Tag: Gia Long

  • Thanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Thanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Thanh kiếm này được trưng bày tại bảo tàng Quân Đội Paris

    Xem thêm bài viết: Bộ sưu tập Kiếm & Đao của các danh tướng Việt Nam https://hinhanhvietnam.com/bo-suu-tap-kiem-dao-cua-cac-danh-tuong-viet-nam/

    Khách du lịch ghé qua Paris không thể không lại viếng Điện Quốc gia Phế binh (Hôtel National des Invalides) có tiếng nhiều nhờ đã chứa mồ của Vua Napoléon. Nhưng chớ nên quên trong tòa nầy còn có Viện Bảo tàng Quân đội (Musée de l’Armée) là một trong những viện lớn nhất thế giới về mỹ thuật, kỹ thuật và lịch sử quân sự. Đặc biệt Phòng Đông Phương, Cận Đông và Viễn Đông từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 (Sale Orient, Proche Orient et Extrême-Orient du 15ème au 19ème siècle) trưng bày nhiều khí giới Ba Tư, Ấn Độ, Tích Lan,…những thanh gươm Trung Quốc, Nhật Bản… bao quanh một thanh bảo kiếm được ghi là của vua Gia Long.

    Thanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Thanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Tôi không phải là người độc nhất tò mò đi tìm xem thanh gươm nầy. Nhưng tôi lại đã xin được ông Quản đốc Viện Bảo tàng mở tủ cho tôi chụp hình. Không biết bao giờ mới có dịp may như thế nầy, tôi đã chụp ngang, chụp dọc, chụp trên, chụp dưới,… Thanh kiếm gồm có hai phần: một lưỡi dài khoảng một thước và một cán ngắn bằng một phần năm lưỡi. Đầu cán là một đầu rồng, có thể đầu một con giao hay một con cù không sừng, bằng vàng chạm trổ. Có người Pháp cho nó giống một đầu con chó (Note E)(4). Cổ rồng nối liền đầu rồng và đốc kiếm (garde) làm thành đốc gươm (fusée) là một dãy bảy vòng ngọc thạch giống bảy đốt tre dính liền với nhau qua những đường gân bằng vàng với đằng cuối một vòng mạ vàng nằm giữa bốn chuỗi san hô xanh đỏ. Miệng rồng nhả ra một băng mạ vàng cũng mang phía ngoài bốn chuỗi san hô xanh đỏ uốn quanh về đốc kiếm làm thành cánh đốc kiếm (quillon). Ở đằng cuối, cánh đốc kiếm nầy mở rộng ra quanh lưỡi kiếm, có chạm trổ những hình lá và nạm những hột kim cương. Lưỡi kiếm hình hơi cong là một thanh thép sáng ngời, khắc ở phần trên một mặt trời nằm giữa mấy cuộn mây và tên gươm bằng ba chữ Hán: Thái A Kiếm. Tên nầy không phải ngẫu nhiên mà có.

    Trong hai cuốn Từ điển từ ngữ điển cố văn họcTừ ngữ văn Nôm1 có sự tích nầy: “Lúc nhà Tần chưa diệt được Ngô, Trương Hoa xem thiên văn thường thấy giữa sao Đẩu và sao Ngưu có luồng khí màu đỏ tía, các đao thuật đều nói đó là điềm báo nước Ngô đang buổi cường thịnh, chưa đánh được. Riêng Trương Hoa cho lời nói đó không đúng. Đến khi đánh lấy được Ngô rồi, luồng khí lại mạnh và sáng hơn. Trương Hoa mới đem chuyện hỏi Lôi Hoán, người giỏi về thiên văn thuật số. Lôi Hoán cùng Trương Hoa lên lầu cao quan sát một hồi lâu. Lôi Hoán nói: ‘Chỉ giữa sao Đẩu và sao Ngưu là có luồng khí lạ đó. Ấy là cái tinh của bảo kiếm ở Phong Thành xông lên tận trời đấy’. Trương Hoa nói: “Quả vậy, nay tôi muốn phiền anh ra làm quan lệnh ở đất ấy rồi ra công tìm gươm báu cho”. Lôi Hoán nhận lời. Ông đến Phong Thành, cho đào nền nhà ngục, thì tìm ra được một cái hòm đá nằm sâu dưới lòng đất hơn bốn trượng. Khi sáng lóe ra, bên trong có hai thanh gươm, một thanh có khắc chữ ‘Long Tuyền’, và một thanh khắc chữ ‘Thái A’. Đêm hôm đó không thấy luồng khí lạ ở giữa sao Đẩu và sao Ngưu nữa”.

    Kinh luân đã tỏ tài cao,

    Thớ co rễ quánh thủ dao Long Tuyền.

    Nguyên quán hai thanh kiếm trống Long Tuyền và mái Thái A nầy trong Tể tướngkiếm, trước mang tên Can Tương và Mạc Da trong Nguyên nhân kiếm được giải thích trong cuốn Thành ngữ điển tích từ điển2: “Ngô Hạp Lư đời Đông Châu giết anh lên ngôi, khiến Can Tương là một tên thợ rèn gươm có tiếng, rèn riêng cho mình một lưỡi gươm. Can Trương tìm sắt tốt vàng ròng, rồi lựa ba trăm con gái còn tơ đốt than nung lò ba tháng mà vàng không chảy. Vợ Can Tương là nàng Mạc Da nói, rèn cái gì mà không hóa thì cần phải có người để cúng mới nên. Mạc Da mới tắm gội sạch sẽ, cắt tóc nhổ răng, khiến người quạt lửa cho đỏ rối gieo mình vào lò than. Vàng sắt đều chảy. Can Tương lấy đó rèn hai lưỡi gươm, một lưỡi thuộc dương đặt tên là Can Tương, một lưỡi thuộc âm đặt tên là Mạc Da. Rồi can Tương đem lưỡi Mạc Da dâng cho Hạp Lư, còn lưỡi Can Tương thì dấu để lại cho mình. Hạp Lư biết được giận lắm, sai người qua đoạt. Can Tương lấy gươm liệng lên hóa rồng cỡi đi mất”. Sáu trăm năm sau, tới triều Tấn, tiếp theo là câu chuyện Lôi Hoán, Trương Hoa đã thấy ở trên. Thì ra Thái A Kiếm là lấy từ sự tích bên Tàu.

    Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,

    Dứt tình phó lưỡi Thái A cho nàng.

    Trong một bức thư viết cho ông Carnot năm 1922 để trả lời một câu hỏi của ông André Salles, Thanh tra Thuộc địa, ông Đại tá Payard, Phó Giám đốc Điện Quốc gia Phế binh tả lưỡi kiếm chỉ có một rãnh khoét (gorge d’évidement) (Note E)3, thành thử có tác giả, trong một thiên khảo cứu tìm tòi4, xác định thanh kiếm nầy là một sản phẩm Âu châu, chỉ có gắn vào một đốc kiếm Á châu thực hiện tại chỗ. Tuy nhiên, ở Viện Bảo tàng Quân đội Paris, bảo kiếm nầy được trình bày là thanh gươm của vua Gia Long. Thật hay không, cần phải có một bằng chứng, chẳng hạn một cái ảnh vua Gia Long mang kiếm hay một văn bản xác định thanh kiếm Thái A chính là của vua Gia Long. Ví như thật là của vua Gia Long thì ai đã đem biếu tặng kiếm cho vị quốc vương Việt Nam và trong điều kiện nào kiếm được đem về trưng bày trong tủ kính Viện nầy? Ông Quản đốc viện không có một tài liệu nào để giải thích sự kiện nếu không là một bản tin vắn tắt cho biết thanh kiếm được đem từ An Nam về sau cuộc viễn chinh đầu tiên (Note B).5 Nếu khó lòng biết được lúc nào kiếm đã đến với vị vua nhà Nguyễn, có thể đoán biết làm sao kiếm đã rời khỏi hoàng thành. Thanh nầy khác hẳn thanh kiếm vua Khải Định sau nầy hay đeo như thấy trong ảnh. Nó cũng không thể là thanh kiếm vua Hàm Nghi đã mang theo với chiếc ấn khi cùng triều thần xuất bôn, khởi hịch Cần Vương sau đêm kinh đô thất thủ vì một cặp kiếm cùng các bảo vật đã được phát hiện gần đây ở thôn Phú Hòa, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh6 đồng thời một thanh gươm khác “dùng để chém những dân phu chôn vàng” rỉ, mục, nhặt được bên cạnh một gốc cây tươi trên đồi Yên Ngựa ở vùng Mả Cú thuộc xóm Rôồng, thôn Đặng Hóa, xã Hóa Sơn.7 Ta không thể tưởng tượng một ông vua nào hay một vị đại thần nào đã đem dâng biếu cho một người ngoại quốc thanh kiếm của nhà vua, “một bảo vật lịch sử và tượng trưng quan hệ đến hạnh phúc và sự bảo tồn dân tộc” như vua Đồng Khánh đã nói với nhà văn Jules Boissière năm 1888 khi tiếp kiến ông nầy ở Huế và tỏ ý được hoàn lại (Note F).8 Nếu kiếm rơi vào tay người Pháp thì có thể là vì họ đã tự tiện đoạt lấy, đặc biệt vào lúc tình hình rối ben, không còn trật tự chẳng hạn vào lúc biến cố Ất Dậu 05/7/1885.

    Bộ Lại cho đến bộ Binh,

    Phố phường hai dãy nép mình cháy tan.

    Bao nhiêu của cải bạc vàng,

    Nửa thì nó lấy, nửa đốt tàn thành tro…

    (Vè Thất thủ kinh đô)

    Còn có câu hỏi tại sao vua Hàm Nghi khi xuất bôn không đem thanh kiếm nầy theo cùng với cặp kiếm của ông, trừ phi kiếm đã bị cướp mất trước hay trong thời gian biến cố. Dù sao, cướp bóc thời chinh chiến là chuyện thường thấy ở nhiều nơi, huống hồ quan quân thuộc địa còn làm những việc tầy trời như tháng giêng 1913, dưới triều vua Duy Tân, viên Khâm sứ Georges Mahé dám cho đào lăng vua Tự Đức để chiếm lấy những bảo vật, một điều điếm nhục đã gây nhiều phẫn nộ trong dân chúng cùng triều đình Việt Nam và cũng không ít tai tiếng trong giới bảo hộ đến nỗi sau đó thủ phạm bị triệu hồi về nước. Xin nhắc lại, cướp kiếm chỉ là một giả thuyết, đến nay chưa có một tài liệu nào chứng xác sự kiện. Sự can thiệp của J. Boissière không thấy có kết quả vì thanh kiếm luôn còn nằm ở Viện Bảo tàng Quân đội Paris. Và ở đây lại xảy ra một sự kiện khác cũng có phần lý thú.

