vái ta mà thưa rằng :

      Ðây là chiến điạ buổi Trùng Hưng, Nhị Thánh bắt Ô Mã ;

      Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô Chúa phá Hoằng Thao. »

    Nên chỉ trong một ngày trời mà :

    « Muôn đội thuyền bay » (khoảng 400 chiến thuyền địch) đã bị xóa sổ. Thượng Hoàng sai dẫn hai tướng giặc bị bắt Ô Mã Nhi và Tích Lê Cơ lên thuyền ngự, cùng ngồi nói chuyện với chúng và uống rượu vui vẻ ! Ðứng từ đỉnh gần bờ của dãy núi Tràng Kênh, và nhìn về hạ lưu, nơi của sông Chanh (Hình 3), người hậu thế chỉ còn thấy :

    « Bờ lau xào xạc : bến lách đìu hiu.

      Sông chìm giáo gẫy : gò đầy xương khô.

      Buồn vì cảnh thảm : đứng lặng giờ lâu.

      Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

      Mà nay dấu vết luống còn lưu. »

    Ðể kết luận thì những lý do quân ta thắng trận là ở việc quân ta tập trung, lợi dụng nơi đất hiểm yếu để mai phục (dãy Tràng Kênh che khuất sông Bạch Ðằng, dòng nước chuyển hướng đột ngột khi chảy từ Ðá Bạc vào Bạch Ðằng, Ghềnh Cốc trở thành nông cạn khi triều xuống). Hơn nữa, quân ta đã tăng cường hiệu lực của Ghềnh Cốc bằng bãi cọc ở đầu sông Chanh, và lợi dụng dòng nước chảy xiết khi triều rút để thuyền địch trôi nhanh và khó điều khiển.

    Nhưng theo Trương Hán Siêu, không chỉ có những lý do nêu trên để giải thích thắng trận :

    « Anh minh hai vị Thánh quân,

      Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

      Giặc tan muôn thuở thăng bình,

      Tại đâu đất hiểm,

    ………………….. »

    ….và phiền quý bằng hữu tìm đọc Bạch Ðằng Giang Phú để biết kết luận của Trương Hán Siêu.

    Nguyễn Triệu Đồng 

    Nguồn: toasang-ugvf.org

  • Mạc Tư Khoa là địa danh nào?

    Mạc Tư Khoa là địa danh nào?

    Mạc Tư Khoa là tên gọi theo Hán Việt của Mát-xcơ-va hay tiếng Anh là Moscow. Mạc Tư Khoa trước đây là thủ đô của liên bang Xô Viết. Sau khi liên bang Xô Viết tan rã vào năm 1991, thì ngày nay Mạc Tư Khoa hay Mát-xcơ-va là thủ đô của Liên bang Nga.

    Xem thêm: Sửu nhi là gì – Inbox là gì – Logistics làm gì hay Nam Vang ở đâu

    Mạc Tư Khoa ở đâu?

    Mạc Tư Khoa như ở trên đã nói là nằm ở Nga hiện nay. Cụ thể là thuộc về khu vực Châu Âu hiện nay. Đến với Mạc Tư Khao thì bạn không thể bỏ qua những công trình kiến trúc vĩ đại như cung điện Kremli ( điện Cẩm Linh), Quảng trường Đỏ,…

    Mạc Tư Khoa là địa danh nào?
    Mạc Tư Khoa là địa danh nào?

    Ngoài ra còn có những nơi khác nên ghé để thăm quan như:

    • Tổ hợp Nhà hát Lớn và Nhà hát Nhỏ.
    • Kolomenskoye
    • Trang viên Kuskovo
    • Manezh
    • Tháp Ostankino, tháp truyền hình cao nhất châu Âu
    • Trang viên Ostankino
    • Trang viên Tsaritsyno
    • Trang viên Kuzminki
    • Viện bảo tàng Pushkin – bảo tàng mỹ thuật
    • Nhà thờ lớn Vasily Blazhenny
    • Tháp phát thanh Sukhov
    • Nhà thờ Chúa Cứu thế
    • Viện bảo tàng Tretyakov
    • Trung tâm triển lãm toàn Nga
    • Vườn bách thú Moskva
    • Tòa nhà trường Lomonosov và phong cảnh.

    Hy vọng qua bài viết Mạc Tư Khoa là gì và ở đâu đã giúp các bạn giải đáp được thắc mắc về Mạc Tư Khoa.

    Trong số những bài hát viết về Bác, thì Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò Ví dặm của nhạc sĩ Trần Hoàn, phổ thơ Đỗ Quý Doãn quê ở Quảng Bình đã có một phong vị đặc biệt. Chuyện kể rằng vào những năm Bác hoạt động ở Liên Xô ( Nga) thì Bác đã xem một buổi diễn văn nghệ của các sinh viên Việt Nam. Trong những tiết mục văn nghệ thì có một tiết mục hát về điệu hò Ví dặm là làn điệu dân ca quen thuộc ở quê hương miền Trung ( Nghệ An – Hà Tĩnh). Nhưng khi nghe làn điệu vang lên tại mảnh đất Mạc Tư Khoa – nơi “Đất khách quê người”. (Matxcova – Nga) làm Bác nhớ lại quê hương “Giữa Mạc Tư Khoa, tôi nghe câu hò Nghệ Tĩnh. Ôi câu hò xứ sở thắm đượm tình quê…”.

    Sau này bài hát có lần đã được đổi tên, nhạc sĩ Trần Hoàn kể: có lần, ông có dịp đặt chân đến Pra-ha (Thủ đô Tiệp Khắc cũ), và dự một đêm văn nghệ của những người Việt Nam đang sinh sống, học tập ở đây. Một cô gái đến xin phép Trần Hoàn về việc thay tên bài hát: đổi Mạc-Tư-Khoa thành Pra-ha (Giữa Pra-ha nghe câu hò Ví dặm). Nhạc sĩ đã cười và chấp nhận. Ông nói với tôi: “Kể thì cũng kỳ, nhưng công chúng người ta ưa thích tác phẩm của mình, lại “linh hoạt”, “sáng tạo” thì sao nỡ không chấp nhận”.

  • Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa – Việt Nam

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa – Việt Nam

    Mặc dù bản đồ này không phải là không sai sót, nhưng tôi nghĩ rằng nó là, và có thể… tốt nhất và chi tiết nhất mà trước nay chưa hề xuất hiện

    – Giám mục Jean-Louis Taberd, Đại diện Tông Tòa Đàng Trong

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Một bản đồ hiếm hoi về Việt Nam vào thế kỷ XIX, ít được chú ý ở phương Tây, đang nhận được sự quan tâm đặc biệt ở Việt Nam. Bản đồ này xuất bản năm 1838, là một trong những tư liệu được trích dẫn để ủng hộ cho các tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, ý nghĩa của nó còn vượt xa hơn giá trị chứng lý trong cuộc đấu tranh hiện nay của Việt Nam đối với Trung Quốc về quần đảo Hoàng Sa. Nhìn rộng hơn, bản đồ này là một sự hợp nhất rất đáng chú ý giữa bản đồ hành chính truyền thống của Việt Nam và bản đồ phương Tây. Bản đồ này cũng cung cấp một bản chụp nhanh về Đông Dương trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khi triều nhà Nguyễn đang củng cố quyền lực cho một Việt Nam vừa mới thống nhất và trước khi thực dân Pháp xâm chiếm [Việt Nam] cũng trong thế kỷ này.

    Tấm bản đồ

    Tên của bản đồ là An Nam đại quốc họa đồ (Bản đồ của Đế quốc An Nam)[1] được in bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Hán mà học giới Việt Nam từng sử dụng, chữ Latin và chữ Quốc ngữ – một hệ thống Latin hóa [tiếng Việt] được phát triển bởi các nhà truyền giáo phương Tây và được sử dụng phổ biến ở Việt Nam ngày nay. Bản đồ này thể hiện quan điểm mở rộng bờ cõi của vương triều Nguyễn, bao gồm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, phần phía đông Campuchia, các tiểu quốc của Lào và một khu vực rộng lớn ở phía tây sông Mekong (nay là vùng đông bắc Thái Lan).

