Author: Hình ảnh Việt Nam

  • Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    < Luôn cập nhật>

    Để có được bộ ảnh hài hước nhất , Hình ảnh Việt Nam  phải lục tung facebook sau đó sàng lọc và tổng hợp lại mới có thể cho ra được những bức vui hài bá đạo trên từng hạt gạo . Rất mong với bộ ảnh cực chất này sẽ mang lại những tiếng cười thật sảng khoái và bạn đừng quên chia sẻ lên facebook, hoặc zalo để bạn bè cùng thưởng thức nhé !

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Dân chơi của năm đây rồi !

    Nhiều ảnh hơn …

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Bảo vệ gái làng , sẵn sàng đổ máu

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Cũng nghe tai phone như ai

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Nấu cơm level bá đạo

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam : Khác sạn mười em phục vụ giá bình dân

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Ảnh biển quảng cáo hài hước nhất chỉ có ở Việt Nam

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Phô tô chìa khoá

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Giữ xem miễn phí – ai đưa tiền tự chịu trách nhiệm

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Có gì không ổn ở đây

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Siêu nhân ” dũng mãnh ” nhất Việt Nam

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Bụng sáu múi là đây

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Chất không cần chỉnh

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam : Con gái hút thuốc lào

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Thanh niên nghiêm túc nhất Vịnh Bắc Bộ

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Có cả một Vườn bướm luôn

    Bộ ảnh hài hước chỉ có ở Việt Nam

    Tiếp tục cập nhật…

  • Sai sót khi tái dựng trang phục của các vị vua triều Nguyễn

    Sai sót khi tái dựng trang phục của các vị vua triều Nguyễn

    Gần đây có một bộ tranh chân dung của các vua triều Nguyễn được vẽ mới và phổ biến, thu hút được nhiều sự chú ý của người xem. Nếu chỉ thưởng thức các bức vẽ này như những ảnh vui mắt, đầy mầu sắc thì được. Nhưng các tranh này không có giá trị tài liệu và sử liệu về triều phục Việt Nam thời Nguyễn. Tất cả các chi tiết về áo, mão lẫn diện mạo đều do họa sĩ tưởng tượng. Trước hết hãy so sánh các bức ảnh nguyên gốc (bên trái) và các chân dung được họa sĩ phóng tác lại (bên phải).

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Gia Long.

    Vua Gia Long, bên trái là chân dung do người Pháp vẽ ước lệ theo ký ức. Nếu nhà vua mặc áo dài hay áo tấc đen (chỉ có hai loại áo này có cổ xây) thì không đội mão phác đầu (mũ cánh chuồn). Và nếu là mão phác đầu thì trong ảnh này thiếu cánh chuồn. Quan trọng là các vua không đội mũ cánh chuồn. Ảnh bên phải vẽ phỏng theo, với các sáng tác ngộ nghĩnh về trang phục. Vua được cho mặc cổ áo loại chi đó không rõ. Còn cái mão trong chân dung mới vẽ lại (bên phải) hoàn toàn không có trong trang phục cung đình của tất cả các nước trọng Khổng (còn gọi là các nước đồng văn) là Hoa, Nhật, Hàn và Việt, cả về hình dạng đến màu sắc, hoa văn…

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Minh Mạng.

    Vua Minh Mạng, bên trái là chân dung cũng do người Tây phương vẽ lại theo ký ức. Họ muốn vẽ mão xung thiên của hoàng đế, nhưng vì nhớ không rõ nên vẽ thành hình dạng này. Hoa văn rồng trên áo kiểu trên áo cũng không có ở triều đình Á châu nào. Người vẽ phỏng lại tranh bên phải, do không hiểu, nên vẽ lại gần như nguyên bản cái mũ sai lạc đó. Do người Pháp nhớ không rõ cho nên vẽ cái cổ áo bàn lĩnh của hoàng bào to và thành hai tầng. Người họa sĩ Việt tưởng nhầm thành cái vân kiên phủ vai hoàn toàn không có trong triều phục thời Nguyễn ở Việt Nam.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Tự Đức do người Pháp vẽ
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung mới vẽ lại của vua Thiệu Trị (bên trái) và vua Tự Đức (bên phải)

    Vua Thiệu Trị và vua Tự Đức hoàn toàn không để lại hình ảnh gì, ngoài một cái ảnh vẽ ước lệ vua Tự Đức nhìn ngang, trên đầu đội một cái mão đường cân được vẽ phỏng lại không chính xác dựa theo ký ức. Khổ nỗi là tác giả của bộ tranh mới lại cho hai vị hoàng đế này đội mão phác đầu (mũ cánh chuồn) của các quan. Hoàng đế không đội mão phác đầu. Và mão vẽ ở trong hai tranh này cũng không phải là mão phác đầu, vì sai cả hình dạng lẫn các vật trang trí. Bất cứ một họa tiết trang trí nào trên áo, mão triều phục cũng có luật lệ nghiêm ngặt. Dù chỉ là một con giao long nhỏ trên cái cánh chuồn cũng phải làm dựa theo luật định, vì màu sắc của chất liệu làm ra nó cũng ấn định phẩm cấp của người đội.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Hiệp Hòa, bên trái là do con cháu vẽ theo tưởng tượng, bên phải là chân dung mới phóng tác
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Hàm Nghi.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Kiến Phúc (bên phải mới vẽ lại), còn ảnh gốc bên trái thật ra là ảnh vua Duy Tân
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Đồng Khánh do họa sĩ đương thời vẽ trực tiếp, chuẩn xác bên trái và chân dung mới mới phóng tác ở bên phải.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Thành Thái (ảnh gốc bên trái mặc áo long trấn, đầu đội đường cân).

    Đối với bức chân dung vua Thành Thái, người vẽ phóng tác không hiểu biết, cho nên vẽ nhà vua mặc long bào tay rộng, nhưng lại đội đường cân. Đường viền dưới gấu áo của ảnh bên phải không có trong hệ thống triều phục Việt Nam.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Vua Duy Tân ngày tấn phong. Lên ngôi còn bé và gấp quá không kịp làm áo, mão và hia. Bên phải là chân dung mới phóng tác.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Khải Định.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Bảo Đại.

    Thật tội cho ba vua Hàm Nghi, Khải Định và Bảo Đại được người vẽ cho mặc áo dài của thái giám. Thái giám trong nội cung mặc áo dài mầu lam hay lục dệt hoa văn chữ thọ và hoa cỡ nhỏ mầu trắng, bạc độc sắc… Tất cả các khăn vấn hay khăn xếp đội đầu ngày xưa của phái nam theo đúng lệ đều mầu đen, chứ không theo màu áo dài như bây giờ. Riêng hoàng đế vấn hay đội khăn vàng hoặc đen tùy trường hợp.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Hoa văn vạn thọ trên áo dài bằng vải đoạn mầu quan lục của vua Bảo Đại.

    Các hoàng đế mặc áo dài gấm, đoạn, sa dệt hay thêu hoa văn trang trí họa tiết vạn thọ. Nền vải chuộng các màu vàng, đen, bửu lam (lam đậm), hay quan lục (xanh nõn chuối) dệt hoa văn thất thể (7 màu). Các quan mặc áo dài với họa tiết dệt bách thọ, tứ thời, tứ tiết, và mầu sắc với hoa văn dệt ngũ thể. Họa tiết hoa văn nhỏ dệt đơn sắc trong các tranh vẽ tưởng tượng ba vị hoàng đế ở đây chỉ dành cho quân hầu và thái giám.

    Hoàng đế khi mặc hoàng bào ngự lễ đại triều thì đội mão xung thiên. Khi ra ngoài duyệt binh, ngự lễ tịch điền, v.v., thì mặc áo long trấn tay chẽn, đội mão Đường cân. Khi mặc áo cổn để tế Giao thì đội miện bình thiên có 24 tua rủ (gọi là châu), 12 phía trước và 12 đằng sau. Với cả ba trang phục này các hoàng đế đều đi hia bằng đoạn đen, thêu nổi rồng mây bằng chỉ kim tuyến vàng và gắn kim sa vàng.

    Khi thiết đại triều hoàng đế cầm trấn khuê làm bằng ngọc mầu trắng mỡ. Các quan lớn cầm hốt ngà và các quan nhỏ cầm hốt gỗ bạch. Không bao giờ có hốt mầu đỏ viết chữ đen như ở các tranh này.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Long bào Đại triều của vua triều Nguyễn (hiện vật gốc ở Bảo tàng Lịch sử TPHCM).

    Cái áo long bào này được các vua Nguyễn mặc truyền nối từ thời Minh Mạng đến Đồng Khánh. Chỗ cột thủy (sọc dọc đa sắc dưới gấu áo) được gấp lên hoặc hạ xuống tùy chiều cao của người mặc và đính vào phía trong áo, không được cắt. Hoàng đế đội mão xung thiên với trang phục này. Tay các loại áo lễ luôn phải dài bằng gấu áo, chứ không ngắn ngang cổ tay như thấy trong các phim truyền hình dài tập Trung Quốc.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Áo bằng sa thâm khoác bên ngoài áo cổn tế Giao của vua triều Nguyễn (hiện vật gốc tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế).
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Áo tế Giao của vua triều Nguyễn (phía sau).
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Long trấn của vua triều Nguyễn (hiện vật gốc tại Bảo tàng Lịch sử TPHCM).
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Mão Xung thiên Đại triều của vua triều Nguyễn.

    Mão xung thiên ở ảnh bên trái được vẽ trực tiếp với đầy đủ các chi tiết chính xác. Mão bên phải là mão phục chế hiện trưng bầy tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội với vài vật trang trí còn sót lại từ mão gốc. Mão gốc có lớp ngoài làm bằng ô sa, trong lót lớp mã vĩ (lông đuôi ngựa). Mão có 31 con rồng vàng; cùng với các viên ngọc đỏ (hỏa tề), trắng (thủy soạn), trân châu, mây vàng và lửa vàng.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Miện Bình thiên của vua triều Nguyễn (phục chế, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội).

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Hia của vua (hiện vật gốc ở Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế). Hia này bị mất hết các hạt kim sa, cũng như lớp vải đoạn lót mầu vàng bên trong.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Vua Khải Định trong trang phục tế Giao (trái). Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương (phải).

    Ảnh bên trái là vua Khải Định mặc tế phục Nam Giao, đầu đội miện, tay cầm trấn khuê. Treo rủ xuống trước bụng là tấm tế tất (phất tất). Ngoài ra còn các phụ kiện khác bị áo che phủ, như các giải ngọc đeo rủ xuống từ thắt lưng hai bên tế tất gọi là tạp bội và tiểu thụ, với 200 viên châu ngọc các loại cùng các phiến ngọc khắc hình khánh, dơi, tiền… Và có thêm một tấm đoạn thêu gọi là thiên thụ treo từ thắt lưng phía sau áo.

    Ảnh bên phải là vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương trong ngày hôn lễ. Nhà vua mặc long bào (hoàng bào), đầu đội mão xung thiên, tay cầm trấn khuê. Hoàng hậu mặc phượng bào (nữ bào) và xiêm, đầu đội mão thất phụng, chân đi hài phượng. Hôm hôn lễ hoàng hậu Nam Phương mặc áo nữ bào mầu hỏa hoàng (da cam), nhưng sau này khi đã sinh được tự quân rồi thì đổi sang mặc áo bào sắc vàng.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Vua Đồng Khánh (trái) và vua Kiến Phúc (phải).

    Ảnh trái là vua Đồng Khánh trong phút thư giãn. Vua mặc áo tấc, đầu vấn lửng sơ sài khăn kiểu chữ nhất theo lối võ ban (khi mặc lễ phục hay vấn khăn, các hoàng đế đều theo quy chế võ ban). Chân đi văn hài. Ảnh phải là vua Kiến Phúc dạo chơi bằng long xa. Vua vấn khăn chữ nhất, mặc long trấn. Một tay cầm cung, tay kia chống súng và kiếm. Sau xe treo cờ tiết mao của Thiên tử…

    Giải thích kỹ như thế nhưng vẫn còn rất qua loa so với các điển lệ phức tạp nhưng chặt chẽ của một hoàng triều. Người ta chỉ cần nhìn mầu áo của một vị quan, hay hình dạng mão, hoa văn bổ tử, để biết cấp bậc của vị quan. Ngay cả đến chất liệu làm trang trí trên một cánh chuồn trên mão và hình dạng cánh chuồn, cũng như chất liệu của các vật trang trí đó cũng đều có quy định phân biệt rõ ràng cho mỗi phẩm cấp. Ngoài ra còn các lệ về cách đeo đai (thắt lưng) cho mỗi loại triều phục, hay cách đeo các loại khánh, bài, bội… cũng phải theo luật lệ nghiêm ngặt.

    Khi muốn phục dựng hay vẽ lại những gì thuộc văn hóa cổ của dân tộc, có ảnh hưởng đến sự hiểu biết của giới trẻ sau này, thì phải kỹ lưỡng, không nên tùy tiện.

     Trịnh Bách

    anhsontranduc.wordpress.com

  • Phương tiện di chuyển của người Việt xưa

    Trong suốt chiều dài lịch sử, hàng loạt các loại phương tiện giao thông, cá nhân cũng như công cộng, lần lượt xuất hiện tại Việt Nam. Theo luật đào thải tất nhiên của cuộc sống, chúng cũng lần lượt được thay thế bằng những phương tiện mới hơn nhằm phục vụ cuộc sống tốt hơn. Loạt bài viết này sẽ điểm qua những phương cách di chuyển xưa của người Việt mà cho đến ngày nay đã trở thành quá khứ.

    KIỆU

    Bắt đầu từ thời phong kiến triều Nguyễn (1802-1945) vua chúa mỗi lần xuất cung đều dùng kiệu để đi lại. Sách Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ, do Nội các triều Nguyễn biên soạn, đã dành hẳn chương Nghi vệ (quyển 79) để miêu tả các loại kiệu dùng cho vua quan triều Nguyễn, với những quy định rất cụ thể về tên gọi, số lượng kiệu cùng các nghi trượng đi kèm, tùy thuộc vào thời thế, địa vị và thứ bậc của người sử dụng.

    Dưới triều vua Gia Long (1802 – 1820), xe kiệu của vua có 4 chiếc, gồm 1 chiếc Ngọc lộ, 1 chiếc Kim lộ và 2 chiếc Kim bảo dư. Sang triều Minh Mạng (1820 – 1841), vua có 5 chiếc, được đặt tên là Cách lộ, Kim lộ, Ngọc lộ, Tượng lộ Mộc lộ. Tùy mục đích chuyến đi, nhà vua quyết định dùng loại “xe” nào.

    Sách cũng cho biết khi vua đi chơi thì không thực hiện đầy đủ nghi thức như khi vua đi cúng tế ở các đàn miếu. Lúc này nhà vua chỉ sử dụng 1 chiếc lọng vàng thêu hình rồng để che mưa nắng, có đội quân tiền đạo và hậu hổ đi theo hộ tống. Dưới triều Minh Mạng, nhà vua quy định: ngự giá đi trong phạm vi Hoàng Thành thì phải giảm bớt một nửa số cờ quạt và không cần voi ngựa hộ tống để tránh… “kẹt đường”.

    Kiệu hoàng gia triều Nguyễn
    Kiệu hoàng gia triều Nguyễn

    Kiệu của hoàng thái hậu, gọi là Từ giá, cũng hoành tráng không kém, gồm 1 Phượng dư và 1 Phượng liễn. Lỗ bộ tháp tùng Từ giá có 2 lá cờ rồng, 2 lá cờ phượng, 2 lá cờ thanh đạo, 8 lá cờ phướn, 2 quạt thêu hình rồng phượng màu vàng, 4 quạt thêu hình rồng phượng màu đỏ, 4 quạt thêu hình loan phượng màu xanh và thêm 20 thứ binh khí hộ vệ.

    Kiệu của thái tử chỉ có 1 chiếc, gọi là xe Bộ liễn. Lỗ bộ tháp tùng xe này chỉ có 1 cờ lệnh, 2 cờ xanh, 2 cờ đỏ, 2 cờ vàng, 2 cờ trắng, 2 cờ đen, 8 lá cờ phướn, 1 chiếc tán hình tròn thêu hình 7 con rồng, 4 chiếc tán hình vuông, 4 chiếc lọng màu đỏ, 6 lọng màu xanh vẽ rồng mây…

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Kiệu Vua Duy Tân (ngày 5/9/1907)

    Sang triều Khải Định (1916-1925), nhà vua được người Pháp tặng cho một chiếc xe hơi nhân lễ Tứ tuần Đại khánh (mừng thọ vua 40 tuổi). Từ đó, ngoài việc dùng ngự giá truyền thống trong các dịp tế lễ, đôi khi vua Khải Định còn dùng xe hơi để du ngoạn hay đi săn bắn ở bên ngoài Hoàng Thành.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Cựu hoàng Hàm Nghi trên chiếc xe ngựa với ý trung nhân, Bà Laloe

    Trước đó, triều đình có cho dựng ở phía trước Ngọ Môn 2 tấm bia đá, trên bia có ghi 4 chữ Hán: Khuynh cái hạ mã, nghĩa là khi đi ngang qua đây thì mọi người phải nghiêng lọng và xuống ngựa. Kể từ khi vua Khải Định dùng xe hơi, thì 2 tấm bia này không còn thích hợp nữa. Vì thế, triều đình đã cho nhổ 2 tấm bia này đưa vào cất giữ trong kho của Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế).

