Category: Văn hóa Việt

  • Ý nghĩa của những bức bình phong xứ Huế

    Trong kiến trúc xưa, có lẽ không nơi nào có nhiều bức bình phong như ở Huế. Khắp các cung đình, phủ đệ, đến các đền chùa, am miếu, đình làng, nhà thờ họ và nhà thường dân…đều hiện hữu những bức bình phong.

    Muôn màu, muôn vẻ … bình phong

    Xưa nay, người Huế vẫn tin theo “dịch lý” và “phong thủy” vào hàng nhất nước. Nhà vườn ở Kim Long, Vỹ Dạ, Phước Tích luôn luôn tập hợp một hệ thống kiến trúc sắp xếp theo chiều Bắc-Nam. Tuy rộng hẹp khác nhau, nhưng nhà nào cũng có kiến trúc tổng thể giống nhau, từ cổng, ngõ, bình phong, hòn non bộ, bể cạn, sân, nhà. Cổng xây bằng gạch, lối vào ngõ thường được trồng những hàng râm bụt hoặc chè tàu cắt xén cẩn thận. Lối đi vào không bao giờ nhìn trực diện vào nhà chính, che cho lối đi là tấm bình phong, người vào nhà phải rẽ hướng khác để vào sân nhà.

    Bức bình phong xứ Huế thường được làm bằng vôi, gạch, hay chè tàu, bông cẩn. Sau bức bình phong thường là hòn non bộ và bể cạn – yếu tố minh đường trong phong thủy làm nên một vũ trụ thu nhỏ theo quan niệm hướng nội.Vẫn còn rất nhiều bình phong cổ rải rác trên địa bàn Thừa Thiên Huế.

    Ý nghĩa của những bức bình phong xứ Huế

    Một nhà vườn hơn 100 năm, ở xã Phú Thượng, huyện Phú Vang còn giữ đầy đủ: cổng, ngõ, bình phong, hòn non bộ, bể cạn, sân, nhà.

    Bạn nên đến thăm Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, đây vẫn còn giữ được một số ít bức bình phong cổ (bằng gỗ quý) tuyệt đẹp, càng ngắm, càng có cảm giác như bị mê hoặc, do chúng hội tụ được những điều thần bí của phong thủy. Trong thuyết phong thủy, bình phong tạo thành các yếu tố “triều”, “án”, có chức năng chủ yếu là gia tăng tính bền vững của cuộc đất, ngăn chặn khí xấu và các yếu tố bất lợi cho gia chủ. Về sau bình phong còn thêm chức năng trang trí mỹ thuật trong kiến trúc nhà cổ truyền thống.

    Ý nghĩa của những bức bình phong xứ Huế

    Sau bình phong là hòn non bộ và bể cạn (yếu tố phong thủy).

    Bức bình phong cổ ở xứ Huế gồm đủ loại chất liệu như gỗ, đan mây, vải, đá, gạch… song phổ biến nhất là loại bình phong xây bằng gạch đá, có kích thước lớn, ở ngoài trời. Thường được trang trí công phu bằng cách chạm trổ, ghép sành sứ với các biểu tượng và mô típ: phúc- lộc- thọ- hỷ hay các linh vật như long, lân, quy, phụng, long mã… Làm nên giá trị mỹ thuật của bình phong cổ xây bằng đá gạch, không thể không kể đến công lao sáng tạo, truyền nghề của các nghệ nhân khảm sành sứ “giỏi nhất” thời Nguyễn, trên đất Phú Xuân- Thuận Hóa, như cụ Bát Mười, ông Trương Cửu Lập. Nghệ thuật trang trí khảm sành sứ thường được sử dụng để trang trí ở cổng chùa đình, nóc mái, cửa sổ, đặc biệt là bình phong.

    Ý nghĩa của những bức bình phong xứ Huế

    Bình phong long mã tại đình làng Dưỡng Mông, xã Phú Mỹ.

    Đỉnh cao của nghệ thuật khảm sành sứ là sử dụng những mảnh gốm sứ, mảnh chai cắt tỉa theo hình dáng và màu sắc, được gắn khảm rất tinh tế, bằng những chất kết dính (vôi hàu, mật mía đường) cùng những phụ gia kết nhuyễn (giấy dó, nhựa bông cẩn, dây tơ hồng). Hiện nay tại lăng Tự Đức còn giữ được nhiều bức bình phong khảm sành sứ đẹp nhất nước, tiêu biểu là chiếc bình phong phía sau Ích Khiêm Các- thuộc Khiêm Cung, còn khá nguyên vẹn.

    Nghệ thuật đan xen phong thủy

    Người xưa tin rằng “long mã” là hóa thân của kỳ lân, một trong tứ linh (long, lân, quy, phụng), là linh vật báo hiệu điềm lành; là biểu tượng của sự thông thái, trường thọ, hạnh phúc. Thời Nguyễn, từ cung đình đến dân gian, đều chịu ảnh hưởng truyền thuyết “long mã” khá sâu đậm, hình nó được thêu trên võ phục hàm “nhất phẩm”.Ngoài ra, trong Phật giáo, long mã là linh vật cõng trên lưng Luật Tạng, một trong ba phần cốt tủy của kinh sách nhà Phật (Tam Tạng Kinh). Huế vốn là kinh đô của nhà Nguyễn, lại là nơi tập trung nhiều chùa chiền Phật giáo, nên trong nghệ thuật kiến trúc Huế, hình ảnh long mã xuất hiện rất nhiều. Hình ảnh “long mã” vừa để trang trí, vừa có công dụng phong thủy, ngăn chặn khí xấu và các yếu tố bất lợi cho gia chủ.

    Ý nghĩa của những bức bình phong xứ Huế

    Chữ “thọ” được lồng vào hình tròn nằm giữa bình phong.

    Trên bình phong cổ, có một điều không mấy ai chú ý về chữ “thọ” được lồng vào hình tròn nằm chính giữa trung tâm. Đây là điểm nhấn vừa trang trí vừa là cái gương, qua đó người khách có thể báo trước với chủ nhà về sự hiện diện của mình. Đồng thời, người chủ nhà khi đã sửa soạn xong việc đón tiếp, sẽ đứng trước cửa, người khách nhìn qua ô tròn đó và biết mình nên đi vào, tránh sự cập rập cho việc tiếp đón. Chi tiết này là một sự tinh tế trong văn hóa ứng xử.

    Cho đến nay, những bức bình phong xứ Huế vẫn giữ chức năng mỹ thuật đan xen với phong thủy, một phong cách độc đáo trong kiến trúc nhà Huế. Nhà giàu sang thì xây dựng bình phong bằng gạch, đá kiên cố. Nghèo khó thì làm bình phong bằng cây kiểng như chè tàu, dâm bụt, tre trúc… Nhà cửa có thể sửa sang, nâng cấp nhưng các bức bình phong hàng trăm năm tuổi, đều được con cháu gìn giữ nguyên trạng…

    Theo Dân Việt.

  • Tìm hiểu về Thiên Địa Hội ở Nam Kỳ

    Tìm hiểu về Thiên Địa Hội ở Nam Kỳ

    Không chỉ “làm luật” những gánh hát bội, Thiên Địa hội kiểm soát luôn những động mại dâm, những tiệm hút thuốc phiện để thu tiền bảo kê của gái, của chủ chứa, chủ động. Ai có gan báo mã tà thì sớm muộn gì cũng lãnh đủ bằng nhiều hình thức, chẳng hạn như động chứa gái đột nhiên cháy rụi, tiệm thuốc phiện có cả chục khách vào nhưng chỉ kêu một “bi” thuốc rồi nằm lì từ sáng đến chiều.

  • PHẬT GIÁO HÒA HẢO

    PHẬT GIÁO HÒA HẢO

    PHẬT GIÁO HÒA HẢO
    I- Vị Trí Địa Dư:
    Đạo Phật giáo Hòa Hảo được khai sáng tại làng Hòa Hảo, quận Tân châu, tỉnh Châu đốc, Việt Nam, và từ đó phát triển bành trướng ở miền tây nam Việt, nhứt là tại 15 tỉnh sau đây: Châu đốc, An giang, Sa đéc, Kiến phong, Vĩnh long, Phong dinh, Chương thiện, Kiên giang, Ba xuyên, Bạc liêu, An xuyên, Định tường, Long an, Kiến hòa, Kiến tường, và thủ đô Sàigòn-Gia định. Đặc biệt đây là những tỉnh đồng bằng thuộc châu thổ sông Cửu Long, giáp nước Cao miên, được mệnh danh là vựa lúa của Việt nam.
    II- Nguồn Gốc:
    Ngoài sự kiện kinh tế trên đây, vùng này còn có một số dải núi mà nhiều văn kiện lịch sử, xưa nay đã lưu truyền rằng tại đó chứa đựng nhiều điều huyền bí ly kỳ, nhứt là dải Bảy núi Thất sơn tại biên giới tỉnh Châu đốc giáp xứ Cao Miên.
    Những điều huyền bí đó lưu truyền trong sách vở đến nay chưa ai cắt nghĩa được, ngoài sự kiện cụ thể là chính tại vùng Thất sơn này đã phát xuất, từ năm 1849 một vị Phật Sống tức Đức Phật Thầy Tây An, người sáng lập tông phái Bửu sơn Kỳ hương, và sau này vào năm 1939, cũng một vị Phật sống khác là Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, tiếp nối truyền thống Bửu sơn Kỳ hương mà khai sáng mối đạo Phật giáo Hòa Hảo, cũng tại một địa điểm gần dải Thất sơn.
    Do đó, tuy là Phật giáo Hòa Hảo mới ra đời từ 1939 đến nay, nhưng đã có nguồn gốc tông phái Bửu sơn Kỳ hương từ 1849, tức là trên một trăm năm nay. Bửu Sơn Kỳ Hương không có hệ thống tổ chức giáo hội như các tôn giáo Tây phương. Do đó những người kế truyền lãnh đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đã không được đề cử, thăng cấp, bổ nhậm theo các thủ tục của một giáo hội, hay được trao truyền y bát theo truyền thống Tổ Tổ lưu truyền của Phật giáo Trung Hoa.
    Các vị kế truyền trong hàng lãnh đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đều đã tự nhiên xuất hiện như một bực siêu phàm đắc đạo và được tín đồ tôn sùng như một vị giáo chủ. Hoặc là những vị đã trung kiên hành đạo, sáng suốt lãnh đạo quần chúng, nên được tín đồ cảm phục tin tưởng mà theo.

    Hình ảnh: Đức Thầy tại Văn Phòng đường Lefèbre (Nguyễn Công Trứ) Saigòn, năm 1943
    Hình ảnh: Đức Thầy tại Văn Phòng đường Lefèbre (Nguyễn Công Trứ) Saigòn, năm 1943

    Có thể phân biệt ra hai dòng truyền thừa:
    1. Lãnh đạo tinh thần với tư cách Giáo chủ kế truyền của Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương.
    2. Lãnh đạo thế tục, là các cao đồ hay đại đệ tử của Phật Thầy Tây An.
    Trong phần này chúng tôi muốn nói đến hàng Giáo chủ kế truyền gồm các vị mà ngôn ngữ tây phương gọi là Prophet, dịch ra là Tiên Giác, tự nhiên đắc đạo, thông đạt trí huệ, vượt hẳn lên trên người phàm tục và được chư tín đồ tôn sùng thờ kính như Giáo chủ. Các vị này cũng viết ra kinh giảng để truyền bá giáo lý, cũng trị bịnh cứu đời bằng phương pháp mầu nhiệm không cần dược liệu. Nội dung kinh giảng và pháp môn tu hành của các vị này cũng giống như giáo lý Bửu sơn Kỳ hương, và địa bàn hoạt động cũng trên một vùng địa dư với Bửu sơn Kỳ hương, và nhứt là đều có liên hệ đến linh địa Thất sơn. Cho nên các vị được quần chúng tin tưởng như bực siêu phàm hay Hoạt Phật xuất hiện, với sứ mạng thiêng liêng hoằng dương đạo pháp cứu thế độ dân.
    Theo các tài liệu hiện hữu về Bửu sơn Kỳ hương và Phật Giáo Hòa Hảo, các vị Giáo chủ kế tiếp được xếp theo trình tự sau đây:
    1. Ðức Phật Thầy Tây An, tục danh Ðoàn Minh Huyên, Giáo tổ khai sáng đạo Bửu sơn Kỳ hương (1849-1856).
    2. Ðức Phật Trùm (không rõ tục danh) truyền đạo 1868-1875.
    3. Ðức Bổn Sư, tục danh Ngô Lợi truyền đạo 1879-1890.
    4. Ðức Sư Vãi Bán Khoai (không rõ tục danh) truyền đạo 1901-1902.
    5. Ðức Huỳnh Giáo Chủ (tục danh Huỳnh Phú Sổ) khai sáng đạo Phật giáo Hòa Hảo năm 1939.
    Đức Phật Thầy Tây An đã nổi danh khắp miền nam Việt Nam, là một vị Phật Sống và một nhà ái quốc, cũng như sau này Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật giáo Hòa Hảo cũng được người Việt Nam tôn sùng là một vị Phật Sống xuống thế cứu đời, đồng thời cũng là một nhà cách mạng quốc gia chơn chánh.
    III- Số Tín Đồ Phật Giáo Hòa Hảo:
    Tổng số tín đồ Phật giáo Hòa Hảo được ước lượng vào khoảng trên 2 triệu người (trước 1-1-1966), đại diện cho một tỉ số 38% trên dân số vùng Hậu Giang, hay 10% trên tổng số dân Việt Nam Cộng Hòa. Có những tỉnh như Châu Đốc, An Giang, Kiến Phong, Sa Đéc, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo lên đến 90 % dân số; ở các tỉnh khác, tỷ số này thay đổi từ 10 đến 60 %.
    IV- Đặc Tính Phật Giáo Hòa Hảo:
    – Đặc Tính Thứ Nhất nằm trong truyền thống Bửu sơn Kỳ hương đến Phật giáo Hòa Hảo là một nền đạo Phật của nông dân.
    Đức Phật Thầy Tây An trước kia vừa truyền bá đạo Phật vừa khuyến khích nông nghiệp dưới hình thức “Lập trại ruộng để vừa tu hành vừa cày cấy”. Ngày nay cũng thế, hầu hết tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là nông dân và đó cũng là một lý do tại sao đức Huỳnh Giáo Chủ đã lập đạo tại một vùng đất phì nhiêu nhứt Việt Nam.
    Trên phương diện nhân sinh và xã hội, người ta cũng nhận định rằng bản chất thuần phác của người nông dân cho họ có căn bản thuận lợi để tu học theo đạo Phật.
    Đặc Tính Thứ Hai, Phật giáo Hòa Hảo cũng như Bửu sơn Kỳ hương đều chủ trương tu hành tại gia. Bởi vì các vị Giáo Chủ này đã nghĩ rằng đạo Phật không những chỉ truyền bá ở thiền môn mà còn phải phát triển rộng rãi đến mọi gia đình.
    Do đó các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo không bị bắt buộc phải cạo đầu vào chùa, lìa bỏ mọi việc ngoài thế gian, mà họ vẫn ở tại gia đình, sống như mọi người công dân khác với nếp sống bình dị trong nông nghiệp, đồng thời tu hành theo giáo lý của Đức Thích Ca.
    Tôn chỉ tu hành của Phật giáo Hòa Hảo là Học Phật Tu Nhân, tức là noi theo giáo lý chơn truyền của Đức Phật mà tu sửa con người, để vừa làm tròn bổn phận trong cõi đời đang sống, vừa dọn thân tâm cho trong sáng để được siêu thăng vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc, giải thoát khỏi vòng luân hồi.
    Để thi hành tôn chỉ Học Phật Tu Nhân, người tín đồ Phật giáo Hòa Hảo phải tích cực thực hiện Tứ Ân, tức bốn điều ân lớn, là:
    1- Ân Tổ Tiên Cha Mẹ
    2- Ân Đất Nước
    3- Ân Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng)
    4- Ân Đồng Bào Nhơn Loại
    Cũng trong đường lối đó, người tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đã tỏ ra tích cực tu hành đồng thời cũng tích cực hy sinh vì đất nước, khi quốc gia hữu sự.
    Đặc Tính Thứ Ba là sự canh tân phương pháp hành đạo nhằm loại trừ mọi hình thức rườm rà mê tín dị đoan. Đặc tính canh tân này có mục đích loại bỏ âm thinh sắc tướng để phát dương phần tinh túy của đạo Phật, đúng theo chánh pháp vô vi của Đức Phật.
    Phật giáo Hòa Hảo chủ trương canh tân như sau:
    – Không cất chùa đúc tượng thêm ngoài những ngôi chùa đã sẵn có. Ai giàu lòng từ thiện thì nên phát tâm bố thí, cứu trợ kẻ nghèo khổ, hơn là cất chùa lớn, đúc tượng cao.
    – Không chấp nhận thầy cúng, thầy lễ, thầy bói, thầy phù thủy, cũng không dâng cúng chè xôi thực phẩm cho Phật, vì Phật không dùng những của hối lộ đó.
    – Không dùng cờ phướn, lầu kho, đốt giấy tiền vàng bạc, phí tổn vô ích….
    – Không khóc lóc hay làm linh đình lúc tang ma, mà chỉ im lặng cầu nguyện cho linh hồn người chết được siêu thoát.
    – Không ép hôn, thách tiền cưới hay tiệc rượu linh đình, vì sẽ mang nợ, gây hại về sau.
    Tóm lại, giáo pháp vô vi Phật giáo Hòa Hảo nhằm canh tân phương pháp hành đạo để trở về với giáo lý chơn truyền của Đức Phật, là tu hành tại Tâm, chẳng phải ở hình thức lễ nghi bề ngoài.
    V. Sự Thờ Phượng Của Phật Giáo Hòa Hảo:
    Trong chủ trương canh tân nói trên, sự thờ phượng trong nhà các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thật là giản dị.
    – Trên bàn thờ, không có tượng Phật, không có chuông mõ.
    – Thờ một tấm trần dà tượng trưng cho Đạo và đất nước.
    – Lập một bàn thờ nhỏ đơn giản gọi là bàn Thông thiên trước nhà.