    Xuất bản tại Calcutta (Ấn Độ) bởi The Oriental Lith. Press, bản đồ có kích thước 84 x 45 cm với rất nhiều chi tiết, gồm nhiều địa danh được in bằng chữ Quốc ngữ của Việt Nam. Trong một mức độ nào đó, đây có lẽ là bản đồ [kiểu] châu Âu đầu tiên được xuất bản với nhiều dữ liệu địa lý tương đối chính xác về Việt Nam và các nước láng giềng (Hình 1).

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 1. An Nam đại quốc họa đồ [Bản đồ của Đế quốc An Nam], xuất bản như một phụ bản trong Dictionarium latino-anamiticum bởi Giám mục Jean-Louis Taberd, 1838. 84 x 45 cm. Nguồn: Sưu tập bản đồ của Thư viện Olin, Đại học Cornell) (G8005 1838 .T3)

    Đức Giám mục và cuộc đàn áp chống lại Công giáo tại Việt Nam

    Người được xem là “cha đẻ” của tấm bản đồ này là Giám mục Jean-Louis Taberd (1794 – 1840). Taberd sinh ra ở Saint-Étienne (Pháp), thụ phong Linh mục năm 1817 và ba năm sau đó thì đến Đàng Trong với tư cách là giáo sĩ thuộc Hội Thừa sai hải ngoại Paris [Société des Missions Étrangères de Paris (MEP)]. [2] Ông đến [Đàng Trong] vào thời kỳ khó khăn, ngay sau khi Gia Long (cầm quyền: 1802 – 1820), vị hoàng đế đầu tiên của triều Nguyễn thăng hà. Người kế vị là Minh Mạng (cầm quyền: 1820 – 1841) đã bắt đầu thời kỳ cai trị lâu dài của mình. Công giáo dưới triều Gia Long phát triển rất mạnh mẽ nhờ vai trò quan trọng của vị Đại diện Tông Tòa người Pháp là Pierre Pigneaux de Béhaine (Giám mục Bá Đa Lộc, 1741 – 1799) trong việc ủng hộ cuộc đấu tranh thống nhất Việt Nam của Gia Long. Tuy nhiên, Minh Mạng lại là người hẹp hòi, và vào giữa những năm 20 của thế kỷ XIX, Taberd bị cáo buộc đã sách nhiễu các giáo sĩ và các giáo dân ở địa phương.[3] Mặc cho hoàn cảnh hiềm khích ngày càng gia tăng, Taberd vẫn phục vụ tại nhiều địa phương khác nhau ở Đàng Trong, trước khi Minh Mạng triệu ông ra Huế vào năm 1827 để làm việc như một người phiên dịch, với một chủ ý rõ ràng nhằm ngăn cản hoạt động truyền giáo. Cũng trong năm này, những nỗ lực truyền giáo trước đó của Taberd đã được ghi nhận khi ông được bổ nhiệm làm Giám mục Isauropolis và là Đại diện Tông Tòa Đàng Trong (bổ nhiệm năm 1830).

    Taberd có thể đã đào thoát khỏi triều đình Minh Mạng [ở Huế] vào năm 1828 nhờ sự can thiệp của Lê Văn Duyệt, Phó vương cai quản vùng đất phía nam của Đàng Trong, từng là Tổng trấn Gia Định thành / Sài Gòn. Taberd trải qua những năm tiếp theo ở đây dưới sự che chở của Lê Văn Duyệt. Nhưng ngay sau khi Lê Văn Duyệt qua đời vào năm 1832, thì nơi đây đã nổ ra cuộc nổi dậy chống lại Minh Mạng, và nhà vua nghi ngờ người Công giáo địa phương đã trợ giúp cho cuộc nổi dậy này. Năm 1833 trở thành một năm tồi tệ với tất cả những người theo Công giáo – không chỉ với riêng giáo dân vùng Gia Định / Sài Gòn – khi vua Minh Mạng ban hành một sắc lệnh chống lại tất cả những người theo Công giáo trên toàn quốc. Vì vậy, Giám mục đã khôn ngoan rời khỏi Đại Nam. Sau thời gian tạm trú ngắn ở Xiêm (Thái Lan) và Penang (thuộc Malaysia), Taberd đến sống ở Calcutta (Ấn Độ) – nơi ông được bổ nhiệm làm Đại diện lầm thời Tông Tòa Bengal (Ấn Độ) vào năm 1838. Khi ở Calcutta, Taberd đã xuất bản hai bộ từ điển quan trọng [Nam Việt dương hiệp tự vị Tự vị Latinh Annam]Ông cũng đã tu chỉnh bộ Từ điển Việt – Latin [Dictionarium Latino Anamiticum (Tự vị Latinh Annam)] do Giám mục Pigneau de Béhaine khởi xướng trước đó, và biên soạn cuốn từ điển đầu tiên của chính mình, xuất bản tại Calcutta vào năm 1838. Tấm bản đồ của ông, An Nam đại quốc họa đồ, đã được đính kèm ở phần sau của quyển từ điển này. Cũng trong thời gian trên, có hai bài báo [của Taberd] được đăng tải trên tạp chí của Hội châu Á ở Bengal, mà Taberd đã khảo về địa lý xứ Đàng Trong và tấm bản đồ của ông.[4] Taberd qua đời ở Calcutta vào năm 1840, ngay sau sinh nhật lần thứ 46 của mình.

    Quần đảo Hoàng Sa

    Các cuộc xung đột về chủ quyền lãnh thổ hiện nay trên Biển Đông đã mang lại một danh tiếng mới cho bản đồ của Giám mục [Taberd], mà lúc này được coi là bằng chứng củng cố yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, đã bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974.[5] Rìa phía đông của tấm bản đồ này đã miêu tả Paracel seu Cát Vàng [Paracel còn gọi là Cát Vàng] nằm phía trên vĩ tuyến 16 (Hình 2). (Cát Vàng hay Golden Sands là một trong những cái tên sớm nhất mà người Việt đặt cho quần đảo Paracel, nay thường gọi là [quần đảo] Hoàng Sa). Bổ sung cho việc gộp những hòn đảo vào bản đồ của mình, Taberd đã viết rằng Gia Long tuyên bố các đảo này thuộc về Việt Nam từ năm 1816. Trớ trêu thay, theo nhìn nhận đương thời về những hòn đảo này, Taberd cho rằng quần đảo Hoàng Sa ít có giá trị và rằng không quốc gia nào muốn tranh chấp chủ quyền với Việt Nam:

    Pracel hay Paracels [quần đảo Hoàng Sa] là một mê cung đầy những đảo nhỏ, đá và bãi cát trải trên một khu vực đến 11 độ vĩ Bắc [không chính xác – Meinheit], 107 độ kinh Đông … Tuy quần đảo này không có gì ngoài đá tảng và những cồn lớn, nó hứa hẹn nhiều bất tiện hơn là thuận lợi, vua Gia Long vẫn nghĩ rằng ông sẽ mở rộng thêm lãnh thổ bằng cách chiếm thêm vùng đất đầy buồn chán này. Năm 1816, ông đã long trọng đến cắm cờ và chính thức chiếm hữu những hòn đảo này, mà dường như không một ai sẽ tranh giành với ông”.[6]

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 2. [chi tiết] Paracel seu Cát Vàng [Paracel hoặc Cát Vàng]. Quần đảo Hoàng Sa được hiển thị ở phía bên phải, phía trên vĩ tuyến 16. Taberd đã viết rằng Việt Nam đã sở hữu các hòn đảo trong một cuộc thám hiểm năm 1816, nhưng ông coi chúng là một sự mở rộng lãnh thổ buồn chán của Việt Nam mà không quốc gia nào khác muốn tranh chấp.