    Đây cũng là nơi đang trưng bày chiếc kiệu sơn son thếp vàng của vua Bảo Đại, dùng để đi lại trong phạm vi Hoàng Thành Huế. Ngoài ra, trong kho của Bảo tàng này đang lưu giữ chiếc kiệu mà vua Bảo Đại đã từng dùng khi đi tế Nam Giao vào năm 1935.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Chiếc kiệu chạm rồng, sơn son thếp vàng của vua Bảo Đại, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế.

    Sang đến thời kỳ Pháp thuộc, kiệu vẫn được sử dụng nhưng đối tượng dùng kiệu được mở rộng. Vào thời này, kiệu còn dành cho các quan thuộc địa người Pháp cùng gia đình và những chức sắc người bản xứ trong việc đi kinh lý hoặc ngoạn cảnh. Trong những bức hình du ngoạn bãi biển Đồ Sơn dưới đây, người khiêng kiệu đều là phụ nữ bản xứ, họ gánh kiệu trên 2 thanh gỗ ngang và kiệu được đặt trên 2 thanh dọc dài hơn.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Kiệu dành cho người Pháp du lịch bãi biển Đồ Sơn
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Kiệu dành cho… “Ông Tây, Bà Đầm”
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Phu kiệu toàn là phụ nữ người bản xứ
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Kiệu dành cho gia đình quan chức người bản xứ
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Phu kiệu nghỉ ngơi

     

    Trong phim Indochine do đạo diễn Régis Wargnier thực hiện vào tháng 4/1992 với các diễn viên Catherine Deneuve (trong vai Eliane), Vincent Perez (John the Baptist), Linh Dan Pham (Camille), Jean Yanne (Guy Asselin), khán giả được thấy cảnh ngồi kiệu của diễn viên đóng vai John the Baptist. Indochine là một phim hoành tráng mô tả cuộc sống của người Pháp thời đi mở thuộc địa tại Đông Dương. Phim sử dụng tới 1800 bộ y phục của cả người Âu lẫn người bản xứ.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Kiệu trong phim “Indochine” của Régis Wargnier

    Vào thời phong kiến, quan lại triều Nguyễn không được phép dùng kiệu mà chỉ ngồi võng có mui che, được khiêng bởi 4 người lính. Đòn ngang của võng sơn son thếp vàng, khắc hình con giao long, đòn dọc của võng khắc hình con thú ứng với phẩm trật của vị quan ngồi trên võng.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Tranh xưa vẽ cảnh đi võng

    Võng bằng lụa màu hồng. Mui che võng được quang dầu màu xanh để che mưa nắng. Quan lại trên hàng nhất phẩm thì có 4 người lính vác 4 chiếc lọng theo hầu, quan nhất phẩm chỉ có 3 lọng, quan nhị phẩm chỉ có 2 lọng và quan từ tam phẩm xuống đến cửu phẩm chỉ có 1 người vác lọng theo hầu.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Võng được dùng để phục vụ các quan lại trong triều

    Ngoài ra, những tân khoa thi đỗ đều được dùng võng để về làng “Vinh quy, Bái tổ”. Trong ca dao xưa có câu “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” để mô tả sự vinh quang của người học trò thành đạt.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau

    Tin người đỗ đạt được đưa về làng, hương chức, dân làng họp ở đình, cắt cử người ra gập Tân khoa để ấn định ngày vinh quy, rước về nguyên quán. Thường thì đỗ Tú tài chỉ làng xã rước, đỗ Cử nhân hàng huyện phải rước, đỗ Tiến sĩ thì hương lý, trai tráng hàng tổng đem đủ nghi lễ, cờ quạt đón từ tỉnh rước về làng. Tuy nhiên, những người trong họ quan Tân khoa được miễn làm phu phen đi rước.

    Xe kéo

    Tìm hiểu về lịch sử của chiếc xe kéo, người ta cho rằng loại xe này đã ra đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị tại Nhật Bản, vào khoảng năm 1869. Hồi đó, những gia đình khá giả có thể tậu một chiếc xe do người làm kéo đi những lúc cần di chuyển, thay vì phải đi bộ.

    Theo Wikipedia, xe kéo – tiếng Anh là Rickshaw, tiếng Pháp là Pousse-Pousse – bắt nguồn từ tiếng Nhật “Jinrikisha” trong đó ghép bởi “jin” (con người, nhân), “riki” (sức lực) và “sha” (xe). Như vậy, “Jinrikisha” là loại xe chạy bằng sức kéo của con người.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo xưa trên bưu ảnh của Nhật Bản

    Bắt đầu từ năm 1870, chính quyền thành phố Tokyo cấp giấy phép sản xuất và bán xe kéo cho 3 người được coi là nhà sáng tạo phương tiện vận chuyển “tân kỳ” này: Izumi Yosuke, Takayama Kosuke và Suzuki Tokujiro. Để được phép hoạt động tại Tokyo, xe kéo phải được đóng dấu cho phép của 3 nhà phát minh này.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo tại Nhật năm 1897

     

    Xe kéo lần lượt xuất hiện tại các thành phố châu Á như Trung Hoa (1873), Singapore (1880), Việt Nam (1883) và vào cuối thế kỷ thứ 19 tại Ấn Độ, Nepal, Bangladesh, Indonesia, Hồng Kông, Triều Tiên… Nói chung, xe kéo có mặt khắp lục địa Á Châu là nơi có dân số đông nhất thế giới và cũng là nơi có trình độ phát triển kém hơn châu Âu, châu Mỹ.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo tại Ấn Độ

    Năm 1883, chiếc xe kéo, hay còn gọi là xe tay tại miền Bắc, xuất hiện lần đầu tiên tại Hà Nội do Thống sứ người Pháp, Jean Thomas Raoul Bonnal, cho đem từ bên Nhật qua. Xe kéo Hà Nội xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi đầu tiên tại Âu Châu và một năm trước xe tramway, một loại xe do ngựa kéo. Gần 15 năm sau, Sài Gòn mới biết tới loại xe này.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Hình ảnh xe kéo là một trong những sắc thái đặc thù của Đông Dương được họa sĩ Adrien Marie vẽ trong một bức tranh cổ động cuộc đấu xảo năm 1889 tại Pháp

     

    Lịch sử phát triển xe kéo tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1884 khi một nhà thầu người Pháp cho sản xuất khoảng 50 chiếc xe cung cấp cho cả miền Bắc, khi đó còn gọi là Tonkin. Từ đó, chiếc xe kéo dần dần trở nên quen thuộc tại Hà Nội và chỉ dành cho những người có chức, có tiền sử dụng làm phương tiện di chuyển trong khi đi bộ vẫn là phương tiện chính của đại đa số dân chúng.

    Ngồi trên xe kéo nói lên cho sự giàu có và uy quyền của người Pháp và các gia đình quyền quý người bản xứ nhưng trước đó các tiểu thư khuê các Hà Thành thường ít khi dùng đến xe kéo vì sợ hiểu lầm là… Me Tây. Thời đó, phụ nữ người bản xứ khi lấy người Pháp tại thuộc địa thường bị mỉa mai là “Me Tây” cũng như sau này ở Sài Gòn có một số người bị gán cho “danh hiệu”… “Me Mỹ” khi họ kết hôn với người Mỹ.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo trước khách sạn Metropole (đường Henri Rivière), Hà Nội

    Một hãng cho thuê xe kéo sau đó được thành lập tại Hà Nội. Những chiếc xe kéo đầu tiên có bánh xe bằng sắt, chạy không êm nhưng hành khách phải giữ chỗ trước một ngày nếu muốn được thuê. Dần dà, bánh xe kéo được bọc cao su nên khi chạy êm hơn và loại xe bánh sắt chuyển ra các vùng ngoại ô.

    Cuộc cách mạng “bánh xe” đã phân chia thành hai loại khách sử dụng: loại bánh cao su được dành cho giới quan chức thuộc địa và gia đình trong khi loại bánh sắt dành cho giới trung lưu người bản xứ.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo Hà Nội (1900)

    Ngay cả những xe kéo với bánh cao su cũng chia ra làm hai loại, loại bình thường và loại của hãng OMIC. Loại nầy có chổ ngồi bằng nhôm trắng bóng và có nệm lò xo cũng được bọc vải trắng, dĩ nhiên đi xe loại nầy thì mắc tiền hơn là đi xe loại thường.

    Hình ảnh về các quan lại, binh lính, chức dịch… thời đại phong kiến dưới triều đại phong kiến qua góc nhìn của các nhiếp ảnh gia người Pháp khi họ đến Đông Dương trong đó có Việt Nam cho thấy một cái nhìn đầy đủ về một thời kỳ đã kéo dài ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Hãng xe kéo Hà Nội

    Chiếc xe kéo được coi là biểu tượng của sự phân biệt giai cấp giữa người lao động phải dùng sức mình để kiếm miếng cơm manh áo và hành khách ngồi phía sau là giới quyền quý, giàu sang. Truyện ngắn Người ngựa – ngựa người của Nguyễn Công Hoan đã nói lên cuộc đời cơ cực của người kéo xe, còn được gọi bằng “cu-li”, giữa khung cảnh đêm 30 Tết.

    Truyện kể anh phu xe đói khách trong đêm giao thừa gặp phải một cô khách tân thời tưởng lắm tiền ai ngờ lại quá keo kiệt, chỉ trả hai hào cho một giờ bao xe. Anh kéo xe giờ cho nên cũng chỉ chạy tà tà, theo cách Nguyễn Công Hoan mô tả: “đít nhổm mạnh, mà bước ngắn”.

    Truyện chỉ có 2 nhân vật và người đọc thoạt đầu cứ tưởng như thuộc hai giai cấp khác nhau nhưng cuối cùng cũng nhận ra họ chỉ là “người ngựa” kéo phía sau là “ngựa người”, một “bà” khách lại là một cô gái “ăn sương” thuê xe kéo để đi kiếm khách trong đêm giao thừa. Đã không có tiền trả anh xe kéo, “bà” khách lại còn mượn anh hai hào để mua gói thuốc lá, bao diêm và cả hạt dưa để cắn!

    Anh phu xe thì hí hửng khi giờ khắc giao thừa đến gần: “Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay từ lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng mười bằng trăm năm nay”.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo Hà Nội

    Nguyễn Công Hoan dẫn người đọc đến một đoạn thật hấp dẫn sau khi anh phu xe đã kéo “bà” khách đi khắp phố phường Hà Nội gần 2 giờ đồng hồ trong đêm giao thừa:

    – Này, anh đỗ xuống tôi bảo. Tôi nói thực với anh nhé. Bây giờ đã về sáng rồi, chắc anh kéo tôi mãi cũng đến thế mà thôi. Tôi thì thực không có tiền giả anh đâu. Tôi gán cho anh khăn, áo, đồng hồ mà anh không lấy, thì tôi chả biết nghĩ thế nào cho phải cả. Thôi thì anh kéo tôi ra chỗ kín, vắng, anh muốn bắt tôi gì tôi xin chịu.

    – Tôi bắt gì cô mà tôi bắt!

    Cô ả nắm lấy tay, vỗ vào vai anh xe, nhăn nhở cười:

    – Anh này thực thà quá, nghĩa là chỉ có anh với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn làm gì tôi cũng bằng lòng.

    – Ối thôi! Tôi lạy cô. Nhỡ cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi.

    – Không sợ, tôi mới khám bệnh hôm qua.

    – Thôi, tôi chắp tay tôi van cô, cô có thương tôi thì mời cô xuống xe cho tôi về, và xin cô tiền xe!

    – Thế thì anh cứ kéo tôi về nhà tôi, xem có đồ đạc gì đáng giá, thì anh cứ việc lấy.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo trên đường Paul Bert, ngày nay là phố Tràng Tiền, Hà Nội (1915)

    Đến cửa một nhà săm, cô ả bảo anh xe kéo ghé vào để hỏi vay tiền. Mệt lử nên trong khi chờ khách vay tiền anh phu xe ngủ gật. Khi pháo giao thừa nổ vang anh mới tỉnh dậy. Vào hỏi thăm anh bồi “săm” mới biết là cô gái đã chuồn mất bằng cổng sau. Và đây là đoạn kết:

    “Anh xe nghiến răng, cau mặt, lủi thủi ra hè, cầm cái đệm quật mạnh vào hòm đánh thình một cái! Anh móc túi lấy bao diêm đốt vía, rồi khoèo bàn chân, co cái càng lên, đưa tay ra đỡ, thủng thẳng dắt xe đi… Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch toạch”.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Phu xe “đói” khách

    Như đã nói ở phần trên, Sài Gòn xưa vào năm 1898 mới làm quen với xe kéo, khoảng gần 15 năm sau Hà Nội. Lý do cũng dễ hiểu là xứ thuộc địa chính thức của người Pháp có phương tiện di chuyển duy nhất là những chiếc xe do ngựa kéo mà người Pháp gọi là “Malabar” hay “Boîte d’allumettes” (vì xe có dáng dấp như một hộp diêm).

    Một đặc điểm của xe kéo Sài Gòn vào đầu thập niên 1920 là mỗi chiếc đều được cấp phát số xe gồm 4 chữ số để dễ kiểm soát khi lưu thông, trong khi đó, xe kéo Hà Nội không có. Dưới đây là một số hình ảnh về xe kéo tại miền Nam:

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo và xe ngựa trước chợ Bến Thành đầu thập niên 1920
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo và xe hơi trước “Hôtel de Ville”
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo trước Nhà hát Thành phố
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo trước Nhà thờ Đức bà
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo trên đường Catinat (ngày nay là Đồng Khởi)
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe kéo trong Chợ Lớn

    Xe ngựa

    Thời cổ, giới quyền quý Trung Hoa dùng xe do ngựa kéo mỗi khi di chuyển. Thời trung cổ, tại Pháp và một số nước châu Âu giới quý tộc thường đi loại xe do hai ngựa kéo, xe song mã thể hiện đẳng cấp của những người thuộc gia đình quyền quý. Ngày nay các loại xe song mã chỉ còn được dùng trong việc đưa khách du lịch đi ngoạn cảnh.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe song mã phục vụ khách du lịch tại Melbourne, Úc châu

    Tại miền Nam vào những năm 1880 của thế kỷ 18, xe ngựa là phương tiện đi lại bình dân và phổ biến ở vùng Sài Gòn-Gia Định. Đây là loại xe do một ngựa kéo được bắt nguồn từ kiểu cỗ xe song mã sang trọng của Pháp được người dân miền Nam chế tác cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và địa hình của Việt Nam.

    Trước đó, người Pháp đã đưa xe ngựa vào Đông Dương làm phương tiện vận chuyển hành khách cũng như hàng hóa. Người Pháp gọi xe ngựa ở thuộc địa là “Malabar” và sau này còn có tên “Boîte d’allumettes” vì hình dáng giống như một hộp diêm quẹt.

    Một trong những hình ảnh được coi là xưa nhất của xe ngựa tại Sài Gòn là chiếc xe của Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện (Manufacture d’Opium) được chụp vào khoảng đầu thập niên 1980.

    Có thể thấy dòng chữ bằng tiếng Pháp trên thành xe ghi rõ là xe của nhà máy. Phía bên trái là hình của một người phu xe kéo đứng nhìn chiếc xe ngựa, hình như anh rất ngạc nhiên với hình ảnh một chiếc xe do ngựa kéo được người Pháp đưa vào Đông Dương.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe ngựa trước Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện tại Sài Gòn

    Xe ngựa dưới dạng xe “cải tiến” đơn giản còn được dùng trong hoạt động của quân đội viễn chinh Pháp tại thuộc địa Đông Dương. Loại xe này dùng để chuyên chở quân trang, quân dụng trong lực lượng võ trang của quân đội thuộc địa.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe ngựa dùng trong quân đội thuộc địa

    Loại xe ngựa cầu kỳ hơn được dùng để chuyên chở hành khách là những viên chức thuộc địa và gia đình. Những chiếc xe này mang dáng dấp của loại xe song mã thường thấy tại Âu châu với “xà ích” là người bản xứ.

    Như vậy, ngay trong giới lái xe người bản xứ cũng phân chia nhiều đẳng cấp tùy theo mức độ sang trọng của phương tiện: thấp nhất là phu xe kéo (còn được gọi là cu-li), kế đến là “xà ích” (người điều khiển xe ngựa) và cao nhất là tài xế xe hơi (chaffeur).

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Hình ảnh các phương tiện giao thông trước Nhà thờ Đức Bà vào những năm 1920s

    Đặc điểm của thời kỳ xe ngựa mới du nhập vào Đông Dương là loại song mã hoặc chỉ có một ngựa kéo. Riêng phần thân xe được đặt trên 4 bánh, hai bánh sau có đường kính lớn hơn hai bánh trước để giữ đối trọng với ngựa chạy phía trước, khác hẳn với xe ngựa do người Việt chế tạo sau này chỉ với hai bánh.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe ngựa tại chợ Bến Thành
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe ngựa bên Nhà thờ Đức Bà
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe ngựa Sài Gòn khoảng 1930
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe ngựa Chợ Lớn
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Chiếc Malabar một ngựa
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe song mã tại Hải Phòng

    Tại miền Bắc, khi đó còn được gọi là Tonkin, người Pháp cũng sử dụng xe ngựa cho các quan chức thuộc địa nhưng số lượng không đáng kể so với miền Nam, còn có tên là Cochinchine.