    Ngày 03/10/1913, tờ báo Journal (Note A)9, đăng một tin nhỏ: Hôm qua, thứ năm là ngày Viện Bảo tàng mở cửa, lúc bốn giờ, sau lúc viện đóng cửa, những người canh giữ khám phá một tủ kính bị phá vỡ và đã bị mất cắp một thanh gươm An Nam, bao gươm và vòng đai. Những bảo vật nầy mạ vàng, nạm đá, ngọc, có một giá trị lớn. Cuộc điều tra chẳng đem lại kết quả gì. Những dấu in trên kính đã được ghi lại nhưng khách rất đông, phần lớn là người nước ngoài. Tủ kính đã được khôn khéo mở ra với những dụng cụ cắt thép tí hon. Ngày hôm sau, 04.10.1913, tờ báo Temps (Note B)10 cũng cho đăng tải một tin tương tự với chi tiết bao gươm bằng da nạm kim hoàn và cặp móc chạm trổ dát một viên đá quý lớn. Sau khi đọc tin nầy, lập tức ông André Salles, Thanh tra Thuộc địa, viết thư cho Trung tướng Niox, Giám đốc Viện Bảo tàng, Tư lệnh Tòa Quốc gia Phế binh, người có nhiệm vụ thực hiện cuộc điều tra với ông Guérin, để tố cáo những nhà cách mạng An Nam. Lời buộc tội nầy không có một bằng chứng nào, có thể chỉ phát xuất từ thái độ hiềm khích của ông André Salles đối với những chí sĩ Việt Nam. Ông Niox cũng không tin và cho biết thêm thanh gươm không bị mất cắp, chỉ cái bao gươm thôi (Note C).11 Theo Đại tá Payard, bao gươm không phải bằng vàng mà mạ vàng, hai vòng ngoài (chape) và đường viền đồng (bouterolle) đều nạm đá cả hai mặt. Móc vòng đai (crochet de ceinture) và khâu treo (bélière) bằng lụa và vàng nạm ngọc san hô, vòng đai bằng lụa và vàng cũng bị mất cắp cùng bao gươm (Note E).12 Cần giải thích thêm chăng bao gươm và đai gươm mềm, dễ xếp vào túi hơn thanh gươm dài cứng…

    Theo hai học giả quan tâm đến những bảo vật của hoàng gia thì vua Gia Long còn có một thanh gươm khác mang tên Thanh gươm quy y. “Thanh gươm này nguyên là bửu kiếm của tiên triều, thường dùng để chém đầu giặc, những kẻ phản quốc… Một điều lạ là nếu ngày mai có người bị giết thì đêm ấy gươm đã thoát ra khỏi bao. Vua Gia Long thấy thanh kiếm ưa giết người nên đem dâng cửa Phật và mới gọi là Thanh gươm quy y (Quốc triều chánh biên)”.13 Có lẽ là tình cờ, hai cái gươm của vua Gia Long đều có sự tích với cái bao: Thanh kiếm Thái A không còn bao nữa, còn Thanh gươm quy y tự thoát ra bao, bây giờ ở đâu? May ra, ví chi được trưng bày trước những cặp mắt dửng dưng của người ngoại quốc, nó được kín đáo thờ phụng như cặp kiếm của vua Hàm Nghi ở thôn Phú Hòa: “Một mái nhà tranh. Một tấm lòng thành. Một bảo tàng lòng dân. Một ngôi làng sơn cước cũng làm nên một cõi sống đẹp như huyền sử khi con người không quên quá khứ”.14

    Xô thành tiết đại thử 2007

    V.Q.Y.

    Tài liệu tham khảo

    1 Nguyễn Thanh Giang, Lữ Huy Nguyên, Từ điển từ ngữ điển cố văn học, (Hà Nội: Văn học, 1989), 569; Nguyễn Thanh Giang, Từ ngữ văn Nôm, TPHCN: Khoa học xã hội, 1998: 673.

    2 Diên Hương, Thành ngữ điển tích từ điển, (Đồng Tháp: Đồng Tháp, 1992), 117-118.

    3, 5, 8, 9, 10, 11, 12 L. Cadière, H. Cosserat, “Documents A. Salles”, Bulletin des Amis du Vieux Hué, 4 (1933), 295-301.

    4 Dominique Rolland, “Le sabre de l’Empereur Gia Long”, Bulletin de la Nouvelle Association des Amis du Vieux Hué, 9/2005, 3-17.

    6, 14 Văn Cầm Hải, “Gặp kiếm báu và voi vàng của vua Hàm Nghi”, www.tuoitre.com.vn, 10/02/2007.

    7 Nguyễn Quang Trung Tiến, “Theo dấu chân vàng của vua Hàm Nghi”, Huế Xưa Nay, 80 (3-4)/2007. 30-39.

    13 Bửu Diên, Hoàng Anh, “Thanh gươm của vua Gia Long, vị vua đầu tiên của triều Nguyễn”,  Nghiên cứu và Phát triển, 4 (34)/2001, 55-9.

  • Ảnh thật của các vị vua chúa Việt Nam thời nhà Nguyễn

    Bạn muốn biết diện mạo thực sự của các vua chúa Việt Nam  thời nhà Nguyễn ra làm sao không?

    Bộ sưu tập gồm các bức ảnh chụp, duy chỉ có chân dung của vua Gia Long và Hoàng tử Cảnh là tranh vẽ truyền thần.

    Vua Gia Long, người thành lập Triều đại nhà Nguyễn (1802-1820):

    Hoàng tử Cảnh (hình vẽ bên Pháp bởi họa sĩ Maupérin vào năm 1787)

    Vua Minh Mạng (1820-1840)

    Di ảnh vua Hàm Nghi

    Vua Đồng Khánh (1885-1889)

    Còn đây là một số hình ảnh sinh hoạt xã hội dưới các triều đại nhà Nguyễn…

     

    Ấn của vua Minh Mạng



    Lăng vua Minh Mạng ở Huế

    3.Vua Tự Ðức (1847-1883)

    Các bà vợ vua Tự Ðức sống đến đầu thế kỷ thứ 20 :

    4. Vua Hàm Nghi (1884-1885)

    Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)

    Dân chúng chờ đợi xe đám cưới

    Ngôi mộ của vua Hàm Nghi ở làng Thonac (France)

    5.Vua Ðồng Khánh (1885-1889)

    6. Vua Thành Thái (1889-1907)

    Từ trái sang phải, 3 hoàng tử: Bửu Lũy, Bửu Trang và Bửu Liêm.
    Các em của Vua Thành Thái (1891)

    Hai người vợ của vua Thành Thái

    Các anh em của vua Thành Thái và các ông thầy (phụ đạo)

    Vua Thành Thái trong triều phục

    Hình ảnh Việt Nam sưu tầm từ ddth.vn

  • Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

    Đã hơn 200 năm trôi qua nhưng cuộc chiến chống tà đạo, trừ dẹp nạn mê tín trong dân gian của hoàng đế Gia Long và sau đó là người kế nghiệp, hoàng đế Minh Mạng, vẫn còn đẫm tính thời sự!