    Nguồn: www.nguyenhuynhmai.com

    Nguồn: phatgiaohoahao.net

     

  • Vài nét về tín ngưỡng dân gian Việt Nam

    Vài nét về tín ngưỡng dân gian Việt Nam

    Từ thời xa xưa, với điều kiện thiên nhiên trù phú, Người Việt sống chủ yếu dựa vào việc khai thác tự nhiên. Vì vậy, việc thờ cúng thiên nhiên đã sớm trở thành tập tục lâu đời và quan trọng trong đời sống tôn giáo. Hơn nữa, Việt Nam lại là ngã ba nơi giao lưu của nhiều tộc người, của nhiều luồng văn minh. Mỗi tôn giáo khi được du nhập vào Việt Nam đều được cải biên, trở nên gần gũi hơn với tập tục và tư tưởng bản địa.
    Tháp Chàm Ninh Thuận
    Tháp Chàm Ninh Thuận
    Tín ngưỡng phồn thực xuất hiện từ thuở sơ khai của sử Việt. Với sự quan trọng của ngành lúa nước, nuôi trồng, chăn nuôi, các tộc người Việt tôn thờ biểu tượng về âm – dương, sự dung hòa giữa trời và đất, và sự nảy nở sinh sôi của vạn vật. Tín ngưỡng phồn thực (phồn nghĩa là nhiều, thực nghĩa là nảy nở) được tìm thấy trong tranh ảnh dân gian như tranh Đông Hồ, Bắc Ninh, với hình ảnh trâu, lợn, gà, cá; hay trong các sản phẩm văn hóa lâu đời như hình ảnh nam nữ đang giao phối được khắc trên mặt trống đồng tìm được ở làng Đào Thịnh (Yên Bái), có niên đại 500 TCN. Phong tục “giã cối đón dâu” cũng là một biểu hiện cho tín ngưỡng phồn thực, chày và cối là biểu tượng cho sinh thực khí nam và nữ. Ngoài ra một số nơi còn vừa giã cối (rỗng) vừa hát giao duyên.
    Tín ngường sùng bái tự nhiên: Thiên nhiên của người Việt chính là mẹ, là hình tượng vị nữ thần vạn năng đem lại no ấm, trù phú và bảo hộ cho từng con dân. Điều này được tìm thấy rõ nét trong tín ngưỡng thờ Đạo Mẫu, được hình thành từ ảnh hưởng của Đạo Giáo Trung Hoa, kết hợp với tập tục thời Nữ Thần từ thời tiền sử. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam được thờ phụng, là điều khá đặc biệt khi đặt vào bối cảnh đất nước chịu nhiều giáo điều, lễ nghi Nho giáo.
    – Thờ tam phủ, tứ phủ: Bà Trời (hay Mẫu Thượng Thiên), Bà Chúa Thượng (hay Mẫu Thượng Ngàn), Bà Nước (hay Mẫu Thoải) và Mẫu Địa Phủ.
    – Thờ tứ pháp:
    Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu
    Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu
    Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng
    Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn
    Tín ngưỡng nhân thần: Người Việt coi trọng sự sống chết, tin rằng bản thể con người gồm 2 phần: hồn và xác. 3 hồn gồm có: Tinh (sự tinh anh trong nhận thức), Khí (năng lượng làm cho cơ thể hoạt động) và Thần (thần thái của sự sống). Các câu nói trong dân gian như “sống khôn chết thiêng” giải thích về yếu tố thờ nhân thần mạnh mẽ trong đời sống tâm linh Người Việt. Người Việt Nam thờ tự cẩn trọng từ tổ tiên ông bà, thành hoàng làng, tổ nghề, tứ bất tử, đến các danh nhân và anh hùng.
    Thà đui mà giữ đạo nhà
    Còn hơn sáng mắt cha ông không thờ. (Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên)
    Tuy Người Việt nói chung vẫn giữ những phong tục như thờ tự, lễ bái, xong hầu hết lại không theo một giáo lý, hay tôn giáo nào cụ thể. Sự pha trộn của tôn giáo và các tín ngưỡng dân gian, với sự mù mờ về niềm tin liệu có trở thành một vấn nạn cho dân tộc? Hay sẽ là không gian cho Việt Nam phát triển về mặt kinh tế và hội nhập về mặt tri thức?
    Nhưng suy cho cùng, sự thờ tự đối với tự nhiên tất sẽ mang đến một nền tảng đạo đức vững vàng đối với công cuộc phát triển bền vững. Hay như việc ghi nhớ công ơn của tổ tiên ông bà, và những anh hùng, hào kiệt chính là cơ sở của truyền thống uống nước nhớ nguồn và là phẩm chất quý giá của dân tộc Việt Nam.
    Trịnh Khánh Linh (THE PAVONIS ORGANIZATION)
  • Tục ăn trầu của người Việt

    Tục ăn trầu của người Việt

    Tục ăn trầu, nét văn hoá giản dị lâu đời của người Việt 
    Tục ăn trầu, nét văn hoá giản dị lâu đời của người Việt - Betel Chewing

    Đôi nét về tục ăn trầu
    Ăn trầu là một phong tục cổ truyền của người Việt Nam có từ thời Hùng Vương. Miếng trầu gắn liền với một câu chuyện cổ tích Trầu Cau đầy tình anh em, vợ chồng.
    Miếng trầu xuất hiện nhiều trong đời sống sinh hoạt của người dân Việt. Như người xưa đã nói “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, trầu dùng để mời khách đến chơi nhà. Mâm cỗ cúng gia tiên cũng không thể thiếu được miếng trầu. Tiệc cưới có đĩa trầu để chia vui. Miếng trầu, còn là tượng trưng cho tình yêu lứa đôi; miếng trầu đi đầu, tác hợp cho lứa đôi và là sợi dây kết chặt mối lương duyên trai, gái thành vợ thành chồng. Để đưa mâm lễ sang thưa chuyện nhà gái, nhà trai không thể thiếu được lá trầu, quả cau.
    Người xưa ăn trầu còn là để bảo vệ hàm răng của mình, chất chát của trầu cau làm cho lợi răng co lại ôm sát lấy chân răng, làm hàm răng cứng chặt lại không lung lay. Còn trong y học cổ truyền người Việt Nam xưa đã dùng trầu cau như một thứ thuốc chống bệnh sốt rét rừng một khi vào rừng sâu săn bắn hoặc xuống biển mò ngọc trai, săn bắt đồi mồi…
    Mời trầu khách Theo tục ăn trầu, khi khách đến nhà, trước tiên, chủ nhà phải mang một cái bát có đựng nước kèm theo một cái muỗng (môi) đặt trên một cái đài để khách súc miệng. Sau đó, chủ nhà mang khay trầu ra tiếp đãi. Trên khay có đĩa đựng trầu, đĩa dựng cau, hủ vôi, hộp thuốc xỉa, dao, đĩa đựng vỏ giấy, vỏ cau… dưới chân lúc nào cũng có một ống nhổ lớn để khách nhổ bả trầu, nước trầu. Nếu khách là người ở tuổi trung niên, có thể nhai miếng trầu trực tiếp và tận hưởng hương vị cay, thơm của miếng trầu. Nếu là người già, sẽ cho miếng trầu tiêm vào ống ngoáy để ngoáy cho mềm và sau đó mới nhai trầu. Bộ dụng cụ ăn trầu trưng bày được làm bằng nhiều nguyên liệu da dạng từ đồng, bạc cho đến gốm, bao gồm cơi đựng trầu, bình vôi, chìa vôi, ống nhổ, dao bổ cau, ống ngoáy, chìa ngoáy. Hoa văn trang trí dụng cụ ăn trầu thường là những nét hoa văn, chạm trổ về phong cảnh quê hương đất nước, hoa lá hay động vật.
    Trầu có vị như thế nào?
    Miếng trầu gồm bốn loại nguyên liệu: Cau (vị ngọt), lá trầu không (vị cay), rễ (vị đắng), vôi (vị nóng). Cây cau vươn cao biểu tượng của trời (dương). Vôi chất đá biểu tượng của đất (âm). Dây trầu mọc từ đất, quấn quýt thân cây cau, biểu tượng cho sự trung gian. Miếng trầu gồm miếng cau, lá trầu quết vôi, phụ thêm miếng vỏ cây chát (miếng rễ).
    Tỷ phú người Mỹ Bill Gates thưởng thức miếng trầu têm cánh phượng của người quan họ Bắc Ninh
    Tỷ phú người Mỹ Bill Gates thưởng thức miếng trầu têm cánh phượng của người quan họ Bắc Ninh
    Ăn trầu cau thì miếng trầu có vị ngọt của hạt cau, vị cay ở lá trầu, chát nóng từ vôi, cái bùi của rễ… tất cả như tạo nên sự kích thích, làm cho thơm miệng, đỏ môi…
    Nghệ thuật têm trầu
    Để têm được miếng trầu đẹp, gồm: cau, lá trầu, thuốc xỉa và vôi, đòi hỏi người tiêm trầu phải khéo tay, gấp nếp miếng trầu vuông vắn. Têm trầu cánh phượng – Nghệ thuật của người Hà Nội “Quả cau nho nhỏ, lá trầu xanh.”
    Người Hà Nội nói riêng và người Việt Nam nói chung xưa kia coi việc têm trầu là một nghệ thuật. Nói đến trầu têm cánh phượng là nói đến miếng trầu vùng Kinh Bắc. Cũng vẫn nguyên liệu ấy, nhưng cách têm đẹp, kiểu cách, đã thể hiện sự khéo léo của những liền chị, người gái quê Kinh Bắc. Vì thế, miếng trầu có sức hấp dẫn đặc biệt và để lại ấn tượng sâu sắc cho bất cứ ai, dù chỉ một lần được mời.Nhìn miếng trầu têm có thể phán đoán được tính cách, nết người têm trầu.
    Miếng trầu têm vụng về là người không khéo tay; miếng trầu nhỏ miếng cau to là người không biết tính toán làm ăn; miếng trầu quệt nhiều vôi là người hoang phí không biết lo xa. Cách ăn trầu của người Hà Nội rất duyên dáng. Họ ăn trầu để làm đỏ môi, đen răng và tạo ra nét môi cắn chỉ rất đẹp. Khi ăn trầu, người Hà Nội không cho cả trầu và rễ vào một lúc mà ăn từng thứ một. Cau được nhai dập, rễ trầu được quét vôi rồi khi ăn, người ta lấy tay quệt ngang miệng để tạo nét môi cắn chỉ.
    Trầu têm cánh phượng
    Trầu têm cánh phượng
    Ngày nay, ở Hà Nội hầu như chỉ những người trên 60 tuổi mới ăn trầu cho nên Hà Nội không còn cảnh mời trầu như A.de Rovodes – một người Pháp nói về việc ăn trầu của người Thăng Long thế kỷ XII: “Họ có tục đem theo một vài túi con đầy trầu cau đeo ở thắt lưng, họ để mở trong khi qua lại phố phường để mời bạn bè. Khi gặp họ bắt đầu chào hỏi nhau, rồi mỗi người lấy ở trong túi của bạn một miếng trầu để ăn”.
    Một khóm cây trầu không mọc trên sườn nhà
    Một khóm cây trầu không mọc trên sườn nhà
    Cây cau được trồng ở rất nhiều vùng trên cả nước.
    Cây cau được trồng ở rất nhiều vùng trên cả nước.
    Cho tới ngày nay, tuy tục ăn trầu và mời trầu ít phổ biến như xưa lá trầu vẫn mang một ý nghĩa sâu xa nhất định trên nhiều lĩnh vực như y học, tâm lý xã hội, bản sắc truyền thống dân tộc, …Trầu cau chỉ là một thứ nhai chơi, tuy đơn sơ nhưng vẫn là thứ không thể thiếu trong việc giao hiếu, kết thân, lễ tế, cưới hỏi, bởi miếng trầu đã mang đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam.Những vật dụng dùng trong tục ăn trầu giờ đây đã trở thành di sản của một phong tục tập quán tốt đẹp được lưu giữ mãi trong mỗi người Việt chúng ta.

    Hình ảnh Việt Nam Tổng hợp từ : THE PAVONIS ORGANIZATION và VanhoaVietNamTV

  • Vì sao tháng 7 âm lịch được gọi là “tháng cô hồn”?

    Theo quan niệm dân gian, tháng 7 Âm lịch hàng năm được coi là tháng của ma quỷ hay tháng cô hồn. Cách gọi này có nguồn gốc từ xa xưa, đến nay vẫn được sử dụng nhưng ít người hiểu hết được ý nghĩa.

    Từ xa xưa, người Việt quan niệm con người có hai phần đó là phần hồn và phần xác. Tùy theo lúc còn sống và những việc mà người đó làm dẫn đến khi mất đi, phần hồn sẽ tách khỏi phần xác mà được đầu thai thành kiếp khác hay xuống địa ngục, thậm chí lang thang quấy rối người thường. Và cúng cô hồn từ đó mà xuất hiện.

    Không có văn bản thay thế tự động nào.

    Việc cúng cô hồn không chỉ để khỏi bị quấy phá, mà vì muốn làm phúc, giúp những cô hồn ít ra cũng có một ngày được no nê, đỡ tủi phận. Đó là ý nghĩa mang tính nhân văn rất cao trong văn hóa Việt, cũng như quan niệm về ngày xá tội: con người dù đã gây ra những tội ác gì thì trong quá trình chịu trừng phạt, quả báo, cũng có được một ngày xá tội, để đỡ khổ cực, đau đớn…

    Dưới góc độ Đạo giáo, tục cúng cô hồn bắt nguồn từ tích cổ Trung Hoa. Truyền thuyết dân gian cho rằng từ mùng 2/7, Diêm Vương ra lệnh bắt đầu mở Quỷ Môn Quan và đến rằm tháng 7 thì “thả cửa” để cho ma quỷ túa ra tứ phương, đến sau 12 giờ đêm ngày 14/7 thì kết thúc và các ma quỷ phải quay lại địa ngục.

    Do đó, vào tháng 7 Âm lịch, người ta quan niệm trên dương thế có rất nhiều quỷ đói nên phải cúng cháo, gạo, muối hối lộ cho chúng để chúng không quấy nhiễu cuộc sống bình thường.

    Ở Trung Quốc, việc cúng cô hồn được thực hiện vào ngày 14 tháng 7 Âm lịch, còn ở Việt Nam, thời gian này kéo dài nguyên một tháng, không nhất thiết phải là ngày rằm. Ngày cúng cô hồ có thể tùy thuộc vào từng gia đình, từng vùng miền khác nhau.

    Ngoài ra, theo quan niệm, tháng cô hồn là tháng ma quỷ, không đem lại may mắn nên hầu hết các công việc cưới hỏi, khởi công xây dựng, mua sắm, đi xa,… đều tránh tháng 7.

    Theo Lịch Sử Việt Nam page
  • Thú chơi ôtô của người Sài Gòn xưa

    Thú chơi ôtô của người Sài Gòn xưa

    Hàng nghìn xe hơi La Dalat sản xuất ở Sài Gòn 50 năm trước có hơn 40% kết cấu do người Việt chế tạo; nó cũng ít hao xăng, dễ sửa chữa…

    La Dalat là xe hơi đầu tiên được sản xuất ở miền nam Việt Nam do hãng Citroën của Pháp thực hiện. Loại xe này được chế tạo năm 1969 và tung ra thị trường vào năm 1970, dành riêng cho người Việt. Nó ít tốn xăng, dễ sửa chữa và thay thế phụ tùng.

    Trên đường phố Sài Gòn những năm 1970-1975, bóng dáng chiếc xe mạnh mẽ, với màu xanh nhạt đặc trưng của La Dalat khiến nhiều người dễ dàng nhận ra, thích thú. Xe tiện dụng, rẻ lại mang thương hiệu Việt là lý do nhiều người chọn mua.

    Thú chơi ôtô của người Sài Gòn xưa

    Một chiếc La Dalat từng được sản xuất tại Sài Gòn. Ảnh: Tư liệu

    Theo tư liệu, giai đoạn 1936-1960, những dòng xe như 2CV rồi Dyane 6 hay Méhari được hãng Citroën đưa vào Việt Nam phục vụ các sĩ quan Pháp cùng tầng lớp thượng lưu. Nhưng đến giữa thập niên 1960, hãng này nghĩ đến việc chế một chiếc xe hơi ngay tại Việt Nam và dành riêng cho người Việt khi chịu sức ép cạnh tranh bởi các hãng xe máy nổi tiếng. Citroën mong muốn cho ra đời một chiếc xe hữu dụng nhưng giá thành rẻ.

    Xuất phát từ nhu cầu này, chiếc La Dalat (lấy tên thành phố Đà Lạt) được thai nghén dựa theo mẫu mã của chiếc Méhari và Baby Brousse rất thành công ở các thuộc địa cũ của Pháp. La Dalat được thiết kế với 4 kiểu dáng khác nhau gồm những bộ phận quan trọng được nhập từ Pháp như động cơ, hệ thống tay lái, bộ nhún, bộ thắng…

    Tất cả các chi tiết, bộ phận còn lại gồm đèn, kèn báo hiệu, ghế nệm, dàn đồng đóng bằng tôn, mui xe bằng lá thép uốn hoặc vải… được sản xuất ngay tại Công ty Xe hơi Saigon đặt ở góc đường Lê Lợi – Nguyễn Huệ, hiện là Caféteria Rex. Vào cuối thập niên 60, đây là dấu ấn quan trọng, đặt nền móng cho ngành sản xuất ôtô của Việt Nam.

    Thú chơi ôtô của người Sài Gòn xưa

    Quảng cáo bán xe La Datlat tại Sài Gòn năm 1973. Ảnh: Tư liệu

    Hãng xe Citroën tập trung vào khách hàng bình dân Việt Nam nên La Dalat có những đặc tính như ít tốn nhiên liệu, dễ sửa chữa, dễ thay thế phụ tùng. Đặc biệt, các bộ phận như cánh cửa, kiếng xe… đều có thể “tự chế” từ những xưởng cơ khí thủ công rẻ tiền. Do chế tạo thủ công nên hình dáng xe thô kệch, không bắt mắt nhưng đây không phải là vấn đề quan trọng đối với khách hàng bình dân thời đó.

    La DaLat dùng động cơ 4 thì, 602 phân khối, 31 mã lực, 2 xi-lanh đối ở 2 đầu nằm dẹp. Xe có hộp 4 số tay, truyền động trục bánh trước. Trọng lượng xe đầu tiên là khoảng từ 480 đến 590 kg (tùy theo kiểu), kiểu xe thùng nặng 770 kg.

    Trong giai đoạn 1970 đến 1975, hãng xe Citroën sản xuất hơn 5.000 chiếc La Dalat, tức là khoảng 1.000 chiếc mỗi năm. Dù số lượng sản xuất khá nhỏ khi năm 1970 riêng Nhật Bản đã sản xuất 4,1 triệu ôtô các loại, song Citroën cho rằng La Dalat là thiết kế phù hợp với thị trường những nước nghèo.

    Điều quan trọng, tỷ lệ các bộ phận nội địa hóa của La Dalat khi xuất hiện đạt đến 25%. Năm 1975, tỉ lệ này nâng lên 40%. Có tất cả là 4 kiểu La Dalat gồm loại 4 hoặc 2 chỗ ngồi với thùng chở hàng.

    Năm 1973, ngạc nhiên với thành công của La Dalat, Citroën đã sang Việt Nam lấy 3 chiếc về Pháp để phân tích. Từ đó họ cho ra đời kiểu khung xe dễ sản xuất mà không đòi hỏi đầu tư nhiều công nghệ như chiếc Baby Brousse mui trần thế hệ thứ hai hay chiếc FAF.

    Thú chơi ôtô của người Sài Gòn xưa

    Bên trong một chiếc La Dalat với các chi tiết khá thô sơ. Ảnh: Tư liệu

    Sau này, tuy xe không còn sản xuất nữa nhưng thương hiệu La Dalat vẫn không phai trong lòng người yêu xe, đặc biệt là những người mê xe cổ. Tại TP HCM, còn vài người đang sở hữu những chiếc La Dalat này. Theo các nhà sưu tập, kiểu dáng, động cơ của các dòng xe hiện đại ngày nay ăn đứt La Dalat nhưng dòng xe này vẫn có một chỗ đứng vững chắc trong lòng những người yêu xe cổ bởi nó mang thương hiệu Việt.

    Ông Phan Huy, chủ một chiếc La Dalat cho biết, máy móc còn tốt và xe của ông vẫn chạy ngon lành trên đường phố. Theo ông, xe La Dalat ít hỏng hóc, dễ sửa chữa lại nhẹ, tiện lợi. Chiếc xe hiện tại được ông Huy mua tại Đà Lạt khi tình cờ phát hiện nằm hoang phế trong một kho đồ cũ.

    “La Dalat là chiếc xe có tỷ lệ nội địa hóa cao nhất mà tôi biết và có thể gọi nó là made in Việt Nam. Tôi rất tự hào về một dòng xe mang thương hiệu của người Việt, có cái tên cũng rất Việt về một vùng đất nổi tiếng – Đà Lạt”, ông Huy nói.

    Ở miền Bắc Việt Nam, năm 1958 nhà máy Chiến Thắng (Hà Nội) đã cho ra đời chiếc ôtô 4 chỗ ngồi đầu tiên do người Việt Nam tự chế tạo. Ôtô lấy mẫu từ chiếc Fregate chạy bằng xăng của Pháp. Ngày 21/12/1958, chiếc xe Chiến Thắng chính thức rời xưởng chạy thử thành công.

    Tuy ra đời trước 10 năm nhưng do điều kiện chiến tranh ở miền Bắc nên xe Chiến Thắng không được sản xuất hàng loạt như La Dalat nên ít người biết tới.

    Theo VNexpress

  • Cung cách ngồi của người Việt Xưa

    Cung cách ngồi của người Việt Xưa

    Như đã từng đề cập trong bài về sập, phản, chõng, người Việt thời xưa thường có thói quen ngồi rất đặc trưng và phổ biến: ngồi bệt – tức là ngồi trên một mặt phẳng có diện tích rộng như sập ,phản hay sàn (trải chiếu). Dựa vào các tư liệu tranh ảnh và việc quan sát thói quen sinh họat người dân thời Lê, Nguyễn ta có thể thấy rõ điều này. Thường nhật khi ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí v.v. người Việt đều ngồi trên sập, phản, có những dịp như khi ăn cỗ, ăn lễ thì người ta còn trải chiếu lên sàn đất, sàn gạch mà ngồi.

    Ngoài ra, cùng với việc ngồi sập, người Việt – nhất là giới quý tộc – còn thường sử dụng gối xếp để tựa tay, tựa lưng lên tránh mỏi lưng. Gối xếp thường có dạng các lớp gối hình hộp gắn liền nhau, khi dùng thì xếp chồng rồi tựa tay lên (cũng có khi gối tựa có dạng một khối liền, nhưng chủ yếu vẫn là gối dạng gối xếp)

    Về tập tục này, dù hiện chỉ còn tranh ảnh thời Lê và Nguyễn còn khắc họa lại, ta cũng có thể suy về thời Lý Trần, thậm chí thời kỳ sơ khởi cũng không có nhiều điểm khác biệt, vì phong thái cung cách này mang đậm tính thói tục bản địa, nếu khác thì có chăng là hình dáng, họa tiết của sập, chiếu mà thôi.

    “An Nam Chí Lược” – Quyển 1 – chương “Phong tục” chép về thói quen tập tục của người An Nam thời Trần rằng: “Dân văn thân hiệu Ngô Việt chi tục… Địa thử nhiệt, hiếu dục ư giang, cố tiện đan thiện thủy. Bình cư bất quán, lập nghĩa thủ tịch tọa bàn song túc,” dịch nghĩa – “Dân vẽ mình bắt chước tục người Ngô, người Việt… vì khí hậu nóng nực, dân ưa tắm ở sông, nên họ chèo thuyền và lội nước rất giỏi. Ngày thường không đội mũ, đứng thì vòng hai tay, ngồi thì trải chiếu xếp bằng hai chân.”

    Cung cách ngồi của người Việt Xưa

    Trích đoạn trong An Nam Chí Lược Quyển 1 chương “Phong tục” (phần bôi màu): Bình cư bất quán, lập nghĩa thủ tịch tọa bàn song túc” – Ngày thường không đội mũ, đứng thì vòng hai tay, ngồi thì trải chiếu xếp bằng hai chân.

    “Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài” chép về thói quen ngồi của người thời Lê rằng “Họ bắt hai chân chéo lại như thợ may của ta (Pháp) ngồi vậy. Trong nhà có những vị vương hầu, trong phòng khách có một hậu cung (alcove) có một cái bệ cao hơn mặt đất khoảng 30 cm. Trên bệ trải một chiếc chiếu có sợi nhỏ như những sợi chỉ, họ không có tục trải thảm lên sàn như những xứ khác ở châu Á… Chiếu hình vuông, rộng độ tám, chín aunes, nhẵn và mềm như nhung. Người ta dùng chiếu này để trải lên bệ nơi các quan ngồi…”

    Về tục ngồi sập của thời Nguyễn, vùng Nam Kỳ thì: “Ngày 2/9/1822, Crawfurd đã gặp một hoạn quan giữ chức “Governor of Saigon” (có lẽ là Lê văn Duyệt ?) và tả một cuộc gặp gỡ khá tường tận: “Giữa phòng, trên một cái sập cao hơn thường lệ, là viên “Tổng trấn” ( ?) đang ngồi chễm chệ. Chúng tôi tiến lên cúi chào, ông ta cứ ngồi yên không đáp lễ. Sau đó người ta chỉ cho chúng tôi ngồi xuống dẫy ghế bên phải ông ta, ghế bên trái dành cho viên quan cao cấp bậc nhì trong phòng, những người khác đứng đằng sau hoặc ngồi trên một cái sập khác.” (Crawfurd , trang 216-217)

    Cung cách ngồi của người Việt Xưa

    Ảnh so sánh cung cách ngồi tiêu biểu của nữ quý tộc các nước Trung, Nhật, Việt, Hàn.

    Qua thói quen ngồi bệt này (cũng như với tục đi võng, vác kiếm…), ta cũng có thể hiểu rõ hơn về quan điểm, phương thức học hỏi văn minh nước khác của cha ông thuở trước: Dù kiểu dáng đồ cụ, phục trang có ảnh hưởng phong cách tạo tác của Trung Quốc, dù hoa văn họa tiết có học hỏi của Trung Quốc, thì với việc lưu giữ cái thói tục đặc trưng của mình, nhất quán qua các thời đại, phổ biến trong mọi tầng lớp, thì văn hóa Việt vừa mang đậm màu sắc phương Đông, mà vẫn tạo nên bản sắc rất độc đáo riêng biệt của dân tộc mình. Đó chính là cái tinh hoa văn hóa, là điểm tiến bộ của cha ông mà nay chúng ta phải học hỏi và kế tục vậy.