     

    Trước những loại xe ngựa sang trọng của Pháp, người Việt đã mày mò sáng tạo ra loại xe một ngựa đơn giản và bình dân hơn để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa. Loại xe một ngựa này còn có một cái tên khác là xe thổ mộ.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe thổ mộ chuyên chở hàng hóa giữa Sài Gòn

    Có rất nhiều cách giải thích về xuất xứ về tên gọi xe thổ mộ tại miền Nam. Có người nói thổ mộ vốn có mái che khum khum giống hình ngôi mộ nên người bình dân gọi là… “thổ mộ”. Giải thích mang tính cách ngôn ngữ học cho rằng “thổ mộ” là chữ đọc trại từ “thảo mã” hay “thụ mã” theo tiếng của người Quảng Đông vốn là số đông người Hoa sinh sống tại miền Nam.

     

    Lại có ý kiến cho rằng “thổ mộ” chính là chữ đọc trại từ Thủ Dầu Một, thuộc tỉnh Bình Dương, nơi được coi là “cái nôi” của của xe thổ mộ. Để dẫn chứng giả thuyết này, người ta dẫn chứng một bài vè cổ về 47 chợ tại miền Nam:

    … Khô như bánh tráng là chợ Phan Rang,

    Xe thổ mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một

    Chẳng lo ngập lụt là chợ Bưng Cầu…

    Vào những thập niên 40 và 50 là giai đọan phát triển của xe thổ mộ. Tại chợ Thủ Dầu Một có đến 3 bến xe thổ mộ hoạt động nhộn nhịp, có khi lên đến trên 50 chiếc. Không chỉ vậy, Thủ Dầu Một còn có nhiều trại mộc đóng xe thổ mộ có tiếng với thùng xe đẹp, trang nhã, bánh xe bền chắc. Xe sản xuất tại Thủ Dầu Một còn được gọi là xe “Thùng Thủ” để phân biệt với các nơi sản xuất khác và cũng để khẳng định “đẳng cấp” của mình.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe thổ mộ nhìn từ phía sau

    Để làm một chiếc xe thổ mộ đòi hỏi nhiều yêu cầu khắt khe chứ không đơn giản như người ta tưởng. Kích thước về chiều dài, chiều rộng, chiều cao của thùng xe phải cân bằng khi di chuyển trên mọi địa thế. Thùng xe được đặt trên hai thanh nhíp gồm 4 lá thép để giảm độ  sóc khi xe chạy trên đường. Nói chung, từng chi tiết của xe phải chính xác để tạo sự an toàn khi chuyển động.

    Gỗ làm xe thổ mộ phải là loại tốt như Giáng Hương, Căm Xe, gỗ mít… không bị mối mọt. Quan trọng nhất là cặp bánh xe vì là phần chịu tải chính nên được làm rất cẩn thận, trục ngang của xe bằng ống thép chịu lực cho thùng xe nhưng lại không dùng bạc đạn mà chỉ có ổ trục.

    Mỗi bánh xe được ghép từ sáu mảnh gỗ gắn với 12 chiếc căm cắm vào trục bánh xe. Sau đó, một vòng sắt quấn quanh bánh xe để bảo vệ phần gỗ và cuối cùng một lớp nệm cao su được nịt chặt ở vòng ngoài.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe thổ mộ trên đường phố

    Thùng xe được thiết kế thoáng mát, tạo sự thoải mái cho hành khách nhưng có vẻ hơi cao so với mặt đường trong khi chỉ có một miếng sắt để khách lên xuống xe. Đây cũng là điểm yếu của xe thổ mộ nhưng một số người lại thích ngồi vắt vẻo trên xe với hai chân đong đưa để ngắm nhìn đường phố.

    Bên trong thùng xe, khách ngồi trên chiếu đâu mặt nhau, guốc dép máng ở hai cọc sắt phía sau hai góc thùng. Nếu vắng thì khách ngồi thòng chân ở phía có bàn đạp lên, xuống. Hai vè bên thùng xe uốn gợn sóng có thể dùng để gác hàng hóa. Và trên cùng là cái mui uốn cong, lợp thiếc, nhô ra tới nửa mình ngựa, khum lại giống như mui chiếc ghe bầu nhưng cũng trông tựa một cái… mả nên nới gọi là thổ mộ (?).

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Ngựa, xà ích và hành khách

    Âm thanh của chiếc thổ mộ với những tiếng kêu “lóc cóc, lọc cọc” phát ra từ móng ngựa được bọc sắt tiếp xúc với mặt đường nhựa cũng trở nên quen thuộc với nhiều thế hệ người miền Nam. Có nhiều xe còn gắn lục lạc cho ngựa nên khi chạy trên đường tiếng lục lạc hòa lẫn tiếng lọc cọc, cộng với tiếng “họ, họ” điều khiển ngựa của người xà ích tạo thành một bản nhạc đặc thù của xe ngựa Sài Gòn xưa.

    Về sau, có dòng xe thổ mộ “văn minh” hơn, được cải tiến từ bánh xe gỗ sang bánh xe bằng cao su bơm hơi với đường kính nhỏ hơn và do đó thùng xe cũng thấp hơn. Loại xe này giúp hành khách lên xuống thoải mái, an toàn. Khi chạy trên đường, lốp xe cao su êm hơn nhưng ngược lại, “tiếng nhạc” thổ mộ vốn có mất dần đi khiến những người “hoài cổ” không tìm lại được cái thú của ngày nào.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Dòng xe thổ mộ có bánh xe cao su

    Ngựa kéo xe thổ mộ thường là những con ngựa đua đã có tuổi, không còn đủ sức vẫy vùng trên đường đua nhưng vẫn còn có thể di chuyển giữa lòng đường phố nhộn nhịp xe cộ. Bộ yên lưng bằng da có hai quai lồng vào hai càng xe đặt hai bên vai ngựa. Sợi yên lưng còn lồng vào đuôi ngựa để khi xuống dốc có tác dụng kềm ngựa. Lại còn có dây bụng nâng ngực ngựa khi xe chạy. Người xà ích đôi khi xếp khách ngồi dịch lên hoặc lùi xuống là để cho ngựa không bị sức nặng đè vai hoặc bó chặt ngực khó chạy.

    XÍCH LÔ

    “Xích-lô”, suất xứ từ tiếng Pháp “cyclo”, là một phương tiện giao thông sử dụng sức người, di chuyển trên 3 bánh dùng để chở khách hoặc hàng hóa. Người lái xe cũng vận hành cyclo như một chiếc xe đạp nên còn được gọi là “xích-lô đạp” và sau này được cải tiến với động cơ xe gắn máy để thành “xích-lô máy”.

    Cũng áp dụng cách vận hành tương tự như cyclo, còn có xe ba gác với thùng xe đặt ở phía trước để chở đồ đạc cồng kềnh và sau này xe ba gác lại được cải tiến thành xe ba gác máy với động cơ của xe gắn náy.

    Ngược lại với cyclo, ở miền Tây, hay còn gọi là Lục Tỉnh, có loại xe đạp kéo thùng chở khách đằng sau được gọi là xe lôi, rất phổ biến ở các tỉnh miền đồng bằng sông Cửu Long. Dần dà người ta lại dùng xe máy để kéo, cũng tương tự như người anh em là chiếc cyclo máy.

     

     

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe lôi miền Tây

    Chiếc cyclo đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn năm 1938 nhưng mẫu thiết kế lại không do người Việt vẽ kiểu mà lại là “tác phẩm” của một người Pháp. Lịch sử chiếc cyclo lại còn ly kỳ hơn, chiếc cyclo đầu tiên chính thức được nhà cầm quyền bảo hộ cấp phép lưu hành không phải là ở Sài Gòn mà là Phnom Penh, thủ đô của xứ Chùa Tháp trong Đông Dương thuộc Pháp gồm Việt Nam, Cao Miên và Lào.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Cyclo Phnom Penh năm 1938

    Xích lô xuất hiện vào khoảng năm 1938 tại Phnom Penh. Chiếc đầu tiên do một người Pháp, dân miền Charente tên là Coupeaud, một người đam mê thể thao vẽ kiểu. Phải vất vả lắm Coupeaud mới vận động Bộ Công chánh công nhận sáng chế và cấp phép lưu hành, sau khi đã tham khảo ý kiến của hai nhà vô địch Tour de France là Georges Speicher và Le Grèves.

    Để “tiếp thị” chiếc xe chở khách chạy bằng 3 bánh và người lái ngồi phía sau xe, Coupeaud đã tổ chức một cuộc hành trình “giới thiệu sản phẩm” dài gần 200km từ Phnom Penh đến Sài Gòn do hai người thay phiên nhau đạp xe trong thời gian 17 giờ 23 phút!

    Và cyclo đã chinh phục Sài Gòn xưa với 40 chiếc vào năm 1939, nhưng chỉ một năm sau, năm 1940, Sài Gòn đã có khoảng 200 chiếc cyclo chạy trên đường phố.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Cyclo Saigon 1950

    Nhìn khái quát, cyclo là sự kết hợp và gắn nối của các ống sắt đủ loại, đủ kích cỡ, từ thanh bảo vệ hành khách ở phía trước đến phần ngồi của người điều khiển phía sau. Hai phần này được nối với nhau bằng một trục nằm dưới gầm xe, phía dưới chỗ ngồi của khách, có tác dụng giúp người lái xe có thể quẹo phải, trái hay đi thẳng về phía trước.

    Phần yên xe của người điều khiển cũng là một kết cấu đơn giản với thắng tay nằm ngay phía dưới qua hình thức một chiếc vòng sắt hoặc một thanh ngang để người lái có thể kéo lên mỗi khi muốn giảm tốc độ hoặc dừng xe.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Thắng tay nằm ở ngay dưới chỗ ngồi của người điều khiến

    Lái cyclo không phải dễ như mọi người tưởng. Yên xe rất cao nên những người “thiếu thước tấc” rất khó “leo” lên, đó là chưa kể khi leo được lên yên chưa chắc đã đạp được hết vòng nếu chân quá ngắn.

    Phần sau của xe được nối với thùng xe bằng một trục thẳng đứng nên khi cua ngặt sẽ khiến xe mất thăng bằng, dễ bị lật. Tuy nhiên, tôi đã có lần được chứng kiến “cao thủ” cyclo biểu diễn chạy xe bằng… 2 bánh. Có nghĩa là nghiêng hẳn một bên xe, và dĩ nhiên là trên xe không có khách.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Cyclo trước Tòa Đô Chánh (Hình do R. Cauchetier chụp năm 1955)

    Khi khách bước lên hoặc xuống xe, người điều khiển phải kềm phần sau vì nếu khách thuộc loại “nặng ký” sẽ khiến đuôi xe chống ngược. Lại nữa, người lái cyclo phải là tay giỏi… “thương lượng” vì khách trước khi lên xe bao giờ cũng kỳ kèo mặc cả. Tùy hoàn cảnh, người lái xe có thể chấp nhận cái giá mà khách trả hay xách xe không kiếm mối khác!

    Chân dung người đạp xích lô cũng muôn hình vạn trạng. Đó có thể là người trên đầu đội chiếc nón lá, quần ống thấp ống cao, lep kẹp đôi dép lộ rõ mười ngón chân cáu bẩn. Buổi trưa nắng gắt bác cyclo tìm một chỗ dưới gốc cây, đánh một giấc ngay trên xe để lấy sức tiếp tục rong ruổi trên đường phố kiếm cơm.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Giấc ngủ trưa của người đạp cyclo

    Có sự phân biệt rõ ràng giữa cyclo Sài Gòn và cyclo Hà Nội. Trong khi cyclo Sài Gòn chỉ ngồi được một người (nếu cần có thể “nhét” thêm một khách nữa) thì cyclo Hà Nội có thể chở được hai người ngồi một cách thoải mái.

    Cyclo Sài Gòn là phương tiện chuyên chở bình dân nên trông cũ kỹ với mui xe, hai bên hông và phía trước được che bằng vải bạt khi trời mưa… trong khi cyclo Hà Nội sinh sau đẻ muộn nên được o bế một cách diêm dúa, mui xe làm như cái lọng của vua chúa… thường được dùng để phục vụ khách du lịch

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Cyclo Hà Nội

    Theo sự tiến bộ của khoa học, chiếc cyclo máy được ra đời vào đầu thập niên 1960. Những người đến Sài Gòn lần đầu tiên đều rất thích thú được ngồi trên phương tiện chuyên chở độc đáo này để ngắm nhìn đường phố. Cyclo máy chạy nhanh hơn cyclo đạp và người điều khiển thường là những thanh niên khỏe mạnh trong khi cyclo đạp thường do những người nhiều tuổi hơn điều khiển.

    Cyclo máy được lắp ráp ngay tại miền Nam, với những phụ tùng, linh kiện nhập cảng từ Pháp: động cơ cuả hãng xe mô tô Peugeot, loại 125 phân khối, dùng xăng pha nhớt. Đây là loại động cơ 2 thì nên khi nổ máy khói phun mịt mù, tiếng máy của xe cũng thuộc loại gây “ô nhiễm tiếng ồn”.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Cyclo máy Sài Gòn

    Cyclo máy ra đời vào thời kỳ chiến tranh leo thang với sự xuất hiện của quân đội đồng minh, nhất là lính Mỹ rất thích phương tiện chuyên chở này. Có người nước ngoài còn nói đi cyclo máy Sài Gòn còn thú vị hơn ngồi xe hơi mui trần “convertible”.

    Một anh lính Mỹ viết thư về nhà mô tả chiếc cyclo máy, đại khái như “một con quái vật há mồm, hùng hổ trên đường”… “ngồi cyclo máy tựa như phi thuyền phóng lên mặt trăng”… Tuy nhiên, họ cũng nhìn thấy sự nguy hiểm rình rập khi ngồi trên chiếc cyclo máy chạy nhanh, nếu tai nạn xảy ra, hành khách là người bị nặng nhất còn người lái xe ngồi ở mãi phía sau.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Lính Mỹ trên chiếc cyclo máy
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    “Siêu” cyclo

    Xe Lam

    Sang đến thời kỳ “văn minh xe máy”, ban đầu Sài Gòn xuất hiện cyclo máy với 2 bánh phía trước và một bánh phía sau rồi dần dà chuyển sang loại xe ba bánh ngược lại với cyclo và cyclo máy, một bánh trước và hai bánh sau, được gọi là xe lam.

    Xe lam là loại xe chuyên chở công cộng phổ biến được du nhập Sài Gòn và các tỉnh miền Nam vào thập niên 1960 để đáp ứng nhu cầu đi lại của giới bình dân. Đây là loại xe có cấu trúc tương tự như xe “tuktuk” hiện còn đang được sử dụng tại các nước như Thái Lan, Ấn Độ, Bangladesh… Người ta giải thích cái tên “tuktuk” là do tiếng nổ của động cơ khi chạy trên đường.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe Tuktuk tại Thái Lan

    Tại miền Nam, thuật ngữ “xe lam” có xuất xứ từ Lambretta và Lambro là nhãn hiệu xe của nhà sản xuất “Innocenti do Ferdinando Innocenti” sáng lập tại Ý từ năm 1920. Ngoài xe hơi, Innocenti còn sản xuất loại xe hai bánh mang nhãn hiệu Lambretta trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1971. Năm 1996 Innocenti nhập vào hãng xe Fiat và chấm dứt các dòng sản phẩm riêng.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Lambretta và Vespa trên đường phố Sài Gòn

    Ngoài xe 2 bánh Lambretta, Innocenti còn sản xuất động cơ cho loại xe 3 bánh như ta thấy xuất hiện trên đường phố Sài Gòn xưa. Đó là các dòng xe Lambretta FD với dung tích xy lanh 123 hoặc 150 cc và FLI cải tiến với 175 cc, sau đó là Lambro 200, Lambro 550 đều có dung tích 198 cc.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Bến xe lam tại Quảng Lợi, Bình Long
    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe Lambro 550 tại chợ Bến Thành

    Hãng Vespa cũng sản xuất loại xe 3 bánh và Sài Gòn đã nhập một số xe Vespa 3 bánh có hình dáng và cấu trúc giống Lambretta và Lambro. Với số lượng ít ỏi hơn, Vespa 3 bánh cũng được gọi chung là xe lam. Chúng tôi sưu tầm được một tấm hình xe Vespa 3 bánh thuộc loại “cổ lỗ sĩ” nằm trong một tiệm chuyên sửa và sơn xe… Lambretta:

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe Vespa 3 bánh

    Vespa là thương hiệu nổi tiếng của hãng Piaggio, Ý, được ra đời từ sau Thế chiến thứ hai với của dòng sản phẩm xe gắn máy yên thấp, bánh nhỏ còn gọi là xe scooter. Rinaldo Piaggio (1864-1938) thành lập Công ty Piaggio tại Genoa năm 1884 với chức năng ban đầu chuyên sản xuất các trang thiết bị cho tàu thuỷ, tàu hỏa và máy bay.

    Đến năm 1946, những chiếc xe scooter đầu tiên mang nhãn hiệu Vespa được thiết kế bởi kỹ sư Corradino D’Ascanio, ông tạo kiểu dáng khung xe vuốt tròn và tiếng máy nổ khác biệt: “Sembra una vespa!” (Nó cứ như con ong ấy). Vespa tiếng Ý là con ong và thương hiệu Vespa ra đời từ đó.