    Chúa Nguyễn Ánh bình định được nhà Tây Sơn và lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long  năm 1802. Thời bấy giờ, nạn mê tín dị đoan trong dân chúng gần như là quốc nạn, các đạo sĩ với những tà thuật ghê rợn tung hoành. Tin theo các đạo sĩ, thầy địa lý, nhiều phàm dân có tục “rửa  gân”, “nghiệm gân” bằng cách đào lấy hài cốt cha mẹ, bậc tôn trưởng để chiêm nghiệm việc tốt xấu. Không những thế, vì mê tín dị đoan mà người ta còn quật mồ để hủy hoại vất bỏ xác chết, gọt đầu, làm thương tổn đến tử thi, trộm quần áo của xác chết…

    Luật hình – nhân mạng (quyển 196) trong Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ đề cập rất rõ tệ mê tín dị đoan trong dân chúng thời bấy giờ. Không chỉ quật mồ người  thân  chiêu hồn xem điềm tốt xấu, còn có tình trạng những kẻ ngu muội, u mê giết người lấy nội tạng luyện bùa thuốc. Hình luật dành cho tội phạm dạng này, có đoạn: “Phàm những người lấy tai mắt, tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra làm bùa thuốc, nếu có người thân thuộc tố giác ra, hoặc bắt giải nộp quan, thì nếu đã hành động rồi, kẻ thủ phạm vẫn không được tha tội”.

    Luật hình – nhân mạng thời bấy giờ còn có tội danh khá lạ kỳ: làm ra hay nuôi chứa loài sâu có độc để giết người.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Hoàng đế Gia Long trên một tạp chí của Pháp.

    Loài sâu độc mà ai đó nuôi để giết người là sâu gì, cách nuôi ra sao, Luật hình-nhân mạng cũng như các thư tịch cổ triều Nguyễn còn để lại không nói rõ. Nạn trấn yểm, dùng bùa chú để hại chết người cũng nằm trong phạm vi cấm đoán của triều đình Gia Long: “Nếu kẻ nào khắc vẽ hình người để yểm phản, làm phù chú nguyền rủa, muốn làm chết người khác (kể cả người thường, con cháu,  nô tỳ, người ở đợ, bậc tôn trưởng, hạng dưới, ít tuổi) đều khép vào tội mưu giết người (đã hành động nhưng chưa làm cho bị thương) mà trị tội. Vì thế mà đến nỗi chết người, đều chiếu luật “mưu giết người”, mà trị tội. Nếu chỉ muốn làm cho người ta bị tật bệnh khốn khổ thì được giảm kém tội mưu giết người đã hành động rồi, nhưng chưa làm cho bị thương 2 bậc”.

    Hoàng đế Gia Long đã nhìn ra nguồn gốc của sự ngu muội trong dân chúng với các hình thái quật mồ chiêu hồn, nuôi sâu độc giết người, yểm phản làm phù chú, rồi nạn cầu đảo, giải hạn, trừ tà… xuất phát từ những kẻ làm nghề phù thủy, đồng cốt, thầy cúng, phường đồng cốt.

    Hoàng đế Gia Long khẳng định trước triều thần rằng, những kẻ thầy bà đã lợi dụng sự ngu muội trong dân chúng làm trò ma mị, đục khoét, gây thanh thế nên cần phải nghiêm trị: “Những thuật cầu đảo, sám hối, giải ách đều là vô ích cả. Đời xưa kẻ đồng cốt, bói toán khinh nhờn thần thánh, họ Cao Tân (họ của vua Đế Cốc ngày xưa) chỉ cúng tế vị thần chính đáng, bọn tà đạo làm mê hoặc dân chúng, chế độ của vương giả giết đi, đều là trừ khử sự mê hoặc, bỏ thuyết gian tà, để cho tục dân hết thảy theo về chính đạo. Như Tây Môn Báo ném người đàn bà làm đồng cốt xuống sông, Địch Nhân Kiệt phá bỏ đền dâm thần, đều có định kiến cả”.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Quan tòa kết tội và thi hành án một phạm nhân.

    Tây Môn Báo mà hoàng đế Gia Long nhắc đến, là người nước Ngụy, làm quan ở quận Nghiệp thời Chiến quốc (Trung Quốc). Cổ sử ghi dân chúng thời bấy giờ vì bị phường đồng cốt làm cho u mê hằng năm góp tiền làm lễ chọn một người con gái tế sống, quăng xuống sông gọi là cưới vợ cho Hà Bá để tránh bị quấy nhiễu. Bọn cường hào ác bá nhân đó lợi dụng làm tiền, khiến nhân dân khốn khổ. Tây Môn Báo biết chuyệt đã cho bắt hết phường đồng cốt quăng xuống sông, trừ được mối tệ cho dân.

    Còn Địch Nhân Kiệt làm quan thời Đường (Trung Quốc). Lúc còn làm tuần phủ Hoa Nam và thứ sử Dự Châu, thấy dân trong hạt thờ những Dâm thần vốn dĩ là những “thần bậy bạ không đáng thờ”, ông đã cho phá hết những đền thờ dâm thần trong hạt!

    Trong bản Dụ vào năm 1804 (năm Gia Long thứ 3), hoàng đế Gia Long nhìn nhận thực trạng “dân chúng tin theo quỷ thần, mê muội đã quá, hơi một tí cũng đi mời thầy vẽ bùa, đọc chú, ninh hầu kẻ đồng cốt”.