    Trên thực tế, Gia Long không đích thân đến mà cử một đội thám hiểm ra quần đảo Hoàng Sa vào năm 1816. Dường như các thông tin về quần đảo Hoàng Sa mà Taberd có được, có khả năng là từ cuốn hồi ký của Jean-Baptiste Chaigneau (1769 – 1832), một cựu sĩ quan hải quân người Pháp, phục vụ như là một công thần dưới triều Gia Long.[7]

    Việc mở rộng bờ cõi của đế chế An Nam

    Mặc dù sự miêu tả về quần đảo Hoàng Sa của Taberd trong tấm bản đồ của ông đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm ở Việt Nam hiện nay, nhưng các yếu tố khác của bản đồ này, mà trước đó ít nhận được sự chú ý, cũng càng trở nên đặc biệt quan trọng. Điều trước tiên, là tấm bản đồ này đã cung cấp một bức tranh tổng thể về mối quan hệ của triều Nguyễn ở Việt Nam với các nước láng giềng trong những năm đầu thế kỷ XIX. Sau khi chứng tỏ sức mạnh, Gia Long đã nhanh chóng khẳng định vai trò trung tâm của Việt Nam ở Đông Nam Á lúc bấy giờ, bằng cách sử dụng mô hình triều cống của Trung Hoa. Điều này đã khiến cho Việt Nam và nước Xiêm đang bành trướng bị đặt vào sự xung đột đối với các nước yếu như Campuchia và các tiểu quốc của Lào. Bản đồ của Taberd cho thấy “Đế chế Việt Nam” (An Nam quốc seu Imperium Anamiticum) đã mở rộng vượt ra ngoài biên giới của Việt Nam, bao gồm một nửa Campuchia, các tiểu quốc của Lào và một phần lãnh thổ đáng kể ở phía tây sông Mekong, mà ngày nay là vùng đông bắc Thái Lan (cao nguyên Korat).

    Campuchia: Campuchia từ lâu đã mất vùng lãnh thổ ở đồng bằng sông Mekong cho người Việt, nhưng trong những năm đầu thế kỷ XIX, sự cạnh tranh khốc liệt giữa Xiêm và Việt Nam [vẫn] đang diễn ra, khi cả hai quốc gia này đều hậu thuẫn các phe phái ở Campuchia trong việc kế vị. Ngoài việc điều khiển gián tiếp, Việt Nam thực sự đã tìm cách thôn tính Campuchia, hình thành bộ máy hành chính được tổ chức chặt chẽ, do quan lại và tướng lĩnh Việt Nam điều khiển, để thay thế cho hệ thống quyền lực kém hiệu quả hơn ở Campuchia và phần còn lại ở Đông Nam Á. Hệ thống hành chính của Việt Nam đã được thiết lập qua nhiều thời kỳ, với cấu trúc chưa hoàn thiện cho đến năm 1834, sau khi Taberd đã rời Việt Nam. Tuy nhiên, Taberd vẫn tìm hiểu về sự phát triển ở Đàng Trong và Campuchia. Từ Bengal, ông viết rằng vào năm 1835 hoặc đầu năm 1836, Đế chế An Nam tuyên bố Campuchia – Nam Vang – đặt dưới sự bảo hộ của Đế chế và ông cho rằng “[đế chế An Nam] đã biến đổi đất nước [Campuchia] thành các tỉnh” trên bản đồ của mình[8] (Hình 3).

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 3. [chi tiết] Campuchia dưới sự cai trị của Việt Nam. Bộ máy hành chính có tính tổ chức cao của Việt Nam (Trấn và Phủ) được thể hiện một phần. Địa danh trước đó của Khmer có tên tiếng Việt mới (Ví dụ. Phnom Penh gọi là Nam Vang thành). Các biên giới được đánh dấu cho thấy sự thống trị của Xiêm phía tây Campuchia. Trong những năm 1840, Việt Nam đã buộc phải từ bỏ tham vọng thôn tính Campuchia.

    Như mô tả trên bản đồ của Taberd, một đường ranh giới phân chia giữa Campuchia và Xiêm ở phía tây (Băt Tâm bâng, tức tỉnh Battambang) và ở phía đông, là “vương quốc Campuchia cổ đại” (Antiquum Regnum Cambodiӕ) đã bị chia thành các đơn vị hành chính Việt Nam. Hai đơn vị lãnh thổ ở khu vực phía đông được ghi là bảo hộ hoặc trấn (Nam Vang Trấn và Gò Sặt Trấn), và nhiều tỉnh hoặc phủ được xác định (chẳng hạn: Vịnh Thâm PhủPhố Phủ). Một số địa danh được gọi bằng tiếng Khmer và bằng tiếng Việt, như cảng Kompong Som (Com Pong Som hay Vũng Tôm). Cố đô (Udong) cũng được đánh dấu (Vịnh Lung – Locus antiquӕ Regiӕ) và kinh đô mới thiết lập dưới sự bảo hộ của người Việt (Phnom Penh) được ghi tên là Nam Vang thành. Mãi đến những năm 1840, vì những cuộc nổi dậy ở nhiều nơi, khiến Việt Nam phải rút lui, từ bỏ các công trình quân sự / chính trị hành chính mà họ đã thiết lập [ở Campuchia].

    Lào / vùng trũng sông Mekong: Vương quốc Lào được xác định trên bản đồ [của Taberd] nằm trong biên giới rộng lớn của Đế chế An Nam, nhưng khác hẳn với Campuchia, Lào duy trì tình trạng của họ là những “vương quốc” tách biệt (Regio Laocensis), kiểu như là thuộc quốc[9] (Hình 4). Tình trạng của Luang Prabang (Mường Luong Pha Ban) và vương quốc Vientiane (Vạn Tượng Quốc) được thể hiện rõ trên bản đồ.[10]

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 4. [chi tiết] Các khu vực Lào và vùng trũng sông Mekong. Các tiểu quốc thuộc Lào được mô tả như là một phần của Đế chế vĩ đại Việt Nam (An Nam) (Imperium Anamiticum) nhưng vẫn giữ được tính toàn vẹn của họ như là nước chư hầu (Regio Laocensis). Ba tiểu quốc chính thuộc Lào chính trong những năm đầu thế kỷ XIX là Luang Prabang (Mường Long Pha Ban), Vientiane (Vạn Tượng Quốc) và Champassak hoặc Bassac (Thành Lào ba thác) – được xác định rõ. Đế chế An Nam được thể hiện mở rộng đến vùng đất nay là đông bắc Thái Lan.

    Trong miêu tả về Lào, sông Mekong và phần lớn của vùng đông bắc Xiêm của bản đồ, có thể Taberd đã vẽ dựa vào những thông tin thu thập mới nhất về Việt Nam trong cuộc khủng hoảng chính sách đối ngoại quan trọng mà Việt Nam phải đối mặt trong những năm cuối thập niên 1820. Taberd đã tham dự như là một người phiên dịch tại triều đình Huế trong cuộc xung đột vào những năm 1827 – 1828, bị châm ngòi khi Chao Anu, người cai trị ở vương quốc Vientiane [Viên Chăn], đã phát động một cuộc tấn công chống lại người Xiêm. Những cuộc chinh phạt sau đó của Xiêm trên đất Lào khiến Chao Anu phải cầu viện Minh Mạng, mở đường cho người Việt tham chiến. Các họa đồ của Việt Nam thời ấy, mà bản đồ của Taberd đã trích dẫn như là một trong những nguồn tư liệu của ông, rất có thể là một phần trong phản ứng của Việt Nam với cuộc khủng hoảng. Sự ảnh hưởng của bản đồ Việt Nam có thể được nhìn thấy trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ, bản đồ của Taberd chính xác hơn các bản đồ trước đó trong việc mô tả kích thước thực tế của Lào. Bản đồ phương Tây trước đây đã cho thấy Lào như là một vùng lãnh thổ khá hẹp, nhưng bản đồ Taberd đã cho thấy nó lớn hơn nhiều.[11] Ngoài ra, một số địa điểm quân sự quan trọng cũng được xác định trên bản đồ. Chúng bao gồm hai địa điểm chiến lược ở Nghệ An Trấn – những đồn ải ở Qui Hợp, có vai trò như là một tiền đồn cho hoạt động quân sự và tình báo của Việt Nam trong cuộc nổi dậy của Chao Anu, còn huyện biên giới Kỳ Sơn thì được tăng cường phòng thủ để chống lại sự xâm nhập của Xiêm[12]  (Hình 5).

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 5. [chi tiết] Qui Hợp. Các đồn biên phòng của Việt Nam tại Qui Hợp là căn cứ quân sự và tình báo quan trọng trong cuộc nổi dậy Chao Anu (1827 – 1828) tại Lào. Nó cũng kiểm soát con đường buôn bán lâu dài giữa các vùng trũng sông Mekong, thành phố Vinh, và cảng Hội Thống ở Biển Đông.