    Vespa ba bánh sử dụng động cơ của xe scooter Vespa có dung tích lớn hơn và Sài Gòn có thêm xe lam mang nhãn hiệu Vespa bên cạnh xe Lambretta và Lambro.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Vespa 3 bánh thời hoàng kim

    Các dòng xe lam lần lượt được nhập vào miền Nam để thay thế xe thổ mộ, hay còn gọi là xe ngựa. Đặc biệt loại xe lam khi nhập không ở dạng “đóng thùng”, việc đóng thùng xe được thực hiện tại Sài Gòn. Theo thống kê, trong số gần 35.000 chiếc Lambro 550 xuất xưởng thì có gần một nửa (khoảng 17.000 chiếc) được xuất sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam.

    Khoảng những năm 1966-1967, chính phủ VNCH đã tiến hành một chương trình mang tên “Hữu sản hoá” nhằm cung cấp phương tiện hành nghề chuyên chở công cộng cho những lao động cần việc làm và cũng để cải thiện đời sống giới thợ thuyền, phát triển hạ tầng cơ sở vận tải … Và đó là cơ hội để xe lam thâm nhập vào thị trường miền Nam.

    Ngoài việc “hữu sản hóa” xe taxi sơn màu vàng trên mui và xanh dưới thân, một số người thuộc giới tài xế xe lam cũng là những đối tượng của chương trình hữu sản hóa, trong số đó có không ít người từ xà ích xe ngựa trở thành tài xế xe lam. Họ ký kết những hợp đồng trả góp để có thể làm chủ một chiếc xe lam ngày ngày chạy trên đường phố kiếm cơm.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe lam và xe taxi trên đường phố Sài Gòn

    Giá chiếc xe lam vào thập niên 60 khoảng 30 cây vàng nhưng vàng hồi đó còn rẻ chứ không “leo thang” như ngày nay. Có tài xế xe lam còn khoe: “Chạy một ngày, ăn cả tháng chưa hết”. Nói vậy có lẽ hơi quá, nghề nào cũng có những gian nan, khổ cực của nó, nhưng câu nói đó cho thấy nghề tài xe lam thời hoàng kim là một trong những nghề “hot”…

    Đặc điểm của xe lam là tính “cơ động”, hành khách có thể lên xuống xe tại bất cứ chỗ nào dọc theo tuyến mà không cần trạm lên xuống như xe buýt. Miền Nam trong thời kỳ chiến tranh leo thang, xe lam cũng là phương tiện “chạy giặc” hữu hiệu vì gọn nhẹ lại chở được nhiều đồ đạc như bức hình dưới đây:

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe lam “chạy giặc”

    Sau biến cố 30/4/1975 xe lam vẫn tiếp tục tồn tại trong khi taxi phải mất nhiều năm mới khôi phục vào thời kỳ Đổi Mới với những chiếc taxi sơn màu vàng mang thương hiệu Vinataxi, một liên doanh với Hồng Kông. Xe lam trong thời kỳ này được dùng làm phương tiện đi lại phổ biến, rẻ tiền và dĩ nhiên vẫn giữ được “thời vàng son” của nó.

    Lúc đó, chỉ riêng thị xã Biên Hòa, có 6 hợp tác xã xe lam với khoảng 1.000 đầu xe đăng ký chở khách chính thức, với hàng triệu lượt khách mỗi năm. Cũng vì thế mà có thời Biên Hòa được ví như là “thủ phủ xe lam”. Sau này, những chiếc xe lam đã “có tuổi” nhưng vẫn được đem ra miền Bắc để giải bài toán giao thông ngày càng phức tạp tại các đô thị lớn.

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe Lam đậu cạnh “người anh em” Lambretta sau năm 1975

    Xe lam là loại xe có một cabin phía trước dành cho tài xế và một thùng xe có thể chở hành khách và hàng hóa. Khách ngồi trên băng ghế dài, dọc theo hai bên thùng xe với sức chứa trên 10 người, đó là chưa kể trường hợp đặc biệt, 2 người khách nữa có thể ngồi 2 bên tài xế trong khoang lái!

    Động cơ xe nằm ngay dưới yên dành cho tài xế. Khi xe chết máy, bác tài phải nhảy xuống đường, giở yên xe lên, chùi lại bu-gi, dùng một sợi dây thừng kéo cho máy nổ hoặc dùng bàn đạp khởi động lại máy xe.

    Gặp khi đông khách, bác tài cũng sẵn sàng ngồi thu gọn lại ngay giữa yên để có thêm chỗ cho hai khách ngồi ké vào hai bên. Chuyện kể một chuyến xe đang chạy ngon trớn bỗng động cơ xe ngừng hoạt động. Bác tài nói với 2 bà ngồi hai bên: “Hai bà làm ơn xuống xe cho tôi đạp máy”.

    Vốn là người miền Nam nên bác tài phát âm “đạp máy” nghe như “đạp mái” khiến một bà lên tiếng: “Cái ông này ‘dê đạo lộ’. Xe chết máy không lo sửa mà lại còn đòi… đạp mái. Vô duyên!”

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Chuyến xe… bão táp

    Bên trong xe lam là cả một kho truyện tình cảm “lâm li bi đát” nhưng cũng có khi là những chuyện “trời ơi đất hỡi” đáng ghi nhớ. Những chuyến xe đông người có thể trà trộn khách thuộc loại có “bàn tay nhám” hay “diệu thủ thơ sinh” chuyên nghề móc túi. Lại còn có những “bóng hồng” hành nghề “bỏ bùa mê” để trộm cắp tài sản của khách trên xe.

    Hành khách ngồi “chen vai thích cánh” trên xe cũng dễ nảy sinh tình cảm bất ngờ nhưng lại cũng dễ xảy ra.. tai họa. Có trường hợp chàng trai bị cô gái “hớp hồn” trên xe lam nhưng khi xuống xe cái bóp đã… “không cánh mà bay”.

    Cũng có thể là một chuyện tình lãng mạn của đôi trai gái đi chung một chuyến xe lam như nhà thơ Trần Thanh kể lại trong bài Trên chuyến xe lam:

    “Tôi vẫn nhớ mùa thu năm ấy

    Tôi quen nàng trên chuyến xe lam

    Nàng nhìn tôi đôi mắt mơ màng

    Tôi bẽn lẽn nhìn sang không nói…

    “Ông vua nhạc sến” Vinh Sử có bài Chuyến xe lam chiều (*) với những ca từ rất bình dân kể lại một mối tình của đôi trai gái quen nhau trên một chuyến xe lam. Mối tình sau này tan vỡ không phải vì nàng bỏ đi lấy chồng mà là chàng “tham phú phụ bần” lấy con gái nhà giàu:

    “Trên chuyến xe lam đông người chiều nao

    Xui mình không quen mà ngồi bên nhau

    Trời mang nhiều trớ trêu chi

    Người chưa hề biết quen gì

    Sao ngồi gần như tình nhân si…

    ….

    Ngờ đâu yêu đương như đám lục bình

    Trôi theo con nước vô tình

    Anh lấy vợ người ta giàu có

    Tình em như cát dã tràng biển đông

    Em muốn tìm chồng cho xong

    Nhưng ngại thêm gặp kẻ bạc lòng…

    Phương cách di chuyển người Việt xưa
    Xe lam chở nữ sinh

    Một thời đã qua kéo theo nhiều kỷ niệm từ các phương tiện di chuyển công cộng tại Sài Gòn xưa. Loạt bài viết này chỉ mới ghi lại một phần nhỏ trong những sinh hoạt hàng ngày khi đi lại. Có lẽ những thế hệ trẻ ngày nay không ngờ lớp cha, ông đã trải qua nhiều thời kỳ lý thú đến như vậy. Biết đâu chừng con cháu lại thấy cha ông mình sao… khổ quá!

    (*) Video clip Chuyến xe Lam chiều, Nhạc Vinh Sử, Ca sĩ Phi Nhung:

    http://www.youtube.com/watch?v=3jsPsiD_zuA

     

    Theo Blogger Nguyễn Ngọc Chính

  • Ký hoạ 1935: cuộc sống người Miền Nam xưa

    Ký hoạ 1935: cuộc sống người Miền Nam xưa

    Bộ tranh này là những tác phẩm ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định . Xuất bản năm 1935 dưới dạng sách ảnh gồm 8 quyển, có tên Monographie dessinée de l’Indochine: Cochinchine, bằng tiếng Pháp, in khổ 32 x 25 cm. Hiện nay, bộ sách này được lưu giữ tại Thư viện Khoa học Tổng hợp TP HCM. Trường Mỹ thuật Gia Định tập hợp các tranh vẽ của sinh viên về phong cảnh, đời sống, sinh hoạt, văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng, các nghề thủ công, nông nghiệp, thương mại của người Nam Bộ vào khoảng những năm 30 của thế kỷ 20 và tạo nên cuốn sách này.

    Cầu khỉ trên con rạch ở Sa Đéc
    Cầu khỉ trên con rạch ở Sa Đéc
    Băng qua con rạch
    Băng qua con rạch
    Một cảnh ở chợ chuối.
    Một cảnh ở chợ chuối.
    Những nhạc công đường phố
    Những nhạc công đường phố
     Tắm con trẻ

    Tắm con trẻ
    Viếng mộ ngày giáp tết ở nghĩa trang Tân Sơn Nhất
    Viếng mộ ngày giáp tết ở nghĩa trang Tân Sơn Nhất
    Một người chơi đàn cò.
    Một người chơi đàn cò.
    Bà gánh cháu.
    Bà gánh cháu.
    Đám cưới người Việt Nam xưa.
    Đám cưới người Việt Nam xưa.
    Cảnh xay bột.
    Cảnh xay bột.
    Người bán gà
    Người bán gà
    Cảnh dệt chiếu.
    Cảnh dệt chiếu.

     

    Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream

    Hình ảnh Việt Nam tổng hợp từ internet

  • Thâm cung nội chiến: Nếu sử Việt lên ngôi

    Thâm cung nội chiến: Nếu sử Việt lên ngôi

     

    Thâm cung bí sử :
    Hình minh họa

    Lịch sử Việt Nam không thiếu chuyện hậu cung tranh sủng thâm sâu ngàn lớp, độc kế trùng trùng, chẳng thua các chuyện được nhà làm phim Trung Quốc khai thác triệt để như Cung Tâm Kế, Chân Hoàn Truyện hay gần đây là Võ Mị Nương Truyền Kỳ. Chẳng qua, vì nền phim ảnh truyền hình nước ta còn yếu mỏng, nên đa phần khán giả trẻ chỉ nghe sơ sài về án oan Lệ Chi Viên, Thái hậu Dương Vân Nga, hay cuộc đời truân chuyên của Hoàng hậu Nam Phương. Chính sử Việt Nam còn dày và truyền cảm hứng nhiều hơn thế!

    #1: Lưỡng triều Thái hậu Dương Vân Nga

    Nhiều sử gia cho rằng Dương Vân Nga là người nữ nhân đẹp nhất thời kỳ phong kiến Việt Nam. Gương mặt bà bầu bĩnh như khuôn trăng song vẫn có nét thanh tú, cao sang như áng mây bồng bềnh. Bà là Hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng, có với vua ba con trai, một con gái. Nhưng sau khi Đinh Tiên Hoàng qua đời, là một thái hậu “thức thời”, bà đã gá nghĩa kết hôn với Lê Đại Hành để tìm chỗ dựa cho triều đình trong lúc giặc ngoại xâm đang hăm he xâu xé. Vì vậy, Dương Vân Nga trở thành Hoàng hậu đầu tiên của triều Tiền Lê, là người phụ nữ đầu tiên của sử Việt trở thành Hoàng hậu của hai vị hoàng đế hùng mạnh, mưu lược.

    Thâm cung bí sử :
    Hình minh họa

    #2: Nguyên phi Ỷ Lan từ thôn nữ thành Thái hậu hai lần buông rèm nhiếp chính

    Nguyên phi Ỷ Lan là vợ vua Lý Thánh Tông, được vua tuyển nhập cung trong một lần vua về viếng thăm chùa Dâu và bắt gặp nàng. Khi ấy, dân làng ai cũng nô nức ra xem thánh giá, chỉ có một cô thôn nữ nhan sắc thanh tú vẫn tiếp tục hái dâu, hờ hững như không. Thấy thế, vua vời đến hỏi thì biết nàng xuất thân nghèo khó nên dặn bản thân phải chăm làm, không muốn xem lễ hội. Tuy nhiên, đời sau nhiều người lại bảo đấy là “chiêu thức” của nàng Nguyên Phi đặng khiến bản thân nổi bật gây chú ý. Sau khi vua chồng mất, là mẹ đẻ của vua con lại là người tinh thông chính trị, Nguyên Phi Ỷ Lan hai lần buông rèm nhiếp chính, giúp đem lại một thời thái bình thịnh trị. Nhưng chính sử vẫn luận tội Ỷ Lan ngầm hãm hại Dương Thái Hậu vốn là vợ chính của vua chồng, sai khiến vua con đày Dương Hậu vào lãnh cung rồi xử chết cùng 72 cung nữ để bản thân được thỏa mộng quyền lực.

    Thâm cung bí sử :
    Hình minh họa

    #3:  Lý Chiêu Thánh & Lý Thuận Thiên – tình em duyên chị

    Lý Chiêu Thánh và Lý Thuận Thiên là hai công chúa cuối cùng của nhà Lý, con gái Lý Huệ Tông và Hoàng hậu Trần Thị Dung. Khi Lý Huệ Tông băng hà, truyền ngôi lại cho con gái thứ là Chiêu Thánh trở thành Nữ hoàng (duy nhất của lịch sử Việt Nam). Thái hậu Trần Thị Dung cấu kết cùng Thái sư Trần Thủ Độ gả Nữ hoàng Chiêu Thánh cho cháu mình là Trần Cảnh, rồi năm sau ép Chiêu Thánh nhường ngôi cho chồng – vương triều Lý chính thức khép lại, mở ra triều nhà Trần. Trần Cảnh lên ngôi thành Trần Thái Tông, lập Chiêu Thánh thành Hoàng hậu. Câu chuyện không dừng ở đó. Chị của Chiêu Thánh là Công chúa Thuận Thiên vốn được gả cho anh trai của Trần Cảnh là Trần Liễu từ năm 6, 7 tuổi. Nhưng Chiêu Thánh mười năm trong cung không có con khiến Thái sư Trần Thủ Độ và Công chúa Trần Thị Dung lo lắng không có hậu duệ nương tựa nên đã bày kế ép Thuận Thiên đang mang thai phải bỏ anh lấy em, vào cung thành Hoàng hậu mới của Trần Cảnh để sinh ra thừa tự. Hoàng hậu Chiêu Thánh bị phế và biếm khỏi cung, phải lên chùa tu một thời gian. Có tích nói ở tuổi 40, bà bị triều đình đem gả làm món quà cho một danh tướng có công là Lê Phụ Trần.

    Thâm cung bí sử :
    Hình minh họa

    #4: Lê Thái Tông & Tam cung tranh sủng

    Lê Thái Tông có năm người vợ nổi bật là Dương Thị Bí, Nguyễn Thị Anh, Ngô Thị Ngọc Dao. Sủng phi Dương Thị Bí xinh đẹp sinh được hoàng tử trưởng Lê Nghi Dân nên địa vị trong cung rất cao, được vua nhất mực yêu chiều. Được sủng ái sinh cao ngạo, Dương Thị tỏ thái độ với cả vua chồng khiến bản thân bị chán ghét, phế xuống thành Chiêu nghi. Thái Tông lập Nguyễn Thị Anh là mẹ của Hoàng tử Lê Bang Cơ làm Hoàng hậu. Nhưng rồi, lại có dị nghị rằng Nguyễn Thị Anh vào cung chỉ sáu tháng đã sinh con nên Bang Cơ không phải cốt nhục hoàng gia, cùng lúc ấy Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao cũng sinh con trai. Nguyễn Thị Anh sợ Ngô Tiệp dư sẽ tranh sủng tranh quyền, nên đã sát hại vua Thái Tông rồi đổ cho vợ chồng Nguyễn Trãi, thành án oan Lệ Chi Viên nổi tiếng đời đời mà vẫn nhiều uẩn khúc chưa thể kết luận.

    Thâm cung bí sử :
    Nam Phương Hoàng Hậu

    Chính sử Việt Nam thời phong kiến còn rất nhiều những câu chuyện ly kỳ được sách vở truyền tụng và nhân dân nhiều đời thêu dệt, như hai Công chúa Đông Đô thành Hoàng hậu Phú Xuân (Lê Ngọc Hân và Lê Ngọc Bình), Công chúa Ngọc Vạn và hành trình trở thành Vương hậu Chân Lạp, Công chúa Huyền Trân cắt duyên đầu chấp nhận gả xa để mở mang bờ cõi… Hy vọng, những nhà làm phim Việt và các thế hệ đạo diễn trẻ có thể tìm về lịch sử nước nhà mà xây dựng những bộ phim hoành tráng, vừa là mồi nhử cho lớp trẻ tìm tòi lịch sử, vừa có thể đem sử Việt đi khuấy động châu Á như các bộ phim Trung, Hàn đang làm.

    LANA (lanasomething) Bài viết gốc có tiêu đề : Thâm cung nội chiến: Nếu sử Việt lên ngôi .

  • Bộ tranh Đông Hồ “Tăng gia sản xuất”

    Bộ tranh Đông Hồ “Tăng gia sản xuất”

    Bộ tranh Đông Hồ có tên “Tăng gia sản xuất” quả làm người xem cảm thấy hài hước, châm biếm pha lẫn sự xót xa về thời đại chúng ta đang sống.  Không phải lo nhiều về việc không có thực phẩm để ăn mà lại là lo ngại thực phẩm bẩn, sao cho bữa ăn trong mỗi gia đình được an toàn như những ngày xa xưa của cha ông.Những sự thật này tuy mộc mạc mà thật xót xa
    Đăng tải những hình vẽ này trên trang cá nhân, tác giả chia sẻ: “Vài chục năm nữa thôi, khi con cháu chúng ta đọc sách giáo khoa, sẽ không còn thấy những hình minh họa cảnh hái dừa, cho gà ăn, chăn trâu hay đám cưới chuột,… nữa. Mà thay vào đó là những tranh vẽ như thế này, bởi ở thời cha chú của chúng, đây chính là những cảnh sinh hoạt thường ngày từng diễn ra…Ở mỗi tranh, tôi vốn chừa sẵn một khoảng trống để viết đôi điều vào đấy, nhưng thực sự, chả viết nổi điều gì, chỉ cảm thấy đau nơi giữa hai lá phổi.
    Lợn được tẩm hóa chất để biến thành thịt bò
    Gà được bơm hơi để cho nặng cân
    Lợn bị ép uống nước để cho nặng cân
    Ruốc heo còn rẻ hơn thịt heo
    Chuối xanh tẩm hóa chất thành chuối chín ngay
    Mực một nắng bằng lốp cao su
  • Chữa cháy bằng trực thăng tại Sài Gòn trước 1975

    Chữa cháy bằng trực thăng tại Sài Gòn trước 1975

    Trực thăng CH-47 “Chinook” của Mỹ có khả năng chở 7,6m3 nước một lúc. Đây vốn là loại máy bay trực thăng vận tải quân sự hạng nặng được chuyển đổi thành trực thăng cứu hỏa. Trực thăng CH-47 là phương tiện cứu hỏa tối tân nhất thế giới thời điểm đó. Phải thực hiện nhiều chuyến “múc nước”, chiếc trực thăng mới khống chế được đám cháy.

  • Nghệ thuật trang trí trống đồng – Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Nghệ thuật trang trí trống đồng – Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Văn hoá Đông Sơn là nền văn hoá tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, phản ánh một thời kỳ phát triển văn hoá rực rỡ mà chủ nhân là những người Việt cổ. Nói đến Văn hoá Đông Sơn là nói đến trống đồng, bởi ở đó tập trung cao nhất những ý niệm về vũ trụ, những quan niệm nhân sinh.

    Đông Sơn là tên một làng nằm ở bờ sông Mã, cách cầu Hàm Rồng khoảng 1km về phía thượng nguồn (thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá). Năm 1924, người nông dân tên gọi Nguyễn Văn Lắm ở làng Đông Sơn khi ra bờ sông Mã câu cá đã tìm thấy một số đồ đồng ở nơi bờ sông sạt lở.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Văn hóa Đông Sơn đã làm chủ hoàn toàn nguyên liệu và chế tác ra nhiều loại hình công cụ, vũ khí, trang sức bằng đồng tinh xảo nhất còn lại cho đến ngày nay…Tuy nhiên, niềm tự hào chính đáng của chúng ta trong nền văn hóa Đông Sơn chính là bộ sưu tập trống đồng hết sức phong phú. Trống đồng của tổ tiên ta không giống hẳn các trống đồng tìm được tại các quốc gia khác ở vùng Đông Nam Á, mà lại khá nhiều về số lượng, dày đặc về mật độ phân bố, trau chuốt về đường nét và tinh tế về thẩm mỹ cũng như kỹ thuật chế tác, chứng minh rằng nền văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ đã phát sinh trưởng thành ngay tại bản địa.

    Những trống đồng Đông Sơn dù to nhỏ khác nhau, thời gian đúc sớm muộn khác nhau nhưng đều thống nhất về kiểu dáng gồm 3 khối hình học cơ bản chồng lên nhau:

    – Đế trống hình chóp cụt.

    – Thân giữa là khối trụ

    –  Phần tang ở trên là một phần của khối chóp cầu bị cắt lát để ngửa.

    Ba khối hình học trên khác nhau nhưng lại kết hợp hài hòa làm cho trống có các phần cân đối, vững chãi, sinh động.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Trống đồng Đông Sơn đã đẹp về tạo dáng lại càng đặc sắc hơn về lối tạo hình trong trang trí mang tính biểu tượng về những ý niệm vũ trụ, phong tục tập quán của đời sống con người. Tất cả vũ trụ , trời đất, sông núi, muôn loài…chỉ có thể xác nhận bằng trí tuệ con người và thống nhất một chủ đề là cuộc sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thời đại các vua Hùng. Trong các trống đồng tìm thấy, tiêu biểu là trống đồng Ngọc Lũ ( Nam Hà); trống đồng Hoàng Hạ (Hà Tây); trống đồngCổ Loa ( Đông Anh ); trống đồng đền Hùng( Phú Thọ) và trống đồng Đa Bút ( Vĩnh Thịnh, Quảng Xương TH).

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Bố cục mặt trống là những vòng tròn đồng tâm, bao lấy mặt trời hình ngôi sao nhiều cánh: 8- 12 – 14- 16cánh… tượng trưng cho mặt trời là dương, các vòng tròn tỏa rộng tượng trưng cho mặt trăng là âm. Đường đi của các họa tiết được trang trí trên mặt trống theo chiều ngược kim đồng hồ cũng là quan niệm lấy âm lịch làm trục thời gian trong sự vận hành chuyển hóa vũ trụ. Các họa tiết trang trí trên trống đồng là sự kết nối phong phú đa dạng vừa thể hiện triết lý phương Đông vừa thể hiện tư duy nông nghiệp đầy chất sáng tạo mang tính biểu tượng cao.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Họa tiết mặt trời là mảng lớn đặt chính giữa bề mặt trống được mô phỏng bằng các nét thẳng, tạo góc nhọn hình tia đều nhau làm người xem liên tưởng tới tia chiếu của ánh hào quang từ mặt trời. Mặt khác, nó là sự tượng trưng cho sự khuyếch đại của âm thanh, sự giãn truyền của sóng tưởng chừng không giới  hạn.

    Trong những hình trang trí trống đồng Đông Sơn, nổi trội lên là những hình sinh hoạt của con người, hầu hết là những hoạt động tập thể. Đó là những họa tiết hình người khoác áo lông chim, đội mũ cắm lông chim, là những chiến binh cầm mộc, cầm rìu hay đang chèo thuyền trong lễ hội. Hoạt động ít người là hình đang giã gạo với đường nét đơn giản được chắt lọc từ hiện thực đời sống. Tính chủ đạo cho ta thấy con người hòa với thiên nhiên lao động sản xuất, đánh bắt cá, săn bắn thú rừng, nhảy múa và thổi kèn. Con người cầm vũ khí bảo vệ đất đai và tưng bừng nhảy múa mừng chiến công hay cảm tạ thần linh đều biểu cảm bằng con mắt tròn to gần kín khuôn mặt nghiêng, thân người nhìn thẳng trùng hợp với phong cách của nghệ thuật cổ Ai Cập.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Với đặc điểm là cư trú vùng hạ lưu của các con sông lớn, người xưa coi thuyền là nhà của mình, đi lại bằng thuyền, ở trong thuyền … Hoàng Nam Tử đã viết: “Người Hồ thạo đi ngựa, người Việt thạo đi thuyền”. Văn hóa “thuyền” đã là dấu ấn in đậm trên họa tiết trang trí trống đồng. Nhìn về góc độ nghệ thuật thì họa tiết hình thuyền hầu như chiếm vị trí duy nhất trên bộ phận tang trống. Những chiếc thuyền to đẹp, đường nét mềm mại hình cánh cung, hai đầu cong vút được cắm lông chim, giữ thuyền có “lầu” với những hình mái chèo, hình người được sắp xếp đứng ngồi tạo sự thay đổi về nhịp điệu, phóng khoáng về đường nét.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Tư duy của người Việt cổ còn mang đậm hình ảnh “ con cò bay lả bay la”; những cánh chim Lạc, chim Hồng là sự hóa thân vào con chim Hạc được cách điệu cao và phân bố dày đặc trên mặt trống: chim bay, chim đậu, chim đứng chầu mỏ vào nhau … xen kẽ với hình hươu và thuyền.

    Một dạng họa tiết khác góp phần không nhỏ tạo nên giá trị nghệ thuật của trống đồng là các họa tiết hình học cơ bản: hình rẻ quạt được xen kẽ giữa các cánh sao như những tia sáng, là nét đệm chuyển tiếp làm nền cho họa tiết chính. Họa tiết răng cưa là một cách thể hiện khác của họa tiết rẻ quạt, đó là sự tỏa ra của vầng hào quang mà chủ là mặt trời. Các vòng ròn nối nhau có điểm chấm ở giữa có thể hiểu là sóng nước, là hình trang trí điểm xuyết cho diềm trống. Họa tiết chữ S biểu thị cho chớp. Đó chính là tính ước lệ cho nghệ thuật trang trí trống đồng Đông Sơn.

    Theo dòng chảy lịch sử, văn hóa Đông Sơn với đỉnh cao là nghệ thuật trang trí trống đồng đã lùi xa cách thời gian của chúng ta ngót trên 2000 năm nhưng hình bóng của một nền văn hóa văn minh dân tộc vẫn còn tiềm ẩn đến ngày nay trong đời sống của các dân tộc Việt Nam, là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Giữa 54 dân tộc anh em với nhau  trên dải đất Việt để vang vọng mãi hai tiếng “đồng bào”.

    Họa tiết hình “con thuyền- ngôi nhà” trên trống đồng Đông Sơn chính là hình ngôi nhà của người Kinh- Mường- Thái phía bắc, hình “tuyền” trên trống đồng còn hóa thân vào mái ngôi nhà Rông của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Hình chim Hạc trên trống đồng Đông Sơn được tạc bằng gỗ đặt ở đàu hồi nhà sàn người Thái, trên hoa văn thổ cẩm người Thái Mường phía bắc…v.v…

    Tự hào biết bao nghệ thuật trống đồng Đông Sơn- văn hóa Đông Sơn; càng tự hào hơn khi trống đồng Đông Sơn còn trong tư cách trống trận trong lịch sử  mà tướng giặc khi nghe tiếng trống của người Việt đã sợ bạc cả tóc:

                  Bỗng lòe gươm sắt lòng thêm đắng
                                   Rộn tiếng trống đồng tóc đốm hoa

    (Trần Phu)

    Theo sentichmich89 blogspot

  • 13 lần đại bại của giặc Trung Quốc trên đất Việt

    13 lần đại bại của giặc Trung Quốc trên đất Việt

    Lịch sử nước Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của giặc Tàu đã là những trang sử vàng kết tinh thành truyền thống yêu nước chống ngoại xâm ngàn đời của dân tộc. Giặc phương Bắc  đã nhiều lần xâm lược phương Nam, trong đó có 13 lần xua đại quân hùng hổ đánh phương Nam, hòng nuốt chửng nước ta, nhưng trong tất cả 13 lần đó,quân bành trướng Trung Quốc đều đại bại !

     Lần thứ 1 : Thời vua Hùng vương thứ 6 : Phù Đổng Thiên Vương thắng giặc Ân.

    Lần thứ 2 : Đại thắng giặc Trung Hoa Tần- An Dương Vương. 

    Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên của Trung Hoa, sai tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa. Nhưng mấy năm sau, Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, quân giặc chết quá nửa, Đồ Thư bị giết.

    Nỏ thần trong truyền thuyết

    Lần thứ 3 : Năm 181 TCN, đại thắng giặc Trung Hoa Tây Hán.
    Năm 181 TCN, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang xâm phạm Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. Theo sách vở Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam, nhiều người phải bịnh tật, bởi vậy phải thua chạy về bắc. Sau đó, triều Hán xét việc Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa.

    Lần thứ 4 : Năm 40 DL –  Đại thắng giặc Trung Hoa Đông Hán và tái chiếm toàn thể đất Việt Lạc – Trưng Nữ Vương.

    (DL: dương lịch)

    Năm 30 DL, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên vùng đất Việt Lạc. Do đó, toàn dân Việt vùng lên kháng chiến, và bầu Đức Trưng Trắc là Thủ Lãnh. Sau 10 năm, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.

    Thời gian qua, sách sử Trung Hoa đã giảm thiểu vùng đất và sức mạnh của dân Việt thời đó. Ngày nay, đã có đủ chứng cứ xác định vị trí, tình hình và vùng đất bao la của việc quân dân Việt đánh chiếm lại 65 thành, và đánh bại đại quân hùng hậu của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán.

    Thời đó, vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến của Trung Hoa, xuống tới Hải Vân… Và Hán Quang Vũ đã phải vận dụng toàn thể binh lực của ‘thiên triều’.

    Đức Trưng Nữ Vương đáng được tôn hiệu ĐAI ĐẾ ĐỒNG ĐÌNH LĨNH NAM

    Lần thứ  5 : Năm 541 , đại thắng Trung Hoa- nhà Lương, vua Lý Nam đế.
    Cuối năm 540, quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán đảo Hợp Phố đón đánh khiến quân xâm lược thảm bại, 10 phần chết đến 6-7 phần. Sau chiến thắng này, Lý Bí kiểm soát thêm quận Hợp Phố (thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay)

    Năm 541 Lý Nam Đế đánh đuổi nhà Lương, giành độc lập. Xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập ra nhà Tiền Lý. Đây là lần đầu tiên sách sử Trung Hoa ghi lại quốc hiệu và niên hiệu của dân ta. Nhà Tiền Lý kéo dài 61 năm, từ 541 tới 602 dl.

    Lần thứ 6 : Năm 938, đại thắng giặc Trung Hoa Nam Hán – Ngô Quyền.

    Từ năm 906 , Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người Trung Hoa. Truyền được 3 đời.  Năm 938, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử là Hoằng Thao kéo quân xâm lấn. Với trận cọc gỗ lim bọc sắt trên sông Bạch Đằng, đức Ngô Quyền đã đại thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Thao.

    Lần thứ 7: Năm 981, đại thắng giặc Tống, vua  Lê Đại Hành.

    Năm 981, vua Tống sai tướng Hầu nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo hai đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi, tức là Đức Lê Đại Hành. Với một trận Chi Lăng, quân ta phá tan đoàn quân Tàu, giết Hầu nhân Bảo. Đoàn quân giặc theo đường biển vội vàng rút lui.

    Lần thứ  8 : Năm 1076, đại thắng giặc Tống lần 2, vua Lý Nhân Tông – Danh tướng Lý Thường Kiệt.

    Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân sang xâm lấn nước ta.

    Lý Thường Kiêt đánh Tống bên kia biên giới. Tranh minh họa
    Lý Thường Kiêt đánh Tống bên kia biên giới. Tranh minh họa

     

    Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Quân Tống kéo tới hơn 30 vạn, chỉ còn gần 3 vạn trở về !

    LẦN THỨ 9 : Năm 1258, đại thắng giặc Nguyên – Mông lần thứ nhất, vua Trần Thái Tông

    Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai  đem 3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long, đốt phá và giết dân trong thành.

    Vua Trần thái Tông lo sợ, hỏi ý kiến thái sư Trần Thủ Độ. Trần thủ Độ khẳng khái : “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo !”.

    LẦN THỨ 10 : Năm 1284, đại thắng giặc Nguyên – Mông lần thứ 2, vua Trần Nhân Tông – Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

    Tranh truyền thân Hưng Đạo Vương
    Tranh truyền thân Hưng Đạo Vương

    Lần thứ 11: Năm 1287, đại thắng giặc Nguyên – Mông lần thứ 3: vua Trần Nhân Tông – Danh tướng Hưng Đạo Đại Vương.  

    Năm 1284, Hốt Tất Liệt sai con trai là thái tử Thoát Hoan cùng với các danh tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt. Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó, toàn thể quân Đại Việt chỉ có 20 vạn.
    – Hịch tướng sĩ do Trần Hưng Đạo viết cuối TK XIII, tố cáo tội ác của quân thù và khích lệ lòng căm thù giặc sâu sắc…
    – Binh sĩ lấy mực xăm vào tay hai chữ : “Sát Thát” (nghĩa giết quân Nguiyên- Mông ), và hết lòng chiến đấu chống giặc.
    – Vua Trần Nhân Tông triệu tập các bô lão trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn thể đồng thanh xin đánh!
    – Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn với câu nói nổi tiếng : Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã !”
    – Trần Bình Trọng: “Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc !”
    Tháng 5 năm 1285, tướng Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô ở cửa Hàm Tử.
    Tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra đánh, chiếm lại Thăng Long.
    Hưng Đạo Vương đem quân đánh ở Tây Kết, giết Toa Đô, bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.
    Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chặn mọi đường quân Nguyên
    Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chặn đánh tan tành.
     Lần thứ 12 :

    • Năm 1428, đại thắng giặc Trung Hoa Minh, vua Lê Thái Tổ( Lê Lợi).
    • Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua.
    • Năm 1418,  Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, gửi hịch kể tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân giặc cướp nước.
    • Năm 1426, sau 8 năm gian khổ, với nhiều lần nguy cấp, Bình Định Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan, Thăng Long.
    • Cuối năm 1427, cuộc kháng chiến thắng lợi, chấm dứt thời kỳ đô hộ của giặc Minh.

    Lần thứ 13:  Đại thắng giặc Trung Hoa Mãn Thanh, vua Quang Trung. 

    Năm 1789 (Kỷ Dậu) :Vua Quang Trung đại phá 29 vạn quân Thanh và nổi tiếng với câu nói hào sảng muôn đời bất hủ :

    “Đánh cho để dài tóc
     Đánh cho để đen răng.

     Đánh cho nó chích luân bất phản
     Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn   

     Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.

    Nghĩa là:
    “Đánh cho nó một cái bánh xe cũng không còn để quay về.
    Đánh cho nó một manh giáp cũng không còn lành lặn.
    Đánh để cho chúng biết nước Nam anh hùng là có chủ”.
    Trong mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc chúng ta đã 13 lần chiến thắng quân xâm lược phương Bắc. Cha ông chúng ta thắng giặc không phải vì quân nhiều, vũ khí tốt, đồng minh đông hay mạnh mà nhờ ở tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng, quyết giữ vững giang sơn, thà chết chứ không hàng giặc. Tình thần quyết chiến và quyết thắng ấy chính là chiếc Nỏ Thần đánh tan quân xâm lược, dù nước chúng to mạnh hơn, quân chúng đông hơn, tàn bạo hơn. Dân tộc ta chiến thắng vì có những lãnh đạo biết lắng nghe ý dân (thời xa xưa ấy, vua nước Việt đã biết hỏi ý dân: Nên hòa hay nên chiến). Dân tộc ta chiến thắng vì có những đại tướng như Hưng Đạo Vương hết lòng vì nước, quyết tâm bảo vệ non sông qua câu nói ghi vào sử sách “Bệ hạ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã”. Dân tộc chúng ta chiến thắng vì có những con dân sẳn sàng hy sinh tất cả để “Quyết Chiến”.

    Hình Ảnh Việt Nam.com Sưu tầm và chỉnh sửa từ nhiều nguồn

  • Lịch sử Ấu Dâm Việt Nam

    Lịch sử Ấu Dâm Việt Nam

     

    TỪ KHI NÀO ẤU DÂM TRỞ THÀNH TỘI ÁC?

    “Ấu dâm” (quan hệ tình dục với trẻ em) ĐÃ TỪNG LÀ một phần của “văn hóa truyền thống” Việt Nam kéo dài hàng ngàn năm cho mãi đến gần đây.

    Luận điểm gây shock này thực sự không có gì đáng ngạc nhiên khi xem xét lại lịch sử hôn nhân và gia đình người Việt, thậm chí, chỉ 40 năm trở về trước.

    Ở đây chúng tôi muốn đề cập đến một kiến thức nhân học cơ bản: tình dục cùng cấm kị tình dục ở những nền văn hóa khác nhau, là khác nhau. Nhiều hành vi tình dục ở một nền văn hóa được coi là bình thường, thì ở một nền văn hóa khác, lại bị coi là tội ác.

    Ngay cả trong nội bộ một nền văn hóa, ở những thời điểm khác nhau, tình dục và cấm kị tình dục cũng hoàn toàn khác biệt. Vào đời Lý và Trần, “loạn luân” là hành vi phổ biến và chấp nhận được. Song dưới thời Lê – Nguyễn, “loạn luân” là tội chết. “Ấu dâm” vẫn là chuyện HOÀN TOÀN BÌNH THƯỜNG và chấp nhận được về mặt văn hóa – đạo đức.

    Đại Việt sử ký toàn thư thậm chí còn ghi chép chuyện Lý Chiêu Hoàng lên ngôi khi 6 tuổi, thấy Trần Cảnh khi ấy mới lên 8 tuổi thì ưa. Hai người lấy nhau và thành vợ chồng. Một năm sau nhường ngôi cho chồng, được chồng yêu thương hết mực. Theo sử gia, Lý Chiêu Hoàng “hiếm muộn”, nên mãi ở tuổi 15 mới bắt đầu có con.

    Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép lại, thời nhà Trần, Trần Dụ Tông lấy vợ từ khi 13 tuổi, 15 tuổi mắc bệnh liệt dương, bà chị là công chúa Thiên Ninh (lấy chồng trước ông em 9 năm) lấy thân mình chữa bệnh cho em trai.

    Trần Dụ Tông chữa liệt dương bằng phương thuốc quái đản
    Hình minh họa

    “Ấu dâm” bắt đầu được đề cập đến như một “vấn nạn xã hội” (chứ không phải TỘI ÁC) ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX. Thời gian này, những người Pháp ở Việt Nam chú ý đến hiện tượng phụ nữ Việt Nam thông thường có quan hệ tình dục từ rất sớm. Nguyên nhân là do xã hội chấp nhận hiện tượng kết hôn sớm, và sự phổ biến của hành vi “xâm hại tình dục trẻ em” thời kỳ này (theo góc nhìn của người Pháp, người Việt Nam trước đó không có khái niệm “xâm hại tình dục trẻ em”) (Nguyễn Thùy Linh 2016, 23)

    Ghi chép của người Pháp cho rằng: cơ quan sinh dục nữ của phụ nữ Việt Nam rất nhỏ. Và phụ nữ Việt Nam thường dậy thì ở tuổi 12. Cô ta được công nhận là người trưởng thành khi được 16 tuổi 4 tháng (Nguyễn Thùy Linh 2016, 23)

    Trong sách “L’amour aux colonies”, Dr. Jacobus X cho biết phụ nữ Việt Nam đã bắt đầu khám phá cơ thể họ khi họ lên 10 tuổi. Thậm chí, ngay cả trước khi họ hành kinh lần đầu tiên. “Những cô gái An Nam bé nhỏ bị phá trinh khi họ 10 tuổi bởi những cậu trai thường hay chơi với họ” (dẫn theo Nguyễn Thùy Linh 2016, 23)

    Bác sĩ Mondière khi phỏng vấn 234 phụ nữ Việt Nam, ông nhận rằng quá nửa những người phụ nữ này có quan hệ tình dục trước khi họ tròn 15 tuổi. “Thông thường, trung bình một người phụ nữ An Nam có quan hệ tình dục lần đầu tiên khi họ 14 tuổi 10 tháng” (Nguyễn Thùy Linh 2016, 23)

    Những người Pháp đồng thời cũng nhận thấy rằng văn hóa người Việt lúc đấy chấp nhận cả những hành vi cấm kị như loạn luân và lạm dụng tình dục trẻ em nữ ở độ tuổi dậy thì (trong mắt người Pháp). Thậm chí ông Mondière này còn phải than rằng: “Nếu một cô gái An Nam mà còn trinh, thì chắc chắn cô ấy không có anh trai hoặc ông bố” (bởi họ sẽ “lạm dụng tình dục” cô ấy và khiến cô ấy mất trinh) (Nguyễn Thùy Linh 2016, 23)

    Người Pháp đã đem quan niệm của họ về tình dục và cấm kị tình dục vào Việt Nam và thay đổi hoàn toàn cách chúng ta nhìn về tình dục.

    Tại sao người Pháp có quan niệm sợ hãi tình dục vị thành niên?

    Vào cuối thế kỉ XIX, dưới ảnh hưởng của “khoa học tình dục”, ở Pháp và các nước châu Âu, người ta BẮT ĐẦU tìm mọi cách chứng minh rằng hành vi tình dục ở “người chưa trưởng thành” sẽ gây những ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý và sức khỏe của một đứa trẻ.

    Song vấn đề lớn nhất mà không nhà khoa học nào trả lời được: “thế nào là một người trưởng thành?”. Và họ cãi nhau ỏm tỏi để về việc quy định số tuổi được coi là “trưởng thành”. Cho đến tận bây giờ, ở một số nước độ tuổi đấy là 12, 14, 15, 16, 18, 20 tùy vào “khoa học tình dục” của từng nước.

    Hệ thống luật pháp và những nhà khoa học khắp thế giới cố gắng chứng minh một cá nhân trước một độ tuổi nhất định thì còn là trẻ em, ngây thơ vô tội, và KHÔNG CÓ ý niệm về tình dục. Sau đó dù chỉ một ngày, thì cá nhân đó đột nhiên có thể trở thành người thành niên, với ĐẦY ham muốn tình dục. (xem Gayle Rubin 1993)

    Và kiến thức “khoa học tình dục” của thế kỷ XIX này từng khiến mọi người ở châu Âu sợ hãi đến mức cha mẹ phải trói bọn trẻ con lại vì lo rằng bọn trẻ sẽ thủ dâm khi ngủ. Các bác sĩ thời kỳ này còn thực hành CẮT ÂM HẠCH của các bé gái để hạn chế chúng không có hành vi tình dục quá sớm nhằm bảo vệ chúng (xem BarkerBenfield, 1976; Marcus, 1974; Weeks, 1981; Zambaco, 1981).

    Thời kỳ này, ở châu Âu bắt đầu hình thành tâm lý về sự sợ hãi đối với hành vi tình dục giữa người trưởng thành và trẻ em. Những câu chuyện kinh hoàng về tấn công và lạm dụng tình dục “trẻ em” liên tục được tô đậm trên báo chí, truyền thông.

    Báo chí và truyền thông có xu hướng tô đậm những hành vi, trường hợp hiếp dâm lòi ruột, xuất tinh vào mặt vào mồm miệng cùng tai, làm hư vòm họng, tan nát âm hộ của trẻ em như là hậu quả của MỌI quan hệ tình dục giữa người trưởng thành và trẻ em. Dù rằng những việc đó TRÊN THỰC TẾ hoàn toàn có thể xảy ra với cả người trưởng thành lẫn trẻ em.

    Tất cả nhằm tô đậm rằng trẻ em HOÀN TOÀN KHÔNG PHÙ HỢP về mặt sinh học cho hành vi tình dục. Khái niệm”trẻ em” ở đây giao động liên tục giữa nhiều nấc tuổi: 12, 14, 15, 16, 18, 20 tùy vào từng thời điểm và chẳng dựa trên một cơ sở “khoa học” nào. Họ cố gắng chứng minh rằng dưới độ tuổi nhất định nào đó thì đó là trẻ em ngây thơ trong sáng, vô tội về mặt tình dục và một độ tuổi nào đó trở lên thì lại là người lớn. Điều này hoàn toàn phi lý tính và thực tế.

    Dưới tấm biển “khoa học tình dục” thì cho mãi đến những năm 1970s của thế kỉ XX, trên thế giới người ta mới bắt đầu TỘI ÁC HÓA và TÂM THẦN HÓA hoạt động tình dục trẻ em dựa trên những “căn cứ, bằng chứng khoa học” mà phần nhiều là không thể chứng minh.

    Tính từ thời gian này, ở Mỹ, người lớn (kể cả bố mẹ) chụp ảnh nude của trẻ con đem ra công khai/hoặc không công khai mà bị phát hiện có thể đi tù đến 15 năm. Vì thế, trên nguyên tắc, việc phổ biến hình ảnh con em thổ dân ở truồng trong sách nghiên cứu dân tộc học, hay đưa ảnh nude của con em lên Facebook cũng là nguyên nhân để đưa bố mẹ vào tù. Thực tế có rất nhiều trường hợp đi tù như vậy xảy ra trên khắp thế giới tính từ năm 1978 trở lại đây (xem Gayle Rubin 1993)

    Khoảng 30 năm trở lại đây, thực hành “ấu dâm” ở Việt Nam mới bắt đầu bị TỘI ÁC HÓA dưới ảnh hưởng ngày càng sâu đậm của kiến thức của y học phương Tây về sức khỏe sinh sản của trẻ em gái và “nhãn quan đạo đức phương Tây. Khoa học hay đạo đức có thể ĐÚNG, có thể SAI nhưng tay “ấu dâm” chắc chắn “lãnh đủ”.

    Ở Việt Nam mãi đến ngày 11 tháng 05 năm 1976, Tòa án nhân dân tối cao mới bắt đầu ghi nhận việc quan hệ tình dục với người dưới 16 tuổi là một TỘI hình sự. Đến năm 1985, điều 114 của Bộ Luật Hình sự mới chính thức có quy định về “Tội giao cấu với người dưới 16 tuổi”.

    Bộ Luật hình sự sau này qua rất nhiều lần chỉnh sửa đổi, quy định cụ thể hơn về các hình thức bị coi là xâm hại tình dục của trẻ em nói chung và tội giao cấu với người dưới 16 tuổi nói riêng. TỘI này nhanh chóng được quy định chặt chẽ hơn, mức xử phạt cũng tăng cao và nghiêm khắc hơn, có thể lên đến tử hình!

    < Website HinhanhVietNam xin lược bỏ 1 phần cuối, có chút cảm tính của tác giả. Phần nguyên gốc  xin xem ở cuối link bài này! >

    —————————
    Về mặt tư liệu: Tất cả tài liệu được nói đến trong bài viết đã được công bố trên Thư viện Nhân học.

    On Paedophilia (March 2010) Schinaia Cosimo (PDF)
    Gayle Rubin (1993) Thinking Sex Notes for a Radical Theory of the Politics of Sexuality nằm trong sách Social Perspectives in Lesbian and Gay Studies A Reader (September 2013) Nardi, Peter M.Schneider, Beth E.   Theo

    Nguyen Phuc Anh – Nhanhoc.org https://www.facebook.com/anhnp86/posts/831888886949404
  • [Tổng hợp] Văn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    [Tổng hợp] Văn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Đường đi lối lại và người đi trên đường là một đối tượng nghiên cứu thú vị của khoa Nhân học. Xã hội phong kiến phương Đông hay xã hội thời Trung cổ phương Tây có nhiều nét đặc biệt về giao thông, mà đã lâu người ta không quan niệm được nữa.

    1. Đa phần cho rằng giao thông thời phong kiến và Trung cổ rất kém, chất lượng đường không tốt bao gồm cả xe cộ và con đường, tất nhiên cũng do nhu cầu đi lại của người ta lúc đó tưởng như không lớn. Đa phần nông dân chỉ loanh quanh trong làng của mình, trong lãnh địa của mình, xa lắm là đi sang làng bên. Lúc đó đi và về trong một ngày được coi là đi gần, đi và về qua đêm được coi là đi xa. Tốc độ trung bình của người đi bộ từ 4 – 10km/giờ, ngựa có thể đạt tốc độ từ 20 – 30km/giờ, theo cách tính của người phương Tây, trên thực tế ở Việt Nam tốc độ này thấp hơn nhiều.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    Ngựa trạm và lính truyền tin. Ảnh chụp đầu thế kỷ 20. Nguồn: Internet

    Ở Việt Nam, người đi bộ tối đa từ 4 – 5km/giờ, đi ngựa đạt từ 15 – 20km/ giờ và thực ra con ngựa Việt bé nhỏ, người ta cưỡi để khỏi tự đi bộ, chứ không phi mà cũng đi thủng thẳng như người chân đất, vả lại còn có một vài tay hầu nhỏ cắp tráp đi sau (người cưỡi ngựa thường là quan lại hay nhà giàu). Nếu phải gánh gồng, người ta cũng không đi chậm hơn người đi tay không bao nhiêu, vì hàng nặng luôn có quán tính lao đi, cũng không thể chậm chạp quá được.


    2.
    Để đi hết một tỉnh hay chiều dài đất nước, có lẽ người ta mất cả năm trời. Đối với đất nước tương đối vuông vắn như nước Pháp, người ta đi từ chiều nọ sang chiều kia, mất từ 20 ngày đến vài tháng, thành thử vào thời cổ, đất nước nào cũng rộng hơn bay giờ nhiều, và cũng bí hiểm hơn vì có bao nhiêu thứ ở các vùng khác nhau người ta chưa từng biết đến. Cái cảm giác về đất nước ở các thời đại hoàn toàn khác nhau, ví như ngày nay người Việt thấy đất nước mình là nhỏ, cũng vì tốc độ mà con người hiện đại đạt được là rất lớn. Đi máy bay từ Hà Nội đi Sài Gòn, mất có gần hai giờ, so với người ở thế kỷ 19, đi bộ vào Nam có lẽ mất sáu tháng. Thế kỷ 11, người ta cảm giác về Đại Việt khác thế kỷ 15, khi mà vua Lê Thánh Tông đã dẫn quân vào tận Phan Rang. Thế kỷ 16 trở đi người ta đã có cảm giác về một đất nước như bây giờ và nhìn ra biển người ta thấy cả Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà Nguyễn lấy Huế làm kinh đô, cũng một phần do quản lý thông tin lúc đó chỉ bằng ngựa chạy trạm, từ Huế đi ra Bắc và vào Nam có khoảng cách tương tự, nhưng ra vào cũng mất một tháng trời, thông tin mới tới nơi.

    Trước thế kỷ 17, mỗi lần đi sứ Trung Quốc, chuyến đi kéo dài tới ba năm và người ta coi sứ giả như người đã chết, bị đi sứ có nghĩa là đang bị giáng cấp, hoặc mang trọng trách rất quan trọng nào đó.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay3. Ở phương Tây Trung cổ, những con đường hình thành ngay từ thời Tiền sử để lại, đó là những lối mòn vắt qua nhiều nước châu Âu, qua núi non. Người La Mã chiếm gần hết phía Nam Địa Trung Hải và Bắc Phi, một đế quốc bao la ngay trước Công nguyên, đã cho xây dựng những con đường trên đế quốc của mình, những con đường đó lát đá, đủ cho hai cỗ xe ngựa chạy song song, và luôn thẳng tiến, bất kể trước mặt là núi hay sông. Với một đế quốc rộng lớn như vậy, đường thẳng là đường ngắn nhất.

    Đến thời Trung cổ những con đường đó vẫn còn được sử dụng và nó bị phân cắt khi đi qua các lãnh địa thuộc về sở hữu riêng của các lãnh chúa địa phương. Những lãnh chúa này có trách nhiệm đảm bảo an ninh trong đất đai của mình, nếu người đi đường bị ăn cướp, thì lãnh chúa phải bồi thường.

    • Ảnh bên: Thuyền buồm, phương tiện di chuyển của người Việt trên sông và biển (Ảnh: Jean Haeflinger, khoảng 1855. Nguồn: Internet)


    4.
    Những con đường ở Việt Nam được hình thành như thế nào là một vấn đề lịch sử, có lẽ con đường quốc lộ một là một huyết mạch hình thành sớm, và có nhiều ý kiến cho rằng, thời đầu Công nguyên, khi đồng bằng còn chưa được bồi đắp đầy đủ, đó là con đường chạy sát biển. Cố đô Hoa Lư không phải là một nơi phòng thủ thuần túy như người ta nghĩ mà nó cũng nằm ngay sát biển, nơi đổ ra bể của sông Hoàng Long. Chúng ta nên nhớ huyện Kim Sơn về căn bản mới được khai thác và bồi đắp từ thời Nguyễn Công Trứ, đầu thế kỷ 19. Họa sỹ Phan Bảo cho rằng, người xưa lấy đê làm đường đi, nên từ Đê chính là nguồn của từ Đường. Trong tiếng Nùng, Lồ là đường đi tương đương với chữ Lộ trong tiếng Hán, trong tiếng Tày, Tàng là đường đi. Vậy người Việt và người Tày có chung gần nhau từ đường đi là Đường hay Tàng, người ta còn gọi là Đàng(Đi một ngày đàng học một sàng khôn  – tục ngữ ).

    Con đường xuyên Nam Bắc cuối cùng được nhà Nguyễn chỉnh đốn thành con đường Thiên lý (đường ngàn dặm), cứ vài cây số, hay mươi cây số tùy từng nơi, lại đặt một quán trạm, cho lính đưa tin nghỉ ngơi, thay ngựa, người đi đường nghỉ chân, trên thực tế các quán trạm hình thành tự nhiên do tầm đi lại, và các thị trấn ven đường mọc ra. Chúng ta thấy rằng tầm 5- 7km có vẻ hợp lý, vì nhiều ga, bến, chợ đã hình thành ven đường đi như vậy.

    Tuy nhiên đi từ Bắc xuống Nam, người ta gặp rất nhiều con sông cắt ngang, những con sông này vốn chạy theo hướng tây – đông, giao thông đường bộ rất khó khăn, các bến đò ngang hình thành, cầu chỉ được bắc qua sông nhỏ, nhưng những con sông hướng tây bắc – đông nam lại khá lớn. Sông Kỳ Cùng, sông Thương, sông Cầu, sông Hồng, sông Châu Giang, sông Mã, sông Gianh, sông Hương… và ở đồng bằng Nam bộ là chín nhánh của sông Mê Kông, nên gọi là sông Cửu Long.

    Khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long ông đã đi bằng thuyền, từ sông Hoàng Long, lên sông Đáy, từ sông Đáy vào sông Hồng, rồi từ sông Hồng vào sông Kim Ngưu. Đây chỉ là ước đoán, có thể hành trình lúc đó còn phức tạp hơn.


    5.
    Đường đi thì thời nào cũng có, nhưng chất lượng đường thời xưa phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế tự nhiên, chủ yếu là đắp đất, và một số ít được lát gạch và đá. Có đường quốc lộ chung cho cả nước, mà cụ thể là con đường Thiên lý.

    Tuyến đường Thiên lý ngày nay được xác định chính là con đường số 1 từ Lạng Sơn xuống. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng vào thời Bắc thuộc, giai đoạn đầu Công nguyên đến thế kỷ 7, con đường xuyên từ Quảng Ninh, vắt qua Phả Lại vào Luy Lâu, Thuận Thành (Bắc Ninh), rồi sang Hà Nội mới là huyết mạch chính. Lúc đó Luy Lâu là thủ phủ của chính quyền đô hộ, đây cũng là trung tâm tín ngưỡng Tứ pháp cổ xưa và Phật giáo sớm ở Đại Việt. Đương nhiên khi kinh đô hay thủ phủ ở đâu, những con đường tới đó và từ đó đi ra là quan trọng.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    Con đường đất từ Hải Phòng ra Đồ Sơn. Bưu ảnh Đông Dương đầu thế kỷ 20. Nguồn: Internet

    Như vậy chúng ta cần xác định các con đường ra vào các trung tâm cổ như: Việt Trì, Mê Linh, Cổ Loa, Luy Lâu, Hoa Lư, Thăng Long, Tây Đô, Huế, Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Phan Rang, Gia Định – đây đều là những trung tâm đô hội của các triều đại cổ xưa trong lịch sử.

    Khi nghiên cứu trung tâm Luy Lâu, chúng tôi thấy đường giao thông cho đến thế kỷ 18,  đầu thế kỷ 19, vẫn phụ thuộc rất nhiều vào con sông Dâu. Các hoàng thân quốc thích hoàng tộc Lê Trịnh đến chùa Bút Tháp, thường đi thuyền sông Dâu từ cung Cổ Bi, đến tận cửa chùa (con đường trước mặt chùa mời hình thành những năm giữa thế kỷ 20 và rất nhỏ). Con sông này có thể đưa người ta đi từ sông Cầu, qua sông Tiêu Tương xuống, đi lại từ Hà Nội qua Luy Lâu và xuống Hưng Yên vào sông Châu Giang, đồng thời có thể ngược lên sông Phả Lại. Để vào Luy Lâu, nếu đi đường bộ, người ta phải qua rất nhiều bến đò.


    6.
    Đường quốc lộ, đường liên tỉnh, liên huyện và liên xã, cuối cùng là đường làng. Hầu hết các con đường này đều chỉ là đường đất, trong đó các tuyến đê chạy theo hai bên bờ sông cũng rất quan trọng cho người ta đi về từng vùng miền.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    Xe đẩy bánh gỗ. Bưu ảnh Đông Dương đầu thế kỷ 20. Nguồn: Internet

    Một nghịch lý là trong khi Thăng Long đến thế kỷ 19 vẫn còn nhiều con phố trong phường thợ là đường đất, thì rất nhiều đường làng đã được lát gạch. Số là các làng có một quy ước, nếu đôi trai gái nào cưới xin, thì phải lát cho làng vài thước đường đi, quy định này nhiều hay ít phụ thuộc vào kinh tế của từng làng, tối thiểu là 1 thước và có thể tối đa lên đến 5, 10 thước. Các đường làng đều nhỏ hẹp, chỉ từ 80 phân đến 1 thước, nhưng gạch lát theo chiều nghiêng, nên rất vững chắc. Có vài làng, như làng Phù Lưu được những viên quan người địa phương cho lát đá đường làng với hệ thống cống rãnh rất hoàn chỉnh.

    Đường lát gạch và đá của quốc gia chỉ có từng đoạn ngắn ở kinh kỳ gần cung cấm và các vương phủ, quan phủ, đền chùa miếu mạo. Đường liên xã, huyện, tỉnh hình thành tự nhiên theo các địa lý hành chính và cũng được củng cố thường xuyên. Thời phong kiến tất cả những con đường này đều đắp bằng đất, người ta thường đào hai bên đường, hoặc một bên đường, đắp một con đường cao lên, chỗ đất bị đào xuống nhân thể làm thành những con mương dẫn nước. Do là đường đất, vào mùa mưa rất trơn và nhiều bùn lầy, mùa nắng đám bùn đó biến thành bụi, ở những xứ đất đỏ đôi khi cây cối ven đường bị nhuốm màu, nhất là vào thời có những phương tiện giao thông cơ giới.

    Để làm cho vững chắc con đường, người ta có thể rải ít đá dăm và sỏi, rồi đầm vào mặt đường, tuy nhiên đó thường là yêu cầu của chiến tranh, chứ bình nhật người ta không mấy quan tâm đến độ bền của đường đất. Nhưng đê điều – tuyến giao thông và chống lũ lụt quan trọng, thường được quan tâm kỹ. Có cả quan phụ trách riêng, luôn huy động dân công đắp đê bằng công quỹ từ triều đình và đóng góp của địa phương.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    Xe kéo tay. Bưu ảnh Đông Dương đầu thế kỷ 20. Nguồn: Internet


    7.
    Thuyền là phương tiện chuyên chở chính, nhất là những hàng nặng. Những năm 1398, khi Hồ Quý Ly chuẩn bị cho xây thành Tây Đô và Ly Cung ở Thanh Hóa, do thời gian gấp, ông cho tháo nhiều cung điện ở Thăng Long chở bằng thuyền vào xứ Thanh. Đến cuối thế kỷ 19, khi cha Sáu cho xây nhà thờ đá Phát Diệm ông cũng vận chuyển đá từ Thanh Hóa ra bằng thuyền.

    Xe ngựa thì hầu như không chở được vật liệu nặng và cũng không được dùng phổ biến, nhất là trong những địa hình đồi núi. Xe trâu đắc lực hơn và trâu có thể kéo xe lên xuống dốc tốt. Xe một bánh đặc bằng một khoang gỗ tròn cũng là một phương tiện vận chuyển cá nhân, còn lại người Việt đem đôi vai ra gánh vác một cách thường xuyên và hàng ngày. Thương nghiệp không được chú trọng thời phong kiến, một mặt do sản xuất hàng hóa hầu hết mang tính chất tự cung tự cấp, nhưng mặt khác do giao thông và phương tiện giao thông rất hạn chế của thương nhân Việt thời phong kiến.

    Nhà phê bình Phan Cẩm Thượng

    ==============================================================================

    Ảnh: Giao thông Hà Nội, góc nhìn xưa và nay

    Giao thông Hà Nội ngày xưa với khung cảnh đường phố vắng vẻ, tiếng tàu điện leng keng, đường phố hiếm khi nào bị tắc nghẽn hoặc ô nhiễm khói xe, tiếng ồn thì nay những hình ảnh đó chỉ còn lại trong ký ức của của những người cao tuổi, bậc trung niên.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Phương tiện giao thông trên phố Tràng Tiền xưa thưa thớt người qua lại (ảnh tư liệu) và nay là cảnh tắc đường ở khắp mọi nơi.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Một thời xe kéo tay trên phố (ảnh tư liệu). Ngày nay xe kéo tay hầu như đã “tuyệt chủng” thay vào đó là các phương tiện khác như xe ôm, taxi.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Những chiếc xích lô ngày xưa, một hình ảnh vốn đã thân thuộc và gắn bó với nhiều thế hệ, đây là một nét đẹp văn hóa của Việt Nam (ảnh tư liệu). Ngày nay xe xích lô hầu như chỉ dành riêng để phục vụ khách du lịch nước ngoài có nhu cầu tham quan phố cổ.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Mấy chục năm trước, chiếc xe đạp trị giá cả cây vàng, được cấp giấy chứng nhận sở hữu, có biển số và được giữ gìn như vật báu trong nhà (ảnh tư liệu). Hiện nay cả nước có hơn 46,5 triệu xe máy, tính trung bình cứ 2 người dân Việt Nam thì có 1 chiếc xe máy.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tàu điện ngầm leng keng, một nét văn hóa rất riêng thời bao cấp (ảnh tư liệu). Ngày nay, hình ảnh tàu điện ngầm chỉ còn lại trong ký ức, thay vào đó là hàng trăm tuyến xe buýt len lỏi mọi ngõ ngách ở Thủ đô.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Giao thông tại khu phố cổ Hà Nội xưa (ảnh tư liệu). Và nay, chỉ có duy nhất sáng mùng 1 Tết mới có lại khung cảnh đường phố Hà Nội vắng vẻ và bình yên đến vậy.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Ngày xưa người dân chủ yếu sử dụng xe thồ, xe cải tiến làm phương tiện vận chuyển hàng hóa với con người làm sức kéo (ảnh tư liệu). Ngày nay, xe kéo tay hầu như đã không còn được sử dụng thay vào đó là xe ba gác, xe máy chở hàng cồng kềnh trên phố.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    CSGT điều tiết giao thông trên phố ngày xưa (ảnh tư liệu) và ngày nay.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng khu vực Hà Nội, nối hai quận Hoàn Kiếm và Long Biên, do Pháp xây dựng năm 1898-1902. Những năm 80 và trước đó, cầu chủ yếu phục vụ xe đạp, người đi bộ (ảnh tư liệu). Ngày nay, Hà Nội có tới 7 cây cầu bắc qua sông Hồng. Gồm: cầu Long Biên, Chương Dương, Thăng Long, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Vĩnh Thịnh và cầu Nhật Tân mới được xây dựng và đưa vào sử dụng 2 năm nay.

    ============================================================================

    Ký ức giao thông Hà Nội xưa & nay

    Những mảnh ký ức về một Hà Nội xưa cũ và thân phận những con người ở nơi đây từ khoảng một thế kỷ trước được tái hiện trung thực, sâu sắc trong bộ sưu tập ảnh cổ những năm 1870-1954 của KTS Đoàn Bắc.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Lịch sử đã đi qua thì không bao giờ trở lại nên cần đặc biệt gìn giữ, trân trọng và lưu truyền lại cho các thế hệ tương lai.

    Bộ ảnh “Ký ức Hà Nội xưa 1870- 1954” do KTS Đoàn Bắc và cha mình (nhà giáo lịch sử Đoàn Thịnh) sưu tầm, biên soạn và phục chế trong nhiều năm. Vào dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội (tháng 10 năm 2010), 1.820 bức ảnh của bộ sưu tập này đã được chọn lọc và công bố lần đầu tiên với công chúng tại Thủ đô Hà Nội.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Sau đó bộ ảnh này đã được triển lãm lưu động tại một số trường học, làng quê cổ ở Hà Nội. Đặc biệt trong tháng 5 năm 2012, bộ ảnh cổ về Hà Nội này cùng các vùng miền khác của Việt Nam đã được in lại để trưng bày và tặng lại cho đồng bào, chiến sĩ ở huyện đảo Trường Sa.

    Bộ ảnh “Ký ức Hà Nội xưa 1870- 1954” của KTS Đoàn Bắc hiện nay có tổng cộng khoảng hơn 4.000 bức ảnh đã được chuyển sang định dạng kỹ thuật số. Trong bộ ảnh có rất nhiều chủ đề đan xen lẫn nhau và được chia thành các phần tiêu biểu như Thăng Long – Hà Nội (về cảnh vật, cuộc sống ở các khu và làng quê phố cổ), Hà Nội thời Pháp thuộc (về những dấu ấn của Châu Âu tại Hà Nội trong cảnh vật, cuộc sống) và đặc biệt là phần về Chân dung người Hà Nội (với đủ mọi thành phần, tầng lớp tiêu biểu trong xã hội ở Hà Nội thời kỳ đó).

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Đây là thành quả có được từ tâm huyết và công sức của những người con Hà Nội gốc và sự giúp đỡ của những người yêu Hà Nội ở khắp mọi nơi trên thế giới.
    Bộ ảnh “Phương tiện giao thông ở Hà Nội xưa” thuộc phần “Hà Nội thời Pháp thuộc” trong bộ ảnh. Đa phần các phương tiện giao thông này được du nhập và được chụp lại trong thời kỳ Pháp thuộc.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Bên cạnh hình ảnh về các phương tiện giao thông còn có thân phận những con người, sự kiện lịch sử gắn với chúng và gắn với ký ức của nhiều thế hệ đã từng sống ở Hà Nội. Từ những con thuyền buồm cổ đến những chiếc tàu hơi nước điển hình của một thành phố thương mại bên sông. Từ những chiếc ô tô vốn chạy bằng xăng, dầu vừa được du nhập vào Việt Nam cho tới khi chúng được người Hà Nội chuyển sang chạy bằng than cám khi xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu (đầu thế kỷ XX). Từ những chiếc xe kéo tay đã không còn tồn tại cho tới những chiếc xe xích lô vẫn gắn với đời sống lam lũ của người Hà Nội đến tận ngày nay.

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay

    Tiếng tàu điện leng keng là đặc trưng của đô thị Hà Nội thời Pháp thuộc vẫn là một kỷ niệm với nhiều người dân cho đến tận những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Hoài niệm lại ký ức để hiểu, trân trọng lịch sử và càng thêm yêu thành phố Hà Nội, dù bạn đến từ bất kỳ đâu. Đó là một trong những thông điệp chính của bộ sưu tập ảnh “Ký ức Hà Nội xưa 1870- 1954”.

    (Theo HNM)

    ================================================================================

    Trẻ em Việt đã từng có một văn hóa giao thông như thế…

    Ít ai biết rằng, văn hóa sang đường như người Nhật, trẻ con Việt Nam cũng đã từng thực hiện chỉ mới hơn 60 năm về trước:

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    Lính Pháp và người dân Hà Nội đứng chờ những học sinh Hà Nội trong trang phục truyền thống đang khoanh tay xin đi qua đường. (Ảnh: Robert Capa)
    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    Lính Pháp và người dân Hà Nội đứng chờ những học sinh Hà Nội trong trang phục truyền thống đang khoanh tay xin đi qua đường. (Ảnh: Robert Capa)

    Trên đường phố Hà Nội, những em học sinh mặc trang phục truyền thống khoanh tay cảm ơn mọi người trong khi đi qua đường. Đây là những bức ảnh cuối cùng trong sự nghiệp của nhiếp ảnh gia Robert Capa, vài ngày trước khi ông mất vì bẫy mìn chiến tranh…

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    Đi đường cúi đầu chào, trẻ con biết lễ độ, người Việt Nam đã từng rất trọng “Lễ” – Nhìn vào những bức ảnh này, người ta cứ tưởng như đang chứng kiến người Nhật hiện đại (Ảnh: Tonkin)

    Khi nghĩ về ngày xưa, đôi khi người Việt thường có quan niệm rằng: Thời đó phong kiến lắm, thời đó lạc hậu lắm. Thế nhưng người Việt của mấy chục năm về trước thôi đã văn minh hơn hẳn bây giờ. Hãy cứ thử nhìn lại cách sang đường “liều chết” của người Việt hiện đại mà xem:

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    (Ảnh: Xebmw.net)
    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    (Ảnh: GTVT)

    Ở Việt Nam, người lớn hay trẻ nhỏ đều sang đường một cách rất nguy hiểm! Có vạch kẻ đường cho người đi bộ không sang, có cần cầu đường bộ trên cao không dùng, người đi bộ sang đường bất cứ nơi đâu họ muốn, bất chấp khu vực cấm hay trèo rào phân cách.

    Người Việt hiện đại tham gia giao thông với phương châm: Tiện là chen, thích là lấn, không có cảnh sát là vượt, vội là leo lên vỉa hè, mà không vội thì cũng leo lên vỉa hè…

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    (Ảnh: Baodatviet.vn)
    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    (Ảnh: Bestie.vn)

    Thậm chí gần đây có cư dân mạng còn so sánh hình ảnh giao thông của Việt Nam với sự giao thông của… đàn trâu!

    Tổng hăn hóa giao thông Việt Nam: xưa và nay
    Một cư dân mạng đã so sánh ý thức giao thông của người Việt còn kém cả đàn trâu (Ảnh: Facebook)

    Tại sao văn hóa giao thông của Việt Nam ngày nay lại càng ngày xuống thấp như vậy? Xin mời các độc giả cùng bàn luận!

  • Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc “bó tay”!

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc “bó tay”!

    Ví như đổi được đất, dân Việt sinh ra ở phương Bắc, châu Âu đã không bị kỵ binh Mông Cổ giày xéo cả vạn dặm – Nếu như trời sinh thiên tài này ở nhà Tống, thì lịch sử Trung Quốc trước đây đâu có chuyện bị triều đại nhà Nguyên độ hộ một trăm năm.

    Đó là câu đối chưa biết tên tác giả mà cố giáo sư Lưu Trung Khảo đọc trong một buổi ra mắt sách tại Hoa Kỳ.

    Nguyên văn tiếng Trung của câu đối là:

    地 轉 我 種 越 居 北 方, 歐 洲 境 內 無 蒙 騎 樅 橫 千 萬 里

    天 生 此 良 材 於 宋 室, 中 國 史 前 免 元 朝 都 護 一 百 年

    Dịch Hán Việt là:

    Địa chuyển ngã chủng Việt cư Bắc phương, Âu châu cảnh nội vô Mông kỵ tung hoành thiên vạn lý.

    Thiên sinh thử lương tài ư Tống thất, Trung Quốc sử tiền miễn Nguyên Triều đô hộ nhất bách niên.

    Diễn nghĩa là:

    Ví như đổi được đất, dân Việt sinh ra ở phương Bắc, châu Âu đã không bị kỵ binh Mông Cổ giày xéo cả vạn dặm

    Nếu như trời sinh thiên tài này ở nhà Tống, thì lịch sử Trung Quốc trước đây đâu có chuyện bị triều đại nhà Nguyên độ hộ một trăm năm

    Câu đối này ý chỉ một vị tướng tài đã lãnh đạo người Việt đánh bại quân Nguyên, đó là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ông đã làm được điều mà cả châu Âu và Trung Quốc không ai làm được.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Ảnh minh họa)

    Vậy vì sao mà cả châu Âu và Trung Quốc đều muốn có được Trần Hưng Đạo? Chúng ta hãy cùng quay về lịch sử, thời điểm vó ngựa quân Mông Thát tung hoành khắp nơi để tìm câu trả lời.

    “Vó ngựa quân Mông Cổ đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó”

    Tại châu Âu, sau một thời gian tung hoành chiếm hết trung Á, vó ngựa Mông Cổ dồn dập tiến vào châu lục này, các thành phố lớn như Moscow đều bị đốt cháy.

    Liên quân châu Âu được thành lập nhắm chống lại quân Mông Cổ cũng bị đập tan. Nhiều nước mong muốn cầu hòa và cống nạp cho quân Mông Cổ.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Tranh mô tả Trận Legnica năm 1241, diễn ra ở khu vực nay thuộc Ba Lan, giữa quân Mông Cổ và liên quân châu Âu: Quân Mông Cổ được ví như cưỡi trên những con ngựa có cánh. Họ còn nổi tiếng với việc cắt tai người làm chiến lợi phẩm (Ảnh minh họa)

    Khi các Vương công nước Nga chịu thần phục, quân Mông Cổ cho ván để lên đầu các vương công Nga để đặt bàn tiệc ăn mừng. Sáu Vương công bị đè đến chết.

    Vó ngựa quân Mông Cổ gây kinh hoàng khắp châu Âu, biên niên sử còn ghi lại rằng: “Vó ngựa quân Mông Cổ đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó”.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Quân Mông Cổ tại châu Âu (Ảnh minh họa)

    Tại châu Á, khi quân Mông Cổ đánh Trung Quốc là vào thời kỳ nhà Tống, quân Tống bị đại bại, phải bỏ kinh thành rồi tháo chạy hết lần này tới lần khác, quân Mông Cổ truy đuổi theo.

    Năm 1258, quân Mông Cổ lần thứ nhất thất bại ở Đại Việt trong việc tìm cách mở một hướng từ phía Nam để đánh vào lãnh thổ Nam Tống. Trận đánh lần thứ nhất này quân Mông Cổ chưa thật sự dành nhiều tinh lực vào Đại Việt, mà chỉ muốn thôn tính nốt nhà Nam Tống. Cuối cùng, vào năm 1279, Nam Tống hoàn toàn bị Mông Cổ thôn tính.

    Trận đánh cuối cùng giữa quân Mông Cổ và quân Tống là trận Nhai Môn trên biển. Quân Tống có 20 vạn người, nhưng phần lớn trong đó là hoàng thân quốc thích, và quân phục dịch chạy trốn giặc Mông Cổ. Quân Mông Cổ ít hơn rất nhiều những vẫn bao vây tấn công quân Tống.

    Thần phụ chính Lục Tú Phu thấy tình thế tuyệt vọng ôm Vua Tống còn nhỏ nhảy xuống biển tự vẫn, người Tống nhìn thấy cảnh này đều khóc than rồi lần lượt nhảy xuống biển chết theo vua, khung cảnh thật bi thương. 7 ngày sau, hàng trăm ngàn xác người nổi đầy khắp mặt biển, đây được xem là một trong những sự kiện bi thương nhất trong lịch sử Trung Quốc.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Thần phụ chính và vua Tống nhảy xuống biển (Ảnh minh họa)

    Nhà Tống bị diệt vong, Đại Hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt của nhà Nguyên trở thành Hoàng đế Trung Hoa, Trung Quốc bị đô hộ suốt 100 năm. Đó quả là thời kỳ đen tối trong lịch sử Trung Quốc.

    Sau khi đánh tan nhà Tống, quân Nguyên tiếp tục mưu đồ tràn xuống phía Nam. Ngay từ tháng 8 năm 1279, sau khi diệt nhà Tống, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.

    Năm 1285, Hốt Tất Liệt phong cho con trai Thoát Hoan là Trấn Nam Vương dẫn hàng chục vạn quân tiến đánh Đại Việt lần thứ hai. Thế nhưng đến đây, vó ngựa đại quân Nguyên Mông vốn đã giày xéo khắp nơi từ Á sang u đã bị chặn lại bởi Trần Quốc Tuấn, vị Quốc Công Tiết Chế lừng danh sử Việt và thế giới.

    Lúc xuất quân Thoát Hoan hùng hổ bao nhiêu thì lúc chạy thục mạng về nước nhục nhã bấy nhiêu. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh tên của quân dân Đại Việt rồi bắt lính khiêng chạy trối chết về nước.

    Quân Mông Cổ chạy về đến đất Nguyên ở Trung Quốc rồi, quân Đại Việt vượt qua cả biên giới tiến sâu vào châu Tư Minh của Trung Quốc để tiêu diệt giặc, khiến quân Nguyên hoảng sợ, chạy thoát rồi vẫn chưa hết run, tối ngủ không được vì ác mộng.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Đại thắng trên sông Bạch Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, và là thắng lợi tiêu biểu nhất của Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. (Ảnh minh họa)

    Ngày 25/12/1287, lần thứ ba quân Nguyên sang đánh Đại Việt, vẫn là Trấn Nam Vương Thoát Hoan cùng hàng chục vạn hùng binh, thế nhưng Quốc Công Tiết Chế Trần Quốc Tuấn rất điềm nhiên “năm nay đánh giặc nhàn”. Quả nhiên lần này hùng binh của quân Nguyên bị đánh cho đại bại, thêm một lần nữa nhục nhã rút về nước.

    Có thể có người cho rằng đâu chỉ có Đại Việt đánh thắng quân Nguyên, vì Nhật Bản, Chiêm Thành và Miến Điện cũng đánh thắng quân Nguyên. Nhưng chiến thắng của Nhật Bản có được còn nhờ sự đóng góp quan trọng của “Thiên thời”. Ngoài tinh thần cảm tử của quân Nhật ra, hai lần bão tố và thiên tai đã giúp người Nhật đánh chìm nhiều chiến thuyền Nguyên Mông. Trong cuộc chiến với quân Nguyên tại Chiêm Thành và Miến Điện, về mặt quy mô và tinh lực của quân Nguyên, thì không có lần nào có thể so với lần xâm lược thứ hai và thứ ba trên đất Việt cả. Cuộc chiến với quân Nguyên tại Chiêm Thành cũng nhờ có Đại Việt cử viện binh tiếp ứng.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Quân Mông Cổ tràn vào Nhật Bản (Ảnh minh họa)

    Trong khi đó, chiến thắng của Đại Việt là nhờ sự đồng lòng của người dân và vua quan nhà Trần, cùng tài thao lược của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

    Vây làm thế nào mà Trần Quốc Tuấn có thể đánh bại quân Nguyên hùng mạnh khiến cả châu Á và châu Âu đều run sợ?

    Kế sách của Trần Quốc Tuấn

    Quân Nguyên đánh thắng khắp nơi từ Á sang Âu, nhưng chưa ở đâu gặp phải kế sách từ ngoại giao cho đến đánh trận như ở Đại Việt.

    Đầu tiên, trước khi tiến binh, quân Nguyên đã quen với việc uy hiếp nước khác bằng cách dùng sứ giả khuyên hàng. Thế nhưng khi sứ giả quân Nguyên đến thì nhà Trần bắt phải quỳ trước mặt Vua theo đúng phép tắc.

    Kế sách của Trần Quốc Tuấn khi đánh quân Nguyên có thể gói gọn trong mấy chữ: vườn không nhà trống, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh, dùng đoản binh phá trường trận.

    Khi đánh nước khác, quân Nguyên thích đánh vào kinh thành, vì nơi đây tập trung đa phần quân chủ lực. Đánh kinh thành thì cũng tiêu diệt được quân chủ lực đối phương, lại có thể cướp bóc lương thực và nhu yếu phẩm.

    Thế nhưng khi đánh Đại Việt thì quân Đại Việt lại chủ động rút khỏi kinh thành, thực hiện “vườn không nhà trống”. Điều này khiến cho quân Nguyên dù chiếm kinh thành vẫn không gặp được quân chủ lực của Đại Việt, kinh thành lại trống không nên không thể cướp bóc được gì.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Ngoài kế sách trên bộ, kế sách tuyệt diệu khác của Hưng Đạo Vương là trận địa cọc trên sông Bạch Đằng (Ảnh minh họa)

    Quân Nguyên tiến đánh với sách lược đánh nhanh thắng nhanh, nhưng quân chủ lực của ta lại rút đi nhằm bảo toàn lực lượng, khiến quân Nguyên không thể đánh nhanh thắng nhanh được. Trần Quốc Tuấn lại cho các toán quân nhỏ liên tục chặn bước tiến của địch, đánh để tiêu hao sinh lực và phá hủy lương thực rồi rút ngay. Quân Nguyên truy kích không tìm thấy các toán quân này vì không thông thạo địa thế.

    Quân Nguyên không gặp được quân chủ lực Đại Việt để đánh, cũng không biết quân chủ lực rút về đâu mà đuổi theo. Lâu ngày quân sĩ lại mệt mỏi vì phải liên tục chống đỡ các cuộc tập kích của các cánh quân nhỏ vẫn diễn ra hàng ngày.

    Dần dần tình hình quân Nguyên lương thực đã cạn, quân sĩ mệt mỏi không muốn tiếp tục cuộc chiến nữa, sĩ khí không còn. Lúc này Trần Quốc Tuấn mới điều động đội quân chủ lực phản công đánh thẳng vào quân Nguyên.

    Trước sức mạnh tấn công của Đại Việt, quân Nguyên hoảng sợ, không hiểu các cánh quân ở đâu hiện ra nhiều không kể xiết. Do tâm lý mệt mỏi, quân Nguyên không thể thắng được sĩ khí của Đại Việt nên đại bại, rút chạy về nước.

    Trần Quốc Tuấn vực dậy tinh thần cho quân dân Đại Việt

    Trước sức mạnh của đội quân làm run sợ khắp nơi trên thế giới, Đại Việt cũng không ít người xuống tinh thần. Lúc đó, Trần Quốc Tuấn đã làm “hịch tướng sĩ” để vực dậy tinh thần kháng Nguyên của quân sĩ.

    Khi các tướng sĩ lo lắng Trần Quốc Tuấn có hiềm khích với nhà Trần, anh em không thể hòa thuận, ông đã tắm cho em họ của mình là Trần Quang Khải trên chiến thuyền trước sự hò reo của ba quân.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Trần Quang Khải (Ảnh minh họa)

    Khi quân ta rút khỏi Thăng Long, người rời đi sau cùng là Trần Quốc Tuấn.

    Khi quân ta phải rút lui trước sức mạnh của giặc, nhà Vua hội họp các tướng rồi dò hỏi: “Hay là nên hàng”, Trần Quốc Tuấn đã khẳng khái nói ngay: “Xin bệ hạ hãy chém đầu thần trước đã rồi hẵng hàng”.

    Từ đó mọi niềm tin và ánh mắt của triều đình đều dồn cả vào Trần Quốc Tuấn, ông trở thành trụ cột của Nhà Trần trong 2 lần đánh quân Nguyên Mông (lần thứ 2 và thứ 3).

    Tấm lòng trung sáng tỏ như đôi vầng nhật nguyệt

    Cũng giống như ông, dưới trướng của Trần Quốc Tuấn đều là những người tài giỏi như Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trương Hán Siêu.

    Khi nhiều người nhắc lại mối thù nhà, ông hỏi hai gia nô cũng là tướng giỏi lúc đó là Yết Kiêu và Dã Tượng về chuyện này, hai vị tướng này đáp rằng: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu”. Nghe xong Quốc Tuấn rất cảm động.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Trần Quốc Tuấn (Ảnh minh họa)

    Sau đó con ông là Trần Quốc Tảng có nhắc lại lời trăn trối của An Sinh Vương Trần Liễu, muốn cùng ông cướp ngôi vua, ông nổi giận rút gươm toan chém đứa con này. Dưới sự can ngăn của mọi người, ông thay đổi ý định nhưng từ đó kiên quyết không gặp Quốc Tảng, thậm chí dặn dò sau này ông chết, đậy nắp quan tài rồi mới cho Tảng vào viếng.

    Ví như đổi được đất, dân Việt sinh ra ở phương Bắc, châu Âu đã không bị kỵ binh Mông Cổ giày xéo cả vạn dặm

    Nếu như trời sinh thiên tài này ở nhà Tống, thì lịch sử Trung Quốc trước đây đâu có chuyện bị triều đại nhà Nguyên đô hộ một trăm năm.

    Câu đối trên cho thấy châu Âu và Trung Quốc đều muốn có con người này đến thế nào. Thế nhưng Trời xanh đã đặt định cho Trần Quốc Tuấn trở thành con dân của Đại Việt.

    Trong dân gian có truyền thuyết rằng mẹ của Trần Quốc Tuấn nằm mơ thấy có một vị thiên thần tinh vàng tướng ngọc, tự xưng là Thanh Tiên Đồng Tử sẽ xuống đầu thai. Lúc Trần Quốc Tuấn vừa được sinh ra đã có hào quang toả sáng rực cả nhà.

    Dù truyền thuyết đẹp đó có thật hay chỉ xuất phát từ sự kính ngưỡng Hưng Đạo Đại Vương mà thành, thì người ta vẫn không khỏi suy ngẫm rằng: Phải chăng Thiên Thượng đã phái Trần Quốc Tuấn xuống giúp nước Nam đánh bại quân Nguyên Mông, lưu lại giai đoạn lịch sử xán lạn cho con dân Đại Việt?

    Trần Hưng ( Trí Thức Việt Nam)