    Vị vua lập nên triều Nguyễn, khẳng định: “Kẻ có tà thuật đều giả trá, lừa dối cho người nghe sinh biến đổi rối loạn trong lòng, vẽ bùa, viết khoán, nhờ pháp thuật để sinh nhai; chuộc mạng, chiêu hồn, lấy con bệnh làm của báu. Thậm chí có kẻ phù đồng ấp bóng, bịa ra lời nói của thần, kiêng ăn, cấm thuốc, kẻ đau ốm không thể cứu lại được. Lại có những thuật làm người bằng giấy, làm ngựa bằng cỏ, ném gạch đá vào nhà, đốt cháy nhà cửa, cùng những bùa thuốc làm mê hoặc, đã lấy pháp thuật để quấy nhiễu người lại đến tận nhà để xin chữa, lừa dối trăm cách, thực là mối hại lớn của nhân dân”.

    Xác định phường thầy bà đồng cốt là mối hại lớn của nhân dân, để an dân, triều đình Gia Long cấm ngặt những kẻ hành nghề phù thủy, làm đồng cốt. Không những thế, theo lệnh vua, bộ Hình định rõ tội danh và trừng trị thẳng tay những kẻ can phạm. Nhẹ thì đánh đòn, bắt làm phu dịch, bắt đi giã gạo, lưu đày xa xứ, nặng thì phạt tội trảm (chém), giảo (thắt cổ)…

    Điều luật Cấm chỉ các bọn thầy cúng, đồng cốt và tà thuật  (Luật lễ – nói về tế tự, quyển 186) đề cập chi tiết các hình phạt dành cho phường đồng cốt, thầy cúng, tăng đạo cả gan vi phạm cấm lệnh bài trừ tệ nạn mê tín trong nhân dân.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Hơn 200 năm trước, hoàng đế Gia Long xem nạn cầu đảo, giải hạn… là tệ mê tín dị đoan. 200 năm sau, hậu thế vẫn có lắm kẻ ngu muội!

    Theo đó hình phạt giảo giam hậu (giam chờ ngày treo cổ) sẽ được áp dụng với những thầy cúng, đồng cốt giả làm tờ thần giáng xuống, vẽ bùa đọc chú vào bát nước hầu giá lên đồng tự xưng là Đoan Công, Thái Bảo, sư bà…, cùng xưng càn là Phật Di lặc, các hội Bạch Liên xã, Minh Tôn Giáo, Bạch Vân Tôn. Theo điều luật này, kẻ tòng phạm sẽ bị phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm. Nếu là quân, dân đóng giả thần tượng, gõ thanh la, đánh trống, đón thần mở hội, phạt 100 trượng (chỉ bắt tội kẻ đứng đầu). Lý trưởng biết không tố cáo,  phạt xuy 40 roi.

    Phạt xuy nghĩa là lý trưởng sẽ bị nọc ra đánh đòn, vừa bị đánh vừa bị răn cho biết nhục. Roi phạt xuy lý trưởng là sợi mây nhỏ, riêng tội phạt trượng thì dùng sợi mây to vừa. Và “lưu 3.000 dặm” nghĩa là can phạm sẽ bị đưa đi an trí nơi phương xa đến 3.000 dặm, suốt đời không được trở về bản quán. Với đàn bà phạm tội làm đồng cốt, hình phạt sẵn dành là “phạt xuy 100 roi, bắt đi giã gạo 6 tháng”.

    Luật hình định danh tội “Đào mả người khác” với hình phạt dành cho kẻ đào mồ chưa đến quan quách “phạt 100 trượng, đày 3 năm”, đào đến quan quách “phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm”, nếu đã mở quan quách thấy xác người sẽ bị “tội giảo giam hậu” (giam chờ ngày treo cổ). Luật cũng ghi rõ hình phạt lăng trì (xẻo thịt cho đến chết) với những kẻ lấy tai mắt, tạng phủ của người sống làm thuốc. Vợ con kẻ can phạm cùng người nhà tuy không biết chuyện cũng bị xử vạ lây, bị xử lưu 2.000 dặm  (cho đi ở cách nơi ở cũ 2.000 dặm).

    Nhận định của thiên tử về tội ác này: “Tội lấy tai mắt tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra, tội này cũng giống như tội mổ xẻ thân thể người. Nhưng tội mổ xẻ thân thể người, chỉ muốn giết chết người ấy thôi, còn tội này thì giết chết người ấy làm bùa thuốc để mê hoặc người khác, cho nên tội lại nặng hơn”. Với góc nhìn ấy, hình phạt dành cho thủ phạm nếu hành động nhưng chưa làm bị thương nạn nhân  cũng là “xử trảm”, vợ con bị “xử lưu 2.000 dặm”, kẻ tòng phạm (có giúp sức) thì xử phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm!

    Với những kẻ “làm ra hay nuôi chứa loài sâu có chất độc để giết người”, nếu bị phát giác, can phạm sẽ bị xử trảm (chém đầu), vợ con và người ở chung nhà tuy không biết chuyện cũng bị xử lưu 2.000 dặm. Trong trường hợp kẻ phạm tội lấy chất độc của loài sâu  độc đánh thuốc độc người ở chung nhà mà người thân không hay biết, thì được miễn tội xử lưu. Luật ghi: “nếu có biết chuyện, tuy là người của bên bị đánh thuốc độc vẫn phải tội lây”.

    Kẻ khắc vẽ hình người để yểm phản, làm phú chú nguyền rủa muốn làm chết người khác, sẽ bị khép vào tội mưu giết người, tội này theo luật hình thời bấy giờ là trảm!