    Sự hiện hữu của những “họa đồ” Việt Nam ở vùng trũng sông Mekong cũng đóng góp cho một sự thể hiện chính xác hơn về các dòng sông lớn trên bản đồ của Giám mục. Taberd tự hào với các miêu tả của ông về sông Mekong như là một yếu tố quan trọng để phân biệt bản đồ của ông với các bản đồ trước đó về Đông Dương. Ông ghi chú rằng, [các] bản đồ của châu Âu trước đó thể hiện sông Mekong ít nhiều như một đường thẳng cho đến khi nó chảy vào [địa phận] Đàng Trong. Tuy nhiên, Tabert đã miêu tả một bức chân dung thực tế hơn đối với các sông lớn, dựa trên “hai bản đồ mà tôi đã có được vẽ bởi các kỹ sư của đất nước [Việt Nam]… Họ thông hiểu, họ đến đó mỗi ngày và đã đo tất cả các khúc uốn lượn của dòng sông…”.[13] Ngoài ra, một số thị tứ ven sông Mekong vẫn có thể nhận biết, mặc dù cách viết hơi khác nhau. Đó là Mukdahan (Mục đà hản), That Phanom (Tháp ba canon), Bassac (Thành Lào ba thác) và Nakhon Phanom (ghi theo tên cũ là Lạc Khon hoặc Lakhon). [14]  Mặc dù Taberd vẽ sông Mekong có phần chính xác hơn, nhưng phải cần thêm nhiều thập kỷ nữa trước khi dòng sông được điều tra một cách chính xác bởi các cuộc thám hiểm sông Mekong của người Pháp trong những năm 1866 – 1868.

    Lãnh thổ Lào trên bản đồ, hiển thị như một phần của Đế chế An Nam, kéo dài đến cao nguyên Khorat [Kò rạt] ở hữu ngạn sông Mekong. Trong lịch sử, khu vực này đã được đặt dưới sự thống trị của vương quốc Lan Sang của nước Lào cổ. Do sự sụp đổ của Lan Sang, khu vực này cùng với dân cư Lào cổ, đã trở thành một vùng đệm giữa Xiêm và ba vương quốc kế tục của Lào là Luang Prabang, Vientiane và Champassak. Từ cuối thế kỷ XVIII trở đi, thế lực của Xiêm ở phía đông bắc mở rộng đáng kể nhờ việc sáp nhập những khu tự trị nhỏ vào sự quản lý của Bangkok. Chịu ảnh hưởng bởi cuộc tranh giành giữa Việt Nam và Xiêm vào cuối những năm 1820, bản đồ của Taberd phản ánh quan điểm của ông dựa trên nguồn [sử liệu] từ Việt Nam (và có thể từ Lào), và chỉ cho thấy một phần nhỏ [ảnh hưởng] của chính quyền Xiêm ở khu vực này. Nghiên cứu sâu hơn là điều cần thiết để xác định phần lớn các địa danh ở trên cao nguyên Khorat. Tuy nhiên, khu vực được tăng cường công sự của vùng đất có tên là Lào Phiên pháo, có thể liên quan đến một căn cứ quân sự của Xiêm trong cuộc nổi dậy Chao Anu.[15] Ngoài ra, Cà Lạ Thiến thanh có lẽ là thị trấn Kalasin, một khu định cư quan trọng của Lào có lịch sử từ lâu đời.[16]

    Taberd nói về bản đồ học Việt Nam

    Trong tác phẩm của mình, Giám mục Taberd đưa ra một số ý kiến khá thú vị về bản đồ học Việt Nam.[17] Như thể hiện trong bản đồ của ông, Taberd đã sử dụng hiệu quả [thành tựu] bản đồ học truyền thống của Việt Nam và có ghi nhận sự đóng góp của các “kỹ sư và thợ của triều đình”. Tuy nhiên, ông cũng phàn nàn những hạn chế của họ, khi viết rằng người Việt chỉ dựa vào dây thừng và la bàn mà không đo đạc theo vĩ độ và kinh độ của các địa điểm:

    Khi bản vẽ bản đồ của mình, họ sử dụng những bản đồ do người châu Âu thực hiện, mà họ hoặc là giảm hoặc mở rộng quy mô; sau đó họ bổ sung thêm các địa điểm khác nhau mà những người châu Âu bỏ qua hoặc chưa biết đến”.

    Nhưng Taberd khẳng định những hạn chế của thợ vẽ bản đồ người Việt đều không phải là lỗi của họ, mà là do thái độ hẹp hòi của các hoàng đế Gia Long và Minh Mạng. Taberd so sánh những ngăn trở từ các vị vua này so với hoàng đế Khang Hi ở Trung Quốc – người đã bảo trợ cho các nhà truyền giáo thực hiện những bản đồ rất khoa học về các tỉnh thành của Trung Quốc trong phần tư đầu thế kỷ XVIII. Để chứng minh cho luận điểm của mình, Taberd dẫn một câu chuyện về chuyến thăm của một tàu khu trục Pháp, tàu Le Henri, vào năm 1818 hoặc năm 1819. Con tàu thả neo gần Huế, các thuyền viên trên tàu đã được vua Gia Long tiếp đón. Tuy nhiên, khi họ muốn điều chỉnh máy đo thời gian của họ và lên bờ để chuẩn bị một đường chân trời giả định, vua Gia Long đã nói với đình thần của ông: “Có vẻ thuyền viên của tàu khu trục đang thực hiện một bản đồ nước ta. Lệnh cho họ phải chấm dứt hoạt động này”. Thái độ của Minh Mạng đối với người châu Âu thậm chí còn hẹp hòi hơn so với Gia Long, Taberd than thở: “… làm sao chúng tôi còn có thể thích nghi tốt hơn với nội tình của nước này nếu như mọi thứ vẫn trong tình trạng này”.

    Mặc dù có những khó khăn, Taberd tin tưởng nỗ lực của ông trong việc kết hợp bản đồ Việt Nam và phương Tây sẽ cho ra đời “[tấm bản đồ] tốt nhất và chi tiết nhất từ trước đến nay”. Đề cập đến các nguồn tài liệu của mình, Taberd dẫn nguồn là một bản đồ cổ và một bản đồ hiện đại được vẽ bởi “kỹ sư của triều đình”, cũng như kiến thức của ông về Đàng Trong. Đối với vùng bờ biển, ông sử dụng các biểu đồ của Jean-Marie Dayot, một sĩ quan hải quân Pháp đã cùng Giám mục Pigneaux de Béhaine hỗ trợ cho cuộc chinh chiến nhằm thống nhất Việt Nam của nhà Nguyễn.[18] Giữa những năm 1790 và 1795, Dayot đã thực hiện những cuộc khảo sát chính xác nhất về bờ biển của Đàng Trong cho đến thời điểm này. Chúng đã trở thành dữ liệu cho nhiều nhà vẽ bản đồ người Pháp và người Anh khác vào thế kỷ thứ XIX.[19]

    Bản đồ hành chính

    Bình luận của Taberd về những thợ vẽ bản đồ người Việt Nam chỉ dựa vào dây thừng và la bàn, tưởng như có vẻ chỉ ra những hạn chế của họ, nhưng thực sự lại thừa nhận đó là một trong những điểm mạnh của họ. Việt Nam học hỏi mô hình hành chính Trung Hoa, khoảng từ thế kỷ XV, nên cần những tấm bản đồ cho quản lý nhà nước. Dây thừng và la bàn là kỹ thuật quan trọng của những người vẽ bản đồ Việt Nam, đặc biệt là trong các cuộc điều tra địa chính làng xã và việc xác định ranh giới các tỉnh. Chính quyền mới vào năm 1802 tiếp tục và mở rộng bản đồ truyền thống bao trùm toàn bộ lãnh thổ mới của mình, trải dài từ biên giới Trung Quốc đến bán đảo Cà Mau ở phương nam xa xôi. Gia Long chia đất nước thành 23 trấn và 4 doanh. Các cấp thấp hơn của chính quyền bao gồm các phủ, huyện, châu (huyện miền núi), tổngxã. Năm 1831, Minh Mạng cải cách bộ máy hành chính, chuyển đổi các trấndoanh dưới triều Gia Long thành các tỉnh.[20]

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 6. [chi tiết] Chi tiết hành chính và dân tộc thiểu số. Hoàng đế nhà Nguyễn đầu tiên, Gia Long, chia đất nước mới thống nhất thành Trấn. Hai trấn được hiển thị ở đây là Bình Hòa (hoặc Nha Trang) và Bình Thuận. Thủ đô (dinh hoặc thành) được xác định như là các bưu trạm hoặc dịch trạm dọc theo tuyến đường chính Bắc – Nam. Đảo và các thực thể ven biển được ghi nhận, trong đó có vịnh Cam Ranh nổi tiếng. Một ký hiệu nhắc nhở người xem rằng lãnh thổ này đã từng là một phần của vương quốc Champa (Olim Ciampa), và một biểu tượng tháp Chàm ở phía nam của vịnh Cam Ranh. Một số nhóm dân tộc thiểu số Tây Nguyên (Mọi bồ nông, Mọi bồ vun, và Mọi Vị) ở về phía tây của dãy núi An Nam.

