Category: Kiến trúc – Công trình

  • Vẻ đẹp bề thế, cổ kính của lăng Minh Mạng

    Nằm trên núi Cẩm Khê ở cố đô Huế, lăng Minh Mạng gây ấn tượng mạnh với những công trình kiến trúc tráng lệ hòa hợp tuyệt vời với khung cảnh thiên nhiên.

    Lăng Minh Mạng còn được gọi là Hiếu Lăng, có bố cục kiến trúc đối xứng với các công trình nằm dọc theo trục đường thần đạo. Cổng chính của lăng là Đại Hồng Môn, chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng. Sau đó, việc ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.

    Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, một khoảng sân rộng 45m x 45m lát gạch Bát Tràng, hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu

    Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn.

    Bên trong Bi Đình có bia “Thánh đức thần công” bằng đá ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha Minh Mạng.

    Sau Bi Đình là khoảng sân triều lễ được chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc.

    Cuối sân triều lễ là Hiển Đức Môn, cánh cổng mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng cho mặt đất.

    Điện Sùng Ân nằm ở trung tâm khu vực tẩm điện.

    Trong điện thờ bài vị của vua Minh Mạng và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu, chính thất của vua.

    Ở phía trước, đối xứng hai bên bên trái và bên phải điện Sùng Ân có Tả, Hữu Phối Điện, phía sau có Tả, Hữu Tùng Phòng.

    Khu tẩm điện kết thúc với Hoằng Trạch Môn.

    Bước qua Hoằng Trạch Môn là bắt đầu một không gian đầy thi vị với hồ Trừng Minh và và những hàng cây xanh tốt xung quanh.

    Ba chiếc cầu Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh đưa du khách đến Minh Lâu, một tòa lầu nằm trên quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.

    Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát. Đây là công trình mang giá trị kiến trúc nổi bật của khu lăng.

    Tòa nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông, thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa..

    Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi vĩnh hằng.

    Từ Minh Lâu đi xuống sẽ gặp cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt để dẫn vào Bửu Thành, tòa thành bảo vệ nơi yên nghỉ của nhà vua.

    Hồ Tân Nguyệt là hồ nước được tạo hình như trăng non, là yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành – biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật.

    Mộ vua nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn.

    Hình tròn của Bửu Thành nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng Trái Đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố

    Từ chân Khải Trạch Sơn có 33 bậc cấp dẫn lên cổng của Bửu Thành, cánh cổng dẫn vào thế giới vĩnh hằng của người đã khuất.

    Ngoài các công trình chính nằm dọc đường thần đạo, lăng Minh Mạng còn có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn, Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn, Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn, Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn, Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn, Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn…

    Tiếc rằng do sự tàn phá của thời gian, các công trình này chỉ còn là phế tích.

    Theo đánh giá của giới nghiên cứu, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, đã tạo nên nét đẹp riêng cho lăng Minh Mạng.

    Bố cục kiến trúc đăng đối hoàn hảo của các hạng mục chính đã đem lại vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ vua chúa.

    Bên cạnh đó, sự hài hòa giữa các công trình nhân tạo và cảnh quan thiên nhiên cũng đem lại giá trị kiến trúc đặc sắc cho lăng Minh Mạng.

    Điều này thể hiện qua những con đường đi dạo quanh co vòng quanh các hồ nước lớn và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh

    Điều này làm cho toàn bộ quần thể lăng dù uy nghiêm tột bậc nhưng vẫn gợi lên cảm giác thư thái do sự mềm mại của thiên nhiên.

    Ngoài ra, lăng Minh Mạng còn sở hữu một giá trị văn hóa nổi bật là gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu. Đây là những tuyệt tác vô giá, một “bảo tàng thơ” chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.

     

    Ngược dòng lịch sử. Tháng 2/1820, vua Gia Long băng hà. Hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi, lấy niên hiệu là Minh. Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình.

    Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành sông Hương. Phát mất 14 năm cân nhắc, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này.

    Vua Minh Mạng đã cho đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4/1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu.

    Không lâu sau đó, vua Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào tháng 1/1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại.

    Tháng 8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất.

    Vậy là, từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động và óc sáng tạo của con người, một tuyệt tác kiến trúc đã hình thành, trở thành di sản vô giá để lại cho hậu thế…

    Theo KIẾN THỨC

  • Phu Văn Lâu, di tích được in trên tờ tiền 50.000 Đồng

    Được coi như một trong những biểu tượng của Cố đô Huế, hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000 phát hành năm 2003.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Nằm trên trục chính của Hoàng thành Huế, ở phía trước Kỳ Đài và phía sau Nghênh Lương Đình, Phu Văn Lâu là một công trình kiến trúc đặc sắc trong quần thể kiến trúc Cố đô.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tên gọi Phu Văn Lâu nghĩa là cái lầu trưng bày văn thư của triều đình, Côn trình được xây dựng vào năm 1819 dưới thời vua Gia Long để dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Đây là một tòa lầu hai tầng hai tầng duyên dáng, cao 11,67m, có hệ thống lan can bao xung quanh. Công trình được chống đỡ bằng 16 cột sơn màu đỏ sậm, gồm 4 cột chính xuyên suốt cả hai tầng, 12 cột quân.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Mặt trước và hai mặt bên của Phu Văn Lâu có bậc cấp dẫn lên nền tầng dưới. Bấc cấp phía trước có lan can hình rồng.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Không gian tầng dưới Phu Văn Lâu hoàn toàn để trống, có cầu thang dấn lên tầng trên, bên ngoài có lan can bằng bê tông.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tầng hai có bốn mặt đều dựng đố bản, kiểu đồ lụa khung tranh, mặt trước có cửa sổ chữ nhật, hai bên trổ cửa sổ tròn, lan can bên ngoài bằng gỗ. Trên của sổ mặt tiền có treo hoành phi sơn son thếp vàng, trang trí dây lá cách điệu “lưỡng long triều nguyệt”.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Mái phu văn lâu lợp ngói ống tráng men vàng.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Hai bên mặt trước Phu Văn Lâu có đặt hai khẩu súng thần công nhỏ bằng đồng hướng vào nhau.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Dưới thời vua Thiệu Trị, triều đình cho dựng ở hai bên hai tấm bia đá khắc 4 chữ “khuynh cái hạ mã”, nghĩa là ai đi qua đều phải cởi mũ và xuống ngựa.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Gần bên phải Phu Văn Lâu còn có tấm bia trên khắc bài thơ “Hương giang hiểu phiếm” nói về cảnh đẹp của sông Hương, cũng được dựng dưới thời vua Thiệu Trị.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Không chỉ là nơi niêm yết văn bản, Phu Văn Lâu còn là nơi diễn ra nhiều hoạt động khác của triều đình.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Năm 1829, vua Minh Mạng dùng nơi đây làm địa điểm tổ chức cuộc đấu giữa voi và hổ. Năm 1830, nhà vua dùng Phu Văn Lâu làm nơi tổ chức cuộc vui chơi yến tiệc suốt 3 ngày để mừng sinh nhật của mình.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Trong gần 200 năm tồn tại, Phu Văn Lâu được trùng tu khoảng 10 lần, lần sớm nhất vào năm 1905, lần gần đây là vào năm 2015-2016, sau khi một phần cồng trình bị sụp đổ do mối mọt năm 2014.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tuy đã được tu bổ nhiều lần nhưng công trình vẫn giữ nguyên cốt cách đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Được coi như một trong những biểu tượng của Cố đô Huế, hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000 đồng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành từ năm 2003.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Một số hình ảnh khác về Phu Văn Lâu.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Theo KIẾN THỨC

  • Quản lý vỉa hè xưa ở Hà Nội

    Quản lý vỉa hè xưa ở Hà Nội

    Quản lý vỉa hè xưa ở Hà Nội

    Trong quy hoạch một đô thị văn minh, vỉa hè là khoảng công cộng dành cho người đi bộ. Còn theo kiến trúc, vỉa hè là đường diềm, trang trí cho phố phường tạo ra sự hài hòa giữa đường và nhà mặt phố.

    Người Pháp đã làm những điều đó ở Hà Nội từ cuối thế kỷ 19.

    Cho thuê vỉa hè, dân mặt phố phải dọn vệ sinh

    Sau khi chiếm được thành Hà Nội năm 1882, chiếm Hà Nội năm 1883, Công sứ Bonnal đưa ra chủ trương cải tạo khu vực quanh hồ Gươm. Việc đầu tiên, Bonnal cho làm con đường quan trọng từ khu nhượng địa Đồn Thủy (nay tương ứng khu vực phố Phạm Ngũ Lão) vào thành để chở vũ khí, lương thực cho binh lính Pháp đóng ở đây. Con đường bắt đầu từ Đồn Thủy qua Hàng Khảm (nay là Tràng Tiền và Hàng Khay), Tràng Thi đến Cửa Nam rồi vào thành. Đường hoàn thành cuối năm 1885, rộng hơn 10 m, riêng đoạn Tràng Tiền hai bên có vỉa hè được lát gạch, trồng phượng để giảm bớt nắng nóng vào mùa hè ở xứ Bắc kỳ. Và vỉa hè Tràng Tiền là vỉa hè đầu tiên theo kiểu phương Tây ở Hà Nội.

    Công việc cải tạo và xây dựng khu phố phía nam hồ Gươm cần nhiều thời gian và tiền bạc. Vì thế đến năm 1889 mới chỉ vài phố quanh hồ Gươm có vỉa hè, song để Hà Nội nề nếp và quy củ, Thống sứ Bắc Kỳ đã ra nghị định quản lý đô thị (đăng trên Công báo ngày 21.4.1890), trong đó điều 1 ghi rõ: “Những phố hiện có và sẽ được tạo nên có chiều rộng lòng đường và vỉa hè được chỉ định”, kèm theo là phụ lục gồm các phố đã có và các phố sẽ mở. Với các phố ở khu vực “36 phố phường”, vỉa hè hẹp nhất cũng phải 3 m, một số phố sẽ là 4 m. Với các khu phố ở phía đông và phía nam hồ Gươm như: Ngô Quyền, Lê Phụng Hiểu, Hàng Bài, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo… vỉa hè tối thiểu phải rộng 5 m, phố rộng nhất là 7,5 m.

    Để nhà mặt phố hài hòa với vỉa hè, trong Quy chế lục lộ ban hành ngày 21.9.1891 ghi cụ thể: “Vỉa hè rộng 3 m thì bậc cửa ra vào chỉ được phép cao 10 cm, vỉa hè rộng 5 m thì bậc cửa là 15 cm và vỉa hè rộng 7,5 m thì bậc cửa cao 20 cm…”. Bên cạnh đó còn có quy định về chiều cao, cửa sổ, ban công… rất chi tiết. Quy chế cũng quy định: “Tất cả chủ nhà mặt phố, người thuê phải có trách nhiệm dọn vệ sinh hè phố trước cửa nhà, khơi thông rãnh thoát nước, nếu không thực hiện sẽ bị phạt theo các điều của bộ luật Hình sự nước Pháp”. Cũng theo quy chế thì cánh cửa ra vào nhà mặt tiền phải mở vào trong, không được mở ra ngoài để tránh gây thương tích cho người đi lại.

    Quy định về vật liệu làm vỉa hè rất cụ thể: “Vỉa hè được lát bằng đá hình vuông khổ 30 x 30 cm, dày 3 cm, trên mặt khía chéo để tránh trơn trượt cho người đi đường. Mép hè là đá xanh chôn sâu xuống mặt đường vừa làm bờ rãnh thoát nước vừa làm vật chắn phòng xe ngựa lao lên hè gây thương tích cho người đi bộ”. Trên vỉa hè bao quanh nhà Godard (nay là Tràng Tiền Plaza), trước lối vào có dòng chữ tiếng Pháp “Khu vực cấm để xe đạp” bằng đá trắng gắn chìm vào vỉa hè.

    Để có nguồn vốn bảo trì vỉa hè mà không dùng ngân sách, ngày 20.12.1889, Đốc lý Hà Nội Landes đã ban hành một nghị định cho thuê vỉa hè để dân mở cửa hàng hay bán cà phê với giá 40 xu/m2/năm. Cùng với đó, chính quyền cũng đánh thuế ban công, thuế ô văng. Với biển quảng cáo, nếu là biển phẳng áp vào tường không gây nguy hiểm cho người đi bộ sẽ miễn thuế, nhưng nếu làm nhô ra sẽ thu thuế theo diện tích, số tiền này cũng được đưa vào quỹ bảo trì. Với cây xanh, sở lục lộ chọn cây thân thẳng, rễ cọc, chiều cao trên 10 m mới tỏa tán để đảm bảo tính mạng, tránh thương vong cho người trong mùa mưa bão. Hằng ngày, cảnh sát lục lộ đi tuần, họ đạp xe quanh các phố, nếu phát hiện vi phạm thì xử phạt, nếu không có tiền sẽ đưa về bót.

    Quản lý vỉa hè xưa ở Hà Nội
    Vỉa hè phố Hàng Khay thập niên 1930 – 1940

    Đầu thế kỷ 20, số khách sạn hạng sang xuất hiện ngày càng nhiều quanh khu vực hồ Gươm thì chủ khách sạn đã thuê vỉa hè mở quán cà phê dọc theo mái hiên. Không chỉ người Pháp sống ở Hà Nội, khách du lịch châu Âu đến thành phố này rất thích thú khi ngồi uống cà phê vỉa hè ngắm phố.

    Thập niên 1930, dân số lúc này đã tăng lên 300.000 người, số lượng xe kéo tăng vọt, xe đạp xuất hiện trên phố nhiều hơn và trở thành phương tiện giao thông cá nhân chủ đạo. Trước sự lộn xộn của phương tiện này, ngày 25.5.1933, Đốc lý Louis Frédéric Eckert ra quy định: “Trước các cửa hàng phải có giá để xe đạp cho khách” (giá làm bằng sắt, hình bán nguyệt, để đưa bánh trước vào). Quy hoạch cũ đã lạc hậu, không còn phù hợp, năm 1936 Toàn quyền Đông Dương Silvestre quyết định cho quy hoạch lại Hà Nội. Trong bản quy hoạch Henri Ceruti được phê duyệt năm 1943, có một phần bắt buộc các trung tâm thương mại phải có chỗ đậu xe cho khách hàng, các bãi đất trống làm bãi đậu xe công cộng. Tuy nhiên, lúc này quân đội Nhật đã chiếm Đông Dương nên quy hoạch không được thực hiện.

    Vỉa hè thành “chợ” từ khi nào?

    Sau năm 1954, các quy định cũ về quản lý đô thị Hà Nội bị bãi bỏ, nhưng người dân cơ bản vẫn tự giác vệ sinh vỉa hè trước nhà theo nếp đã hình thành trước đó. Việc cho thuê vỉa hè cũng không còn và từ tài sản công do thành phố quản lý vỉa hè đã trở thành tài sản của nhân dân.

    Khi Mỹ ném bom miền Bắc năm 1964, vỉa hè đẹp đẽ bắt đầu gánh vác một sứ mạng mới. Người ta cho đào các hầm trú bom cá nhân trên hè phố, mỗi hầm rộng khoảng 6 – 8 m. Người đang đi trên đường nếu nghe còi báo động từ nóc Nhà hát Lớn sẽ chui xuống hầm này tránh mảnh bom. Tháng 1.1973, Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ phải rút quân khỏi VN và miền Bắc được sống trong hòa bình thì các hầm trú ẩn đa phần bị lấp. Ở các phố trung tâm, xí nghiệp quản lý vỉa hè cho láng xi măng lấp dấu vết hầm nhưng các phố khác thì nó trở thành hố trũng đọng nước mỗi khi trời mưa. Rồi nước sạch dùng cho sinh hoạt thiếu trầm trọng, nước từ đường ống chính không chảy nổi vào các vòi trong nhà nên dân hàng phố đua nhau đào bể trên vỉa hè lấy nước từ đường ống chính. Vỉa hè thành chỗ rửa rau vo gạo, giặt giũ quần áo, tắm táp vào mùa hè, luộc bánh chưng vào Tết Nguyên đán, là khách sạn “đờ la hiên” cho các bác xích lô quê. Vỉa hè các phố xa hồ Gươm lồi lõm, chỗ trơ đất, chỗ còn gạch, lở loét như bị nhiễm trùng.