    Những hình thức xử phạt kể trên cho thấy hoàng đế Gia Long rất nghiêm khắc và quyết tâm trong việc trừ dẹp tệ mê tín dị đoan trong nhân dân. Năm 1820, sau 18 năm trị vì thiên hạ, hoàng đế Gia Long băng hà, kế tục sự nghiệp của vua cha, hoàng đế Minh Mạng (1791-1841) cũng dốc lòng dốc sức tuyên chiến với tệ mê tín dị đoan nói chung, nạn thầy bà giở những thuật quái gở nói riêng. Thời trị vì của hoàng đế Minh Mạng, đã có không ít “thầy bà” hay những kẻ ngu muội bị đánh đòn và xử tử.

    Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), Trần Đăng Luật ở  xã Phan Xá (huyện Phong Lộc, phủ Quảng Ninh) đến triều đường kêu dâng các giấy tờ biên chép lời sấm của người cha quá cố là Trần Đăng Triều gọi là “Thái Bình sách”. Việc đến tai vua Minh Mạng, theo luật Trần Đăng Luật sẽ bị xử tử, nhưng xét thấy Luật là “dân mọn, ngu tối không biết gì, tưởng lầm vật quý của nhà đem mê hoặc dân chúng” nên vị vua thứ 2 của triều Nguyễn ban đặc ân, cho khoan giảm tội, phạt 100 trượng, rồi giao về cho địa phương quản thúc nghiêm ngặt!

    Không được may mắn như Trần Đăng Luật, 10 năm sau (1837- năm Minh Mạng thứ 18), có 3 can phạm đã phải trả giá bằng mạng sống khi vi phạm tội danh được định khung của bộ Hình thời bấy giờ là “Làm ra sách và lời nói quái đản”: “Tên Dao là người thổ ở Trấn Tây, nói dối có phép thuật quái gở, làm cờ ngụy, bọn tên Nguyên, tên Ban cùng nhau tuyên truyền,  mê hoặc người đem sang đất giặc, 3 tên ấy đều xử tội trảm  đem thi hành ngay”…

    Hoàng đế Minh Mạng cũng có chính sách phạt nặng với quan chức địa phương mà cụ thể là lý trưởng, nếu “biết mà không cáo giác ra thì xử phạt 100 trượng”. Và để khuyến khích dân chúng góp sức cùng triều đình chống tệ nạn trên, những người cáo giác bắt được kẻ vi phạm các cấm lệnh sẽ được hậu thưởng đến 20 lạng bạc. Tiền thưởng ấy được trích từ tài sản của kẻ phạm tội. Trường hợp quan binh phát hiện vụ việc và thực thi việc bắt giữ, cũng được thưởng số tiền là 10 lạng bạc trích từ tài sản của can phạm!

    Ngày nay, nạn mê tín dị đoan vẫn phổ biến với đủ hình thức ngu muội, buôn thần bán thánh… tồn tại như một thứ dịch bệnh khó loại trừ. Xem ra, kinh nghiệm xử phạt thật nặng, và trọng thưởng cho người tố giác trích từ tài sản của kẻ phạm tội, mà hoàng đế triều Nguyễn áp dụng, chính là chìa khóa vàng để triệt dẹp thói tệ này!

    Nguồn: N.T.Dũng (An ninh thế giới)

  • Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Năm 1805, vua Gia Long lệnh phá bỏ thành cũ, xây lại thành mới nhỏ hẹp hơn rất nhiều so với Hoàng thành các thời vua trước vì cho rằng đây chỉ còn là Trấn Bắc thành.

    Thành hình vuông mỗi bề chừng một cây số xung quanh là hào nước sâu. Tường thành xây bằng gạch hộp, chân thành xây bằng đá xanh. Bốn bức tường thành tương ứng với bốn con phố hiện nay là: phố Phan Đình Phùng ở phía Bắc, phố Lý Nam Đế ở phía Đông, phố Trần Phú ở phía Nam, đường Hùng Vương ở phía Tây. Ở trong, giữa hai phố Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương là khu vực Hành cung.

    Thành mở ra 5 cửa: cửa Đông (ứng với phố Cửa Đông), cửa Tây (ứng với phố Bắc Sơn), cửa Bắc (nay vẫn còn), cửa Tây Nam, cửa Đông Nam (tương ứng với đoạn giao phố Điện Biên Phủ và Nguyễn Thái Học).

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Năm cửa thành thể hiện rõ trên bản đồ Hà nội đầu thế kỉ 19

    Trong thành có nhà Kính Thiên. Phía đông thành là nhiệm sở của Tổng trấn Bắc thành. Phía tây là kho thóc, kho tiền, và dinh bố chính là viên quan phụ trách những kho ấy.

    Năm 1812 dựng Cột cờ Hà Nội ở phía nam thành. Trước cột cờ là Hồ Voi, nơi đặt dinh tổng trấn và các Tào thay mặt các Bộ. Có kho, võ miếu, đàn Xã tắc để tế trời đất, nền Tịch điền để làm lễ động thổ hàng năm. Có nhà ngục và nơi pháp trường gọi là Trường hình. Mỗi cửa thành đều có lính đóng, ngoài cửa Nam có Đình Ngang Cấm Chỉ.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Kì Đài và Đoan Môn – phần phía Nam của Hành Cung – nhìn từ phía đường Lý Nam Đế ngày nay

    Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính lớn Minh Mạng đã cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Năm 1835, vì cho rằng thành Hà Nội cao hơn kinh thành Huế, Minh Mạng cho xén bớt 1 thước 8 tấc, thành Hà Nội chỉ còn cao chừng 5m.