    Bản đồ của Taberd sử dụng định danh hành chính của triều Gia Long trước đó, phân chia đất nước thành [các] trấn[21] (Hình 6). Một số đơn vị hành chính cấp thấp hơn cũng được định danh [trên bản đồ] được mô tả, và các thực thể như: cảng, bến cảng, lỵ sở hành chính hoặc các dịch trạm dọc theo tuyến đường chính Bắc – Nam cũng được thể hiện (Hình 7). Một yếu tố mà Taberd mượn từ bản đồ Việt Nam là việc ghi tên nhiều con sông và cửa biển dọc theo bờ biển dài của Việt Nam.[22] Các tuyến đường giao thông hoặc thương mại cũng được thể hiện từ Việt Nam đi qua Campuchia và Lào. Ví dụ, các quan ải chiến lược tại Qui Hợp như đã đề cập ở trên, được thể hiện trên các tuyến đường thương mại lịch sử nối thung lũng sông Mekong với Vinh và cảng Hội Thống nhộn nhịp trên Biển Đông[23]  (Hình 5). [Bản đồ] cũng mô tả những con đường xuyên qua núi như đèo Cù Mông và đèo Cả nối liền vùng bờ biển với Tây Nguyên.

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 7. [chi tiết] Chú dẫn. Chú dẫn cung cấp sự tiện ích cho bản đồ, liệt kê các ký hiệu sử dụng và cách dịch các thuật ngữ tiếng Việt sang tiếng Latin, tiếng Pháp và tiếng Anh.

    Sự quan tâm của Taberd đến lịch sử của Việt Nam được thể hiện rõ ràng trên bản đồ của ông. Điều này xuất hiện trong những chỉ dẫn về thời kỳ dài phân cách do cuộc nội chiến giữa các chúa Nguyễn ở phương Nam với các chúa Trịnh ở phương Bắc, mà cả hai đều tự xưng là đại diện cho vua Lê bù nhìn. Bức tường chia cách chúa Nguyễn Đàng Trong và chúa Trịnh Đàng Ngoài [Lũy Thầy] được hiển thị nổi bật (Lũi Sầy seu Murus magnus separans olim utrumque regnum). [Hình 8] Ngoài ra, việc phân chia mang tính lịch sử được phản ánh trong việc ghi tên chúa Nguyễn Đàng Trong là Annam Đàng Trong (Inner Annam) và Bắc Hà là Đàng Ngoài (Outer Annam). Nơi phát sinh cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nắm quyền kiểm soát Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XVIII cũng được ghi nhận (Tây Sơn thượng) ở phía tây của Bình Định Trấn. Xa hơn về phía bắc, Cao Bằng Trấn được ghi nhận là các lãnh địa của tiền triều (olim Regnum). (Những tàn dư của cuộc nổi dậy của họ Mạc xuất phát từ Cao Bằng cho đến khi bị triều Lê – Trịnh đánh bại vào giữa thế kỷ XVII).

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 8. [Chi tiết] Lũi Sầy seu Murus magnus separans Olim utrumque Regnum (Lũi Sầy [Lũy Thầy] hoặc các trường thành lớn ngăn cách các vương quốc cũ). Những “bức tường” được xây dựng vào thế kỷ XVII để bảo vệ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong khỏi các cuộc tấn công định kỳ của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Nó xuất hiện trên nhiều bản đồ đầu châu Âu và chạy từ biển lên núi, ngay phía bắc của khu phi quân sự ngăn cách Bắc và Nam Việt Nam 1954 – 1975.

    Dân tộc thiểu số

    Có một yếu tố quan trọng khác trên tấm bản đồ của Taberd làm nó trở nên khác biệt so với bản đồ Việt Nam truyền thống. Bản đồ Việt Nam thế kỷ XIX thường thể hiện vùng cao nguyên, vùng có dân tộc thiểu số (thường được gọi là châu) nhưng nhìn chung đều không xác định được các nhóm dân tộc thiểu số theo tên gọi. Chỉ có ngoại lệ duy nhất là Đá Vách (người Hrê) tại tỉnh Quảng Ngãi, nơi mà những bản đồ Việt Nam vào thế kỷ XIX thể hiển một bức tường, do Tướng quân Lê Văn Duyệt cho xây dựng vào năm 1819 để bảo vệ những thôn làng của người Việt khỏi các cuộc tấn công của người thiểu số vùng cao.[24]

    Bản đồ của Taberd thể hiện một bước tiến trong các nỗ lực của phương Tây để thiết lập bản đồ các dân tộc cao nguyên ở Việt Nam bằng cách sử dụng các tên cụ thể (Hình 6). Những bản đồ phương Tây trước đó, bắt đầu là những bản đồ của Alexandre de Rhodes, vẽ vào năm 1650 và năm 1653, chỉ đơn giản gọi người dân vùng cao là Kemoy hoặc Rumoi (Mọi là từ tiếng Việt để chỉ “người man rợ”).[25] Nhưng trong thế kỷ XIX, cụm từ này xuất hiện trên nhiều bản đồ phương Tây, chẳng hạn như Bản đồ những vương quốc Xiêm La và Đàng Trong của John Crawfurd vào năm 1828 – một bản đồ được xuất bản bởi Cha Charles-Émile Bouillevaux vào năm 1851, có thể là bản đồ đầu tiên của Pháp hiển thị các tên chuẩn của các bộ tộc ở cao nguyên [của Việt Nam].[26] Tuy nhiên, bản đồ của Taberd là một tiền thân cho bản đồ của Bouillevaux về một nỗ lực xác định các nhóm [thiểu số] vùng cao dựa theo tên gọi, mặc dù những cái tên dường như không khớp với cái tên hiện nay của các nhóm dân tộc thiểu số vùng cao đó.[27]

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 9. [chi tiết] Nước Stiêng. Chưa bao giờ là một quốc gia hay một vương quốc riêng biệt, Stiêng là một nhóm bộ lạc sinh sống tại khu vực biên giới Campuchia – Việt Nam ngày nay. Họ là mục tiêu của một nỗ lực truyền giáo không thành công trong những năm cuối thế kỷ XVIII. Bản đồ cho thấy các tuyến đường được thực hiện bởi các nhà truyền giáo đến từ thị tứ ven sông Mekong – “Che Long” (Chhlong hiện đại) – vào lãnh thổ Stiêng. Làng Saat, không được hiển thị, được cho là nơi định cư quan trọng nhất của người Stiêng. Xác định Thành Tĩnh xương vẫn còn là một bí ẩn. Nguồn: Thư viện Quốc hội Mỹ.