    Suốt thời bao cấp, buổi sáng vỉa hè là chỗ ngồi của mấy bà bán phở gánh, bán bún ốc, bán bánh cuốn, “đầu hè trung tá bơm xe, cuối hè thiếu tá bán chè đậu đen”, là nơi các ông chữa xe đạp chiếm cứ dưới chân cột điện, góc ngã ba ngã tư. Vỉa hè thực sự trở thành nơi họp chợ, vì thế dân gian mới có câu: “Hàng Bè chợ của thương nhân/Vỉa hè chợ của nhân dân anh hùng”. Từ tài sản của nhân dân, vỉa hè dần dần bị các nhà mặt phố cát cứ, biến thành lãnh địa riêng.

    Trong lịch sử, vỉa hè Hà Nội không chỉ dành cho người đi bộ mà còn là nơi kiếm sống của tầng lớp thị dân. Dĩ nhiên, xưa dân số Hà Nội ít, phương tiện giao thông không nhiều còn nay thì khác. Đó là một bài toán không dễ cho cơ quan quản lý.

    Nguyễn Ngọc Tiến – báo Thanh Niên

  • Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Khu dinh thự của Trần Lệ Xuân – Ngô Đình Nhu ở Đà lạt tráng lệ đến khó tin, được bảo vệ nghiêm ngặt không thua kém gì những cơ sở quân sự trọng yếu.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Nằm trên một ngọn đồi ở phía Tây TP Đà Lạt, biệt điện Trần Lệ Xuân là một di tích lịch sử đặc biệt gắn với cuộc đời Trần Lệ Xuân, người phụ nữ quyền lực nhất của thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Khu biệt điện vợ chồng Trần Lệ Xuân – Ngô Đình Nhu cho xây dựng năm 1958 trên một khuôn viên rộng tới 13.000m2. Đây là một quần thể kiến trúc gồm nhiều hạng mục công trình khác nhau, trong đó các công trình chính là 3 ngôi biệt thự mang những cái tên mỹ miều: Bạch Ngọc, Lam Ngọc và Hồng Ngọc.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Biệt thự Bạch Ngọc (trong ảnh) là nơi giải trí của gia đình Trần Lệ Xuân và các sĩ quan cao cấp thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Biệt thự này có một bể bơi nước nóng ở rất rộng ở phía trước. Đây là bể bơi nước nóng duy nhất của toàn miền Nam thời điểm đó.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Biệt thự Lam Ngọc là tư gia của Trần Lệ Xuân – Ngô Đình Nhu. Ông bà Nhu thường nghỉ ở đây mỗi khi đáp máy bay lên Đà Lạt vào dịp cuối tuần.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Phía sau biệt thự Lam Ngọc là một vườn hoa tuyệt đẹp do các kỹ sư đến từ Nhật Bản thiết kế, nên được gọi là vườn hoa Nhật Bản. Trong vườn hoa có một hồ nước, khi bơm đầy nước thì mặt hồ sẽ tạo thành hình địa đồ Việt Nam.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Để đề phòng bị tấn công bất ngờ, trong biệt thự Lam Ngọc còn có một căn hầm trú ẩn được thi công bằng loại thép đặc biệt, có thể chống đỡ sức công phá của hỏa lực hạng nặng. Trong căn hầm này có một đường hầm thoát hiểm.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Biệt thự Hồng Ngọc, biệt thự cuối cùng của khu biệt điện được Trần Lệ Xuân xây dựng để tặng cha mình là ông Trần Văn Chương – thời điểm đó đang là đại sứ Việt Nam cộng hòa tại Mỹ. Tuy vậy, ông Chương chưa kịp ở thì chế độ Diệm – Nhu đã bị lật đổ.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Ba ngôi biệt thự Bạch Ngọc, Hồng Ngọc, Lam Ngọc không chỉ có những nét kiến trúc độc đáo riêng mà còn kết hợp hoàn hảo với nhau qua những lối đi và khu vườn được thiết kế rất đẹp trong khung cảnh thơ mộng của đồi thông xứ Lang Biang.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Dược coi là “sân sau” của gia đình quyền lực nhất VNCH thời điểm đó nên khu biệt điện được huy động tối đa trí lực, nhân lực và vật lực cho việc xây dựng. Sau khi hoàn thành, nơi đây được bảo vệ nghiêm ngặt không thua kém gì những cơ sở quân sự trọng yếu.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Tuy nhiên, sự tồn tại của biệt điện Trần Lệ Xuân chỉ kéo dài được 5 năm đến khi cuộc chính biến 1963 xảy ra. Dưới thời Nguyễn Văn Thiệu, tòa biệt điện được trưng dụng làm Bảo tàng Sắc tộc Tây nguyên.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Đến năm 1975, trong cuộc tháo chạy của chế độ cũ, rất nhiều tài sản có giá trị của biệt điện, gồm các đồ dùng của gia đình Trần Lệ Xuân cũng như các cổ vật của bảo tàng sắc tộc Tây Nguyên đã bị đưa ra nước ngoài. Chỉ còn một số ít hiện vật cồng kềnh hoặc ít có giá trị còn được lưu giữ.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Sau 1975, chính quyền mới đã tiếp quản và gìn giữ nơi này như một phần tài sản quốc gia. Đến năm 2007, khu biệt lịch sử chính thức trở thành Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, nơi lưu giữ và trưng bày Mộc bản triều Nguyễn cùng nhiều tư liệu lịch sử về chủ quền biển đảo phục vụ như cầu tham quan, nghiên cứu của các tầng lớp nhân dân..

  • Lịch sử chùa Tĩnh Lâu ( chùa Sải )

    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu ( chùa Sải )

    Chùa Sải, tên chữ Tĩnh Lâu tự, tồn tại từ thế kỷ 16, được công nhận Di tích lịch sử – văn hóa theo Quyết định số 1460/QĐ-VH ngày 28-6-1996 của Bộ Văn hóa – Thông tin.
    Địa chỉ: góc phố Trích Sài – Võng Thị, thuộc làng Hồ Khẩu, phường Bưởi, quận Tây Hồ, tp Hà Nội. Toạ độ: 21°3’0″N 105°48’46″E, cách Hồ Gươm khoảng 6km về hướng tây-bắc; gần các bến xe bus số 13, 25, 55 dừng trên phố Lạc Long Quân và số 45 dừng trên phố Thuỵ Khuê.
    Lược sử
    Chùa Tĩnh Lâu tọa lạc trên một khu đất cao ở cuối làng Hồ Khẩu (Miệng hồ), mặt chính điện nhìn về phía sông Hồng ở hướng đông-bắc. Dưới thời Lê, nơi đây thuộc huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên, kinh thành Thăng Long. Tương truyền ban đầu chỉ có một am nhỏ thờ các vương tôn quí tộc thời Lý, về sau am mới trở thành chùa thờ Phật. Vì do sư sãi trông coi nên còn có tên là chùa “Sãi”, lâu dần dân làng gọi chệch ra chùa “Sải”.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Tam quan chùa Tĩnh Lâu trong dịp Tết. Photo NCCong ©1-2012
    Theo văn bia để lại, năm Mậu Ngọ (1618) khi Hà Đông có hạn lớn, các quan nội phủ theo lệnh chúa Trịnh Tùng đã về chùa làm lễ cầu đảo được linh ứng. Năm Canh Thân (1620), Trịnh Tùng xuống chiếu ban vàng bạc và thu hồi 10 công mẫu đất hương hoả của chùa làng đã bị một số người có thế lực chiếm dụng để trả lại cho hai chùa Chúc Thánh, Thanh Lâu.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Tượng Phật A Di Đà ở sân trước tiền đường chùa Tĩnh Lâu. Photo NCCong ©1-2012
    Chùa từng mang tên chữ là “Thanh Lâu tự” trong suốt hơn hai thế kỷ, trên quả chuông chùa đúc năm Cảnh Thịnh thứ 7 (1799) và tấm bia hậu dựng năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) đều vẫn khắc tên như thế. Nhưng trên một tấm bia khác ghi việc tu bổ chùa vào năm Tự Đức thứ 14 (1862) đã thấy thay bằng chữ “Tĩnh Lâu tự” và tên đó được dùng cho đến ngày nay.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Chùa Tĩnh Lâu nhìn từ vệ tinh
    Kiến trúc
    Tam quan chùa được làm theo kiểu vòm cuốn với kiến trúc hai tầng, tám mái lợp ngói ống giả, đầu đao cong thanh thoát nhẹ nhàng dưới tán lá xanh của một cây bồ đề to lớn bên bờ Hồ Tây mênh mông. Sau tam quan là một sân rộng, ở giữa có một pho tượng Phật A Di Đà trắng toát trong tư thế kiết già toạ sen trên bệ cao đặt trước giả sơn. Bên trái sân là vườn tháp mộ và ngõ vào khu vực phía sau chùa. Từ sân lên hiên tiền đường có hai bậc thềm rộng, ở giữa là một thềm nghiêng với đôi rồng đá chầu hai bên.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Vườn tháp cạnh ngõ vào chùa Tĩnh Lâu. Photo NCCong ©4-2014
    Năm 2006, Ni sư trụ trì Thích Đàm Chung làm lễ khởi công xây mới tòa Tam bảo với qui mô hai tầng. Toà nhà có kết cấu theo kiểu truyền thống hình chuôi vồ, gồm năm gian tiền đường và bốn gian hậu cung. Vật liệu xây dựng chủ yếu là bê tông cốt thép làm sàn và hơn 100m3 gỗ lim làm khung. Giảng đường, nhà ăn, trường học nằm ở tầng dưới, điện Phật đặt ở tầng trên. Khung đỡ gồm 20 cột gỗ lim đường kính 0,4m, cao 5m. Lan can gồm 42 trụ đá được chạm khắc hình tứ linh, tứ quý, thể hiện 42 thủ ấn của đức Quán thế âm Bồ tát.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Toà Tam bảo chùa Tĩnh Lâu nhìn từ giả sơn. Photo NCCong ©4-2014
    Mái toà Tam bảo lợp ngói mũi hài, bờ nóc ở hai đầu kìm đắp hai dấu vuông, bờ dải phía dưới xây theo kiểu tam cấp, ở trên trang trí các hoa văn hình chữ triện. Phía trước hiên có hai cột trụ xây nối liền với tường hồi của gian tiền đường, trên đỉnh cột có đắp đôi nghê chầu. Dưới con nghê là mui luyện, lồng đèn và các hình đầu rồng, hổ phù, hoa lá… Thân trụ hình vuông, các mặt có đề câu đối chữ Hán. Sau lưng toà Tam bảo là một sân rộng, hai bên có nhà thờ Mẫu và Trai đường. Hậu đường nằm ở cuối sân, bao gồm hai nếp nhà xây theo hình chữ Nhị. Năm 2014 chùa bắt đầu sửa sang khu vực này và xây tường bao toàn bộ khuôn viên chùa.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Khu vực phía sau chùa Tĩnh Lâu. Photo NCCong ©4-2014
    Di vật
    Trên tam quan chùa có đôi câu đối:
    “Hộ thượng Tĩnh Lâu thuý trúc hoàng hoa giai Phật tử
    Môn tiền sạn phát trường tùng tế thảo thị chân thư”.
    Tạm dịch là:
    “Trên gác Tĩnh Lâu, trúc biếc cúc vàng đều Phật tử
    Trước cửa thờ tự, tùng già cỏ mịn chính chân thư.”
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Tam quan chùa Tĩnh Lâu nhìn từ trong ra. Photo NCCong ©4-2014
    Trong chùa hiện lưu giữ được những hiện vật quý hiếm, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 16-17. Các pho tượng Phật giáo được tạo tác công phu, trau chuốt, đường nét thanh thoát, kế thừa tinh tuý của nền điêu khắc thời Lê-Mạc. Đặc biệt ở chính điện có tòa Cửu Long trông như chiếc lọng che (bảo cái), được xem là một tác phẩm độc đáo, khác với hình dáng thường thấy.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Tiền đường chùa Tĩnh Lâu. Photo NCCong ©4-2014
    Ba pho tượng Phật Tam thế trong chính điện được tạc gần bằng kích cỡ của người thật, trong tư thế ngồi kiết già trên đài sen ba lớp với khuôn mặt thon thả, sống mũi thẳng, miệng hơi mỉm cười và đôi mắt khép hờ như đang nhìn xuống. Ngoài ra còn có 38 pho tượng nữa, trong đó bộ tượng Phật A Di Đà cao 1,34m là lớn nhất.
    Chùa Tĩnh Lâu còn lưu giữ được một số di vật có giá trị khác. Ngoài 15 tấm bia đá cùng nhiều hoành phi và câu đối cổ, tại cửa ra vào có treo quả chuông đồng đề chữ “Thanh Lâu thiền tự”, do thiền sư Hải Vĩnh và một nữ hội chủ (thế danh Đồng Thị Đính, pháp hiệu Diệu Nương) hưng công cho đúc vào năm Cảnh Thịnh thứ 7 dưới thời Tây Sơn./.

    Theo vanhien.vn

  • Chợ Đồng Xuân xưa & nay

    Chợ Đồng Xuân tuy nằm trong khu phố cổ nhưng có tuổi đời trẻ hơn rất nhiều so với các phố xung quanh. Trước kia đây là khu đất trống thuộc phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương nằm trước quán Huyền Thiên (sau đổi thành chùa Huyền Thiên). Người dân họp chợ trên hai khu đất ở cạnh chùa Cầu Đông ở phố Hàng Đường và cạnh đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm vì hai khu đất đó gần bến sông, tiện cho thuyền đi lại.
    Năm 1889, khi những dấu tích cuối của sông Tô Lịch và hồ Thái Cực bị lấp hoàn toàn, người Pháp quy hoạch lại đã giải tỏa hai chợ trên và dồn tất cả các hàng quán vào khu đất trống của phường Đồng Xuân, tạo thành chợ Đồng Xuân. Trong năm đầu tiên chợ họp ngoài trời, hoặc có che mái lá giống như hai chợ cũ.
    Năm 1890 chính quyền Pháp mới bắt đầu xây dựng chợ Đồng Xuân, tạo thành năm vòm cửa và năm nhà cầu dài 52m, cao 19m. Mặt tiền theo kiến trúc Pháp, gồm năm phần hình tam giác có trổ lỗ như tổ ong, lợp mái tôn.
    Tại đây đã diễn ra các trận chiến ác liệt giữa Vệ quốc quân chống lại lính Lê dương của Pháp, rất nhiều Vệ quốc quân đã hi sinh tại đây trước khi rút khỏi Hà Nội.
    Sau ngày giải phóng thủ đô, chợ Đồng Xuân là chợ lớn nhất Hà Nội.
    Vào khoảng năm 1990, chợ được xây dựng lại, phá bỏ hai dãy hai bên, ba dãy giữa xây lên ba tầng. Hai tấm cửa hai bên cũng bị dỡ, nhưng vẫn còn giữ hai cột ngoài cùng.
    Năm 1994, chợ Đồng Xuân đã bị hỏa hoạn, lửa thiêu trụi gần như toàn bộ các gian hàng trong chợ. Đây là vụ cháy chợ lớn nhất tại Hà Nội cho đến nay

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

  • Ô Quan Chưởng xưa & nay

    Ô Quan Chưởng xưa & nay

    Ô Quan Chưởng hay còn gọi là ô Đông Hà, tên chữ là Đông Hà môn (東河門, tức cửa phường Đông Hà), là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm ở phía Đông của toà thành đất bao quanh Kinh thành Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba (1817) được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay. Đây là một trong 21 cửa ô còn sót lại của thành Thăng Long cũ

    Ngày nay, ô Quan Chưởng nằm nằm trên phố Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, gần dưới chân cầu Chương Dương. Thời xưa, ô Quan Chưởng nằm trên đường từ trong thành phố đi ra bờ sông, thuộc địa phận phường Đông Hà, tổng Hậu Túc (sau đổi là Đồng Xuân), huyện Thọ Xương cũ. Từ cửa ô ra đến bờ sông Hồng là con đường dài tám chục mét. Phía ngoài cửa ô trước kia coi như đất ngoại thành.

    Cổng xây có vọng lâu được canh gác và kiểm soát cẩn mật để giữ an ninh cho khu phố buôn bán bên trong. Hiện cửa ô còn nguyên lối tam quan với cửa chính và hai cửa phụ hai bên, trên nóc cửa chính có vọng lâu, tường phía trái cửa chính có gắn một tấm bia đá do Tổng đốc Hoàng Diệu cho đặt năm 1881 ghi lệnh cấm người canh gác không được sách nhiễu nhân dân mỗi khi qua lại cửa ô. Bên trên cửa lớn có ba chữ Hán 東河門 (Đông Hà môn).

    Ca dao về Ô Quan Chưởng có câu:

    Long Thành bao quản nắng mưa

    Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây.
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay

  • Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay

    Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay

    Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay
    Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay
    Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay
    Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay

  • 10 công trình nổi bật của Việt Nam

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Tòa nhà Quốc hội, Keangnam, Lotte, Bitexco tower, sân Mỹ Đình… là những dự án được đầu tư lớn, kiến trúc hiện đại, sánh ngang các công trình nổi tiếng trên thế giới.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Nhà Quốc hội trên đường Độc Lập (quận Ba Đình) có diện tích sàn trên 60.000 m2, được xây dựng trên nền tòa Nhà Quốc hội cũ nằm cạnh quảng trường Ba Đình, trong khuôn viên khu di tích Hoàng thành Thăng Long – trung tâm chính trị, lịch sử, văn hóa của đất nước. Tòa nhà cao 39 m, kiến trúc hình vuông, có 3 tầng hầm với sức chứa hơn 500 ôtô, cùng đường hầm dài 60 m nối với Bộ Ngoại giao.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Trung tâm Hội nghị Quốc gia Việt Nam trên đường Phạm Hùng (Hà Nội) là tổ hợp công trình đa năng lớn nhất thủ đô – rộng 60.000 m2. Đây là khối nhà 5 tầng có phòng họp chính sức chứa 3.800 chỗ ngồi ở tầng 2, bãi đỗ nổi và ngầm có sức chứa gần 1.100 ôtô.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Sân vận động quốc gia Mỹ Đình (Hà Nội) khánh thành năm 2003, có sức chứa 40.192 chỗ ngồi – lớn thứ nhì Việt Nam – sau sân vận động Cần Thơ 50.000 chỗ. Ngoài sân vận động chính, tại khu Liên hợp Thể thao Quốc gia này còn có nhiều nhà thi đấu, trung tâm huấn luyện VĐV, bệnh viện Thể thao…

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Keangnam Hanoi Landmark Tower (đường Phạm Hùng, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) là khu phức hợp khách sạn, văn phòng, căn hộ, trung tâm thương mại cao nhất Việt Nam. Với 72 tầng (cao 336 mét), khi vừa hoàn thành, đây là tòa nhà cao thứ 17 trên thế giới.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Lotte Center Hanoi cao 65 tầng (267m) trở thành công trình cao thứ nhì ở Việt Nam. Tổ hợp văn phòng, căn hộ, khách sạn, trung tâm thương mại này có tổng vốn đầu tư hơn 400 triệu USD.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Bitexco Financial Tower (TP HCM) gồm 68 tầng, cao 262 m có sân đỗ trực thăng mang biểu tượng búp sen vươn lên bầu trời. Đây là nơi lý tưởng để ngắm Sài Gòn từ trên cao. Bitexco là nơi đặt trụ sở, văn phòng của nhiều công ty quốc tế, ngoài ra còn có rạp chiếu phim, trung tâm thương mại…

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Trung tâm hành chính TP Đà Nẵng cao 34 tầng, diện tích sàn hơn 21.000 m2 được đầu tư hơn 2.000 tỷ đồng. Tòa nhà cao gần 170 m ven sông Hàn là nơi làm việc của lãnh đạo thành phố và các sở, ngành.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Trung tâm hành chính Bình Dương cao 23 tầng, diện tích sàn hơn 100.000 m2 đặt tại trung tâm thành phố mới Bình Dương (Bình Dương New City). Công trình nằm trong Khu liên hợp công nghiệp dịch vụ và đô thị 4.196 ha, tổng vốn đầu tư 1.400 tỷ đồng. Tòa nhà có bãi đỗ 640 ôtô, 2.000 xe máy cùng sân đỗ trực thăng trên nóc.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Royal City (đường Nguyễn Trãi) là tổ hợp chung cư, khu vui chơi giải trí và trung tâm mua sắm dưới lòng đất lớn nhất châu Á. Ngoài ra, tại thủ đô còn có nhiều khu đô thị hiện đại khác như Times City, Ecopark, The Manor, Ciputra…

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Phú Mỹ Hưng rộng 750 ha, toạ lạc ở phía nam TP HCM. Khu đô thị kiểu mẫu của Sài Gòn là nơi tập trung sinh sống của những người có thu nhập cao, đồng thời là tổ hợp trung tâm tài chính, giáo dục, công nghiệp, khoa học, giải trí.

    Khánh Huyền (tổng hợp)

  • Những cây cầu ngói đẹp ở Việt Nam

    Được xây dựng đã lâu nhưng các cây cầu độc đáo ở Huế, Hội An, Nam Định… vẫn giữ được nét đẹp kiến trúc thuở ban đầu.

    Chùa Cầu được chọn là biểu tượng của thành phố Hội An, xuất hiện trên tờ 20.000 đồng. Đây là công trình do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Việt Nam xây dựng vào thế kỷ 17. Cầu dài khoảng 18 m, vắt qua lạch nước chảy ra sông Thu Bồn.

    Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ. Ở gian chính giữa có tượng Bắc Đế Trấn Vũ – thần chuyên trấn trị lũ lụt.

    Ở làng Bình Vọng (xã Văn Bình, Thường Tín, Hà Nội) có cây cầu 5 gian lợp ngói bắc qua ao đình.

    Trên cầu, hai bên là dãy bục gỗ để cho khách bộ hành nghỉ chân.

    Cầu ngói ở xã Hải Anh (Hải Hậu, Nam Định) được xây dựng vào thế kỷ 16.

    Cầu có 9 gian uốn cong được dựng trên 18 cột trụ đá vững chắc, có phần hành lang hai bên để cho khách bộ hành nghỉ chân.

    Ở khu vực chùa Thầy (Hà Nội) có hai cây cầu ngói do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602.

    Cầu Nhật Tiên dẫn vào đảo giữa hồ, trên có đền Tam Phủ.

    Cầu Nguyệt Tiên nối với con đường lên núi.

    Cùng với nhà thờ Đá, cầu ngói Phát Diệm cũng là công trình kiến trúc dân gian đặc sắc ở vùng Kim Sơn (Ninh Bình).

    Cầu dài 36 m, rộng 3 m với 3 nhịp, mỗi nhịp có 4 gian.

    Cầu ngói Thanh Toàn (thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên – Huế) cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7-8 km. Thân cầu được làm bằng gỗ, phía trên lợp mái ngói ống tráng men.

    Cầu dài khoảng 17 m, rộng 4 m và được chia làm 7 gian với gian giữa là nơi thờ bà Trần Thị Đạo, người góp tiền xây cầu cho dân làng tiện đường qua lại vào thế kỷ 18.

    Lê Bích – KTS Nguyễn Phú Đức

  • Những cây cầu xưa ở Sài Gòn – Chợ Lớn

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn – Chợ Lớn

    Cầu xưa vùng Sài Gòn Chợ Lớn

    Năm 1618 chúa Sãi (Nguyễn Phước (Phúc) Nguyên) gả con gái cho vua Miên Chey Chetta II, năm 1623. Chúa mượn xứ Prei Nokor để mở trạm thuế đồng thời được phép gởi quan đến để quản lý việc thu thuế và thương vụ hành chính.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Năm 1658 chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) cho quân tiến chiếm và phá hủy thành Mô Xoài vì quân Nặc Ong Chăn vua Cao Miên xâm phạm Trấn Biên (thời mới khai thác gọi những chỗ đầu biên giới là Trấn Biên) tức Phú Yên ngày nay.
    Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành Thông Chí:
    “Lúc ấy địa đầu của Gia định là Mô Xoài và Đồng Nai (nay là trấn Biên hoà) tại hai xứ này đã có dân của nưóc ta đến cùng với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục uy đức của triều đình, họ đem nhượng đất ấy rồi kéo nhau tránh đi nơi khác, chẳng dám tranh chấp điều gì”.

    Năm 1679 (Kỷ Mùi, mùa xuân tháng Giêng) tướng cũ nhà Minh, tổng binh thủy lục trấn các xứ ở Long Môn (Quảng Đông) Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tấn; tổng binh các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền vào cửa biển Tư Dung (cửa Tư Hiền) và cửa Hàn Đà Nẵng, không chịu làm tôi tớ nhà Thanh, đến xin thần phục để làm dân mọn cho chúa Nguyễn.
    Cũng nên nhớ vào thời điểm nhóm người Hoa xin tị nạn, biên giới không chính thức của Đại Việt chỉ mới đến Mô Xoài (Bà Rịa), chúa Nguyễn Phúc Tần thấy đất Đông phố (Biên Hòa Đồng Nai) nước Lục Chân Lạp sông rạch chằng chịt, đất đai phì nhiêu nghìn dặm nhưng chưa khai phá, chi bằng lấy sức của họ đến khai khẩn mở mang, làm một việc mà lợi đôi ba điều. Chúa Nguyễn Phúc Tần cho người đưa thư đến Nặc Ong Non (vị phó vương đang được chúa Nguyễn bảo vệ) yêu cầu chia cấp đất cho họ vào làm ăn sinh sống quanh vùng đất Prei Nokor (Sài Gòn). Nặc ong Non đồng ý, kể từ đó, nhóm Trần Thắng Tài (Trần Thượng Xuyên) đến ở vùng Kâmpéâp Srêkatrey (Cù Lao Phố, Biên Hòa) và nhóm Dương Ngạn Địch đến ở vùng Peam Mesar (Mỹ Tho). Chúa Nguyễn sau đó lập đồn dinh ở Tân Mỹ gần ngã tư Cống Quỳnh–Nguyễn Trãi ngày nay.
    Năm 1698 Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu chính thức cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, thiết lập chính quyền, các đơn vị hành chánh để chính thức xác lập chủ quyền của Đại Việt trên vùng đất mới.
    Nguyễn Hữu Cảnh chia vùng này thành huyện Phước Long (Đồng Nai) và huyện Tân Bình (Sài Gòn Bến Nghé) miền đất phía Nam. Cùng với nhóm lưu dân người Việt đến trước, Trần Thắng Tài và lực lượng của mình tiến hành khai khẩn quy mô lớn chẳng bao lâu ông đã biến vùng đất hoang sơ Cù Lao Phố trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế.
    Sau Tây Sơn khởi nghĩa ở Bình Định 1772, Nguyễn Ánh và thân tộc năm 1774 thóat vào Gia định Đồng Nai chiêu tập dân quân chống lại Tây Sơn. Nhiều trận chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, sau những lần thóat hiểm cuối cùng Nguyễn Ánh chiếm lại Sàigòn với sự giúp sức của người Pháp năm 1789.
    Năm 1778 quân Tây sơn lấy cớ người Hoa giúp Nguyễn Ánh nên đã tàn phá vùng Cù Lao Phố (nay xã Hiệp Hòa, Biên Hòa) đã đẩy người Hoa di tản về phía Tây Nam, dọc theo sông Bình Dương (về sau ngườì Việt gọi là rạch Bến Nghé, người Pháp gọi là Arroyo Chinois) định cư và lập trung tâm buôn bán gọi là Đề Ngạn, đẩy nhanh tốc độ tàn lụi của Cù Lao Phố và nhanh chóng phát triển vùng Đề Ngạn (Sài Gòn hiểu là Chợ Lớn sau này) Bến Nghé.
    Sau khi chiếm lại thành Gia Định năm 1789, năm sau 1790, Nguyễn Ánh cho xây thành phòng thủ Bát Quái với sự giúp đỡ của viên sĩ quan hải quân người Pháp – Victor Olivier de Puymaniel.
    Người Pháp đến 1859, tiếp đó cho xây dựng thành phố Sàigòn chung quanh vùng Thành Quy (thời Gia Long xây 1790, phá 1835) khai thác hệ thống sông rạch thiên nhiên chằng chịt phát triển một thành phố thương mại dọc theo Arroyo Chinois (kinh Bến Nghé) nhằm đáp ứng công cuộc khai triển kinh tế và tăng cường khả năng lưu thông và vận chuyển thương thuyền, hàng hóa với miền Tây và Trung.
    Sự đóng góp của nguời Tàu như là đầu tàu khai thác vùng kinh Bến Nghé từ lúc di tản từ Biên hòa cũng được người Pháp thể hiện bằng cách gọi tên rạch Bến Nghé là Arroyo Chinois. Năm 1885, Trương Vĩnh Ký chỉ rõ: “Địa phận nằm giữa đường Marins (xưa là Đồng Khánh, nay là Trần Hưng Đạo) với mé rạch Chợ Lớn, là nơi trú ngụ của người Minh Hương”.
    Nhà Nguyễn sửa sang trùng tu kinh rạch vùng này và khi người Pháp chiếm Gia Định Thành, khai thác tiềm năng đóng góp của người Hoa (tài chính, óc thương mại, mạng lưới kinh doanh) xây dựng và củng cố thêm cơ sở hạ tầng như xây cầu, đào kinh, rồi lấp kinh thành đường để đáp ứng với nhu cầu đô thị hóa và phát triển kinh tế không ngừng, biến Sài Gòn thành trọng tâm kinh tế ngày xưa và ngày nay.

    Tổng quan hệ thống sông rạch kinh trên địa bàn Sài Gòn- Chợ Lớn
    Khai thác vị trí đặc thù thiên nhiên của phủ Tân Bình (vùng Saigon Bến Nghé Chợ Lớn), với những vùng gò đất cao nằm vế hướng Bắc và Tây Bắc và hệ thống kinh rạch chằng chịt đổ về phía Nam đầm lầy đất trũng rồi cuối cùng ra biển Đông. Hệ thống sông nước thiên nhiên bao quanh vùng này bao gồm phía Đông có sông Bến Nghé (sông Sàigòn), phía Bắc có sông Bình Trị (rạch Thị Nghè) và phía Nam có sông Bình Dương (rạch Bến Nghé) đáp ứng nhu cầu phòng thủ và phát triển kinh tế với sự đóng góp cùa người Hoa với khả năng giao tiếp thương mại thu hút khách thương buôn từ Âu, Tân Gia Ba, HongKong, Thái, Nhật…Dưới thời Gia Long, một vị võ quan Trần Văn Học (1) vẽ bản đồ đầu tiên vùng này năm 1815. Chính quyền VNCH ghi công đặt tên ông cho con đường quan trọng ở vùng Gia Định – đường Nguyễn văn Học (lấy họ vua) đi đến các tỉnh miền Đông trước 1975, nay là Nơ Trang Long.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 1A- Bản đồ Trần Văn Học 1815 với hiệu đính địa danh lấy từ Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức.

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 1B: Vị trí thành Bát Quái và thành Phụng trên bản đồ 1A.

    Sau khi phá vỡ Đại đồn Kỳ Hòa (Chí Hòa) của Nguyễn Tri Phương tháng 2 1861, đô đốc Charner ban hành nghị định thiết kế quy hoạch Saigon Cholon ngày 11/4/1861 trước khi được điều động trở lại Pháp nhậm chức mới. Phó Đô Đốc Bonard thừa hành giao cho Đại Tá công binh Coffyn thực hiện quy hoạch. Coffyn đệ trình dự án cho một thành phố với 500,000 người (Projet de Ville de 500.000 âmes à Saigon) và được Bonard chấp thuận 30/4/1862.
    Nhận định vị trí vùng thành phố được bao bọc bởi ba đường nước thiên nhiên ở phía Bắc, Đông và Nam, Coffyn thiết kế một đường nước nhân tạo- đào kinh Vòng Thành ở phía Tây- biệt lập thành phố như nằm trên cù lao nhỏ.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 2 : Bản đồ Coffyn 1893 cho thấy quy hoạch thành phố Sàigòn Chợ Lớn, bao bọc bởi Rạch Thị Nghè (phía Bắc), Rạch Bến Nghé (Nam), Sông Bến Nghé (Đông) và Kinh Vòng Thành (Tây).
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 3: Bản đồ 3 thời VNCH năm 1962 cho thấy sông rạch bao quanh thành phố Saigon-Chơ Lớn sau khi kinh Tẽ (nhánh của rạch Bến Nghé) được đào năm 1905

    Những chiếc cầu bắc ngang sông, rạch, kinh trước 1975 :
    1) Cầu trên sông Sài Gòn
    2) Kinh đào và lấp vùng quận 1 Sàigòn
    3) Cầu trên rạch Thị Nghè (kinh Nhiêu Lộc)
    4) Cầu trên rạch phía Nam-rạch Bến Nghé, Kinh Bãi Sậy, Kinh Đôi, Kinh Tẽ
    5) Kinh Vòng Thành

    1 -Cầu trên sông Sài Gòn (Bến Nghé) phía Đông Sài Gòn
    Sông Bến Nghé – sau gọi là sông Sàigòn có đầu nguồn ở vùng Lộc Ninh thuộc tỉnh Bình Long trước 1975, bây giờ là Bình Phước. Bản đồ Pháp Plan de Ville 1790, 1795 còn gọi là sông Đồng Nai vì cho rằng đây là một nhánh của sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lang Biang (Lâm Viên) chảy qua Biên Hòa, xuống vùng Sàigòn, thực tế sông Đồng Nai hợp lưu với sông Sàigòn thành sông Nhà Bè rồi chảy ra biển Đông. Cửa Đông và cửa Nam của thành Phụng và Thành Quy hướng về sông Bến Nghé (xem hình 1B). Đoạn sông Sàigòn trước khi uốn khúc quanh bán đảo Thanh Đa, người địa phương gọi là sông cầu Bình Lợi. Sông khá sâu, nước chảy khá mạnh. Sông Saigon có phụ lưu sông Bến Cát, rạch Lăng có nguồn từ sông Bến Cát chạy quanh co nối với rạch Bến Bồi khu vực Ngã Năm Bình Hòa rồi chảy xuống rạch Cầu Bông ra Rạch Thị Nghè (Nhiêu Lộc).Có bốn cây cầu chính bắc qua sông Sài Gòn trước 1975.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 4: Không ảnh định vị những cầu xưa trước 1975 trên sông Sài Gòn (vùng Bình Lợi-Thanh Đa)

    Cầu Bình Lợi
    Bắc ngang sông Saigòn đầu tiên là cầu Bình Lợi xây năm 1902 cầu sắt, sàn cầu bằng gỗ cứng, có cả đường rầy xe lửa, đây là cây cầu quan trọng nhất đi Biên Hòa và các tỉnh Miền Đông. Nhịp giữa quay được cho tàu qua, xây dựng bởi công ty Pháp Lavelois Perret (tên của công ty Eiffel do Gustav Eiffel, người kỹ sư xây tháp Eiffel sáng lập).
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 5: Xe lửa chạy trên cầu Bình Lợi
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 6: Cầu Bình Lợi xưa
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 7: Xe lưu thông một chiều phải đợi tới phiên

    Cầu chỉ đi được một chiều, bên được lưu thông thì bên kia phải đợi, khi có xe lửa chạy thì hai bên dừng lại cho tới khi xe lửa rời cầu. Sàn xe lửa xây dựng bằng những tấm phản gỗ to, xe chạy mãi mòn gỗ có đoạn bóng loáng khi chạy xe phải cẩn thận vì trơn trợt, nhìn qua khe gỗ trên sàn cầu thấy nưóc sông Bình Lợi cuồn cuộn chảy. Có lẽ một phần vì có nhiều người đến đây nhảy cầu tự tử, người địa phương có câu “muốn chết nhảy xuống sông cầu Bình Lợi”. Cầu này trước khi có xa lộ Saigòn Biên Hòa đưa dân Sàigòn đến những vùng trái cây nổi tiếng Lái Thiêu (măng cụt, sầu riêng, chôm chôm…), hoặc lên Thủ Đức ăn nem gói bằng lá chuối, có lót lá vông để tăng độ chua mời xem Dì Hai Lò Nem, /tắm suối Xuân trường ở Dĩ An, hoặc mua bưởi Biên Hòa, lên “núi” Châu Thới”, gọi là núi nhưng thật sự chỉ cao 82m.

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 8: Nem Thủ Đức
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 9: Cầu Bình Lợi thập niên 60
    Cầu Bình Triệu
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 10: Câu Bình Triệu, vị trí cầu Bình Triệu xem hình 4

    Ngày xưa từ Sài Gòn lên Thủ Đức đi ngả Cầu Bông, xuống đường Nguyễn văn Học (Nơ Trang Long) qua Ngả Tư Bình Hòa, Ngả Năm Bình Hoà, qua cầu Băng Ky, cầu Bình Lợi, Cầu Gò Dưa và Cầu Ngang để vào Thủ Đức.
    Từ sau 1961 khi có xa lộ Saigon – Biên Hoà (nay XL Hà Nội), từ Saigon lên xa lộ chạy thẳng qua nhà máy Xi Măng, qua khu vực làng Đại Học đến ngả tư Xa lộ rẽ trái đi vào chợ Thủ Đức.
    Đến đầu thập niên 70 có thể đi Thủ Đức qua cầu Bình Triệu đi theo đường Phan Thanh Giản hay Hồng Thập Tự qua Ngả tư Hàng Xanh, theo Quốc lộ 13, qua cầu Bình Triệu, đến ngả tư Bình Triệu thì rẽ phải để đi về hướng cầu Gò Dưa vô chợ Thủ Đức.

    Cầu Kinh 
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 11: Kinh đào Thanh Đa (còn gọi là kinh Bình Quới) xẻ ngang vùng Bình Qưới, rút ngắn thời gian lưu thông thương thuyền từ thượng lưu đến rạch Bến Nghé, cắt ngắn 12 km đường sông
    Kinh Thanh Đa (Canal de Thanh Đa) đào trong hai năm 1897 và 1898 dài 1km, rộng 40m và sâu 6m (Monographie de la province de Gia- Định 1902).
    Nối trực tiếp qua bán đảo Bình Qưới. Vùng Thanh Đa xưa kia là đồng ruộng bao la, chỉ có một vài cơ xưởng kỹ nghệ nhỏ dựa vào đường sông để vận chuyển. Vùng này thường ngập úng vào mùa mưa khi nước thủy triều sông Sàigòn dâng lên.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 12: Cầu Kinh qua Bình Qưới Thanh Đa
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 13: Không ảnh vùng kinh Thanh Đa
    Cầu Sài Gòn – Cầu Xa lộ Saigon Biên Hoà
    Cầu này nối đường Phan Thanh Giản (bây giờ là Điện Biên Phủ) bắc ngang sông Saigon trên xa lộ Sàigòn Biên Hoà. Xa lộ này khởi công xây dựng 1957 và được khánh thành năm 1961. Đây là một công trình có tính cách bức phá xử dụng công nghiệp làm đường của Mỹ do hãng thầu RMK-BRJ Mỹ qua kinh phí viện trợ kinh tế của USOM để mở mang vùng công nghiệp dọc theo tuyến đường qua vùng Thủ Đức Biên Hòa gọi là khu Công Nghiệp Kỹ Nghệ Biên Hoà. Phần lớn máy móc, trang thiết bị của các xí nghiệp nhà máy trong khu kỹ nghệ này khá hiện đại được nhập cảng vào từ Pháp, Nhật, Đức, Mỹ… thu hút hàng ngàn nhân công chung quanh vùng. Khu Công nghiệp Biên Hòa bao gồm nhiều ngành nghề kinh tế mà nguồn đầu tư cũng rất đa dạng. Hoạt động sản xuất công nghệ với nhiều nhóm ngành nghề: Hóa học, mỹ phẩm, cơ khí và luyện kim, vật liệu xây dựng (nhà máy Xi măng Hà Tiên ở Thủ Đức, VIKIMCO (kim khí), VINATON (tôn che mái nhà…) và hàng tiêu dùng (nhà máy giấy Cogido-An hảo, nhà máy vải dệt Vinatexco, Vimytex, công ty sữa Foremost…)
    Cầu có 13 nhịp xây bằng bê tông cốt sắt, riêng ba nhịp sàn giữa thì bằng “đan” sắt có thể di chuyển được. Cầu có 8 lằng xe, chia đều hai hướng đi về.
    Trong thời gian xây dựng xa lộ hai bên vệ đường là những quán xây dựng tạm thời, đủ loại thức ăn bày bán nhưng chung qui là món nhậu, cà phê, bia, mực khô nướng, hột vịt lộn, chè. Người ta có thể tìm thấy những người trẻ dùng những ống cống bằng bê tông đường kính cả hơn thước, tìm giây phút riêng tư hoặc ăn uống thư giản, nhất là lúc chiều lên.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 14: Giữ an ninh đầu cầu Sài gòn
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 15: Cầu Sàigòn trên xa lộ Sàigòn Biên Hòa.
    2 -Kinh đào và lấp vùng quận 1 Sài Gòn.
    Sau khi Gia Định thành thất thủ 1861, người Pháp xây dựng thành phố Sài Gòn theo quy hoạch Coffyn 1862.

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 16: Quy hoạch Coffyn
    Điểm chính của Quy họach gồm có:
    -Vị trí Thành Phố bao quanh bởi bốn đường nước như đã nói trên.
    -Quy hoạch phân lô các loại đất (thổ cư, buốn bán…)
    -Dùng đường Imperial (Hai Bà Trưng) làm trục Đông-Tây. Phía Đông, khu hành chánh, phía Tây khu thương mại, dịch vụ, công nghiệp..
    -Quy hoạch đường xá, bến cảng
    -Quy Hoạch về hệ thống nước, cung cấp nước tiêu dùng, thóat nước, rác phân…
    -Quy hoạch về an ninh phòng thủ
    Thực sự không biết quy hoạch này có được thực hiện toàn bộ không, nhưng điều chắc chắn là quy hoạch này đã là nền tảng cho một thành phố một thời được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông.
    Khảo sát hình 2 bản đồ 2 1893 và hình 3 1962, kinh Vòng Thành đã được đào nhưng toàn kinh chưa được đem vào xử dụng vì nạn bùn lên quá nhanh ghe thuyền không di chuyển được (Monographie de la Province de Gia- Định 1902, trang 19).
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 17: Bản đồ 1867 với chú thích về kinh rạch khu này sau bị lấp đi biến thành đường xá.
    Dựa theo bản đồ khu vực Sàigòn năm 1867, người Pháp cho đào hoặc trùng tu một số đường nước trong khu vực nhằm giải quyết vấn đề giao thông và vận chuyển hàng hóa vào Saigon lúc bấy giờ.
    Kinh Chợ Vải (xem bản đồ có chú thích trên A) mà người Pháp gọi là Grand Canal (kinh Lớn) được đào 1867 từ sông Saigon chạy vào đến giếng nước (khoảng bùng binh Nguyễn Huệ bây giờ) quẹo phải hợp lưu với kinh Coffyn mà chảy ra lại Sông Sàigòn, người Việt gọi là chợ Vải vì đây là nơi buôn bán vải vóc của chợ Bến Thành đầu tiên ở Sàigòn. Chợ này được xây cất năm 1860 và phá huỷ năm 1910. Sau đó chợ được xây lại ở vị trí hôm nay (trên khu đầm lầy (marais Boresse)) năm 1912. Chợ Bến Thành được khai trương tháng 3 năm 1914 thay chợ Vải. Khi chợ mới đi vào hoạt động chợ Vải trở thành Chợ Cũ, nhưng sau này khu buôn bán của chợ Cũ dời về khu đường Tôn Thất Đạm, Huỳnh Thúc Kháng và Hồ Tùng Mậu. Công trường Quách thị Trang trước chợ Bến Thành, thời Pháp gọi là công trường Cuniac, tên ủy viên hội đồng Xã Tây quản lý việc đắp đầm lầy, cũng được người Sàigòn gọi là Bùng Binh Saigon.
    Vì tốc độ đô thị hóa, kinh Chợ Vải bị lấp vào khoảng 1887 sau 20 năm hoạt động.

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 18: Kinh Chợ Vải.
    Rạch Cầu Sấu (điểm B trên hình 7 bản đồ thành phố Sài Gòn 1867)
    Còn ở giữa khoảng Sở Thương chánh (Port de Commerce – Sở này có từ 1860) có một con rạch, tục danh “Rạch Cầu Sấu” vì nơi đây có một cái hầm nuôi cá sấu để xẻ thịt bán. Rạch Cầu Sấu nối liền kinh Chợ Vải tới một con rạch nhỏ nữa do Coffyn đào, về sau cả ba con kinh này đều lấp bằng trở nên đại lộ “Đường Kinh Lấp” chạy từ dinh Xã Tây tới giáp đường Công Lý và đại lộ Hàm Nghi (Boulevard de la Somme cũ). (Vương Hồng Sển – Sàigòn năm xưa)
    Rạch Cây Cám (D)
    Trước khi đi đến kho đạn cũ, bọc theo bờ thành gần cửa Đông “Phan Yên Môn” của thành Quy, có một con kinh nhỏ chạy dài tên là “Kinh Cây Cám” chạy tới đường Lê Thánh Tôn đi ngang Sở Pháo thủ (Pyrotechnie) qua Sở Công binh thuật (Génie) là dứt. Con kinh này, khúc nối dài tới Chợ Cũ thì gọi “Kinh Chợ Vải” vì vải sồ hàng giẻ đều bán tại đây (Vương Hồng Sển – Sàigòn năm xưa)
    Rạch Cầu Ông Lãnh (E)
    Rạch này có nguồn từ rạch Bến Nghé chạy quanh khu Cầu Quan-Cầu Muối- Cầu Kho, với nhiều nhánh tẽ mang tên địa phương của những cây cầu: cầu Kho (rạch Cầu Kho), cầu Muối (rạch Cầu Muối) Cầu Quan (rạch Cầu Quan)…
    Kinh Coffyn (C)
    Kinh đào Coffyn nối rạch Cầu Sấu, Kinh Chợ Vải và kinh Cây Cám.
    Có thể nói, tất cả các rạch và kinh đào của khu Quận 1 (xem bản đồ hình 17) nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và giao thông cuối thế kỷ 18 và 19 đều bị lấp vì áp lực thành thị hóa và sự thay đổi phương thức vận chuyển vào cuối thập niên thế kỷ 19.
    Kinh Chợ Vải đào 1867 bị lấp giai đoạn 1887-1892 thành đường Charner – sau thành đại lộ Nguyễn Huệ.
    Rạch Cầu Sấu bị lấp thành đường de la Somme, sau thành đường Hàm Nghi.
    Kinh đào Coffyn nối Rạch Cầu Sấu – Kinh Chợ Vải – Kinh Cây Cám, bị lấp năm 1892 để biến thành đường Bonard – sau Lê Lợi và đường D’ Espagne thành đường Lê Thánh Tôn.
    Rạch Cầu Ông Lãnh thành đường Kitchener sau Abattoir (Lò Heo – vì vùng này là vùng Lò Heo cũ của Saigon Chợ Lớn trước khi có Lò Heo bên Chánh Hưng), sau thời VNCH đặt tên Nguyễn Thái Học cho đến nay.
    Rạch Cầu Kho biến thành đường Blancsubé de Cầu Kho, thời VNCH đường Huỳnh Quang Tiên, sau 1975 thành Hồ Hảo Hớn. Rạch cầu Kho không phải bị lấp thành đường Phát Diệm – Trần Đình Xu (chi tiết ở Phần II).
    3-Cầu trên rạch Thị Nghè phía Bắc
    Dọc theo sông Sàigòn vùng Thạnh Mỹ Tây (xem hình 3 bản đồ 3), thuyền quẹo vào trái vào rạch Thị Nghè và rạch Văn Thánh. Rạch Thị Nghè nằm phía Bắc thành phố Sài Gòn Chợ Lớn, đối diện với cửa Đông của Thành Quy – Bát Quái (1790-1835) và thành Phụng (1836-1859) xem hình 1B. Chú ý thành Phụng được thêm vào bản đồ Trần Văn Học năm 1815 cộng với những địa danh rút từ Gia định thành Thông chí của Trịnh Hoài Đức được viết vào khoảng 1820-1822 (Gia Định Thành Thông Chí – Lời Giới Thiệu).
    Theo bản đồ 1815 thì rạch Thị Nghè lúc ấy gọi là sông Bình Trị (trong địa hạt Tổng Bình Trị Trung), người đia phương gọi là sông Thị Nghè, vì có cầu Thị Nghè bắc ngang sông bên hông Sở thú. Đến đoạn cầu Bông – trước đó gọi là cầu Cao Miên – thì gọi là sông cầu Bông. Rạch Thị Nghè chảy qua đoạn cầu Bông về phía Tây Bắc có cây cầu Kiệu (gọi là sông Cầu Kiệu Phú Nhuận), rồi từ cầu Mac Mahon (Công Lý) quẹo về hướng Tây đến cầu Trương Minh Giảng gọi là Kinh Nhiêu Lộc vì đường nước trở nên nhỏ hẹp.
    Người Pháp sau khi chiếm được Gia định thành gọi rạch Thị Nghè là Arroyo de l’Avalanche, lấy tên con tàu đầu tiên tiến vào rạch.
    Rạch Thị Nghè chảy dài từ khu vực Ba Son Thị Nghè đến Ngả Tư Bảy Hiền Tân Bình.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 19: Bản đồ rạch Thị Nghè (được phóng đại từ bản đồ 1903 Plan Doumer)
    Cầu bắc ngang rạch Thị Nghè

     

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 20. Cầu Thị Nghè được hoàn thành năm 1927.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 20A: Cầu Thị Nghè 1965/66 by Tom Langley
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 21. Cầu Thị Nghè được xây lại sau khi cầu hình 20A bị xập vì tai nạn “hội chợ Thị Nghè”
    Cầu này chạy sát cạnh Sở Thú (Thảo Cầm viên) trên đường Hùng Vương (Thạnh Mỹ Tây) về phía Thị Nghè, nằm trên con đường Thiên lý Bắc Nam xưa.
    Cầu xây năm 1927 còn nằm trong khuôn viên Sở Thú. Sau khi cầu sập vì tai nạn Hội Chợ Thị Nghè năm 1957, cầu bị phá hủy. Cầu được xây lại nằm trên con đường mới mở nối qua Thị Nghè – Nguyễn Cảnh Chân, bằng bê tông hình 20A. Sau kiến trúc vòm cầu bị phá bỏ và cầu được xây dựng lại có hình dáng phẳng hình 21.
    Qua cầu có Chợ Thị Nghè lập nên bởi bà Nguyễn Thị Khánh, cạnh nhà thờ Thị Nghè, xây dựng khoảng cuối thế kỷ 18. Bà Khánh là con ông Khâm Sai Chánh thống Vân trường hầu, là vợ ông thư ký mỗ chớ không phải vợ ông Nghè (Nghè theo tiếng Nôm có hai nghĩa: ông tiến sĩ và ông thư ký (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí)
    Vùng Thị Nghè xưa là nơi có khu ruộng Tịch Điền, đàn Xã Tắc, miếu thờ Thần Nông, đàn Tiên Nông (những cơ sở này nằm trước nhà thương dưỡng lão, nay là Trung tâm dưỡng lão Thị Nghè), miếu Văn Thánh, miếu thờ Đức Khổng Tử.
    Trên địa bàn Thị Nghè cũng từng có một số cơ sở công nghiệp như: Hãng Chén (nay là Công ty sứ Thiên Thanh), nhà máy Dây thép Thị Nghè (nay là Công ty vật tư Bưu Điện), hãng Dầu Phú Mỹ, hãng Ô tô buýt (nay là trường Phú Mỹ), hãng Mỡ Guyonnet… Thị Nghè cũng là nơi xuất hiện một trong những nhà in đầu tiên của đất Sài Gòn: Nhà in kiêm nhà sách Joseph Nguyễn Văn Viết ra đời năm 1917
    Cầu Bông 
    Cầu Bông được xây dựng vào khoảng 1736 (12), lúc đầu đặt tên là cầu Cao Miên (Pháp gọi là cầu Cambodge). Cầu Bông bắc ngang rạch Thị Nghè, nhưng đối với dân địa phương ai cũng gọi là sông Cầu Bông đến ngày nay. Dưới chân cầu Cầu Cao Miên có trồng hoa, nên tên cầu dần dần đổi thành cầu Hoa, rồi vì tránh phạm húy nên đổi là cầu Bông (Hồ Thị Hoa là tên của một hoàng hậu nhà Nguyễn gốc ở Linh Xuân Thôn, huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa và là mẹ của vua Thiệu Trị. Ai là người Sài Gòn xưa có lẽ còn nhớ bài này, nhại theo bài Trăng Rụng Xuống Cầu, một thời nổi tiếng với đôi danh ca cũng là cặp vợ chồng ngoài đời Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết:
    “Ai đang đi trên cầu Bông,
    Té xuống sông ướt cái quần ny lông
    Vô đây em dù trời khuya anh vẫn đưa em về”

    Cho tới bây giờ không ai biết xuất xứ của nó và vì sao, chỉ có điều nặng mùi Nam rặt, bình dân giáo dục nhưng hậu ý tốt. Con đường từ đầu cầu Bông xuống đến tòa Bố (tòa hành chánh Gia Định) cuối thế kỷ 19 gọi là đường L’inspection, sau đó đổi thành Lê Văn Duyệt (bây giờ đường Đinh Tiên Hoàng).

    Cầu Bông dài chỉ khoảng 50 mét, chiều rộng 15 mét, bằng bê tông là huyết mạch giao thông nối liền Sài Gòn Chợ Lớn và tỉnh Gia Ðịnh ngày xưa cũng như ngày nay. Từ Ða Kao qua Cầu Bông vào trung tâm của tỉnh Gia Ðịnh trước khi đến khu vực cơ quan hành chính, công quyền, đến khu vực Lăng Ông và chợ Bà Chiểu. Riêng Lăng Tả quân là một nơi rất được sùng bái đối với người Tàu khắp nơi, nhất là vùng Chợ Lớn, họ đổ về đây chật cả đường vào những dịp giỗ Ông hoặc Tết Nguyên Đán.
    Có thể nói Cầu Bông là cây cầu thân thuộc của dân Sài Gòn Gia Định. Từ Sài Gòn học trò sang Gia Định theo học trường nữ Lê văn Duyệt (bây giờ là Võ Thị Sáu) hay trường Nam Hồ Ngọc Cẩn (giờ là trường tiểu học Nguyễn Đình Chiểu) hoặc học trò từ Gia Định sang các trường học ở Đa kao Sài gòn đều phải qua đây, cộng với số người đi làm ở công tư sở hoặc giải trí ở Saigon Chợ Lớn. Con đường này là chốt quan trọng trong thời chiến trước 75, nhân viên An ninh Cảnh Sát thường đóng chốt ở hai đầu Cầu Bông để kiểm xét giấy tờ tùy thân, hợp lệ quân dịch.

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 22: Cầu Bông và Cầu Sắt
    Rạch Thị Nghè từ cầu Bông chảy về hướng cầu Kiệu có một địa danh đặc biệt – Miễu Nổi Vạn Chài bây giờ là khu chung cư Miễu Nổi đường Vũ Huy Tần gần cầu mới Hoàng Hoa Thám bắc qua rạch Thị Nghè – Nhiêu Lộc.
    Ngày xưa dân vào miễu Nổi bằng cách đi đò nhỏ qua đường hẻm trên đường Trần Quang Khải băng qua xóm Vạn Chài rồi xuống sông qua đò hoặc đi qua hẻm Trần Pháp dưới sông cầu Bông (tiếng gọi của người vùng này), trên đường Lê Văn Duyệt từ hướng Lăng Ông sang Đakao. Miễu thờ bà Thánh Mẫu, được nhiều người dân địa phương tôn sùng. Trong hình miễu nằm ở vị trí đầu cù lao. Ngày nay cả cù lao không còn nữa do kế họach đô thị hóa và chỉnh trang khu vực hai bên rạch.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 23: Miểu Nổi ở Đakao

    Cũng nên biết rằng có một địa danh Miễu Nổi nhưng ở Gò vấp, nằm trên một cù lao nhỏ trên sông Vàm Thuật, phụ lưu của sông Sài Gòn. Còn gọi là Miễu Nổi Phù Châu tọa lạc Phường 5 Quận Gò Vấp.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 24: Miễu Nổi trên sông Vàm Thuật (người địa phương gọi là sông Bến Cát).
    Cầu Sắt
    Cầu này nằm gần cầu Bông cạnh rạch Cầu Bông phía bên phải chảy về hướng Bà Chiểu – Hàng Xanh.
    Đây là một cây cầu sắt xưa xây 1896 bởi công ty Eiffel, sàn gỗ, là cầu dành cho tuyến xe lửa Saigon Gò Vấp qua Đakao xuống đường L’Eglise, Nhà Thờ thời Pháp vì trên đường này có nhà thờ Bà Chiểu, đây là ngôi nhà thờ lớn nhất vùng Bà Chiểu. Sau đường Nhà Thờ đổi thành Bùi Hữu Nghĩa, chạy dọc hông chợ Bà Chiểu nối liền đầu đường Lê Quang Định chạy qua ngả tư Bình Hoà, ngả tư Xóm Gà lên chợ Gò Vấp.
    Vùng đất giữa đường Lê Văn Duyệt (Đinh Tiên Hoàng bây giờ) và rạch Cầu Bông thời trước là một vùng ruộng, đầm lầy thỉnh thoảng có một vùng đất cao nơi có nhà cửa xây cất, dọc theo đường thưa thớt nhà cửa, khu này gần vùng rạch Thị Nghè có tên là khu “khăn đen suối đờn”
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 25: cầu Sắt Đa kao

    Cầu sắt Đa Kao với nhà sàn chi chít ven sông. Cảnh quan này tương tự như ở khu vực các cầu bắt ngang rạch Thị nghè (cầu Thị Nghè, cầu Bông, cầu Kiệu…)
    Cầu Kiệu

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 26: Cầu Kiệu (không ảnh by Raymond Cauchetier 1955)
    Rời cầu Kiệu đi về Saigon sẻ qua một cái chợ, ngày xưa gọi là chợ Xã Tài, chợ bắt đầu là một nhóm bạn hàng ngồi tụ tập lộ thiên và có tên là Chợ Mới. Vì thế Cầu Kiệu thời ấy có tên là cầu Chợ Mới (xem hình 1B). Sau có ông Lê Tự Tài, xã trưởng Phú Nhuận, quyên góp tiền của bà con bán hàng, để mua vật liệu xây dựng, nhà lồng chợ bằng tre, lá. Mấy năm sau, mới thay bằng cột gỗ, lợp ngói, và được người dân gọi là Chợ Xã Tài. Đầu thế kỷ 20, người ta cho xây mặt tiền chợ nhà lồng và đắp lên đó mấy chữ nổi: “Marché de Xa Tai”. Nhưng tồn tại chẳng bao lâu, thì được thay bằng chữ “Marché de Phu Nhuan”, tức Chợ Phú Nhuận hiện nay. Đây là một trong các ngôi chợ lâu đời nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh. (Sài Gòn vang bóng, sách đã dẫn, tr. 137). Xã Phú nhuận thời ấy là một xã lớn có đền 72 ngôi đền chùa (Trương Vĩnh Ký trong Saigon et ses environs), nhưng đa số không còn tồn tại đến ngày nay.
    Cách cầu Kiệu không xa, có lăng Đô-đốc Võ Di Nguy, lăng Ông Trương Tấn Bửu, một danh tướng thời Gia Long Minh Mạng, một thời là Tổng Trấn Gia Định Thành.
    Cầu Công Lý – thời Pháp Cầu Mac Mahon

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 27: Cầu Công Lý
    Cầu Công Lý nằm trên tuyến đường chính đi từ phi trường Tân Sơn Nhất vào trung tâm thành phố đi ngang qua Dinh Độc Lập (Hội Trường Thống Nhất) chạy thẳng ra Bến Chương Dương.
    Thời Pháp gọi là Cầu Mac Mahon (Mặt Má Hồng), gần cầu có ngôi chùa Vĩnh Nghiêm. Chùa kiến trúc theo kiểu chùa Miền Bắc có cổng Tam quan. Chùa bắt đầy xây cất 1964 và xong năm 1971.
    Cầu này cũng được biết qua sự kiện Nguyễn Văn Trổi năm 1964 đặt bom mưu sát Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert MacNamara, chuyện không thành, Nguyễn văn Trổi bị bắt và bị tử hình.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 27A: Chùa Vĩnh Nghiêm với cổng Tam Quan

    Cầu Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ)
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 28 Cầu Trương Minh Giảng, toà nhà phía sau là viện Đại học Vạn Hạnh
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 28A Cổng viện Đại Học Vạn Hạnh

    Cầu này ngày xưa không có tên, tuy nhiên có tài liệu cho rằng đây là cầu Lão Huề (http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_V%C4%83n_S%C4%A9). Khảo sát không ảnh và bản đồ Trần Văn Học năm 1815, cầu Lão Hòa (Huề) chỉ có thể nằm cuối nguồn của rạch Thị Nghè ở vùng Hòa Hưng, Tân Bình. Theo Trịnh Hoài Đức Gia – Định Thành Thông Chí thì cầu Huề cách cầu Kiệu 6 dậm rưỡi và ở cuối nguồn sông Bình Trị (rạch Thị Nghè), là nơi đầy dẫy những ao vũng. Theo Bình Nguyên Lộc đường Trương Minh Giảng với cây cầu Trương Minh Giảng chỉ mới có từ cuối năm 1938
    Như vậy cầu Lão Huề (Hòa) không thể nào là tên xưa của cầu Trương Minh Giảng. Dưới thời VNCH cầu được xây lại bằng bê tông cốt sắt đặt tên cầu Trương Minh Giảng vì nằm trên đường cùng tên, một vị danh tướng thời nhà Nguyễn. Ông được đánh giá là một người “văn võ song toàn”, là công thần bậc nhất của nhà Nguyễn, vừa là một võ tướng vừa là một sử gia, từng giữ chức Tổng tài Quốc sử giám. Ông mất năm1841 Mộ ông tọa lạc ở một vị trí khiêm nhường ở hẽm đường Nguyễn Văn Nghi, Gò Vấp.
    Đi về hướng Dinh Độc Lập (Hội Trường Thống Nhất) trước khi đến cầu có chợ Vườn Xoài nằm bên phải, gần đến cầu thấy có trồng rau muống. Đường Trương Minh Giảng bắt đầu ở ngã ba Trần Quý Cáp (nay Võ Văn Tần) – Trương Minh Giảng. Đường Trương Minh Giảng đổi tên thành đường Trương Minh Ký khoảng chợ Vườn Chuối hướng Tây Bắc. Cũng nên biết Trương Minh Ký là học trò tâm đắc của Trương Vĩnh Ký, có hiệu là Thế Tải, một nhà văn hóa lớn của Việt Nam, ông cũng là nhà báo, nhà giáo đóng góp quan trọng trong việc truyền bá và phát triển nền văn học Quốc Ngữ Việt Nam. Tổ tiên của ông là danh tướng Trương Minh Giảng. Lăng mộ ông trong tình trạng hoang phế hiện còn ở hẻm đường Nguyễn Văn Nghi Gò vấp gần mộ Trương Minh Giảng.
    Toà nhà cận cầu là Đại Học Vạn Hạnh. Khuôn viên Viện Đại Học nay là trường Đại học Sư Phạm và chùa Pháp Hoa thuộc GHPGVN.
    3- Cầu trên rạch phía Nam-rạch Bến Nghé, Kinh Bãi Sậy, Kinh Đôi, Kinh Tẽ
    Sông Sài Gòn (Bến Nghé) chạy qua quận 1 thành phố Sài Gòn quẹo sang trái biến thành rạch Bến Nghé. Sau đó vì lý do kinh tế vận chuyển thương mại, kinh Tẽ lại được đào thêm năm 1905.
    Rạch Bến Nghé, còn gọi là kinh Chợ Lớn, thời nhà Nguyễn còn gọi là sông Bình Dương. Thời Pháp thuộc, người Pháp gọi là Arroyo Chinois (Kinh Người Tàu). Tưởng cũng nên biết rằng người Tàu từ miền Cù lao Phố chạy về đây lập nghiệp, xây dựng cơ nghiệp dọc hai bờ rạch, ghe thuyền tấp nập thu hút dân thương hồ miền Tây, tứ xứ, tụ hợp về đây kể cả người ngoại quốc, họ gọi vùng này là Đề Ngạn, người Việt gọi là kinh Tàu Hủ.
    Rạch Bến Nghé chạy dài từ Bến Nhà Rồng – Cột cờ Thủ ngữ đến kinh Lò Gốm, đường nước thiên nhiên. Hợp lưu dọc theo rạch Bến Nghé có những hệ thống kinh tự nhiên, mà hai rạch quan trọng là rạch Ông Lớn và rạch ông Nhỏ và rạch Xóm Củi.
    Rạch Bến Nghé chảy về phía Tây thì gặp Rạch Lò Gốm hợp lưu để chảy về phía Nam ra Rạch Cát, nhưng đoạn này thường cạn nước, ứ đọng gây trở ngại cho việc thương thuyền. Nhận được tầm quan trọng trong việc vận chuyển thương thuyền, năm 1772 Chúa Nguyễn ra lệnh cho ông Nguyễn Cửu Đàm đào lại đoạn này từ nơi giáp nước của rạch Bến Nghé và rạch Lò Gốm chảy từ phía Tây (Phú Thọ, Phú Lâm xuống). Kinh được đào thẳng tắp về phía Nam nối Sa giang (rạch Cát), ông đặt tên cho kinh này là Ruột Ngựa (Mã trường Giang). Năm 1819, kinh Bến Nghé từ chỗ giáp nước với rạch Ông Nhỏ (Tiểu Phong Giang) – khúc nhà thương Chợ Quán – Bịnh viện Nhiệt đới ngày nay đến kinh Ruột Ngựa vì “chảy quanh co mà nhỏ hẹp, khuất khúc, nước cạn” nên Gia Long ra lệnh cho Huỳnh Công lý, phó tổng trấn thành Gia Định, đào lại khúc này và được Vua Gia Long đặt tên là An thông hà (sông An thông) (Trịnh Hoài Đức (Gia định thành Thông Chí, viết vào khoảng 1820-1822)),
    Đường nước kinh rạch Bến Nghé – An Thông – rạch Lò Gốm chảy xuống kinh Ruột Ngựa rồi hợp lưu tiếp giáp với các đường nước chảy về phía Tây (về miền Tây) và miền Đông (Biên Hòa và miền Trung, Bắc) là cửa ngõ quan trọng của thương thuyền vào Bến Nghé Sàigòn Chợ Lớn.
    Kinh Ruột Ngựa trở thành kinh trọng yếu để vào trung tâm thương mại Sài gòn (khi người Pháp vào thì họ gọi là Chợ Lớn (Sài Gòn (cũ) lúc mới khai, sau lập lại khu vực mới quanh thành Phụng lấy tên Sàigòn (mới). Để giảm thiểu áp lực lưu lượng vận chuyển thương mại cho kinh Ruột Ngựa cũng như rạch Bến Nghé, kinh Tẽ được đào năm 1905-1906 xuống đến cầu chữ Y. Đoạn từ cầu chữ Y xuống rạch Lò Gốm được đào song song với rạch với Rạch Bến Nghé (kinh Tàu Hủ) người Pháp gọi là Canal Doublement, người Việt, Kinh Đôi.
    Về phía khu trung tâm Chợ Lớn (Sài Gòn xưa), vây quanh bởi đường Nguyễn Tri Phương về phía Đông; rạch Bến Nghé – Tàu Hủ phía Nam; đường Hùng Vương phía Bắc và Dương Công Trừng (Nguyễn Thị Nhỏ) phía Tây. Vùng này có kinh Bãi Sậy, rạch Chợ Lớn (không nên nhầm với Rạch Bến Nghé (kinh Tàu Hủ, Arroyo Chinois) và Kinh Phố Xếp,ba kinh rạch này đều là phụ lưu của Rạch Bến Nghé, Kinh Bãi Sậy và Rạch Chợ Lớn chảy về phía Tây, trong khi kinh Phố Xếp về phía Bắc.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 29: Bản Đồ 1874 chưa có kinh Tẽ

    Tham khảo bản đồ này vẫn còn thấy rạch Chợ Lớn chưa bị lấp (nằm ngay vị trí đường Hải Thượng Lãn Ông ngày nay), và kinh Phố Xếp đào chạy thẳng hướng Bắc về phía Chợ Rẫy – nơi người Tàu trồng rau cải cung cấp cho thành phố – là khu vực nhà thương Chợ Rẫy ngày nay. Tên Phố Xếp do kinh chạy trước nhà ông Đốc Phủ Chợ Lớn (theo Trương Vĩnh Ký). Đường Cây Mai (Nguyễn Trãi) có một cầu bắc ngang Kinh Phố xếp gọi là Cầu Phố (theo TVK). Kinh Phố Xếp bị lấp trở thành “đường Phố Xếp, trước 1975 là đường Tổng Đốc Phương, bây giờ là Châu Văn Liêm – Thuận Kiều. Đường Vạn Kiếp khi này vẫn còn là một đoạn kinh đào thẳng nối vào kênh Tàu Hủ. Bản đồ 1874 này cho biết rõ vị trí đầu tiên của khu vực chợ Nhà Lồng (còn được gọi là Chợ Củ, Trung tâm – Marché Central), tức khu vực Bưu Điện quận 5 ngày nay, với những khu vực tô đậm hình tam giác. (Xem bản đồ phía trên).
    Cầu bắc ngang rạch Bến Nghé (kinh Tàu Hủ-Arroyo Chinois).
    Từ sông Sàigòn thuyền qua cột cờ Thủ Ngữ – do người Pháp xây dựng, rẽ phải vào Kinh Bến Nghé, người Pháp đạt tên là Arroyo Chinois, người Việt gọi là kinh Tàu Hủ – Theo học giả Trương Vĩnh Ký (viết năm 1885) và Huỳnh Tịnh Của (viết cuối thế kỷ 19) thì đoạn phố dọc hai bên rạch Chợ Lớn (Bến Nghé) được gọi là Tàu Khậu, đó là cách người Triều Châu phát âm từ “thổ khố” (khu nhà gạch), sau trại âm thành Tàu Hủ.

    Người Pháp gọi là Arroyo Chinois để phản ảnh hệ thống sông rạch nơi đây có đông đảo người Tàu buôn bán, ghe thuyền tấp nập đến từ muôn phương trao đổi hàng hóa, người Tàu đóng một vai trò kinh tế quan trọng qua hệ thống giao dịch, tổ hợp thương mại và tài chính trong khu vực với người Trung Hoa (từ Quảng Đông, triều Châu, Phúc Kiến…), người Âu Châu, Nhật, Thái, Ấn…Những sản phẩm thương mại chất đầy ở kho, vựa dọc hai bên kinh rạch như gạo, muối, cá khô, đường, tiêu…cũng như hàng hóa đã chế biến từ Trung Hoa, Ấn Độ, Tân Gia Ba (Singapore) …

    Thuyền qua khỏi nhà Rồng và cột cờ Thủ Ngữ rẽ phải vào Kinh Bến Nghé (kinh Tàu Hủ, Arroyo Chinois, sông Bình Dương) phải đi qua một chiếc cầu Quay, bắc ngang kinh đi qua bến Nhà Rồng và Khánh Hội. Hình kế tiếp cho thấy cầu quay khúc giữa cho tàu buôn qua lại. Cầu được xây năm 1904 nhưng không biết hết quay nằm nào.

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 30 Hình Cầu Quay Khánh Hội
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 31: Không ảnh Cầu Khánh Hội và cầu Mống 1955 by Raymond Cauchetier
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 32:Cầu Khánh Hội khi còn đường xe lửa năm 1948 không còn khả năng quay nữa (hình Jack Birns)

    Cầu Mống
    Cầu Mống từ Bến Chương Dương qua Bến Vân Đồn đi Vĩnh Hội.

     

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 33: Xe kiếng chạy trên cầu Mống
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 34: Ghe thuyền neo đậu bến Chương Dương cạnh cầu Mống.

    Cầu Mống (Arc en Ciel) nối liền Bến Chương Dương với bến Vân Đồn. Toà nhà lớn nằm phía bến Chương Dương được dùng làm Thượng Viện của VNCH.Cầu nầy do công ty vận chuyển hàng hải Pháp Messageries maritimes bỏ vốn mướn công ty xây dựng Levallois Perret (tức Eiffel cũ) xây cất – có thể là trong cùng một giai đoạn với việc xây cất Cầu Quay Khánh Hội – do đó người Pháp cũng gọi cầu nầy là cầu “Công ty Messageries Maritimes” Hai khung đường xe chạy, một để đi lên cầu sang Vĩnh Hội và một để từ cầu phía Bến Vân Đồn/Vĩnh Hội đi qua để xuống bến Chương Dương. Trước 30 tháng 04 năm 1975, bờ kinh Tàu Hủ ở dưới gầm cầu Mống phía bến Chương Dương là hai khuôn viên ấm cúng, thơ mộng cho những cặp tình nhân trẻ, ngày cũng như đêm.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 35: Công viên trước tòa nhà Hội trường Diên Hồng
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 36: Hội trường Diên Hồng (hình chụp lúc tổ chức Hội Nghị Colombo Plan)

    Hội trường Diên Hồng sau là Thượng Viện thời VNCH nằm góc đường Công Lý và Bến Chương Dương. Đi dọc Bến Chưong Dưong về gần về hướng cầu Mống băng qua đường Pasteur thì có toà nhà đồ sộ Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam trước 1975.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 37: Banque L’Indochine sau 1954 thành Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam
    Trước 30 tháng 04 năm 1975, trụ sở Ngân Hàng Quốc Gia cũng là trụ sở của Viện Hối Đoái của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ở góc đường Pasteur và Bến Chương Dương.

    Cầu Calmette
    Cầu bằng bê tông cốt sắt đã được xây cất xuyên ngang kinh Tàu Hủ trong khoảng cuối thập niên 1950 hoặc đầu thập niên 1960 (có thể là cùng với một thời điểm xây cất cầu Khánh Hội bê tông cốt sắt cố định để thay thế chiếc cầu Quay Khánh Hội ngày xưa). Chân cầu phía bến Chương Dương là nơi bán đồ cũ, còn phía bên kia Vĩnh Hội, gần cầu thì có nhà máy sản xuất thuốc lá Bastos, một trong những thương hiệu nổi tiếng trước thập niên 70.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 38: Cầu Calmette
    Cầu Ông Lãnh 
    Cầu Ông Lãnh ngày xưa (1867-1893) không phải là chiếc cầu Ông Lãnh bằng xi măng ở cuối đại lộ Kitchener (Nguyễn Văn Học) bắc ngang qua kinh Tàu Hủ. Ngày xưa, một nhánh nhỏ của kinh Tàu Hủ (vẽ màu xanh trên bản đồ 1893) lấn chiếm sâu vào một phần đại lộ có tên là Boulevard de l’ Abattoir (đại lộ Lò Heo) và chạy xuyên ngang qua xóm Lò Heo (vì xóm nầy có một lò heo/Abattoir). Nhánh rạch nhỏ nầy người bản xứ Nam Kỳ ở Gia Định thuở trước gọi là Rạch Cầu Ông Lãnh vì trên rạch đó có một cái cầu gỗ do một ông Lãnh binh của triều đình An Nam bỏ tiền riêng ra và tốn công xây dựng.

    Trên bản đồ Sài Gòn 1867 (Plan de la Ville de SAIGON en 1867) đã thấy có sự ghi chép rõ ràng 3 chữ Cầu Ông Lãnh (đánh dấu trong khung màu đỏ). Về sau, rạch Cầu Ông Lãnh bị lấp mất đi khi đại lộ Kitchener hình thành vào năm 1907 sau thế đại lộ Abattoir và xóm Lò Heo trở thành một phần của xóm Cầu Muối sau nầy (gồm có chợ rau quả, rạp hát và đình Cầu Muối).

    Chiếc Cầu Ông Lãnh nguyên thủy bằng cây đã biến mất từ dạo ấy. Chiếc cầu xi măng hình 2 chữ L ghép đối nghịch (giống như hìmh chữ Z ?) ở đầu đại lộ Kitchener (Nguyễn Thái Học) bắc ngang qua con kinh Tàu Hủ tồn tại cho đến những năm tháng gần đây cũng được dân Nam Kỳ Sài Gòn-Chợ Lớn gọi là Cầu Ông Lãnh nhưng bây giờ thì chiếc cầu hình chữ L nầy cũng đã bị phá hủy.
    Cũng từ các chi tiết trên hai bản đồ thành phố Sài Gòn nầy mà chúng ta có thể suy định một cách khá vững chắc rằng Cầu Mống Khánh Hội là chiếc cầu lớn đầu tiên được phóng ngang qua Kinh Tàu Hủ ít ra là kể từ năm 1893. http://dactrung.net/dtphorum/m485653-print.aspx
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 39: Vị trí sông, cầu Ông Lãnh
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 40: Cầu ông Lãnh 1955 by Raymond Cauchetier
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 41: Cầu ông Lãnh thập niên 50
    Cầu Ông Lãnh là khu thương mại nhôn nhịp nhất vì có nhiều vựa bán sỉ, rau quả từ miền Đông đưa về (Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Đà Lạt..) trái cây gạo, cau từ miền Tây, Hóc Môn Bà Điểm đưa lên, ghe đổ xuống kho vựa, ghe đi lấy hàng, chợ đầy khách thương buôn, người bỏ mối, kẻ mua sỉ về bán lại ở các chợ trong khu vực Saigon Chợ Lớn Gia Định, ngay cả nơi xa như Cần Thơ (vải vóc, thuốc vấn, thuốc lá, cau, nước ngọt, rượu…)
    Khi xưa cầu Ông Lãnh bắc ngang rạch Ông Lãnh nối liền Bến Chương Dương vói bến Vân Đồn, gần đầu kinh Tàu Hủ (cùng phía bên bến Chương Dương). Nơi đây là vị trí cuả chợ Cầu Ông Lãnh với hoạt động kinh doanh ở hai bên đầu cầu (tuy chợ chính nằm về đầu phía Đông xem hình 40).
    Gần dọc rạch Ông Lãnh từ chợ Ông Lãnh đi về phía Cầu Quan có chợ Cầu Muối. Gần chợ Cầu Muối có cầu Muối để vận chuyển muối từ ghe đến các vựa muối dọc theo rạch. Cầu Muối có lẽ bị dẹp bỏ khi rạch Cầu Ông Lãnh bị lấp thành đường Kitchener (đường lò Heo, sau đó là Nguyễn Thái Học).

    Cầu Kho-Cầu Muối
    Dựa theo không ảnh tìm thấy được (hình 42),rạch Cầu Kho chảy ra rạch Bến Nghé (Tàu Hủ) sau bị lấp thời Pháp trở thành đường Blancsubé de Cầu Kho, trở thành đường Huỳnh Quang Tiên (1955), sau 75 thành đường Hồ Hảo Hớn.

    Có tài liệu cho rằng rạch Cầu kho đã bị lấp thành đường Phát Diệm, sau 1975 đổi là Trần Đình Xu. Sự nhầm lẫn có thể vì nguyên do người địa phương cứ gọi là đường Cầu Kho.

    “Đường Phát-Diệm, tên cũ cũng là tên Việt, đường Nguyễn-Tấn-Nghiệm, vậy mà thiên-hạ cứ gọi là đường Cầu Kho.” Theo Bình Nguyên Lộc
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn

    Hình 42: Rạch Cầu Kho chảy ra kinh Tàu Hủ, cầu Kho bắc ngang rạch trên đường Bến Chương Dương 1955.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 43: Không ảnh Cầu Kho 1955

    Cầu Muối
    Cầu Muối theo Vương Hồng Sển là nơi bến neo thương thuyền đi biển từ Trung chở muối đổi chác với Sàigòn, hiện chợ cầu Muối vẫn ở vị trí cũ góc phía Bắc đường Cô Giang và Nguyễn Thái Học, nhưng hoạt đông thương mại đã được dời đi nơi khác.
    Đối diện với chợ Cầu Muối gần đấy có đình Cầu Muối Nhơn Hòa.
    Cầu Chữ Y
    Cầu chữ Y được khởi công xây dựng từ cuối năm 1938, tới cuối tháng 8 năm 1941 thì hoàn thành; do công ty Công xưởng và Công trình công chính của Pháp đảm nhiệm thực hiện (Sơn Nam).
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 44: Cầu chữ Y bắc ngang kinh Tàu Hủ và Kinh Đôi
    Người Sàigòn hay nói qua cầu chữ Y là qua miệt Bình Xuyên và lò heo Chánh Hưng, nói là lò heo nhưng làm cả thịt bò, thị ngựa cung cấp cho cả thành phố. Vùng Chánh Hưng nằm giữa các nhánh kinh rạch, phía bắc có cầu chữ Y đi về thành phố trên đường Nguyễn Biểu, phía nam có cầu Xóm Củi Hiệp Ân, chạy thẳng cầu Hiệp Ân dọc theo bến Nguyễn Duy sẽ gặp cầu Nhị Thiên Đường thuộc vùng Chợ Lớn. Từ Saigon đi qua cầu, dưới chân cầu chữ Y nhánh phải là đường Hưng Phú, lò HeoChánh Hưng nằm trên đường nầy có cửa chánh nằm trên bến Ba Đình (nay Lê Quang Kim) và một bên hông là đường Nguyễn Duy.

    Đường Hưng Phú chạy dài thẳng xuống có đường Chánh Hưng cắt ngang để gặp Bến Ba Đình, từ Bến Ba Đình có những con đò nhỏ sang sông để qua chợ Hòa Bình. Xưa là vùng đất ruộng, thời VNCH xáng thổi lấy bùn lấp đất biến thành khu nhà ở dân. Nhánh bên trái của cầu là kinh Đôi chảy dài vô Bình An, tiếp ra huyện Bình Chánh, sau đó nhập với kinh Tàu Hủ đổ vào sông Vàm Cỏ ở cầu Bình Điền.
    Cầu chữ Y còn là “chứng nhân” của lịch sử thương đau cận đại.
    Đối với cư dân SG-CL trước 1954 bên kia cầu chữ Y là vùng Bình Xuyên – Bảy Viễn – một thời được coi là Lãnh chúa kiểm soát những sòng bạc ở Chợ Lớn, có lực lượng trang bị vũ khí, có giai đọạn Bảy Viễn được Pháp bổ nhiệm làm Giám Đôc Công An xung phong trước 1954.
    Sau khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm về chấp chánh 1954, Thủ tướng Diệm quyết định cải tổ và thành lập quân đội Quốc gia, ông ra lệnh tiêu diệt lực lượng vũ trang của các giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo và lực lượng Bình Xuyên.
    Năm 1955, nhiều cuộc giao tranh ác liệt giữa lực lượng Bình Xuyên đóng quân gần cầu chữ Y (tổng hành dinh của quân Bình Xuyên), nhưng chỉ sau đó bốn, năm ngày, quân đội Quốc Gia đã vượt qua được cầu chữ Y, chiếm lãnh hoàn toàn tổng hành dinh của quân Bình Xuyên.
    Vị trí kinh rạch vùng Chợ Lớn

     

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 45: Bản đồ vị trí Kinh rạch vùng Chợ Lớn.
    Những kinh rạch này đã bị lấp qua nhiều thời kỳ do tốc độ đô thị hóa và nhu cầu vận chuyển trên đường bộ tăng lên và do dó những cây cầu xưa cũng biến mất theo.Có thể chia hệ thống kinh rạch trong vùng chính:
    A) Kinh Tàu Hủ đoạn từ Xóm Chỉ (đường Tản Đà đến Rạch Lò Gốm)
    B) Rạch Chợ Lớn (đoạn chảy từ Xóm Chỉ (hình 19) hướng vế Bắc vào Chợ Lớn, Tây đến giáp nước Rạch Chợ Lớn-Rạch Lò Gốm và kinh Vòng Thành (đường Nguyễn Thị Nhỏ ngày nay)
    C) Kinh Bãi Sậy (kinh Hàng Bàng, Canal Bonard)
    D) Kinh Vòng Thành (Bao Ngạn – Canal de Ceinture) được đào năm 1875

    A-Rạch Chợ Lớn
    Rạch Chợ Lớn từ kinh Tàu Hủ đi lên trung tâm Chợ Lớn nối kinh Phố Xếp, sau đó hướng Tây đến rạch Lò Gốm gần đồn Cây Mai cạnh kinh Vòng Thành. Khúc gần Cầu Đường là bến Gaudot nơi có trụ sở nhà buôn Thông Hiệp của Quách Đàm. Gaudot là tên của một trung úy hải quân Pháp, chỉ huy một nhóm thủy binh đánh đồn Kỳ Hòa ngày 25/2/1861, sau làm phó quản trị thành phố Chợ Lớn và năm 1868 chỉ huy cảng thương mại Sài Gòn. Gaudot mất ở Côn Đảo vì bệnh năm 1872.

    Năm 1955 Rạch Chợ Lớn bị lấp biến thành đường Khổng Tử, nay là đường Hải Thượng Lãn Ông và Trương Tấn Bửu, nay là Lê Quang Sung.

    Kinh Phố Xếp đào năm 1778, cũng bị lấp thành đường Tổng Đốc Phương nay là Châu văn Liêm.

    Sau khi rạch Chợ Lớn bị lấp, tương truyền Quách Đàm rất mê tín, tin phong thủy được thầy bói Tàu nói là nơi trụ sở bến Gaudot là nơi “đầu một con rồng” mà khúc đuôi nằm ở biển cả. Vì thế Quách Đàm không bao giờ đổi trụ sở dù là nhà mướn, đi nơi khác sau khi rất giàu có thành công trên đường làm ăn. Nên khi xảy ra sự việc lấp kinh thành đường thì ông tin rằng cơ sản làm ăn lụn bại vào lúc thời khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 là do việc lấp kinh Chợ Lớn này (4). Rạch Chợ Lớn trên khúc Quai de Gaudot là Quai de Fou-kien (bến Phúc Kiến) sau khi lấp đi làm thành đường Trang Tử trước bến xe Chợ Lớn ngày nay. Khu đường Hải Thượng Lãn Ông, Trang Tử và Phùng Hưng là khu mà ngày nay vẫn còn nhiều người Hoa gốc Phúc Kiến cư ngụ. Ở đây, góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Phùng Hưng, có miếu Nhị Phủ (chùa ông Bổn) của người Phúc Kiến và kế miếu là trường trung học Trần Bội Cơ (trước gọi là Ecole de Foukien). Trường nằm trong một phần đất của miếu, được xây từ đầu thế kỷ 20 (1907) rất đẹp với kiến trúc Pháp. Gần đấy ở góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Đỗ Ngọc Thanh ngày nay có một kênh nhỏ (nay đã bị lấp) gọi là kinh Bến tắm ngựa vì nơi đây các ngựa xe thổ mộ làm chỗ nghỉ ngơi và tắm ngựa.

    Cầu Đường và cầu Minh Phụng bắc ngang Rạch Chợ Lớn không tìm được hình ảnh xưa.
    B-Kinh Tàu Hủ 
    Vị trí các cầu bắc ngang kinh Tàu Hủ (rạch Bến Nghé)
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 46: Vị trí các cầu vùng Chợ Lớn
    Cầu Xóm Chỉ (Hình 46 Chú thích A)

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 47: Cầu Xóm Chỉ 1909
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 48: Cầu Xóm Chỉ 1968

    Vào năm 1859 khi quân Pháp tấn công Sàigòn, tàu chiến Jaccaréo của Pháp đã bỏ neo trên Kênh Tàu Hủ, án ngữ con kênh ngay khoảng đầu đường Tản Đà, tức là ngay vị trí cầu Xóm Chỉ này. Về sau để kỷ niệm sự kiện này, người Pháp đã đặt tên con đường này là đại lộ Jaccaréo, tức là đường Tản Đà ngày nay. Bây giờ nó chỉ còn là một con đường nhỏ, ít người biết đến. Hình trong postcard dưới là đường Jaccareo từ phía kinh Tàu Hủ nhìn vào, có thể người chụp hình đã đứng chụp từ trên đầu cầu Xóm Chỉ. Cuối con đường này là Tòa hành chánh thành phố Chợ Lớn (sau này là khu vực trường Đại học Y Khoa Sài Gòn).
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 48a : Hình chụp đường Jaccaro (Tản Đà) từ đầu cầu Xóm Chỉ
    Cầu Chà Và

     

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 49: Cầu Chà Và 1955
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 50: Cầu Chà Và

    Cầu Chà Và (B) bắc qua kinh Tàu Hủ nối đường thông thương vùng trung tâm Chợ Lớn với Xóm Củi, rồi qua cầu Nhị Thiên Đường đi Cần Giuộc Bình Chánh. Vùng này xưa có nhiều nguời Ấn sinh hoạt, lập phố bán vải vóc. Người Việt gọi là nguời Chà. Bên phía bến Binh Đông có rạp hát Phi Long đặc biệt hay chiếu phim Ấn Độ. Rạp này nay là tiệm sách trên đường Lý Thái Tổ (bến Bình Đông).
    Cũng nên biết ngườì Việt thời bấy giờ gọi nguời có nước da ngâm đen là người Chà, tuy nhiên, ngoại trừ những loại nguời Chà đến Việt Nam có chủng giống Java ở Nam Dưong, loại nguời Chà mà người Việt Nam sinh hoạt chung đụng là người Ấn Bombay chuyên về buôn bán vải vóc tơ lụa ở vùng thương mại Chợ lớn và loại Chà Chetty làm nghề cho vay ở vùng Saigon, thường là dân có gốc tịch Anh, Pháp.
    Cầu Quới Đước (C)

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 51: Cầu Quới Đước

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 52: Cầu Qưới Đước (chú thích C). Xe điện chạy lên cầu.

    Cầu này mang tên lấy tên làng xưa Quới Đước, khu vực nằm dọc hai bờ sông Yunan (Vạn Tượng) ngày nay. Cầu nằm trên đường Lê Quang Liêm (nay Trần Văn Kiểu) bắc ngang đầu kinh Bonard (Bãi Sậy – Hàng Bàng). Đi từ cầu Chà Và xuống rạch Lò Gốm, dọc theo kinh Tàu Hủ hai bên là đường, đường bến Lê Quang Liêm và đường bến Bình Đông, ghe đủ loại neo ở đây, bên phía Lê Quang Liêm có nhà máy rượu Bình Tây, phía Bến Bình Đông thì có nhà máy chế biến lông vịt ra mền (còn nhớ mấy ông “cắc chú” rao mua lông vịt không?)
    Dọc theo hai bến có rất nhiều kho, vựa chứa luá, gạo. Nhà máy rượu nấu rượu dùng trấu thải ra từ nhà máy xây lúa cũng ở dọc theo kinh nên tiện cả đôi bề chỉ có điều ô nhiễm không tránh được – nhưng ai để ý đến vấn đề ô nhiễm thời bây giờ?!
    Cầu Bình Tây
    Cầu đi bộ bắc ngang kinh Tàu Hủ nối qua bến Bình Đông (đường Bình Tây với đương Nguyễn Chế Nghĩa), gần vị trí cuả hãng Bột mì (bến Bình Đông) ngày xưa có tên là Sakybomi (viết tắt Saigòn kỹ nghệ bột mì) cung cấp cho lò bánh mì và tiệm bánh vùng Saigon ChoLon, bây giờ vẩn còn với tên mới công ty Bột Mì Bình Đông.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 53: Cầu Bình Tây
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 54: Cầu Bình Tây với ghe lúa
    Cầu bắc ngang kinh Tàu Hủ nối đường Bình Tây với bến Bình Đông (đường Nguyễn Chế Nghĩa). Cầu này không còn ở vị trí này nữa.
    Từ cầu Bình Tây đi về phía rạch Lò Gốm có câu chữ U (còn gọi là cầu Bột). Cả hai cầu này gìờ không còn nữa.

    Cầu Chữ U
    Cách công ty Bột Mì một khoảng chừng 200m là vị trí của câu cầu chữ U, bắc ngang kinh Tàu Hủ, cầu sắt nhưng sàn cầu bằng “ván đóng đinh, gập ghình khó qua”, dành cho người đi bộ và xe hai bánh, được xử dụng đến sau 75 thì bị phá hủy.
    Đi xuống thêm chút nữa là công ty chế biến lông vịt.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 55: Cầu Chữ U
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 56: Cầu chữ U xưa thập niên 50.

    Qua khỏi cầu chữ U bên phía Lê Quang Liêm (sau 75 Trần Văn Kiểu bây giờ là Võ Văn Kiệt) hướng về gần rạch Lò Gốm có nhà máy rượu Bình Tây sản xuất rượu đế lớn nhất nước Việt Nam. Công ty được xây dựng năm 1900 và đưa vào sản xuất năm 1902 dưới sự quản lý độc quyền của tập đòan SFDIC (Société Francaise des Distilleries de l’Indochine) Pháp.
    Từ 09/5/2005 Công ty rượu Bình Tây đã chính thức chuyển thành Công Ty Cổ Phần Rượu Bình Tây trực thuộc Tổng Công ty Bia – Rượu-NGK Sài Gòn (SABECO).
    C- Kinh Bãi Sậy-Hàng Bàng-Kinh Bonard
    Đường nước nằm song song với cầu Qưới Đước là rạch Bến Nghé, và đường nước chảy qua gầm cầu là kinh Bãi Sậy – Hàng Bàng, ngưới Pháp gọi kinh này là Canal Bonard, có khi là Arroyo Chinois.
    Kinh Bãi Sậy ở đầu ra rạch Lò Gốm, người địa phương gọi là Hàng Bàng vì hai bên kinh có trồng dãy cây Bàng (giống như đường Hàng Xanh (đường Bạch Đàng); đường Hàng Keo (Phạm Đăng Lưu), nên cũng gọi là kinh Hàng Bàng. Trước khi hợp lưu với rạch Lò Gốm, có một cầu sắt đi bộ bắc ngang kinh, nguời địa phương gọi là cầu Kinh?
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 57: Không ảnh vị trí các kinh chánh trên kinh Bãi Sậy (Hàng Bàng). Ảnh chụp khoảng đầu thập niên 1950.
    Quang cảnh của kinh Bãi Sậy (Bonard) nhộn nhịp với khu nhà thương mại dọc hai bên kinh, với dân thương hồ và thuyền buôn vận chuyển hàng hóa, nông phẩm từ khắp nơi đến.
    Cầu Ba Miệng-Ba Chưn-Ba Cẳng

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 58: Cầu Ba Cẳng nhìn từ đường Trịnh Hoài Đức

    Cầu Ba Cẳng có tên gọi địa phương tùy thời khác nhau như Khâm Sai, Ba Miệng, Ba Chưn nhìn từ đường Trịnh Hoài Đức (con đường này chạy thẳng ở cuối rạch Bãi Sậy, hướng về Bưu Điện Chợ Lớn Quận 5). Đi về phía phải của Cầu Ba Cẳng trong hình này vài chục mét là tới chợ Kim Biên ngày nay, còn về phía trái ra kinh Tàu Hủ. Hình này chụp khoảng đầu thập niên 1950, ngày nay cầu này không còn nữa. Cái cẳng trong hình này là cẳng đi xuống đường Yunnan, tức Vân Nam (sau 1955 là đường Vạn Tượng), còn hai cẳng kia thì bắc qua hai con đường hai bên rạch Bãi Sậy: bên trái xuống bến Bãi Sậy, bên phải xuống bến Nguyễn Văn Thành nơi đầu đường Cambodge (sau 1955 là đường Kim Biên).
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 59: Ghe neo dọc theo đoạn kinh Bãi Sậy, hình chụp đứng trên cầu thang Gò Công

    Cầu Ba Cẳng ở Chợ Lớn, gần phía sau chợ Kim Biên nay không còn nữa. Cầu ở đầu đoạn rạch Bãi Sậy, nay lấp thành đường Bãi Sậy và Phạm Văn Khoẻ quận 6. Cầu Ba cẳng nằm ở khúc rẽ phải ra kênh Tàu Hủ, hai chân nằm ở bến Bãi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành và chân kia ở bến Vạn Tượng. Đoạn cuối rạch này vẫn chưa lấp, và cầu tồn tại đến năm 1990 thì bị sập.
    Saigon xưa nhiều kinh, rạch, ao hồ vừa có giá trị giao thương, vừa là chỗ thu nước tràn khi mưa lớn, triều cường. Người xưa (Pháp lẫn Việt) thiết kế hệ thống thoát nước Saigon – Chợ Lớn – Gia Định cho 500,000 dân để giảm thiểu lũ lụt. Ngày nay di dân từ khắp nơi nhất là từ Bắc, Bắc Trung, áp lực nhà cửa đem đến việc lấn chiếm, lấp, thay bằng cống hộp đã dẫn đến hậu quả “đường biến thành sông” mỗi khi mưa lớn kéo dài một hai giờ, tệ hại hơn nữa nếu đúng lúc triều cường.
    Ngày nay rạch Bãi Sậy đã hầu như bị lấp hoàn toàn. Phía sau chợ Kim Biên vẫn còn một đoạn rạch rất ngắn khoảng 30m, rộng 3m, trước đổ ra thẳng kênh Tàu Hủ. Cầu Palikao trở thành đường Ngô Nhân Tịnh. Cầu Ba Cẳng đã sập, không còn và rạch phía sau chợ Kim Biên đã bị lấp. Cầu Palikao được người Pháp đặt tên theo một cầu gần Bắc Kinh, gọi là Bát Lý Kiều (cầu tám dặm), nơi liên quân Anh-Pháp vào năm 1860 đánh với quân nhà Thanh.
    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 60: Cầu Ba Cẳng với ông Tàu bán gánh dạo

    Đây là tấm hình hiếm hoi còn sót lại của cầu Ba Cẳng, một cây cầu chẳng có mấy quan trọng, nhưng nó đã trở thành một phần của lịch sử Sài Gòn – Chợ Lớn xưa, với cái tên nghe thật dân dã và cũng có lắm chuyện xưa liên quan đến nó, như chuyện “Dân chơi cầu Ba Cẳng” của nhà văn Trương Đạm Thủy.
    Pont des 3 arches (Cầu Ba Cẳng) xây bởi công ty Brossard et Mopin (công ty này cũng xây Chợ Bến Thành ở Sài Gòn vào năm 1914). Nhà báo Nguyễn Văn Sâm và nhà bên vợ (em gái ông Trương Văn Bền) bỏ tiền đứng ra xây cầu.
    Cầu Gò Công

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 61: Cầu Gò Công
    Cầu có nấc thang cho người đi bộ bắc ngang kinh Bãi Sậy trên đường Gò Công.

    Cầu Palicao (Palikao) – Cầu Ngô Nhân Tịnh

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 62: Cầu Palikao. Hình chụp ghe sắp đi qua vòm giữa cầu Palikao hướng về cầu Ba Cẳng. (cầu Palikao có 3 vòm, xem hình 56)
    Người Pháp đã đặt tên là Palikao (Pinjin Bālǐqiáo), có lẽ là do hình dáng của nó đã gợi cho họ hình ảnh của cây cầu Bát Lý Kiều ở bên Tàu. Palikao là phiên âm Pháp ngữ tên tiếng Hán “Bát Lý Kiều”, tức là Cầu 8 Dặm – Eight-Mile Bridge, một cây cầu lịch sử ở Bắc Kinh, nơi đã diễn ra trận chiến ác liệt giữa liên quân Anh-Pháp và khoảng 30.000 quân Trung Hoa trong cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai, và họ đã chiếm được cầu này vào ngày 21-9-1860, dẫn tới chiếm được Bắc Kinh sau đó. Theo các sử gia, phía TQ tổn thất nặng nề, thương vong khoảng 25.000 quân trong khi phía Pháp chỉ bị thương vong 1.000 người.Cầu Bát Lý Kiều của Trung Quốc ngày nay :

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 63: Cầu Bát Lý Kiều, Baliqiao (Chinese: 八里桥; pinyin: Bālǐqiáo), Bắc Kinh (Trung Quốc)

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 64: Quang cảnh kinh Hàng Bàng (Bãi Sậy) nhìn từ trên cầu Palikao về phía cầu Gò Công, cầu Ba Cẳng

    Ngày xưa dưới chân cầu Palikao có rạp chuyên hát bội Palikao, nhưng cũng có gánh cải lương dọn về đây. Vùng này có nhiều cửa hàng của người Tàu, có món ăn rất đặc biệt gọi là “hầm dỉ Triều Châu” cá mặn nổi tiếng ở Chợ Lớn.(http://thatsonchaudoc.com/banviet2/L…y/QuachHen.htm)
    Theo bác Nguyễn Thành Long trong ban quản trị Nghĩa Nhuận hội quán gần rạch Bãi Sậy, mà tác giả đã có dịp tiếp xúc, thì giữa cầu Ba Cẳng và cầu Palikao xưa kia có 5 kiosque bán trà, chuối, nước giải lao cho các tàu đi trên rạch Bãi Sậy. Cầu Palikao bị dẹp và trở thành đường Ngô Nhân Tịnh vào năm 2003, cùng khoảng thời gian cầu Ba Cẳng bị sập và phá bỏ hoàn toàn (http://baotangnhanhoc.org/vi/bai-ngh…hoa-phn-1.html).

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 65: Rạp Hát Palikao ngày xưa trên đường Ngô Nhân Tịnh.

    Cầu Lò Gốm
    Cầu Lò Gốm bắc ngang rạch Lò Gốm ngày nay gần giao điểm với kinh Hàng Bàng.

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 66 : Cầu Lò Gốm
    Đây là đoạn kinh Hàng Bàng cuối cùng trươc khi trở thành đường Bến Lò Gốm.

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hinh 67: Kinh Bãi Sậy ngày nay, nhìn từ cầu đi bộ Gò Công.

    Cầu bắc ngang kinh Tẽ
    Kinh Tẽ được đào vào năm 1905 bắt đầu từ sông Sàigòn đến cầu Chữ Y nhằm đáp ứng nhu cầu lưu thông của thương thuyền buôn bán vào rạch Tàu Hủ. Gọi là Tẽ bới kinh tẽ từ sông Sài Gòn. Kinh dài 4360m
    Cầu Tân Thuận

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 68: Cầu Tân Thuận 1967

    Cầu Tân Thuận 1 nối đường Huỳnh Tấn Phát quận 7 với đường Nguyễn Tất Thành – quận 4. Cầu dài 241 m, lòng cầu rộng 8 m, mỗi lề 1,25 m. Cầu được xây từ thời Pháp thuộc sau khi đào kinh Tẽ năm 1905. Cầu được sửa chữa lớn năm 1992. Năm 2005, cầu lại xuống cấp, Sở Giao thông Công chánh thành phố giao cho Công ty Freyssinet International at Compagnie của Pháp tiến hành sửa chữa, nâng cấp cầu. Năm 2008, cầu lại tiếp tục được sửa chữa để nâng tải trọng lên 30 tấn. Hiện nay, cầu cho phép các loại xe lưu thông một chiều từ quận 7 sang quận 4.
    Cầu Tân Thuận đi xuống Phú Xuân, Nhà Bè chỉ có sau khi kinh Tẽ giáp nối sông Saigòn được đào thời Pháp khoảng 1905-06. Đoạn từ cầu chữ Y được đào song song với rạch Tàu Hủ người Pháp đặt tên là Canal de Doublement, được dịch ra là Kinh Đôi. Thời chưa có cầu, từ Saigon xuống Nhà Bè phải qua đò.
    Cầu Tân Thuận liên hệ với chuyện tiểu trừ lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn năm 1955.
    Ngày 13 tháng hai năm 1955, quân lính của tướng Cao Đài Trịnh Minh Thế chính thức sát nhập vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa, còn Trịnh Minh Thế nhận hàm thiếu tướng. Trong chiến dịch loại bỏ lực lượng Bình Xuyên, ông dẫn quân tiến đánh quân Bình Xuyên tập trung bên Cầu Tân Thuận.
    Trịnh Minh Thế ngồi xe Jeep đậu dưới dốc cầu Tân Thuận chỉ huy quân đội Cao Đài Liên Minh vượt cầu đánh quân Bình Xuyên đang xuống xà-lan rút ra Rừng Sác. Lễ xuất quân tảo thanh Bình Xuyên của tướng Thế diễn ra trên bãi đất trống ở rìa Đồng ông Cộ, không xa mấy chợ Bà Chiểu.
    Không có xe G.M.C. (loại xe chở lính của Mỹ viện trợ cho QLVNCH), Thế đã phải xung công xe chở heo để chở binh sĩ. Tại cầu Tân Thuận, lính Cao Đài mấy lần vượt cầu đều bị đánh bật lại. Chỉ huy quân Bình Xuyên ở bên kia cầu là Bảy Môn. Sau khi rút từ cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ Y, cầu Rạch Ông, Bảy Môn tập trung quân số cố thủ cầu Tân Thuận chặn quân Cao Đài tràn qua. Ông kết hợp súng cối của bộ binh và đại liên các giang đỉnh trên Kinh Tẻ bắn xối xả vào hai chục xe heo chở đầy lính Cao Đài ở bên kia cầu.
    Trong khi chỉ huy Tướng Trình Minh Thế bị một viên đạn carbin bắn tỉa bắn vào sau gáy. Vụ giết người này không bao giờ được làm sáng tỏ, một số người đổ lỗi cho phía Pháp, trong khi một số người khác cho rằng chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã làm việc này. Hoàn cảnh cái chết của ông cũng gây nhiều tranh cãi, khi có nhiều thông tin khác nhau, thậm chí đối lập nhau về thời gian, địa điểm, vết thương gây nên cái chết của ông. Sau khi chết, tên ông được đặt cho con đường ở Quận 4 Sài Gòn cho tới năm 1976. (http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%A…nh_Th%E1%BA%BF).
    Kinh Đôi (Canal de Doublement)
    Kinh Đôi được đào nổi tiếp Kinh Tẽ bắt đầu từ cầu chữ Y xuống đến sông Cần Giuộc khoảng 1896-8 song song với kinh Tàu Hủ nhằm đáp ứng nhu cầu thuận tiện hóa ghe thuyền chuyên chở nông phẩm từ miền Tây.
    Cầu Nhị Thiên Đường là cây cầu bắc qua kênh Đôi, thuộc địa phận Quận 8 hiện nay. Cầu được xây dựng vào những năm 1925 là điểm nguồn của Quốc lộ 50 và được đổ bê tông theo kiến trúc hiện đại. Cầu này nối liền lưu thông từ Chợ Lớn sang Cần Giuộc, Bình Chánh.

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 69: Cầu Nhị Thiên Đường trên kinh Đôi
    5-Kinh Vòng Thành-Canal de Ceinture.

    Kinh này được đào năm 1875 theo quy hoạch của Coffyn, mục đích tối hậu là nối rạch Thị nghè (Arroyo de l’Avalance) với kinh tàu Hủ (Arroyo Chinois) thông qua rạch Chợ Lớn (không nên nhầm với Kinh Tàu Hủ) để hoàn thành đường nước bao bọc, biến Saigon Chợ Lớn thành một cù lao-Bắc có rạch Thị Nghè (Arroyo de l’Avalanche) ; Nam có rạch Bến Nghé (kinh Tàu Hủ) Arroyo Chinois; Đông có sông Saigon (rivière de Saigon) và Tây có Kinh Vòng Thành (Canal de Ceinture).
    Theo báo cáo “Monographie de la Province de Gia-Định 1902”, kinh đào năm 1875, dài 7km, bề rộng 10m, sâu 3m, nhưng cho đến nay 1902, kinh chưa hề được xữ dụng vì nạn bùn lấp, vùng Phú Thọ đáy sông bùn lên cao hơn mực thủy triều.

    Những cây cầu xưa ở Sài Gòn - Chợ Lớn
    Hình 70: Bản đồ 1962 với Kinh Vòng Thành (Bao Ngạn)

    Khảo bản đồ Saigon Chợ lớn 1962, kinh Vòng Thành đầu nguồn từ chỗ giáp nước của Rạch Lò Gốm và rạch Chợ Lờn, cuối nguồn là rạch Cầu Kiệu gần cầu Công Lý – không phải là gần cầu Kiệu ở Phú Nhuận.
    Kinh Vòng thành đã được thực hiện năm 1875, nhưng sau đó đã bị bùn lấp nhanh chóng, nên không được xử dụng thực tế (Monographie de la Province de Gia- Định 1902, trang 19). Một vài đoạn kinh vẫn còn có nước – như đoạn trong bản đồ chạy ngang đồn Cây Mai (bây giờ là đường Nguyễn thị Nhỏ).
    Lò siêu ở sau đồn Cây Mai cũng dùng Kinh Vòng Thành để ra rạch Chợ Lớn. Nay rạch Kinh Vòng Thành đã cạn và lò siêu cũng thôi hoạt động (theo Vương Hồng Sển – Sàigon năm xưa 1960).

    Nguồn: Sưu Tầm (cafevannghe)

  • Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử

    Ảnh hiếm về cây cầu quay độc đáo của Sài Gòn xưa

    Cầu quay Khánh Hội là cây cầu quay duy nhất được xây dựng ở Việt Nam thời thuộc địa với thiết kế độc đáo, mang ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử Sài Gòn.

    Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử
    Bắc qua kênh Bến Nghé, gần bến nhà Rồng, cầu Khánh Hội là một cây cầu đặc biệt trong lịch sử Sài Gòn.Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử
    Cầu được xây năm 1904, người Pháp gọi là Le pont tournant, nghĩa là cầu quay.

    Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử
    Tên gọi này dựa theo thiết kế độc đáo, khiến cầu có thể quay khúc giữa để mở đường cho tàu thuyền qua lại.

    Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử
    Người Sài Gòn gọi cây cầu này là cầu quay Khánh Hội hoặc cầu Bắc Bình Vương.

    Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử
    Đây là cây cầu quay duy nhất được xây dựng ở Việt Nam thời thuộc địa.

    Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử
    Tuy nhiên, những vòng quay của cầu quay Khánh Khội chỉ kéo dài một vài thập niên.

    Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử
    Đến những năm 1940, cầu Khánh Hội trở thành cầu cố định, với tuyến đường sắt dẫn đến khu cảng được lắp đặt trên cầu. Ảnh: Cầu Khánh Hội năm 1948.

    Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử
    Trong khoảng cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960, cầu Khánh Hội từ thời Pháp thuộc được dỡ bỏ để xây cầu Khánh Hội mới bằng bê tông cốt thép. Ảnh: Cầu Khánh Hội năm 1967.

    Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử
    Cây cầu này tồn tại ở Sài Gòn cho đến những năm 2000. Ảnh: Cầu Khánh Hội năm 2005.

    Cầu quay Khánh Hội xưa, độc nhất và mang ý nghĩa lịch sử
    Năm 2006, cầu Khánh Hội trước 1975 được tháo dỡ. Một cây cầu mới được xây dựng lại với quy mô lớn hơn, phù hợp với quy hoạch của tuyến đại lộ Đông Tây.
    Ngày nay, cầu Khánh Hội được xem là 1 trong số 11 cây cầu trọng yếu trên toàn tuyến Đại lộ Đông – Tây