    Năm 1848, vua Tự Đức cho tháo dỡ hết những cung điện còn lại ở Hà Nội chuyển vào Huế.Cái tên này tồn tại cho đến năm 1888 khi nhà Nguyễn chính thức nhượng hẳn Hà Nội cho Pháp.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Hà Nội 1885Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Một góc thành Hà nội – ảnh của Hocquard chụp khoảng 1884 -1885

    Người Pháp đổi Hà Nội thành thành phố. Đến khi chiếm xong toàn Đông Dương họ lại chọn đây là thủ đô của Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp. Thành Hà Nội bị phá đi hoàn toàn để lấy đất làm công sở và trại lính cho người Pháp. Kì Đài, Đoan Môn, nền điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn còn lại đến nay chỉ vì chúng được người Pháp dùng cho mục đích quân sự.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Một bức ảnh hiếm chụp phía trước Đoan Môn thời kì người Pháp phá thành Hà nội.

    Và từ đây bắt đầu một công cuộc xây dựng và phát triển Hà nội với tham vọng dựng “một Paris thu nhỏ trong lòng Đông Dương” để thoả nỗi nhớ của người xa xứ. Công cuộc này kéo dài tới đầu những năm 40 của thế kỉ XX.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Bắc Môn

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Bắc Môn thời Nguyễn (xây trên nền Cửa Bắc thời Lê) hoàn thành năm 1805, cũng như Đoan Môn kiến trúc Bắc Môn có dạng vọng lâu: Phần thành ở dưới và phần lầu ở trên.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Ảnh thành Cửa Bắc của bác sĩ Hocquard chụp khoảng 1884 -1885. Đã có dấu đạn của pháo thuyền Pháp bắn vào thành năm 1882. Xung quanh thành là một hào nước rộng với một cây cầu dẫn vào cổng thành.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Một bức nữa của bác sĩ Hocquard chụp từ phía trong thành, nơi đã đầy lính Pháp

    Sau khi chiếm thành Hà nội Pháp cho đập phá san bằng thành trì, chỉ để lại Cột Cờ, điện Kính Thiên, cung Hậu Lâu, thành Cửa Bắc.Vọng lâu trong bức ảnh này đã bị phá.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Mặt ngoài cổng thành bị bịt kín, ba chữ Chính Bắc Môn trên cổng thành không còn, trên mặt thành là đài quan sát của lính Pháp. Con đường rợp bóng cây hai bên là đường Phan Đình Phùng ngày nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Thời kì người Pháp khẳng định vị thế của mình. Thành Cửa Bắc được nhìn nhận như một chứng tích chiến thắng: Ba chữ Chính Bắc Môn xuất hiện lại, cổng vẫn bị bịt, nhưng từ phía trong, cho phép nhận ra lối vào thành cũ, hai bức tường bên gợi lại hình dáng thành xưa, và đặc biệt họ gắn lên một tấm biển bằng tiếng Pháp: ” 25 Avril 1882. Bombardet de la Citadele par les Cannonieres “Suprise” et “Fanfare”.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Ba chữ “Chính Bắc Môn” trên cổng thành

    Hậu Lâu

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Hậu Lâu là một toà lầu xây phía sau cụm kiến trúc điện Kính Thiên. Tuy ở sau hành cung nhưng lại là phía bắc, được xây với ý đồ phong thuỷ giữ yên bình phía bắc hành cung, nên mới có tên là Tĩnh Bắc lâu và còn có tên là Hậu lâu (lầu phía sau).

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Theo một vài tài liệu Hậu Lâu cũ đã bị đổ nát trong thời kỳ Pháp xâm lược vào năm 1876, sau người Pháp đã cải tạo, xây lắp để lấy chỗ ở và làm việc của quân đội Pháp. Liệu đó có phải là lý do mà trong vô số những bức bưu ảnh chụp thành cổ Hà nội của người Pháp không thể tìm thấy một bức nào chụp Hậu Lâu.

    Điện Kính Thiên

    Trung tâm của Cấm thành là Điện Kính Thiên, nằm trên trục chính tâm (đường Thần Đạo) theo hướng Nam – Bắc: Kì Đài, Đoan Môn, Điện Kính Thiên, Hậu Lâu và Bắc Môn. Không còn nhiều, nhưng đó chính là dấu xưa còn lại của nơi tập trung quyền lực cao nhất của hầu hết các vương triều phong kiến Việt Nam

    Năm 1010, sau khi dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã dựng điện Càn Nguyên tại vị trí núi Nùng tức Long Đõ (Rốn Rồng), nơi hội tụ khí thiêng non sông theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền. Đến 1029, vua Lý Thái Tông mở mang thêm và đổi tên thành Thiên An. Sang đời Trần, điện được giữ nguyên tên. Đến đời Lê, điện mới có tên là Kính Thiên. Đó là cung điện quan trọng bậc nhất, nơi tiến hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi tiếp sứ giả nước ngoài, nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự. Nhà Nguyễn lên ngôi, Thăng Long từ vị trí Kinh đô của quốc gia trở thành trấn thành rồi tỉnh thành, điện được gọi là Long Thiên và trong suốt thời nhà Nguyễn, đây được xem là hành cung phía Bắc của các vị vua mỗi khi có việc từ Huế ra Bắc Hà.

    Bức ảnh quý chụp Điện Kính Thiên từ Đoan Môn trên cho thấy con đường lát gạch dẫn đến sân điện và thềm điện.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Post lại bức ảnh Điện Kính Thiên của Hocquard. Ngăn cách giữa điện Kính Thiên và khu vực phía Hậu Lâu đằng sau là một bức tường có trổ hai cổng đối xứng nhau. Trong ảnh cổng phía Đông đựợc chụp rõ (trong vòng tròn mầu vàng),còn cổng phía Tây bị khuất trong bóng cây)

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Cổng phía Đông nằm vuông góc với đường nguyễn Tri Phương

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Bức cận cảnh cho thấy lính Pháp đã đồn trú tại đây. Hocquard viết: ” Chính tại nơi đây các chiến hữu của Francis Garnier đến trú ẩn sau khi người cầm đầu của bọn họ bị giết chết. Với một số lượng ít ỏi, những chiến hữu ấy không đủ sức bảo vệ được nhiều dặm thành ngoài của Hoàng thành nên họ phải trú thân vào cả trong trung tâm này trước đã. Rồi ngay sau đó họ cũng phải rời bỏ luôn cả chiến tuyến thứ hai vẫn còn rất rộng, và vội vàng xây chung quanh nền đất của ngôi Chính điện một bức tường gạch có trổ các lỗ châu mai..”

