Blog

  • Thời trang Miền Nam thập niên 30-40

    Thời trang Miền Nam thập niên 30-40

    Trong thời kỳ thuộc Pháp, trang phục truyền thống của người Việt từ Bắc chí Nam khá đa dạng, bao gồm tầng lớp quý tộc mang nặng những quy chế cung đình cho đến sự khác biệt trong trang phục dân gian. Những năm cuối nhà Nguyễn – triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam, trang phục của người Việt vẫn chịu ảnh hưởng của văn hiến áo mũ phong kiến. Tuy nhiên, bối cảnh chính trị phức tạp giai đoạn đầu thế kỷ XX, từ những năm 1920 đã thúc đẩy sự tân tiến mạnh mẽ về văn hóa, xã hội và tư duy.

    Nội dung bài viết này, phân tích chung những chuyển biến của trang phục, cũng như tính nhen nhóm của “thời trang” miền Nam Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XIX cho đến giai đoạn thập niên 30 – 50.

    Một số chi tiết tiếp biến trong cách ăn mặc truyền thống

    Theo Đất Lề Quê Thói của tác giả Nhất Thanh và nhắc lại trong Ngàn Năm Áo Mũ của nhà sử học Trần Quang Đức, phụ nữ mặc áo dài ngũ thân chủ yếu với quần lĩnh thâm, lam, đen hoặc nhiễu đỏ. Quần màu trắng kết hợp với áo dài xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, khoảng sau 1919 chỉ những ai theo Tây mới ăn vận như thế. Tuy nhiên đến những năm 1930, quần trắng được vận phổ biến với áo dài và áo bà ba. Bước chuyển biến này đã hình thành kiểu trang phục của các cô tiểu thư con nhà bá hộ Nam Kỳ ở các thập niên sau đó. Như ta vẫn thường thấy qua phim ảnh, bộ bà ba gấm lụa vận quần trắng lả lướt là loại trang phục ngày thường của đàn ông lẫn phụ nữ trong gia đình giàu có. (có thể tham khảo bộ phim truyền hình Lòng Dạ Đàn Bà của đạo diễn Hồ Ngọc Xum).

    NGƯỜI TRONG ẢNH ĐƯỢC CHO LÀ CÔ BA THIỆU XỨ TRÀ VINH, VỢ HOẶC CON CỦA QUAN THÔNG NGÔN NGUYỄN TRUNG CHÁNH. CHỤP BỞI PIERRE DIEULEFILS VÀO NHỮNG NĂM ĐẦU 1930S TẠI HÀ NỘI. LÚC NÀY THIẾU NỮ NAM KỲ TRUYỀN THỐNG SANG TRỌNG MẶC ÁO DÀI NGŨ THÂN, QUẦN NHIỄU ĐỎ, TÓC VẤN CAO, MANG HÀI THÊU,…
    NGƯỜI TRONG ẢNH ĐƯỢC CHO LÀ CÔ BA THIỆU XỨ TRÀ VINH, VỢ HOẶC CON CỦA QUAN THÔNG NGÔN NGUYỄN TRUNG CHÁNH. CHỤP BỞI PIERRE DIEULEFILS VÀO NHỮNG NĂM ĐẦU 1930S TẠI HÀ NỘI. LÚC NÀY THIẾU NỮ NAM KỲ TRUYỀN THỐNG SANG TRỌNG MẶC ÁO DÀI NGŨ THÂN, QUẦN NHIỄU ĐỎ, TÓC VẤN CAO, MANG HÀI THÊU,…
    ẢNH CHỤP GIA ĐÌNH NHÀ QUAN NGƯỜI VIỆT Ở HUẾ, KHOẢNG 1925 – 1930, BỞI M. RAYMOND CHAGNEAU. PHỤ NỮ VÀ CON GÁI ĐÃ PHỔ BIẾN VẬN ÁO DÀI VỚI QUẦN TRẮNG.

     

    Đầu thế kỷ XX, phụ nữ Nam Kỳ thường sử dụng trang sức là chiếc kiềng cổ bằng bạc. Đến những năm thập niên 30 – 50, chuỗi ngọc trai dần thịnh hành, cách phục sức cũng đa dạng hơn khi “phối” áo dài ngũ thân với các kiểu vòng tay, chuỗi hạt nhiều vòng, nhẫn hạt xoàn,… Ở giai đoạn này, “thời trang” giày dép không chỉ có guốc mộc, mà hết sức đa dạng với các kiểu guốc gỗ gót thon nhỏ, hài thêu, hài cong hoặc giày sandals tân thời. Từ thập niên 30 dần về sau, trang phục Âu hóa nhanh chóng tại các khu vực thành thị, ngoài áo bà ba và áo dài, giới bình dân bắt đầu mặc áo sơ mi cổ 2 ve, áo kiểu cổ cánh sen.

    Cochinchine, 1935 – Bijoux – Parures de têteNotice : Monographie dessinée de l’Indochine – Ecole d’Art de Gia Dinh. (Voir AP2556). Cochinchine : Sites et gens. Traduction baccompagnant le dessin : « Peigne (Luoc) Cure-oreille (Moc Tai) »Mots Clefs : Cochinchine Dessin 1935 Femme Parure

    Đối với y phục nam giới, đặc biệt là giới trí thức, khoảng những năm 1920 – 1930, bắt đầu đón nhận sự “thực dụng” trong cách cải tiến trang phục truyền thống. Để nhanh và tiện dụng, những chiếc khăn được xếp cố định sẵn, tạo thành những chiếc khăn đóng như chúng ta biết đến ngày nay. Đồng thời, những chiếc mấn mà phụ nữ bây giờ mặc cùng áo dài trong lễ cưới, bắt nguồn từ khăn vành dây dành cho hoàng hậu, công chúa hay cung tần trong hoàng tộc. Như có thể thấy, cho đến thời Vua Bảo Đại, Nam Phương Hoàng Hậu vẫn thường vấn khăn vành gấp nếp hình chữ nhân, mặc với áo Nhật Bình và áo dài ngũ thân như một loại thường phục.

    Chịu ảnh hưởng từ những người Pháp sống trên đất Việt

    Nền văn hoá phương Tây ảnh hưởng đến Việt Nam sớm nhất tại Nam Kỳ theo bước chân của chế độ thuộc địa Pháp. Giai đoạn này, ở bờ Tây của thế giới, thời trang phát triển mạnh mẽ mà đế quốc Pháp – “kinh đô ánh sáng”, chính là nơi cho ra đời hàng loạt những thành tựu và phát kiến mới trong lịch sử thời trang. Khi người Pháp đến Việt Nam, cùng với gia đình vợ con mà từ đó, quý tộc phương Tây đã mang theo những khái niệm mới mẻ và táo bạo của cái gọi là “thời trang”. Trên vùng đất Nam Kỳ bắt đầu xuất hiện những ông Tây bà Đầm, với những chiếc đầm hở cổ, những chiếc “quần không đáy” xoè bồng bềnh, những bộ váy “cắt vải xéo” ôm nhẹ vào cơ thể, cùng những chiếc bóp đầm, giày cao gót, mỹ phẩm, nước hoa cũng như các quý ông lịch lãm trong bộ vestton, áo sơ mi, giày da, mũ phớt (homburg hat),…

     

     

    Du nhập bởi giới thượng lưu theo học ở phương Tây trở về

    Hai đại diện tiêu biểu nhất có thể kể đến Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương. Trên cùng một chuyến tàu năm 1932, tiểu thư Nguyễn Hữu Thị Lan (2 năm sau trở thành Hoàng Hậu Nam Phương) – vốn là cháu ngoại của một nhà hào phú bậc nhất Nam Kỳ; và Vua Bảo Đại trở về nước sau nhiều năm du học ở Pháp. Lúc này, cô tiểu thư xứ Gò Công vẫn thường ăn mặc theo lối sống lúc ở Pháp: kiểu đầm suông hoặc suit dress dài đến bắp chân có hình bóng chữ nhật (silhouette đặc trưng của các quý cô Châu Âu thập niên 20 – 30), dùng bóp đầm, mang giày t-strap kitten heels hoặc giày oxford, đội mũ chuông (cloche hat) và sử dụng trang sức ngọc trai, vòng ngọc thạch.

    VUA BẢO ĐẠI VÀ TIỂU THƯ NGUYỄN HỮU THỊ LAN LÚC CHƯA KẾT HÔN, TRƯỚC NĂM 1934.

    Thời kỳ hoàng kim ở giai đoạn nửa cuối của thập niên 20, thời trang phương Tây đạt được nhiều thành tựu lớn. Vua Bảo Đại thuộc tầng lớp quý tộc du học ở Pháp, y phục của ông mang phong cách đại diện của các quý ông phương Tây, ngoài những bộ suit kẻ, vest double breasted, phối sang trọng với pocket square, đồng hồ quả quýt, thắt cravat, mang giày tây và dùng gậy bằng gỗ quý; phong cách thể thao cũng rất phổ biến trong thường phục của Vua Bảo Đại với áo len ghile, áo thun cổ Polo.

    VUA BẢO ĐẠI TRONG THỜI GIAN ĐI HỌC, NGHỈ HÈ VỀ NƯỚC THƯỜNG ĂN MẶC GIẢN DỊ, KHỎE KHOẮN KHI CHƠI TENNIS

    HOÀNG TỬ BẢO ĐẠI TRONG TRANG PHỤC DẠ HỘI TẠI PHÁP NĂM 1932
    HOÀNG TỬ BẢO ĐẠI TRONG TRANG PHỤC DẠ HỘI TẠI PHÁP NĂM 1932
    ẢNH CHỤP VUA BẢO ĐẠI TẠI HỒNG KÔNG NĂM 1948

    Từ những năm cuối thế kỷ XIX, chính quyền thực dân buộc các gia đình bá hộ ở Nam Kỳ phải cho con cái đi học trường Pháp trên tỉnh, huyện…để thực hiện kế hoạch khai hóa. Từ bị ép buộc trở thành phong trào Tây học, các vị công tử con nhà giàu có được đi học ở Pháp, hoặc các trường công giáo ở các xứ thuộc địa lân cận. Hai nhân vật nổi tiếng trong rất nhiều giai thoại mà hầu như người miền Nam nào cũng biết đến, chính là “Bạch công tử” Giorgie Phước (1901 – 1950), một trong những “tay chơi” ở miền Nam những năm 1920 – 1930; và “Hắc công tử” Trần Trinh Huy (1900 – 1973), là con trai của một trong 4 gia đình đại điền chủ giàu có bậc nhất Nam Kỳ, ăn chơi nứt tiếng và nổi danh ở Sài Gòn những năm 1930 – 1940. Một số “cậu ấm cô chiêu” mặc dù chỉ theo học trường Tây ở Sài Gòn, nhưng cũng chịu ảnh hưởng phồn hoa đô hội và sớm tiếp thu lối sống vật chất du nhập từ phương Tây. “Thời trang” chính là từ đây đặt những bước “thôn tính” đầu tiên trên Việt Nam và “bành trướng” cho đến ngày nay.

    FAMILY GROUP 1930S. ẢNH: ROZIER-VIETNAM. VIETNAM MEMORIES
    FAMILY GROUP 1930S. ẢNH: ROZIER-VIETNAM. VIETNAM MEMORIES

    Nhìn chung, bối cảnh những năm 1930, trang phục trong dân gian vẫn có tính bảo thủ. Các ông bà điền chủ, bá hộ và hội đồng vẫn mang đậm “nề nếp” truyền thống, trang phục chủ yếu là áo dài cổ đứng cài khuy, bộ bà ba gấm lụa đắt tiền, mang guốc mộc hoặc hài thêu, tóc búi tó, phụ nữ thì đầu đội khăn vuông gấp tam giác, hoặc khoác trên vai. Tuy nhiên, dần sang đầu thập niên 40 đã có sự “lai tạp” khi các ông bá hộ bắt đầu tân thời, mặc áo dài mang giày hàm ếch, đội mũ phớt, lái xe Chevrolet, uống rượu tây, hút xì gà,..

    Cochinchine, 1935 – Costumes annamites (1)Notice : Monographie dessinée de l’Indochine – Ecole d’Art de Gia Dinh. (Voir AP2556). Cochinchine : Sites et gens.Mots Clefs : Cochinchine Dessin 1935 Costume Robe – Pantalon————Cochinchine, 1935 – Costumes annamites (2)Notice : Monographie dessinée de l’Indochine – Ecole d’Art de Gia Dinh. (Voir AP2556). Cochinchine : Sites et gens. Traduction accompagnant le dessin : « Robe (Ao Dai) Turbans (Khan Ong) Pantoufles (Giay Ham Ech) »Mots Clefs : Cochinchine Dessin 1935 Costume – Vêtement Parapluie

    Sự tiếp nhận của giới nghệ sỹ trong nước

    Có thể nói, giai đoạn 30 – 50 khởi đầu cho sự “tây hóa” táo bạo đối với áo dài, là giai đoạn tiếp nhận Âu phục cũng như khái niệm “thời trang” ở miền Nam Việt Nam. Áo dài cho đến những năm cuối thế kỷ XIX vẫn là kiểu ngũ thân cổ đứng, tay chẽn, cổ thấp, ống tay hẹp kiểu triều Nguyễn và không chít eo.

    CÔ NGUYỄN THỊ HẬU – NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẦU TIÊN MẶC ÁO DÀI MỚI KIỂU LEMUR (ẢNH BÁO PHONG HÓA)

    Phụ nữ miền Nam đón nhận các “xu hướng mới” khi áo dài Le Mur bắt đầu xuất hiện vào thập niên 1930. Họa sĩ Cát Tường ( 1912 – 1946) lúc theo học tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương đã cùng với nhóm Tự Lực Văn Đoàn, khởi xướng phong trào cách tân áo dài truyền thống. Những chiếc áo dài Le Mur lấy cảm hứng từ các kiểu đầm phương tây của thập niên 20 – 30. Áo dài được cắt may ôm nhẹ vào cơ thể, thay đổi thân con thành hò áo, biến tấu các chi tiết từ âu phục như đường nối vai, tay phồng, cổ tay loe, bèo dún hoặc cài măng-set; và ứng dụng các kiểu cổ tân thời như tạo dáng vuông góc, trái tim, thắt nơ, cắt răng cưa, viền đăng-ten,…. thay vì là kiểu cổ đứng 3 phân chuẩn mực truyền thống. Thời kỳ này, ngành dệt may phát triển, áo dài màu thâm, đen hoặc các sắc nhạt trơn, trở nên “hợp thời” hơn bằng những thứ vải sặc sỡ, in họa tiết, caro, chấm bi, hoa lá,…

    MỘT KIỂU ÁO DÀI LE MUR

    MỘT SỐ MẪU TAY ÁO CỦA ÁO DÀI LE MUR – VẼ BỞI HỌA SĨ CÁT TƯỜNG. (NGUỒN ẢNH: FACEBOOK CA DAO VÀ MẸ)
    MỘT SỐ MẪU TAY ÁO CỦA ÁO DÀI LE MUR – VẼ BỞI HỌA SĨ CÁT TƯỜNG. (NGUỒN ẢNH: FACEBOOK CA DAO VÀ MẸ)

    Đến năm 1934, “thời trang áo dài” của Nam Kỳ lại càng được “cải tiến”. Tại Hội Chợ Nữ Công Đà Nẵng, họa sĩ Lê Phổ giới thiệu những mẫu áo dài mới, dung hòa kiểu Le Mur với các mốt thời trang phương Tây và áo dài ngũ thân truyền thống. Áo dài Lê Phổ là phiên bản lược bỏ các chi tiết “cải cách lố lăng” cầu kỳ ở tay áo và cổ áo của Le Mur, giữ lại sự cải tiến về phom dáng, kéo dài tà áo đến gần chấm gót nhưng thu hẹp hơn, xây dựng hình ảnh mềm mại thướt tha như ta thấy được ở các kiểu áo dài hiện đại ngày nay.

    Kết

    Mặc dù trang phục áo dài của phụ nữ miền Nam nói riêng và cả miền Bắc, Trung nói chung đã có sự cách tân mạnh mẽ. Tuy nhiên, có thể nói y phục của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 30 – 50 chỉ là sự “khai mạc” cho các thập niên tiếp theo. Bắt đầu từ thập niên 50, khái niệm “thời trang” ở miền Nam Việt Nam mới thực sự được “châm ngòi”, mở ra một giai đoạn mới trong cách ăn mặc của người Việt cận đại.

    Nguồn: style-republik.com

  • Trang phục quân lính thời Tây Sơn

    Trang phục quân lính thời Tây Sơn

    Trang bị cơ bản cho lính Tây Sơn ở Bắc Hà
    Trang bị cơ bản cho lính Tây Sơn ở Bắc Hà

    Trang bị cơ bản cho lính Tây Sơn ở Bắc Hà. Ở thời kì này hỏa khí phát triển nên các trọng giáp đã không còn phát huy hiệu quả nữa, nhờ vậy mà trang phục bắt đầu gọn nhẹ hơn.

    Theo chuyện kể, súng của Đại Việt bắn xuyên 3 lần giáp! Chiếc nón rộng vành rất giống nón thời Nguyên – Mông vì nó phù hợp với địa thế Việt (che nắng, che mưa, chống chém tốt,…)

    Cảm tử quân nhà Tây Sơn
    Cảm tử quân nhà Tây Sơn

    Cảm tử quân nhà Tây Sơn: Là đơn vị quân đi tuyến đầu mở đường cho quân chủ lực. Nhiệm vụ chủ yếu là che chắn cho quân phía sau, lấp hào, làm thang trèo lên bờ thành.
    Do tính chất nhiệm vụ và khả năng hy sinh cao nên trang bị gọn nhẹ, đầu quấn khăn đỏ, tay mang đoản đao, cầm miếng ván to bện rơm ướt. Miếng ván này được thiết kế che tên, chống cháy, các thanh chắn ngang phía trong dùng để cầm và làm bậc thang, lấp hào chông,…

    Ảnh: GROUP M&B  và  (Sói Trắng) Đại Việt Cổ Phong

  • Phép lịch sự trên mâm cơm Việt

    Phép lịch sự trên mâm cơm Việt

    Vấn đề dùng đũa

    * Không và quá 3 lần khi đưa bát cơm lên miệng.
    * Không gắp thức ăn đưa thẳng vào miệng mà phải đặt vào bát riêng rồi mới ăn.
    * Không dùng thìa đũa cá nhân của mình quấy vào tô chung.
    * Không xới lộn đĩa thức ăn để chọn miếng ngon hơn.
    * Không cắm đũa dựng đứng vào bát cơm.
    * Không nhúng cả đầu đũa vào bát nước chấm.
    * Phải trở đầu đũa khi muốn tiếp thức ăn cho người khác.
    * Không được cắn răng vào đũa, thìa, miệng bát, không liếm đầu đũa
    * Không vừa cầm bát vừa cầm đũa chỉ 1 tay cũng như không được ngậm đũa để rảnh tay làm các việc khác chẳng hạn như múc canh, đôi đũa chưa dùng đến phải đặt vào mâm hoặc đĩa bàn nếu ăn trên bàn có dùng đĩa lót bát, hoặc đồ gác đũa.

    Phép lịch sự trên mâm cơm Việt

    Khi ngồi ăn

    – Ngồi ăn dù trên chiếu hay trên ghế đều không được rung đùi, rung đùi là tướng bần tiện của nam, dâm dục của nữ, và cực kỳ vô lễ.
    – Không ngồi quá sát mâm hay bàn ăn nhưng cũng không ngồi xa quá.
    – Ngồi trên ghế thì phải giữ thẳng lưng. Ngồi trên chiếu thì chuyển động lưng và tay nhưng không được nhấc mông.
    – Không để tay dưới bàn nhưng cũng không chống tay lên bàn mà bưng bát và cầm đũa, khi chưa bưng bát thì phần cổ tay đặt trên bàn nhẹ nhàng.
    – Không ngồi chống cằm trên bàn ăn.
    – Tuyệt đối tránh cơm đầy trong miệng mà nói.
    – Không chu mồm thổi thức ăn nóng mà múc chậm phần nguội hơn ở sát thành bát đĩa.
    – Muỗng kiểu múc canh phải đặt úp trong bát không được để ngửa.
    – khi chấm vào bát nước chấm, chỉ nhúng phần thức ăn, không nhúng đầu đũa vào bát chấm, miếng đã cắn dở không được chấm.
    – Khi nhai tối kỵ chép miệng.
    – Không tạo tiếng ồn khi ăn [ví dụ húp soàm soạp]
    – Không nói, không uống rượu, không húp canh khi miệng còn cơm.
    – Không gõ đũa bát thìa.

    an com ngay xua
    Cảnh một bữa ăn thời xưa ở một gia đình dư giả


    – Khi ăn món nước như canh, chè, xúp, cháo… nếu dọn bát nhỏ hay chén tiểu thì có thể bưng bát trên hai tay để uống nhưng không được kèm đũa thìa. Nếu dọn bát lớn hay đĩa sâu thì dùng thìa múc ăn, tới cạn thì có thể một tay hơi nghiêng bát đĩa sâu ra phía ngoài, một tay múc chứ không bưng tô to đĩa sâu lên húp như kiểu chén tiểu. Món canh có sợi rau nên dọn bát nhỏ, món gọn lòng thìa có thể dùng bát lớn, đĩa sâu.
    – Không ăn trước người lớn tuổi, chờ bề trên bưng bát lên mình mới được ăn. Nếu đi làm khách không gắp đồ ăn trước chủ nhà hay người chủ bữa cơm (trừ ra bạn được đề nghị gắp trước, trong một dịp nhất định).
    – Dù là trong khuôn khổ gia đình hay khi làm khách, tuyệt đối không chê khi món ăn chưa hợp khẩu vị mình. Điều này cực kỳ quan trọng vì không đơn thuần là phép lịch sự mà còn là một phần giáo dục nhân cách. Nếu không được dạy nghiêm túc, trẻ em từ chỗ phản ứng tự nhiên do khẩu vị sẽ tới chỗ tự cho mình quyền chê bai, phán xét, không trân trọng lao động của người khác. món không ngon với người này nhưng ngon với người khác và có được nhờ công sức của rất nhiều người.
    – Không gắp liên tục 1 món dù đó là món khoái khẩu của mình.
    – Phải ăn nếm trước rồi mới thêm muối, tiêu, ớt, chanh v.v…, tránh vừa ngồi vào ăn đã rắc đủ thứ gia vị phụ trội vào phần của mình.
    – Phải ăn hết thức ăn trong bát, không để sót hạt cơm nào.
    – Dọn mâm phải nhớ dọn âu nhỏ đựng xương, đầu tôm, hạt thóc hay sạn sót trong cơm…
    – Trẻ em quá nhỏ dọn mâm riêng và có người trông chừng để tránh gây lộn xộn bữa ăn của người già, tới 6 tuổi là ngồi cùng mâm với cả nhà được sau khi đã thành thục các quy tắc cơ bản.
    – Khi trẻ em muốn ăn món mà nó ở xa tầm gắp, phải nói người lớn lấy hộ chứ không được nhoài người trên mâm. Trong gia đình, khi trẻ em ngồi cùng mâm người lớn thì sắp cho bé một đĩa thức ăn nhỏ ngay bên cạnh với đồ ăn đã lóc xương và thái nhỏ. Với người cao tuổi cũng vậy, dọn riêng đĩa cá thịt đã lóc xương, thái nhỏ, hay ninh mềm hơn.
    – Không để các vật dụng cá nhân lên bàn ăn, trừ chiếc quạt giấy xếp có thể đặt dọc cạnh mép bàn. Ngày nay thì di động là vật bất lịch sự và mất vệ sinh.
    – Nhất thiết để phần người về muộn vào đĩa riêng, không khi nào để phần theo kiểu ăn dở còn lại trong đĩa.
    – Ăn từ tốn, không ăn hối hả, không vừa đi vừa nhai.
    – Khi ăn không được để thức ăn dính ra mép, ra tay hay vương vãi, đứng lên là khăn trải bàn vẫn sạch. Giặt thì giặt chứ dùng cả tuần khăn bàn vẫn trắng tinh không dính bẩn.
    – Nếu ăn gặp xương hoặc vật lạ trong thức ăn, cần từ từ lấy ra, không được nhè ra toàn bộ tại bàn.
    – Chỉ có người cao tuổi, 70 trở lên và trẻ nhỏ mà ợ khi ngồi ăn mới không bị coi là bất lịch sự.
    – Nếu bị cay thì xin phép ra ngoài hắt xỳ hơi, xỷ mũi.
    – Nhà có khách cần cẩn trọng khi nấu, chất cay để phụ trội bày thêm, tránh bất tiện cho khách khi họ không ăn được cay hay một vài gia vị đặc biệt.
    – Tránh va chạm tay với người cùng mâm, nếu thuận tay trái thì nói trước để chọn chỗ cho thuận tiện.
    – Phải chú ý tay áo khi gắp đồ ăn.
    – Nếu thấy thức ăn lớn nên xin cắt nhỏ để mọi người được thuận tiện
    – Khi đang ăn mà có việc riêng phải xin phép rồi mới rời mâm.
    – Nhất thiết nói cảm ơn sau bữa ăn dù là chỉ có hai vợ chồng nấu cho nhau. Đừng tiếc lời khen ngợi những món ngon.
    – Phong tục mời tùy theo gia đình, có gia đình thì người cao tuổi nhất nói đơn giản “các con ăn đi”, trẻ thì thưa “con xin phép”, nhưng có gia đình trẻ con phải mời hết lượt ông bà cha mẹ cô chú anh chị… Khi tới đâu thì quan sát gia chủ, không thể mang tập quán nhà mình vào bữa ăn nhà người ta.
    – Ăn xong cần tô son lại thì xin phép vào phòng vệ sinh, không tô son trên bàn ăn trước mặt người khác.
    – Ngồi đâu là theo sự xếp chỗ của chủ nhà, không tự ý ngồi vào bàn ăn khi chủ nhà chưa mời ngồi.
    – Ngày xưa, có lúc người giúp việc ăn cùng mâm với chủ nhà, khi gắp, chủ nhà để thế tay ngang nhưng người giúp việc thế tay úp. Nhìn là biết ngay.
    – Không được phép quá chén.
    – Nên thành thực nói trước về việc ăn kiêng, dị ứng [nếu có] khi được mời làm khách để tránh bất tiện cho chủ nhà.

  • Sự tích và Tục thờ Ông Địa – Thần tài ngày Tết

    Tục thờ Ông Địa – Thần tài, có lẽ nguồn gốc bắt đầu từ Trung Quốc rồi sau đó lan dần sang các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, người xưa quan niệm thờ cúng Ông Địa-Thần tài trong nhà để cầu mong cho gia đình êm ấm, làm ăn phát tài phát lộc.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Tín ngưỡng thờ thần là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt. Ngay từ buổi đầu hình thành nhà nước sơ khai, người ta đã biết thờ phụng các vị thần tự nhiên, siêu nhiên, như: thần Đất, thần Mây, thần Mưa, than Gió, thần Sấm… Tín ngưỡng thờ thần này bắt nguồn từ tâm lý e sợ các hiện tượng tự nhiên mà họ chưa lý giải được trong thời điểm lúc bấy giờ.
    Và đó cũng là tâm lý thể hiện sự tri ân đến các sự vật, hiện tượng tự nhiên xung quanh đã tạo cho họ có được môi trường sống, và làm cho cuộc sống của họ được giàu có, sung túc và bình an.

     

    Sự Tích Ông Địa

    Trong đời sống trước đây của dân tộc Việt thì phần lớn dựa vào nông nghiệp, mà nông nghiệp thì lại phụ thuộc rất nhiều các điều kiện tự nhiên như: đất đai, thời tiết, khí hậu… trong đó có thể nói, đất đai được xem là yếu tố cơ bản cấu tạo nên vạn vật, giúp cho người ta có được cuộc sống ấm no và sung túc. Vì vậy, thần Đất hay Thổ Thần là một trong những vị thần được cư dân nông nghiệp luôn để tâm đến trước nhất.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Tượng Ông Địa

    Như chúng ta đã biết, Nam Bộ là một vùng đất mới, ngay từ những bước chân đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này thì vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đầm lầy nê địa, rừng hoang cỏ rậm, thú dữ tràn đầy… Mọi thứ ở đây hoàn toàn lạ lẫm đối với họ, từ tiếng chim kêu, tiếng cá vẫy vùng… đến tiếp cọp rống, gió rít đều gây cho họ một cảm giác lo sợ.

    “Tới đây xứ sở lạ lùng,
    Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng ghê”

    Người dân lúc đó nghĩ vùng đất Nam Bộ này, từ khu rừng, con sông, vùng đất… đâu đâu cũng có các vị thần cai quản. Để được yên ổn làm ăn, họ phải khấn vái, cúng kiến cho các thần để các thần phù hộ cho họ có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình an. Vì lẽ đó mà Thổ Địa được họ sùng kính và tôn thờ. Họ xem Thổ Địa như là một vị thần bảo hộ cho một mảnh vườn, thửa ruộng của họ….

    Về hình tượng Ông Địa ở Nam Bộ thì tượng Ông Địa hay tranh vẽ thường là một người trung niên mập mạp, bụng bự, vú lớn, miệng cười hể hả, tay cầm quạt, tay cầm điếu thuốc lá… trông có vẻ phương phi, hào sảng và mang đầy chất phong thịnh. Và nó cũng mang chút hơi hướm của sự hài hước. Đây cũng là một đặc trưng trong tính cách của người Nam Bộ.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Tượng ông Địa

    Người Nam Bộ thường có tâm lý tin vào thần thánh nhưng đôi khi họ cũng không tuyệt đối hóa sự thờ phụng này. Khi họ tin vào Ông Địa, họ thờ cúng Ông Địa quanh năm nhưng đôi khi mùa màng thất bát, buôn bán lỗ lã họ van vái Ông Địa nhiều lần, nhưng cuộc sống vẫn không khá hơn, họ sẵn sàng đem Ông Địa bỏ ở gốc cây, kẹt đá, hoặc quăng xuống sông.

    Vì lẽ đó mà Ông Địa ở Nam Bộ dường như có khoảng cách rất ngắn với con người, ông như một vị thần dân dã luôn gần gũi với cuộc sống của con người. Chính điều này đã dẫn đến hàng loạt các giai thoại về Ông Địa do dân gian sáng tác, nhằm giải thích các đặc điểm về hình thể ông cũng như để giải thích một số sự việc, hiện tượng mà người ta không thể lý giải được trong cuộc sống của mình.

    Trong “Sự tích Ông Địa bụng bự” có kể rằng:

    “Ngày xưa, Ông Địa cũng có cái bụng bình thường như bụng của mọi người. Thuở đó, Ông Địa có kết thân với Hà Bá. Trong vùng có một mụ góa bụa, tính khí rất chua ngoa, nhưng mụ lại có cô con gái rất đẹp. Mụ mắc phải cái tật, hễ cất tiếng chửi con thì y như có mấy lời đầu lưỡi:

    – Má mày Hà Bá!

    Thấy vậy, Ông Địa mới tìm gặp Hà Bá, vừa thiệt, vừa giỡn, bảo rằng:

    – Nè Hà Bá, anh tốt phước quá! Ở đây, ngày nào cũng có người nói muốn hiến con gái cho anh đó. Mà lại con gái đẹp kia chớ.

    Hà Bá mừng quá liền hỏi:

    – Thiệt vậy không? Mà ai vậy? Nhờ anh làm mai dùm tôi liền đi nghe.

    Ông Địa bằng lòng và dẫn Hà Bá đi.

    Hôm sau, trời vừa sáng, Hà Bá theo Ông Địa đến cổng nhà mụ góa nọ. Còn sớm, cô con gái út ngủ chưa dậy, chỉ mới có bà mẹ dậy quét dọn sân nhà. Giữa sân có con chó cái, ý chừng phải thức canh nhà nên vẫn còn nằm lì ở đó, đuổi chẳng chịu đi. Đuổi hoài chẳng được, mụ ta nổi xung trở cán chổi đập con chó một cái, chửi:

    – Cái đồ Hà Bá!

    Thiệt nào ngờ? Hà Bá giận quá chừng liền đạp cho Ông Địa một đạp và chửi:

    – Đồ khốn! Dám lừa tao! Dẫn tao đi để gả cho con chó cái này hả?

    Ai ngờ mới có một đạp, Ông Địa đã rớt tỏm xuống kinh. Không tính tới sự oái oăm này, nên Ông Địa mắc cười quá, té xuống kinh mà vẫn cười ngất, thành thử ông uống phải nước kinh nhiều quá. Đến nỗi, cái bụng ông phình ra, rồi cứ lần lần bự dần, đến chang bang như bây giờ”.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Ông Địa

    Trong suốt chiều dài lịch sử, tín ngưỡng thờ Thần Đất nói chung, thờ Ông Địa nói riêng đã có nhiều thay đổi, nó không còn giữ nguyên sơ của dạng tín ngưỡng ban đầu. Trong tâm thức dân gian Nam Bộ, Ông Địa được xem là một vị phúc thần, không chỉ có vai trò bảo vệ đất đai, ruộng vườn mà còn có nhiệm vụ đưa rước Thần Tài đến nhà, nghĩa là làm cho gia chủ phát đạt giàu có, và kiêm luôn việc giúp cho gia chủ mau lành bịnh và tìm kiếm được những món đồ đã mất. Do đó mà sáng sớm khi mở cửa nhà, cữa tiệm thì Ông Địa lại thường được gia chủ tặng thưởng cho một ly cà phê đen bên cạnh, một điếu thuốc lá trên tay, có khi là cà phê sữa ngon và một gói thuốc ba số 555 hẳn hoi. Có lúc được thưởng cả bánh bao, thịt heo quay nữa….

    Theo tín ngưỡng dân gian cho rằng thờ ông Địa để Địa phù hộ buôn may bán đắc, thật ra theo các tôn giáo Á Đông ông Địa lại là vị thần cai quản các địa phương hoặc là thần bảo vệ của mỗi gia đình. Ở các cấp độ cao hơn thì ông Địa trở thành vị thần hộ trì cho những người lương thiện, những bậc tu hành được bình an trên đường giáo dân độ thế, hiểu theo nghĩa này thì ông Địa lại là một vị thần có sứ mạng về mặt tâm linh.

    Cũng có nhiều nơi theo ảnh hưởng của Trung Hoa còn gọi Ông Địa là ông Thần Tài (Mọi thứ đều sinh từ đất mà ra – Tấc đất là tất vàng).

    Vì Thổ Công là vị thần quan trọng nhất trong gia đình. Nếu đứng ở ngoài nhìn vào thì Bát hương thờ Thổ công ở giữa, bên trái là bát hương bà Cô Tổ, bên phải là bát hương Gia Tiên. Khi cúng lễ, đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về.

    Thông thường, mỗi khi làm việc gì có đụng chạm đến đất đai như đào ao, đào giếng, xây cất, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt… thì tất cả đều phải cúng vị thần này.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Ông Địa

    Việc cúng ông Địa Cũng là 1 vấn đè khá lý thú với người Việt Nam ta. Đối với người miền Nam và với những người Hoa Kiều mỗi khi cúng ông Địa thì họ thường bẻ ăn trước một miếng rồi mới mang cúng, vì theo 1 vài sự tích thì Ông Địa bị đầu độc nên chết, vì thế ông rất sợ bị chết, nên khi cúng kiến ông thì phải bẻ ăn một miếng trước thì ông mới dám ăn).
    Còn với người miền Bắc thì họ vẫn cúng như bình thường.

    Dù sao Ông Địa cũng gắn bó với cư dân Nam Bộ trong suốt chiều dài lịch sử, đồng hành cùng cư dân Nam Bộ khẩn hoang lập ấp ngót ba trăm năm nên Ông Địa tỏ ra rất gần gũi với cư dân Nam Bộ. Mặc dù họ vẫn tôn thờ ông như thuở nào nhưng trong thâm tâm họ, ông luôn gần gũi, hiền từ, ít trách cứ ai… nên họ mới tạc nên hình dáng ông như vậy và khi người ta làm việc gì hết mình, hoặc chơi hết mình người ta hay nói vui rằng: “Chơi mát trời ông Địa luôn”…!

    Thần Tài

    Thần Tài theo tín ngưỡng là một vị thần mang đến tài lộc, của cải, sung túc cho gia đình, mỗi khi làm việc gì, ta thường thấy gia chủ cầu khấn Thần Tài.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Thần Tài

    Một sự tích xưa về Thần Tài là “sự tích Âu Minh – Như Nguyên”

    Có một tên lái buôn tên là Âu Minh khi qua hồ Thành Thảo, Thủy thần cho một cô nô tỳ tên là Như Nguyện. Âu Minh đưa Như Nguyện về nuôi trong nhà làm ăn ngày càng trở nên phát đạt. Sau đó, vào một ngày tết, vì lý do nào đó, Âu Minh đánh Như Nguyện. Như Nguyện quá sợ hãi chui vào đống rác và biến mất. Kể từ đó, Âu Minh làm ăn luôn thua lỗ, sa sút, chẳng mấy chốc trở nên phá sản, nghèo xác nghèo xơ. Hóa ra Như Nguyện chính là hóa thân của Thần Tài. Từ đó người ta thưởng lập bàn thờ để thờ vị thần này.

    Lý do vì sao lại kiêng cử hốt rác hay quét rác trong 3 ngày đầu năm? Vì sự tích Âu Minh – Như Nguyên như trên mà người ta sợ hốt rác là sẽ hốt luôn cả Thần Tài trong đống rác đó thì việc làm ăn sẽ không suôn sẻ. Việc thờ Thần Tài ở nơi xó xỉnh cũng có nguồn gốc từ đây….

    Cũng có 1 sự tích khác về Thần Tài đó là “Sự Tích mùng 10 tháng giêng âm lịch”

    Chuyện kể rằng Thần Tài chỉ có trên trời, dưới trần gian không có, Thần Tài là vị Thần cai quản tiền bạc, tài lộc.

    Trong một lần đi chơi uống rượu, do say quá nên Thần Tài bị rơi xuống trần gian, không may đầu bị va vào đá nên nằm mê mệt không biết gì, sáng ra mọi người thấy một người ăn mặc giống như diễn tuồng cải lương thì lấy làm lạ và tưởng ngài bị điên.

    Mọi người thấy vậy liền lột sạch hết quần áo mũ nón của Thần Tài và đem đi bán, Thần Tài tỉnh dậy không có quần áo trên người và do bị va đầu vào đá nên không nhớ mình là ai.

    Do sống trên thiên đình quen rồi nên Thần Tài không biết làm việc dưới trần gian nên thường đi lang thang xin ăn khắp nơi. Thần Tài đi ăn xin thì gặp một nhà kia kinh doanh buôn bán gà, vịt, heo quay ế ẩm, thấy Thần Tài đến ăn xin thì được chủ nhà mời vào ăn.

    Thần Tài được chủ quán cho ăn nên ông ra sức ăn rất nhiều đặc biệt là ông rất thích thịt heo vịt quay, điều kỳ lạ lúc này là khi ông vào quán này ăn thì không biết từ đâu khách kéo đến nườm nượp, người chủ quán thấy lạ nên ngày nào cũng mời Thần Tài vào ăn.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Khách hàng ở quán đối diện trước nay rất đông khách bỗng dưng từ hôm thần Tài đến ăn quán bên này thì khách bên đó lại chuyển hết qua quán bên này ăn.

    Sau một thời gian người bán hàng đắt khách và cảm thấy Thần Tài chẳng làm gì mà suốt ngày lại được ăn uống đồ ăn ngon, lại toàn dùng tay ăn bốc, người thì bốc mùi, lại hay thích lang thang không tắm giặt.

    Nghĩ Thần Tài sẽ làm khách sợ không dám đến ăn nữa và lại thấy hao phí đồ ăn cho một người ăn mày không đáng nên người chủ quán liền đuổi ông đi.

    Quán đối diện ngày xưa rất đông khách nay vắng hoe, thấy Thần Tài bị chủ quán bên kia đuổi thì liền mời Thần Tàivào ăn, cũng như lúc trước, mọi người lại ùn ùn kéo đến ăn quán này rất đông.

    Mọi người thấy vậy nên ai cũng ra sức tranh giành mời cho bằng được Thần Tài đến hàng quán của mình ăn để có thể kéo khách đến ăn đông, vậy nên mới có câu “Thần Tài gõ cửa”.

    Người dân khu vực đó thấy Thần Tài không có quần áo mặc nên dẫn ông đi mua lại quần áo, được mọi người dẫn đến cửa hàng nơi quần áo ông bị bán, sau khi mặc lại quần áo mũ nón vào thì Thần Tài sựt nhớ lại mọi chuyện trước kia và bay về trời.

    Mọi người coi Thần Tài như là báu vật và họ lập bàn thờ, tôn thờ ông từ đó, hóa thân Thần Tài là một người lang thang ăn xin quần áo rách rưới.

    Ngày Thần Tài bay về trời cũng chính là ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch….

    Theo gocphongthuy.net

  • Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn

    Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn

    Các nghi thức trang điểm theo lối cung đình Huế vẫn luôn là điều bí mật với nhiều người. Bí ẩn từ cách pha chế mỹ phẩm đến cung cách vẽ mặt sao cho các mệ trông giống như các bức tượng tiên thánh. Những phần khác chỉ còn là huyền thoại, cùng với sự ra đi của những bà hoàng, những công chúa, phi tần cuối cùng của vương triều nhà Nguyễn…

    Người cung nữ cuối cùng còn sống của Triều Nguyễn
    Người cung nữ cuối cùng còn sống của Triều Nguyễn

    Mỗi sáng sớm các viên lính giản khiêng loan ỷ Thánh Cung Hoàng thái hậu, đích mẫu của Vua Khải Định, từ trên lầu Tịnh Minh xuống chính sảnh Cung Diên Thọ để các Cô làm tốt. Đây là cách người Huế xưa gọi việc trang điểm. Phải mất công như thế vì bà bị thấp khớp rất nặng, đi đứng khó khăn. Theo lời yêu cầu của ông Quan Năm bác sỹ người Pháp, triều đình xây cái lầu này trên nhà Thông Minh Đường để Thái hậu nghỉ ngơi cho đỡ ẩm thấp. Dù đau đớn thế nào đi nữa, trong suốt thời gian làm tốt Lệnh bà cũng vẫn phải ngồi yên, lưng ngay, mặt nhìn thẳng theo đúng phép tắc cung đình. Sau khi việc điểm trang, áo xống đã xong, Thái hậu vẫn phải giữ vẻ trang nghiêm trên ngai, đến nỗi trông bà giống như các tượng tiên, thánh trong đền.

    Khoảng năm 1970 tôi có dịp được bà Điềm Tần, thứ thất của cố Hoàng đế Khải Định, cho tôi xem cách bà trang điểm để sửa soạn cho một dịp đại kỵ. Lúc ấy vì không hiểu nên tôi chỉ thấy buồn cười mà không dám nói. Bà dùng phấn nụ pha nước sền sệt đánh mặt trắng bệch như vôi, nhưng từ dưới cầm xuống cổ, và hai tai, lại để da trần. Cho dù da bà trắng, sự tương phản vẫn rõ nét, gần như do cố ý. Điều gây ấn tượng mạnh nhất đối với tôi lúc ấy là cặp mắt không trang điểm của bà hiện ra giữa mầu phấn trắng một cách siêu thực. Có khi đấy cũng là do cố ý? Bà bôi lên mỗi gò má một khoảnh tròn phấn hồng. Môi trên dưới đều đánh phấn trắng, nhưng sau đấy bà dùng ngón tay tô sáp lên môi trên, và chỉ một điểm sáp son vào chính giữa môi dưới. Như vậy để môi chum chím như một nụ hoa. Lông mày cũng được đánh che hết bằng phấn trắng, để rồi được tô lại bằng bút lông với muội than gỗ điên điển (có thể thay gỗ điên điển bằng nút bấc).

    Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn

    Bà Tần giải thích rằng khi một nữ nhân đã nhập nội (vào làm vợ vua) rồi thì ngoài chồng, tức là vua, không một người đàn ông nào khác được thấy mặt mình nữa, dù là cha ruột. Gặp những dịp các bà phải có mặt ngoài cung cấm, thì các bà phải đánh phấn trắng như vậy để “trăm Mệ như một”. Người ngoài chỉ được thấy cái mặt giả của các bà. Bà nói các kỹ nữ (geisha) bên Nhật cũng phải theo nguyên tắc này. Mặt thật của họ chỉ có chồng con được biết thôi.

    Theo lệ thời cuối Nguyễn Triều thì các hoàng thái hậu và các bà hậu, phi trong tam cung không phải đánh phấn trắng lối này. Các bà trong lục viện mới phải đánh mặt trắng. Ba viện trên được đánh sáp môi lên môi trên và một chấm sáp giữa môi dưới. Ba viện dưới đánh trắng môi trên với một chấm son giữa môi dưới…
    Bây giờ tôi chỉ ước được quay lại khung cảnh ấy để chiêm ngưỡng. Cô Lê Thị Dinh, người giữ phận sự trang điểm cho bà Từ Cung Hoàng thái hậu, sau này cho tôi biết rằng tôi rất may mắn. Vì trong tất cả các bà trong nội cung thời cuối Nguyễn, chỉ có bà Điềm Tần còn giữ các cung cách cổ.

    Phụ nữ trong cung thủa xưa dùng phấn nụ để trang điểm. Gọi là phấn nụ vì do cách sản xuất thời bấy giờ, mỗi viên phấn có hình dáng giống như một nụ hoa nho nhỏ. Các bà tự làm ra phấn nụ để dùng chứ ít khi họ tin tưởng vào phấn mua ngoài phố. Phấn nụ được làm từ chất cao lanh thượng hạng mua từ Trung Quốc và đem về chế biến.

    Khi đánh phấn, người ta nhón viên nụ phấn bằng các đầu ngón tay rồi miết với động tác xoay tròn lên mặt. Sau đó dùng các đầu ngón tay xoa cho đều. Lập lại nếu cần. Phấn cũng còn được pha sẵn với nước đựng trong hũ nhỏ để bôi lên mặt khi cần đánh lớp trắng, dầy trong các dịp đại kỵ.

    Người xưa đốt gỗ điên điển, và sau này là nút bấc, rồi dùng cọ lông viết chữ Nho quết than khô để vẽ lông mày. Sau khi đã vấn khăn hay búi tóc xong, các bà cũng dùng than này chấm lên che bớt tóc bạc, đường rẽ ngôi và các chỗ tóc bị sói.

    Lối đánh phấn trắng bệch với phấn hồng và môi điểm nụ chỉ được dùng trong các dịp đại kỵ trong cung ngày xưa. Vào các lễ lạc khác và ở đời thường, phấn nụ và sáp môi cũng chỉ được điểm trang như cách phụ nữ vẫn làm ngày nay mà thôi. Phấn nụ vẫn được làm thành từng thỏi lớn và bán tại các hàng xén trong chợ Đông Ba ở Huế. Nhưng các bà xưa vẫn thường tự mua cao lanh về làm phấn nụ để dùng riêng. Họ phải kỹ vì chất cao lanh loại thấp cấp dễ gây tổn hại cho da mặt.

    Phấn nụ loại tốt ngày xưa còn được xem là có công dụng dưỡng da. Phấn được bôi dầy lên mặt mỗi đêm, để trong khi ngủ da sẽ thẩm thấu phấn và trở nên mịn màng. Các phụ nữ nội cung còn sống ở Huế hiện nay vẫn chỉ dùng phấn nụ. Họ không hài lòng lắm với mỹ phẩm Tây phương.

    Phấn nụ và khăn vành dây bao giờ cũng đi đôi với nhau trong cung nội ở Huế. Người Việt cổ dùng vải nhiễu cát để bao tóc. Người Tây phương sau này cũng rất chuộng loại vải này và gọi nó là Crepe de Chine. Nhiễu cát do người Việt dệt ngày xưa chỉ mỏng bằng nửa loại Crepe de Chine ngoại nhập được dùng khá phổ biến trong cung ở thời cuối Nguyễn triều.

    Cách chít khăn trong cung ở Huế khác với cách vấn khăn của đàng ngoài. Khăn vấn Huế được chít với mép khăn hướng lên trên và dấu ở phía trong vành khăn. Vành khăn thứ hai được chít bao ra ngoài phía trước vành khăn một, chứ không luồn bên dưới vành một như ở Bắc bộ. Các mệnh phụ trong cung Huế thường vấn khăn vành dây ra ngoài khăn chít trong các dịp lễ. Khăn vành dây rộng 30cm. Khăn bằng Crepe de Chine ngoại quốc có độ dài trung bình là 15 mét. Khăn nhiễu cát Việt Nam mỏng nên có độ dài hơn.

    Từ độ rộng 30cm, khăn vành dây được xếp thành bề rộng 6cm với cạnh hở hướng lên trên, rồi quấn thành hình chữ Nhân, tức là chữ V ngược, che tóc, một phần tai và vòng khăn chít bên trong. Khi khăn đã bao giáp vòng, gấp khăn lại còn nửa chiều rộng, bắt đầu từ đằng sau gáy, vẫn để cạnh hở hướng về phía trên, rồi vấn tiếp. Khăn vành được bao chặt ra ngoài phần khăn chit, tạo thành một cái đĩa lớn. Vì nhiễu cát có độ co dãn và nhám cao nên khăn vành ít khi tuột. Phần cuối của khăn được vén khéo vào trong vành khăn phía sau, rồi dùng kim găm dấu cho khéo.
    Về sau khi tóc uốn trở nên thông dụng, người Huế tạo ra một vòng vải ống tròn nhồi bông chụp vừa lên đầu giả khăn vấn để lót cho khăn vành dây. Một trong những người đầu tiên xử dụng loại khăn vấn sẵn này là Hoàng hậu Nam Phương. Khi mới nhập cung, tóc Hoàng hậu vẫn còn uốn ngắn như hồi còn ở bên Pháp. Phải có cái ống khăn chít giả bên trong người ta mới vấn được khăn vành cho Hoàng hậu, để bà có thể mặc áo mệnh phụ khi làm triều lễ.

    Chỉ mãi sau này khi điển lệ đã bị phá bỏ người ta mới thấy một vài khăn vành dây mầu vàng trong cung. Còn ngoài ra, từ các hoàng thái hậu, hoàng hậu cho đến các công chúa, mệnh phụ thường cũng chỉ vấn khăn vành mầu lam đậm. Khăn vành dây bao giờ cũng được xem là niềm kiêu hãnh, cũng như nỗi khổ của các phi, hậu, mệnh phụ ngày xưa.

    TRỊNH BÁCH

  • Vài tấm bản đồ cổ của Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa

    Vài tấm bản đồ cổ của Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa

    Tấm bản đồ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” do Trung Quốc xuất bản năm 1905 chỉ rõ lãnh thổ Trung Quốc dừng lại ở đảo Hải Nam. Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

    Một thanh niên Việt Nam chia sẻ bản đồ cổ Trung Quốc không có Trường sa, Hoàng Sa trên mạng xã hội

    Chử Đình Phúc từng ra thăm quần đảo Trường Sa.

    Thạc sĩ Chử Đình Phúc, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, một thanh niên sinh năm 1984 đang thực hiện việc chia sẻ hơn 10 tấm bản đồ cổ của Trung Quốc trên mạng xã hội, mà theo những tấm bản đồ này Hoàng Sa, Trường Sa không nằm trong lãnh thổ Trung Quốc.

    Chử Đình Phúc từng là sinh viên ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, hiện đang công tác tại Viện khoa học xã hội Việt Nam. Công việc của anh có liên quan trực tiếp đến hoạt động thu thập thông tin, tài liệu về lịch sử Trung Quốc. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên Thạc sĩ Chử Đình Phúc có trong tay những tấm bản đồ cổ của Trung Quốc, Nhật Bản có thể chứng minh được rằng Hoàng Sa, Trường Sa không thuộc về Trung Quốc.

    Hiện nay, trên trang cá nhân của Chử Đình Phúc có hơn 10 tấm bản đồ với chú thích đầy đủ, thể hiện rõ phân vùng lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc, đặc biệt những tài liệu cổ này cho thấy Hoàng lãnh thổ Trung Quốc không bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.

    Xem “kho bản đồ” do Chử Đình Phúc chia sẻ trên trang cá nhân:

    Bản đồ tỉnh Quảng Đông với cực Nam của nó là tỉnh Hải Nam (năm 1850)- trích trong sách “1850 Thanh nhị kinh thập bát tỉnh dưa địa đồ” (1850清二京十八省舆地图)

    Bản đồ tỉnh Quảng Đông của nước Trung Quốc năm 1935 bao gồm cả đảo Hải Nam khi đó còn thuộc tỉnh này, không thấy cái gọi là Tây Sa, Nam Sa.

    Bản đồ Trung Quốc có tên “Trung Hoa dân quốc toàn đồ” (中華民國全圖), vẽ trong khoảng thời gian 1911-1949, không có Hoàng Sa, Trường Sa.

    Bản đồ do người Nhật vẽ năm 1911 có tên “Thanh quốc đại địa đồ Cánh mạng (Tân Hợi) động loạn địa điểm chú”, vẽ rất chi tiết, hình ảnh sắc nét và tất nhiên là không có Hoàng Sa, Trường Sa trong cương vực nước Trung Quốc.

    Tấm bản đồ trong sách “Đại Thanh đế quốc toàn đồ, Tuyên Thống nguyên niên (1908)” (大清帝国全图 宣统元年).

    Tỉnh Quảng Đông nước Trung Quốc với đảo Hải Nam năm 1908, trích “Đại Thanh đế quốc toàn đồ, Tuyên Thống nguyên niên” (大清帝国全图 宣统元年), Thương vụ ấn thư quán xuất bản năm 1908.

    Bản đồ 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây – nước Trung Quốc năm 1903 với đảo Hải Nam, trích “Đại Thanh đế quốc phân tỉnh tinh đồ” (大清帝國分省精圖).

    “Đại Thanh đế quốc phân tỉnh tinh đồ” (大清帝國分省精圖) – Bản đồ vẽ nước Tàu năm 1903 do người Nhật Bản ấn hành.

    Bản đồ nước Tàu có tên là “Chính trị khu vực đồ”, in tận năm 1936 không có Hoàng Sa, Trường Sa và đường lưỡi bò.

     

    Bản đồ Trung Quốc năm 1911 bằng chữ Hán không có Hoàng Sa, Trường Sa.

    Mạng xã hội tràn ngập hình ảnh tấm bản đồ Trung Quốc năm 1905, được xem như một bằng chứng thuyết phục rằng Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam.

    Bức ảnh chụp bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ (theo Thanh niên)

    Tấm bản đồ do Tiến sĩ Mai Hồng lưu giữ trong nhiều năm qua và mới được đưa ra trước công chúng trong sự kiện ông tặng lại Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ cho Bảo tàng lịch sử quốc gia Việt Nam ngày 25/7. Thông tin về tấm bản đồ do chính Trung Quốc xuất bản không chỉ củng cố lý lẽ pháp lý cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh khẳng định chủ quyền, lãnh thổ đất nước mà còn khiến dư luận Trung Quốc trở nên hỗn loạn .

    Nắm bắt tình hình thời sự, cư dân mạng Việt Nam hiện đang tích cực chia sẻ hình ảnh, thông tin về tấm bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa với khẩu hiệu “Vì chủ quyền đất nước, vì Trường Sa, Hoàng Sa, hãy chia sẻ”.

    Nguồn: yeuchua.net

  • Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Phóng viên ảnh nổi tiếng người Mỹ Bill Eppridge đã ghi lại những bức ảnh đặc sắc trong một chuyến bay dân sự ở sân bay Tân Sơn Nhất ngày 14/7/1965. 

    Trước 1975, Tân Sơn Nhứt có nhiều chuyến bay nhất Đông Nam Á, quỹ đất để mở rộng sân bay đến 3.600 ha, gấp 3 lần sân bay Changi của Singapore.

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Bảng chỉ dẫn hướng vào phi trường Tân Sơn Nhứt.



    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Các con đường dẫn vào sân bay Tân Sơn Nhất được kiểm tra an ninh nghiêm ngặt.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Xe buýt của sân bay đón khách.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Bên trong ga hành khách sân bay Tân Sơn Nhất.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Tại quầy làm thủ tục.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách bước vào khu phòng chờ sau khi làm xong thủ tục.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách chờ lên máy bay.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Nữ tiếp viên dẫn khách ra máy bay.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Một hành khách đặc biệt: Thiền sư Thích Nhất Hạnh (người quàng khăn tối màu).

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách phải đi bộ một quãng đường khá dài để lên máy bay.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Người khuyết tật cũng không phải là ngoại lệ.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách mới hạ cánh xuống sân bay đi bộ vào nhà ga.

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Toàn cảnh sân bay Tân Sơn Nhất năm 1966. Ảnh: Life


    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Ngoài phục vụ dân sự thì sân bay còn là căn cứ của không quân chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Mỹ.

  • 218 Bí danh/Bút danh của Hồ Chí Minh

    218 Bí danh/Bút danh của Hồ Chí Minh

    Đây là danh sách những bí danh/bút danh được Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.
    1. Nguyễn Sinh Cung.  2. Nguyễn Sinh Côn.  3. Nguyễn Tất Thành.  4. Nguyễn Văn Thành.

    Họ tên nguyên thủy 1890

    1.Nguyễn Sinh Cung.

    2.Nguyễn Sinh Côn.

    Họ tên thiếu niên và trưởng thành 1893-1911

    3. Nguyễn Tất Thành.
    4.Nguyễn Văn Thành.
    5.Nguyễn Bé Con.
    Hồ Chí Minh hoạt động
    6. Asan (Á Tam – 阿三), 1911 [1]
    7.Paul Tất Thành (Nguyễn Tất Thành – 阮必成), 1912.
    8. Nguyễn Kinh Thiên Aiguo (Nguyễn Ái Quốc – 阮爱国). Ông Big Brother giới thiệu tham dự những buổi sinh hoạt đảng CS Pháp, Paris 1919.
    9. U L. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Người cùng khổ, năm 1922.
    10. H A. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Người cùng khổ, năm 1923.
    11. Li Rui Chí (Hồ chí Minh hóa danh Lý Thụy – 胡志明化名李瑞). Ngày 13 tháng 12 năm 1924, từ Liên Xô đi Quảng Châu, Trung Quốc.
    12. T V. Bí danh dùng khi ở Hương Cảng ?
    13. Loo Shing Yan, 1 tài liệu, ngày 12 tháng 11 năm 1924. Bản gốc tài liệu đánh máy bằng tiếng Pháp (Loo Shing Yan – Nữ đảng viên Quốc Dân Đảng)
    14. Nilốpki, 6 tài liệu từ tháng 10 năm 1925 đến tháng 3 năm 1926. (hồ sơ khác ghi 1924).
    15. Z A C, 1925. Bí danh nữ tình báo.
    16. Howang T.S, 1 tài liệu Báo cáo trong Đại hội công nhân và nông dân ngày 2 tháng 1925
    17. LT, 4 tài liệu viết từ tháng 4 năm 1925 đến tháng 5 năm 1954. (hồ sơ khác ghi 1925)
    18. X X, 1926.
    19. H T, 1 tài liệu “Bà Trưng Trắc” đăng trên báo Thanh Niên, số 72 ngày 12 tháng 12 năm 1926.
    20. X. 7 tài liệu từ tháng 12 năm 1926 đến tháng 3 năm 1927.
    21. AP, 1 tài liệu, bài “Văn minh Pháp ở Đông Dương”- tạp chí Inpekorr. Tiếng Đức. số 22. 1927.
    22. Lin, 5 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1935 đến tháng 9 năm 1939. (có nơi ghi Line. 1924-1938, dùng tại Diên An, Trung Quốc).
    23. N K, 1 tài liệu “Sự thống trị của đế quốc Pháp tại Đông Dương”-Tạp chí Inprekorr. bản tiếng Pháp. ngày 15 tháng 10 năm 1927.
    24. N A K, 1 tài liệu “Thư gửi Quốc tế nông dân” ngày 3 tháng 2 năm 1928.
    25. Wang, 6 tài liệu từ tháng 9 năm 1927 đến tháng 6 năm 1928.
    26. N, tài liệu từ tháng 2 năm 1922 đến tháng 1 năm 1924. (hồ sơ khác ghi 1923).
    27. T V Wang, 1930.
    28. Victo, 1930.
    29. Vichto Lơ bông, (Victor Lebon), 1930 ?
    30. L M Wang, 1930.
    32 .Quac.E. Wen, 1931.
    33. K V, 1931.
    34. V, 2 tài liệu đều trong tháng 2 năm 1931.
    35. K, 1931.
    36. New Man, 1933.
    37. Li Nốp, 1934.
    38. P C Lin, 8 tài liệu từ tháng 12 năm 1938 đến tháng 7 năm 1939.
    39. X Y Z, 10 tài liệu từ tháng 10 năm 1947 đến tháng 9 năm 1950.
    40. Albert de Pouvourville, 1920.
    41. Phéc-đi-năng (Ferdinand).
    42. Culixe,1 tài liệu ngày 13 tháng 2 năm 1922. (bản gốc tài liệu tiếng Pháp đề: “Culixe” Nguyễn Ái Quốc dịch).
    43. Pôn, 1 tài liệu ngày 27 tháng 2 năm 1930. (hồ sơ khác ghi Paul Thành 1915).
    44. Vichto, 5 tài liệu từ tháng 9 năm 1930 đến tháng 4 năm 1935.
    45. Henri Tchen (Trần). 1922.
    46. Un Annamite. (Một người An Nam), 1924
    47. Liwang, 1927.
    48. Teng Man Huon, 1935.
    49. N A Q. 8 tài liệu viết từ tháng tháng 6 năm 1922 đến tháng 9 năm 1930.
    50. Pôn (Paul), 1930.
    51. Vector Lebm.
    52. Q TH, 14 tài liệu từ tháng 12 năm 1945 đến tháng 10 năm 1946. (hồ sơ khác ghi 1945)
    53. Q T, 10 tài liệu từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946.
    54. T C, 1946.
    55. Đ H, 1946.
    56. A, 1947.
    57. Z, 1947.
    58. H G, 1949.
    59. AG, 7 tài liệu viết từ tháng 6 năm 1947 đến tháng 1 năm 1950.
    60. Đ X, 51 tài liệu viết từ tháng 6 năm 1951 đến tháng 7 năm 1954, (trong chuyên mục “Thường thức chính trị” trên báo Cứu quốc. (hồ sơ khác ghi 1951).
    61. N T, 1951
    62. H B, 1 bài “Có phê bình phải có tự phê bình” – Báo Nhân Dân số 488 ngày 4 tháng 7 năm 1955.
    63. K C, 1957
    64. T, 1958
    65. V K, 1 tài liệu “Kiều bào ta ở Thái Lan luôn hướng về Tổ Quốc” ngày 3 tháng 1 năm 1960. (có nơi 1951).
    66. CK, 9 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1960 đến tháng 3 năm 1960.
    67. K K T, 1960
    68. Ly, 1961
    69. Ch-Kopp (A-la-ba-na). 1963
    70. CS, 1964
    71. LK, 1964
    72. K O, 1965
    73. B.
    74. E Wan.
    75. K K V.
    76.Lonis-Berlin.
    77. Wau you. Bí danh dùng khi ở Hương Cảng.
    78. Loa Roi Ta.
    79. Paul.
    80. Dic-donc (Đi Đông)
    81. H C M. Mật bút viết 8 tài liệu, từ tháng 3 năm 1946 đến tháng 12 năm 1966.
    82. Lý Mỗ (李默), 1925.
    83. Trương Nhược Trừng (张弱惩) 1925.
    84. Vương Sơn Nhi (王山儿), 1925.
    85. Vương (王), tháng 5 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc).
    86. Mộng Liên (梦联), 1926.
    87. Tống Thiệu Tổ (宋绍祖), 1926.
    88. Vương Đạt Nhân (王达人), 1926.
    89. Tiết Nguyệt Lâm (节林月), 1930.
    90. Tống Văn Sơ (宋范初), 1931.
    91. Lâm Tam Xuyên (林三穿), 1939.
    92. Hồ Quang (濠光).
    93. Cúng Sáu Sán (朝六菌). 1941.
    94. Hồng Liên (紅联), 1953.
    95. Thu Sơn(秋山), 1942.
    96. Cheng Vang (郑旺Trịnh Vượng) 1923.
    97. Lucius, 1945.
    98. K T, 1948.
    99. K Đ, 1948.
    100. G, 1949.
    101. T T, 1949.
    102. Shangjian Kang (Thượng Kiện Khang – 尚健康)
    103. Din, 3 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1952 đến tháng 7 năm 1953. (hồ sơ khác ghi 1950).
    104. T L, 80 tài liệu từ tháng 4 nam 1950 đến tháng 6 năm 1969. (hồ sơ khác ghi 1950)
    105. CB,147 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1951 đến tháng 3 tháng 1957 (trên báo Nhân Dân)
    106. H, 1951.
    107. Ph K A, 1959.
    108. Jean Fort, 1960.
    109. V Quac.
    110. LW Vương.
    111. Pan.
    112. S Chon Vang.
    113. Jeng Man Huân. (Trịnh Hoan Vấn 郑欢文) Bí danh nữ tình nhân.
    114 – 115. Tuyết˗Lan, 1935˗1960.
    116. Thanh Lan, 1963.
    117. Ngô Tam, 1963.
    118. Thu Giang, 1959.
    119. Đ L Đ. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Cứu quốc.
    120. T R. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Cứu quốc.
    121. H L. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Nhân dân.
    122. H C. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Nhân dân.
    123. L. Bút danh ký dưới bài viết năm 1959.
    124. Lý Thụy (李瑞). 2 tài liệu từ ngày 18 tháng 12 năm 1924 đến ngày 6 tháng 1 năm 1926. (hồ sơ khác ghi 1925)
    125. Lý An Nam (李安男). 1924-1925
    126. Bình Sơn (平山), 10 tài liệu viết từ tháng 11 năm 1940 đến tháng 12 năm 1940.
    127. La Lập (啦立). Dùng 1 lần tại báo Nhân Dân số 4530 ngày 1 tháng 9 năm 1966.
    128. Vương Bạc Nhược (王白弱). Bí danh dùng khi hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc, năm 1925
    129. Trần Vương (陈王).
    130. Tân Sinh (新生). Dùng 1 lần tháng 1 năm 1948.?
    131. Trầm Lam.
    132. Ai QuaQue (爱过桂).
    133. Lý Tín Tống (李信宋).
    134. Nguyễn Hữu Văn.
    135. Nguyễn Hải Khách
    136. Nguyễn Lai.
    137. Chính.
    138. Tín.
    139. Văn Ba (khi làm phụ bếp trên tàu biển, 1911)
    140. Tất Thành.
    141. Ng.A.Q. Dùng 1 lần ngày 1 tháng 8 năm 1922. (có nơi ghi 1921-1926).
    142. Nguyễn Ái Quốc. Từ năm 1914 đến tháng 8 năm 1942. (có nơi 1919)
    143. Nguyễn.A.Q, 2 tài liệu ngày 14 tháng 10 năm 1921 và ngày 1 tháng 8 năm 1922.
    144. Nguyễn. 2 tài liệu từ tháng 4 năm 1924 đến tháng 8 năm 1928. (hồ sơ khác ghi 1923)
    145. Chú Nguyễn. Dùng 1 lần tháng 3 năm 1923.
    146. Ái Quốc, 1924
    147. N Ái Quốc, 1 tài liệu ngày 16 tháng 12 năm 1927.
    148.Ng. Ái Quốc, 1930
    149. Ông Lai, 1927
    150. Thọ, 1928
    151. Nam Sơn, 1928
    152. Chín (Thầu Chín) 1928.
    153. Ông Lý (李), 1930.
    154. Công Nhân, 1930.
    155. Đông Dương, 1931.
    156. Ông Lu, 1924.
    157. Ông Trần, 1940 .
    158. Già Thu, 1941.
    159. Kim Oanh, 1941.
    160. Bé Con, 1941.
    161. Ông Cụ, 1941.
    162. Hoàng Quốc Tuấn, 1941.
    163. Bác, 1941.
    164. Xung Phong, 1942.
    165. Hồ Chí Minh (胡志明). Từ tháng 8 năm 1942 đến 2 tháng 9 năm 1969.
    166. Hy Sinh, 1942.
    167. Cụ Hoàng, 1945.
    168. CM Hồ, 3 tài liệu viết từ tháng 7 năm 1945 đến tháng 8 năm 1945.
    169. Chiến Thắng, 8 tài liệu viết từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 10 năm 1945.
    170. Ông Ké, 1945.
    171. Hồ Chủ tịch, 1945.
    172. Hồ (胡). 7 tài liệu từ tháng 5 năm 1945 đến tháng 2 năm 1947. (hồ sơ khác ghi 1945)
    173. Trần Thắng Lợi. Dùng 1 lần ngày 18 tháng 1 năm 1949.
    174. Trần Lực, 1949.
    175. Lê Nhân. Dùng 1 lần tại bài “Thất bại và thành công”
    176. Lê Quyết Thắng, 1948.
    177. Xuân, 1946.
    178.Một người Việt Nam. 1946.
    179. Tân Sinh, 1947.
    180. Anh, 1947.
    181. Bác Hồ. Dùng tại 119 tài liệu viết từ 27 tháng 10 năm 1946 đến 21 tháng 7 năm 1969.
    182. Chí Minh, 1950.
    183. Đinh, 1950.
    184. Nguyễn Du Kích, 1951.
    185. Nguyễn Thao Lược, 1954.
    186. Lê. 1954.
    187. Tân Trào, 1954.
    188. Nhân dân, 1951.
    189. Nguyễn Tân, 1957.
    190. Chiến Sĩ. Dùng tại 128 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1945 đến tháng 7 năm 1969. (hồ sơ khác ghi 1958).
    191. Nguyễn Kim. 1963.
    192. Nguyễn Văn Trung, 1963.
    193. Dân Việt, 1964.
    194. Đinh Văn Hảo, 1964.
    195. Nguyên Hảo Studiant (Nguyên Hảo, sinh viên), 1959.
    196. Lê Ba. 1 tài liệu “Trả lời ông Menxphin thượng nghị sĩ Mỹ” ngày 20 tháng 4 năm 1966. (báo Nhân dân số 4407).
    197. Nói Thật, 1966.
    198. Chiến Đấu, 1967.
    199. Việt Hồng, 1968. Nữ gián điêp Vũ Thị Việt Hồng.
    200. Đinh Nhất, 1968.
    201. Trần Lam, 1960.
    202. Một người Việt kiều ở Pháp về, 1960.
    203. Lê Nông, 1964.
    204. Lê Thanh Long, 1963.
    205. Luật sư Th Lam, 1961. Bí danh nữ tình nhân, điệp viên Hoa Nam.
    206. Ông Lý Hồng Công.
    207. Nguyễn Lai.
    208. Trần Lực. Dùng tại 25 tài liệu từ tháng 3 năm 1949 đến tháng 1 năm 1961.
    209.Lan. (Mỹ Lan)
    210. Ông Trần.
    211. Trần.
    212. Nói Thật.
    213. Kỳ Viễn (期远).
    214. Lê Đinh. Ký trong một số bức điện gửi ra nước ngoài.
    215. Diệu Hương. Bút danh ký dưới bài đăng báo Thanh niên, năm 1926
    216. Tân Sinh. Viết cuốn “Đời Sống Mới”, bút danh và tác giả (Hồ Chí Minh). NXB: Uỷ ban Trung ương vận động Đời sống mới. 1947.
    217. T Lan.Viết cuốn “Vừa đi đường vừa kể chuyện” 1961.
    218. Trần Dân Tiên. Tác giả của “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch”. Tự viết đời mình.
    Sưu tầm, tổng hợp, lưu lại để tiện tra cứu
  • Tại sao có chữ “Gái bán hoa”?

    Tại sao có chữ “Gái bán hoa”?

    Vào năm 1920, “đội quân nhà Thổ” chuyên nghiệp từ Nhật Bản kéo sang Saigon hoạt động rất nhiều, mấy cô gái Nhật này chủ yếu phục vụ khách Du lịch từ Châu Âu và được huấn luyện rất kỹ. Tuy không xinh đẹp lắm, nhưng gái Nhật rất biết cách chiều chuộng đàn ông …. !

    Tại sao có chữ "Gái bán hoa" ?
    Gái bán hoa trong tiếng Nhật viết là 売春婦 (đọc là baishunpu) có nghĩa Hán Việt là “Mãi Xuân Phụ”

    Saigon Xưa có câu :
    ” Ăn cơm Tàu…Ở nhà Tây….Lấy vợ Nhật ” là vậy !
    Họ thuê hẳn một khu phố trên đường Rue Des Fleurs (Hải Triều) nối giữa Charner (Nguyễn Huệ) và De La Somme (Hàm Nghi) sau lưng Hotel Cosmopolitan (Cục Hải Quan bây giờ )….. Dân Saigon dùng danh từ ” Gái Bán Hoa ” (vì họ ở khu Đường Hoa ) để gọi những Kiều nữ xứ Phù Tang. Trên đường này còn có những cửa hàng bán hoa giấy, cũng có lẽ được du nhập từ Nhật. Sau 1975 những gia đinh này di tản ra nước ngoài. Nghề làm hoa giấy cũng mai một theo thời cuộc.

    @David Hà

  • Sài Gòn Xưa – Xế điếc

    Sài Gòn Xưa – Xế điếc

    Năm 1940, Dân Saigon còn gọi Xe đạp là xe máy, tuy đã bán ra khá nhiều nhưng không phải ai cũng có thể sở hữu dễ dàng. Nhiều nhà phải dành dụm thời gian dài mới sắm được và phải đi từng bước, mua xe cũ rồi tiến lên mua xe mới. Thời đó trừ một số ít người có xe hơi, ai nấy đi đâu thì cuốc bộ, đi xa thì dùng xe ngựa. Ai sắm được xe máy thì rất sướng, chủ động đến nơi mình muốn, thênh thang trên đường lộ là cảm thấy vui và có chút hãnh diện. Lúc đó còn là chú bé mới hơn mười tuổi, Phú mừng rơn khi bố dắt về chiếc xe đạp kiểu nam mua ở cửa hàng với giá gần 300 đồng bạc Đông Dương. Ngày nào bố không đi đâu, Phú mượn chiếc xe ra tự tập. Chân chưa đủ dài để ngồi trên yên hoặc trên khung đạp được một vòng bàn đạp, Phú luồn chân phải qua dưới ống sườn ngang để chạm bàn đạp phải. Bọn trẻ cùng xóm đứng xem trầm trồ ngó chiếc xe mơ ước đó.
    Xe đạp ở Sài Gòn kể từ thập niên 1940 trở đi không cần phải đăng ký, mang biển số, không phải kê khai lý lịch và cũng không phải mua bảo hiểm. Người ta chỉ cần một tờ hóa đơn giấy mua bán hoặc giấy mua bán viết tay, có chính quyền địa phương thị thực là đủ. Giá cả thì rất phù hợp với túi tiền người dân. Có xe rồi, chỉ cần mua một ổ khóa nho nhỏ kèm sợi dây xích (gọi là khóa “ăn-ti-vôn” – đọc trại từ tiếng Pháp antivol – khóa chống trộm) khóa lại là xong. Thời đó hầu như không có trường hợp bẻ khóa ăn cắp xe,

    Dân Saigon còn gọi Xe đạp là xe máy
    Dân Saigon còn gọi Xe đạp là xe máy

    Đến thập niên 1950 là thời hoàng kim của xe đạp ở Sài Gòn. Số xe đạp được dùng ở thành phố này tăng lên ngày càng nhiều, thầy thợ đều có xe để đi làm các công tư sở. Các trường trung học, trường nữ như Marie Curie, trường nam như Taberd, Chasseloup Laubat hầu như học sinh đều dùng xe đạp làm phương tiện di chuyển đến trường và về nhà.
    Mức độ thông dụng của xe đạp gần như nó là đôi chân của con người. Một người từ tỉnh lên Sài Gòn chỉ cần đạp xe từ nhà ra bến xe đò, mua vé. Lơ xe đứng trên mui xe đón chiếc xe do khách tự đưa lên hoặc do người phụ lơ đưa lên mui. Họ ràng buộc rất chắc chắn, khách vô ghế ngồi. Xe đến Sài Gòn, lơ xe cởi dây thả xe xuống, khách nhận xe đạp đến địa chỉ cần tìm. Chẳng phải đi bộ bước nào. Ai nấy đều thấy quá tiện lợi, thậm chí có xe gắn máy cũng không làm được như vậy vì nặng nề.
    Người dân Sài Gòn từ thầy, thợ, học sinh, đàn ông, đàn bà… hầu như ai cũng biết “cỡi” xe đạp. Tùy hoàn cảnh và địa vị trong xã hội mà người ta sắm những chiếc xe đạp phù hợp. Việc di chuyển bằng xe thổ mộ (xe ngựa) giảm dần, để rồi sau đó hầu như chỉ dành cho tiểu thương vận chuyển hàng từ nhà quê, ngoại thành ra các chợ và trở về khi chợ tan.
    Cùng với sự phát triển xe đạp, sau này xe xích lô trở thành phổ biến. Nhà nào dù giàu hay nghèo cũng phải có ít nhất một chiếc xe đạp, đặc biệt các nữ sinh trung học, hầu như cô nào cũng có một chiếc xe đạp nữ với kiểu dáng thanh thoát.. Để tà áo dài của các cô nữ sinh khi di chuyển không bị dính vô các cây căm (nan hoa) của xe, bánh sau xe đạp nữ có thêm hai mảnh lưới đan nhiều màu sắc rực rỡ, che phủ gần phân nửa bánh sau, khiến chiếc xe nhìn càng duyên dáng.
    Các loại xe đạp thời bấy giờ: kiểu xe chắc chắn, loại phổ thông là xe nam với ghiđông (tay cầm) hình chữ U, hai tay nắm vểnh cao để người điều khiển không phải cong người khi đạp cho xe di chuyển.
    Loại này yên to, có lò xo dưới yên, còn poọc-ba-ga (porte bagage) được làm bằng thanh sắt đặc rất cứng. Hai tay thắng cũng bằng thanh sắt đặc uốn lượn theo ghiđông, song song với cổ xe, xuống đến đầu thắng.
    Xe tuy cổ kính, nặng nề nhưng rất chắc chắn, người Hoa thường dùng loại xe này chở hàng. Có người đồn rằng ống tuýp để hàn sườn xe được hàn bằng ống tuýp nước, vừa rẻ vừa cứng chắc.
    Xe kiểu cách, thời trang thường được nhập từ Pháp như các hiệu Reynold, Royal Stella, Peugeot. Các loại xe mang thương hiệu này là cao cấp nhất.
    Giới thượng lưu chơi xe, thích nhất là sườn xe được làm bằng chất liệu nhẹ, chuộng nhất ở hiệu Reynold, với giá cao. Trong giới đua xe đạp, sườn xe đạp đua được ưa chuộng chỉ có hai loại, nhất là tuýp Reynold, nhì là tuýp hiệu Tube.
    Xe nữ thì thanh tuýp ngang của xe nam được hạ xuống, chéo từ cổ xe xuống gần bàn đạp của trục yên xe. Riêng xe Royal Stella và Peugeot thì thanh chéo này được làm bằng hai thanh tuýp song song, uốn lượn xuống gần trục bánh xe sau….Năm 1960 có giá cỡ 1.000 $
    Các cửa hàng buôn bán xe và phụ tùng ở Sài Gòn nhái theo các kiểu cách xe nhập cảng, hàn khung xe… nhưng do kỹ thuật hàn chưa tốt và chất liệu ống tuýp thường dày hơn xe Pháp, nên trọng lượng xe thường nặng hơn xe nhập cảng cùng kiểu dáng, có khi nặng hơn gấp rưỡi, lại dễ bị đứt mối hàn ở cổ xe, khiến người điều khiển bể mặt, gãy răng là chuyện thường nhật …

  • Tại sao Hà Nội là thủ đô của Việt Nam thay vì Sài Gòn?

    Tại sao Hà Nội là thủ đô của Việt Nam thay vì Sài Gòn?

    Vì lý do chính trị, Hà Nội đủ yếu tố để trở thành thủ đô Việt Nam:

    – Có khoảng cách an toàn tối thiểu 120km từ Hà Nội tới bất kỳ biên giới trên bộ hoặc trên biển nào. Trong thời chiến, địch phải đi một quãng đường dài để tiến vào nội địa => an toàn hơn.

    – Trong thời bình, Hà Nội có địa hình bằng phẳng và có đường cao tốc kết nối tới các tỉnh khác trong cả nước => trở thành bộ não cho cả nước.

    Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố duy nhất có thể cạnh tranh với thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, thành phố này chỉ cách bờ biển vài km, dễ trở thành mục tiêu của tàu chiến. Bên cạnh đó, nước biển dâng khiến thành phố bị ngập nhiều lần trong năm. Kinh tế là thứ duy nhất Thành phố Hồ Chí Minh hơn Hà Nội, nhưng kinh tế không phải yếu tố quan trọng nhất để làm thủ đô.

    Huế có nhiều vấn đề về thời tiết và đất đai dẫn tới cuộc sống không thoải mái. Để cân bằng, vua Gia Long đã dời đô từ Hà Nội về đây.

    Hà Nội trở thành thủ đô của đất nước từ năm 1954. Nếu không có lý do xứng đáng, không nên dời đô tới bất kỳ nơi nào khác.

    Đây là bản đồ bố trí các quân khu của Việt Nam.
    Đây là bản đồ bố trí các quân khu của Việt Nam.

    Trong trường hợp bị xâm lược, kẻ địch cần đánh bại ít nhất 1 quân khu từ bất kỳ hướng nào trước khi đối diện Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Trong khi đó, toàn bộ chính phủ sẽ phải di tản nếu bị tàu sân bay tấn công. Một chỉ huy giỏi sẽ biết đâu là nơi phù hợp làm thủ đô trên phương diện quân sự.

    Bổ sung 1:

    Một số bình luận và câu trả lời nói rằng Hà Nội được chọn đơn giản vì miền Bắc thắng cuộc chiến năm 1975, hay Hà Nội gần Trung Quốc hơn Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi không nghĩ thế vì:

    – Hà Nội được chọn làm thủ đô từ năm 1945, khi chính phủ Trung Quốc ngày nay chưa thành lập, thậm chí Trung Hoa Cộng sản Đảng có thể bị đánh bại bởi Quốc dân Đảng Trung Hoa.

    – Từ góc nhìn của một người Á đông, một quốc gia gắn liền với một chủng tộc. Việt Cộng, lực lượng cộng sản tại miền Nam Việt Nam, chủ yếu là người miền Nam. Trong khi đó, cộng đồng người Công giáo chống cộng mạnh mẽ nhất lại chủ yếu là người miền Bắc.

    Bổ sung 2:

    Tôi đặt ra một câu hỏi để phản biện: Tại sao Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) nên là thủ đô của Việt Nam?

    Hi vọng mọi người đưa ra nhiều ưu điểm để Sài Gòn có thể trở thành thủ đô.

    Nguồn: Quora Việt Nam

  • Những điểm khác nhau thú vị giữa người Mỹ và người Việt

    Những điểm khác nhau thú vị giữa người Mỹ và người Việt

    Người Mỹ lên Sếp thì gầy còn người Việt lên Sếp thì béo là một trong 33 điểm khác nhau thú vị giữa người Mỹ và người Việt.

    Những điểm khác nhau thú vị giữa người Mỹ và người Việt

     

    1. Thư ký của giám đốc người Mỹ thì mang hồ sơ còn thư ký của giám đốc người Việt thì mang son phấn.

    2. Nhà hàng của người Mỹ giới hạn khách uống rượu còn nhà hàng Việt rủ rê khách uống rượu.

    3. Vào buổi trưa người Việt ngủ nhưng người Mỹ thì lại đọc sách.

    4. Người Mỹ ăn sáng xong thì đến công sở làm việc còn người Việt thì đến công sở và sau đó mới đi ăn sáng, cà phê và tán gẫu với nhau.

    5. Người Mỹ muốn xin việc thì đến công sở gặp giám đốc, người Việt để xin được việc thì đến nhà riêng của giám đốc.

    6. Người Mỹ thích ăn ức gà còn người Việt thích đùi gà.

    7. Người Mỹ rất yêu chó còn người Việt thì khác, người Việt yêu thịt chó.

    8. Người Mỹ va chạm nhau trên đường thìxin lỗi nhau còn người Việt va chạm nhau trên đường thì gây gổ đánh nhau.

    9. Người Mỹ đến thăm nhau tặng hoa còn người Việt thăm nhau tặng phong bì.

    10. Người Mỹ xem hồ sơ của người xin việc để quyết định nhận hay không, còn người Việt thì xem hồ sơ của bố người xin việc hoặc xem phong bì không đựng hồ sơ để quyết định nhận hay không nhận .

    11. Ở Mỹ, người Mỹ rất giàu nhưng ít tiền mặt còn người Việt nghèo nhưng lại lắm tiền mặt.

    12. Người Mỹ lên Sếp thì gầy còn người Việt lên Sếp thì béo.

    13. Người Mỹ nhìn thấy đèn đỏ thì tìm cách dừng lại còn người Việt thấy đèn đỏ thì tìm cách vượt qua.

    14. Người Mỹ rủ nhau đi ăn thì chia nhau trả tiền còn người Việt ai rủ thì người đó trả.

    15. Bố mẹ người Việt khi đến thăm con thì ngủ trên giường, bố mẹ người Mỹ đến thăm con thì ngủ trên ghế (nếu không có đủ giường)

    16. Người Mỹ vừa uống cà phê vừa đọc sách còn người Việt thì vừa uống cà phê vừa nhắn tin.

    17. Người Mỹ dùng nhà nghỉ để nghỉ đêm giữa chuyến đi dài, người Việt dùng nhà nghỉ để nghỉ trưa giữa hai buổi làm việc.

    18. Ở Mỹ, Sếp đến thăm nhân viên khi nhân viên đau ốm còn ở Việt Nam, nhân viên đến thăm Sếp khi Sếp được thăng chức.

    19. Người Mỹ dùng điện thoại di động để nói : tôi đang ở chỗ nào còn người Việt dùng điện thoại di động để giấu nơi mình đang ở.

    20. Các ông chồng Mỹ cho vợ vay tiền, các ông chồng Việt Nam nộp tiền cho vợ.

    21. Người Mỹ làm chuồng cho chim về ở, người Việt làm bẫy để bắt chim.

    22. Khi gặp nhau người Mỹ hỏi có khỏe không, người Việt hỏi làm ăn thế nào.

    23. Người Mỹ vay tiền ngân hàng để mua nhà, người Việt vay tiền bạn bè để xây nhà.

    24. Người Mỹ im lặng để nghe người khác nói, người Việt bắt người khác im lặng để nghe mình nói

    25. Ở Mỹ, người đi tìm thùng rác, ở Việt Nam, thùng rác đi tìm người

    26. Người Mỹ ăn rất nhiều ở bữa tối, người Việt lại uống rất nhiều vào bữa tối.

    27. Người Mỹ uống một chai rượu chỉ trong một bữa,người Việt lai rai chai rượu cả ngày.

    28. Người Việt thích bố mẹ già ở nhà mình, người Mỹ thích bố mẹ già ở nhà dưỡng lão.

    29. Người Mỹ trồng cỏ trong vườn, người Việt thì nhổ.

    30. Người Mỹ chặt một cây thì trồng ba cây, người Việt chặt ba cây thì trồng một cây.

    31. Người Mỹ thích cụ thể, người Việt thích chung chung.

    32. Ở Việt Nam dân nịnh lãnh đạo, ở Mỹ lãnh đạo nịnh dân.

    33. Người Mỹ tìm cách được nghỉ hưu, người Việt đến tuổi hưu tìm cách ở lại.

    – st –