Category: Du lịch Việt Nam Travel

  • Những nhà thờ đẹp nhất Việt Nam

    Những nhà thờ đẹp nhất Việt Nam

    1.Nhà thờ lớn Hà Nội

    Nhà thờ được thiết kế theo phong cách kiến trúc Gothic trung cổ châu Âu, rất thịnh hành trong thế kỷ 12 và thời Phục Hưng ở châu Âu, làm theo mẫu của Nhà thờ Đức Bà Paris với những mái vòm uốn cong, rộng, hướng lên trời.

    Vật liệu xây dựng chính của nhà thờ là gạch đất nung, tường trát bằng giấy bổi. Nhà thờ có chiều dài 64,5m, chiều rộng 20,5m và hai tháp chuông cao 31,5m với những trụ đá to nặng bốn góc. Trên đỉnh là cây thánh giá bằng đá.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Phía sảnh trong nhà thờ, có một cửa đi lớn, hai cửa nhỏ hai bên tháp. Các cửa đi và toàn bộ các cửa sổ đều cuốn nhọn theo nghệ thuật Gothique, kết hợp với các cửa cuốn nhọn là những bức tranh Thánh bằng kính màu rất đẹp và hài hòa tạo ra nguồn ánh sáng tự nhiên bên trong lòng nhà thờ. Khu cung thánh được trang trí theo nghệ thuật dân gian truyền thống, chạm trổ hoa văn bằng gỗ sơn son thiếp vàng rất tinh vi độc đáo.

    2.Nhà thờ Bùi Chu

    Nhà thờ Bùi Chu là nhà thờ Công giáo Rôma, tọa lạc ở xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Bùi Chu là nhà thờ chính tòa của giáo phận Bùi Chu. Đây còn là nơi an nghỉ của 5 giám mục đã từng cai quản giáo phận.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Nhà thờ Bùi Chu được xây dựng dưới thời Pháp thuộc bởi giám mục Wenceslao Onate Thuận (1884) với chiều dài 78m, rộng 22m, cao 15m. Trải qua hơn 100 năm, ngôi nhà thờ vẫn đứng vững với những cột gỗ lim và những đường nét hoa văn mang dấu ấn kiến trúc phương Tây. Hàng năm vào ngày 8 tháng 8, ngày lễ quan thầy của giáo phận, có nhiều giáo dân tập trung về dâng lễ.

    3.Nhà thờ Phú Nhai

    Nhà thờ Phú Nhai là nhà thờ Công giáo Rôma thuộc Giáo phận Bùi Chu, Việt Nam. Nhà thờ Phú Nhai nằm ở trung tâm của xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, cách thị trấn Xuân Trường hơn 1 km. Đây là một trong những ngôi nhà thờ có diện tích rộng lớn nhất Việt Nam.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Nhà thờ gốc có phong cách kiến trúc Gothic đậm dấu ấn Tây Ban Nha, sau được xây lại theo phong cách kiến trúc Gothic kiểu Pháp. Nhà thờ có kích thước: dài 80 mét, rộng 27 mét, cao 30 mét. Hai tháp chuông cao 44 mét đặt 4 quả chuông được đúc từ Pháp chuyển sang với trọng lượng là: 2.000 kg – 1.200 kg – 600 kg và 100 kg.

    Mặt tiền nhà thờ từ ngoài vào, bên phải có tượng đài Thánh Đaminh cao 17m, riêng phần tượng cao 2,3m. Bên trái có Lăng lưu trữ hài cốt của 83 người tử đạo thuộc họ đạo xứ Phú Nhai cao 15m. Xung quanh nhà thờ có các phù điêu thể hiện 14 Đàng Thánh Giá. Khi khách tham quan đứng trên ngọn tháp cao của nhà thờ Phú Nhai sẽ được chiêm ngưỡng được toàn cảnh của Huyện Xuân Trường. Năm 2008 Đền thánh Phú Nhai được nâng lên thành Tiểu Vương cung Thánh đường

    4.Nhà thờ Bác Trạch

    Nhà thờ Bác Trạch ở huyện Tiền Hải, Thái Bình. Nhà thờ được khởi công xây dựng năm 2006, khánh thành năm 2013, chi phí xây dựng lên tới 60 tỷ VNĐ, cách trung tâm thành phố Thái Bình khoảng 25km. Nhà thờ được xây dựng theo kiến trúc Gothic với nhiều ô cửa, nhiều tháp nhọn, vòm cung nhọn.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Đây được coi là nhà thờ vào loại đẹp nhất Việt Nam, là tuyệt tác kiến trúc của Thái Bình, một kỳ công về kiến trúc Gothic ở Việt Nam, vốn được thấy nhiều dấu ấn nhất trong các nhà thờ lớn, các vương cung thánh đường.

    Nhà thờ có chiều dài 92,5m, rộng 32m, tháp chuông cao 61m. Để xây dựng nên thánh đường nguy nga, tráng lệ này, các thợ xây đã phải sử dụng tới 46 vạn gạch, khoảng 350 tấn sắt, hơn 500 tấn vôi, gần 3000 tấn xi măng, 1000 m2 đá các loại, hơn 120 tấm kính tranh; gần 100 tượng tròn, phù điêu các loại cùng nhiều vật dụng, nguyên liệu khác.

    5.Nhà thờ gỗ Kon Tum

    Nhà thờ chính tòa Kon Tum hay còn được gọi là nhà thờ Gỗ, là nhà thờ Giáo hội Công giáo nằm ở thành phố Kon Tum, Việt Nam. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1913 do các linh mục người Pháp khởi xướng, hiện nay dùng làm nhà thờ chính tòa, nơi đặt ngai tòa của vị giám mục giáo phận Kon Tum.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Nhà thờ được xây dựng theo kiến trúc Roman kết hợp với kiến trúc nhà sàn của người Ba Na, một sự kết hợp giữa phong cách châu Âu và nét văn hóa của Tây Nguyên Việt Nam.

    Nhà thờ được xây dựng hoàn toàn bằng phương pháp thủ công với chất liệu hoàn toàn bằng gỗ, trong đó chiếm số lượng nhiều nhất là gỗ cà chít. Các bức tường của nhà thờ đều được xây bằng kiểu vữa trộn rơm, một kiểu làm nhà truyền thống ở miền Trung Việt Nam.

    6.Nhà thờ Đức Bà

    Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn (gọi tắt là Nhà thờ Đức Bà) là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, một trong những công trình kiến trúc độc đáo của Sài Gòn, điểm đến của du khách trong và ngoài nước, nét đặc trưng của du lịch Việt Nam. Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Toàn bộ chiều dài thánh đường là 93m. Chiều ngang nơi rộng nhất là 35 m. Chiều cao của vòm mái thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người. Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích.

    7.Nhà thờ Sở Kiện

    Auto Draft

    Vương cung thánh đường Sở Kiện, còn được gọi là Nhà thờ Kẻ Sở (Dôme de Sở Kiện) là một nhà thờ Công giáo Rôma thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội, tọa lạc ở thị trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Việt Nam.

    Ngày 24 tháng 6 năm 2010, Tòa Thánh với sắc lệnh của Thánh Bộ Phụng Tự đã nâng nhà thờ Sở Kiện thành tiểu vương cung thánh đường tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tên “Sở Kiện” là ghép từ tên của làng Sở (hay Ninh Phú) phía đông chuyên làm ruộng và làng Kiện (hay Kiện Khê) chuyên nghề buôn bán, nung vôi.

    Quần thể Sở Kiện gồm có nhà thờ chính, tòa Giám mục và chủng viện. Nhà thờ Sở Kiện theo kiến trúc Gothic, được Giám mục Tông tòa Tây Đàng Ngoài Puginier Phước cho khởi công xây dựng vào ngày 23 tháng 10 năm 1877 và hoàn tất vào năm 1882.

    Đây là công trình khá đồ sộ, toàn bộ nền được lót gỗ lim để chống sụt lún. Nhà thờ dài 67,2 mét, rộng 31,2 mét và cao đỉnh 23,2 mét, mang tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Với 4 hàng cột, chia làm 5 gian dọc, nhà thờ có thể chứa từ 4 đến 5 nghìn người.

    Theo Thethaovanhoa.vn

  • Vẻ đẹp kỳ vĩ của vịnh Vũng Rô

    Vẻ đẹp kỳ vĩ của vịnh Vũng Rô

    Do được bao quanh bởi ba dãy núi cao hiểm trở, vịnh Vũng Rô của Phú Yên là nơi có khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ khiến lòng người ngây ngất.

    Auto Draft

    Thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên, vịnh Vũng Rô là một thắng cảnh nổi tiếng của khu vực Nam Trung Bộ.

    Auto Draft

    Vịnh có diện tích 16,4 km² mặt nước, nằm tiếp giáp với biển Đại Lãnh thuộc vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa, được ba dãy núi cao che chắn là Đèo Cả, Đá Bia và Hòn Bà từ ba phía Bắc, Đông và Tây.

    Auto Draft

    Do được bao quanh bởi những dãy núi cao hiểm trở, vịnh Vũng Rô là nơi có khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ khiến lòng người ngây ngất.

    Auto Draft

    Phía Nam vịnh là đảo Hòn Nưa cao 105 m với những vách đá dựng đứng như một pháo đài. Trên đảo có ngọn đèn biển lớn.

    Auto Draft

    Ven bờ vịnh Vũng Rô có nhiều bãi cát vừa và nhỏ, trong đó có một số bãi đẹp như Bãi Chùa, Bãi Bàng, Bãi Lau.

    Auto Draft

    Trong lòng vịnh có nhiều loại tôm cá trú ngụ, là cơ sở cho sự phát triển của nghề nuôi trồng, đánh bắt hải sản ở nơi đây,

    Auto Draft

    Sự hiện diện với mật độ lớn của các nhà bè nuôi cá làm nên nét đặc trưng của vịnh Vũng Rô so với so với các vịnh biển khác ở Việt Nam.

    Auto Draft

    Không chỉ là thắng cảnh đẹp, vịnh Vũng Rô còn là một di tích lịch sử gắn với huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển.

    Auto Draft

    Từ năm 1964 – 1965, vịnh là địa chỉ tiếp nhận vũ khí bí mật từ miền Bắc chuyển vào Nam qua những chuyến tàu không số lịch sử.

    Auto Draft

    Trong giai đoạn này, Vũng Rô đã tiếp nhận bốn chuyến tàu cập bến an toàn, đưa được hàng ngàn tấn vũ khí đạn dược chi viện cho chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

    Auto Draft

    Ngày nay, tận dụng cảnh quan và vị trí địa lý thuận lợi của vịnh, nhiều loại hình du lịch đã được phát triển như tắm biển, thưởng thức hải sản ở nhà bè, khám phá vịnh bằng ca nô, lặn ngắm san hô…

    Auto Draft

    Ngoài tiềm năng du lịch, vịnh Vũng Rô là một trong ba địa điểm có điều kiện tự nhiên tốt nhất tại Việt Nam để xây dựng cảng biển lớn, bên cạnh vịnh Cam Ranh và vịnh Vân Phong của tỉnh Khánh Hòa.