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Còn đây là một bức vẽ miêu tả sự canh gác của lính Pháp trong khu vực điện

    Năm 1886, quân Pháp đã phá toàn bộ hành cung và xây dựng một toà nhà 2 tầng ngay trên chính nền điện Kính Thiên để làm Bộ chỉ huy pháo binh.

    Rồng đá Điện Kính thiên

    Khi Thủ đô được giải phóng, tòa nhà chỉ huy pháo binh xưa kia được sửa sang và trở thành nhà làm việc của các lãnh đạo Bộ Quốc phòng – Bộ Tổng tham mưu như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng (toà nhà được gọi là nhà Con Rồng)

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Di tích điện Kính Thiên hiện giờ chỉ còn nền điện và thầm bậc với phía trước là đôi rồng đá thời Lê dài 5.3m, chín khúc trong thế trườn xuống từ thềm điện, và hai bờ thềm bậc tạc mây lửa và hoa lá cách điệu (tạc năm 1467)

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Và một đôi rồng đá tạc thời Hậu Lê dài 3.4m ở phía sau điện.

    Cổng phía Đông dẫn vào nơi trước đây là điện Kính Thiên. Đã xuất hiện những toà nhà kiến trúc Pháp là sở chỉ huy pháo binh.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

     

    Thềm điện kính thiên

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Ở hướng chụp này đã thấy phía trước là cổng phía Đông dẫn ra đường Hoàng Diệu ngày nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Thềm điện kính thiên

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Xe ngựa, xe kéo, nón mê, nón quai thao, và trang phục nhà binh – những hình ảnh thấy rất nhiều trên những tấm bưu ảnh thời thuộc địa

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Nhìn lại toàn cảnh con đường chạy ngang trước điện từ cổng phía Tây

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Cổng phía Tây dẫn ra đường Hoàng Diệu

    Đoan Môn

    Đoan môn là một trong năm di tích còn lại của thành Hà nội, nằm trên đường Hoàng Diệu. Về quy hoạch tổng thể, kinh thành Thăng Long gồm ba vòng thành: La Thành rộng lớn bao quanh phía ngoài, tiếp đến là Hòang Thành, trong cùng là Cấm Thành nơi ở của Hoàng Đế. Đoan Môn là lần cửa trong cùng dẫn vào cung vua.

    Đoan Môn hiện còn tương đối nguyên vẹn. Di tích nằm ở phía nam của điện Kính Thiên, thẳng trục với Cột cờ Hà Nội. Đoan Môn được xây dựng theo chiều ngang, vật liệu chủ yếu là gạch vồ, loại gạch phổ biến của thời Lê (thế kỷ XV) và đá cuốn vòm cửa. Khảo cổ đã đào thám sát và xác định chắc chắn Đoan Môn còn lại hiện nay được xây dựng từ thời Lê, đến thời Nguyễn có sửa sang.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Hình ảnh thành Hà nội với cổng phía Nam (Đoan Môn) của bác sĩ Hocquard chụp khoảng 1884-1885

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Bức bưu ảnh chụp Đoan Môn từ hướng đường Hoàng Diệu ngày nay

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Đoan Môn – từ phía đương Nguyễn Tri Phương

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    và từ hướng Cột cờ Hà Nội với con đường ngày nay mang tên Nguyễn Tri Phương

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Những bức ảnh toàn cảnh Đoan Môn từ phía ngoài như thế này giờ không thể chụp được bởi toàn bộ mặt thành bị che khuất bởi Sân vận động Cột cờ và Trung tâm Thể dục Thể thao Quân đội

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Đoan Môn – Thang gạch lên Vọng lâu

    Kì đài

    Cột cờ Hà Nội được xây dựng (từ năm 1805 đến 1812) dưới triều nhà Nguyễn là một trong những công trình kiến trúc ít ỏi thuộc khu vực thành Hà Nội có may mắn thoát khỏi sự phá hủy do chính quyền đô hộ Pháp tiến hành trong ba năm 1894 – 1897.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Bức bưu ảnh vẽ toàn cảnh thành Hà nội từ phía đường Trần Phú ngày nay cho thấy phía trước Kì Đài có một hồ nước rộng – Hồ Voi – nay là công viên với tượng ông Lenin đứng. Dòng chú thích cho biết thời điểm đó thành Hà nội đã bị người Pháp biến thành khu quân sự ( Tonkin: Mirador, Porte de l’ artellier, et caserne de la Citadelle d’Hanoi – Bắc Bộ: Tháp canh, Cổng thành, trại lính)

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Với chiều cao đáng kể, Cột cờ được nhà binh Pháp khi đó dùng làm đài quan sát và trạm thông tin liên lạc giữa ban chỉ huy với những đồn bốt xung quanh, ban ngày dùng làm tín hiệu, ban đêm dùng đèn.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Cột cờ gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạch. Có hai thang gạch dẫn lên tầng một ( thang phía Tây – hướng ra đường Hoàng Diệu và thang phía Đông hướng ra đường Nguyễn Tri Phương).

    Những bức ảnh dưới chụp Cột cờ Hà nội từ phía đường Hoàng Diệu qua các thời kì:

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    (Còn nữa)

    Theo Nhan’s Blog

  • Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn

    Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn

    Một trang mạng Trung Quốc đăng ảnh vài mẫu bút tích của một số vị vua Nhà Nguyễn. Mời bạn xem và cho ý kiến!

    Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn

    Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn