Category: Văn hóa Việt

  • Cùng xem Việt Nam xưa (Thế kỷ 17) như thế nào

    Cùng xem Việt Nam xưa (Thế kỷ 17) như thế nào

    Bờ hồ Hoàn Kiếm do Tây chụp, không rõ năm.
    Bờ hồ Hoàn Kiếm do Tây chụp, không rõ năm.

    Triệu Phong

    Người ngoại quốc tới thăm một xứ thường chú ý đến những cái mà người bản xứ coi là tầm thường, không cần bàn tới. Tuy nhiên, những thứ này đối với người khách viễn du lại đáng ghi nhận vì nó khác với nơi xứ họ. Xưa nay vẫn thế. Do vậy thật dễ hiểu vì sao phần đông người ta đều biết rõ đến tên tuổi các vua chúa, những chiến tích của họ nhưng lại biết rất ít về những điều tầm thường như cách ăn mặc, nhà cửa, sinh hoạt, phong tục tập quán… của thời xưa. Sử sách Việt Nam cũng không ngoài thông lệ ấy và không cho biết mấy tí về nếp sống thường ngày của người Việt Nam thuở trước. Trong mấy trăm năm qua, có biết bao nhiêu người ngoại quốc như các giáo sĩ, thương buôn, kẻ phiêu lưu… ghé tới nước ta. Trong số ấy nhiều người đã thích thú ghi lại những điều họ được trông thấy, để ngày nay chúng ta có thể mường tượng lại thời xa xưa ấy người mình đã sống như thế nào.

     Bắc Kỳ thuộc Chúa Trịnh

    Vào thời kỳ khi đất nước mới phân đôi do cuộc phân tranh giữa hai chúa Trịnh và Nguyễn; cũng trong thời gian này nhiều khách buôn cũng như giáo sĩ từ phương Tây lần đầu tiên ghé tới Bắc Kỳ (Tonkin), những văn thư họ để lại cho ta biết nhiều điều thích thú.

    Kinh đô miền Bắc bấy giờ là Kẻ Chợ, ở vào chỗ của Hà Nội bây giờ, gồm một bức thành hào lũy kiên cố, rộng lớn, mà theo khách ngoại quốc, lớn bằng một thành thị sầm uất, và bên ngoài là khu dân cư. Phố xá chật hẹp nhưng đường chính lại rộng lớn dùng để rước kiệu, ngựa có thể đi dàn hàng 12 con mà vẫn đủ. Tuy nhiên mặt đường xấu xí, lát bằng đá nhỏ và bẩn thỉu.

    hinh xua Vietnam

    Trong chốn thành thị mà lại có nhiều hồ ao, ngòi lạch, vào những mùa nắng ráo, hồ khô cạn đi, để lộ ra những vũng bùn hôi hám, chỉ khó chịu chứ không gây bệnh tật tai ương. Ruồi muỗi nhiều, dân cư có hai cách để xua đuổi, một là đốt lá cho khói um trong nhà, làm cách này thì cả người lẫn muỗi đều thấy khó chịu cả. Hai là dùng màn che cửa làm bằng thứ tơ mỏng nhưng ngăn được muỗi như mùng ta dùng ngày nay. Kẻ Chợ và các làng mạc duyên hải có rất nhiều muỗi, nhưng càng vào sâu trong đất liền càng đỡ hơn.

    Nhà cửa nhỏ bé, vách trát bùn, mái tranh và chỉ một tầng; chỉ quan to được phép Nhà Chúa mới được cất cao hơn. Thỉnh thoảng mới có một hai ngôi nhà lớn. To nhất là cung điện nhà vua, bao quanh với một bức tường thành đổ nát, cao chừng 5m, chu vi khoảng mười cây số. Cung điện làm bằng gỗ, chung quanh có vườn hoa, có vài hồ để vua ngự thuyền chơi hoặc câu cá.

    Hai tòa lâu đài khác đều nằm ở ngoài thành và cũng đều bằng gỗ. Một tòa là phủ Chúa và tòa kia là của Thế Tử, người đã được chỉ định kế nghiệp nhà Chúa. Vững vàng nhất thì có hai tòa nhà của Công ty Ðông Ấn của người Anh và người Hòa Lan nằm bên bờ Sông Hồng, cả hai đều xây bằng gạch.

    Kẻ Chợ gần như vuông vắn, mỗi bề độ 6 km, dân số chừng 1 triệu người. Bình thường ngoài đường không mấy đông nhưng đến ngày rằm, mùng một thì có những phiên chợ lớn, phố phường đông đảo, đi lại phải chen lấn. Khách bộ hành thường mang theo túi đựng trầu cau, mỗi khi gặp nhau hay mời mọc miếng trầu khơi câu chuyện. Chỉ riêng Kẻ Chợ có đến 50,000 người bán trầu cau.

    bac-ki thoi vietnam

    Làng xóm thời ấy gồm chừng ba bốn chục nóc gia, quanh làng quanh xóm có rào tre bao bọc, có tường lũy thấp và hào nước sâu. Hào lũy thường là con đê giữ nước lụt, còn hào để giữ nước cầy cấy vào mùa khô cạn. Nhà cửa trong làng có vườn bao quanh, có rào dậu kỹ lưỡng. Vườn trồng cam, chanh, trầu cau, chuối, đu đủ, dứa…và rau cỏ để ăn. Mùa hạ ở làng rất dễ chịu vì mát mẻ và ít ruồi muỗi. Nhưng về mùa mưa thì bùn lầy ẩm ướt.

    Hỏa hoạn đối với Kẻ Chợ là tai ương lớn nhất nên luật lệ phòng bị rất ngặt. Mùa khô nhà nào cũng phải có một vại nước đặt trên mái, và làm một gầu sòng để tát nước nếu ở gần hồ ao. Mái lợp bằng rơm, đặt trên khung bằng tre, buộc vào xà, kèo, cột. Nhà nào cũng có câu liêm để khi hỏa hoạn thì cắt ngay mái rơm, kéo xuống; đồng thời mái nhà hai bên cũng bị cắt để lửa không ăn lan cả dãy. Mỗi nhà còn xây bệ gạch vuông vắn, cao chừng hai thước, mục đích để chứa đồ có giá mỗi khi có hỏa hoạn. Nếu không tuân theo những luật lệ phòng lửa như thế thì bị những hình phạt nghiêm ngặt.

    an xin thoi Bac Viet

    Mãi tới đầu thế kỷ 17 sự giao dịch với bên ngoài chỉ là với người Trung Hoa và người Nhật. Lái buôn người Hoa mang tới đồ sứ, là thứ chưa làm được ở Việt Nam, vải hoa, lụa hoa (dân ta đã biết nhuộm màu nhưng chưa biết cách làm hoa, làm kiểu), thuốc Bắc và ít đồ xa xỉ. Hàng của Nhật thì gồm đồ bạc, gươm dao và các thứ võ khí. Người ta trao đổi mua bán bằng vàng và bạc nén, cùng tiền đồng. Tiền đồng có lỗ ở giữa để xâu dây, cứ 600 đồng thành một chuỗi, cứ mỗi 60 đồng có dấu để dễ nhận. Người ta vắt chuỗi tiền qua vai hay ngang cánh tay khi đi lại. Giá trị các thứ tiền tệ này lên xuống luôn luôn, tùy lúc tùy thời.

    Mua bán phải lễ lạt các quan nếu muốn làm ăn dễ dàng. Tuy nhiên dân từ 19 đến 60 tuổi mỗi năm phải đóng góp một số tiền. Dân ở ba tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh nhờ giúp nhà Trịnh đánh bại quân Mạc nên đóng thuế nhẹ; còn ở bốn trấn Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương và Sơn Tây phải đóng nặng gấp bốn vì đã không phò Trịnh trước đó. Ngoài ra dân còn phải đóng thêm thuế tình nguyện, đó là dâng phẩm vật cho Chúa một năm 4 lần vào dịp sinh nhật Chúa, ngày kỵ cha Chúa, ngày Tết và ngày mùa gặt.

    an xin thoi Bac Viet nam

    Ở Kẻ Chợ có rất nhiều nhà chứa, tuy bị chê bai nhưng lại rất phát đạt. Lái buôn hay thủy thủ người Âu hoặc Trung Quốc, khi lên bộ thường hay gặp gái điếm đến gạ gẫm bán thân. Bạn hữu hay khách ngoại quốc của các quan thị thường được thù tiếp bằng cách gọi gái điếm về hầu hạ, cái lệ này lại không bị chê cười. Một đứa con gái đi giang hồ kiếm nhiều tiền để lấy được chồng là chuyện thường tình. Khi có chồng hẳn hoi rồi thì nghiễm nhiên là người đàn bà đáng kính, quá khứ không hề bị đếm xỉa đến. Ngay những nhà khá giả, nhiều nhà cũng hiến con cho khách thương người Âu, hoặc tạm bợ, hoặc một thời gian. Người thời ấy rất thích những đứa con lai vì da nó trắng trẻo. Khách thương lại coi việc sống chung tạm bợ như vậy là tiện và lợi. Vì những người “vợ tạm” ấy coi sóc việc buôn bán cho họ suốt quanh năm.

    Người Bắc Kỳ thời ấy ai cũng thích có đông con nên lối nuôi “con nuôi” rất thịnh hành. Người có con rất thích được nhà quan cao chức trọng nhận làm “con nuôi”. Những trẻ này hầu hạ cha mẹ nuôi không khác chi cha mẹ ruột, bù lại được cha mẹ nuôi đở đần che chở cho. Các tay lái buôn người Âu nhận thấy cái lợi trong tục lệ này nên liền lợi dụng. Họ xin được làm “con nuôi” những ông hoàng hay quan cao, mỗi khi ghé bến họ mang quà cáp đến các bậc cha mẹ nuôi quyền quí đó. Ðã là “con nuôi” của các nhà quyền quí, các quan nhỏ hơn khó lòng dám hạch sách, hà lạm. Ðối với họ quà cáp cũng như món tiền đóng bảo hiểm như ngày nay nhưng lợi hơn nhiều so với lễ lạc, tiền đút lót cho quan lại Bắc Kỳ ở thế kỷ thứ 17.

    Phụ nữ Bắc Kỳ

    Thời ấy người ta đi lại một là dùng thuyền, hai là đi đường bộ, dù rằng đường xá khá hiếm. Ðường thủy là phương tiện thông dụng nhất vì hàng hóa dễ chở dưới nước. Dọc theo thủy đạo khắp miên trung châu sông Hồng, có hàng quán để khách có thể trú qua đêm hoặc ghé lại ăn uống. Ðường bộ cũng dễ chịu, mặc dù là đường đất nhưng có cây cao bóng mát ở hai bên, không những che nắng mà còn có quả để khách bộ hành giải khát, vì đó là cái lệ của người thời ấy. Làng xóm nằm gần đường xá thường đặt những thống nước chè trên một bàn nhỏ, dưới bóng mát, bất cứ ai qua lại có thể tha hồ uống bao nhiêu tùy thích. Cách mỗi quảng đường lại có mấy hàng quán túm tụm cạnh nhau, khách đi đường có chỗ mua trầu nước, bánh trái.

    Quân đội gồm 50,000 quân chính qui đóng ở Kẻ Chợ, tất cả đều tuyển từ ba tỉnh phò Chúa, còn bốn nơi kia phải đóng góp để nuôi lính. Mỗi năm vào Tháng Sáu, sĩ quan cho lính mình cai quản tới tuyên thệ trung thành với Chúa, trước một quan văn. Người lính nào nói lời thề rõ ràng được phát thẻ có chữ Minh. Bất Minh nếu ấp úng và Thường nếu ít rõ ràng. Sau đó dùng thẻ để đi đổi lấy áo mới, một tặng phẩm của Chúa. Thẻ Minh được áo dài vải tốt, Bất Minh áo ngắn hơn bằng vải xấu, còn Thường thì được loại trung bình giữa hai thứ. Binh lính mặc áo đó suốt năm để biết được ai trung thành với Chúa ơn. Thời bình, lính được dùng để sửa chữa đường xá, cầu cống, đóng và trang hoàng các chiến thuyền.

    thuyen chien Viet Nam

    Ở Bắc bấy giờ hạm đội có đến 600 chiến thuyền, to và tinh nhuệ hơn trong Nam, chỉ có 200 chiếc. Thuyền thời ấy nông và dài, chiếc nhỏ có 25 mái chèo mỗi mạn, chiếc lớn có đến 40. Ngoài ra còn dùng thêm buồm khi có gió. Ðầu và cuối thuyền có chạm trổ sơn then, thếp vàng cầu kỳ. Trên mũi có một khoang, trang hoàng và sơn màu rực rỡ, dành cho quan chỉ huy, hoặc quan văn. Thuyền Chúa ngự thì khoang có dát vàng lá. Ít nhất mỗi thuyền có một khẩu thần công ở đằng mũi và hai ở đằng lái. Binh sĩ phải chèo thuyền và cho là một vinh dự lớn. Nhiều người Âu được thấy đều phục tài thủy thủ của họ. Ðể giữ nhịp chèo, người ta dùng hai miếng gỗ gõ vào nhau, chiến thuyền thường đi thành hàng ba, hàng năm, có khi hàng bảy, song song với nhau, rất đều đặn. Các tay hàng hải Tây Phương thời đó chỉ có thể chỉ trích được những chiến thuyền này ở một điểm, đó là ván thuyền buộc bằng thừng chứ không dùng đanh ghép vì thế không vững chải lắm, và hằng năm phải bện lại.

    Vua đứng đầu nước nhưng việc cai trị đều trong tay Chúa. Khi vua băng hà, Chúa chọn người nối ngôi. Tuy nhiên, vua có quyền phong tước vị trong nước, chủ trì các lễ lạt cũng như các buổi chầu của các quan.

    Vào ngày mồng ba Tết, văn võ bá quan ăn bận chỉnh tề, mỗi người có mang thẻ bài theo cấp bậc của mình đến từ sáng sớm. Một đám rước rực rỡ tiến ra khỏi cổng thành, đi qua các phố chính. Ði đầu là mấy ngàn quân mặc binh phục màu sắc đẹp mắt, mang vũ khí như cung tên, kiếm, giáo mác đồng và súng hỏa mai. Tiếp đến là các quan, hoàng thân quốc thích; một số cỡi ngựa, số khác cỡi ba trăm con voi của nhà vua. Sau đó là Chúa đi trên một cỗ xe thấp mạ vàng, theo sau là một con voi có thắng cân đai lộng lẫy. Ði sau Chúa là các văn tự tiến sĩ cử nhân và tú tài, tất cả mặc áo thụng bằng lụa màu tím thẫm và các thứ vải quí khác, trên áo đeo thẻ bài ghi rõ bằng cấp tước vị. Vua đi sau cuối, ngự trên chiếc ngai vàng chói lọi, phủ bằng vóc vàng và xanh lục, do nhiều người khiêng.

    quan phong kien Viet

    Như trên đã nói, đứng đầu xứ sở là vua nhưng người có thực quyền là Chúa. Nhà Chúa cai trị qua tay những quan lại. Ngày nay ta vẫn tin rằng những quan lại ấy do thi cử đổ đạt mà được cử ra làm quan, và những kỳ thi ấy mở rộng cho tất cả sĩ tử. Sự thực đã không như thế. Một số quan lại xuất thân từ trường thi nhưng đại đa số thì không. Có người do họ hàng với nhà Chúa nhưng vẫn còn là số ít. Phần đông do hai lối xuất thân: một là vào hầu Chúa với tư cách quan thị (quan thị là hoạn quan hay quan giám, đời Lê gọi là cậu. Họ không có bộ phận sinh dục do bẩm sinh, hoặc tự thiến. Dù vậy họ vẫn có thê thiếp hầu hạ, phục dịch), hai là bỏ tiền ra “mua quan bán tước.” Thời ấy nhiều người thiến con đi để khi lớn lên đem vào hầu phủ Chúa. Vì chỉ có quan thị, ngoài số cung tần mỹ nữ, là được phép ra vào chốn cung cấm nhà Chúa, cho nên lẽ tự nhiên phần lớn những quan thị ấy được Chúa tin yêu mà bổ dụng vào những chức vụ cao. Thường lệ quan thị phải hầu trong phủ Chúa độ 7 hay 8 năm rồi mới được bổ đi làm quan.

    dan viet nam xua

    Quyền hành các quan thời ấy rất lớn, họ hoàn toàn làm chủ ở địa phương họ trị nhậm. Ðối với họ, nhà Chúa rất rộng lượng, chỉ có phản bội mới phải tội chết. Ngoại trừ một số nhỏ, còn đa số toàn là những quan tham, ăn tiền của dân đen một cách công khai mà không hề bị trừng phạt, nếu Chúa không ngầm khuyến khích thì sao họ dám ngang nhiên như vậy. Tuy nhiên vì họ là quan thị, không có con nối dõi nên khi chết đi, của cải lại rơi cả vào tay Chúa. Vì được nhiều ưu tiên nên có quan đã khá tuổi rồi mà còn đi thiến để cầu cạnh thăng quan.

    Quân đội rất lớn để giữ gìn bờ cõi, ngoài biên giới và ở Kẻ Chợ thì quân số rất đông, một số khác canh phòng nơi thôn dã, dọc theo những đường cái quan, sông ngòi. Lính canh có thể chận người đi đường khám xét, xem hàng hóa có trả đủ thuế không mới được đi. Người nào tình nghi thì bị hành hạ tàn nhẫn cho đến khi minh chứng được tình ngay, nên những kẻ mưu phản hay bị truy nã, khó lòng giữ được hành tung khỏi bại lộ.

    Làng xã tùy theo số dân mà bổ thuế, cũng dựa theo đất ruộng tốt xấu ra sao nữa. Làng nào nghèo không thể nộp thuế thì phải gánh cỏ ra Kẻ Chợ để nuôi ngựa và voi của nhà Chúa, ròng rã suốt năm rất vất vả vì những làng này thường ở xa kinh thành.

    quan quan viet nam

    Làm thợ lại còn khốn khó hơn nữa vì phải làm “việc quan” mỗi năm 6 tháng. Trong thời kỳ này họ không được trả lương, nhiều khi còn phải tự túc lương thực. Do vậy trong 6 tháng kia người thợ phải kiếm làm sao để có thể nuôi sống gia đình cả năm, mà gia đình phần nhiều là đông đúc.

    Quan đi võng có người đi trước đánh phèn la mở đường, ai chậm chân sẽ bị người ngồi trên ngựa quất roi. Phía sau có người mang theo lọng che khi quan hạ thổ, người khác mang theo đồ dùng riêng của quan như cau, trầu,.., và sau cùng có lính bảo vệ. (Hinh: BAVH)
    Quan đi võng có người đi trước đánh phèn la mở đường, ai chậm chân sẽ bị người ngồi trên ngựa quất roi. Phía sau có người mang theo lọng che khi quan hạ thổ, người khác mang theo đồ dùng riêng của quan như cau, trầu,.., và sau cùng có lính bảo vệ. (Hinh: BAVH)

    Người ở kinh thành là thương gia bị đánh thuế rất nặng, ngoài ra họ còn phải gánh vác “việc quan”, tức là phải làm những việc các quan cắt đặt cho như sửa đường xá, đê điều, tường thành, hoặc kiếm củi nộp phủ Chúa và các công thự khác. Nếu khá giả họ có thể thuê người đi làm thay.

    Người dân đã cực như thế mà vô phúc gặp khi bị kiện tụng lôi thôi; kiện tụng là phải mất tiền, không có thì khó lòng tránh được trừng phạt thiệt thòi và đâu đâu cũng thế, đồng tiền mua được công lý. Người dân không thể tự do đi lại trong xứ vì hết chỗ này giữ lại hỏi, đến chỗ kia bắt lại khám, có khi bị bắt bớ vì bị nghi oan.

    Nam Kỳ thuộc Chúa Nguyễn

    Vào thời này nhà Nguyễn chỉ vừa mới lập quốc riêng biệt nên rất quan ngại việc khả dĩ có cuộc tấn công từ phương Bắc. Họ chuẩn bị tự vệ bằng cách xây lũy Ðồng Hới và cho đóng ở đó một đạo lục quân và hải quân được luyện tập tinh nhuệ, rồi mới bắt tay vào việc mở mang xứ sở mới của họ. Về mạn Nam, người Chàm là kẻ địch nhưng hồi đó không còn là mối đe dọa. Ren Ran (Phan Rang ngày nay) là tỉnh giáp giới với đất Chàm.

    thieu nu nam ky

    Thứ áo quần người Nam Kỳ mặc thời đó rất khác với quần áo ngày nay. Mọi người đàn bà thường mặc năm hoặc sáu chiếc xiêm, cái nọ chồng lên cái kia, và mỗi cái một màu khác nhau. Chiếc ngoài cùng thì ngắn, chỉ chấm tới đùi. Chiếc thứ hai dài hơn một chút, lộ ra ngoài chiếc thứ nhất mấy phân tây. Chiếc thứ ba lại dài hơn chiếc thứ nhì, và chiếc thứ tư dài hơn chiếc thứ ba, cứ thế cho đến chiếc xiêm mặc trong cùng thì dài hơn cả, dài quét đất và che kín cả chân. Từ thắt lưng trở xuống người phụ nữ trông như có bận một loạt những băng mầu sặc sỡ, uyển chuyển, thay đổi hình dáng mỗi khi họ bước đi. Nửa trên họ mặc áo chẽn hoặc áo cộc cũng bằng thứ vải mầu sặc sỡ. Tất cả phụ nữ thời đó để tóc rất dài, tóc dài được coi là biểu hiệu của nhan sắc, có người tóc dài đến chấm đất…

    Phong tục ở Nam Kỳ khác xa ngoài Bắc mặc dù hai xứ chỉ mới phân chia được một thời gian ngắn, như cách làm nhà cửa và cách phục sức. Tuy thế, sự khác biệt không đến nỗi quá sâu xa như khi mới thoạt nhìn. Thực ra người Nam bắt chước lối làm nhà sàn của người Chàm vì thích hợp với một nơi hay bị lụt lội bất ngờ. Dân chúng cũng ảnh hưởng lối ăn mặc của người Chàm, ngoại trừ giới quan lại và nhà Nho vẫn ăn bận theo y phục cổ truyền, vì họ giữ tinh thần bảo thủ hơn. Nam Kỳ cũng có thứ tiền đúc riêng, bằng đồng, hình tròn có khắc phù hiệu nhà Chúa. Cũng như Bắc Kỳ, giữa đồng tiền có lỗ vuông để xâu dây, chỉ khác là ngoài Bắc 600 đồng một chuỗi, trong khi ở Nam Kỳ thì một chuỗi có 1,000 đồng tiền.

    nguoi viet nam xau

    Ở miền Nam lụt thường xảy ra bất ngờ vào mùa mưa nên nhà cửa làm trên những cột chắc bằng gỗ lim. Những cột này nhiều khi được chạm trổ tinh vi và sơn rất đẹp mắt. Trâu bò bị chết nhiều vì lụt nên có lệ ai bắt gặp đầu tiên thì có quyền được hưởng, đem về ăn uống linh đình. Chuột thường chạy lên cây tránh lụt nên bắt chuột là môn thể thao của trẻ con bằng cách bơi thuyền đi rung những cành cây. Mùa lụt cũng trở thành mùa rất hoạt động, khi hầu hết miền quê bị ngập nước, người ta có thể dùng thuyền để chở đồ nặng đi bất cứ nơi đâu. Ða số các gia đình lên đồi lên núi kiếm củi chở về dùng quanh năm.

    Nam Kỳ trù phú, dư thừa thóc gạo, thịt cá, gỗ quí, mỏ kim loại…Nhờ cuộc sống sung túc nên con người đâm ra quảng đại. Hành khất hay khách lạ ghé vào nhà nào cũng được đãi một bữa thịnh soạn. Nếu khách hỏi xin vật gì thì sẽ được cho ngay mà không hề hỏi han. Ai từ chối lời xin đều được coi như bần tiện, bị mọi người khinh bỉ.

    lam nghe chai luoi xua

    Người Nam ưa tiệc tùng đình đám, ngay người nghèo cũng không mời dưới ba bốn chục thực khách. Tiệc dọn ngoài trời. Tiệc lớn có đến cả ngàn người. Khách ngồi dưới nền trước một bàn tròn cao đến ngực, mỗi người một bàn. Họ không dọn cơm vì cho là quá tầm thường, thức ăn gồm cá, gà, vịt…Người quan trọng ăn trước, rồi đến những người khác và cuối cùng là hạng tôi đòi. Ðồ dư tôi tớ đem về cho con cái họ. Trong tiệc người ta uống rất nhiều rượu, cất bằng gạo và luôn luôn có rất nhiều người say. Người Âu kể rằng ở Nam Kỳ nạn nghiện rượu cũng nặng không kém ở Âu Châu, và ở thế kỷ 17 người Âu nghiện rượu hơn ngày nay nhiều.

    Phụ nữ Nam Kỳ đóng vai trò quan trọng trong các công việc trong xứ, mà người Âu rất cảm phục vì đó là hiện tượng hiếm có ở Á Châu. Ðàn bà làm việc đồng áng, coi sóc nhà cửa, kể cả buôn bán, lãnh vực mà người ta cho là đàn bà tinh khôn hơn đàn ông. Họ làm việc cần mẫn hơn đàn ông nhiều và còn được tự do hoạt động xã hội nữa. Một giáo sĩ người Ý       tên Borri viết: “Người chồng phải trả tiền hồi môn để được về sống ở nhà vợ. Người vợ trông nom tất cả, chồng chỉ ăn không ngồi rồi, có khi không còn biết trong nhà có những gì.”

    cac quan lai thoi phong kien

    Người Âu đến buôn bán chỉ có người Bồ được Chúa trọng đãi hơn cả. Họ họp thành đoàn thể riêng, có giáo sĩ và bác sĩ người Bồ săn sóc. Người quốc tịch khác cũng đến khác các bác sĩ này nhưng họ nói một số chứng bệnh, thầy thuốc Nam Kỳ chữa giỏi hơn. Ngay bác sĩ Bồ Ðào Nha tìm đến thầy thuốc Nam Kỳ nhờ chữa bệnh không phải là chuyện hiếm hoi. Thầy thuốc Nam Kỳ bắt mạch con bệnh rất lâu và nói cho biết mắc bệnh gì. Nếu thấy không chữa được thì nói trắng ra rồi đứng dậy bỏ đi. Nếu chữa được thì cho biết chữa mất bao lâu và đôi bên kỳ nèo giá cả rồi cùng làm giao kèo. Nếu lành bệnh trong thời gian đã định thì được trả tiền, bằng không thì chẳng được đồng nào. Thầy thuốc Nam lấy máu rất hay, họ dùng một cái cưa bằng sứ bé tí cài vào một cái lông ngỗng, cắt một lát nhỏ ở mạch máu và rút ra một số máu cần thiết. Khi lông ngỗng được rút ra, vết cắt được làm liền bằng nước bọt, máu ngưng ngay không cần phải băng bó.

    phao than cong viet nam

    Chúa Nguyễn rất mê súng, có lần vớt được một ít súng đại bác từ tầu bị đắm của Hòa Lan hay Bồ Ðào Nha khiến Chúa thích chí nên đặt mua thêm từ các nhà buôn. Trong phủ Chúa có chừng 60 khẩu đại bác lớn. Chúa bắt binh lính tập bắn thật giỏi, còn giỏi hơn hầu hết lính pháo thủ của các tàu người Âu đến đây. Chúa thích thách những tầu ngoại quốc ghé tới Việt Nam bắn thi với lính của Chúa. Lính pháo thủ Nam Kỳ hồi đó bắn giỏi đến độ phần nhiều người Âu đều thoái thác lời thách thức vì biết không thể hơn nổi.

    Nguồn.

  • Ý nghĩa của ấn đền Trần – Nam Định

    Ý nghĩa của ấn đền Trần – Nam Định

    Ý NGHĨA CỦA ẤN ĐỀN TRẦN – NAM ĐỊNH
    ẤN ĐỀN TRẦN

    Lễ khai ấn Đền Trần là một tập tục có từ thế kỷ XIII, chính xác là vào năm 1239 của triều đại nhà Trần. Tại phủ Thiên Trường, vua Trần mở tiệc chiêu đãi và phong chức cho những quan quân có công. Những năm kháng chiến chống Nguyên Mông sau đó, Lễ khai ấn bị gián đoạn cho tới năm 1262 thì được Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mở lại.
    Trải bao thế kỷ, ấn cũ không còn. Năm 1822, vua Minh Mạng qua Ninh Bình có ghé lại đây và cho khắc lại. Ấn cũ khắc là “Trần triều chi bảo”, ấn mới khắc là “Trần triều điển cố” để nhắc lại tích cũ. Dưới đó có thêm câu “Tích phúc vô cương”. Lễ khai ấn là một tập tục văn hóa mang tính nhân văn để nhà vua tế lễ Trời, Đất, tiên tổ, thể hiện lòng thành kính biết ơn non sông, cha ông.

     

    Lễ khai ấn đền Trần là một tập tục của triều đại nhà Trần – triều đại phong kiến kéo dài và hùng mạnh nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với chiến công hiển hách ba lần đánh tan quân Nguyên Mông – đạo quân xâm lược; được mệnh danh là “bách chiến bách thắng”.
    Sau khi đánh thắng quân Nguyên Mông lần thứ nhất, ngày 14 tháng Giêng, tại phủ Thiên Trường (nơi phát tích của nhà Trần), vua Trần Thái Tông đã mở tiệc chiêu đãi và thưởng công, phong tước cho các quan, quân có công trong việc đánh giặc. Kể từ đó, cứ vào ngày này, các vua Trần lại tổ chức nghi thức khai ấn để tế lễ trời đất, Tổ tiên; phong chức tước cho những người có công, đồng thời mở đầu cho một năm làm việc mới của bộ máy chính quyền nhà Trần.
    Sau này trên nền phủ Thiên Trường, nhân dân đã xây dựng khu di tích đền Trần ĐỂ THỜ 14 VỊ VUA TRẦN, Trần Hưng Đạo cùng các quan văn, võ, đồng thời duy trì nghi thức khai ấn để tưởng nhớ công đức của các vua Trần, giáo dục con cháu truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, bảo vệ non sông xã tắc.
    Nghi lễ khai ấn với ý nghĩa nhân văn lớn lao là cầu mong cho thiên hạ thái bình, thịnh trị, mọi nhà chung hưởng lộc ấn đền Trần “Tích phúc vô cương”; cầu mong mọi người bước sang năm mới mạnh khoẻ, lao động, sản xuất hăng say, học tập, công tác tốt. Trải qua nhiều năm, lễ khai ấn vẫn được người dân duy trì và phát triển và trở thành một trong những tập tục đẹp, một nét văn hóa đẹp trong những ngày đầu năm mới của người Việt được gìn giữ lâu đời.
    Trước khi lễ khai ấn được tổ chức, vào ngày mùng 2 tháng Giêng, Ban quản lý Khu di tích đền Trần thực hiện nghi lễ xin mở ấn để in các lá ấn phục vụ lễ khai ấn. Nội dung lá ấn bao gồm các chữ: “Trần triều điển cố – tích phúc vô cương”’. Đến 22h ngày 14 tháng Giêng, lễ khai ấn được bắt đầu với nghi thức rước hòm ấn từ nội cung đền Cố Trạch sang đền Thiên Trường. Sau khi lễ khai ấn được thực hiện bởi 14 cụ cao niên thôn Tức Mặc (phường Lộc Vượng) kết thúc, khách thập phương vào đền Thiên Trường để tế lễ, xin lá ấn với mong muốn một năm mới thành đạt và phát tài.

    XIN ẤN PHẢI HIỂU Ý NGHĨA

    Không phải ai về xin ấn đền Trần cũng hiểu được hết ý nghĩa của nghi lễ này. Bản chất của bốn chữ “Tích phúc vô cương” trên ấn là Nhà Trần ban cho con cháu cái phúc, dạy con cháu, bách gia trăm họ phải biết giữ gìn phẩm chất đạo đức, tích phúc thật tốt, phúc đức càng dầy thì được hưởng lộc càng bền vững. Đấy là ý nghĩa giáo dục sâu sắc nhất của việc ban ấn. Ý nghĩa của ấn chỉ đơn giản như vậy nhưng không phải ai cũng hiểu mà vẫn còn một số lầm tưởng rằng, xin ấn để cầu “thăng quan, tiến chức”. Vì vậy, những ai cầm ấn trong tay mà không hiểu bản chất ý nghĩa sâu sắc đó thì ấn cũng chẳng có giá trị gì.

    Hình ảnh Việt Nam.com sưu tầm

  • Vì sao gọi người Nghệ An là dân “cá gỗ”

    Vì sao gọi người Nghệ An là dân “cá gỗ”

    Ngày nhỏ, cứ nghe thấy ai đó nói giọng “trọ trẹ” là người ta lại bảo, đấy là dân “cá gỗ”. Lấy làm lạ, chưa hiểu “tại sao lại thế?”, “cá thật chẳng ăn ai, lại là cá gỗ”. Rồi tò mò, tôi đi hỏi người lớn, người lớn kể cho tôi nghe câu chuyện dân gian xưa:

    người Nghệ An là dân "cá gỗ"
    CHO KHÁT NƯỚC… CHẾT LUÔN

    Một anh hà tiện thuộc loại vắt cổ chày ra nước, không bữa cơm nào mà dám mua thức ăn. Anh ta treo một con cá gỗ lơ lửng ở giữa nhà, dặn các con khi ăn cơm thì nhìn lên cá gỗ, chép miệng một cái rồi và cơm, coi như là đã được ăn cơm với cá rồi. Đứa con út mới lên bốn tuổi, háu ăn, nhìn lên con cá gỗ chép miệng luôn mấy cái mới và cơm. Thằng lên sáu trông thấy liền mách bố: – Thằng này nó chép miệng mấy cái liền mới và cơm đó bố ạ! Anh ta mắng: – Cứ để nó ăn mặn cho khát nước chết luôn!!!

    Hình ảnh người Xứ Nghệ trong tôi ngày ấy là “keo kiệt” lắm. Và, tại sao phải khổ thế…!!!

    Lớn lên… đi học, tôi có thêm những người bạn có cha mẹ là người gốc Xứ Nghệ ra sống và làm việc ở Hà Nội, tôi theo bạn đến nhà ăn, ngủ, học ở đấy, rồi tiếp xúc với họ. Tôi có thấy người Nghệ “keo kiệt” đâu, chỉ thấy họ nói to, giọng thì “nặng trình trịch” và rất hay có những cuộc gặp gỡ đồng hương, giao lưu, vui vẻ và hào phóng. “Ào ào như cơn lốc” ngay từ ngoài cổng.

    Khi tôi vào đại học, trong lớp có những người bạn quê ở vùng Thanh – Nghệ Tĩnh, tôi làm lớp trưởng – trách nhiệm là luôn phải quan tâm đến mọi người… Trong số ấy, những người bạn đến từ vùng đất miền Trung nắng cháy, họ hiện thân trong tôi là anh học trò nghèo ngày xưa: nghèo mà hiếu học, thông minh, chăm chỉ, chịu khó, nghĩ sao nói vậy, không “lắt léo”, “loằng ngoằng”, “nhì nhằng” trong ứng xử, quan hệ…

    Hè, chúng tôi dong duổi đi chơi, theo những người bạn ấy vào Thanh, Nghệ An, Hà Tĩnh (phần này tôi đã có dịp tâm sự). Cũng “ba cùng” với những người bạn ấy và gia đình của họ.

    Vẫn giọng “trọ trẹ” khó nghe, nhưng phát âm rất chuẩn từ chữ “tr”, “ch”, “r”, “s” và “x”… vẫn “ăn to, nói lớn”, cứ “oang oang” mà không “nhỏ nhẹ” (kể cả con gái).

    Gia đình các bạn tôi từ Diễn Châu, Quỳ Hợp, Quỳnh Lưu, Đô Lương, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương (Nghệ An) đến Nghi Xuân, Can Lộc (Hà Tĩnh)… vùng quê nào, ngôi nhà nào chúng tôi đến cũng đầy ắp tiếng cười, lòng người cứ chân chất, “thẳng tưng như ruột ngựa”, chẳng “úp úp mơ mở”, chẳng “quanh co, lòng vòng”, nói là làm, nghĩ sao nói vậy… Và, hơn hết là “tính hiếu khách” của gia chủ, “yêu” và “ghét” rất rõ ràng.

    Thế đấy, người Xứ Nghệ cứ đẹp dần lên trong mắt tôi, đẹp dần lên trong những lời nhận xét của tôi khi có ai đó hỏi tôi về họ.

    Cái nghề nghiên cứu của tôi đã cho tôi được đi và đến nhiều vùng miền trên đất nước, tiếp xúc với nhiều người, tìm hiểu thêm về nhiều vùng đất dưới góc nhìn của văn hóa… tôi trân trọng hai từ “cá gỗ”. Lâu rồi, “cá gỗ” trở thành một đại từ chỉ người Xứ Nghệ, như đã là thế, như không thể khác được.

    Người Nghệ tự hào vì hai từ ấy! Người Nghệ luôn tự mình hơn người bởi hai từ ấy…!

    Tôi hoàn toàn đồng tình. Bởi, phải hiểu xuất phát điểm của cụm từ này là từ một vùng quê “nghèo mùng tơi chưa kịp rớt”, mới hiểu người Xứ Nghệ đã phải “gồng mình đi lên như thế nào” để “vượt khó, vượt khổ”. Trong cái “gian lao” ấy, tâm hồn và ý thức của họ thật lớn, con “cá gỗ” của anh học trò nghèo Xứ Nghệ ngày xưa chỉ còn trong tiềm thức, trong lời nói của sinh viên Xứ Nghệ ngày nay. Cuộc sống ngày một đổi thay… hình ảnh “cá gỗ” mãi là niềm tự hào, bởi trong cái sự “nghèo túng” ấy, người Xứ Nghệ đã biết “ước mơ”, biết “khao khát” từ những việc tưởng như rất nhỏ hàng ngày, ẩn chìm và hiển hiện trong mỗi bữa cơm ăn, trong nỗi lo thường nhật. Nhưng là khát vọng để vươn tới, để cố gắng.

    Xin cảm ơn câu chuyện dân gian, cảm ơn anh học trò nghèo Xứ Nghệ, cảm ơn những con người Xứ Nghệ qua nhiều thế hệ vẫn mãi giữ được truyền thống “nghèo mà hiếu học”, vẫn giữ được hai chữ “cá gộ” nghe sao thấy tội tội sao mà thương, mà quý, để mãi… nâng niu!

    Bài được đăng bởi: Cafe sách hội nghị
  • Phong tục xem bói của người Sài Gòn xưa

    Hôm nay chúng ta cùng nhau quay trở về Sài Gòn trước năm 1975 xem phong tục xem bói của người xưa cũng như các thầy bói năm xưa ra sao nhé.

    “Mỗi năm, hoa đào nở,
    Lại thấy ông đồ già,
    Bày mực tàu giấy đỏ,
    Trên phố đông người qua.

    Năm nay đào lại nở,
    Chẳng thấy ông đồ xưa,
    Những người muôn năm cũ,
    Hồn ở đâu bây giờ !”

    Hai đoạn thơ giản dị của Vũ Đình Liên không ngờ ở lại với đời lâu đến thế, lâu đến nỗi, hầu như mỗi lần Tết đến, có dịp viết bài về xuân, là mỗi lần ‘các nhà văn’ lại nhớ đến hoa đào nở với ông đồ già như biểu tượng một cài gì đẹp đẽ nhất đã đi qua, và không bao giờ trở lại, ngày Tết, nhớ ông đồ già. Nhớ những ông đồ già, những cụ đồ già với mực tàu giấy bản, với ngọn bút lông. Đó là các cụ xưa kia đã ngồi bên lề đường để viết câu đối bán cho khách mang về treo trong ba ngày Tết. Nhưng không phải chỉ có thế. Hình ảnh ấy còn gợi cho ta nhớ đến các ông thầy, thầy đoán mạng, thầy coi số, coi tướng, gọi chung là thầy bói, đã hàng chục năm hành nghề ở quê hương xưa, đã từng tạo nên một phong trào vô cùng phát đạt, đặc biệt tại Sài gòn, ngày Xuân đi lễ Lăng Ông là một hình ảnh đẹp làm sống lại cảnh phồn vinh đã thực sự có một thời tại miền Nam thân yêu. Ghi lại đầy đủ, càng đầy đủ càng hay, về các vị thầy bói đã một thời tạo nên một phong trào phát đạt như đã nói trên, cũng là một đóng góp đáng kể vào ‘công cuộc bảo tôn văn hóa’ vậy.

    1.Các Thầy tại Lăng ông :

    Lăng Ông là lăng đức Tả Quân Lê Văn Duyệt ở Gia Định, còn gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Lăng không phải chỉ là một nấm mộ được xây thành chung quanh, mà là cả một dinh cơ rộng lớn, kiểu như lăng các vua nhà Nguyễn ngoài Huế vậy : lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức…Tại đây có rất nhiều thầy bói hành nghề. Có những người đi lại ngay trong lăng, giữa lúc thiện nam tín nữ nhân ngày xuân đi lễ đình chùa, và nhất là đến Lăng để xin xăm, gieo quẻ, cầu nguyện hôn nhân. Thường các thầy bói trong Lăng ngồi rải rác khắp nơi và tự động di chuyển. Trải ra một chiếc chiếu hoa và đặt ‘đồ lề’ lên trên. Có khi bày ra một chiếc bàn nhỏ với vài chiếc ghế nhẹ, phần đông các thầy bói đều thuộc lớp các cụ xưa, mặc áo dài đen và đội khăn đóng. Nhưng cũng có người muốn tỏ ra thuộc giới có tân học, mặc đồ tây và đeo kính ‘trí thức’. Cũng có người mặc bộ bà ba bình dân cho thoải mái và có vẻ ‘bất cần đời’. Tuy ăn mặc khác nhau, nhưng đã gọi là thầy bói thì vị nào cũng bày ra chỗ hành nghề các thứ giống nhau: một bộ bài tây, ít quyển sách chữ Hán, những xâu chân gà luộc phơi khô, cái mu rùa để bốc. Ngoài ra còn có đèn nhang, giấy màu đỏ và bút lông, mực xạ, các ông thầy này đón khách ngay cửa vào Lăng, trong khi các vị thầy khác đều có chỗ ngồi nhất định. Những chỗ ngồi này đều có đóng thuế môn bài hàng năm khoảng chừng một ngàn đồng cho chính phủ, và vì vậy họ có kê được bàn ghế đàng hoàng, có tấm ‘tăng’ để che mưa nắng, có khi còn có mái lợp như một phòng nhỏ, trên bãi cỏ. Bên hông trái Lăng Ông, trên một phía lề đường Trịnh Hoài Đức là nơi họ tập trung, chừng 20 vị. Thường là họ đoán vận mạng, tình duyên cho khách theo thẻ xăm rút được.

    Lăng Ông nổi tiếng với vụ này đến nỗi trong một bài hát của ban hợp ca AVT có đoạn rất tếu :
    “Năm mới đừng để vợ la / Đừng chơi cờ bạc đừng ra bót nằm / Chi bằng đi lễ Lăng Ông / Đầu Xuân năm mới xin xăm cầu tài / Mồng một đi lễ Lăng Ông / Cầu anh đắc lộc bằng trăm ngày thường.”

    2.Các Thầy Bói Người Tàu (Hoa)

    Tại một số khách sạn sang trọng ở Chợ Lớn xưa kia như Bát Đạt, Phượng Hoàng, Đồng Khánh, có một số các ông thầy người Trung Hoa nổi tiếng đặt trụ sở hành nghề và cũng thu hút khách người Việt thuộc giới ‘tư sản mại bản’ ! Họ có những cái tên nghe thật quyến rũ (về phương diện huyền bí) như : Sơn Đầu Bạch Vân Đại Sư, Đại Lục Tiên, Hà Thiết Ngôn Đại Sư…,các vị bốc sư người Trung Hoa này thường tự xưng là bốc sư đại tài từ Hồng Kông sang và tự tạo cho mình một vẻ tiên phong đạo cốt đặc biệt. Tuy vậy, một khi họ đã đặt trụ sở hành nghề thì điều trước tiên để đến với….các tiên ông vẫn là tiền! Các thầy này không biết nói tiếng việt nên tất nhiên phải có thông dịch viên nếu không phải là người Tàu. Ngoài ra, còn có mấy vị nữa cũng mang những đại danh rất là kiếm hiệp như : Sơn Đầu Mã Ngọc Long, Mã Cơ Sanh!..,khoảng năm 1971, 1972 quý vị thầy này chỉ coi tay tài lộc trong hai năm cũng đòi năm ngàn, chọn ngày làm ăn buôn bán thì mười ngàn, lấy số tử vi thì ba chục ngàn. Họ xưng danh đại sư từ bên ‘đại quốc’ qua, và dù chỉ một lần, họ cũng hấp dẫn được khách hiếu kỳ hay hữu sự tìm đến họ. Họ sống một cuộc đời sung túc, vương giả, bay từ nước nọ qua nước kia, suốt đời ở khách sạn, ăn cao lương mỹ vị tại các đại tửu lầu, thật ra các vị thầy Tàu này đến Việt Nam hay các nước vùng Đông Nam Á thì có thể bịp được, chứ riêng dân Trung Hoa ở Chợ Lớn thì không tin. Họ cho rằng đó chỉ là những tên vô tài bất tướng, không có nghề nghiệp gì để sống bên chính quốc nên mới phải đi tha phương cầu thực như vậy.

    3.Thầy bói của các nhân vật chính trị:

    Vào khoảng năm 65-67 tại Sài gon, hễ dở những tờ báo ở trang quảng cáo ra, ai cũng phải để ý đến những dòng bốc thơm các vị thầy bói. Nào là ‘giáo sư thần học’, ‘chiêm tinh gia’, ‘maitre’, ‘quỷ cốc đại sư’…Họ làm ăn phát đạt, có uy thế mạnh mẽ, được trọng vọng nể vì bởi chính các nhân vật hàng đầu của quốc gia,không ai không biết chuyện đầu năm Nhâm Tý, đại tá Trần Văn Lâm giám đốc Việt Tấn Xã đã long trọng mời ba ông thầy Huỳnh Liên, Minh Nguyệt và Khánh Sơn lên đài truyền hình nói trước dân chúng về vận mạng quốc gia. Cũng không ai quên (nếu đã được biết) thầy Vũ Hùng ở đường Nguyễn Trãi Sàigòn đã treo tại phòng khách của thầy một bức tranh sơn mài tuyệt đẹp, có khắc hàng chữ :’Ông Nguyễn Bá Lương, Chủ Tịch Hạ Nghị Viện, kính tặng nhà tướng số Vũ Hùng’..,người ta cũng được nghe nhiều giai thoại về những cuộc tiếp đón các nhân vật lớn của chính quyền miền Nam của một ông thầy nổi tiếng ở Cao Nguyên. Ông thầy Chiêm còn trẻ và không mặc áo dài, đội khăn xếp như ai. Ông mặc Âu Phục đúng mốt nhưng kiểu trẻ và luôn luôn diện kính ‘mát’, trông rất ‘bô trai’ .Nếu không biết ông từ trước thì khó ai trông thấy ông đi bát phố (khu Hòa Bình) mà lại ngờ được đó là một ông thầy bói! ông tỏ ra là một người khôn ngoan lanh lợi. Tuy vậy, với tư cách thầy bói, ông đã xử sự như người đời xưa, như trong chuyện Tàu. Người ta đồn rằng chính ông đã được hân hạnh đón tiếp các nhân vật lừng danh : Cụ Phan, ông Nguyễn, ông Hà… và đã làm một cử chỉ rất điệu là là sụp xuống lạy và nói : ‘Ngài quả là có chân mạng đế vương !’ Người ta cũng ghi nhận rằng do lời tiên đoán và sự xuất khấu đầu đảnh lễ của ông thầy, trong một năm nào đó , tại miền Nam, đã có tới 11 vị có chân mạng đế vương ra tranh chức tổng thống! chừng đó, đủ chứng tỏ uy tín của ông thầy Chiêm lớn lao như thế nào, cũng không phải chỉ riêng ở nước ta, mà hình như ở đâu thì chính khách cũng đặc biệt quan tâm tới vấn đề bói toán. ‘Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.’ Không tin hẳn, nhưng nếu cứ bói thử thì vẫn còn hơn là tự quyết định vận mệnh quốc gia. Có lẽ ở quốc gia nào, dù Tây phương hay Đông phương, thì mỗi chính khách đều có riêng một ông thầy, cũng như một ông bác sĩ tư, một bà bí thư riêng nữa vậy!

    Với các chính khách, các thầy không những bấm độn, coi tướng, mà còn đưa ra những lời khuyên để thay đổi tướng mạo cho được ông thành danh toại hơn. Ví dụ, một vị tướng có một khuôn mặt quá ngắn và lưỡng quyền cao, thì được ông thầy cho hay như vậy phúc đức sẽ từ lưỡng quyền trôi tuốt luốt hết. Muốn cho công danh phát triển được lâu bền thì phải làm cho khuôn mặt dài ra, bằng cách để một chòm râu thòng xuống. Quả nhiên khi để râu dài như vậy, khuôn mặt tướng quân thon hơn, tướng mạo đổi khác nhiều lắm. Cũng có trường hợp một chính khách đầu đã bạc phải nhuộm, nhưng ông thầy cho biết nếu nhuộm tóc sẽ ảnh hưởng xấu đến cái tướng đang phát rất tốt đẹp. Vì vậy nhà chính khách đành buộc lòng để nguyên đầu tóc bạc phơ, trong lòng buồn vô hạn!..,những anh em, phần lớn là văn nghệ sĩ, nhà báo, hay ngồi ở quán Givral ngày xưa còn nhớ chuyện người ta kháo nhau rằng đáng lẽ cuộc đảo chánh hay ‘cách mạng’ năm 1963 phát động sớm hơn, nhưng vì các thầy đã bấm độn thấy là không được, nên đã phải dời qua ngày 1/11/63 đấy !..,cũng có vị chính khách được thầy bói khuyên là nên luôn luôn thắt cà vạt màu xám có sọc màu hồng, và ông đã âm thầm làm như vậy trong bao nhiêu năm trời. Những giai thoại trên chứng tỏ rằng ở một giai đoạn lịch sử đã qua, các vị thầy bói đã có ảnh hưởng thật lớn, nếu không nói là đã đóng những vai tro quan trọng trên chính trường.

    4.Các thầy bói nổi tiếng nhất xưa nay:

    Lẽ tất nhiên, chúng ta không ai có thể dám nói rằng mình biết được hết tên tuổi các vị thầy bói Giao Chỉ, dù chỉ riêng tại Sài gòn và phụ cận, chứ đừng nói là ở khắp nước Việt Nam
    ================
    Sau đây cũng chỉ là một số tên tuổi lẫy lừng nhất được nhiều người biết, trước hết phải kể đến các Bà Thầy: Bà Anna Phán, dường như xưa kia có chồng là người Pháp, đã nổi tiếng một thời từ ngoài Bắc, Hà nội. Khi bà theo làn sóng di cư trôi vào Nam thì chỉ còn hành nghề được ít năm nữa. Cũng có người cho rằng là vì tuổi già sức yếu nên con cháu không muốn bà tiếp tục, dù rằng lộc thánh hãy còn, trẻ hơn Bà Anna Phán, có một bà hình như là người Pháp và cũng mang cái tên rất đầm : Madame Claire.

    Madame Claire chẳng những bói hay mà còn là một người lịch lãm và gợi cảm. Có một công tử Bạc Liêu về già đem đến tặng Madame vài món nữ trang đáng giá.

    Cô Bích, một thiếu phụ nổi danh về bói toán mà cũng có lập am, lên đồng, là người Đà Nẵng. Xưa kia, hồi còn Pháp thuộc, cô đã từng có chồng sĩ quan Pháp nhưng không có con. Là người thất học nhưng khi đồng lên, cô Bích viết chữ Hán đẹp như rồng bay phượng múa. Đó là lời tiên thánh truyền dạy cho kẻ đến hầu cửa cô, một người mà khi đồng lên thì trở nên đẹp lộng lẫy với cặp mắt sắc như dao. Cô Bích đã tạ thế tại Đà Nẵng sau năm 80, nhưng vị thầy bói nữ lừng danh hơn cả phải kể là bà Nguyệt Hồ ở Đường Đinh Công Tráng thuộc quận Tân Định. Vào khoảng cuốn năm 1974, bà Nguyệt Hồ 43 tuổi, xưa kia đã từng nổi tiếng là hoa khôi, hình như bà đã trúng tuyển kỳ thi hoa hậu do báo Đời Mới của ông Trần Văn Ân Tổ chức, cả bốn vị nữ thầy trên đây đều đã thành công với nghề nghiệp và sống một cuộc đời sung túc, nếu không nói là vương giả. Các bà không những chỉ bóc bài, xem chỉ tay mà còn làm công việc giới thiệu tình duyên và gỡ rối tơ lòng. Các nữ thân chủ khi có chuyện rắc rối về gia đạo là tìm đến các bà như tìm đến những cái phao. Tuy các bà thầy cũng thành công, nhưng so với quý ông thì số lượng ít hơn. Người ta còn nhớ tại Sàigòn có các thầy nổi tiếng như : Gia Cát Hồng, giáo sư Khánh Sơn, thầy Nguyễn Huy Bích, thầy Minh Lộc, thầy Minh Nguyệt, thầy Lanh, thầy Diễn và thầy Ba La.

    Thầy Gia Cát Hồng tên thật là Phạm Bảo, nguyên là công chức thuộc nha cảnh sát công an Bắc Việt trước 1954. Sau khi di cư vào Nam, ông Bảo thôi nghề công chức, sau đó một thời gian mới mở văn phòng đoán vận mệnh tại đường Trần Quốc Toản, gần Việt Nam Quốc Tự. Thầy tự quảng cáo là nhà tiên tri xem tử vi, chữ ký. Nổi tiếng về tài xem tử vi mà nói đúng được diên mạo người xem, tầm vóc, lớn nhỏ, nghề nghiệp, màu da…mà không cần trông thấy mặt, ngoài việc bói toán, thầy Gia Cát Hồng kiêm luôn nghề thầy thuốc chữa những bệnh như: kinh phong, phong ngứa, phong tình…kết quả rất tốt. Thầy làm ăn phát đạt đến nỗi chẳng mấy chốc đã trở nên chủ nhân ông nhiều tài sản lớn.

    Thầy Nguyễn Huy Bích : Cũng chánh quán Bắc Việt, là người bị mù từ thuở sơ sinh, đã hành nghề từ phố Huế Hà nội 36 năm, sau mới vào sàigòn theo đợt di cư. Trong các thầy lừng danh, cụ Bích nổi tiếng là người hiền lành đứng đắn. Cụ rất ngại mở rông sự giao tiếp, dù rằng thân chủ tìm đến rất đông. Cụ cũng chỉ xem cho người quen, để có thể nói thật mà không sợ mất lòng hay gây thù oán. Nhiều nhà văn ở Sàigòn là bạn thân của thầy Bích. Ngoài ra cụ Bích cũng là bạn thân của đạo sĩ Ba La. Không chủ trương kiếm nhiều tiền, cụ Bích không có của chìm của nổi như thầy Gia Cát Hồng.

    Thầy Minh Nguyệt, không như thầy Gia Cát Hồng tự xưng là nhà tiên tri, thầy Minh Nguyệt tự quảng cáo trên báo là giáo sư Minh Nguyệt, và mở văn phòng ở Đề Thám. Cùng với các thầy Huỳnh Liên, Khánh Sơn, thầy Minh Nguyệt là một nhà bói toán có đến hàng chục ngàn thân chủ. Đặc biệt, riêng thầy Minh Nguyệt còn biết đủ thập bát ban võ nghệ, ngoài tài tử vi và xem chỉ tay, nhiều đồng hương đến nay đã ra nước ngoài mà xưa kia đã từng đến coi bói tại văn phòng giáo sư Minh Nguyệt vẫn nhớ giọng nói miền Nam rất vui vẻ của ông – giống như kịch sĩ Tùng Lâm – và cũng nhớ căn phòng đầy nữ thân chủ, phần đông là các cô có chồng quân nhân Mỹ đã bỏ Việt Nam trở về cố quốc. Các cô tới để nhờ thầy đoán xem bao giờ gặp lại cố nhân để cho đời sống được lên hương như trong quá khứ. Trong số hàng chục ngàn thân chủ, có cả hàng chục cô mong được nâng khăn sửa túi cho giáo sư ‘Sáng Như Mặt Trăng’, nhưng thầy nghiêm lắm, chẳng bao giờ ‘trăng hoa.’

    Thầy Minh Lộc : cũng sinh quán từ Bắc Việt di cư vào Nam, mở văn phòng tại đường Lê Văn Duyệt Sàigòn. Thầy là người đã hành nghề lâu năm trước, từ ngoài Bắc, và có thụ giáo với một số thầy khác. Điểm đặc biệt là thầy Minh Lộc rất khó tính, nghĩa là nói thẳng, nói ngang, nói như tát nước vào mặt người đến năn nỉ xin thầy xem giúp. Đây cũng là đặc điểm chung của các thầy muốn tỏ ra tự trọng, áp dụng câu châm ngôn rút ra từ truyện Kiều : ‘Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm vàng’. Lắm khi thầy mắng người ta đến xấu hổ và xua tay đuổi như đuổi tà, nhiều người giận bỏ về, nhưng rồi lại cứ mò tới !..,tự trọng và treo giá là phải, vì thầy đoán rất hay. Có người đã tắt thở, thân nhân đã đặt hòm, mà thầy vẫn xem tử vi và bấm độn quả quyết số này chưa mãn. Quả nhiên người ấy hồi sinh, và thân nhân trả hòm lại mà không lấy tiền về, xem như là để ăn mừng vậy. Và cũng như phần đông các thầy đã nổi tiếng, thầy Minh Lộc không chạy được ra nước ngoài vào đợt di tản 30-4., kể cả thầy Chiêm và thầy Khánh Sơn cũng không !

    Thầy Nguyễn Văn Canh, cũng là người sinh quán tại Bắc Việt (Nam Định). Thầy Canh cũng mù lòa từ thuở sơ sinh, nên được gia đình cho học nghề bói toán để làm kế sinh nhai. Thuở đầu đời, thầy hành nghề tại Thái Bình, Hà nội, và đã di cư vào Nam sau 1954. Điểm đặc biệt của thầy Canh là có đến mười người con, tất cả đều được sinh trưởng trong cảnh no ấm sung túc nhờ nghề của thầy là một nghề rất sáng giá tại quê nhà, vào thời buổi ấy. Thầy sở trường về tử vi và bói dịch, nổi tiếng như một nhà tiên tri, dáng người bệ vệ cao lớn, thầy có sức khoẻ dồi dào và thần trí minh mẫn. Xem tử vi trên năm đầu ngón tay, thầy Canh chỉ cần nghe ngày sinh tháng đẻ của thân nhân một lần là nói ngay vanh vách sao nào đóng ở cung nào, cung thê có đào hoa hồng loan thì sao, cung mệnh không có chính diệu mà đắc tam không thì cuộc đời sẽ như thế nào. Nói rồi, thầy nhớ mãi, lần sau khách tới chỉ cần nói tên là thầy biết số này ra sao! Đến nay, tại Mỹ, nhiều người còn nhớ được câu ‘mệnh vô chính diệu đắc tam không’ là nhờ học được của thầy Canh.

    Thầy Lê Văn Diễn. Người viết bài này không dám tin chắc họ của thầy Diễn là họ Lê, chỉ nhớ là ngưòi ta đã gọi vậy, nhưng phần đông đều chỉ gọi là thầy Diễn. Không như các thầy ở ngoài Bắc di cư vào Nam, thầy Diễn là công chức miền Nam đã về hưu. Nhà riêng ở đường Hiền Vương gần đất Thánh Tây, nhưng thầy ít khi tiếp khách tại nhà, mà thường thân chủ muốn rước thầy phải hẹn trước hàng tháng, hàng tuần,và thỉnh thầy về nhà một cách long trọng, thầy không nổi tiếng với khoa tướng số tử vi hay bấm độn, hay bói tướng, mà tự nhiên có thể xuất thần nói được những điều huyền bí, tiên tri ghê gớm về quá khứ vị lai. Tây phương gọi loại thầy tiên tri này là Medium, điểm đặc biệt của thầy cũng lại là khó tính. Thầy tối kỵ nhận tiền bạc hay lễ lạc của thân chủ, dạy rằng nếu được trả tiền thì bao nhiêu cái hay sẽ mất hiệu nghiệm và việc làm của các thầy sẽ không còn phải là cứu nhân độ thế nữa. Mỗi khi khách có tang gia bối rối, lần mò vào được nhà thầy, liền bị người nhà ra mời đi, nói rằng thầy lúc này đã muốn nghỉ ngơi, các quý khách đã rước thầy đi ngao du sơn thủy, đâu có ở nhà mà giúp bà con được! Nhưng rồi cuối cùng thầy cũng giúp cho, và thân chủ phải nghĩ sao cho phải thì thôi, để gọi là lòng thành lễ bạc! Nhiều giai thoại về tàihấy vị lai của thầy đã được truyền tụng. Ngoài ra, thầy Diễn còn có tài địa lý, nhìn hướng nhà mà biết nhà có hợp để ăn nên làm ra không, cửa trổ về hướng nào thì có lợi. Những giai thoại về thầy Diễn cũng nhiều, nhưng xét ra cũng tương tự như các thầy khác, điểm đặc biệt là thầy được coi như một người có khả năng xuất hồn, chứ không phải chỉ bói toán tử vi hay địa lý. Cũng như thầy Chiêm ở Đà Lạt, thầy Diễn xuất hồn để tiếp xúc với hồn người quá vãng. Thầy Chiêm cầm ống điện thoại cũng kêu hêlô, hêlô và hai bên đối thoại, có cả những tiếng OK,OK nữa. Còn thầy Diễn thì thế nào, kẻ viết bài này chưa được chứng kiến.

    Thầy Khánh Sơn : Có lẽ so với tất cả các thầy đã được kể trên, thì thầy Khánh sơn là người nổi tiếng nhiều nhất và lâu nhất, từ những năm nước nhà còn Pháp thuộc, các bậc tiên sinh đã nghe danh thầy, tự xưng là Mét (Maitre). Mét Khánh Sơn. Báo chí thời tiền chiến đã đăng hình thầy: đẹp trai, đeo kính trắng trí thức, một ngón tay chỉ vào cái chìa khóa, tượng trưng cho sự khám phá mọi điều huyền bí chăng? Mét đã hành nghề đâu từ những năm 40-45 xa xưa, sau khi tốt nghiệp bằng sư phạm tại Hà nội, chứ không phải vì thất nghiệp mà phải xoay nghề như một số các ông ở bên Tàu qua, như đã nói ở trên, kẻ viết bài này còn nhớ đã đọc đâu đó trên báo chí, hồi còn ở quê nhà, nhiều giai thoại đặc biệt về thầy Khánh Sơn. Nào là, thầy là người hào hoa phong nhã, lại làm ra tiền dễ dàng nên đã sống cuộc đời của một Don Juan! của một công tử Bạc Liêu! của một ông hoàng! Mặc dầu có gia đình và những ngưòi con cũng rất đàng hoàng, thầy Khánh sơn vẫn được rất nhiều các bà, các cô mê mệt! Nào là, thầy đã từng xem quẻ mà cứu được mấy nhân vật trong chính giới thoát chết của viên toàn quyền Pháp Pasquier trấn nhậm Đông Dương vào năm 1936. Theo lời các cụ kể lại thì Mét Khánh sơn đã đưa ra một câu sấm như thế này để giải đoán trường hợp ông toàn quyền năm xưa :

    “Bao giờ hai bảy mười ba
    Lửa thiêng đốt cháy tám gà trên mây”

    Đại khái thầy Khánh Sơn cho rằng Tám Gà là Bát Kê, và trên mây là máy bay. Sau đó, máy bay trên có viên toàn quyền bay về Pháp đã bốc cháy và đốt cháy không những ông ta mà cả tám người trên phi cơ. Chuyện khó tin, nếu mà đúng thế thì quả cái tài của Mét Khánh Sơn thật là vô địch. Sợ rằng sấm chỉ ra đời sau khi sự việc đã xảy ra. Dầu sao, cũng có tài liệu ghi chép rằng chính ông Pasquier đã được nghe câu sấm và lời giải đáp tại một phiên chợ ở Hà nội, trước khi tai nạn xảy ra. Thời gian hành nghề hốt bạc của thầy Khánh Sơn kéo dài rất lâu. Thầy đã từng là nhà đoán vận mạng riêng của rất nhiều nhân vật tên tuổi như: cựu hoàng Bảo Đại, cựu hoàng Sihanouk…,cho đến năm Nhâm Tý 1972, cá thầy Khánh sơn, Minh Nguyệt, và Huỳnh Liên được mời lên tivi tiên đoán vận mệnh nước nhà, thì cả ba đều nói những điều tốt đẹp, nhìn thấy hòa bình tiến lại gần, thật gần cho nhân dân miền Nam ! Tiếc thay, không có thầy nào tiên đoán được biến cố long trời lở đất 30/4 để mà tháo chạy!

    Thầy Ba La : Danh xưng Ba La gợi nên hình ảnh một vị bốc sư Ấn Độ, hay Hồi Giáo, đầy vẻ huyền bí của xứ Nghìn Lẻ Một Đêm. Thật ra thầy Ba La cũng sinh quán ở Bắc Việt Nam, và cũng di cư vào Sài gòn sau năm 1954. Trước đó, thầy đã nổi danh tại miền Bắc lâu lắm rồi, vì đến nay, nếu thầy còn trường thọ ở quê nhà thì thầy đã ngoài 110 tuổi! Trước 1975, thầy Ba La mở văn phòng bói toán tại đường Nguyễn Phi Khanh, khách bước vào trông thấy ngay một cụ già tiên phong đạo cốt, râu tóc bạc phơ, chẳng khác gì các đạo sĩ trong truyện Tàu, thầy Ba La chuyên về tử vi, bói dịch, nhưng cũng nổi tiếng như một nhà tiên tri vì thầy hành nghề quá lâu năm, tài nghệ không như những thầy tử vi, bói dịch thường tình. Thầy cũng bị lòa từ lúc trẻ nên đã chọn nghề này để sinh sống, và bởi vậy nghề của thầy có căn bản vững vàng, sở học tinh thông. Thông thạo Hán văn và là tiên chỉ trong làng, nên thầy rất được nể trọng bởi người cùng giới cũng như thân chủ, đồng bào nói chung. Có đến văn phòng thầy Ba La để thấy thầy tiếp khách, toàn là các vị trí thức, giáo sư, kỹ sư, luật sư, mới biết cái giá trị của người bói toán ở nước ta thời ấy như thế nào. Có người không tới để nhờ thầy đoán vận mệnh, mà chỉ đến để xin được luận đàm về tử vi. Cụ Ba La không làm khó trong việc tiếp thân chủ. Ai cần là cụ sẵn sàng xem cho, trong ý hướng giúp đỡ. Nhưng cụ khó tính trong cái nghĩa là hết sức thận trọng khi đặt một lá số, khi gieo một quẻ bói. có khi kéo dài rất lâu, nghiên cứu rất tỉ mỉ.

    Mỗi vị thầy bói đều có riêng những giai thoại về mình. Cụ Ba La thì được nhiều người thành tâm khâm phục vì đích thân chứng kiến tài năng của cụ, đích thân là người được cụ cứu thoát chết nhờ chỉ dẫn cách sinh sống sao cho hợp với tướng số của mình v.v…
    =================================
    Cũng trên một giai phẩm nào đó, người ta được biết một giai thoại ly kỳ về tài năng xuất chúng của cụ về giải đoán số tử vi, một thanh niên người miền Bắc, con của một gia đình giầu có nhưng bà mẹ chỉ sinh được một lô con gái, vào thời buổi mà xã hội còn đánh giá người đàn bà thật thấp với câu: ‘Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô’ (một con trai cũng đáng kể là có, mười con gái có thể coi là số không). Vì lo toan không có con trai nối dõi tông đường sẽ cam tội bất hiếu, ông bà liền đi lễ chùa Hương để cầu tự. Trải qua nhiều năm tháng, chứng tỏ lòng thành, ông bà đã được toại nguyện. Trời Phật ban cho một đứa con trai. Mặc dầu được nuôi nấng cẩn thận, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, nhưng năm lên ba tuổi cậu bé cầu tự này bỗng nhiên bị bệnh nhẹ mà mất, làm cho cả đại gia đình vô cùng thương tiếc, đau khổ, họ không nản lòng, lại tiếp tục ngày đêm cầu nguyện, lòng thành dâng lễ vật lên chư vị thánh thần tại chùa Hương để xin các ngài xét lại, tha thứ cho những lỗi lầm đã phạm, nếu có, và xin được ‘trả lại’ đứa con trai cầu tự. Ba năm sau, nhờ ơn Trời Phật, bà mẹ lại sinh được một đứa con trai, mà cả nhà xem như là chính người con trước đã tái sinh. Mà họ tin như vậy là phải, vì dung mạo người em như khuôn đúc từ người anh, không khác một điểm nào, kể ca û nốt ruồi son ngay giữa ngực. Vì vậy hai ông bà thân sinh lấy tên người anh đặt cho người em, cả giấy khai sanh đều giữ nguyên của người anh để đi học, dù rằng họ cách nhau ba tuổi, cậu bé lớn lên, học hành đỗ đạt, và vì biết chuyện đã xảy ra cho bản thân mình đầy tính cách mê tín dị đoan, huyền bí, khó tin, nên cậu ngày đêm thắc mắc muốn tìm ra sự thật. cậu một mình trôi dạt vào Nam, người thanh niên phải trải qua những năm tháng vật lộn với đời sống phồn hoa để sống còn. Người thanh niên, tạm gọi là anh X. luôn luôn nghĩ đến chuyện tìm đến một vị thầy tử vi, một nhà bói toán hay để nhờ giải đáp bài toán của cuộc đời mình.

    Chính tại Sàigòn mà anh X. được nghe danh nhà tiên tri Ba La. Chẳng những đã đỗ cử nhân Hán học, cụ còn là một nhà ái quốc từng tham gia các phong trào chống Pháp. Được biết cụ Ba La không phải mù lòa từ thuở sơ sinh mà chỉ bị mù sau khi trèo đèo lội suối vô cùng gian khổ tại núi Ba Vì, lòng anh X. vô cùng cảm xúc ngưỡng mộ người thầy bói có một quá khứ đẹp và anh tin tưởng người ấy nhất định không dối gạt, anh X. tìm gặp được cụ Ba La tại Sàigòn. Anh đưa trình lá số tử vi của người anh đã chết để nhờ thầy giải đoán. Thầy Ba La càng coi kỹ lá số càng tháo mồ hôi, miệng không ngớt kêu : ‘lạ quá, lạ quá’. Sau cùng, thầy nói rằng ://”- Nếu thật anh sinh vào ngày giờ này, tháng này, năm này, thì anh đã mệnh yểu từ năm lên ba !”

    Thầy Ba La xem kỹ các vì sao chỉ tướng mệnh, rồi gọi người nhà ra nhận xét và trả lời từng điểm : có phải cái trán thế này, cái mũi thế này, cặp mắt thế này, tầm vó cao lớn như thế này…không ? Và nhất là có nốt ruồi son ở giữa ngực ? Cụ Ba La lập lại :..”- Có nốt ruồi đỏ thật à ? Thế thì lạ quá ! Tôi chịu, không đủ tài đoán số này cho anh. Anh hãy cầm tiền về và chỉ đến khi nào anh… có được một lá số tử vi khác !”..,trên nét mặt ông thầy đượm vẻ buồn và bực tức. Cụ Ba La bực tức vì cảm thấy, lần đầu tiên, mình không tin ở khả năng của mình. Cũng bực tức nghi ngờ phần nào người thân chủ này đã có thể không thành thật, anh X. cảm phục đến sợ hãi, lòng ăn năn vì đã dám thử thách một bậc tiền bối khả kính. Cuối cùng anh X. đã trở lại lần nữa, thành tâm xin lỗi cụ và trình ra lá số tử vi thật. Từ đó, anh hoàn toàn tin tưởng ở khoa tử vi như là một khoa học huyền bí, chứ không phải là một trò mê tín dị đoan, tiếc thay, cụ Ba La đã không được mời lên tivi tiên đoán vận mạng đất nước vào năm Nhâm Tý 1972, để nói những lời tiên tri xác thực hơn các vị đã được mời năm ấy.

    Chiêm tinh gia Huỳnh Liên; Nhắc đến thầy Huỳnh Liên sau hết, không phải vì thầy ít nổi tiếng hơn các vị kia. Trái lại là khác. Nhưng để dành phần sau hết nói về thầy là vì trong số các nhà tử vi, tướng số lừng danh miền Nam trước năm 75, ông Huỳnh Liên là người duy nhất được báo chí Việt ngữ ở nước ngoài biết được tin tức ‘động trời’ về ông, qua một cái chết bất đắc kỳ tử gây ngạc nhiên và xúc động cho bà con ở bên này, số là, vào đầu tháng 10/1992, nhiều báo Việt ngữ ở đây loan tin về cái chết của ông, qua một hàng tít giật gân : ‘Thầy bói Huỳnh Liên bị cháu vợ giết chết để cướp của’. Tin này được truyền miệng nhanh chóng, và những người theo dõi, tò mò, đều tưởng rằng chuyện mới xảy ra ở Sàigòn. Về sau mới biết đó chỉ là tin viết lại từ báo Sông Bé, tờ báo xuất bản tại huyện Lái Thiêu tỉnh Bình Dương. Bài viết đầy đủ chi tiết về cái chết, về cuộc sống đã qua, mang hình thức một thiên phóng sự, có điều đáng tiếc là từ đầu đến cuối không thấy nói ngày kẻ cướp vào nhà sát hại ông là ngày nào, năm nào !

    5.Kết Luận

    Theo bài này thì trong những năm làm ăn phát đạt ở Sàigòn xưa kia (trước 1975), ông Huỳnh Liên có tậu một khu vườn-nhà ở làng Vĩnh Phú – Lái Thiêu – để khi rảnh rỗi ông từ sàigòn về đây vui thú với bà vợ nhỏ, trong khi bà cả vẫn đóng đô ở ngôi nhà chính trên đường Phan Thanh Giản Sàigòn, sau năm 1975, nghề coi bói không còn được xem là hợp pháp, thầy Huỳnh Liên cũng như tất cả các thầy khác, đều tỏ ra thức thời, viết bài cảnh tỉnh chối bỏ quá khứ để nạp cho nhà cầm quyền, hứa rằng ‘Từ nay thôi không lừa bịp bà con nữa’. Từ đó ông về ở hẳn với bà vợ nhỏ, một cuộc sống cũng lạnh lẽo đìu hiu như với bà vợ lớn vậy, vì cả hai bà đều không có con. Rồi thì, sau giai đoạn đầu hăng say của ‘cách mạng’, đâu lại vào đấy, bà con lại tìm đến các thầy bói để giải quyết những vấn nạn của đời sống, theo báo Sông Bé thì ông Huỳnh Liên không tin tưởng bà vợ nhỏ lắm, nên xâu chìa khóa mở tủ cất tiền và vàng ông luôn luôn giữ bên mình. Một hôm đường dây điện thoại trên lầu bị hư, ông sai bà đi gọi hai người cháu của bà lên sửa cho chắc ăn. Tới chiều, hai anh thợ điện mới lên tới nhà và bảo ông Huỳnh Liên là bà ở lại Sàigòn chơi đến mai mới về. Vừa đến nhà, hai anh thợ điện liền xem xét chiếc xe hơi của ông chủ nhà nằm trong ga ra đã lâu năm coi còn tốt không. Sau đó, họ theo ông chủ lên lầu lo sửa điện, trong khi chị bếp đi bắt gà đãi khách. Khi chị bếp trở lại thì nghe có tiếng động khả nghi, chị chạy lên lầu thì thấy một cảnh tượng hãi hung : Một người cầm khúc dây điện ngắn xiết chặt cổ ông Huỳnh Liên, ông trợn mắt và không la lối gì được. Chị bếp bỏ chạy xuống đường, vừa lúc gặp hai xe bộ đội từ chiến trường Tây Nam trở về, lính trên xe bắn súng chỉ thiên chơi. Hai tên giết người nghe súng nổ, tưởng rằng công an đã đến nơi, vội vàng lên xe tháo chạy.

    Trong lúc quýnh quáng, chúng quên mất hai cái áo còn cởi bỏ trong nhà. Chị giúp việc chạy đi cầu cứu. Lúc công an đến thì ông Huỳnh Liên đã chết. Người ta thấy cái tủ cất giấu tiền, vàng của ông vẫn còn nguyên và đồ đạc trong nhà cũng không bị mất món nào. Trong túi áo hai kẻ sát nhân còn bỏ lại, có đầy đủ giấy tờ tùy thân của chúng. Nhờ đó mà công an khỏi phải mất nhiều công sức cũng tóm gọn cả hai tại nhà ở Sàigòn ngay trong đêm, b;ài phiếm vãn về thầy bói này, có đoạn về thầy Ba La, thầy Lê Văn Diễn thì dài, về các thầy khác thì ngắn, vì người viết được biết về các thầy nhiều ít khác nhau. Hiện nay, sống trên đất Mỹ, được biết ‘càng ngày càng nhiều tài tử, ca sĩ, diễn viên và người mẫu Hollywood quay trở về với khoa học huyền bí, theo nhiều hệ phái và tín ngưỡng khác nhau’. Huống nữa là người Việt Nam, sao lại không thích chuyện thầy bói ?

  • Phim hiếm: Lễ cưới của người Việt ở Miền Bắc thời Pháp thuộc

    https://www.youtube.com/watch?v=LSevb6vOaYU&feature=youtu.be

    Trong đời sống hôn nhân của người Việt Nam, khi trai gái lấy nhau, người Việt gọi là đám cưới, đám cưới là một trong bốn nghi lễ quan trọng (quan, hôn, tang, tế).

    Đúng ngày cưới, người ta chọn giờ “hoàng đạo” mới đi, thường là về chiều, có nơi đi vào chập tối. Dẫn đầu đám rước đàng trai là một người già nhiều tuổi.
    Tại nhà trai, người ta chờ đợi đám rước dâu về. Lễ tơ hồng được cử hành rất đơn giản. Bàn thờ thiết lập ngoài trời, bày lư hương và nến hay đèn, tế vật dùng xôi, gà, trầu, rượu…

    Nhà nước quân chủ Việt Nam cũng can thiệp vào việc giá thú của người dân bởi những điều lệ hay luật. Điều lệ hương đảng do vua Gia Long ban hành năm 1804, khoản về giá thú nêu rõ: “Hôn lễ là mối đầu của đạo người”, “Giá thú mà bàn của cải là thói quen mọi rợ” và quy định: “Đại phàm lấy vợ lấy chồng, chẳng qua cốt được cặp đôi mà thôi, còn lễ cưới thì nên châm chước trong sáu lễ, lượng tuỳ nhà có hay không, chứ không được viết khế cố ruộng. Hương trưởng thu tiền cheo trong lễ cưới thì người giàu 1 quan 2 tiền, người vừa 6 tiền, người nghèo 3 tiền, người làng khác thì gấp đôi…”.
    Năm 1864, vua Tự Đức cũng sai định rõ lại lễ cưới xin của dân gian: “Từ lúc vấn danh đến khi xin cưới, cho kỳ hạn là 6 tháng, đều theo tiết kiệm, không được quá xa xỉ”

     

  • Người Việt ăn uống như thế nào và Cách Nấu Nướng khác với Người Trung Hoa ra sao ?

    Người Việt ăn uống như thế nào và Cách Nấu Nướng khác với Người Trung Hoa ra sao ?

    GS. Trần Văn Khê
    GS. Trần Văn Khê

    Thật ra, tôi rất ngại khi cầm viết ghi lại những câu hỏi đã trả lời cho những bạn bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi : Người Việt Nam ăn uống thế nào ? Hay là cách nấu ăn của người Việt có khác người Trung Quốc hay chăng ? Vì đó chỉ là những phần nhận xét đã được nhanh chóng đúc kết để đưa ra những câu giải đáp kịp thời chớ không phải do một sự sưu tầm có tính cách khoa học. Trong câu chuyện, một vài bạn trong báo Tuổi Trẻ thấy nhận sét sơ bộ của tôi có phần nào lý thú, nghe vui tai nên nhờ tôi ghi ra thành văn bản. Nể lời các bạn, tôi xin gởi đến các bạn đọc vài mẩu chuyện có thật về cách ăn và nấu ăn của người Việt chúng ta, và xin các tay nghề nấu ăn trong nước đừng cười tôi dốt hay nói chữ, dám múa búa trước cửa Lỗ Ban, đánh trống trước cửa nhà Sấm.

    Trong một buổi tiệc, một anh bạn Pháp hỏi tôi: – Chẳng biết người Pháp và người Việt Nam ăn uống khác nhau như thế nàỏ – Tôi rất ngại so sánh . . . tôi trả lời . . . vì so sánh là biết rõ rành mạch cả hai yếu tố để so sánh. Thỉnh thoảng tôi có ăn uống theo người Pháp nhưng làm sao biết cách ăn của người Pháp bằng người Pháp chính cống như anh. Tôi thì có thể nói qua cách ăn uống của người Việt chúng tôị Để cho anh dễ nhớ, tôi chỉ đưa ra ba cách nấu ăn của người Việt, rồi anh xem người Pháp có ăn như vậy chăng ? Người chúng tôi ăn toàn diện, ăn khoa học, ăn dân chủ.

    1- Ăn toàn diện: Chúng tôi không chỉ ăn bằng miệng, nếm bằng lưỡi, mà bằng ngũ quan. Trước hết ăn bằng con mắt, và do đó có nhiều món đem dọn lên, nhiều màu sắc chen nhau như món gỏi sứa chúng tôi chẳng hạn: có giá màu trắng, các loại rau thơm màu xanh, ớt màu đỏ, tép màu hồng, thịt luộc và sứa màu sữa đục, đậu phộng rang màu vàng nâu v. v. . . Có khi lại tạo ra hình con rồng, con phụng, trong những món ăn nấu đãi đám hỏi, đám cưới. Sau khi nhìn cái đẹp của món ăn, chúng tôi thưởng thức bằng mũi, mùi thơm của các loại rau thơm như húng quế, ngò, hoặc các mùi đặc biệt của nước mắm, của cà cuống. Răng và nứu đụng chạm với cái mềm của bún, cái dai của thịt luộc và sứa, cái giòn của đậu phộng rang để cho xúc cảm tham gia vào việc thưởng thức món ăn sau thị giác và khứu giác. Rồi lỗ tai nghe tiếng lốc cốc của đậu phộng rang, hay tiếng rào rào của bánh phồng tôm, hay tiếng bánh tráng nướng nghe rôm rốp. Sau cùng lưỡi mới nếm những vị khác nhau, hòa hợp trong món ăn: lạt, chua, mặn, ngọt, chát, the, cay v. v. Chúng tôi ăn uống bằng năm giác quan, về cái ăn như thế gọi là ăn toàn diện.

    2- Ăn khoa học : Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu, nhất là ở Nhật Bổn thường hay sắp các thức ăn theo “âm” và “dương” Nói một cách tổng quát thì những món nào mặn thuộc về dương, còn chua và ngọt thuộc về âm. Người Việt thường trộn mặn với ngọt làm nước mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, ướp thịt nướng, luôn luôn có pha một chút đường; mà ăn ngọt quá như chè, ăn dưa hấu hay uống nước dừa xiêm thì cho một chút muối cho âm dương tương xứng. Người Tây khi ăn bưởi thật chua lại cho thêm đường, đã âm lại thêm âm thì âm thịnh dương suy, không đúng theo khoa học ăn uống. Người Việt phần đông không nghiên cứu về thức ăn, nhưng theo truyền thống của cha ông để lại thành ra ăn uống rất khoa học. Người Việt chẳng những để ý đến quân bình âm dương giữa các thức ăn mà còn để ý đến quân bình âm dương giữa người ăn và thức ăn.

     

    Bát cháo hành
    Bát cháo hành

    Khi có người bị cảm, người nấu cháo hỏi: cảm lạnh (bị mắc mưa, đêm ra ngoài bị cảm sương) thì nấu cháo gừng vì cảm lạnh (âm) vào người phải đem gừng (dương) vào chế ngự. Nếu cảm nắng (bị mặt trời làm cho sốt) thì dương đã vào người phải nấu cháo hành (âm) . Lại nghĩ đến âm dương giữa người ăn và môi trường; mùa hè thời tiết có dương nhiều nên khi ăn có canh chua (âm) hoặc hải sâm (âm) ; mùa đông thời tiết có âm nhiều nên ăn thịt nướng. Ta có câu : “mùa hè ăn cá sông, mùa đông ăn cá biển” Quân bình trong âm dương còn thể hiện qua điếu thuốc lào, thuốc lá phơi và đóm lửa (dương) hít một hơi cho khói qua nước lã trong bình (âm) để hơi khói thuốc vào cơ thể, nguồn hút có cả dương và âm, không kể nước đã lọc bớt chất nicotine có hại cho buồng phổi. Chẳng những cân đối về âm dương mà còn hàn nhiệt nữa: thịt vịt hay thịt cá trê – hàn – thì chấm với nước mắm gừng – nhiệt. Cách ăn của người Việt Nam khoa học vì phù hợp với nguyên tắc âm dương tương xứng hành nhiệt điều hòa. Ngoài ra trong một món ăn thường đã có chất bột, chất thịt, chất rau làm cho sự tiêu hóa được dễ dàng.

    3- Ăn dân chủ : Trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng chúng tôi có thể những món chúng tôi thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của chúng tôi. Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của chúng tôi, chớ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổi. Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ. Anh bạn người Pháp thích chí cười to : ăn toàn diện, chúng tôi chưa nghĩ đến là về thính giác, ăn mà nghe tiếng động là vô phép nên ăn bớt ngon. Ăn khoa học, thì chúng tôi chỉ nghĩ đến calory mà không biết âm dương và hàn nhiệt. Còn ăn dân chủ, thì hoàn toàn thiếu sót vì đến nhà chúng tôi có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no cũng phải cố gắng ăn cho hết. Tôi xin hoàn toàn hoan nghinh cách ăn của người Việt Nam. Về cách ăn uống Việt Nam lại có thêm :

    4- Ăn cộng đồng : Thức ăn đầy bàn mà có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơi.

    5- Ăn lễ phép : Con lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhứt, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng.

    6- Ăn tế nhị : Ăn ớt cử cách cắn trái ớt, có khi phải ăn ớt xắt từng khoanh, ớt bằm, ớt làm tương. Nước chấm nhứt là ở miền Trung rất tinh tế ăn món chi phải có nước chấm đặc biệt : bánh bèo, bánh lá, bánh khoái đều có nước chấm khác.

    7- Ăn đa vị : Một miếng nem nướng đã có vị thịt, riềng, muối, tỏi, hành cuốn vào bánh tráng lạt lạt, có chút bún, rau thơm, ớt (cay), chuối sống (chát), khế (chua), tương (ngọt, mặn cay) có pha hột điều hay đậu phộng xay (béo). Ăn có năm vị chánh : ngọt, mặn, chua, cay, béo, có cả ngũ sắc đen (tương), đỏ (ớt), xanh (rau), vàng (khế chín), trắng (bánh tráng, bún). Ăn một miếng mà thấy 5 màu, lưỡi nếm 5 vị và có khi hơn thế nữa.

    Một lần khác, một anh bạn của tôi khai trương một tiệm ăn lớn tại Paris. Anh có mời đài phát thanh và báo chí đến để cho biết rằng tiệm của anh có cả thức ăn Trung Quốc và Việt Nam. Các phóng viên muốn biết Việt Nam và Trung Quốc nấu ăn có khác nhau như thế nàỏ Hai đầu bếp Việt Nam và Trung Quốc được mời ra để báo chí hỏi thì hai người đều khẳng định là cách nấu ăn rất khác, nhưng phải xuống bếp coi mới thấy. Nhà bếp nhỏ không chứa được mấy chục phóng viên, và ai cũng ngại hôi dầu hôi mỡ nên ông chủ tiệm nhờ tôi tìm câu trả lời cho các nhà báo. Tuy không phải là một chuyên gia về nghệ thuật nấu bếp, nhưng tôi cũng phải tìm câu trả lời thế nào để cho các nhà báo bằng lòng. Tôi mới nói rằng, tôi không đi vào chi tiết nhưng chỉ đưa ra ba điểm khác nhau trong cơ bản.

    1/- Cách dùng bột: Người Việt Nam thường dùng bột gạo trong khi người Trung Quốc thích dùng bột mì, cho nên Việt Nam có phở, hủ tiếu, bún thang, bún bò, bún riêu; mà người Trung Quốc thì chuyên về mì nước, mì khô, mì sợi nhỏ, mì sợi lớn, mì vịt tiềm. Người Việt làm bánh đùm, bánh xếp, bánh cuốn, bánh hỏi; người Trung Quốc thì bánh bao. Chả giò người Việt Nam cuốn bằng bánh tráng bột gạo; còn người Trung Quốc thì cuốn tép trong bánh bằng bột mì.

    2/- Nước chấm cơ bản của người Việt nam là nước mắm là bằng cá; còn nước chấm của người Trung Quốc là xì dầu làm bằng đậu nành.

    3/- Người Việt thì thường pha mặn ngọt; người Trung Quốc thích chua ngọt. Chỉ nói đại khái như vậy mà các phóng viên đã hài lòng về viết bài tường thuật nêu lên những điểm khác nhau ấy. Ông giám đốc tạp chí Đông Nam Á, sau lời nhận xét đó, cho phóng viên đến phỏng vấn tôi thêm và hỏi tôi có biết yếu tố nào khác đáng kể khi nói về cách nấu ăn của người Việt khác người Trung Quốc ở chỗ nào. Tôi trả lời cho phóng viên trong 40 phút. Hôm nay tôi chỉ tóm tắt cho các bạn những điểm chính sau đây.

    • Về rau : người Việt tuy có ăn rau luộc, hay xào; nhưng thích ăn rau sống, rau thơm, mà người Trung Quốc không ưa ăn rau sống, cải sống, giá sống.
    • Về cá : Người Trung Quốc biết kho, chưng, chiên như người Việt Nam. Nhưng người Trung Quốc có cá mặn không làm mắm như người Việt. Có rất nhiều cách làm mắm và ăn mắm: mắm thái, mắm nêm, mắm ruốc, mắm tôm v. v. . . Các nước Đông Nam Á cũng có làm mắm nhưng không có nước nào biết làm nhiều loại mắm như người Việt.
    • Về thịt : Người Trung Quốc biết quay, kho, luộc xào, hầm như người Việt, mà không biết làm nem, bì và các loại chả như chả lụa, chả quế v. v. . .
    • Người Trung Quốc ít có phối hợp nhiều vị trong một món ăn như người Việt. Khi chúng ta ăn một món ăn như nem nướng thì có biết bao nhiêu vị: lạt lạt của bánh tráng, bún, hơi mát mát ngọt ngọt như dưa leo, và đặc biệt của giá sống trộn với khế chua, chuối chát, ớt cay, đậu phộng cà bùi bùi, và có tương mặn và ngọt. Người Việt trong nghệ thuật nấu ăn rất thích lối đa vị và tất cả các vị ấy bổ sung cho nhau, tạo ra một vị tổng hợp rất phong phú. Cái ăn chiếm phần khá quan trọng trong đời sống của chúng ta.

    Khi dạy dỗ một trẻ em thì phải cho nó học ăn, học nói, học gói, học mở để biết ăn, nói với người ta. Ra đường phải biết “ăn bận” hay “ăn mặc” cho phải cách phải thế. Đối với mọi người không nên “ăn thua” làm chi cho bận lòng. Làm việc gì phải cẩn thận “ăn cây nào, rào cây nấy”. Trong việc tiêu tiền phải biết “liệu cơm, gắp mắm” và dẫu cho nghèo đi nữa “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Không nên ham ăn quá độ vì ” no mất ngon, giận mất khôn”. Ra làm ăn phải quyết tâm đừng ” cà lơ xích xụi” chạy theo ” ăn có” người khác. Phải biết ” ăn chịu” với người làm việc nghiêm túc thì công việc khỏi bị “ăn trớt”. Không nên “ăn gian, ăn lận” hay bỏ lỡ cơ hội thì “ăn năn” cũng muộn. Trong cuộc sống nên tìm việc làm hữu ích cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước đừng để mang tiếng “ăn hại” “ăn bám” người khác. Khi đàn chơi phải biết lên dây đàn cho” ăn” với giọng ca, hòa đàn cũng phải “ăn” với nhau, “ăn ý” , “ăn rơ” thì mới haỵ

    Các bạn thấy chăng ? Cái “ăn” cũng khá quan trọng nên mới lọt vào một số từ ngữ của tiếng nói Việt Nam. Tuy chúng ta không như người Trung Quốc ” dĩ thực vi tiên” nhưng phải có ăn mới làm nên việc vì có “thực mới vực được đạo”.

    GS. Trần Văn Khê

  • Tản mạn về nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    Tản mạn về nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    Tản mạn về nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75, trước biến cố tháng 4/1975, nhạc nhẹ nói chung và nhạc rock nói riêng gần như chỉ có ở duy nhứt ở Miền Nam, Sau 30/04/1975, làn sóng nhạc nhẹ tràn ra miền Bắc và dấy nên một trào lưu nhạc nhẹ rộng khắp, thu hút đông đảo thanh niên vốn trước đó chỉ tiếp xúc với những ban nhạc theo kiểu thính phòng hoặc các ban “nhạc nhẹ” đánh theo tổng phổ, năm 1954, dù người Pháp rút khỏi Việt Nam, nhạc Pháp vẫn còn hằn sâu trong sinh hoạt âm nhạc xã hội, nhưng khi người Mỹ đổ quân đến miền Nam thì nhạc Pháp cũng lùi dần nhường bước cho làn sóng văn hóa Mỹ, uối thập niên 1950 – đầu thập niên 1960 có thể nói nhạc trẻ Sài Gòn đã hình thành, nhưng nó thật sự gây được ấn tượng mạnh mẽ với công chúng trẻ là từ năm 1963.

    Một số bức ảnh cắt ra từ báo chí thời bấy giờ:

    nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    1.Âm nhạc phương tây du nhập vào Saigon

    Cũng từ cái mốc năm 1963 cho đến trước ngày 30/4/1975, Sài Gòn nhộn nhịp với những đại nhạc hội. Đại nhạc hội thời ấy có hai loại: đại nhạc hội dành cho giới bình dân, biểu diễn tại rạp Quốc Thanh và rạp Hưng Đạo vào mỗi buổi sáng Chủ nhật với sự tham gia của các ca sĩ nổi tiếng thời đó như: Chế Linh, Duy Khánh… Hát nhạc kích động “bình dân” tiêu biểu có Hùng Cường – Mai Lệ Huyền, Khánh Băng – Phùng Trọng với những bản nhạc twist, agogo như Một trăm phần trăm, Gặp nhau trên phố… mà những ban nhạc rock “tinh tuyền” gọi là rock “dởm”. Ngoài ra, có một đại nhạc hội khác gọi là đại nhạc hội kích động nhạc, tiền thân của nó là những ban nhạc học sinh của trường Taberd (nay là trường Trần Đại Nghĩa – 20 Lý Tự Trọng, quận 1). Đại nhạc hội kích động thường được tổ chức tại trường Taberd, Thảo cầm viên hoặc sân vận động Hoa Lư. Đây là nơi trình diễn của những ban nhạc trẻ không hát những loại nhạc “bình dân” và trong đó có những ban nhạc rock thực thụ, giai đoạn đầu các ban nhạc trẻ nói chung chủ yếu là hát nhạc ngoại quốc bằng tiếng Anh hoặc Pháp, các ban nhạc rock thì cover lại những bản nhạc chủ yếu của Anh, Mỹ.

    Thời gian cuối thập niên 1960 và nhất là vào đầu thập niên 1970, nhạc trẻ Sài Gòn có một sự chuyển biến đáng chú ý: đó là trào lưu “Việt hóa” các ca khúc Âu – Mỹ. Mở đầu cho trào lưu này có thể nói đến nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng, anh đã chuyển soạn lời Việt cho các ca khúc được nhiều người yêu mến như: Búp bê không tình yêu (Poupée De Cire, Poupée De Son), Gõ cửa 3 tiếng (Knock Three Times), Chuyện Phim Buồn (Sad Movies), Lãng du (L’Avventura), Anh thì không (Toi Jamais) v.v… Sau đó nhiều ban nhạc, nhiều nhạc sĩ khác cũng đã soạn lời Việt cho nhiều ca khúc ngoại quốc khác, trong đó có cả nhà báo Trường Kỳ…,nhưng trong trào lưu “Việt hóa” có lẽ điều đáng chú ý nhất là các nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà, với ban nhạc Phượng Hoàng, đã đi một bước xa hơn là sáng tác những ca khúc nhạc trẻ Việt Nam đầu tiên với những bài hát đi vào lòng người như Hãy ngước mặt nhìn đời, Tôi muốn… đặt nền móng đầu tiên cho những ca khúc nhạc trẻ Sài Gòn, về các ban nhạc trẻ, một trong những ban nhạc gây ấn tượng nhất đó là Strawberry Four gồm Tuấn Ngọc (guitar), Đức Huy (guitar), Tiến Chỉnh (bass, trước đó là Billy Chane), Tùng Giang (trống). Đây được xem là ban nhạc “nhà giàu” với những chiếc đàn, amplie Fender làm “lé mắt” dân chơi nhạc, trên sân khấu họ toàn bận complet lịch lãm và nhất là tạo được “danh giá” khi Trawberry Four là ban nhạc Việt Nam đầu tiên và duy nhất được lên đài truyền hình Mỹ (phát tại Sài Gòn).

    2.Phong trào nhạc ‘HIPPY’ theo mô hình Woodstock 1969 và Đại hội nhạc trẻ Hoa Lư & Trường Lasan Taberd

    Nhạc rock đã xuất hiện trong bối cảnh của nhạc trẻ Sài Gòn như trên. Tuy nhiên, lịch sử nhạc rock Sài Gòn có liên hệ mật thiết đến sự có mặt của quân đội Mỹ, những club mọc lên như nấm của người Mỹ tại Sài Gòn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lực lượng nhạc rock, nhất là từ năm 1965 khi người Mỹ có mặt thật đông đảo tại “hòn ngọc Viễn Đông” và các tỉnh phụ cận. Đây cũng là giai đoạn chuyển hướng mạnh mẽ nhất của nhạc trẻ Sài Gòn, và là thời điểm xuất hiện khá nhiều ban nhạc chơi rock Mỹ, khác với trước đó dân chơi nhạc và nghe nhạc vẫn còn yêu chuộng những ca khúc trữ tình của các nhạc sĩ Việt Nam như Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước… và các ca khúc Pháp, tuy nhiên dấu mốc phát triển của rock có thể kể đến sự kiện đại nhạc hội kích động nhạc do”Trường Kỳ-Nam Lộc- Tùng Giang” tổ chức sau khi lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm … Đại hội kích động nhạc này được tổ chức tại Đại Thế giới (nay là Trung tâm Văn hóa Q.5) vào năm 1963, qui tụ hầu hết các ban nhạc trẻ đang hoạt động tại Sài Gòn thời ấy và đây cũng là một tiền đề để sau đó những đại hội kích động nhạc được tổ chức thường xuyên ,những ban nhạc “thuần” rock như “The Peanuts Company,The Black Caps, The Rockin’ Stars, The Interprise, Les Pénitents, The Crazy Dog, CBC…” ,trong đó The Rockin’ Stars và The Black Caps được xem như những ban nhạc rock đầu tiên của Sài Gòn, thì hai ban nhạc “The Peanuts Company và CBC được xem là 2 ban nhạc “đệ nhất kích động nhạc” thời ấy”.

    Thêm vài hình ảnh:

    nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    3.Nhạc Rock và những bản tình ca thuần việt

    Ca sĩ Elvis Phương thành viên của Rockin’ Stars cho biết: “Ban nhạc thành lập năm 1960 với thành viên: Nguyễn Trung Lang (bass guitar), Nguyễn Trung Phương (rythm guitar), Jules Tampicanou (lead guitar), Đặng Hữu Tòng (tenor saxophone), Lưu Văn Hùng (trống) và Elvis Phương (ca sĩ). Năm 1961 có thêm 2 thành viên mới là Jean jacques Cussy va Nicole. Cuối naăm 1961 có thêm ca sĩ Billy Shane. Ban nhạc The Black Caps ra đời vào cuối năm 1960 với: Thanh Tùng (guitar), Paul Doãn (ca sĩ)… Phong trào nhạc trẻ hình thành trong giới học sinh của trường trung học Jean Jacques Rousseau (nay là trường cấp 3 Lê Quý Đôn), vì vậy hai ban nhạc này đa số là học sinh của Jean Jacques Rousseau chỉ có Nicole là của Marie Curie và Billy Shane là của Taberd”.

    Các ban nhạc rock trước giải phóng chủ yếu là cover các bản nhạc rock Mỹ, cũng có một số ca khúc được những “rocker” Việt sáng tác, nhưng chủ yếu là viết lời bằng tiếng Anh để trình diễn trong những club của Mỹ”. Ban nhạc Phượng Hoàng của Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà ra đời khá trễ (1970). Tuy nhiên đây có thể nói là một ban nhạc “Việt hóa” triệt để: sáng tác ca khúc Việt cho rock, hát lời Việt và cái tên cũng “thuần Việt” giữa vô vàn các tên ban nhạc bằng tiếng Anh đang hiện hành. Ca khúc rock viết bằng tiếng Việt của Nguyễn Trung Cang, được nhiều người biết đến đó là bản Mặt trời đen, đây có thể xem là bản nhạc rock Việt đầu tiên khá tiêu biểu của giới rock Sài Gòn.

    Nguồn :FB/ Sài Gòn xưa

  • Quán ăn vỉa hè Sài Gòn xưa

    Quán ăn vỉa hè Sài Gòn xưa

    Văn hóa ẩm thực đường phố Sài Gòn xưa

    Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, Sài Gòn đón nhận nhiều dòng chảy văn hóa khác nhau, và cũng là nơi tụ hội nhiều tinh hoa ẩm thực nhất.

    Qua những khung ảnh xưa, chúng ta có thể cảm nhận nhiều sắc thái văn hóa khác nhau tại Sài Gòn. Tất cả tạo nên một bản sắc thú vị của ẩm thực Sài Gòn mà không nơi nào có được.

    Một xe mì tại vào những năm cuối thế kỷ thứ 18
    Một xe mì tại vào những năm cuối thế kỷ thứ 18
    Trong một trà quán của người Hoa ở Chợ Lớn những năm 1920
    Trong một trà quán của người Hoa ở Chợ Lớn những năm 1920
    Một xe mì của người Hoa gần kênh Tàu Hủ
    Một xe mì của người Hoa gần kênh Tàu Hủ
    Một hàng quán tạm bợ những năm 20 thế kỷ trước
    Một hàng quán tạm bợ những năm 20 thế kỷ trước
    Ngày đó việc trang trí, bày biện tiệm ăn rất đơn giản
    Ngày đó việc trang trí, bày biện tiệm ăn rất đơn giản
    Trong một tiệm ăn ở gần chợ Gò Vấp năm 1920
    Trong một tiệm ăn ở gần chợ Gò Vấp năm 1920
    Công chức Sài Gòn thời đó rất thích các tiệm mì của người Hoa
    Công chức Sài Gòn thời đó rất thích các tiệm mì của người Hoa
    Trong một quán cà phê ngó ra đường Catinat (Đồng Khởi) bây giờ. Ảnh chụp năm 1948
    Trong một quán cà phê ngó ra đường Catinat (Đồng Khởi) bây giờ. Ảnh chụp năm 1948
    Cà phê bên hồ bơi Tao Đàn năm 1948 (Cung Văn hóa Lao Động bây giờ)
    Cà phê bên hồ bơi Tao Đàn năm 1948 (Cung Văn hóa Lao Động bây giờ)
    Tiệm bánh mì Hòa Mã năm 1960 trên đường Phan Đình Phùng  (Nguyễn Đình Chiểu, quận 03 ngày nay). Sau tiệm dời về đường  Cao Thắng ở gần đó.
    Tiệm bánh mì Hòa Mã năm 1960 trên đường Phan Đình Phùng
    (Nguyễn Đình Chiểu, quận 03 ngày nay). Sau tiệm dời về đường
    Cao Thắng ở gần đó.
    Một tiệm mì trong Chợ Lớn năm 1961
    Một tiệm mì trong Chợ Lớn năm 1961
    Các món mì và hủ tiếu của người Hoa là một phần quan trọng trong đời sống ẩm thực Sài Gòn
    Các món mì và hủ tiếu của người Hoa là một phần quan trọng trong đời sống ẩm thực Sài Gòn
    Kem Bạch Đằng ở ngã tư Lê Lợi - Pasteur những năm 60
    Kem Bạch Đằng ở ngã tư Lê Lợi – Pasteur những năm 60
    Đường Tôn Thất Đạm (quận 01) tập trung rất nhiều quán ăn nổi tiếng
    Đường Tôn Thất Đạm (quận 01) tập trung rất nhiều quán ăn nổi tiếng
    Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh (ngày nay Saigon Tourist vẫn duy trì mô hình này)
    Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh (ngày nay Saigon Tourist vẫn duy trì mô hình này)
    Phở Con Voi - cũng là một quán nhậu khá nổi tiếng
    Phở Con Voi – cũng là một quán nhậu khá nổi tiếng
    Tiệm cà phê rang xay trên đường Hai Bà Trưng (quận 01)
    Tiệm cà phê rang xay trên đường Hai Bà Trưng (quận 01)
    Tiệm phở Đô Thành trên đường Võ Tánh (đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận ngày nay)
    Tiệm phở Đô Thành trên đường Võ Tánh (đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận ngày nay)
    Tiệm heo quay, vịt quay trên đường Hàm Nghi
    Tiệm heo quay, vịt quay trên đường Hàm Nghi
    Một sạp bún riêu trong chợ
    Một sạp bún riêu trong chợ
    Sạp cơm bên cạnh khu kios đường Nguyễn Huệ
    Sạp cơm bên cạnh khu kios đường Nguyễn Huệ
    Khu nhà hàng trên đường Hai Bà Trưng
    Khu nhà hàng trên đường Hai Bà Trưng
    Nhà hàng, vũ trường Maxim's lừng danh một thời trên đường Đồng Khởi
    Nhà hàng, vũ trường Maxim’s lừng danh một thời trên đường Đồng Khởi

    Theo thanhnien.com.vn

  • Sự tiến hóa của áo dài Việt Nam

    Sự tiến hóa của áo dài Việt Nam

    Qua nét vẽ Nancy Dương, chúng ta có thêm cái nhìn về sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam.

    Từ 2000 năm TCN cho đến thế kỷ 21: sự “tiến hóa” của trang phục người phụ nữ Việt Nam qua nét vẽ quyến rũ và thú vị của Nancy Duong.
    Nancy Duong là một nghệ sỹ ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa châu Á. Cô đặc biệt yêu thích kết hợp công nghệ kĩ thuật số với nghệ thuật truyền thống để thu được kết quả tuyệt vời nhất. Các tác phẩm của cô đã được đăng trên Exotique, Curvy và nhiều báo khác.

    Xem thêm: Người đẹp Sài Gòn xưa: Chiếc Solex và tà áo dài

    sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam

    “Tôi yêu thích những trang phục truyền thống Việt Nam và chứng kiến sự phát triển của nó theo thời gian. Tuy nhiên, cho đến tận bây giờ thông tin của tôi về trang phục truyền thống của người việt nam còn rất ít, chủ yếu là do thiếu thông tin. Tôi đã đọc được nhiều thông tin qua cuốn “Searching for Vietnamese Clothing” (tuyển tập thông tin nghiên cứu về trang phục việt nam của các nhà làm phim) và qua mạng. Tôi tổng hợp và tạo ra bài viết này để có một cái nhìn khách quan để nhìn thấy sự khác biệt của trang phục người Việt qua dòng thời gian.

    sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam

    Tôi đã tổng hợp tất cả và trình bày cùng với một số tư liêu tham khảo (qua tranh ảnh, tác phẩm điêu khắc, và những bức ảnh được chụp tại thời điểm đó…) Tôi đã cố gắng giữ những hình ảnh đó theo nguyên bản ban đầu, nhưng ở một số điểm tôi đã sửa đổi nhằm giúp đỡ các bạn tiện quan sát hơn. Một số tác phẩm nghệ thuật có những chi tiết rất khó để giải mã (đứng từ quan điểm Phật giáo học) và không thể giải thích một cách chi tiết bằng những cơ sở khoa học mà ta đã biết. Một số tác phẩm điêu khắc không màu tôi đã phối lại để các bạn tiện nhìn nhận. Rất tiếc khi tôi đã phải bỏ qua một số triều đại do những tác phẩm này thường thất lạc hoặc bị cách điệu hóa so với nguyên mẫu của nó.

    Sau khoảng thời gian 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, trang phục Việt Nam có nhiều nét tương đồng với Han Fu (một loại quần áo cổ trang của Trung Quốc, từ thời cổ đại hoàng đế cách đây 21 thế kỷ đến thời nhà Minh, là một trong những trang phục lâu đời nhất thế giới). Văn hóa Đông Sơn là triều đại duy nhất không chịu ảnh hưởng này.

    sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam

    Những màu sắc và dệt may trong ảnh 1 phần lớn là dựa trên phỏng đoán. Tôi có cảm giác rằng văn hóa Đông Sơn có nét giống với các bộ lạc dân tộc Việt Nam và đã lấy cảm hứng từ đây. Họa tiết trên khăn quàng vai vàng ấy bắt nguồn từ áo dài và tình cờ giống với hoa văn trên Trống đồng Đông Sơn. Đó chính là một vòng tròn.

    sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam

    Trung bình mọi người mặc 3-5 lớp quần áo. Thời tiết có thể lạnh (Những vùng phía Bắc) Từ thế kỷ 16 -18, khăn quàng cổ và găng tay đã ra đời và được sử dụng triệt để.

    sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam
    Tay áo dài 40cm và dài từ cằm đến hông vào thời Lê.

    Váy bị cấm vào năm 1826 vì chúng bị cho là “khó coi”. Không phải tất cả phụ nữ đều cho rằng mặc váy dễ làm việc hơn mặc quần.

    Tay áo dài 40cm và dài từ cằm đến hông vào thời Lê.
    Cổ áo và cúc áo xuất hiện vào thế kỉ 19 (sớm nhất là cuối thế kỉ 18). Điều thú vị là sự thay đổi này có vẻ trùng với sự ra đời của Chủ nghĩa đế quốc/ thực dân đế quốc Pháp. Cổ áo ban đầu khá thấp nhưng dần đã cao lên và gần nhau hơn.

    Tay áo dài 40cm và dài từ cằm đến hông vào thời Lê.
    Áo Tứ Thân vẫn còn tồn tại nhưng không phát triển từ thế kỉ 20 nên tôi quyết định tập trung vào áo dài.
    Nón rơm được đàn ông sử dụng (có thể thấy trong những bức ảnh quân lính triều Nguyễn) và trở thành 1 phần trong trang phục phái nữ vào thế kỷ 20.

    Triều Lê có lối ăn mặc phong cách và đa dạng nhất.”

    Tay áo dài 40cm và dài từ cằm đến hông vào thời Lê.
    (Sưu tầm – Nguồn: http://baotangaodaivietnam.com/ao-dai-trong-bai-viet/136-ao-dai-viet-nam-qua-net-ve-nancy-duong.html)

  • Tìm hiểu sự tích và ý nghĩa của ngày Vu Lan

    Tìm hiểu sự tích và ý nghĩa của ngày Vu Lan

    Dân gian ta có câu “Tết cả năm không bằng rằm tháng bảy” – đây là Đại Lễ Báo Hiếu Ông Bà, Cha Mẹ, Tổ Tiên – một tập tục đáng quý của người Việt. Nhân dịp Đại Lễ này, các bạn hãy cùng HinhanhVietNam.com tìm hiểu về “Sự Tích Ngày Lễ Vu Lan” nhé!

    Tìm hiểu sự tích và ý nghĩa của ngày Vu Lan

    Sự Tích Ngày Lễ Vu Lan

    Hàng năm cứ vào ngày 15 tháng 7 Âm lịch, người dân Việt theo đạo Phật có một ngày lễ lớn gọi là ngày lễ Vu Lan hay còn có tên gọi khác là Tết Trung Nguyên. Lễ Vu Lan là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo vì vậy mà dân gian ta có câu “Tết cả năm không bằng rằm tháng bảy”. Đây là đại lễ báo hiếu ông bà, cha mẹ, tổ tiên – một tập tục đáng quý của người Việt, thể hiện truyền thống đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

    Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật.

    Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng huệ nhãn tìm kiếm. Thấy mẹ vì gây nhiều nghiệp ác nên rơi vào ngục A Tỳ làm quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên, do đói ăn lâu ngày nên mẹ của Mục Liên khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi, tránh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy thức ăn đã hóa thành lửa đỏ khi đưa lên miệng.

    Quá thương cảm, xót xa Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: “Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp. Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát”.

    Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh.

    Ngày lễ Vu Lan bởi thế không chỉ có ý nghĩa là ngày cúng lễ tưởng nhớ ông bà tổ tiên, cúng cho các vong hồn cô quạnh mà sâu xa hơn, nó nhắc nhở người ta biết trân trọng những gì mình đang có: cha mẹ, gia đình, người thân. Vào ngày lễ Vu Lan nếu ai còn mẹ thì được cài lên áo bông hồng màu đỏ, người đó sẽ thấy tự hào khi mình còn có mẹ. Những ai không còn mẹ thì được cài lên áo bông hoa màu trắng. Người được cài bông hoa màu trắng sẽ cảm thấy xót xa, nhớ thương người mẹ đã mất. Người được cài bông hồng màu đỏ thì sẽ thấy sung sướng, nhớ rằng mình còn có mẹ bên cạnh và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai mẹ không còn, dẫu có khóc than cũng chẳng còn kịp nữa.

    Ý nghĩa lễ Bông hồng cài áo

    “Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa”. (Theo tản văn Bông hồng cài áo của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

    Tháng 7, mùa Vu Lan về cùng với ngày Rằm xá tội vong nhân mà người ta còn gọi là ngày tết Trung Nguyên. Theo sách nhà Phật, ngày này các vong vong nhân không có nơi nương tựa, không có thân thích trên cõi trần gian để thờ phụng hay những linh hồn vì một oan khiên nào đó vật vờ sẽ được xá tội. Ngày lễ Vu Lan hay Tết Trung Nguyên là ngày lễ hội truyền thống “ân tình, nghĩa cảm” của nhân dân ta. Một tấm lòng trong vạn tấm lòng bao dung – một nét đẹp trong văn hoá dân tộc Việt đã được gìn giữ bao đời nay.

     

    The Sri Vu Lan Day 

    Every year on July 15 of the lunar calendar, Buddhist Vietnamese people have a big feast called the Vu Lan holiday or also known as Tet Trung Nguyen. Vu Lan ceremony is one of the major Buddhist holidays so that people have the time, “not by the fifteenth annual festival in July”. This is the festival signaling grandparents, parents, ancestors – a precious tradition of Vietnamese people, expressing moral tradition “remember who planted fruit trees.” 

    Vu Lan ceremony derived from the integration of filial piety of Mr. Ma Ha A La Aging Characteristics, often referred to as the Great Moggallana, referred to as Section Union. Capital is a leading religious other, the following Section Lien refuge and became a great disciple of Buddha, achieved six magic and miracles listed in First class in every disciple of the Buddha. 

    Having attained Arhat, Section Contact remember and now his mother wants to know how to use search insight. Seeing mom as causing bad karma should fall into Avici Hell devil, starving tortured, he was brought down to the realm of demons rice offered to the mother. However, due to prolonged hunger of the mother should have used Section Lien eating a bowl of rice covered his hand away, avoiding her for another soul to scramble, so feed into flames when put to my lips . 

    Too pity, pity Section Lien returned to find a way to save the mother asked Buddha to Buddha taught that: “Despite his generosity to where miracles are not enough to save his mother anywhere. The only way thanks to the power of the monks around ten new desire to be rescued. On the full moon day in July is appropriate. Yes on the fifteenth day of July, the younger man up in prayer. Prior to real life, this position will follow the teachings of the Buddha that he would pray for the parents and grandparents of seven lifetime benefactor is transcendence. ” 

    Section Union did as the Buddha’s teachings. Indeed he was dying form of escape from the hungry ghost that lives in the realm of healthy living. Method of offering to pray that called legal Ullambana tub, ritual is called Vu Lan Tank Assembly, and the economic record of the above analysis, it is called economic Ullambana tub. 

    Vu Lan holiday therefore not only meaningful remembrance day for worship of ancestors, offerings to the lonely souls that deeper, it reminds us to appreciate what we have: parents , family and loved ones. On Vu Lan ceremony if one is set up, the mother also rose red shirt, he will see his proud mother also. The mother who is no longer installed on the shirt white flowers. The white flowers are set to aches, missed mother died. The red rose is set and you will find happiness, remember that you still have mom side and tries to please his mother, lest a future mother no longer, though there is no more weeping too late. 

    Meaning rose ceremony dress set 

    “If the mother is still alive, he would wear a red flower on the shirt, and his mother would be proud. But if he loses his mother, he will be set on a white flower dress. The white flowers suffer, do not forget to miss her mother, though dead. The commission will gladly remember that his mother and tries to please his mother, lest a mountain Those who wear she is no longer keep up. ” (According to Rose brooches prose of Thich Nhat Hanh) 

    July, along with the Buddhist celebration of the full moon day of death far but people called Tet Trung Nguyen. According to Buddhist books, this day of death without dying person helpless, like no body on earth or earth to worship the spirits as a shield falsely pretending that animals will be absolved. Vu Lan holiday, or Tet Trung Nguyen is the traditional festival “gift of love, the sense” of our people. A thousand hearts in big heart – a beauty of Vietnamese ethnic culture has been preserved for centuries.

    Nguồn: Trung Nguyên Googleplus

  • Ẩm thực dịp lễ Trung thu của các nước châu Á

    Ẩm thực dịp lễ Trung thu của các nước châu Á

    Tìm hiểu văn hóa ẩm thực dịp lễ Trung thu của các nước châu Á

    Dù có khác biệt về chúng tộc, văn hóa hay lịch sử phát triển, các quốc gia Châu Á đều có một điểm tương đồng lớn: ảnh hưởng sâu sắc của nền văn minh lúa nước. Theo tập quán trồng trọt này, tháng Tám hàng năm là thời điểm thu hoạch và cũng là lúc người dân được hưởng thụ, nghỉ ngơi sau một thời gian dài lao động vất vả. Tháng Tám cũng là lúc trăng tròn đẹp nhất, và với những điều kiện ấy, khoảng thời gian giữa tháng Tám âm lịch trở thành dịp lễ hội ca ngợi sức lao động, gia đình quanh quần bên nhau, vui chơi, ăn uống và thưởng ngoạn ánh trăng tuyệt đẹp.

    Ẩm thực lễ Trung thu của các nước châu Á

    Có thể xem Trung thu là dịp lễ quan trọng thứ hai sau Tết âm lịch ở Châu Á. Thông qua không gian lễ hội nói chung và ẩm thực ngày Trung thu nói riêng, những đặc trưng về văn hóa sinh hoạt, lao động, tín ngưỡng và quan điểm thẩm mỹ của từng dân tộc hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Dù ngày 15-8 âm lịch được coi là ngày lễ Trung thu chính thức (khi trăng tròn và đẹp nhất), nhưng tùy mỗi quốc gia, thời gian này có sự xê dịch. Ý nghĩa của lễ Trung thu ở Châu Á cũng rất đa dạng và tùy thuộc vào văn hóa từng nước. Đó có thể là ngày lễ trẻ em, ngày lễ ăn mừng mùa vụ, thậm chí gắn liền với những truyền thuyết huyền ảo về các mĩ nhân hay anh hùng lịch sử…

     Tết Trung Thu Nhật Bản

    Ở Nhật, ngày lễ Trung thu được gọi là Tsukimi hoặc Otsukimi, có nghĩa là “ngắm trăng”. Ra đời từ thời kì Heian với sự thịnh vương về kinh tế và phát triển rực rỡ về văn hóa tinh thần, lễ Tsukimi đã phản ánh phần nào quan điểm duy mĩ và gắn bó với thiên nhiên của xứ Phù Tang. Vào lễ Tsukimi, người Nhật chuẩn bị mâm cỗ thịnh soạn và tinh tế dâng lên trăng để thể hiện lòng thành kính với cái đẹp, và cũng dưới bóng trăng vàng ruộm của tháng Tám, gia đình bạn bè cùng quay quần bên nhau uống trà ăn bánh, chuyện tròn và ngâm thơ.

    Một mâm cỗ truyền thống cho lễ Tsukimi  , Ẩm thực lễ Trung thu của các nước châu Á
    Món ăn không thể thiếu trong lễ Tsukimi chính là Tsukimi dango – bánh nếp nhỏ xinh và tròn trịa tượng trưng cho vầng trăng trên trời. Tsukimi dango có công thức tương tự bánh trôi nước, nhưng khác biệt ở chỗ được nướng sơ qua cho nóng giòn. Khi ăn bánh, người ta thường thêm chút mật đường ngọt lịm lên trên. Bánh luôn được đặt trang trọng trên một chiếc kệ nhỏ ngay hiên nhà, thích hợp cho việc vừa ngắm trăng vừa nhâm nhi. Bên cạnh nhân vật chính là Tsukimi dango, lễ Trung Thu ở Nhật còn có sự góp mặt của khoai lang, hạt dẻ, các loại mì như soba, ramen…

    Ẩm thực lễ Trung thu của các nước châu Á

     Tết Trung Thu Hàn Quốc

    Tết Trung thu ở Hàn Quốc được biết đến nhiều hơn với tên gọi Lễ tạ ơn – Chuseok. Khác với ý nghĩa vinh danh cái đẹp và thần đạo của lễ Tsukimi, Chuseok là lời cảm tạ của người Hàn đến với ưu đãi của thiên nhiên, mùa màng bội thu, và đặc biệt là ơn đức của ông bà tổ tiên đời trước. Thể hiện rõ tinh thần hiếu đạo sâu sắc trong văn hóa truyền thống Hàn Quốc, lễ Chuseok kéo dài 3 ngày là khoảng thời gian mọi người nghỉ ngơi và quanh quần bên gia đình, dù con cái ở xa cũng phải quay về đoàn tụ cùng cha mẹ.

    Ẩm thực lễ Trung thu của các nước châu Á

    Chuseok diễn ra đúng vào dịp thu hoạch vụ mùa, vì thế nhiều loại thực phẩm đặc trưng của mùa lễ này được chế biến từ những sản vật vừa mới thu hoạch. Những cái tên tiêu biểu nhất gồm có bánh Songpyeon (bánh gạo hình bán nguyệt), Taro guk (canh khoai môn), Hwanyang jeok (rau và thịt xiên), Dakjjim (gà luộc). Hấp dẫn và rực rỡ nhất trong các món ăn chính là chiếc bánh Songpyeon. Bánh thơm mùi nếp mới hòa cùng hương lá thông, lại bùi bùi vị đậu, nổi bật với hình dáng vầng trăng khuyết cùng màu sắc tươi vui. Người Hàn quan niệm chiếc bánh đẹp là minh chứng cho sự khéo léo và tinh tế của người phụ nữ đã làm ra nó, những chiếc bánh bé xinh này còn giúp phụ nữ “ghi điểm” khéo tay trong mắt mọi người.

    Tết Trung Thu Trung Quốc và Việt Nam

    Tết Trung thu ở Trung Quốc và Việt Nam có sự tương đồng rất lớn do đặc điểm giao thoa văn hóa có từ lâu đời giữa hai quốc gia. Truyền thuyết về Trung thu ở hai nước cũng hấp dẫn và ảo diệu như nhau: người Trung Hoa kể nhau câu chuyện vua Đường Minh Hoàng được tiên dẫn đi ngắm trăng vào đúng ngày rằm, trong khi ở Việt Nam ta đã quen thuộc với câu chuyện chú Cuội, cây đa. Dù sao đi nữa, hoạt động văn hóa ẩm thực trong lễ Trung thu của cả hai nước đều xoay quanh việc thưởng bánh trung thu, uống trà trong khi trò chuyện về vẻ đẹp cùng truyền thuyết xoay quanh vầng trăng tháng Tám.

    Tết Trung Thu Trung Quốc và Việt Nam
    Món ăn chính trong lễ Trung thu ở hai nước là bánh nướng, riêng ở Việt Nam, mùa Trung thu còn có sự góp mặt của món bánh dẻo. Bánh nướng bắt nguồn từ Trung Quốc và tham gia vào một “phi vụ” đối quân sự nổi tiếng: Tướng Trương Sĩ Thành, người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại quân Nguyên, nhận thấy phong tục tặng bánh cho nhau vào Trung thu của nhân dân bèn làm một loại bánh có nhét một mảnh giấy bé ghi chữ “Bát nguyệt thập ngũ dạ sát Thát tử” (đêm 15 tháng 8 giết giặc Thát Đát – tức quân Nguyên). Dân chúng truyền tay nhau, hẹn nhau cùng giết giặc và giành chiến thắng. Bánh nướng hình tròn có ý nghĩa “đoàn tụ”, “đoàn viên” cũng là vì vậy.

    Tết Trung Thu Trung Quốc và Việt Nam

    Bên cạnh bánh nướng thừa hưởng từ đất nước láng giềng, người Việt đã sáng tạo ra bánh dẻo như một nét độc đáo của riêng mình. Bánh dẻo giản dị mà tinh tế với mùi hương hoa bưởi thoang thoảng của vùng quê Bắc Bộ, vị đỗ xanh nhẹ nhàng của buổi chớm thu, tạo ra mùi vị thanh tao khó quên. Cũng như bánh nướng vàng ươm màu nắng, bánh dẻo là sự kết tinh những gì tươi đẹp và thơm lành nhất của mùa lá rụng.

    Tết Trung Thu Trung Quốc và Việt Nam

    “Trung thu” – “ở giữa mùa thu” – là cái tên giản dị không chút màu mè. Song chứa trong từng chiếc bánh, từng chén trà hay từng món ăn của lễ hội đêm trăng này là tinh túy ẩm thực của từng quốc gia, là văn hóa trồng trọt và sinh hoạt của mỗi đất nước trên khắp Châu Á. Điểm qua vài món ăn ngày lễ Trung Thu của các vùng đất phương Đông, ta phần nào đã hiểu thêm về những đặc trưng thú vị, độc đáo của nền văn minh lúa nước lâu đời.

  • Người Sài Gòn xưa giải khát như thế nào?

    Người Sài Gòn xưa giải khát như thế nào?

    Khám phá nét ẩm thực Sài Gòn qua những bức ảnh xưa cũ

    Bạn đã bao giờ mường tượng ra 50, 70 năm trước người Sài Gòn giải khát thế nào chưa?

    Hơn 50 năm trước, người Sài Gòn chuộng giải khát với nước mía ép tay, nước ngọt Con Cọp lừng danh và các bịch nước đóng trong bao nylon…

    Qua những khung ảnh sinh động, cùng khám phá thêm nhiều điều thú vị về ẩm thực Sài Gòn xưa nhé – “Hòn ngọc Viễn Đông” – vào giữa thế kỷ 20.

    Người Sài Gòn xưa giải khát thế nào
    Những xe bán nước dạo trên đường phố Sài Gòn những năm 40
    Nụ cười hồn nhiên của cô bé bán nước bên bờ kênh
    Nụ cười hồn nhiên của cô bé bán nước bên bờ kênh
    Nước ngọt Con Cọp lừng danh một thời
    Nước ngọt Con Cọp lừng danh một thời
    Nhãn bia La De Trái thơm từng rất được yêu thích. Gọi là "La De Trái thơm" vì  trên nhãn là  hình đầu con cọp vàng ở giữa - hai bên có tràng hoa houblon (là loại hoa tạo nên vị  nhẫn đắng của bia). Vì tràng hoa có hình như trái thơm nên gọi là Le De Trái thơm luôn.
    Nhãn bia La De Trái thơm từng rất được yêu thích. Gọi là “La De Trái thơm” vì trên nhãn là
    hình đầu con cọp vàng ở giữa – hai bên có tràng hoa houblon (là loại hoa tạo nên vị
    nhẫn đắng của bia). Vì tràng hoa có hình như trái thơm nên gọi là Le De Trái thơm luôn.
    Nhãn bia 33, là tiền thân của bia 333 ngày nay
    Nhãn bia 33, là tiền thân của bia 333 ngày nay
    Nước ngọt Con Cọp, bia 33 hay bia La De (Larue) đều là sản phẩm của công ty BGI  (viết tắt của Brasseries & Glacières De L’Indochine)
    Nước ngọt Con Cọp, bia 33 hay bia La De (Larue) đều là sản phẩm của công ty BGI
    (viết tắt của Brasseries & Glacières De L’Indochine)
    Một đại lý bia và nước ngọt các loại vào những năm 60. Chữ "Lave Larue" ở góc trái cũng là lý do vì sao  bia Larue hay được gọi là bia "La De"
    Một đại lý bia và nước ngọt các loại vào những năm 60. Chữ “Lave Larue” ở góc trái cũng là lý do vì sao
    bia Larue hay được gọi là bia “La De”
    Năm 1960, hãng nước ngọt CoCa Cola chính thức có mặt ở Việt Nam
    Năm 1960, hãng nước ngọt CoCa Cola chính thức có mặt ở Việt Nam
    Cậu bé bán nước lấy khay nước ngọt làm ghế ngồi
    Cậu bé bán nước lấy khay nước ngọt làm ghế ngồi
    Nước cam không ga Bireley's cũng từng rất được yêu chuộng, đặc biệt là phái nữ
    Nước cam không ga Bireley’s cũng từng rất được yêu chuộng, đặc biệt là phái nữ
    Nước mía rất được yêu thích tại Sài Gòn
    Nước mía rất được yêu thích tại Sài Gòn
    Một xe nước mía với cách ép mía bằng tay truyền thống
    Một xe nước mía với cách ép mía bằng tay truyền thống
    Xe đẩy bán rau má, nước ngọt. Có thể thấy người bán đang chặt đá, kế bên là thanh gỗ để làm đá bào  (dành cho món xi rô đá bào mà học sinh rất yêu thích)
    Xe đẩy bán rau má, nước ngọt. Có thể thấy người bán đang chặt đá, kế bên là thanh gỗ để làm đá bào
    (dành cho món xi rô đá bào mà học sinh rất yêu thích)
    Xe chè của người Hoa bên góc đường. Trên xe có rất nhiều các họa tiết sơn thủy như thường thấy ở các xe mì, hủ tiếu
    Xe chè của người Hoa bên góc đường. Trên xe có rất nhiều các họa tiết sơn thủy
    như thường thấy ở các xe mì, hủ tiếu
    Một xe sinh tố trên đường Nguyễn Cư Trinh (quận 01)
    Một xe sinh tố trên đường Nguyễn Cư Trinh (quận 01)
    Quầy nước với những bịch nước ngọt được để sẵn trong bao nylon  (thường là loại không có ga)
    Quầy nước với những bịch nước ngọt được để sẵn trong bao nylon
    (thường là loại không có ga)
    Một xe đẩy bán nước bên cạnh một quầy cà phê nhỏ trên vỉa hè Sài Gòn
    Một xe đẩy bán nước bên cạnh một quầy cà phê nhỏ trên vỉa hè Sài Gòn