    Auto Draft

    Nhằm khai thác lợi thế này, cảng Vũng Rô và khu kinh tế Nam Phú Yên đã được thành lập.

    Auto Draft

    Một số hình ảnh khác về vịnh Vũng Rô.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Theo KIẾN THỨC

  • Du lịch khám phá kinh thành Huế

    Du lịch khám phá kinh thành Huế

    Nét trầm mặc cổ kính, đêm Hoàng Cung huyền diệu tái hiện lịch sử của chốn lầu son hay những lời ca ngọt ngào trên sông Hương đã tạo nên một Huế mộng mơ hấp dẫn du khách.

    1. Di tích cung đình còn nguyên vẹn nhất ở Việt Nam

    Nếu bạn từng đến cố đô Hoa Lư (Nình Bình), Cổ Loa, Thăng Long (Hà Nội), những nơi từng là kinh đô của nước Việt Nam, giờ đã trở thành phế tích, sẽ thấy quần thể di tích cố đô Huế vẫn còn được bảo tồn một cách nguyên vẹn nhất. Với cung điện, thành trì, đàn miếu, lăng tẩm, chùa chiền và nhiều nhà vườn có tuổi đời vài trăm năm… cố đô Huế mang trong mình vẻ đẹp thanh bình, yên tĩnh.

    Cố đô Huế lung linh trong đêm. Ảnh: Quang Nguyên

    Du khách đến Huế sẽ được chiêm ngưỡng những kiệt tác nghệ thuật của cung điện vàng son, đền đài lăng miếu lộng lẫy, lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam thắng cảnh trầm mặc. Bên cạnh đó, Huế cũng không kém phần nhộn nhịp đông đúc, là nét hấp dẫn khi muốn tìm một chốn thanh tịnh nhưng không quá u buồn.

    2. Công trình kiến trúc quân sự

    Kinh thành Huế được xây dựng dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng, toạ lạc ở phía Bắc sông Hương, mặt quay về hướng Nam. Kinh thành Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc kiến trúc truyền thống Việt Nam, tư tưởng triết lý phương Đông với thuyết âm dương ngũ hành cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng kiến trúc quân sự phương tây.

    3. Lăng tẩm vua chúa độc đáo nhất

    Lăng tẩm của các vua triều Nguyễn tuân theo đúng nguyên tắc phong thủy như: sông, núi, ao, hồ, khe suối. Bố cục mặt bằng khu lăng tẩm nào cũng chia làm hai phần chính: phần lăng và phần tẩm. Khu vực lăng chôn thi hài nhà vua, khu vực tẩm là chỗ xây nhiều miếu, điện, lầu gác, đình….để nhà vua lúc còn sống thỉnh thoảng rời hoành cung lên đây tiêu khiển. Chính vì vậy, mỗi lăng tẩm Huế, chẳng những là di tích lịch sử văn hoá mà còn là một thắng cảnh, một đoá hoa nghệ thuật kiến trúc độc đáo, riêng biệt giữa chốn núi đồi xứ Huế.

    4. Hệ thống báu vật cung đình quý giá nhất còn được lưu giữ

    Nằm trong Thành Nội, Bảo tàng cổ vật cung đình Huế được thành lập vào năm 1923, với tên đầu tiên là Musee’ Khải Định. Sau đó, nó đã năm lần được thay đổi tên và đến năm 1993, được đổi tên thành Bảo tàng cổ vật cung đình Huế.

    Tại bảo tàng này, bạn sẽ được chiêm ngưỡng và tìm hiểu về hàng nghìn hiện vật gồm đồ gốm sứ, gỗ , đồng, pháp lam, đá, xương, ngà, sừng, điêu khắc trên đá… được trưng bày tại đây.

    5. Phục dựng thành công một số lễ hội cung đình đặc sắc

    Lễ tế xã tắc được tái hiện ở Huế. Ảnh: thethaovanhoa.

    Lễ hội cung đình ở Huế xưa kia là những cuộc lễ mang tính quốc gia, do nhà nước đứng ra tổ chức và thực hiện. Có hàng chục lễ hội lớn nhỏ khác nhau được cử hành hàng năm ở đất thần kinh. Chúng đã được triều đình quy định rất chặt chẽ và nghiêm túc, thậm chí được ghi thành điều lệ. Từ vua quan đến dân chúng, từ hoàng gia đến dân chúng đều phải tuân thủ những điều lệ nghiêm ngặt ấy. Ngày nay, du khách đến Huế sẽ được xem những màn tái hiện lại một số lễ hội cung đình.

    6. Nhã nhạc cung đình

    Nhã nhạc cung đình, một trong những nét đẹp văn hoá nghệ thuật độc đáo của xứ Huế đã được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Đây là dòng nhạc cung đình truyền thống phương đông còn bảo lưu duy nhất ở cố đô này. Du khách có thể thưởng thức những tài năng âm nhạc với những nhạc khí được chế tạo công phu được trình diễn ở Huế.

    Trước đây, thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến này được biểu diễn vào các dịp lễ hội như vua đăng quang, vua băng hà hay các lễ hội tôn nghiêm khác trong 5 triều đại nhà Nguyễn.

    7. Đêm hoàng cung

    Vào mỗi dịp Festival Huế, thành cũ, mái đình rêu phong cổ kính của Đại Nội – Huế về đêm được thắp lên ánh sáng lung linh huyền ảo. Từ cửa Ngọ Môn, cổng chính của khu vực Đại Nội (Hoàng thành Huế), du khách sẽ thấy cờ xí được bày trí, đèn lọng uy nghiêm, hàng lính cấm vệ trong sắc phục truyền thống… Đó là sự tái hiện cuộc sống phồn hoa của chốn hoàng cung khi màn đêm buông xuống. Du khách sẽ được thả hồn mình vào một không gian huyền ảo khói sương với mùi trầm hương nghi ngút, như được sống trong không gian hoàng cung đầy huyền hoặc.

    8. Ca Huế trên sông Hương

    Ca Huế là một món ăn tinh thần quý giá, một thú vui tao nhã mà bất cứ du khách nào đến Huế cũng đều muốn có dịp được được thưởng thức. Du thuyền lướt nhẹ trên sông Hương dưới ánh trăng thơ mộng hay dưới ánh đèn thắp sáng lung linh ở hai bên bờ sông, còn gì tuyệt vời khi được nghe ca Huế.

    Đêm ca Huế trên sông Hương thường được bắt đầu từ 7h tối. Đò nghe ca Huế được thả trên sông đoạn từ Phu Văn Lâu đến cầu Tràng Tiền, đi ngang qua kinh thành để du khách có dịp trải nghiệm những góc nhìn độc đáo về văn hóa lịch sử ở đất cố đô.

    9. Ẩm thực cung đình

    Những món ăn màu sắc được trình bày rất hấp dẫn. Ảnh: A. Thư

    Nói đến ăn uống xứ Huế, người ta thường nghĩ đến lối ăn cung đình, một phong cách ẩm thực được hình thành để phục vụ triều đình nhà Nguyễn trong hơn một thế kỷ đóng đô ở đây. Nền ẩm thực cung đình Huế luôn biểu hiện sự tinh túy, cầu kỳ, trang nhã và thanh cao. Người Huế vẫn giữ được một phần hình ảnh ăn uống chốn cung đình xưa, vì vậy đến Huế bạn sẽ được thưởng thức những tinh hoa của ẩm thực.

    Theo Vne

  • Thác Pongour – ngọn thác 7 tầng đẹp nhất miền Nam Việt Nam!

    Thác Pongour – ngọn thác 7 tầng đẹp nhất miền Nam Việt Nam!

    Thác Pongour hay còn gọi là thác 7 tầng, đây là ngọn thác đẹp nhất của vùng Tây Nguyên. Thác tọa lạc tại huyện Đức Trọng cách thành phố Đà Lạt khoảng 50km về hướng Nam trên quốc lộ 20.

    Thác Pongour đổ từ một vách đá cao hơn 40 xuống một thung lũng sâu, chiều rộng của vách đá hơn 100m với nhiều khe nước chảy từ đỉnh thác trông rất hùng vĩ. Bao quanh khu vực thác Pongour là những khu rừng nguyên sinh và các bãi đá xen giữa dòng nước chảy ra từ thác rất ngoạn mục và xinh đẹp. Ngoài tên gọi thác Pongour ngọn thác xinh đẹp này còn có tên gọi khác là thác 7 tầng vì làn nước đổ từ đỉnh thác xuống thung lũng chảy qua hệ thống đá bậc thang cao 7 tầng.

    Thác Pongour - ngọn thác 7 tầng đẹp nhất miền Nam Việt Nam!Một góc sự hùng vĩ của thác Pongour .

    Truyền thuyết về thác Pongour.

    Ngày xưa, vùng đất tọa lạc thác Pongour hiện nay có một nữ tù trường người K’Ho rất xinh đẹp tên là Kanai. Nàng Kanai có tài chinh phục các loại thú dữ, trong số đó có 4 con tê giác khổng lồ luôn tuân lệnh của nàng dời don, ngăn suối phục vụ cho cuộc sống người dân trong buôn làng luôn no ấm và hạnh phúc. Khi có chiến tranh xảy ra, cả 4 con tê giác đều xông trận bảo vệ buôn làng. Bỗng một ngày đầu mùa xuân, đúng ngày trăng rằm tháng giêng âm lịch nàng vì bệnh nặng đã trút hơi thở cuối cùng xa lìa trần thế về cõi vĩnh hằng. 4 con tê giác vì thế mà đau buồn không ăn uống cho đến chết. Một buổi sáng bình minh đẹp trời, người dân trong buôn làng bỗng thấy nơi nàng Kanai yên nghĩ hiện lên một ngọn thác sừng sững đẹp tuyệt trần, nước của ngọn thác tung bọt trắng xáo, những tầng đá xếp gọn gàng từ trên xuống dưới cho dòng thác đổ, thì ra cặp sừng của những con tê giác đã hóa thạch làm bàn cho suối tóc của Kanai biến thành làn nước trong xanh đỗ xuống chân thác. Câu chuyện này được kể lại qua nhiều đời như một truyền thuyết về ngọn thác Pongour hùng vĩ và cũng là một lời nhắn nhũ cho sức mạnh đoàn kết, gắn bó bất tử giữa con người và thiên nhiên vạn vật.

    Thác Pongour - ngọn thác 7 tầng đẹp nhất miền Nam Việt Nam!Toàn cảnh thác Pongour hiện nay.

    Tên gọi thác Pongour là do người Pháp đọc trệch tiếng của người K’Ho bản địa,  Pon-gou có nghĩa là ông chủ của vùng đất sét trắng vì khu vực chung quanh thác Pongour có rất nhiều kaolin, một trong những nền đất đế sản xuất đồ gốm sứ nổi tiếng.

    Thác Pongour là ngọn thác duy nhất ở Việt Nam có ngày lễ hội rằm tháng giêng hàng năm. Vào thời gian này, các nam thanh nữ tú khắp nơi đổ về đây tham gia lễ hội đầu xuân, đây là dịp để mọi người giao lưu, sống cởi mở, chân tình và tự do tìm hiểu yêu mến nhau.

    Giá vé tham quan thác Pongour hiện nay là 10 000đ/1 người. Du khách đến đây sẽ đi bộ một đoàn đường lát đá khoảng 500m để xuống chân thác hoặc có thể đi đường tắt dốc hơn dài khoảng 200m. Đến đây tham quan du lịch, du khách nên chú ý không leo trèo lên các vách đá rất trơn trượt và nguy hiểm.

    Theo dalattrongtoi

  • Những poster du lịch rất độc đáo ở Đông Dương thời thuộc địa

    Những poster du lịch rất độc đáo ở Đông Dương thời thuộc địa

    Loạt poster du lịch rất sinh động này được in vào những năm 1930-1931 nhằm giới thiệu những nét hấp dẫn của Đông Dương thời thuộc địa.

    Hình ảnh được giới thiệu trên trang Picturethiscollection.com

    Tấm áp phích này khắc họa nét thơ mộng của Huế với những công trình kiến trúc cổ cùng tà áo dài duyên dáng của thiếu nữ xứ Kinh Kỳ.

    Nét hoang sơ của vịnh Hạ Long, kỳ quan số một của xứ Đông Dương thời thuộc địa.

    Khung cảnh đồng bằng sông Hồng hiện lên cùng những cô thôn nữ gánh gạo – sản vật nổi tiếng với chất lượng cao ở vùng đất này.

    Tấm áp phích này thể hiện những nét đặc trưng của xứ Nam Kỳ với những hàng dừa soi bóng bên bến sông.

    Nét đặc sắc của Phnompenh, Campuchia với những điệu múa Khmer, chùa tháp cổ kính cùng những chú voi diễu hành trong mùa lễ hội.

    Một hình ảnh mang tính biểu tượng khác của Campuchia: Ngôi đền Bayon cổ kính.

    Nghi lễ rước tượng đầu năm mới ở Wat Si Saket, một ngôi chùa Phật giáo ở Viêng Chăn, Lào. Được xây dựng vào năm 1818, đây là ngôi chùa cổ nhất còn lại ở Vientiane thời điểm đó.

  • Những cây cầu ngói đẹp ở Việt Nam

    Được xây dựng đã lâu nhưng các cây cầu độc đáo ở Huế, Hội An, Nam Định… vẫn giữ được nét đẹp kiến trúc thuở ban đầu.

    Chùa Cầu được chọn là biểu tượng của thành phố Hội An, xuất hiện trên tờ 20.000 đồng. Đây là công trình do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Việt Nam xây dựng vào thế kỷ 17. Cầu dài khoảng 18 m, vắt qua lạch nước chảy ra sông Thu Bồn.

    Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ. Ở gian chính giữa có tượng Bắc Đế Trấn Vũ – thần chuyên trấn trị lũ lụt.

    Ở làng Bình Vọng (xã Văn Bình, Thường Tín, Hà Nội) có cây cầu 5 gian lợp ngói bắc qua ao đình.

    Trên cầu, hai bên là dãy bục gỗ để cho khách bộ hành nghỉ chân.

    Cầu ngói ở xã Hải Anh (Hải Hậu, Nam Định) được xây dựng vào thế kỷ 16.

    Cầu có 9 gian uốn cong được dựng trên 18 cột trụ đá vững chắc, có phần hành lang hai bên để cho khách bộ hành nghỉ chân.

    Ở khu vực chùa Thầy (Hà Nội) có hai cây cầu ngói do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602.

    Cầu Nhật Tiên dẫn vào đảo giữa hồ, trên có đền Tam Phủ.

    Cầu Nguyệt Tiên nối với con đường lên núi.

    Cùng với nhà thờ Đá, cầu ngói Phát Diệm cũng là công trình kiến trúc dân gian đặc sắc ở vùng Kim Sơn (Ninh Bình).

    Cầu dài 36 m, rộng 3 m với 3 nhịp, mỗi nhịp có 4 gian.

    Cầu ngói Thanh Toàn (thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên – Huế) cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7-8 km. Thân cầu được làm bằng gỗ, phía trên lợp mái ngói ống tráng men.

    Cầu dài khoảng 17 m, rộng 4 m và được chia làm 7 gian với gian giữa là nơi thờ bà Trần Thị Đạo, người góp tiền xây cầu cho dân làng tiện đường qua lại vào thế kỷ 18.

    Lê Bích – KTS Nguyễn Phú Đức

  • Hướng dẫn viên Trung Quốc có xuyên tạc lịch sử Việt Nam?

    Hướng dẫn viên Trung Quốc có xuyên tạc lịch sử Việt Nam?

    Ngoài vụ công bố nguyên nhân cá chết đang nóng trên mạng xã hội hiện nay mà ai cũng biết nguyên nhân từ lâu thì vụ việc Hướng dẫn viên người Trung Quốc nói: “14 thế kỷ trước Việt Nam thuộc một bộ phận phía bắc Trung Quốc. Sau này Việt Nam đã độc lập rồi tự thành lập một quốc gia, nhưng nó vẫn là quốc gia phụ thuộc, phải triều cống cho Trung Quốc”. đang nóng trên mạng xã hội hiện nay.

    Nó được nhiều người Việt phản ứng gay gắt, lịch sử lại một lần nữa được nhắc đến dù nó bị cố tình lãng quên bấy lâu nay. Nhiều người điên tức vì câu nói không có gì sai trên, như tôi đã nói từ lâu người Việt nên học lại lịch sử từ căn bản. Dù rất ghét TQ nhưng HDV này nói có sai gì đâu mà phản ứng gay gắt như vậy. 14 thế kỷ trước rơi vào thế kỷ 7 sau công nguyên, lúc này Việt Nam có tên là An Nam đô hộ phủ thuộc triều đại nhà Đường. Đất nước chúng ta đã bị xóa sổ trên bản đồ thế giới (nếu có) cả mấy trăm năm trước. Cụ thể, sau vụ án “đẫm nước mắt” Mỵ Châu, nhà nước tự chủ Âu Lạc đã bị Nam Việt của Triệu Đà thôn tín năm 179 TCN. Ngày nay, có nhiều sử gia đặt lại vấn đề nguồn gốc của Triệu Đà và nước Nam Việt, phải chăng đó là một cuộc nội chiến của các cư dân Bách Việt, cái này nếu có thời gian, mình sẽ biên ở bài sau. Như vậy, Việt Nam đã mất nước chí ít từ năm 179 TCN hoặc muộn hơn là năm 111 TCN khi nhà Hán xâm lược và thôn tín nước Nam Việt vua họ Triệu. Đất nước ta trở thành quận huyện của TQ, lần lượt bị cai trị bởi các triều đại phong kiến phương Bắc và bị đổi thành các tên gọi khác nhau. 14 thế kỷ trước rõ ràng Việt Nam đã bị TQ xâm lược và đô hộ và sự thật không thể chối cãi đó là đất của Trung Quốc. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì dân Việt lúc đó là công dân mang quốc tịch Trung Quốc. Có quyền và nghĩa vụ như người TQ ở khắp mọi nơi khác. Rất nhiều người Việt đã đóng góp vào sự phát triển thịnh vượng của nhà Đường, nhiều sĩ tử gốc Việt đỗ đạt và làm quan dưới thời Đường. Trong xã hội, văn hóa Trung Quốc có sức ảnh hưởng mạnh mẽ, sự đồng hóa ngày một tăng cao.

    tranh vẽ lịch sử việt nam thời kỳ Hồng Bàng
    tranh vẽ lịch sử việt nam thời kỳ Hồng Bàng

    Ngày càng có nhiều người Việt, chủ yếu thuộc tầng lớp trung lưu học tập văn hóa TQ như viết chữ Hán, nói tiếng Trung, ăn mặc theo văn hóa Hán… tiếng Việt vẫn được bảo tồn và gìn giữ trong các làng xã nhưng nó vẫn bị biến thể theo thời gian (ngôn ngữ gốc người Việt hiện nay có thể là tiếng Mường ở vùng núi Thanh Hóa, Phú Thọ). Chúng ta dễ dàng nhận ra trong phương ngữ của mình có tiếng Hán và chúng ta đã vay mượn rất nhiều từ Hán Việt. Trong mỗi cái tên người Việt hiện nay, trên 95% là không thuần Việt nữa.

    Song song với quá trình hóa đó là quá trình di dân Trung Quốc sang Việt Nam, nên đã có sự lai tạo giữa các giống người với nhau. Cứ tưởng tượng người Việt lúc đó như các bộ tộc người dân tộc thiểu số hiện nay đang sinh sống trên đất nước ta. Họ vẫn bảo tồn tiếng nói và văn hóa cũng mình đồng thời sử dụng tiếng Kinh (tiếng Việt) là ngôn ngữ thứ hai của họ. Khác với những bộ tộc này, người Việt có nền tảng văn hóa mạnh hơn, do đã có quốc gia độc lập khoảng 6,7 thế kỷ mới bị mất nước nên ý thức đấu tranh giành độc lập rất quật cường. Với lũy tre làng người Việt đã gìn giữ văn hóa của mình rất quyết liệt. Có thể nói, giai đoạn này chúng ta mất nước mà không mất làng. Với câu nói của vị hướng dẫn viên trên chẳng có gì sai cả.

    Vế thứ 2 anh ta bảo “Sau này Việt Nam đã độc lập rồi tự thành lập một quốc gia, nhưng nó vẫn là quốc gia phụ thuộc, phải triều cống cho Trung Quốc”. Cái này lại càng không sai. Bởi mặc dù giành được độc lập nhưng trên phương diện ngoại giao Việt Nam vẫn thần phục và triều cống cho thiên triều. Năm 905, Khúc Thừa Dụ giành lại quyền độc lập tự chủ, nhưng Ông cũng chỉ là một tiết độ sứ trong triều đình nhà Đường. Cháu của Ông là Khúc Thừa Mỹ cũng xưng là tiết độ sứ thần phục nhà hậu Lương. Năm 938, Ngô Quyền đánh tan 2 vạn quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Sau đó tự xưng là Ngô Vương chứ chưa dám xưng Đế. Về sau, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, họ Lý, họ Trần đều xưng thiên tử với thần dân của mình nhưng trong các chiếu thư cầu sắc phong đều xưng vương với các hoàng đế TQ và vẫn cống nạp đều đặn. Các vua Lý, Trần cứ vài ba năm là được sắc phong từ nhỏ đến lớn về cuối đời mới được phong là An Nam Quốc Vương. Khi Lê Lợi quét sạch bóng quân Minh trên lãnh thổ nước ta, “không may” giết chết Liễu Thăng. Minh chủ được Lê Lợi dựng lên lúc bấy giờ là Trần Cảo. Sau đó, Lê Lợi cho giết chết vị minh chủ này và sang nhà Minh cầu phong. Bảo là Trần Cảo đã chết, dòng dõi họ Trần đã tuyệt tự. Nhân dân trong nước muốn Lê Lợi làm vua. Và để được sắc phong từ hoàng đế Đại Minh, họ Lê phải chấp nhận điều kiện cứ 3 năm một lần phải cống nạp tượng vàng Liễu Thăng để để đền “tội”. “truyền thống” cống nạp này duy trì đến thời Nguyễn Huệ mới được bãi bỏ.

    Năm 1592, họ Trịnh đánh đuổi họ Mạc ra khỏi Thăng Long, phải chạy lên Cao Bằng. Họ Trịnh có ý định đánh lên, nhưng họ Mạc đã nhờ nhà Minh can thiệp nên mới giữ được đất Cao Bằng. Mãi cho đến sự biến Ngô Tam Quế, họ Trịnh mới dám đánh Cao Bằng, xóa sạch tàn dư nhà Mạc ở đây. -Hay việc, các chúa Nguyễn sau một thời gian dài mở đất ở Đàng Trong, lúc đầu vẫn xưng thần với Lê – Trịnh, nhưng đến thời chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương và sai người sang Trung Quốc xin được chấp nhận. Nhưng nhà Thanh không chấp nhận yêu cầu này do đã công nhận vua Lê ở Đàng Ngoài. Về sau, ta thấy tên tướng bại trận Sầm Nghi Đống vẫn được vua Quang Trung cho lập đền thờ.

    Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
    Kìa đến thái thú đứng cheo leo.
    Ví đây đổi phận làm trai được,
    Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
    (thơ Hồ Xuân Hương)

    Quang Trung sau khi đánh tan tác đội quân của Tôn Sĩ Nghị cũng phải sai sứ sang nhà Thanh cầu phong, phân bua “tội” của mình.
    Dưới thời nhà Nguyễn, Năm 1804 Gia Long sai sứ sang xin sắc phong, đặt tên nước là Nam Việt. Nhà Thanh chuẩn y nhưng đổi tên nước thành Việt Nam do lo sợ nhà Nguyễn có ý định đòi lại Lưỡng Quảng thời họ Triệu. Cái quốc hiệu của chúng ta cũng bị nhà Thanh đổi, cho thấy sự phụ thuộc phần nào trong quan hệ giữa hai nước. Việc sứ giả Trung Quốc vào tận kinh đô Huế để đưa chiếu chỉ thôi đã được nhà Nguyễn đánh giá là một bước thắng lợi lớn trên quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Về nội trị, Việt Nam hoàn toàn độc lập nhưng khi quan hệ với các nước khác có sự phụ thuộc không nhỏ với Trung Quốc. Phải dùng ấn chỉ của nhà Thanh ban cho mới có tính chất pháp lý. Nhà Nguyễn có 2 ấn tỷ, 1 dùng trong nước, 2 dùng với với nước ngoài (ấn này do Trung Quốc đưa sang và buộc phải dùng).

    Như vậy, Việt Nam rơi vào ách Bắc thuộc hơn một thiên niên kỷ, lúc đó Việt Nam đã bị xóa sổ hoàn toàn. Nói Việt Nam thuộc Trung Quốc là không sai. Về sau, Việt Nam giành độc lập tuy nhiên phải giữ quan hệ hòa hiếu với Trung Quốc. Trong khi chưa có ranh giới và chủ quyền như hiện nay, việc các triều đại phong kiến lấn chiếm, nuốt chửng lẫn nhau là điều bình thường. Việc giữ quan hệ hòa hiếu, cúng nạp và thần phục Trung Quốc là điều tất yếu.

    Không chỉ riêng Việt Nam mà Lào, Cam-puchia, Thái Lan, Nhật Bản, Triều Tiên… đều thần phục và cúng nạp thiên triều Trung Quốc. Trong quan hệ bang giao giữa hai nước vua Việt xưng thần với vua Trung Quốc. Việc các triều đại phong kiến Việt Nam thân phục và cúng nạp Trung Quốc không có gì là xấu hổ. Đó là một chiến lược ngoại giao khôn khéo của tiền nhân. tránh được hiểm họa xâm lăng từ quốc gia to lớn láng giềng. Nhưng không phải triều cống, thần phục có nghĩa là ông cha ta sợ Trung Quốc. Mỗi khi có họa xâm lăng, truyền thống yêu nước liền trổi dậy và lịch sử cho thấy, chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong công cuộc bảo về nền độc lập của Trung Quốc.

    Sự thần phục vào thiên triều kéo dài gần một thiên niên kỷ cho đến khi hiệp ước Thiên Tân được ký kết giữa Pháp và Trung Quốc. Kể từ đó, nhà Nguyễn cắt đứt mọi sự lệ thuộc vào thiên triều. Quan hệ giữa hai nước là bình đẳng thông qua người Pháp. giây phút lịch sử khi triều Nguyễn nung chảy con ấn của Trung Quốc nặng hơn 6 kg là thời khắc tuyệt vời. Kể từ giây phút đó, Việt Nam thoát khỏi sự bủa vây về chính trị, văn hóa… từ phương Bắc. Người Pháp xâm lược Việt Nam nhưng nhìn về mặt khách quan đó cũng là cái công lớn nhất của Pháp. Hiệp ước biên giới Pháp Thanh 1885 có nhiều điều khoản có lợi cho Việt Nam như ta thu hồi vùng đất Điện Biên, Lai Châu…Nếu không có sự kiên quyết của người Pháp thì có lẽ ta đã mất vùng đất phía Bắc sông Hồng về tay Trung Quốc.

    Trong sách giáo khoa, chúng ta chỉ dạy học trò những trận đánh oanh liệt nhưng đã “quên” dạy về đối sách ngoại giao khôn khéo của ông cha ta, chính vì vậy, một bộ phận không nhỏ người Việt đã không biết những điều trên. Đến khi, HDV người Trung nói ra họ mới có thái độ giận dữ như vậy. Chính vì vậy, bây giờ chúng ta mới biết được ích lợi từ lịch sử đem lại như thế nào. Một giáo sư mà tôi rất nể trọng từng nói “Tôi sợ người Việt coi thường người Trung Quốc, người Việt cứ tưởng đã thắng được người Trung Quốc trong quá khứ thì bây giờ họ nghĩ sẽ thắng trong tương lai, họ có niềm tin như vậy. Họ coi thường người Trung Quốc, người TQ rất giỏi phải biết sức mạnh của họ mới có thể chế ngự được họ”. Hiện nay, cứ thấy cái gì liên quan đến TQ thì người Việt cứ nhảy cẫng lên, đòi đánh đòi giết. Hãy yêu nước bằng lý trí, đừng yêu nước bằng trái tim. Đã có hàng triệu người đổ máu vì trái tim nóng bỏng đó trong lịch sử dân tộc rồi. Có những cuộc đổ máu hoàn toàn vô ích.

    Dùng lí trí để suy xét và đưa ra một đường lối đúng đắn và phù hợp. “Người Việt không có gì ngoài truyền thống yêu nước” Chúng ta, thế hệ trẻ hãy thay đổi quan điểm đó. Chúng ta phải có thật nhiều thứ để đương đầu với anh láng giềng hiếu chiến và thâm độc.

    Trần Công Nhật

  • Từ vựng về văn hóa – thắng cảnh – du lịch Việt Nam

    Từ vựng về văn hóa – thắng cảnh – du lịch Việt Nam

    1. Danh lam thắng cảnh

    The Hung Kings: Các vua Hùng

    The Lenin park: Công viên Lênin

    The Saigon port: Cảng Sài Gòn

    The portico of the pagoda; Cổng chùa

    The ancient capital of the Nguyen Dynasty; Cố đô triều Nguyễn

    The Ben Thanh market: Chợ Bến Thành

    The Huong Pagoda: Chùa Hương

    The One Pillar pagoda; Chùa Một Cột

    The Quan Su Pagoda; Chùa Quán Sứ

    The Thien Mu Pagoda: Chùa Thiên Mụ

    The Reunification Railway: Đường sắt Thống Nhất

    Ngoc Son (Jade Hill) temple: Đền Ngọc Sơn

    The Temple of the Kneeling Elephant: Đền Voi Phục

    The Royal City: Đại nội

    Chùa Một Cột năm 1898, trông khá tàn tạ so với bức ảnh chụp 2 năm trước đó.
    Chùa Một Cột năm 1898, trông khá tàn tạ …

    2. Di tích lịch sử, văn hóa

    Runner-up (second in a beauty contest): Á hậu

    The Museum of the Revolution: Bảo tàng cách mạng

    The Museum of History: Bảo tàng lịch sử

    The Museum of Fine Arts: Bảo tàng mỹ thuật

    The Museum of the Army: Bảo tàng quân đội

    The thirty-six streets of old Hanoi : Ba mươi sáu phố phường Hà Nội cổ

    Stone stelae: Bia đá

    Ornament fish: Cá cảnh

    Dwarf tree: Cây cảnh

    Tet pole: Cây nêu ngày tết

    Tangerine trees: Cây quít, quất

    Traditional opera: Chèo

    Artworks shop: Cửa hàng mỹ nghệ

    The Royal Palace: Cung điện

    Appearance: Dung mạo

    Wooden carvings: Đồ gỗ chạm trổ gỗ

    Offering(n), sustenance: Đồ cúng

    Rattanwares: Đồ làm bằng mây tre

    Garments: Đồ may mặc

    Fine art handicraft articles: Đồ thủ công mỹ nghệ

    The Vietnamese speciality: Đặc sản Việt Nam

    New Year’s Eve: Đêm giao thừa

    Song and dance troupe: Đội ca múa

    To be strewn with bricks: Đường lát gạch

    A good/ bad omen: Điềm lành/ xấu

    To cast a bell: Đúc chuông

    Hình ảnh quen thuộc xe xích-lô máy chạy quanh Công trường Diên Hồng xưa, trước trạm xe buýt Công Quản Chuyên Chở Công Cộng đối diện với Chợ Bến Thành
    Hình ảnh quen thuộc xe xích-lô máy chạy quanh Công trường Diên Hồng xưa, trước trạm xe buýt Công Quản Chuyên Chở Công Cộng đối diện với Chợ Bến Thành

    3. Du lịch

    Cuisine: ẩm thực

    Full satisfaction guaranteed: Bảo đảm hoàn toàn thỏa mãn

    To pick buds: Hái lộc

    Art show: Buổi biểu diễn văn nghệ

    One-thousand-year-old Hanoi: Hà Nội 1000 năm

    Organizing tourism trips in and out of the province: Du lịch trong ngoài tỉnh
    International and domestic tours: Các tua du lịch quốc tế và nội địa
    Bánh bao Cả Cần- ngon nhất Sì Gòn
    Bánh bao Cả Cần – ngon nhất Sì Gòn