  • Những người trẻ may áo dài xưa trong thời hiện đại

    Trong miền Nam, tại thành phố Sài Gòn, có hai bạn biết may áo dài xưa thời Nguyễn, đều là những người trẻ đam mê lối cổ và văn hóa phục sức Việt Nam. Họ là Trần Nguyễn Trung Hiếu và Trần Lê Trung Hiếu.

    Album ảnh tổng hợp lại các hình ảnh từ các nguồn facbook cá nhân của hai bạn này và nguồn ảnh từ facebook của anh Trần Quang Đức.

    Nhằm để nhiều người thấy sản phẩm áo dài may theo lối xưa và cũng để cho mọi người biết hình dáng áo dài xưa khác như thế nào so với sự biến đổi của áo dài trong thời hiện tại. Khi mà có rất nhiều người không còn muốn may áo dài theo lối xưa mà chạy theo xu hướng cách tân áo dài hiện đại trong làng giải trí phim ảnh, thời trang,… khiến cho đa số nhiều người lầm tưởng xem áo dài hiện đại cách tân là trang phục truyền thống của Việt Nam. Điều này rất nguy hiểm bởi phần nào khiến người trẻ quên đi hình dáng xưa của áo dài thời Nguyễn, cũng như những loại áo xưa khác như áo giao lĩnh, viên lĩnh, nhật bình….

    Nguồn ảnh:
    _https://www.facebook.com/trantrunghieu.tran.18
    _https://www.facebook.com/cuuho.ly.7

    _https://www.facebook.com/quangduc.tran ·
    Theo Đại Việt Cổ Phong Group

  • Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay

    Thế hệ trẻ bây giờ hẳn sẽ thấy lạ lẫm khi lật giở lại những bức hình chụp đám cưới của cha mẹ mình ngày xưa. Trên nước ảnh đen trắng đã lấm tấm phai màu theo thời gian, người ta vẫn có thể nhìn thấy khá rõ gương mặt được “trang điểm” kỹ càng của chú rể. Việc hóa trang cho chú rể được quan tâm đặc biệt để đảm bảo chú rể có diện mạo tươi tắn và thật ăn ảnh. Ngày nay, thật hiếm thấy chú rể nào trang điểm mặt trắng, môi đỏ như thời ấy. Tuy nhiên, chỉ cần vài thủ thuật photoshop, các nhiếp ảnh gia chuyên chụp ảnh cưới có thể dễ dàng chỉnh sửa để chú rể trông thật “nuột nà”.

     

    Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    Cô dâu chú rể xưa…Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    …và nay.

    Ngày nay, những gia đình điều kiện kinh tế bình thường cũng có thể dễ dàng thuê xe hơi sang trọng đi đón dâu. Có nhà đại gia còn thuê hẳn dàn siêu xe hoành tráng. Những chiếc xe bóng bẩy, trang trí đầy bóng bay và hoa tươi dạo vài vòng trên phố trước khi rước dâu về vừa để bày tỏ sự phấn khởi của 2 bên gia đình, vừa như một cách để phô trương thanh thế.

    Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    Đón dâu bằng xe máy…Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    …và xe đạp ngày ấy.

    Ngẫm lại cái thời cách đây vài chục năm, chỉ có nhà nào được xếp vào hàng trung lưu trở lên mới có chiếc xe máy Dame hay Cub cho chú rể đi đón dâu. Còn đa số đều dùng xe đạp hoặc đi bộ. Có lẽ bây giờ, thế hệ trẻ sẽ khó mà hình dung được cảnh cô dâu mặc áo cưới lòe xòe phải đi bộ đến vài cây số về nhà chồng.

    Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    Đoàn rước dâu đi bộ trên con đường đất ngày xưa.Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    Thời nay, không ít nhà thuê hẳn siêu xe để đi đón dâu.

    Ở một số vùng ven đô và vùng nông thôn thời xưa còn có tục căng dây trước ngõ nhà cô dâu hoặc đóng cổng để đòi “lệ phí” của nhà trai. Lúc này, một người đại diện cho nhà trai phải đưa cho nhà gái bao thuốc và đối đáp lại những câu “hỏi xoáy” hài hước từ phía nhà gái. Đến khi nào nhà trai làm vừa lòng nhà gái thì mới được cho phép vào nhà làm lễ đón dâu. Tục lệ thú vị này giờ còn rất ít nơi lưu giữ được.

    Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    Căng dây trước ngõ nhà cô dâu đòi “lệ phí” của nhà trai – tục lệ tại một vùng nông thôn xưa.

     

    Cỗ cưới ngày ấy – bây giờ

    Xung quanh mâm cỗ cưới cũng có bao chuyện mà thế hệ đi trước vẫn phải cười nắc nẻ mỗi khi kể lại cho thế hệ trẻ bây giờ. Ngày ấy, nhà giàu, mâm cỗ cưới phải đủ bốn bát, sáu đĩa. Theo quan niệm của thời bấy giờ, con số 10 tròn trĩnh tượng trưng cho lời chúc hạnh phúc trọn vẹn dành tặng đôi vợ chồng mới. Ðương nhiên, đám cưới của các gia đình nghèo thì tằn tiện hơn nhưng nhất thiết không thể thiếu hai món chủ đạo là thịt gà luộc và xôi gấc.

    Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    Mâm cỗ cưới ngày xưa.

    Ở một số vùng còn có lệ cả làng đi ăn cỗ cưới. Cứ nghe thấy tiếng pháo nổ là cả làng kéo đến ăn. Có cụ già đã món hết cả răng, ăn uống chả được là bao vẫn chống gậy đến góp vui. Đám cưới thường được kéo dài nhiều ngày, ngày chính thì mời tất cả mọi người, còn những ngày phụ thì mời anh em, họ hàng thân thích đến dùng cơm và giúp đỡ làm cỗ, căng bạt. Cỗ cưới còn thừa được chia phần để mọi người mang về.

    Ngày nay, đám cưới thường được rút gọn xuống còn 1 ngày. Gia chủ sẽ chủ động giới hạn số lượng khách mời bằng cách gửi thiệp cưới. Cỗ đãi khách cũng được đặt theo yêu cầu, mỗi nhà mỗi kiểu. Nhiều gia đình còn thể hiện đẳng cấp bằng việc lựa chọn những món thật độc, lạ cho bàn tiệc cưới.

    Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    Tiệc cưới sang trọng ngày nay.

    Những năm 80 thiếu thốn, người ta thường mời cưới chay bằng miệng. Tuy nhiên, giới trung lưu cầu kỳ lại có mốt nhờ anh bạn hoạ sỹ nào đó vẽ thiếp mời giúp, vừa tiện lại vừa có vẻ lãng mạn. Có nhà dùng thứ thiếp hình chữ nhật, màu lòe loẹt, bên ngoài có đôi bồ câu, chữ song hỷ hay hình trái tim.

    Ngày nay, thiếp mời chủ yếu được đặt in hàng loạt với nhiều kiểu dáng và chất liệu giấy phong phú. Thiếp in màu đỏ may mắn hoặc màu vàng sang trọng thường được đại đa số ưa chuộng. Tuy nhiên, một số người cũng nhờ họa sĩ vẽ hình hoạt họa hài hước hoặc tự thiết kế mẫu thiếp thật “độc”, không “đụng hàng”.

    Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    Tấm thiệp cưới cực “độc” của giáo sư Xoay.

    Thời xưa, ai có gì, mừng đấy, người thì cái xoong, cái chậu, người thì cái phích. Ai không có thì sang dự chia vui tinh thần. Mọi người ngồi nói chuyện, cười đùa thật rôm rả đến tận xế chiều chưa muốn về. Còn bây giờ, đám cưới đàng hoàng hơn, hoành tráng hơn nhưng lại thiếu đi cái gần gũi, vô tư ngày ấy. Khách đến ăn cưới việc đầu tiên là tìm chiếc hộp bằng giấy đỏ để bỏ phong bì. Ăn cỗ, nếu cụng ly được một lần với cô dâu, chú rể và gia đình là đã đủ lễ, còn không thì ăn xong cứ tự động đứng lên ra về. Ai ăn trước, về trước, ai ăn sau, về sau. Có người đi ăn cưới thậm chí chẳng biết mặt cô dâu, chú rể.

    Gần đây, nhiều nhà còn có phong trào thuê chân dài ăn mặc mát mẻ, nhảy khêu gợi trong đám cưới để mua vui cho khách. Có điệu nhảy sôi động của các cô gái trẻ đẹp không ngại khoe thân, đám cưới dường như náo nhiệt hơn bởi tiếng hò reo, cổ vũ. Tuy nhiên, nó lại làm mất đi rất nhiều bản sắc của đám cưới truyền thống. Người ta bất chợt quên đi mục đích chính là đến chúc phúc cho đôi vợ chồng mới cưới trong lúc còn “bận” soi các chân dài, thậm chí nhiều người còn lấy di động để ghi lại hình ảnh đó.

    Chứng kiến đám cưới nhộn nhạo, không ít người tiếc nuối một ngày xưa ấy, khi những khách khứa giỏi văn nghệ xung phong lên làm MC hay hát vài câu dân ca, quan họ góp vui.

    Hành trình đón dâu của chú rể xưa và nay
    Đám cưới bình dị nhưng ấm áp ngày xưa.

    Lẽ tất nhiên, đám cưới là ngày trọng đại của đời người nên ai cũng muốn tổ chức cho thật hoành tráng, thật náo nhiệt, có thế thì mới “ngẩng mặt” được với bạn bè, với họ hàng, lối xóm. Thế nhưng tổ chức thế nào để mang lại niềm vui cho cả cô dâu, chú rể, hai họ thông gia lẫn khách khứa tới dự mới là vấn đề. Và lúc ấy, người ta lại bất chợt nhớ đến một đám cưới không mâm cao cỗ đầy, không có hot girl nhảy nhót nhưng lại tràn ngập tiếng cười ngày xưa.

    Theo Tri thức trẻ

  • Tìm hiểu mâm cỗ đám cưới xưa và nay

    Tìm hiểu mâm cỗ đám cưới xưa và nay

    Đám cưới là dịp vui hiếm có trong đời mỗi người, việc cần lưu tâm hàng đầu là chất lượng mâm cỗ cưới mời khách. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những nét khác biệt của cỗ cưới xưa và nay.
    chuyen-thu-vi-xung-quanh-dam-cuoi-xua-va-nay

    Người Việt Nam vốn cầu kỳ trong truyện ăn uống, miếng ăn không chỉ là miếng no mà còn là bộ mặt của cả gia đình, dòng tộc, đặc biệt là trong các dịp lễ tết hay hiếu hỉ trọng đại. Việc “trăm năm” vốn được coi là tiệc cỗ trọng đại hơn cả nên dù trong thời đại nào, việc lo chu toàn cho lễ cưới, đặc biệt là mâm cỗ cưới vẫn được lưu tâm hàng đầu.

    Một đám cưới xưa

    Khi xã hội cũ ở thời phân cấp giàu nghèo rõ rệt nhất ở đầu những năm 20, mâm cỗ cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa các tầng lớp. Mâm cỗ cưới nhà giàu có phản ánh đúng hình ảnh “mâm cao, cỗ đầy” với đủ bốn bát, sáu đĩa. Số 10 tròn trĩnh tượng trưng cho lời chúc hạnh phúc trọn vẹn cho đôi uyên ương trẻ theo quan niệm thời bấy giờ. Sáu đĩa bao gồm: Một đĩa thịt gà úp lật quân cờ vàng rượi, một đĩa thịt lợn quay xếp hình cánh hoa đều tăm tắp, một đĩa giò lụa , một đĩa chả quế, thêmmột đĩa xôi gấc, một đĩa nộm thập cẩm. Bốn góc mâm là bốn bát canh bao gồm: một bát măng hầm, một bát mọc nấu thả, một bát chim bồ câu hầm hạt sen, và một bát mực nấu rối gồm xu hào, cà rốt thái chỉ, trứng tráng thái chỉ, giò lụa thái chỉ, mực khô thái chỉ xào cháy cạnh với nước mắm đường… Đó là chưa kể đến các loại đĩa bát phụ như đĩa rau thơm, chanh, ớt, nước mắm hạt tiêu … Ngoài ra, nhà nào sang còn có thêm đĩa hoa quả tráng miệng hay đĩa chè kho.Mỗi mâm đặt 1 chai rượu trắng và 6 chiếc chén nhỏ bằng hạt mít cho khách uống rượu.

    Mâm cỗ những nhà thuộc tầng lớp thấp hơn có thể giản tiện đi đôi chút, bớt đi 2 hoặc 4 món, miễn là số món vẫn là chẵn tròn. Nhưng có hai món không thể thiếu trong bất kì mâm cỗ nào alf thịt gà luộc và xôi gấc – 2 món biểu trưng cho sự thinh vượng, may mắn và hạnh phúc

    Thịt gà luộc lá chanh và xôi gấc là hai món không thể thiếu trong bất cứ mâm cỗ cưới nào

    Trải qua thời gian, do sự phát triển của kinh tế cùng lối sống công nghiệp hóa, mâm cỗ cưới của hiện đại vì thế mà cũng có nhiều thay đổi.  Dù tự làm hay đặt tiệc, gia đình nhà đám cũng luôn lưu tâm đến chất lượng cỗ cũng như đón tiếp khách mời rất chu đáo. Nếu xưa kia, mỗi dịp cưới xin, anh em họ hàng sẽ kéo tới “làm giúp” trước khi ăn cỗ thì ngày nay, nhiều gia đình ưa chuộng việc thuê nấu cỗ vì vừa tiết kiệm được thời gian, địa điểm, công sức mà chi phí cũng không bị đội lên quá cao. Giá một mâm cỗ gồm nửa con gà ta hấp lá chanh, tôm chiên loại 12 con/đĩa, cá diêu hồng chiên giòn, bò hầm bánh bao, nộm su hào bò khô, rau cải xào nấm hương, canh bóng hoặc canh măng, xôi, ngô chiên bơ, cơm gạo tám… có giá khoảng 1 – 1,1 triệu/ mâm. So với việc tự mua nguyên liệu về nấu cỗ lấy thì mức giá này đắt hơn khoảng 20 – 30%. Tuy nhiên cũng cần lưu ý  đám cưới thường có đông người đến dự vì vậy đảm bảo chất lượng, sạch sẽ là điều quan trọng nhất. Khi đặt cỗ nên tham khảo ý kiến của bạn bè đã từng sử dụng dịch vụ này của cơ sở nào an toàn thì đặt chứ không nên đặt bừa.

    Cỗ đặt gồm đầy đủ các món

    Một loại hình mới cũng đang phổ biến không kém là tổ chức lễ cưới cùng tiệc cưới tại các nhà hàng,tuy giá thành có cao hơn một chút nhưng đảm bảo khách mời sẽ được thưởng thức cỗ cưới trong không gian sạch sẽ và sang trọng. Hiện nay, mỗi khi dự một bữa tiệc cưới tại miền Bắc ngày nay,  ta có thể dễ dàng nhận thấy sự giống nhau về các món ăn; gần như chỉ là một công thức và các món sẽ thứ tự được dọn lên bàn tiệc, chỉ cần thấy được vài món đầu tiên là thực khách có thể đoán chắc được bốn năm món sau là những món gì.

    Đặt tiệc cưới tại các nhà hàng cũng đang trở nên phổ biến

    Ở các nhà hàng sang trọng hiện nay, món đầu tiên để khai vị chắc chắn sẽ là một chén súp như gà hoặc cua, kem rau, hải sản. Còn các nhà hàng bình thường cũng phải có một loại súp khai vị như vậy, tuy chất lượng có thể sẽ thấp hơn một chút. Bát súp sền sệt như có những áng mây hòa quyện với nhau trên bầu trời, hay rồng – phượng giao nhau , mục đích là chúc mừng cho uyên ương.

    Súp khai vị

    Món ăn kế tiếp nhất thiết phải là một món ăn khô, thông thường thì đó là món nộm. Có thể sẽ là nộm đu đủ bò khô, nộm thập cẩm, ngó sen, ngũ sắc, … Ngoài ra, món ăn chính vẫn sẽ là thịt gà, hầu như trong bữa tiệc cưới nào từ trước đến nay cũng có, cũng có thể thay bằng thịt thỏ,thịt ngan… nhưng món gà vẫn là một món quen thuộc: Gà hấp muối, gà quay, hấp lá chanh… Và món ăn tiếp theo nữa mà trong thực đơn của các đám cưới ngày nay không không có, đó là món cá. Cá thường là cá sốt, đỏ, cá rán, sốt ngũ liễu, chiên cốm… thường thì người ta không ăn món cá nướng, đặc biệt là nướng cháy xém. Bởi theo như tâm lý của người Việt, đám cưới là niềm hạnh phúc của lứa đôi, nên kiêng các món ăn có vị đắng cay hay cháy xém,đen đủi….

    Trải qua thời gian, đã có không ít chuyển biến.Tuy không còn câu lệ như các cụ ngày xưa song không vì thế mà cỗ cưới ngày nay bớt đi sự cầu kỳ và chăm chút. Cỗ cưới dù cổ điển hay hiện đại vẫn mang dấu ấn nhất định của con người Việt Nam.

    (Depplus)

  • Tổng hợp phim Việt Nam hay nhất mọi thời

    Tổng hợp phim Việt Nam hay nhất mọi thời

    Nền điện ảnh Việt ta vô cùng đặc sắc, phong phú. Vậy nên thay vì ngồi “cày cuốc” những phim bộ, phim lẻ nước ngoài. Bạn hãy thử dành ra “vài hôm” xem cho hết loạt phim dưới đây, được đánh giá là hay nhất từ trước tới nay. Đặc biệt, chúng gắn liền với những ký ức, những thế hệ 7x,8x…

    Hình ảnh Việt Nam xin được chia sẻ từ The Rétro Studio và có chỉnh sửa phần mô tả !

    PHIM : 7 NGÀY LÀM VỢ Phim này hài cực ;)) Kể về 1 chú đi làm lương cao,có vợ ở nhà làm nội trợ.Thương thay chị vợ suốt ngày bị ông chú này hạch sách.Thế là chị vợ than thở với bạn bè xem cách để xoay chuyển tình thế. Mấy bà tám liền bàn cách thách thức hoán đổi công việc vợ chồng cho nhau trong vòng 7 ngày..Thế là từ đó bao nhiêu rắc rối xảy ra,vui cực :)) Đây là 1 bộ phim đáng xem,rất hay
    PHIM : 7 NGÀY LÀM VỢ
    Phim này rất hài hước, nội dung kể về 1 chú đi làm lương cao, cô vợ thì  ở nhà làm nội trợ. Thương thay, chị vợ suốt ngày bị ông chú này hạch sách. Thế là chị vợ than thở với bạn bè xem cách để xoay chuyển tình thế.
    Mấy bà tám liền bàn cách thách thức hoán đổi công việc vợ chồng cho nhau trong vòng 7 ngày. Thế rồi bao nhiêu rắc rối xảy ra,…  Đây là 1 bộ phim đáng xem.

     

     

    PHIM : CHUYỆN NHÀ MỘC Thấy đời sống của mình quá khổ cực, ông Mộc bằng mọi giá muốn cho con mình-Mai thi vào đại học,với hi vọng con gái mình nhờ vào mảnh bằng đó mà sau này khá hơn.Cho nên ông không thích Cường (Xuân Bắc) ve vãn con gái mình. Trong khi đó mẹ Mai thì nghĩ con gái không cần học thêm nữa mà chỉ muốn Mai sớm lấy chồng. Oái ăm là lúc Mai thi đỗ đại học,và chẳng bấy lâu....gửi tấm thiệp cưới về nhà cho bố mẹ.Từ đó bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười xảy ra
    PHIM : CHUYỆN NHÀ MỘC
    Thấy đời sống của mình quá khổ cực, ông Mộc bằng mọi giá muốn cho con mình -Mai- thi vào đại học, với hi vọng con gái mình nhờ vào mảnh bằng đó mà sau này khá hơn. Đồng thời, ông không thích Cường (Xuân Bắc) ve vãn con gái mình. Trong khi đó mẹ Mai thì nghĩ con gái không cần học thêm nữa mà chỉ muốn Mai sớm lấy chồng.
    Oái ăm là lúc Mai thi đỗ đại học, và chẳng bấy lâu….gửi tấm thiệp cưới về nhà cho bố mẹ. Từ đó bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười xảy ra

     

    PHIM : CẦU THANG NHÀ A26 Không còn bàn cãi gì độ hay của phim này.Nó được xếp vào dạng phim kinh điển của điện ảnh Việt Nam.Trong phim còn có sự góp mặt của cố diễn viên Trịnh Thịnh.Đây là một bộ phim đáng xem,dành vào những dịp quây quần cùng gia đình ^.^
    PHIM : CẦU THANG NHÀ A26
    Được xếp vào hàng kinh điển của điện ảnh Việt Nam.Phim còn có sự góp mặt của cố nghệ sỹ Trịnh Thịnh. Đây là một bộ phim đáng xem, dành vào những dịp quây quần cùng gia đình.

     

    PHIM : MẸ CON ĐẬU ĐŨA Link www.fb.com/theretrostudio/videos/977153679005663/ Nếu để nói về một phim Việt Nam cảm động và sâu sắc nhất về tình cha con thì có lẽ không thể bỏ qua Mẹ Con Đậu Đũa. Bộ phim là câu chuyện về cuộc sống của hai cha con Đậu Đũa tuy khó khăn, vất vả nhưng tràn ngập tình yêu thương. Mẹ Đậu Đũa mất từ khi em vẫn còn nhỏ, cha em một tay nuôi lớn em trong cảnh thiếu thốn và khổ ...
    PHIM : MẸ CON ĐẬU ĐŨA
    Nếu để nói về một phim Việt Nam nào có những cảnh cảm động và sâu sắc nhất về tình cha con thì có lẽ không thể bỏ qua Mẹ Con Đậu Đũa. Bộ phim là câu chuyện về cuộc sống của hai cha con Đậu Đũa tuy khó khăn, vất vả nhưng tràn ngập tình yêu thương.
    Mẹ của Đậu Đũa mất từ khi em vẫn còn nhỏ, cha em một tay nuôi lớn em trong cảnh thiếu thốn.

     

    PHIM : CỦA ĐỂ DÀNH Phim Của Để Dành đã sản xuất được hơn một thập kỷ. Tuy nhiên, vấn đề mà nó đề cập đến thì chưa bao giờ cũ. Những đứa con tất bật với cuộc sống riêng, không có thời gian chăm sóc cha mẹ, giao phó tất cả “chữ hiếu” cho người giúp việc là câu chuyện vẫn luôn hiện hữu ở thì hiện tại. Của Để Dành xoay quanh cuộc sống trong ngôi nhà cổ ở Hà Nội, nơi bà Vi và ba người con đã trưởng th...
    PHIM : CỦA ĐỂ DÀNH
    Phim Của Để Dành đã sản xuất được hơn một thập kỷ. Tuy nhiên, vấn đề mà nó đề cập đến thì chưa bao giờ cũ. Những đứa con tất bật với cuộc sống riêng, không có thời gian chăm sóc cha mẹ. Giao phó tất cả “chữ hiếu” cho người giúp việc là câu chuyện vẫn luôn hiện hữu ở thì hiện tại.
    Của Để Dành xoay quanh cuộc sống trong ngôi nhà cổ ở Hà Nội, nơi bà Vi và ba người con đã trưởng thành đang sống.

     

    PHIM: DÒNG SÔNG PHẲNG LẶNG Bộ phim dựa theo tác phẩm cùng tên của nhà văn Tô Nhuận Vỹ Nói về cuộc nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, được các nhà làm phim tái hiện một cách sinh động. Bối cảnh phim chủ yếu là cảnh ven đô và ngoại thành Huế, xoay quanh nhân vật trung tâm là các chiến sĩ biệt động thành như Cúc, Phi Hùng, Hồng, Hạnh (mẹ của Cúc)… Nội dung phim là cuộc chiến cân não giữa ta và địch, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, cuối cùng chiến thắng đã đến với người dân Việt Nam kiên trung, bất khuất. Tuy là một bộ phim về đề tài thời chiến,nhưng nó không bị khô khan,sa vào mô tả quá về chiến trường,mà trái lại-rất tình cảm và nhân văn.Người xem sẽ bị cuốn hút vào những câu chuyện tình cảm đep và đầy chất thơ. Đánh giá : Mình cá ai xem phim này 1 lần,chỉ 1 lần thôi,chắc chắn sẽ nhớ mãi ;))
    PHIM: DÒNG SÔNG PHẲNG LẶNG
    Bộ phim dựa theo tác phẩm cùng tên của nhà văn Tô Nhuận Vỹ
    Phim nói về cuộc nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, được các nhà làm phim tái hiện một cách sinh động. Bối cảnh phim chủ yếu là cảnh ven đô và ngoại thành Huế, xoay quanh nhân vật trung tâm là các chiến sĩ biệt động thành như Cúc, Phi Hùng, Hồng, Hạnh (mẹ của Cúc)…
    Nội dung phim là cuộc chiến cân não giữa 2 phe. Còn kết thúc thì như bạn đã biết!
    Tuy là một bộ phim về đề tài thời chiến, nhưng nó không bị khô khan, không sa vào mô tả quá về chiến trường, mà trái lại rất tình cảm và nhân văn. Người xem sẽ bị cuốn hút vào những câu chuyện tình cảm đẹp và đầy chất thơ.

     

    Film : MÙI ĐU ĐỦ XANH link : www.facebook.com/theretrostudio/videos/976160559104975/ Bộ phim nói về Mùi, một cô bé đi ở cho một gia đình buôn vải ở Sài Gòn khoảng những năm 1950. Trong gia đình này, người vợ là trụ cột chính, gánh vác công việc, còn ông chồng chỉ biết chơi bời. Ông bà chủ có 3 con trai, một người trưởng thành, tên là Trung. Hai con trai còn lại, một đang tuổi vị thành niên ít quan tâm tới Mùi. Đứa thứ hai khoảng tuổi Mùi thường xuyên trêu chọc cô. Khoảng 10 năm sau, Mùi đã lớn trở thành một thiếu nữ. Mùi rời nhà bà chủ đến giúp việc cho Khuyến-bạn của cậu Trung. Khuyến là một nghệ sĩ dương cầm và cũng là người mà Mùi có những cảm xúc đầu tiên lúc còn nhỏ. Ở nhà Khuyến, Mùi đã tìm được tình yêu và trở thành vợ của Khuyến.
    PHIM : MÙI ĐU ĐỦ XANH
    Bộ phim nói về Mùi, một cô bé đi ở cho một gia đình buôn vải ở Sài Gòn khoảng những năm 1950. Trong gia đình này, người vợ là trụ cột chính, gánh vác công việc, còn ông chồng chỉ biết chơi bời. Ông bà chủ có 3 con trai, một người trưởng thành, tên là Trung. Hai con trai còn lại, một đang tuổi vị thành niên ít quan tâm tới Mùi. Đứa thứ hai khoảng tuổi Mùi thường xuyên trêu chọc cô. Khoảng 10 năm sau, Mùi đã lớn trở thành một thiếu nữ. Mùi rời nhà bà chủ đến giúp việc cho Khuyến-bạn của cậu Trung. Khuyến là một nghệ sĩ dương cầm và cũng là người mà Mùi có những cảm xúc đầu tiên lúc còn nhỏ. Ở nhà Khuyến, Mùi đã tìm được tình yêu và trở thành vợ của Khuyến.
    Tuy bối cảnh là Sài Gòn thập niên 1950, nhưng Mùi đu đủ xanh được quay tại Paris, trường quay Bry - số 2 đại lộ Europe, Bry-sur-Marne, Val-de-Marne. Man San Lu vai Mùi khi nhỏ là người Pháp gốc Á. Nữ diễn viên Trần Nữ Yên Khê, vai Mùi lúc lớn, là một người Pháp gốc Việt, phát âm tiếng Việt không chuẩn => Theo đánh giá của ad,đây là 1 bộ film đẹp,từ từng cảnh quay cho đến màu sắc,nội dung rất nhân văn & "sạch".Điểm trừ nho nhỏ là giọng nói trong film không chuẩn lắm,tạo cảm giác giả.Tuy nhiên,ngoại trừ điểm trên thì mọi thứ rất tuyệt
    Tuy bối cảnh là Sài Gòn thập niên 1950, nhưng Mùi đu đủ xanh được quay tại Paris, trường quay Bry – số 2 đại lộ Europe, Bry-sur-Marne, Val-de-Marne. Man San Lu vai Mùi khi nhỏ là người Pháp gốc Á. Nữ diễn viên Trần Nữ Yên Khê, vai Mùi lúc lớn, là một người Pháp gốc Việt, phát âm tiếng Việt không chuẩn
    Theo đánh giá của ad, đây là 1 bộ film đẹp, từ từng cảnh quay cho đến màu sắc,nội dung rất nhân văn & “sạch”. Điểm trừ nho nhỏ là giọng nói trong film không chuẩn lắm, tạo cảm giác giả.Tuy nhiên, ngoại trừ điểm trên thì mọi thứ rất tuyệt!

     

    FILM : CHIẾC CHÌA KHÓA VÀNG Trong chiến tranh thời gian không chờ đợi ai, cần phải trân trọng những phút giây bên nhau. Đó là lời nhắn gửi mà bộ phim Chiếc chìa khóa vàng mang lại cho người xem. Phim xoay quanh một đôi trai gái, chàng trai tên Dũng (Ngọc Bảo) được gọi nhập ngũ lên đường đi chiến đấu, trong khi đó anh lại sắp cưới Nguyệt (Mỹ Duyên), cô gái mà anh yêu. Họ chỉ còn 1 ngày trước khi anh lên đường, trong thời kỳ khói lửa để tìm một phòng tân hôn là vô cùng khó. Dũng và Nguyệt đã vượt qua nhiều thử thách, bom đạn để tìm được Chiếc chìa khóa vàng cho căn phòng của họ. Tiếc thay, khi chiếc chìa khóa xuất hiện cũng là lúc Dũng phải lên đường....
    FILM : CHIẾC CHÌA KHÓA VÀNG
    Trong chiến tranh thời gian không chờ đợi ai, cần phải trân trọng những phút giây bên nhau. Đó là lời nhắn gửi mà bộ phim Chiếc chìa khóa vàng mang lại cho người xem. Phim xoay quanh một đôi trai gái, chàng trai tên Dũng (Ngọc Bảo) được gọi nhập ngũ lên đường đi chiến đấu, trong khi đó anh lại sắp cưới Nguyệt (Mỹ Duyên), cô gái mà anh yêu.
    Họ chỉ còn 1 ngày trước khi anh lên đường, trong thời kỳ khói lửa để tìm một phòng tân hôn là vô cùng khó. Dũng và Nguyệt đã vượt qua nhiều thử thách, bom đạn để tìm được Chiếc chìa khóa vàng cho căn phòng của họ. Tiếc thay, khi chiếc chìa khóa xuất hiện cũng là lúc Dũng phải lên đường….

     

    Bộ film như 1 bản khúc tình ca nhẹ nhàng trẩm bổng.Ad còn nhớ khoảnh khắc nhân vật Dũng & Nguyệt cầm tay nhau chạy giữa bom đạn ầm trời.Ngay lúc quân địch thả bom dữ dội vào lòng phố,đứng giữa sự sống & cái chết,Dũng đưa người yêu xuống hố nấp an toàn,còn thân anh chạy ra ngoài...Hay là những lúc đôi tình nhân bên nhau thắm thiết,đèo nhau qua những con phố để lựa chọn tấm thiệp cưới..Thực sự những cảnh phim đều rất lãng mạn & nghệ thuật
    Bộ film như 1 bản khúc tình ca nhẹ nhàng trẩm bổng. Ad còn nhớ khoảnh khắc nhân vật Dũng & Nguyệt cầm tay nhau chạy giữa bom đạn ầm trời. Ngay lúc quân địch thả bom dữ dội vào lòng phố, đứng giữa sự sống & cái chết, Dũng đưa người yêu xuống hố nấp an toàn còn thân anh chạy ra ngoài…Hay là những lúc đôi tình nhân bên nhau thắm thiết, đèo nhau qua những con phố để lựa chọn tấm thiệp cưới. Thực sự những cảnh phim đều rất lãng mạn & nghệ thuật.

     

    FILM : CHIẾN DỊCH TRÁI TIM BÊN PHẢI Biên kịch của Chiến dịch trái tim bên phải là nhà văn Hoàng Anh Tú – một cây bút gắn bó với các tạp chí dành cho thanh thiếu niên. Chính vì thế mà những câu chuyện trong phim rất thật, rất teen, khác hẳn với những tác phẩm làm về tuổi học trò đầy gượng ép. Không chỉ dành được sự yêu mến của những cô cậu học trò tuổi mới lớn mà các thầy cô giáo cũng đều rất mê bộ phim này.
    PHIM: CHIẾN DỊCH TRÁI TIM BÊN PHẢI
    Biên kịch của Chiến dịch trái tim bên phải là nhà văn Hoàng Anh Tú – một cây bút gắn bó với các tạp chí dành cho thanh thiếu niên. Chính vì thế mà những câu chuyện trong phim rất thật, rất teen, khác hẳn với những tác phẩm làm về tuổi học trò đầy gượng ép. Không chỉ dành được sự yêu mến của những cô cậu học trò tuổi mới lớn mà các thầy cô giáo cũng đều rất mê bộ phim này.
    Đây là 1 bộ phim rất đáng xem,mọi tình tiết đều nhẹ nhàng. Phim là một tổng thể những tình huống hài hước, quái quái của tuổi học trò, được chuyển vào phim sống động, chân thực khiến bộ phim như một miếng bánh kem ngọt ngào cho các bạn teen.
    Đây là 1 bộ phim rất đáng xem, mọi tình tiết đều nhẹ nhàng. Phim là một tổng thể những tình huống hài hước, quái quái của tuổi học trò, được chuyển vào phim sống động, chân thực khiến bộ phim như một miếng bánh kem ngọt ngào cho các bạn teen.

     

    FILM : PHÍA TRƯỚC LÀ BẦU TRỜI Phía trước là bầu trời" là bộ phim tâm lý xã hội của đạo diễn Đỗ Thanh Hải. Bộ phim đã nhận được nhiều sự đồng cảm ngày từ khi khởi chiếu. Những thước phim quay chậm về thời sinh viên nhiều khó khăn nhưng cũng lắm hoài bão của những cô cậu tỉnh lẻ lên Thủ đô học tập, sinh sống. Những hình ảnh của một xóm trọ nhỏ luôn đầy ắp tiếng cười với những trò tắm mưa, xin nước, xin đồ ăn… đến bây giờ vẫn còn khắc sâu trong mỗi người. Sự hồn nhiên, trong trắng của thời sinh viên rộn vang không âu lo được khắc họa một cách thành công qua từng vai diễn. Rồi những câu chuyện tình yêu thời sinh viên vui có, buồn có; những mâu thuẫn nảy sinh trong chính cuộc sống hằng ngày với nhiều mối quan hệ phức tạp trong xã hội cũng được nói tới. Những bộ hồ sơ xin việc cùng thời gian đợi chờ ở những nơi môi giới đã lấy đi của nhiều cô cậu sinh viên nét vô tư ngày đầu. Bộ phim còn khéo léo lồng ghép những "cảnh báo" cho thế hệ sinh viên: chuyện sống thử, bon chen… và đã rất thành công. Mỗi nhân vật trong phim lại khiến khán giả nhớ tới với những hình ảnh thực trong cuộc sống.
    PHIM : PHÍA TRƯỚC LÀ BẦU TRỜI
    Đây là bộ phim tâm lý xã hội của đạo diễn Đỗ Thanh Hải. Bộ phim đã nhận được nhiều sự đồng cảm ngày từ khi khởi chiếu. Những thước phim quay chậm về thời sinh viên nhiều khó khăn nhưng cũng lắm hoài bão của những cô cậu tỉnh lẻ lên Thủ đô học tập, sinh sống.
    Những hình ảnh của một xóm trọ nhỏ luôn đầy ắp tiếng cười với những trò tắm mưa, xin nước, xin đồ ăn… đến bây giờ vẫn còn khắc sâu trong mỗi người. Sự hồn nhiên, trong trắng của thời sinh viên rộn vang không âu lo được khắc họa một cách thành công qua từng vai diễn. Rồi những câu chuyện tình yêu thời sinh viên vui có, buồn có; những mâu thuẫn nảy sinh trong chính cuộc sống hằng ngày với nhiều mối quan hệ phức tạp trong xã hội cũng được nói tới. Những bộ hồ sơ xin việc cùng thời gian đợi chờ ở những nơi môi giới đã lấy đi của nhiều cô cậu sinh viên nét vô tư ngày đầu.
    Bộ phim còn khéo léo lồng ghép những “cảnh báo” cho thế hệ sinh viên: chuyện sống thử, bon chen… và đã rất thành công. Mỗi nhân vật trong phim lại khiến khán giả nhớ tới với những hình ảnh thực trong cuộc sống.

     

    FILM : HOA CỎ MAY Bộ phim "Hoa cỏ may" của đạo diễn Lưu Trọng Ninh được ra mắt công chúng vào năm 2001. Phim kể lại câu chuyện của một nhóm bạn trẻ lớn lên trong thời bao cấp. "Hoa cỏ may" gồm 2 phần: "Thời niên thiếu" gồm 4 tập và "Những ngày bình yên" gồm 8 tập. Phim không chỉ để lại cho người xem ấn tượng về nội dung đậm tính nhân văn mà còn đem đến cho khán giả nhiều cung bậc cảm xúc. Là sự hắt hủi của cô bé con lai của những người xung quanh; là nét hồn nhiên, dung dị của những cô cậu thân thiết với nhau từ thuở bé…
    PHIM : HOA CỎ MAY
    Bộ phim “Hoa cỏ may” của đạo diễn Lưu Trọng Ninh được ra mắt công chúng vào năm 2001. Phim kể lại câu chuyện của một nhóm bạn trẻ lớn lên trong thời bao cấp.
    “Hoa cỏ may” gồm 2 phần: “Thời niên thiếu” gồm 4 tập và “Những ngày bình yên” gồm 8 tập. Phim không chỉ để lại cho người xem ấn tượng về nội dung đậm tính nhân văn mà còn đem đến cho khán giả nhiều cung bậc cảm xúc. Là sự hắt hủi của cô bé con lai của những người xung quanh; là nét hồn nhiên, dung dị của những cô cậu thân thiết với nhau từ thuở bé…

     

    Ngoài những gương mặt diễn viên thân thuộc thời đó.Bộ phim còn có sự góp mặt của nữ hoàng giải trí Hồ Ngọc Hà “Gió heo may, tìm theo những bông cỏ may. Mùa thu đã qua cùng gió. Tìm trong ký ức ngọt ngào. Xót thương thu vàng, về nơi chốn cũ…”, những ca từ trong ca khúc này vẫn đủ sức đánh thức ký ức của nhiều người về những hình ảnh trong Hoa cỏ may. Hoa cỏ may đến giờ vẫn là phim truyền hình đáng nhớ của rất nhiều bạn trẻ — tại The Rétro Studio.
    Ngoài những gương mặt diễn viên thân thuộc thời đó. Bộ phim còn có sự góp mặt của nữ hoàng giải trí Hồ Ngọc Hà
    “Gió heo may, tìm theo những bông cỏ may. Mùa thu đã qua cùng gió. Tìm trong ký ức ngọt ngào. Xót thương thu vàng, về nơi chốn cũ…”, những ca từ trong ca khúc này vẫn đủ sức đánh thức ký ức của nhiều người về những hình ảnh trong 
    Hoa cỏ may đến giờ vẫn là phim truyền hình đáng nhớ của rất nhiều bạn trẻ.

     

    FILM : NHỮNG NGỌN NẾN TRONG ĐÊM Bộ phim kể về cuộc đời của Trúc (Mai Thu Huyền thủ vai) sống cùng mẹ và dượng. Trong một lần tình cờ, Trúc được thế chân người chị quen biết để trình diễn thời trang. Từ đó, niềm đam mê thiết kế thời trang trỗi dậy và cô quyết tâm theo đuổi đam mê của mình. Tuy nhiên, cuộc đời cô cũng gặp rất nhiều sóng gió. Người mà cô yêu thương, lấy làm chồng lại bị ma túy lôi kéo. Những trận đòn roi không lý do khiến Trúc trở nên cam chịu. Cuộc sống hậu trường của những chân dài cũng phần nào được tiết lộ qua bộ phim. "Những ngọn nến trong đêm" để lại được nhiều thiện cảm trong lòng khán giả, đến mức nhiều nhân vật chính trong phim được nhắc tới vẫn gắn liền với những cái tên, vai diễn năm nào. Đây là bộ phim tâm lý, tình cảm của đạo diễn Vũ Hồng Sơn, ra mắt khán giả năm 2002.
    PHIM : NHỮNG NGỌN NẾN TRONG ĐÊM
    Bộ phim kể về cuộc đời của Trúc (Mai Thu Huyền thủ vai) sống cùng mẹ và dượng. Trong một lần tình cờ, Trúc được thế chân người chị quen biết để trình diễn thời trang. Từ đó, niềm đam mê thiết kế thời trang trỗi dậy và cô quyết tâm theo đuổi đam mê của mình.
    Tuy nhiên, cuộc đời cô cũng gặp rất nhiều sóng gió. Người mà cô yêu thương, lấy làm chồng lại bị ma túy lôi kéo. Những trận đòn roi không lý do khiến Trúc trở nên cam chịu. Cuộc sống hậu trường của những chân dài cũng phần nào được tiết lộ qua bộ phim.
    “Những ngọn nến trong đêm” để lại được nhiều thiện cảm trong lòng khán giả, đến mức nhiều nhân vật chính trong phim được nhắc tới vẫn gắn liền với những cái tên, vai diễn năm nào. Đây là bộ phim tâm lý, tình cảm của đạo diễn Vũ Hồng Sơn, ra mắt khán giả năm 2002.
    Cho đến nay,tuy đã và đang chiếu "Những ngọn nến trong đêm" phần 2.Nhưng cá nhân ad vẫn yêu sự mộc mạc,chân chất của phần 1.Giờ thỉnh thoảng xem lại vẫn thấy thích
    Cho đến nay,tuy đã và đang chiếu “Những ngọn nến trong đêm” phần 2. Nhưng cá nhân ad vẫn yêu sự mộc mạc, chân chất của phần 1. Giờ thỉnh thoảng xem lại vẫn thấy thích!

     

    FILM : ĐỘI ĐẶC NHIỆM NHÀ C21 Không cần phải nói nhiều về bộ phim này đúng không ạ ^.^ Ngày xưa (và kể cả bây giờ),mình cứ vẫn thích xem. Tuổi thơ mỗi bạn trẻ 8x, 9x đời đầu hẳn không thể nào vắng bóng bộ phim truyền hình "Đội đặc nhiệm nhà C21" trong ký ức. Cái thời mà phim Hàn chưa đổ bộ, Internet chưa phổ biến, "Đội đặc nhiệm nhà C21" gần như trở thành bộ phim tiêu biểu dành cho khán giả nhí những năm cuối thập niên 90. Lên sóng vào năm 1998, "Đội đặc nhiệm nhà C21" dài 9 tập, kể về một nhóm thám tử nhí trong khu nhà C21 gồm: Sơn "sọ", Quang "sọt", Minh "tổ cú", Tùng quắt, Sáng béo. Cả 5 cậu nhóc học chung một lớp, lại có chung đam mê điều tra phá án, nên cùng nhau lập ra một nhóm mang tên "Đội đặc nhiệm nhà C21". Sau đó nhóm còn kết nạp thêm 2 cô bạn cùng trường là Tuyết "mèo con" và Hạnh "tăm tre".
    PHIM: ĐỘI ĐẶC NHIỆM NHÀ C21
    Tuổi thơ mỗi bạn trẻ 8x, 9x đời đầu hẳn không thể nào vắng bóng bộ phim truyền hình “Đội đặc nhiệm nhà C21” trong ký ức. Cái thời mà phim Hàn chưa đổ bộ, Internet chưa phổ biến, “Đội đặc nhiệm nhà C21” gần như trở thành bộ phim tiêu biểu dành cho khán giả nhí những năm cuối thập niên 90.
    Lên sóng vào năm 1998, “Đội đặc nhiệm nhà C21” dài 9 tập, kể về một nhóm thám tử nhí trong khu nhà C21 gồm: Sơn “sọ”, Quang “sọt”, Minh “tổ cú”, Tùng quắt, Sáng béo. Cả 5 cậu nhóc học chung một lớp, lại có chung đam mê điều tra phá án, nên cùng nhau lập ra một nhóm mang tên “Đội đặc nhiệm nhà C21”. Sau đó nhóm còn kết nạp thêm 2 cô bạn cùng trường là Tuyết “mèo con” và Hạnh “tăm tre”.
    Trong lần tái ngộ khán giả truyền hình sau 17 năm, Minh "tổ cú" - diễn viên Tuấn Long và Hạnh "tăm tre" - Hồng Anh đã chia sẻ với khán giả khá nhiều kỷ niệm với bộ phim. Sau khi "Đội đặc nhiệm nhà C21" lên sóng, những diễn viên nhí trong phim vụt nổi tiếng và nhận được rất nhiều sự ngưỡng mộ của bạn bè cùng trang lứa. Như Tuấn Long chia sẻ thì "đến cuối năm học, nhìn lại số thư mà các bạn gửi về trường, về nhà, không thể đếm được mà phải tính bằng... cân". Hiện tại, các diễn viên nhí ngày ấy đã "lớn khôn", có nhiều người còn lập gia đình và lên chức bố, mẹ. Diễn viên Hán Quang Tú trong vai Quang sọt đã trở thành diễn viên trẻ triển vọng, từng đạt nhiều thành tích cao và là giảng viên đại học Sân Khấu Điện Ảnh chuyên ngành diễn xuất.
    Trong lần tái ngộ khán giả truyền hình sau 17 năm, Minh “tổ cú” – diễn viên Tuấn Long và Hạnh “tăm tre” – Hồng Anh đã chia sẻ với khán giả khá nhiều kỷ niệm với bộ phim. Sau khi “Đội đặc nhiệm nhà C21” lên sóng, những diễn viên nhí trong phim vụt nổi tiếng và nhận được rất nhiều sự ngưỡng mộ của bạn bè cùng trang lứa. Như Tuấn Long chia sẻ thì “đến cuối năm học, nhìn lại số thư mà các bạn gửi về trường, về nhà, không thể đếm được mà phải tính bằng… cân”.
    Hiện tại, các diễn viên nhí ngày ấy đã “lớn khôn”, có nhiều người còn lập gia đình và lên chức bố, mẹ. Diễn viên Hán Quang Tú trong vai Quang sọt đã trở thành diễn viên trẻ triển vọng, từng đạt nhiều thành tích cao và là giảng viên đại học Sân Khấu Điện Ảnh chuyên ngành diễn xuất.

     

    FILM : TỨ QUÁI SÀI GÒN Tứ quái Sài Gòn là tên một bộ phim điện ảnh hài do hãng phim Lido sản xuất năm 1973. Phim quy tụ nhiều diễn viên nổi tiếng của miền Nam Việt Nam như quái kiệt Tùng Lâm, La Thoại Tân, Khả Năng, Thanh Việt, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Văn Giai, Túy Hoa. Đây là một phim hài tiêu biểu của miền Nam trước 1975, được phụ đề bằng tiếng Trung và tiếng Pháp, phát hành đi nhiều nước châu Á.
    PHIM: TỨ QUÁI SÀI GÒN
    Tứ quái Sài Gòn là tên một bộ phim điện ảnh hài do hãng phim Lido sản xuất năm 1973. Phim quy tụ nhiều diễn viên nổi tiếng của miền Nam Việt Nam như quái kiệt Tùng Lâm, La Thoại Tân, Khả Năng, Thanh Việt, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Văn Giai, Túy Hoa.
    Đây là một phim hài tiêu biểu của miền Nam trước 1975, được phụ đề bằng tiếng Trung và tiếng Pháp, phát hành đi nhiều nước châu Á.
    Tứ quái Sài Gòn có sự tham gia diễn xuất của minh tinh Thẩm Thuý Hằng đấy bạn
    Tứ quái Sài Gòn có sự tham gia diễn xuất của minh tinh Thẩm Thuý Hằng đấy bạn

     

    PHIM : MÙA HÈ CHIẾU THẲNG ĐỨNG Nội dung phim lấy bối cảnh Hà Nội, gia đình của bốn chị em nhà nọ sum họp cùng nhau để chuẩn bị giỗ mẹ tại quán nước của người chị cả, Sương (Nguyễn Như Quỳnh). Trong ngày giỗ, Khanh (Lê Khanh) kể lúc chồng mình, Kiên (Trần Mạnh Cường) tìm được manh mối về thân phận của ông Phan Châu Toàn, người được tin là mối tình lúc trẻ thơ mà mẹ họ tiết lộ trong lúc lâm chung. Người cha của họ lúc đó vì quá đau buồn mà cũng qua đời vào một tháng sau. Sau ngày giỗ, Khanh tiết lộ mình có thai cùng Kiên, nhưng đề nghị anh giữ kín thêm một vài tháng nữa. Trong lúc gặp bế tắc trong đoạn kết của quyển tiểu thuyết đầu tay, Kiên quyết định bỏ ra một tuần lễ đến Sài Gòn cho khuây khỏa. Trong chuyến đi, anh tìm đến phòng của một người phụ nữ tại khách sạn, dù họ không có gì với nhau. Biết được chuyện, Khanh nghi ngờ sự trung thực của chồng mình.
    PHIM : MÙA HÈ CHIẾU THẲNG ĐỨNG
    Nội dung phim lấy bối cảnh Hà Nội, gia đình của bốn chị em nhà nọ sum họp cùng nhau để chuẩn bị giỗ mẹ tại quán nước của người chị cả, Sương (Nguyễn Như Quỳnh). Trong ngày giỗ, Khanh (Lê Khanh) kể lúc chồng mình, Kiên (Trần Mạnh Cường) tìm được manh mối về thân phận của ông Phan Châu Toàn, người được tin là mối tình lúc trẻ thơ mà mẹ họ tiết lộ trong lúc lâm chung. Người cha của họ lúc đó vì quá đau buồn mà cũng qua đời vào một tháng sau.
    Sau ngày giỗ, Khanh tiết lộ mình có thai cùng Kiên, nhưng đề nghị anh giữ kín thêm một vài tháng nữa. Trong lúc gặp bế tắc trong đoạn kết của quyển tiểu thuyết đầu tay, Kiên quyết định bỏ ra một tuần lễ đến Sài Gòn cho khuây khỏa. Trong chuyến đi, anh tìm đến phòng của một người phụ nữ tại khách sạn, dù họ không có gì với nhau. Biết được chuyện, Khanh nghi ngờ sự trung thực của chồng mình.
    Mùa hè chiều thẳng đứng được các nhà phê bình điện ảnh khen ngợi. Trên trang tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim nhận được "Chứng nhận tươi" với 82% đánh giá tích cực được tổng hợp dựa trên 55 bài bình luận, với điểm số trung bình là 7,1 trên 10, cùng lời nhận xét "Mùa hè chiều thẳng đứng điềm tĩnh một cách tráng lệ, nên thơ, ru người xem vào câu chuyện đời thường". Theo đánh giá cá nhân thì mình thấy tuy đây là 1 phim thuộc dòng nghệ thuật,khá "art",nhưng không kiểu bị hàn lâm khó hiểu,mà lại rất hay và đáng xem.
    Mùa hè chiều thẳng đứng được các nhà phê bình điện ảnh khen ngợi. Trên trang tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim nhận được “Chứng nhận tươi” với 82% đánh giá tích cực được tổng hợp dựa trên 55 bài bình luận, với điểm số trung bình là 7,1 trên 10, cùng lời nhận xét “Mùa hè chiều thẳng đứng điềm tĩnh một cách tráng lệ, nên thơ, ru người xem vào câu chuyện đời thường”.

     

    PHIM : XÍCH LÔ Một hiện tượng kỳ lạ, một niềm tự hào của điện ảnh Việt, và cho đến tận bây giờ, chưa có bộ phim nào cũng như đạo diễn nào có thể làm được như Trần Anh Hùng, giành giải Sư Tử Vàng tại Liên Hoan Phim Venice, một giải thưởng quốc tế vô cùng danh giá. Nhờ bộ phim mà rất nhiều người nước ngoài biết đến Việt Nam và rất nhiều người quyết định đến Việt Nam sau khi xem phim. Lê Văn Lộc, nam chính của phim, được ưu ái gọi là “người đạp xích-lô ra thế giới”.
    PHIM : XÍCH LÔ
    Một hiện tượng kỳ lạ, một niềm tự hào của điện ảnh Việt, và cho đến tận bây giờ, chưa có bộ phim nào cũng như đạo diễn nào có thể làm được như Trần Anh Hùng, giành giải Sư Tử Vàng tại Liên Hoan Phim Venice, một giải thưởng quốc tế vô cùng danh giá. Nhờ bộ phim mà rất nhiều người nước ngoài biết đến Việt Nam và rất nhiều người quyết định đến Việt Nam sau khi xem phim. Lê Văn Lộc, nam chính của phim, được ưu ái gọi là “người đạp xích-lô ra thế giới”.
    Thế nhưng, ngay tại quê nhà, bộ phim đã không được cấp phép để chiếu tại các rạp, dù bộ phim nói về Việt Nam, diễn viên Việt Nam, quay tại Việt Nam. Đơn giản là trong phim phản ảnh một xã hội quá tàn khốc, những cảnh bạo lực cùng những đau thương quá lớn không phải hiện thực tại Việt Nam, phim được diễn đạt bằng một ngôn ngữ điện ảnh độc đáo nhưng lạnh lùng, tàn nhẫn, cho dù trong phim còn có sự góp mặt của ngôi sao điện ảnh Hoa ngữ là Lương Triều Vỹ cùng rất nhiều ngôi sao khác của điện ảnh Việt Nam như là NSND Như Quỳnh, Trịnh Thịnh… nhưng đó không thể là yếu tố chính để bộ phim được hoan nghênh tại nước nhà. => Cá nhân mình rất yêu thích bộ phim này ^.^ Nó gai góc nhưng phản ánh rất đúng chân thực cuộc sống.Quay cũng đẹp nữa,tóm lại rất đáng xem,hehe
    Thế nhưng, ngay tại quê nhà, bộ phim đã không được cấp phép để chiếu tại các rạp, dù bộ phim nói về Việt Nam, diễn viên Việt Nam, quay tại Việt Nam. Đơn giản là trong phim phản ảnh một xã hội quá tàn khốc, những cảnh bạo lực cùng những đau thương quá lớn không phải hiện thực tại Việt Nam, phim được diễn đạt bằng một ngôn ngữ điện ảnh độc đáo nhưng lạnh lùng, tàn nhẫn, cho dù trong phim còn có sự góp mặt của ngôi sao điện ảnh Hoa ngữ là Lương Triều Vỹ cùng rất nhiều ngôi sao khác của điện ảnh Việt Nam như là NSND Như Quỳnh, Trịnh Thịnh… nhưng đó không thể là yếu tố chính để bộ phim được hoan nghênh tại nước nhà.

     

    PHIM : ĐẤT PHƯƠNG NAM Đất Phương Nam – một bộ phim thiếu nhi đầy xúc động và ý nghĩa về cuộc sống, con người vùng sông nước Nam Bộ. Bộ phim kể về cuộc hành trình đi tìm cha của chú bé An (Hùng Thuận đóng), và trong chuyến đi về phương Nam, An đã phải chứng kiến biết bao sự oan nghiệt của cuộc đời. Tại nơi đây, những người nông dân bị đàn áp một cách dã man, họ bị chiếm đất, chiếm ruộng, chế độ thực dân phong kiến đã buộc những con người vốn hiền lành, chất phác buộc phải nổi dậy. Tuy long đong, lận đận và phải lưu lạc ở khắp chân trời góc bể để tìm cha nhưng An luôn được sống trong sự đùm bọc và lòng nhân ái của mọi người, và chính điều đó đã trở thành nguồn động lực giúp An có sức mạnh và niềm tin vững vàng để vượt qua mọi khó khăn. Được chuyển thể từ tác phẩm Đất Rừng Phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi, bộ phim đã khắc họa rõ nét cuộc sống của người dân Nam Bộ trong những năm tháng kháng chiến. Đất Phương Nam còn lên án tội ác chiến tranh và thực dân phong kiến ngày trước. Chính chiến tranh và sự hống hách của chế độ đã khiến biết bao người dân sống trong cảnh lầm than, biết bao đứa trẻ như An phải đi lưu lạc khắp nơi để tìm lại những người thân thích.
    PHIM : ĐẤT PHƯƠNG NAM
    Đất Phương Nam – một bộ phim thiếu nhi đầy xúc động và ý nghĩa về cuộc sống, con người vùng sông nước Nam Bộ. Bộ phim kể về cuộc hành trình đi tìm cha của chú bé An (Hùng Thuận đóng), và trong chuyến đi về phương Nam, An đã phải chứng kiến biết bao sự oan nghiệt của cuộc đời. Tại nơi đây, những người nông dân bị đàn áp một cách dã man, họ bị chiếm đất, chiếm ruộng, chế độ thực dân phong kiến đã buộc những con người vốn hiền lành, chất phác buộc phải nổi dậy.
    Tuy long đong, lận đận và phải lưu lạc ở khắp chân trời góc bể để tìm cha nhưng An luôn được sống trong sự đùm bọc và lòng nhân ái của mọi người, và chính điều đó đã trở thành nguồn động lực giúp An có sức mạnh và niềm tin vững vàng để vượt qua mọi khó khăn. Được chuyển thể từ tác phẩm Đất Rừng Phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi, bộ phim đã khắc họa rõ nét cuộc sống của người dân Nam Bộ trong những năm tháng kháng chiến. Đất Phương Nam còn lên án tội ác chiến tranh và thực dân phong kiến ngày trước. Chính chiến tranh và sự hống hách của chế độ đã khiến biết bao người dân sống trong cảnh lầm than, biết bao đứa trẻ như An phải đi lưu lạc khắp nơi để tìm lại những người thân thích.

     

    PHIM: XIN HÃY TIN EM Xin hãy tin em là một bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của Nguyễn Thị Thu Huệ. Đây là bộ phim đầu tay của đạo diễn Đỗ Thanh Hải với dàn diễn viên trẻ của thời điểm đó như Bùi Lệ Hằng, Lê Vũ Long, Hoa Thúy... bộ phim được phát sóng trong chương trình văn nghệ chủ nhật vào năm 1997. Bộ phim tập trung miêu tả Hoài "thát-chơ" một cô sinh viên năm cuối trường Tổng hợp với tính cách mạnh mẽ, phá phách, ngang tàng gặp chàng sinh viên Nhạc viện tên Phong đã làm cô thay đổi.
    PHIM: XIN HÃY TIN EM
    Xin hãy tin em là một bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của Nguyễn Thị Thu Huệ.
    Đây là bộ phim đầu tay của đạo diễn Đỗ Thanh Hải với dàn diễn viên trẻ của thời điểm đó như Bùi Lệ Hằng, Lê Vũ Long, Hoa Thúy… bộ phim được phát sóng trong chương trình văn nghệ chủ nhật vào năm 1997. Bộ phim tập trung miêu tả Hoài “thát-chơ” một cô sinh viên năm cuối trường Tổng hợp với tính cách mạnh mẽ, phá phách, ngang tàng gặp chàng sinh viên Nhạc viện tên Phong đã làm cô thay đổi.
    Xin Hãy Tin Em xoay quanh cô sinh viên Hoài "thát-chơ" người tỉnh lẻ nổi tiếng khắp khu ký túc xá trường Tổng Hợp Hà Nội vì thói ăn chơi, ngang ngạnh, phá phách thường xuyên trốn học, đi đòi nợ, uống rượu với đám con trai... nhưng ẩn sâu trong tính cách lại là một cô gái tốt vì thường dạy học cho Minh - thằng bé đánh giày từng được Hoài giúp trốn khỏi công an. Trong một lần tình cờ đi ra bưu điện để nhận tiền của bố mẹ gửi, Hoài đã gặp Phong - chàng sinh viên chơi Violin đang học tại Nhạc viện Hà Nội, hai người bị cuốn hút ngay từ cái nhìn đầu tiên và bắt đầu hẹn hò. Biết được mối quan hệ này của Hoài, đám bạn cùng phòng cũng gồm những cô sinh viên tỉnh lẻ đã nỗ lực khuyên nhủ, giúp đỡ mà đặc biệt là Thắm và Hường, Hoài trở thành cô sinh viên dịu dàng, nữ tính. Mối quan hệ của Hoài với Phong ngày càng sâu sắc, Phong đã mời Hoài về nhà dự sinh nhật của chị mình. Tại tiệc sinh nhật, Phương - bạn gái cũ của Phong cũng có mặt, dùng lời lẽ để tỏ ra khinh miệt Hoài, cố dùng rượu làm Hoài say. Cuối cùng, Hoài không chịu nổi Phương, tự mình uống say và vô tình lộ ra Hoài không phải là con người như Phong tưởng, cô nhảy nhót với đám con trai làm gia đình Phong hết sức ngạc nhiên và thất vọng. Với sức ép của gia đình, Phong đưa Hoài về nhà trọ và chấm dứt mọi quan hệ mặc cho Hoài van xin Phong hãy tin rằng Hoài đã thay đổi. Vì tuyệt vọng, Hoài bỏ về tận quê thằng bé đánh giày Minh ở mãi Thanh Hóa định bỏ học và thi. Đám bạn của Hoài vô cùng lo lắng, họ tìm mọi cách để tìm ra nơi Hoài đi đến. Cuối phim là cảnh đoàn tụ của những người bạn.
    Xin Hãy Tin Em xoay quanh cô sinh viên Hoài “thát-chơ” người tỉnh lẻ nổi tiếng khắp khu ký túc xá trường Tổng Hợp Hà Nội vì thói ăn chơi, ngang ngạnh, phá phách thường xuyên trốn học, đi đòi nợ, uống rượu với đám con trai… nhưng ẩn sâu trong tính cách lại là một cô gái tốt vì thường dạy học cho Minh – thằng bé đánh giày từng được Hoài giúp trốn khỏi công an. Trong một lần tình cờ đi ra bưu điện để nhận tiền của bố mẹ gửi, Hoài đã gặp Phong – chàng sinh viên chơi Violin đang học tại Nhạc viện Hà Nội, hai người bị cuốn hút ngay từ cái nhìn đầu tiên và bắt đầu hẹn hò. Biết được mối quan hệ này của Hoài, đám bạn cùng phòng cũng gồm những cô sinh viên tỉnh lẻ đã nỗ lực khuyên nhủ, giúp đỡ mà đặc biệt là Thắm và Hường, Hoài trở thành cô sinh viên dịu dàng, nữ tính. Mối quan hệ của Hoài với Phong ngày càng sâu sắc, Phong đã mời Hoài về nhà dự sinh nhật của chị mình. Tại tiệc sinh nhật, Phương – bạn gái cũ của Phong cũng có mặt, dùng lời lẽ để tỏ ra khinh miệt Hoài, cố dùng rượu làm Hoài say. Cuối cùng, Hoài không chịu nổi Phương, tự mình uống say và vô tình lộ ra Hoài không phải là con người như Phong tưởng, cô nhảy nhót với đám con trai làm gia đình Phong hết sức ngạc nhiên và thất vọng. Với sức ép của gia đình, Phong đưa Hoài về nhà trọ và chấm dứt mọi quan hệ mặc cho Hoài van xin Phong hãy tin rằng Hoài đã thay đổi. Vì tuyệt vọng, Hoài bỏ về tận quê thằng bé đánh giày Minh ở mãi Thanh Hóa định bỏ học và thi. Đám bạn của Hoài vô cùng lo lắng, họ tìm mọi cách để tìm ra nơi Hoài đi đến. Cuối phim là cảnh đoàn tụ của những người bạn.

     

    PHIM : SÓNG Ở ĐÁY SÔNG Sóng ở đáy sông là một bộ phim dựa trên một câu chuyện có thật về cuộc đời của một con người trong xã hội của đạo diễn Lê Đức Tiến, ra mắt lần đầu năm 2000. Bộ phim nói về một nhân vật tên Núi và cuộc đời của cậu. Núi vốn là con của một người vợ lẽ và bản thân mẹ cậu nguyên là một người ở trong một gia đình tư sản thời cũ. Từ nhỏ Núi và hai em (Sông và Biển) không được bố cậu chấp nhận là con, bốn mẹ con chỉ được ăn cơm thừa canh cặn, bố Núi luôn tìm cách để tống khứ bốn người ra khỏi nhà, khi chiến tranh nổ ra, lợi dụng việc di tản của thành phố, ông ta đã gửi ba anh em về bên ngoại. Cậu học ở quê ngoại và được đi thi học sinh giỏi. Ở quê ngoại, cậu có một mối tình đầu với một cô gái có họ rất xa và cô ấy có thai, sau khi gia đình phát hiện sự việc, người yêu Núi đã bỏ đi nơi khác. Sau khi mẹ mất, bố bỏ rơi, mấy anh em hết kế sinh nhai, Núi trở thành kẻ cắp và phải đi tù nhiều lần, phải sống trong kiếp giang hồ. Sau cùng, khi gặp lại mối tình thời xưa thì Núi đã được cảm hóa và trở lại chính mình.
    PHIM : SÓNG Ở ĐÁY SÔNG
    Sóng ở đáy sông là một bộ phim dựa trên một câu chuyện có thật về cuộc đời của một con người trong xã hội của đạo diễn Lê Đức Tiến, ra mắt lần đầu năm 2000.
    Bộ phim nói về một nhân vật tên Núi và cuộc đời của cậu. Núi vốn là con của một người vợ lẽ và bản thân mẹ cậu nguyên là một người ở trong một gia đình tư sản thời cũ. Từ nhỏ Núi và hai em (Sông và Biển) không được bố cậu chấp nhận là con, bốn mẹ con chỉ được ăn cơm thừa canh cặn, bố Núi luôn tìm cách để tống khứ bốn người ra khỏi nhà, khi chiến tranh nổ ra, lợi dụng việc di tản của thành phố, ông ta đã gửi ba anh em về bên ngoại. Cậu học ở quê ngoại và được đi thi học sinh giỏi. Ở quê ngoại, cậu có một mối tình đầu với một cô gái có họ rất xa và cô ấy có thai, sau khi gia đình phát hiện sự việc, người yêu Núi đã bỏ đi nơi khác. Sau khi mẹ mất, bố bỏ rơi, mấy anh em hết kế sinh nhai, Núi trở thành kẻ cắp và phải đi tù nhiều lần, phải sống trong kiếp giang hồ. Sau cùng, khi gặp lại mối tình thời xưa thì Núi đã được cảm hóa và trở lại chính mình.

     

    PHIM : ĐỒNG TIỀN XƯƠNG MÁU Bộ phim Đồng tiền xương máu xoay quanh cuộc sống của gia đình ông Khải với ba người con. Ông Khải vốn cổ hũ, hà khắc không tán thành những gì mới mà luôn theo nguyên tắc cũ. Trái lại, Toàn - con trai ông lại bỏ nhà máy của ông ra thành lập công ty với mong muốn giàu có. Những xung đột trong gia đình nảy sinh khi Toàn muốn phá căn nhà là kỷ niệm của ông để xây căn nhà mới... Bộ phim đề cập đến xã hội trong những năm chuyển đổi cơ chế thị trường.
    PHIM : ĐỒNG TIỀN XƯƠNG MÁU
    Bộ phim Đồng tiền xương máu xoay quanh cuộc sống của gia đình ông Khải với ba người con. Ông Khải vốn cổ hũ, hà khắc không tán thành những gì mới mà luôn theo nguyên tắc cũ. Trái lại, Toàn – con trai ông lại bỏ nhà máy của ông ra thành lập công ty với mong muốn giàu có. Những xung đột trong gia đình nảy sinh khi Toàn muốn phá căn nhà là kỷ niệm của ông để xây căn nhà mới…
    Bộ phim đề cập đến xã hội trong những năm chuyển đổi cơ chế thị trường.

     

    PHIM : 12A VÀ 4H 12A và 4H xoay quanh nhóm bạn Hạ-Hân-Hoa-Hằng (4H) của lớp 12A trường Chu Văn An với những niềm vui, nỗi buồn của tuổi mới lớn. Tuy có gia cảnh khác nhau nhưng bốn cô chơi rất thân và đều là học sinh giỏi của lớp 12A. Năm học mới bắt đầu, Hằng tiếp tục được bầu làm lớp trưởng lớp 12A, bạn thân của cô là Hạ cũng được cử giữ chức bí thư lớp. Lên lớp 12, lớp của nhóm 4H có giáo viên dạy Văn kiêm chủ nhiệm mới, đó là thầy Minh, một thầy giáo trẻ kiêm nhà thơ tài hoa. Ở lớp 12A, thầy Minh phải đối mặt với những rắc rối của lứa tuổi học trò mới lớn, lớp thầy chủ nhiệm có rất nhiều cá tính khác nhau, có những em hiền lành ngoan ngoãn như nhóm 4H, nhưng cũng có em mang trong mình tính cách nổi loạn như Ngôn. Năm cuối cùng của đời học sinh cũng chứng kiến những rung động đầu đời của nhóm 4H, Hạ nảy sinh tình cảm với một bạn trai cùng lớp có gia cảnh khó khăn và phải đi đạp xích lô sau giờ học để kiếm sống, Hằng còn gặp rắc rối hơn khi cô gái dường như đã có tình cảm với cả thầy Minh chủ nhiệm. Bộ phim sau khi phát sóng đã được khán giả, đặc biệt là khán giả trẻ đón nhận, cho đến nay đây vẫn được coi là một trong những bộ phim truyền hình hay của Việt Nam dành cho lứa tuổi này.
    PHIM : 12A VÀ 4H
    12A và 4H xoay quanh nhóm bạn Hạ-Hân-Hoa-Hằng (4H) của lớp 12A trường Chu Văn An với những niềm vui, nỗi buồn của tuổi mới lớn.
    Tuy có gia cảnh khác nhau nhưng bốn cô chơi rất thân và đều là học sinh giỏi của lớp 12A. Năm học mới bắt đầu, Hằng tiếp tục được bầu làm lớp trưởng lớp 12A, bạn thân của cô là Hạ cũng được cử giữ chức bí thư lớp. Lên lớp 12, lớp của nhóm 4H có giáo viên dạy Văn kiêm chủ nhiệm mới, đó là thầy Minh, một thầy giáo trẻ kiêm nhà thơ tài hoa. Ở lớp 12A, thầy Minh phải đối mặt với những rắc rối của lứa tuổi học trò mới lớn, lớp thầy chủ nhiệm có rất nhiều cá tính khác nhau, có những em hiền lành ngoan ngoãn như nhóm 4H, nhưng cũng có em mang trong mình tính cách nổi loạn như Ngôn. Năm cuối cùng của đời học sinh cũng chứng kiến những rung động đầu đời của nhóm 4H, Hạ nảy sinh tình cảm với một bạn trai cùng lớp có gia cảnh khó khăn và phải đi đạp xích lô sau giờ học để kiếm sống, Hằng còn gặp rắc rối hơn khi cô gái dường như đã có tình cảm với cả thầy Minh chủ nhiệm. Bộ phim sau khi phát sóng đã được khán giả, đặc biệt là khán giả trẻ đón nhận, cho đến nay đây vẫn được coi là một trong những bộ phim truyền hình hay của Việt Nam dành cho lứa tuổi này.

     

    PHIM : ĐƯỜNG ĐỜI Chuyện phim bắt đầu từ năm 1976. Sau chiến tranh, Hải - một thanh niên vừa hoàn thành nghĩa vụ trở về mái trường đại học. Nhưng cuộc sống của gia đình ở quê quá khó khăn, không muốn vợ phải bươn trải nên Hải đi đến quyết định bỏ học về quê để lo vực lại kinh tế gia đình. Được một người bạn chỉ cho cách thức buôn thuốc bắc ở biên giới, Hải rất phấn khởi, nhưng anh không ngờ đây là một bước ngoặt quyết định đối với cuộc đời mình. Trong một lần qua biên giới để cất thuốc, Hải bị sốt rét phải ở lại để chạy chữa. Tại đây, anh đã được ông Lý, một thầy lang giỏi chữa khỏi bệnh. Thấy Hải có tư chất thông minh, thái độ cầu thị nên ông Lý đành hết tâm huyết truyền nghề cho anh
    PHIM : ĐƯỜNG ĐỜI
    Chuyện phim bắt đầu từ năm 1976. Sau chiến tranh, Hải – một thanh niên vừa hoàn thành nghĩa vụ trở về mái trường đại học. Nhưng cuộc sống của gia đình ở quê quá khó khăn, không muốn vợ phải bươn trải nên Hải đi đến quyết định bỏ học về quê để lo vực lại kinh tế gia đình. Được một người bạn chỉ cho cách thức buôn thuốc bắc ở biên giới, Hải rất phấn khởi, nhưng anh không ngờ đây là một bước ngoặt quyết định đối với cuộc đời mình. Trong một lần qua biên giới để cất thuốc, Hải bị sốt rét phải ở lại để chạy chữa. Tại đây, anh đã được ông Lý, một thầy lang giỏi chữa khỏi bệnh. Thấy Hải có tư chất thông minh, thái độ cầu thị nên ông Lý đành hết tâm huyết truyền nghề cho anh.