    Vương quốc bí ẩn của người Stiêng: Một nhóm dân tộc thiểu số được nổi lên bất thường trên bản đồ của Taberd được xác định như là một quốc gia riêng biệt hay một đất nước, Nước Stiêng (Hình 9). (Từ điển định nghĩa từ Nước trong tiếng Việt là một quốc gia, dân tộc, hoặc nhà nước; chú thích trên bản đồ của Taberd định nghĩa nó là một Royaume hay “vương quốc”). Vương quốc Stiêng hiện hữu trên bản đồ [của Taberd] tách khỏi bảy nhóm [người thiểu số] liền kề xâm lấn biên giới Đàng Trong. Ngày nay, Stiêng là một nhóm dân tộc thiểu số vùng cao nhỏ sống dọc biên giới hiện nay giữa Việt Nam và Campuchia. Họ chưa bao giờ được xem là một vương quốc thống nhất. Tuy nhiên, trong phần tư cuối thế kỷ XVIII, nhóm thiểu số này là đặc biệt quan trọng đối với các nhà truyền giáo Pháp, vì người Stiêng trở thành đối tượng cho nỗ lực đầu tiên nhằm truyền bá Kitô giáo cho các nhóm bộ tộc ở Tây Nguyên và vùng đông bắc Campuchia. Các giáo sĩ đã tường thuật đầy phấn khích trong các báo cáo của họ, khi tuyên bố rằng “đã khám phá ra một vương quốc mới có tên Stiêng” và tiếp tục đề cập đến lãnh thổ Stiêng như một vương quốc trong thư tịch của họ.[28] Tuy nhiên, chuyến viếng thăm ngắn ngủi của Cha Julien Faulet tới lãnh thổ Stiêng trong những năm 1775 – 1776, đã giảm thiểu những ý tưởng phóng đại về một vương quốc Stiêng thống nhất. Trong báo cáo của mình, Faulet gọi khu vực này là một vùng “man rợ của đất nước” chứ không phải là một vương quốc và ông nói rằng Stiêng không có vua.[29] Nếu không có đủ nhân sự để theo dõi, nỗ lực truyền giáo bị thất bại và bị chỉ trích mạnh mẽ bởi lãnh đạo của Hội Thừa sai ở Paris.[30] Mặc dù có một linh mục khác từ Sài Gòn đến khu vực này vào năm 1791, nhưng ông ấy đã không lưu lại nơi này, và dường như đã không có thêm cuộc tiếp xúc nào giữa người Stiêng với các nhà truyền giáo Pháp trong hơn nửa thế kỷ.

    Tại sao tấm bản đồ năm 1838 của Taberd, tiếp tục làm nổi bật người Stiêng và ghi nhận học như là một quốc gia hay một vương quốc riêng, vẫn còn là một bí ẩn! Tương tự, [địa danh] Thành hay Tĩnh xương trong lãnh địa Stiêng đã không còn xuất hiện trên các bản đồ sau này. Có lẽ, Taberd chỉ đơn giản là bày tỏ sự tôn trọng đối với họ bằng việc thừa nhận những gì đã từng là một dự án lớn của vị Đại diện Tông Tòa Pigneaux de Béhaine [thực hiện trước đây]. Cũng có thể là trong những năm đầu thế kỷ XIX, các nhà truyền giáo đã quan tâm đến việc làm mới những nỗ lực trước đó của họ với với người Stiêng.[31]

    Vì sự nhấn mạnh quá mức của Taberd đối với nhóm này, [nên] Stiêng thường được thể hiện trên các bản đồ bằng tiến Pháp vào cuối thế kỷ XIX, mặc dù đây không phải là một quốc gia riêng biệt hoặc một thực thể chính trị.

    Tấm bản đồ nhiều mục đích

    Bản đồ của Giám mục Taberd, trong khi không công khai tôn giáo, lại có một ứng dụng thực tế ngay lập tức cho các nhà truyền giáo ở Đông Dương và những sứ mệnh phục vụ nơi đó. Nhưng Taberd cũng có một mục đích trí tuệ lớn hơn trong tâm trí – phục vụ “lợi ích của khoa học” – bằng cách làm ra tấm bản đồ chính xác nhất về bán đảo Đông Dương.[32] Sự tiếp cận với một đối tượng rộng hơn và sự chú ý của các nhà làm bản đồ châu Âu sẽ dường như bị hạn chế vì cách xuất bản tấm bản đồ, [do việc bản đồ này được] chèn vào phần sau cuốn Từ điển Latin – Việt lớn của Taberd, vốn là nguồn [tài liệu] không dễ tiếp cận. Tuy nhiên, sự hỗ trợ cho Taberd từ Hội châu Á ở Bengal, đặc biệt là từ James Prinsep, thư ký của Hội, đã giúp cho bản đồ của Taberd được lan truyền đến cộng đồng học thuật rộng lớn hơn. Năm 1848, TS. Karl Gutzlaff, một nhà truyền giáo nổi tiếng người Đức (1803 – 1851), người đã phục vụ [giáo hội] ở Đông Nam Á và Trung Quốc, đã bị cuốn hút mạnh bởi công việc của Taberd, bằng một bài nghiên cứu đọc trước Hội Địa lý hoàng gia London (Anh). Gutzlaff đã mô tả bản đồ của Taberd là “tấm bản đồ cao cấp và chính xác nhất, [giúp] chúng tôi có toàn bộ dữ liệu về Đế chế An Nam…”.[33]

    Bản đồ của Taberd đã phục vụ cho một mục đích chính trị rộng lớn hơn trong diễn trình của thế kỷ XIX. Đó là một nguồn [dữ liệu] chính, tương đối chính xác về thông tin hành chính và địa lý ở bán đảo Đông Dương, khi mà áp lực với các thuộc địa của châu Âu ở Đông Nam Á gia tăng, trước khi các quan chức thực dân người Pháp bắt đầu nỗ lực lập bản đồ rộng lớn của họ trong thế kỷ XIX. Một phần tư thế kỷ sau khi được công bố, bản đồ Taberd có vị thế mới. Bản đồ đã được tái bản tại Paris vào năm 1862, cùng năm mà Pháp đã ký một hiệp ước với triều đình Huế [Hiệp ước Nhâm Tuất], mà sau đó là sự hiện diện của thực dân Pháp ở Sài Gòn và đồng bằng sông Mekong, và người Pháp đã chuyển mối quan tâm của họ về hướng Campuchia. Bản đồ của Taberd đã được tái bản theo chỉ thị của Prosper de Chasseloup-Laubat, Bộ trưởng Bộ Hàng hải và Thuộc địa Pháp, người ủng hộ mạnh mẽ nhất hoạt động thực dân ở Đông Dương trong nội các của Napoleon III.

    Và trong thế kỷ XXI hiện nay, bản đồ của Giám mục Taberd lại đảm nhiệm một vai trò chính trị trong bối cảnh có những tuyên bố chủ quyền đối lập ở Biển Đông.

    H.E.M.

    Lời cảm ơn

    Một lần nữa, tôi xin cảm ơn Boris Michev, Thư viện Bản đồ & Thông tin không gian địa lý tại Đại học Cornell (Hoa Kỳ), đã cung cấp một sự hỗ trợ vô giá với những tư liệu từ sưu tập bản đồ thuộc Thư viện Olin. Riêng Hình 9 là do Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ cung cấp.

    Dịch sang tiếng Việt: Ngô Hoàng Đại Long – Trần Thị Kim Nguyên

    Hiệu đính: Trần Đức Anh Sơn

    * Harold E. Meinhiet là cựu viên chức Bộ Ngoại giao Mỹ, từng làm việc tại các cơ quan ngoại giao của Mỹ ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Ông hiện là thư ký của Hội Bản đồ Washington (Mỹ).

    * Bản tiếng Anh của bài nghiên cứu này được in trên The Portolan, tạp chí của Hội Bản đồ Washington (Mỹ). Số 97, Mùa Đông 2016. Ban biên tập tạp chí Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng cám ơn tác giả Harold E. Meinheit và tạp chí The Portolan đã đồng ý chúng tôi dịch bài nghiên cứu này sang tiếng Việt để in trên số 88 (Tháng 4.2017) của tạp chí.

    ** Những chữ in nghiêng trong ngoặc đơn () là chú dẫn hoặc trích nguyên văn của tác giả Harold E. Meinheit. Những chữ trong ngoặc vuông [] là của người hiệu đính.

    Chú thích

    [1] An Nam là tên mà người châu Âu thường gọi Việt Nam. Tên này xuất xứ từ Trung Quốc hàm ý “phương Nam yên ổn”. Trong suốt thế kỷ XIX, những nhà cầm quyền Việt Nam đều gọi nước mình là Đại Nam (nước Nam vĩ đại).

    [2] Đàng Trong là một Hạt đại diện Tông Tòa thuộc thẩm quyền của Giáo phận Ma Cao, được dẫn dắt bởi một vị Đại diện Tông Tòa, thường là một Giám mục danh nghĩa, được bổ nhiệm danh nghĩa. Khi Taberd được bổ nhiệm làm Đại diện Tông Tòa vào năm 1828, ông cũng được phong Giám mục danh nghĩa của Isauropolis. Các hạt đại diện Tông Tòa Đàng Trong bao phủ một khu vực từ tỉnh Quảng Bình (khoảng 17o30 vĩ độ Bắc) ở miền Trung Việt Nam đến đồng bằng sông Mekong ở miền Nam. Nó cũng bao gồm một phần của Campuchia. Tiểu sử của Giám mục Taberd có thể tìm thấy trong văn khố MEP [Hội Thừa sai hải ngoại ở Paris], tại http://archives.mepasie.org/notices/notices-biographiques/taberd.

    [3] Jacob Ramsay, “Sự bóp nghẹt và chèn ép trong chiến dịch của nhà Nguyễn chống lại Công giáo vào những năm 1830 – 1840 ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Tập 35, Số 2, Tháng 6.2014 2004, tr. 315.

    [4] Jean-Louis Taberd, “Ghi chép về địa lý của Đàng Trong”, Tạp chí của Hội châu Á ở Bengal, Tập  VI, Phần II, Số 69, Tháng 9.1837, tr. 737-745. (http://hdl.handle.net/2027/chi.20428348?urlappend=%3Bseq=251) Bài viết thứ hai của Taberd là: Jean-Louis Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, Tạp chí của Hội châu Á ở Bengal, Tập VII, Số 76, Tháng 4.1838, tr. 317-324. (http://hdl.handle.net/2027/mdp.39015028150624).

    [5] Xem: Nguyễn Đình Đầu, Chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông và Hoàng Sa – Trường Sa, TP.HCM: Nxb Đại học Quốc gia, 2014, tr. 122-123 và tr. 125; Xem thêm: Trần Đức Anh Sơn (Chủ biên), Tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, TP.HCM: Nxb Văn hóa – Văn nghệ, 2014, tr. 433.

    [6] Taberd, “Ghi chép về địa lý Đàng Trong”, tr. 745. Taberd viết rằng các đảo “trải rộng lên đến 11 vĩ độ Bắc”. Tuy nhiên bản đồ của ông cho thấy những đảo này nằm ở khoảng vĩ tuyến 16. Hoặc là có một lỗi đánh máy trong bài của Taberd, hay là sự nhầm lẫn về vị trí của quần đảo Hoàng Sa với quần đảo Trường Sa vốn ở nằm xa hơn về phía Nam.

    [7] Tôi mượn nhận định này của TS. Trần Đức Anh Sơn, người đã chỉ dẫn tôi tới cuốn Le Memoire sur la Cochinchine (công bố năm 1820) của Chaigneau. Chaigneau đã viết: “C’est seulement en 1816, que l’Empereur actuel a pris possession de cet archipel” (Chỉ đến năm 1816, vị Hoàng đế hiện tại [tức vua Gia Long của Đại Nam] mới sở hữu quần đảo này. “Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille” (Jean-Baptiste Chaigneau và gia đình) của A. Salles, Bulletin des Amis du Vieux Hué (Tập san của Hội Đô thành hiếu cổ), Hà Nội, Tập 10, Số 1, 1923, tr. 257.

    [8] Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, tr. 318.

    [9] Taberd khẳng định rằng ông coi hầu hết các tiểu quốc nhỏ ở Lào như các thuộc quốc của “đế chế Đại Nam”. Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, tr. 322-323.

    [10] Một sự vắng mặt đáng chú ý là tiểu quốc Xieng Khouang (Xiêng Khoảng) của Lào (tiếng Việt: Trấn Ninh), được liệt kê như là một trong các chư hầu của Việt Nam vào năm 1805, nhưng hiện diện trong cuộc tranh giành quyền lực giữa Xiêm và Việt Nam trong cuộc nổi dậy của Chao Anu.

    [11] Mayoury Ngaosrivathana và Pheuiphanh Ngaosrivathana, “Ấn tượng ban đầu của người châu Âu về Lào”, in trong: Mayoury Ngaosrivathana và Kennon Breazeale (Chủ biên), Thuở hồng hoang trong lịch sử Lào: Những nhận định về khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX, Chiang Mai: Silkworm Books, 2002, tr. 141.

    [12] Những nguồn tư liệu Việt Nam liên quan đến cuộc xung đột năm 1827 giữa triều đình Xiêm La và các công quốc của Lào: tạp chí về các hành động triều đình của Việt Nam về các biến cố liên quan đến Vương quốc Vạn Tượng, Mayoury và Pheuiphanh Ngaosrivathana giới thiệu và chú giải, Tokyo: Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Đông Á của UNESCO, Toyo Bunko, 2001, Tập 1, tr. 112-113.

    [13] Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, tr. 319.

    [14] Hơi khó hiểu là vị trí của thành phố Vientiane (Bàn chăn hoặc Viên Chănk) nằm ở hữu ngạn sông Mekong, thuộc vùng hạ lưu của vương quốc Vientiane. Người Xiêm đã phá hủy hoàn toàn thành phố Vientiane (ngoại trừ một số tu viện Phật giáo) vào năm 1828 và chuyển nhiều cư dân [của thành phố này] đến sống trong lãnh thổ của Xiêm. Có lẽ vị trí của thành phố Vientiane trên bản đồ có ý thể hiện sự ép buộc giảm thiểu dân số của thành phố, với việc nhiều người Lào di chuyển đến các khu vực xung quanh thành phố Nong Khai hiện nay. Hoặc có lẽ nó chỉ đơn giản là một sai sót. Trong bản đồ của mình vào năm 1858, Edward Weller (FRGS), dường như đã bị ảnh hưởng bởi sự thể hiện của Taberd về sông Mekong nên cũng định vị Vientiane ở hữu ngạn [sông này]. Xem: Burmah, Siam, Anam & c. (1858?),  http://nla.gov.au/nla.obj-231866668.

    [15] Xem: Những nguồn tư liệu Việt Nam liên quan đến cuộc xung đột năm 1827, Tập. 1, tr. 73, chú thích 212. Các vị trí cũng được viết theo nhiều cách khác trong các nguồn tài liệu, ví dụ: Phan-phao, Phien-Bao,…

    [16] Charles F. Keyes, Isan: Chủ nghĩa khu vực ở đông bắc Thái Lan, Báo cáo tạm thời Dự án Cornell Thái Lan, Số 10, Chương trình Đông Nam Á, Thư tịch 65, Ithaca: Cornell University, 1967, trang 8.

    [17] Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, tr. 319-320.

    [18] Như trên, tr. 319.

    [19] Gilles Palsky, “La Cartographie française des Côtes cochinchinoises à la Fin du 18e Siècle: Jean-Marie Dayot et le Pilote de Cochinchine” (Bản đồ của Pháp về bờ biển Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVIII: Jean- Marie Dayot và tác phẩm Pilote de Cochinchine), Imago Mundi, Tập 41, Số 1, tháng Giêng, 1989, tr. 59-69.

    [20] Alexander Barton Woodside, Việt Nam và khuôn mẫu Trung Hoa: Một nghiên cứu so sánh về chính quyền dân sự giữa nhà Thanh và nhà Nguyễn trong nửa đầu của thế kỷ XIX, Cambridge: Harvard University Press, 1971, tr. 141-143.

    [21] Taberd vẫn còn ở Việt Nam khi vua Minh Mạng bắt đầu của cải cách hành chính của mình. Ông đã đề cập đến cuộc cải cách này trong tác phẩm Ghi chép về địa lý Đàng Trong của mình (tr. 744). Tuy nhiên, nhưng bản đồ được dùng trong sách này là của triều Gia Long. Trong tác phẩm Ghi chép về địa lý Đàng Trong của ông được xuất bản bằng tiếng Anh, Taberd đã dùng lối dịch khác nhau cho các đơn vị hành chính của Việt Nam. Chẳng hạn, ông dịch trấn là prefecture, thay vì pretectorate như bản dịch của Woodside và những người khác. (Prefecture thường được dùng để dịch chữ phủ trong tiếng Việt). Có một số khác biệt nhỏ khác giữa chú giải của Taberd và chính tấm bản đồ. Để rõ hơn, tôi đã tham khảo các bản dịch được dùng bởi Woodside và học giả Việt Nam hiện đại.

    [22] Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu đã liệt kê tất cả 57 cửa sông và nhiều yếu tố khác dọc theo đường bờ biển dài của Việt Nam trên bản đồ của Taberd. Nguyễn Đình Đầu, Sđd, tr. 123 và tr. 127.

    [23] Trần Văn Quý, “Thư tịch Quỳ Hợp: Quan hệ Việt – Lào phản ánh trong tài liệu về các đồn ải, từ 1619 đến 1880”, in trong: Mayoury Ngaosrivathana và Kennon Breazeale (Chủ biên), Sđd, tr. 239-259.

    [24] Harold E. Meinheit, “Một góc nhìn về cuộc chiến ở Việt Nam thế kỷ XIX”, The Portolan, Số 73, Mùa đông 2008, tr. 21. Taberd mô tả [Mọi] Đá Vách là “các giống dân man rợ khủng khiếp nhất chiếm toàn bộ dãy núi bao quanh vương quốc”. Taberd, “Ghi chép về địa lý Đàng Trong”, tr. 741.

    [25] Harold E. Meinheit, “Khám phá Việt Nam: Bản đồ của Alexandre de Rhodes”, The Portolan, Số 65, Mùa xuân 2006, tr. 28-41.

    [26] Henri Maitre, Les Jungles Moi (Rừng người Thượng), Paris: Emile LaRose, 1912, tr. 555.

    [27] Các nhóm là: Mọi đá rách, Mọi đá vách, Mọi đá hàn, Mọi bồ nông, Mọi bồ vun, Mọi Vị, và Mọi bà ria. Như đã chú thích, Đá Vách là một nhóm sắc tộc có thể nhận diện. Bồnông cũng có thể là [tộc người] Phnong hay Mnong.

    [28] Thư của Cha Jean Steiner, Procure, Giáo phận Macau, ngày 21.8.1774 (tiếng Pháp). Tường thuật về cái chết u buồn của Cha Juguet ở tuổi 30, Steiner viết: “Ce missionnaire, peu de temps avant sa mort, avait découvert un nouveau royaume, appélé Stiêng…” (Nhà truyền giáo này, ngay trước khi qua đời, đã khám phá ra một vương quốc mới gọi là Stiêng). Pigneaux de Béhaine cũng báo cáo về “vương quốc mới của Stiêng” (“Regnum novum vocatum Stiêng”) trong một lá thư ngày 05.01.1775. Cả hai bức thư này đều được in trong: Adrien Launay, Histoire de la mission de Cochinchine, 1658-1823: documents historiques (Lịch sử công vụ ở Đàng Trong, giai đoạn 1658-1823), Paris: Missions étrangères de Paris: savantes Indes, Tập 3 (1771 – 1823), 2000, tr. 60- 61.

    [29]  Thư của M. Faulet gửi M. Steine ngày 24.6.1776. In trong: Launay, Sđd, tr. 64.

    [30] Frédéric Mantienne, Pierre Pigneaux: eveque d’Adran et mandarin de Cochinchine (1741 – 1799) (Pierre Pigneaux: Giám mục d’Adran và quan chức Đàng Trong), Paris: Les Indes savantes, 2012, tr. 70-72.

    [31] Mối quan tâm truyền giáo được tiếp tục trong tộc người này thể hiện ở việc thành lập một phái bộ [truyền giáo] trong cộng đồng người Stiêng ở Brelam vào thập niên 1850. Tuy nhiên, phái bộ này đã bị hủy hoại trong cuộc nổi dậy Pu Kombo vào năm 1866.

    [32] Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, tr. 319, 320.

    [33] Tiến sĩ Karl Gutzlaff, “Địa lý của Đế quốc An Nam”, Tạp chí của Hiệp hội Địa lý Hoàng gia London, Tập 19 (1849), tr. 85-143.

    Nguồn: Trần Đức Anh Sơn’s blog

  • Bộ sưu tập các kiểu tóc trong suốt lịch sử Việt Nam

    Độc giả sẽ rất ngạc nhiên với những mái tóc dài chấm gót của những thiếu nữ Hà Nội đầu thế kỷ 19 đến vẻ đẹp mê hồn của những chân dung nổi tiếng một thời. Các bức ảnh đen trắng đã ngả vàng theo thời gian khi đặc tả những thiếu nữ Hà Thành tiêu biểu, khi ghi lại những dấu ấn rất riêng của phụ nữ Việt Nam ở cả 3 miền từ mái tóc dài chấm gót đến tóc vấn cao, tóc đuôi gà, tóc xoăn… Cho dù là ở độ tuổi, thời kì nào đi nữa, vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ Việt trong quá khứ hẳn cũng đã làm thế hệ công chúng trẻ phải thán phục và ngạc nhiên.

    Tất cả những tư liệu quý báu này đều được thu thập và lưu giữ dưới nhiều dạng thức, từ nghiên cứu kho tàng ca dao tục ngữ tới lời kể của người cao tuổi, những kí sự sưu tầm của các nhà du hành phương Tây đầu thế kỉ 17,18; qua các bức ảnh đen trắng bạc màu hay qua những mô tả trong các tác phẩm văn học cùng thời. Sưu tập ảnh đặc biệt này của nhà sử học Dương Trung Quốc chính là một trong những dạng thức lưu dấu vẻ đẹp một thời.

    Nhân dịp bộ sưu tập được giới thiệu tại Davines hair show diễn ra vào tối 31/7 tại Hà Nội, mời độc giả chiêm ngưỡng trước những bức ảnh hiếm có này.

    Người phụ nữ trong Nam nói chung, thành phố thuộc địa Sài Gòn nói riêng không vấn khăn như người Bắc hay người Hà Thành mà bới cao hay búi tóc, đôi khi sử dụng các loại khăn tân thời bằng len hay khăn đan sợi bông.

    Đến tuổi trưởng thành, các thiếu nữ đều vấn khăn để bộ tóc của mình gọn ghẽ, chắc trên đầu. Mái tóc dài được khéo léo cuộn vào trong một chiếc khăn. Nhà giàu thì dùng khăn nhung, kẻ nghèo thì bằng vải thường

     

    Nhà văn Nguyễn Công Hoan chép trong “Nhớ gì ghi nấy”: “Trước kia con gái lên ba, lên bốn thì cạo trọc đầu, nhưng để một cái “cút” ở phía trước. Từ 16 tuổi trở đi thì vấn khăn, tức rẽ giữa trán rồi trải sang hai bên mới vấn khăn ra ngoài, quấn chặt cho thật lẳn.

    Đứng giữa trong ảnh là bà Vi Kim Ngọc – phu nhân cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, cha là cụ Vi Văn Định. Bà kết hôn với GS Nguyễn Văn Huyên năm 1936, trong buổi lễ, bà vấn tóc cao với vành khăn tựa bà Nam Phương.

  • Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay

    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay

    Bộ ảnh được đăng trên báo Mỹ do một thanh niên Việt Nam chịu khó thực hiện. Qua các bức ảnh so sánh xưa-nay, ta thấy những sự biến đổi hết sức mạnh mẽ mà dòng thời gian gieo lên các công trình kiến trúc!

    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Nhiếp ảnh gia Khánh Hmoong đang sống và làm việc tại thành phố biển Nha Trang. Những tác phẩm của ông được Business Insider, có trụ sở tại New York, Mỹ đăng trong bài viết có tiêu đề Những bức ảnh thú vị về Việt Nam xưa và nay.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Bức ảnh chụp một con phố ở Nha Trang trong giai đoạn 1966 đến 1968 và khung cảnh thành phố ngày nay. Nha Trang là nơi tác giả bộ ảnh đang sống.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Bức ảnh tư liệu của Alfred Eisenstaedt chụp bãi biển thơ mộng của Nha Trang năm 1968 và hình ảnh về nó gần 5 thập niên sau đó.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Phố cổ Hội An giữa quá khứ và hiện tại.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Ảnh chụp thành cổ Quảng Trị năm 1968 và hiện trạng di sản ngày nay.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Cung đình Huế thập niên 20 của thế kỷ trước.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Lính gác nơi kinh đô triều Nguyễn những năm 1910.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Cổng Hiển Nhơn, Huế thập niên 20 của thế kỷ 20.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Nữ sinh đi học trên cầu Trường Tiền, Huế trong những năm 1960.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Một góc nhìn khác về cầu Trường Tiền giữa hiện tại và quá khứ.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Quân lính bên ngoài kinh thành Huế cuối thập niên 40 của thế kỷ 20.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Quân giải phóng tiến vào Huế năm 1968 và hình ảnh du khách tới tham quan ngày nay.