Tag: vũ khí

  • Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Tương truyền những vị vua nhà Nguyễn không quan tâm đến việc đào tạo quân đội nhiều như trước nên quân lính cùng vũ khí ngày càng lạc hậu.

    Vốn là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, triều Nguyễn tồn tại hơn 143 năm cùng nhiều đời vua chúa, mãi năm 1945 mới kết thúc sau khi Pháp xâm lược.

    Binh lính triều Nguyễn thuộc thời cận đại nên được trang bị vũ khí hiện đại hơn so với trước. Tuy nhiên, số lượng vũ khí cho binh lính có hạn, thời gian luyện tập hạn chế nên không đủ sức chống lại thực dân Pháp. Nước ta thời Pháp thuộc được Pháp chia thành 3 xứ với 3 chế độ khác nhau, lần lượt là Bắc Kỳ (Tonkin), Nam Kỳ (Cochinchine) và Trung Kỳ (Annam).

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Tại xứ Trung Kỳ (Annam), lính thú nhà Nguyễn có nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ triều đình khỏi những vấn đề từ bên ngoài. Triều đình đã cho xây dựng và đào tạo một số loại lính thú, được gọi là “Lính khố vàng”, thắt lưng được làm bằng dây vải màu vàng, có nón đội trên đầu, chóp nón làm bằng đồng thau.

    Các loại quân lính thời nhà Nguyễn gồm: “Lính kinh đô” có nhiệm vụ bảo vệ hoàng gia và kinh thành Huế, “Lính thượng tứ” gồm lính kỵ binh và lính bộ binh’ “Lính kỹ thuật” có nhiệm vụ lo binh khí và súng thần công. Lính triều đình chưa có giày dép nên vẫn đi chân đất. Binh lính thời kỳ này đã được trang bị súng hỏa mai, nhưng họ chủ yếu vẫn dùng đao và kiếm. Súng hỏa mai vẫn là loại súng thô sơ, được tạo nên từ một ống kim loại, thuốc súng và đạn dược nạp trên đầu, phải châm ngòi thì nó mới nổ.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Khả năng bắn của súng hỏa mai không nhanh, sau này nó được thay thế bằng súng trường, dùng vỏ đạn kim loại có lực bắn mạnh và nhanh hơn. Đến thời vua Gia Long còn xuất hiện thêm súng đại bác thần công, tên đầy đủ là “thần uy tướng công” hay còn gọi là súng lớn hay pháo. Loại súng này có khả năng bắn đạn ra tầm xa và lực phá hủy mạnh hơn súng hỏa mai.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Để chọn binh lính cho triều đình, thanh niên trai tráng trong làng sẽ được xã, thôn ghi vào sổ đinh, sau đó chọn lựa kỹ càng rồi gửi lên quan huyện, chuyển lên phủ. Người được chọn sẽ làm nhiệm vụ ở địa phương hoặc đưa lên triều đình đào tạo. Những người lính thú bảo vệ biên cương sẽ phải rời xa quê hương, trấn giữ biên giới trong 3 năm. Thời đó gọi là “chế độ quân dịch” còn ngày nay gọi là “nghĩa vụ quân sự”.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Công việc này rất vất vả, bao khó khăn gian khổ rình rập. Hết rừng thiêng nước độc, hùm beo, cá sấu đầy rẫy, rắn độc, muỗi hay các hiểm họa khác có thể khiến những người lính bỏ mạng bất cứ khi nào. Bên cạnh đó, việc canh gác, bảo vệ phải làm ngày làm đêm, ăn uống cực khổ, sức khỏe không ổn định, nhiều người không chết vì bệnh cũng chết bởi đói khát.

    Xem thêm bài viết:

    Sai Sót Khi Tái Dựng Trang Phục Của Các Vị Vua Triều Nguyễn

     

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu
    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Bên cạnh đó, vua triều Nguyễn ngày càng không quan tâm đến đào tạo, trang bị quân đội nhiều như trước. Ngân khố hạn chế, quân đội ngày càng lạc hậu, sa sút. Dưới thời vua Gia Long hay Minh Mạng lấy cách tổ chức của quân đội phương Tây làm kiểu mẫu, số lượng người cầm cờ giảm từ 40 xuống còn 2 người, chỉ cần chất lượng, không cần số lượng.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Đến thời vua Tự Đức, tình hình vẫn không được cải thiện khi vũ khí đều cũ kỹ, thủy binh không được chăm chút, binh pháp không được cải tiến. Cách dẫn quân, đánh trận không được cách tân mà theo hướng bảo thủ. Do đó, không có gì lấy làm lạ khi thành Gia Định dễ dàng rơi vào tay Pháp. Sau này, 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cũng phải nhường lại cho thực dân Pháp. Quân Pháp nhân cơ hội đó chiếm luôn 3 tỉnh Nam Kỳ: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu
    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Có thể thấy, triều Nguyễn không chịu cải cách quân binh, chỉ chăm chăm giữ lại cái cũ khiến cho việc đào tạo quân đội bị kìm hãm, dẫn đến việc mất nước.

    Theo songdep.com.vn

  • KHẢO LUẬN VỀ KIẾM

    KHẢO LUẬN VỀ KIẾM

    Auto Draft

            Kiếm (劍) thuộc về Binh-Khí Sắc Bén mà con người lưu-tâm nghiên-cứu nhiều nhất về việc đúc rèn. Và cũng là binh-khí lừng-danh của Ngô-Việt từ Thời-Đại Xuân-Thu (722-481 trước CN).

    Trong sách Khảo Công Ký (考 工 記) có ghi rằng : « Ngô-Việt chi Kiếm, biến hồ kỳ địa, nhi phi năng lương» (Kiếm của Ngô Việt, đất nào cũng có, vừa đẹp lại tốt).

    Auto Draft

    Kiếm Việt Nam

     

           Ngoài việc sử-dụng trong Chiến-tranh, Kiếm còn được sử-dụng về Biểu-tượng như :

           1) – Biểu-tượng Quyền-hành trong Quốc-gia ; đó là Phương Thượng Bảo Kiếm ( 芳 上 寶 劍 ) mà Vua ban cho Quan Đại-Thần được phép « Tiền Trảm Hậu Tấu ».

           2) – Biểu-tượng Tước-vị trong Triều-đình ; đó là tùy theo Phẩm-bậc, mà Kiếm và Võ Kiếm đuợc cẩn nạm khác nhau về đá quí và bạc vàng.

           3) – Biểu-tượng Giai-cấp trong Xả-hội ; đó là Kiếm của thế-gia Hoc-sĩ.

           4) – Biểu-tượng Huyền-năng trong Pháp-thuật ; đó là những thanh Kiếm của Đạo-Gia có khả năng trừ Ma giết Quỉ, tàng-hình, cách-không trảm-thủ.

           Đến thời Nhà HẬU-LÊ(1428~1527) bên Đại-Việt và thời Nhà MINH (MING 1368~1644) bên Trung-Hoa, thì Kiếm gồm có hai loại là 1. Loại Kiếm Thẳng và 2. Loại Kiếm Cong (gọi là Gươm) :

    1. – Loại Kiếm Thẳng được chia làm hai thứ tùy theo Cạnh Bén :
    – Loại Kiếm Thẳng hai cạnh bén, cũng được chia ra làm hai thứ tùy theo hình-dáng của Mũi Kiếm, gọi là Kiếm-Phong :
    a) Văn Kiếm-Phong Kiếm : Mũi Kiếm hình bầu-dục ;
    b) Võ Kiếm-Phong Kiếm : Mũi Kiếm hình Tam-Giác.
    Ngoài ra, loại Kiếm Thẳng hai cạnh bén còn dược chia ra làm hai thứ tùy theo chiều dài của Tuệ Kiếm (彗 劍) gắn sau đốc chuôi Kiếm :
    a) Đoản-Tuệ Kiếm ;
    b) Trường-Tuệ Kiếm.
    B – Loại Kiếm Thẳng một cạnh bén, cũng được chia ra làm hai thứ tùy theo hình-dáng của Mũi Kiếm, gọi là Kiếm-Phong :
    a) Kiếm-Phong Thẳng ;
    b) Kiếm-Phong Vếch lên (Người Nhật gọi là Ikari no KIssaki). Đây là loại Kiếm đặc-thù của Đại-Việt.

    2. – Loại Kiếm Cong (gọi là Gươm) được chia làm hai thứ tùy theo phần cong của lưỡi Kiếm :
      A – Loại Kiếm Cong từ Giữa Thân Kiếm tới Mũi Kiếm ; đây là loại Kiếm Cong của đại đa-số các nước ;
    B – Loại Kiếm Cong từ Giữa Thân Kiếm tới Chắn Kiếm ; đây là loại Kiếm Cong đặc-thù của Nhật-Bản, gọi là « Katana ».

    Auto Draft

    Thanh Gươm « Talwar » nổi tiếng của Ấn-Độ.
    (Loại Gươm Cong từ Giữa Thân Gươm tới Mũi Gươm)

    (Tín-dụng Ảnh : India Netzone)

    Auto Draft

    Thanh Gươm « Katana » lừng danh của Nhật-Bản.
    (Loại Gươm Cong từ Giữa Thân Gươm tới Chắn Gươm)

    Khái-Quát Tiến-Trình của Loại Kiếm Thẳng :

           Loại Kiếm Thẳng là loại xuất-hiện đầu tiên từ thời Đông-Châu – 東周 (771~246 TCL), dùng làm binh-khí tùy-thân và để cận-chiến trên chiến-xa, phôi-thai từ lưỡi Mâu bằng đồng và Dao ngắn bằng đồng .

    Auto Draft

    « Mâu Đồng » thời cổ xưa

    Auto Draft

    « Dao Đồng » thời cổ xưa

     

           Thời ĐÔNG-CHÂU – 東周 (771~246 TCL) là giai-đoạn về Kiếm đúc bằng đồng, lưỡi thẳng có hai bề bén và chiều dài chỉ khoảng 40 cm.

    Auto Draft

    Kiếm đồng hai bề bén thời Nhà ĐÔNG-CHÂU (771~246 TCL)

           Đến « Xuân-Thu Thời-Đại – 春 秋 時 代 » (722-481 trước CN) thì Kiếm được đúc bằng Đồng phức-hợp, lưỡi thẳng, bản rộng có hai bề bén và dài gần 60 cm, chủ yếu dùng để chém nhiều hơn đâm. Đây là giai-đoạn xuất-hiện những thanh Bảo-Kiếm đầu tiên trong Lịch-Sử Viễn-Đông, do Âu-Dã-Tử ( 歐 冶 子 Ouye Zu) và Can-Tương (干 將 Ganjiang), người đất NGÔ-VIỆT đúc rèn.

    Auto Draft

    « Kiếm Đồng thời Xuân-Thu »
    (722-481 trước CN)

    Auto Draft

    « Kiếm Đồng thời Xuân-Thu »
    của Việt-Vương Câu-Tiễn
    (722-481 trước CN)

    Auto Draft

    Kiếm Đồng (dài 0,60 m) với hai cạnh bén, khai-quật tại Đông-Sơn (Thanh-Hóa – Việt-Nam)
    Định-thì bởi Karlgren : 450~230 Av. J.C.

    (A et A’ : Cán Kiếm và của hai mặt của Chắn Kiếm ; B : Tiết-diện của lưỡi Kiếm ; C : Chuôi ; D : Trắc-diện của Chắn Kiếm)
    – Hình vẻ của Louis Pageot, 1924. Manuel d’Archéologie d’Extrême-Orient, L. Bezacier-

           Sang đến Thời Chiến-Quốc, đời Nhà TẦN (221~206 TCL) thì Kiếm được đúc theo dạng Trường-Kiếm, lưỡi thẳng có hai bề bén, nhưng bản Kiếm hẹp hơn bản KIếm thời Xuân-Thu, tiện-lợi để chém cũng như để đâm. Thân Kiếm có tiết-diện hình quả trám có tám cạnh, rồi bớt còn Sáu cạnh, và dài đến 1,40 m. Đây là một giai-đoạn lịch-sử của loại Trường-Kếm sử-dụng bằng hai tay, gọi là « Song-Thủ Kiếm ».

    Auto Draft

    Giản-đồ « Trường-Kiếm với tiết-diện Bát-Giác » có hai cạnh bén.
    Thời Nhà HÁN (206 TCL~220 CL)

    Auto Draft

    « Trường-Kiếm » hai cạnh bén rèn đúc bằng hợp-chất Đồng pha Kẽm và Crom.
    Thời Nhà TẦN (221~206 tr CL)

    Giai-thoại TẦN-Thủy Hoàng-Đế đã phải nhờ có người chỉ cho cách xoay bao Kiếm ra sau lưng mới rút được Kiếm để chém Tráng-Sĩ Kinh-Kha, chính là vì lý-do chiều dài của thanh Kiếm này.

           Qua thời Nhà Tiền-HÁN còn được gọi là Nhà Tây-HÁN (206~9 tr. CL), người ta bắt đầu cải-tiến nghệ-thuật đúc Kiếm Hai Cạnh Bén bằng Hợp-Kim Đồng pha Kẽm và Crom thời Nhà TẦN, và cùng sáng chế loại Kiếm Một Cạnh Bén có Chuôi Hình Khoen.

    Auto Draft

    Kiếm bằng Hợp-Kim Đồng-Thiếc-Crom, một cạnh bén, có Chuôi hình Khoen,
    Thời Nhà Tiền-HÁN (206 tr.CL~9 tr.CL),
    thủy-tổ đầu tiên của Trường Kiếm ĐẠI-VIỆT, lưỡi thẳng, một cạnh bén
    và của Cổ-Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Hira Zukuri Chokuto x ».

           Đến thời Nhà Hậu-HÁN còn được gọi là Nhà Đông-HÁN (23~220 CL), người ta bắt đầu đúc Kiếm bằng Sắt Thép, thân Kiếm có tiết-diện hình quả trám có Tám cạnh, rồi bớt còn Sáu cạnh, xong đến tiết-diện hình quả trám có Bốn Cạnh : hai cạnh bén gọi là Nhận (刃) và hai sống hai bên gọi là Tích (脊), người Nhật gọi nó là Shinogi.

    Auto Draft

    « Trường-Kiếm » hai bề bén bằng Sắt Thép
    Thời Nhà Hậu-HÁN (23~220 CL)

           Vào thời Nhà TÙY (SUY 581~618 CL), thì nghệ-thuật rèn đúc Kiếm bằng Thép Quán-Cương của Trung-Hoa đã bắt đầu lên đến tuyệt-đỉnh, chỉ thua nghệ thuật đúc Kiếm của thời Nhà Mérovingiens (500~751 CL) bên Tây-phương mà thôi.

    Auto Draft

    « Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, hai Cạnh Bén
    của thời Triều-Đại Nhà MEROVINGIENS (500~751 CL) bên Pfasp-Quốc
    (Phục-dựng bởi Gaël Fabre theo tài-liệu lịch-sử của Thư-Viện Quốc-Gia Pháp)

    Đặc-điểm thanh Kiếm thời Nhà TÙY là thân Kiếm thẳng có một bề bén với hai sống dọc ngang (một sống mỗi bên) gọi là Tích ((脊) – tiếng Nhật gọi là Shinogi – nằm gần phía cạnh bén, nghĩa là nằm xa phía sống lưng Kiếm (người Nhật gọi đó là “Kihira Zukuri“) ; cho nên loại Kiếm Nhà TÙY này rất nặng.

    « Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, một Cạnh Bén,
    rèn đúc năm 616 CL, thời Nhà TÙY (SUY 581~618 CL),
    thủy-tổ của Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Kihira Zukuri Chokuto ».
    (bão-tồn tại Đền Shitenno, tại Quận Osaka, Japan)

           Đến thời Nhà ĐƯỜNG (TANG 618~907 CL), nghệ-thuật rèn đúc Kiếm đã đến mức vô-tiền khoáng-hậu ở Đông-phương và tỏa rộng sự chi-phối đến tất-cả những nước lân-cận đồng văn-hóa, nghĩa là Nhật-Bản, Việt-Nam, Đại-Hàn và Tây-Tạng.

    Phải chờ đến thời-đại YOSHINO (thế-kỷ 14) bên Nhật-Bản, người ta mới đúc lại được những thanh Bảo-Kiếm tương-đương nhưng thuộc về loại Kiếm Cong, tức là Gươm, dễ rèn trui hơn loại Kiếm Thẳng một bề bén.

    Đặc-điểm thanh Kiếm thời Nhà ĐƯỜNG là thân Kiếm thẳng có một bề bén với hai sống dọc ngang (một sống mỗi bên) gọi là Tích ((脊), nằm xa phía cạnh bén, nghĩa là nằm gần phía sống lưng Kiếm (người Nhật gọi đó là “Shinogi Zukuri“) ; cho nên loại Kiếm thời Nhà ĐƯỜNG này không nặng bằng loại Kiếm thời Nhà TÙY và trở nên dễ-dàng huy-động hơn.

    Auto Draft

    « Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, một Cạnh Bén,
    thời Nhà ĐƯỜNG » (618~907 CL),
    thủy-tổ của Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Shinogi Zukuri Tachi »
    và « Trường Kiếm ĐẠI-VIỆT », một bề bén, mũi vếch (Ikari o Kissaki Tsurugi).

    Về sau, thời Nhà ĐƯỜNG còn sáng chế thêm một loại Kiếm thẳng có hai cạnh bén, một cạnh bén dài nằm về phía lưỡi Kiếm gọi là Hạ-nhận (下 刃) và một cạnh bén ngắn đằng mũi Kiếm, về phía sống lưng Kiếm, gọi là Thượng-nhận (上 刃).

    Auto Draft

    « Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, hai cạnh bén (Hạ-Nhận và Thượng-Nhận),
    Thời Nhà ĐƯỜNG (618~907 CL),
    thủy-tổ của hai loại Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Moroha Zukuri Tsurugi »
    và « Kissaki Moroha Zukuri Tachi – “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” ».

    Auto Draft

    « Trường Kiếm Song-Thủ và Đơn-Thủ của ĐẠI-VIỆT » gắn Lưỡi bằng Thép
    có Cán bằng Đồng đúc liền với Chắn kiếm và Chuôi kiếm chạm-trổ.
    (Thế-Kỷ 13)

    (Tín-dụng ảnh : Nguyễn Ngọc Phương Đông)

    Auto Draft

    « Trường Kiếm ĐẠI-VIỆT » một cạnh bén, mũi vếch 
    (Thế-Kỷ 15~19). 

    (Phục-dựng bởi Michel Souquet theo tài-liệu lịch-sử của Thư-Viện Quốc-Gia Pháp)

    Auto Draft

    « Bảo-Kiếm MÃN-THANH » hai cạnh bén của Hoàng-Đế Càn-Long (1735-1796)
    Triều Nhà THANH (QING 1644–1911).

    Auto Draft

    «  Kiếm ĐẠI-VIỆT » hai cạnh bén 
    (Thế-Kỷ 18~19).

    Khái-Quát Tiến-Trình của Loại Kiếm Cong :

                Loại Kiếm Cong (gọi là Gươm hoặc Đao), có một cạnh bén là loại xuất-hiện sau loại Kiếm Thẳng.

                Thanh Kiếm Lưỡi Cong « Kissaki Moroha Zukuri Tachi – “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” » của Nhật-Bản với một cạnh bén dài nằm về phía lưỡi Kiếm gọi là Hạ-nhận (下 刃) và một cạnh bén ngắn đằng mũi Kiếm, về phía sống lưng Kiếm, gọi là Thượng-nhận (上 刃) là một chứng-cớ hùng-hồn sự thọ-hưởng chi-phối của loại Kiếm Thẳng hai cạnh bén từ thời Nhà ĐƯỜNG (TANG 618~907 CL).

    Auto Draft

    Giản-đồ Lưỡi Kiếm Cong Nhật-Bản « Kissaki Moroha Zukuri Tachi »
    – mang biệt-danh “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” –
    (Thanh Gươm này đã từng là sỡ-hữu của Hoàng-Đế Kammu 781~ 806 JC).

    Auto Draft

    Kiếm Lưỡi Cong Nhật-Bản « Kissaki Moroha Zukuri Tachi »
    – mang biệt-danh “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” –
    (Phục-dựng bởi Yao Yilin theo tài-liệu lịch-sử của Hoàng-Gia Nhật-Bản ).

                Về sau, Loại Kiếm Cong tiến-hóa thành Loại GươmĐao, có một cạnh bén. Nó dẫn-chứng hiển-nhiên sự thọ-hưởng chi-phối của loại Kiếm Thẳng một cạnh bén từ thời Nhà ĐƯỜNG (TANG 618~907 CL), và gồm có hai thứ, một thứ dùng theo Song-Thủ Kiếm và một thứ dùng theo Đơn-Thủ Kiếm :

           1) Thứ Gươm dùng theo « Song-Thủ Kiếm » :

    Đây là loại Kiếm Cong đã được người Nhật-Bản đưa lên mức tuyệt-đỉnh của nghệ thuật đúc rèn Kiếm, tương-đương với thời Nhà ĐƯỜNG (TANG 618~907 CL).

    Auto Draft

    « Gươm-Katana » của NHẬT-BẢN dùng theo Song-Thủ Kiếm
    Thời-Đại YOSHINO – Thế Kỷ 14

    Auto Draft

    Chi-tiết Kiếm-Phong của « Gươm-Katana » NHẬT-BẢN dùng theo Song-Thủ Kiếm.
    Thời-Đại YOSHINO – Thế Kỷ 14

    Auto Draft

    « Trường-Đao TRUNG-HOA », thường gọi là Miêu-Đao (Miao-Dao) một cạnh bén, mũi vếch, dùng theo Song-Thủ-Kiếm
    do Tướng Thích-Kế-Quang (1528-1587) sáng-chế cùng với Kiếm-Phổ « Tri Tân Dậu Đao-Pháp Thập-Ngũ Thức »
    đặng khắc-phục Quân Mông-Cổ và Giặc Biển Đông (Ronin Nhật).
    Triều Nhà MINH (1364~1644)

    .

    Auto Draft

    « Gươm Đồng » một cạnh bén, dùng theo Song-Thủ Kiếm, của Đất GIAO-CHÂU.

    (Tín-dụng ảnh : Nguyễn Ngọc Phương Đông)

    Auto Draft

    « Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Song-Thủ Kiếm
    Thế-Kỷ 18~19.

    (Tín-dụng Ảnh : Nguyễn Ngọc Phưong-Đông)

     

    Auto Draft

    « Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Song-Thủ Kiếm
    Thế-Kỷ 18~19.

    Auto Draft

    Ngự-Lâm Quân cầm Trường Gươm (dùng theo Song-Thủ Kiếm)
    Triều Nhà NGUYỄN (1802-1945)

    Auto Draft

    Trường Gươm (dùng theo Song-Thủ Kiếm) trong ngày Lễ Hội
    hàng năm vào ngày mồng 10 tháng 03 ở Đền Đỏ
    (Đền thờ Thánh-Mẫu Đạm Đồng Lương)
    Thôn Sơn-Thọ, Xả Thái-Dương, Huyện Thái-Thụy, Tỉnh Nghệ-An.

           2) Thứ Gươm dùng theo « Đơn-Thủ Kiếm » :

    Đây là loại Kiếm Cong được thông-dụng nhất trên thế-giới. Loại Gươm này còn được gọi là « Đao » bên Trung-Hoa và được gọi là « Sabre » bên Âu-châu.

    Auto Draft

    « Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Đơn-Thủ Kiếm
    Đại-Việt – Thế-Kỷ 18~19.

    Auto Draft

    « Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Đơn-Thủ Kiếm
    với một cạnh bén dài nằm về phía lưỡi Kiếm gọi là Hạ-nhận (下 刃)
    và một cạnh bén ngắn đằng mũi Kiếm, về phía sống lưng Kiếm, gọi là Thượng-nhận (上 刃). 

    Đại-Việt – Thế-Kỷ 18~19.

    Thanh Bảo Kiếm

    Gươm thiêng mài sắc tự bao giờ :
    Ngắm lại lòng càng thấy ngẫn-ngơ !
    Lưỡi Kiếm vẫn ngời màu nước biếc ;
    Chuôi Gươm còn đượm nét bài Thơ.
    Bao năm Kiếm báu hờn thư-án ;
    Mấy thủa Gươm thiêng hận đợi chờ.
    Ánh thép lung-linh như vẻ đón
    Bóng người Kiếm-Khách thủa nào xưa…

                                                                              Kính bút,
    Trịnh-Quang-Thắng.

  • Thanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Thanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Thanh kiếm này được trưng bày tại bảo tàng Quân Đội Paris

    Xem thêm bài viết: Bộ sưu tập Kiếm & Đao của các danh tướng Việt Nam https://hinhanhvietnam.com/bo-suu-tap-kiem-dao-cua-cac-danh-tuong-viet-nam/

    Khách du lịch ghé qua Paris không thể không lại viếng Điện Quốc gia Phế binh (Hôtel National des Invalides) có tiếng nhiều nhờ đã chứa mồ của Vua Napoléon. Nhưng chớ nên quên trong tòa nầy còn có Viện Bảo tàng Quân đội (Musée de l’Armée) là một trong những viện lớn nhất thế giới về mỹ thuật, kỹ thuật và lịch sử quân sự. Đặc biệt Phòng Đông Phương, Cận Đông và Viễn Đông từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 (Sale Orient, Proche Orient et Extrême-Orient du 15ème au 19ème siècle) trưng bày nhiều khí giới Ba Tư, Ấn Độ, Tích Lan,…những thanh gươm Trung Quốc, Nhật Bản… bao quanh một thanh bảo kiếm được ghi là của vua Gia Long.

    Thanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Thanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia LongThanh kiếm Thái A của vua Gia Long

    Tôi không phải là người độc nhất tò mò đi tìm xem thanh gươm nầy. Nhưng tôi lại đã xin được ông Quản đốc Viện Bảo tàng mở tủ cho tôi chụp hình. Không biết bao giờ mới có dịp may như thế nầy, tôi đã chụp ngang, chụp dọc, chụp trên, chụp dưới,… Thanh kiếm gồm có hai phần: một lưỡi dài khoảng một thước và một cán ngắn bằng một phần năm lưỡi. Đầu cán là một đầu rồng, có thể đầu một con giao hay một con cù không sừng, bằng vàng chạm trổ. Có người Pháp cho nó giống một đầu con chó (Note E)(4). Cổ rồng nối liền đầu rồng và đốc kiếm (garde) làm thành đốc gươm (fusée) là một dãy bảy vòng ngọc thạch giống bảy đốt tre dính liền với nhau qua những đường gân bằng vàng với đằng cuối một vòng mạ vàng nằm giữa bốn chuỗi san hô xanh đỏ. Miệng rồng nhả ra một băng mạ vàng cũng mang phía ngoài bốn chuỗi san hô xanh đỏ uốn quanh về đốc kiếm làm thành cánh đốc kiếm (quillon). Ở đằng cuối, cánh đốc kiếm nầy mở rộng ra quanh lưỡi kiếm, có chạm trổ những hình lá và nạm những hột kim cương. Lưỡi kiếm hình hơi cong là một thanh thép sáng ngời, khắc ở phần trên một mặt trời nằm giữa mấy cuộn mây và tên gươm bằng ba chữ Hán: Thái A Kiếm. Tên nầy không phải ngẫu nhiên mà có.

    Trong hai cuốn Từ điển từ ngữ điển cố văn họcTừ ngữ văn Nôm1 có sự tích nầy: “Lúc nhà Tần chưa diệt được Ngô, Trương Hoa xem thiên văn thường thấy giữa sao Đẩu và sao Ngưu có luồng khí màu đỏ tía, các đao thuật đều nói đó là điềm báo nước Ngô đang buổi cường thịnh, chưa đánh được. Riêng Trương Hoa cho lời nói đó không đúng. Đến khi đánh lấy được Ngô rồi, luồng khí lại mạnh và sáng hơn. Trương Hoa mới đem chuyện hỏi Lôi Hoán, người giỏi về thiên văn thuật số. Lôi Hoán cùng Trương Hoa lên lầu cao quan sát một hồi lâu. Lôi Hoán nói: ‘Chỉ giữa sao Đẩu và sao Ngưu là có luồng khí lạ đó. Ấy là cái tinh của bảo kiếm ở Phong Thành xông lên tận trời đấy’. Trương Hoa nói: “Quả vậy, nay tôi muốn phiền anh ra làm quan lệnh ở đất ấy rồi ra công tìm gươm báu cho”. Lôi Hoán nhận lời. Ông đến Phong Thành, cho đào nền nhà ngục, thì tìm ra được một cái hòm đá nằm sâu dưới lòng đất hơn bốn trượng. Khi sáng lóe ra, bên trong có hai thanh gươm, một thanh có khắc chữ ‘Long Tuyền’, và một thanh khắc chữ ‘Thái A’. Đêm hôm đó không thấy luồng khí lạ ở giữa sao Đẩu và sao Ngưu nữa”.

    Kinh luân đã tỏ tài cao,

    Thớ co rễ quánh thủ dao Long Tuyền.

    Nguyên quán hai thanh kiếm trống Long Tuyền và mái Thái A nầy trong Tể tướngkiếm, trước mang tên Can Tương và Mạc Da trong Nguyên nhân kiếm được giải thích trong cuốn Thành ngữ điển tích từ điển2: “Ngô Hạp Lư đời Đông Châu giết anh lên ngôi, khiến Can Tương là một tên thợ rèn gươm có tiếng, rèn riêng cho mình một lưỡi gươm. Can Trương tìm sắt tốt vàng ròng, rồi lựa ba trăm con gái còn tơ đốt than nung lò ba tháng mà vàng không chảy. Vợ Can Tương là nàng Mạc Da nói, rèn cái gì mà không hóa thì cần phải có người để cúng mới nên. Mạc Da mới tắm gội sạch sẽ, cắt tóc nhổ răng, khiến người quạt lửa cho đỏ rối gieo mình vào lò than. Vàng sắt đều chảy. Can Tương lấy đó rèn hai lưỡi gươm, một lưỡi thuộc dương đặt tên là Can Tương, một lưỡi thuộc âm đặt tên là Mạc Da. Rồi can Tương đem lưỡi Mạc Da dâng cho Hạp Lư, còn lưỡi Can Tương thì dấu để lại cho mình. Hạp Lư biết được giận lắm, sai người qua đoạt. Can Tương lấy gươm liệng lên hóa rồng cỡi đi mất”. Sáu trăm năm sau, tới triều Tấn, tiếp theo là câu chuyện Lôi Hoán, Trương Hoa đã thấy ở trên. Thì ra Thái A Kiếm là lấy từ sự tích bên Tàu.

    Bây giờ Thục chúa tỉnh ra,

    Dứt tình phó lưỡi Thái A cho nàng.

    Trong một bức thư viết cho ông Carnot năm 1922 để trả lời một câu hỏi của ông André Salles, Thanh tra Thuộc địa, ông Đại tá Payard, Phó Giám đốc Điện Quốc gia Phế binh tả lưỡi kiếm chỉ có một rãnh khoét (gorge d’évidement) (Note E)3, thành thử có tác giả, trong một thiên khảo cứu tìm tòi4, xác định thanh kiếm nầy là một sản phẩm Âu châu, chỉ có gắn vào một đốc kiếm Á châu thực hiện tại chỗ. Tuy nhiên, ở Viện Bảo tàng Quân đội Paris, bảo kiếm nầy được trình bày là thanh gươm của vua Gia Long. Thật hay không, cần phải có một bằng chứng, chẳng hạn một cái ảnh vua Gia Long mang kiếm hay một văn bản xác định thanh kiếm Thái A chính là của vua Gia Long. Ví như thật là của vua Gia Long thì ai đã đem biếu tặng kiếm cho vị quốc vương Việt Nam và trong điều kiện nào kiếm được đem về trưng bày trong tủ kính Viện nầy? Ông Quản đốc viện không có một tài liệu nào để giải thích sự kiện nếu không là một bản tin vắn tắt cho biết thanh kiếm được đem từ An Nam về sau cuộc viễn chinh đầu tiên (Note B).5 Nếu khó lòng biết được lúc nào kiếm đã đến với vị vua nhà Nguyễn, có thể đoán biết làm sao kiếm đã rời khỏi hoàng thành. Thanh nầy khác hẳn thanh kiếm vua Khải Định sau nầy hay đeo như thấy trong ảnh. Nó cũng không thể là thanh kiếm vua Hàm Nghi đã mang theo với chiếc ấn khi cùng triều thần xuất bôn, khởi hịch Cần Vương sau đêm kinh đô thất thủ vì một cặp kiếm cùng các bảo vật đã được phát hiện gần đây ở thôn Phú Hòa, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh6 đồng thời một thanh gươm khác “dùng để chém những dân phu chôn vàng” rỉ, mục, nhặt được bên cạnh một gốc cây tươi trên đồi Yên Ngựa ở vùng Mả Cú thuộc xóm Rôồng, thôn Đặng Hóa, xã Hóa Sơn.7 Ta không thể tưởng tượng một ông vua nào hay một vị đại thần nào đã đem dâng biếu cho một người ngoại quốc thanh kiếm của nhà vua, “một bảo vật lịch sử và tượng trưng quan hệ đến hạnh phúc và sự bảo tồn dân tộc” như vua Đồng Khánh đã nói với nhà văn Jules Boissière năm 1888 khi tiếp kiến ông nầy ở Huế và tỏ ý được hoàn lại (Note F).8 Nếu kiếm rơi vào tay người Pháp thì có thể là vì họ đã tự tiện đoạt lấy, đặc biệt vào lúc tình hình rối ben, không còn trật tự chẳng hạn vào lúc biến cố Ất Dậu 05/7/1885.

    Bộ Lại cho đến bộ Binh,

    Phố phường hai dãy nép mình cháy tan.

    Bao nhiêu của cải bạc vàng,

    Nửa thì nó lấy, nửa đốt tàn thành tro…

    (Vè Thất thủ kinh đô)

    Còn có câu hỏi tại sao vua Hàm Nghi khi xuất bôn không đem thanh kiếm nầy theo cùng với cặp kiếm của ông, trừ phi kiếm đã bị cướp mất trước hay trong thời gian biến cố. Dù sao, cướp bóc thời chinh chiến là chuyện thường thấy ở nhiều nơi, huống hồ quan quân thuộc địa còn làm những việc tầy trời như tháng giêng 1913, dưới triều vua Duy Tân, viên Khâm sứ Georges Mahé dám cho đào lăng vua Tự Đức để chiếm lấy những bảo vật, một điều điếm nhục đã gây nhiều phẫn nộ trong dân chúng cùng triều đình Việt Nam và cũng không ít tai tiếng trong giới bảo hộ đến nỗi sau đó thủ phạm bị triệu hồi về nước. Xin nhắc lại, cướp kiếm chỉ là một giả thuyết, đến nay chưa có một tài liệu nào chứng xác sự kiện. Sự can thiệp của J. Boissière không thấy có kết quả vì thanh kiếm luôn còn nằm ở Viện Bảo tàng Quân đội Paris. Và ở đây lại xảy ra một sự kiện khác cũng có phần lý thú.

    Ngày 03/10/1913, tờ báo Journal (Note A)9, đăng một tin nhỏ: Hôm qua, thứ năm là ngày Viện Bảo tàng mở cửa, lúc bốn giờ, sau lúc viện đóng cửa, những người canh giữ khám phá một tủ kính bị phá vỡ và đã bị mất cắp một thanh gươm An Nam, bao gươm và vòng đai. Những bảo vật nầy mạ vàng, nạm đá, ngọc, có một giá trị lớn. Cuộc điều tra chẳng đem lại kết quả gì. Những dấu in trên kính đã được ghi lại nhưng khách rất đông, phần lớn là người nước ngoài. Tủ kính đã được khôn khéo mở ra với những dụng cụ cắt thép tí hon. Ngày hôm sau, 04.10.1913, tờ báo Temps (Note B)10 cũng cho đăng tải một tin tương tự với chi tiết bao gươm bằng da nạm kim hoàn và cặp móc chạm trổ dát một viên đá quý lớn. Sau khi đọc tin nầy, lập tức ông André Salles, Thanh tra Thuộc địa, viết thư cho Trung tướng Niox, Giám đốc Viện Bảo tàng, Tư lệnh Tòa Quốc gia Phế binh, người có nhiệm vụ thực hiện cuộc điều tra với ông Guérin, để tố cáo những nhà cách mạng An Nam. Lời buộc tội nầy không có một bằng chứng nào, có thể chỉ phát xuất từ thái độ hiềm khích của ông André Salles đối với những chí sĩ Việt Nam. Ông Niox cũng không tin và cho biết thêm thanh gươm không bị mất cắp, chỉ cái bao gươm thôi (Note C).11 Theo Đại tá Payard, bao gươm không phải bằng vàng mà mạ vàng, hai vòng ngoài (chape) và đường viền đồng (bouterolle) đều nạm đá cả hai mặt. Móc vòng đai (crochet de ceinture) và khâu treo (bélière) bằng lụa và vàng nạm ngọc san hô, vòng đai bằng lụa và vàng cũng bị mất cắp cùng bao gươm (Note E).12 Cần giải thích thêm chăng bao gươm và đai gươm mềm, dễ xếp vào túi hơn thanh gươm dài cứng…

    Theo hai học giả quan tâm đến những bảo vật của hoàng gia thì vua Gia Long còn có một thanh gươm khác mang tên Thanh gươm quy y. “Thanh gươm này nguyên là bửu kiếm của tiên triều, thường dùng để chém đầu giặc, những kẻ phản quốc… Một điều lạ là nếu ngày mai có người bị giết thì đêm ấy gươm đã thoát ra khỏi bao. Vua Gia Long thấy thanh kiếm ưa giết người nên đem dâng cửa Phật và mới gọi là Thanh gươm quy y (Quốc triều chánh biên)”.13 Có lẽ là tình cờ, hai cái gươm của vua Gia Long đều có sự tích với cái bao: Thanh kiếm Thái A không còn bao nữa, còn Thanh gươm quy y tự thoát ra bao, bây giờ ở đâu? May ra, ví chi được trưng bày trước những cặp mắt dửng dưng của người ngoại quốc, nó được kín đáo thờ phụng như cặp kiếm của vua Hàm Nghi ở thôn Phú Hòa: “Một mái nhà tranh. Một tấm lòng thành. Một bảo tàng lòng dân. Một ngôi làng sơn cước cũng làm nên một cõi sống đẹp như huyền sử khi con người không quên quá khứ”.14

    Xô thành tiết đại thử 2007

    V.Q.Y.

    Tài liệu tham khảo

    1 Nguyễn Thanh Giang, Lữ Huy Nguyên, Từ điển từ ngữ điển cố văn học, (Hà Nội: Văn học, 1989), 569; Nguyễn Thanh Giang, Từ ngữ văn Nôm, TPHCN: Khoa học xã hội, 1998: 673.

    2 Diên Hương, Thành ngữ điển tích từ điển, (Đồng Tháp: Đồng Tháp, 1992), 117-118.

    3, 5, 8, 9, 10, 11, 12 L. Cadière, H. Cosserat, “Documents A. Salles”, Bulletin des Amis du Vieux Hué, 4 (1933), 295-301.

    4 Dominique Rolland, “Le sabre de l’Empereur Gia Long”, Bulletin de la Nouvelle Association des Amis du Vieux Hué, 9/2005, 3-17.

    6, 14 Văn Cầm Hải, “Gặp kiếm báu và voi vàng của vua Hàm Nghi”, www.tuoitre.com.vn, 10/02/2007.

    7 Nguyễn Quang Trung Tiến, “Theo dấu chân vàng của vua Hàm Nghi”, Huế Xưa Nay, 80 (3-4)/2007. 30-39.

    13 Bửu Diên, Hoàng Anh, “Thanh gươm của vua Gia Long, vị vua đầu tiên của triều Nguyễn”,  Nghiên cứu và Phát triển, 4 (34)/2001, 55-9.

  • Quả bom kỳ quái nhất chiến tranh Việt Nam: Chiếc bồn cầu

    Quả bom kỳ quái nhất chiến tranh Việt Nam: Chiếc bồn cầu

    Đây có thể coi la phi vụ “ném bom” kỳ quái nhất trong chiến tranh Việt Nam năm 1965 của không lực Hoa Kỳ.

    Quả bom kỳ quái nhất chiến tranh Việt Nam: Chiếc bồn cầu
    Trong chiến tranh Việt Nam, không quân Mỹ từng thực hiện một phi vụ cực kỳ quái đản: Ném một chiếc… toilet năm 1965.
    Quả bom kỳ quái nhất chiến tranh Việt Nam: Chiếc bồn cầu
    Phi vụ này được các phi công chiến đấu của Phi đoàn cường kích 25 trên tàu sân bay USS Midway thực hiện nhằm kỷ niệm để đánh dấu cột mốc 6 triệu cân Anh bom đã được thả kể từ khi tham chiến ở Việt Nam.
    Quả bom kỳ quái nhất chiến tranh Việt Nam: Chiếc bồn cầu
    “Quả bom toilet” này vốn là một chiếc toilet trong nhà vệ sinh của tàu sân bay. Nó đã hỏng và đáng ra phải bị ném xuống biển. Tuy nhiên, một sĩ quan của tàu sân bay USS Midway đã nảy sinh ý tưởng kỳ quặc khiến nó bất đắc dĩ đi vào lịch sử.
    Quả bom kỳ quái nhất chiến tranh Việt Nam: Chiếc bồn cầu
    Chiếc toilet đã được “chế” thành một quả bom với kíp nổ và các cánh đuôi. Nó còn được gắn phù hiệu của Phi đoàn cường kích 25 trước khi gắn lên giá bom của một chiếc Máy bay Skyraider A-1H mang biệt danh “Con Hổ Giấy II”.
    Quả bom kỳ quái nhất chiến tranh Việt Nam: Chiếc bồn cầu
    Phi vụ ném toilet được tiến hành vào ngày 4/11/1965. Phi công lái máy bay thực hiện phi vụ này là Clarence W. Stoddard, Robin Bacon.
    Quả bom kỳ quái nhất chiến tranh Việt Nam: Chiếc bồn cầu
    Dù không được nhiều người biết đến, nhưng phi vụ ném bom lạ lùng này trong chiến tranh Việt Nam năm 1965 của không quân Mỹ quả thực là một sự kiện hi hữu trong lịch sử chiến tranh của thế giới.
    Theo Tách Cà Phê
  • Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    Tiếp nối bài viết về vũ khí người Việt Cổ: https://hinhanhvietnam.com/vu-khi-nguoi-viet-co/  và Bộ sưu tập Kiếm – Đao của các danh tướng Việt Nam

    Dưới đây là bảng danh sách những loại vũ khí, binh chủng có bằng chứng xác nhận là đã thật sự được sử dụng – hoặc ít nhất, được biết đến – vào đời Trần. Để tránh việc suy luận nhiều khi có thể dẫn đến sai lầm, bài viết này loại bỏ những thông tin về vũ khí được nhắc đến ở những triều đại Ngô – Đinh – Lý trước đó. Các thông tin đó sẽ được đề cập ở những bài viết khác, tương ứng với triều đại của nó. Bài viết cũng loại bỏ phần chiến thuyền, vì đây là một đề tài phức tạp, gắn liền với binh chủng thuỷ quân, cần có một bài riêng.

    1/ Giáo + khiên:

    – Trên chiếc thạp bằng sứ tráng men thời Trần, ta thấy vẽ hình các chiến binh cầm giáo và khiên đang tập luyện với nhau.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    Thạp gốm đời Trần

    = > Như vậy, vào đời Trần, có thể người ta thường sử dụng giáo kết hợp với khiên.

     

    2/ Gậy:

    – Sứ giả Nguyên là Trần Phu trong cuốn An Nam Tức Sự của mình miêu tả về dân binh đời Trần như sau:

    “ Mỗi châu huyện có quan gọi là “tướng tưu”, coi việc tuần tra, kiêm lĩnh quân sĩ. Có biến động thì lệnh bọn tráng đinh đi đến, các đồ khí giới đều tự trang bị, không có cung tên, chỉ cầm phiêu thương, nỏ thuốc độc, cũng có người cầm cây gỗ trắng

    ( Nguyên văn viết là: “ 无弓矢,惟持药弩标枪,亦有操白梃者 – vô cung thỉ, duy trì dược nỗ phiêu thương, dựu hữu thao bạch đĩnh giả”. Văn bản gốc miêu tả cây gậy dưới cái tên “ bạch đĩnh”.)

     

    3/ Lao:

    – Cũng Trần Phu ở trên đã xác nhận trong số các vũ khí của dân binh đời Trần, có một thứ mà ông gọi là phiêu thương-标枪. Phiêu thương là cách người Trung Quốc…hiện đại dùng để gọi cây lao. Đáng tiếc là ta không dám chắc người đời Nguyên có sử dụng cách gọi đó với cùng một nghĩa hay không.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    hai loại mũi giáo đời Trần khai quật được. Hình từ sách Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh, tập 24. Có thể mũi lao cũng trông như thế này.

    4/ Nỏ thuốc độc:

    – Cũng Trần Phu ở trên đã xác nhận trong số các vũ khí của dân binh đời Trần, có một thứ mà ông gọi là dược nỗ-药弩, tức nỏ thuốc độc.

    – Nguyên Sử cũng xác nhận tướng Nguyên là Lý Hằng đã bị tên độc bắn chết khi tham chiến ở ta trong cuộc xâm lăng lần thứ 2. Nhưng sách không thể xác nhận được mũi tên đó được bắn bằng cung hay nỏ.

    –  Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, năm 1305 viết rằng:

    “ Bấy giờ có viên độc bạ là Trần Cụ tính khoan hậu, cẩn thận, thật thà, giỏi ngề đánh cá,bắn nỏ và chơi cầu. Vua sai dạy thái tử các nghề ấy.

    …Người đời bắn nỏ, chân đứng cũng như bắn cung, tức là kiểu chữ “đinh” không thành, chữ “bát” không ngay. Cụ thì đứng ngay ngắn mà bắn và bảo mọi người:”Phàm bắn cung thì tay trái giơ ra phía trước nắm lấy thân cung, tay phải kéo dây cung về phía sau, mình đã  nghiêng thì chân cũng phải lệch, còn bắn nỏ thì đưa cân bằng ra phía trước, cho nên khi cầm nỏ mà bắn, thân mình ngay ngắn, thì cớ gì chân lại phải đứng lệch?”.”

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    tranh đi săn tù binh trên thạp gốm đời Trần. Ở góc phải có xuất hiện một thứ không rõ là cung hay nỏ.

    5/ Cung tên:

    – Cũng chi tiết về Trần Cụ mà Toàn Thư chép ở trên, ta có thể thấy người đời Trần có hiểu biết về cung và thật sự biết bắn cung. Bằng chứng là Trần Cụ đã phân tích sự khác biệt giữa cách bắn cung và bắn nỏ như ta thấy. Như vậy, lời nói của Trần Phu không hẳn phủ nhận việc người Việt sử dụng cung tên, mà là xác nhận dân binh đời Trần không sử dụng loại vũ khí này.

    – Trong Hịch tướng sĩ, Trần – Quốc Tuấn khuyên các tướng phải “huấn luyện quân sĩ,tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”.

    – Nguyên Sử cũng xác nhận tướng Nguyên là Lý Hằng đã bị tên độc bắn chết khi tham chiến ở ta trong cuộc xâm lăng lần thứ 2. Nhưng sách không thể xác nhận được mũi tên đó được bắn bằng cung hay nỏ.

    Điều khó khăn ở đây là ta không thể biết được cung tên thời Trần được chế tạo bằng loại chất liệu gì, để qua đó ước lượng lực bắn và tầm bắn của cung Việt thời đó.

     

    6/ Khiên:

    – Như trên đã nói, thạp sứ đời Trần có hình ảnh mô tả binh sỉ sử dụng khiên và giáo.

    – Trong An Nam Tức Sự, sứ giả Trần Phu miêu tả về các vương hầu như sau:

    “ Nắm việc nước có hai người, chú của vua là Thái sư Trần Quang Khải và em là Thái úy Trần Đức Diệp. Việc nước lớn nhỏ, Khải, Diệp đều nắm giữ. Hễ ngồi kiệu đến dưới cửa điện thì có hai người cầm hai cái mộc, tròn như cái gương, màu xanh, rộng sáu thước, trên mộc vẽ hình Mặt trăng, Mặt trời, sao Bắc đẩu, 28 ngôi sao, ý là để tự phòng vệ vậy.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    Một chiếc thạp đời Trần khác, miêu tả người chiến binh sử dụng khiên cùng một loại vũ khí lạ, trông như chày.

    – Theo sách Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh, người ta đã khai quật được một cái khiên gỗ dài tới 1 met, có hình dạng như sau:

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    khiên bằng gỗ, cao 1 met

    7/ Sóc:

    là loại giáo dài khoảng 4,1 met.

    – bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão: “Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu” ( cắp ngang ngọn sóc đã được mấy mùa thu rồi)

    – Trần Quang Khải sau khi đánh thắng trận Chương Dương – Thăng Long đã làm thơ ca ngợi chiến công, trong đó có câu “Đoạt sáo Chương Dương độ” ( đoạt sóc ở Chương Dương)

    = > Theo những bài thơ này thì sóc được cả quân ta lẫn quân Nguyên sử dụng.

     

    8/ Kích:

    phiên bản cao cấp hơn của giáo, cách sử dụng cũng khó hơn rất nhiều.

    – Trong Bạch Đằng Giang Phú của Trương Hán Siêu có viết: “ chiết kích trầm giang”. Cụm từ này được sách giáo khoa dịch là “ sông chìm giáo gẫy”, nhưng kỳ thực ý nghĩa của nó là “ những ngọn kích gẫy trầm mình dưới đáy sông”.

    Tuy vậy, bài phú này mang nhiều tính ước lệ. Ngoài việc xác nhận người đời Trần biết đến sự tồn tại của kích ra, ta không dám chắc nó có thật sự khẳng định binh sĩ hai bên sử dụng loại vũ khí này hay đây chỉ là một cách nói cường điệu trong văn vẻ mà thôi. Ngoài ra, ta cũng không có tư liệu hình ảnh gì về kích thời Trần.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    Các mẫu kích trong đồ nghi trượng thời Nguyễn

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    Phương Thiên Họa Kích trong tranh đời Nguyễn, xuất hiện trong cuốn ” techique du people Annam”

    9/Câu liêm:

    loại vũ khí có cán dài, lưỡi quắm, dùng để móc hoặc cắt dây leo.

    – Trong trận Bạch Đằng (1288), tướng Nguyên là Phàn Tiếp bị thương nhảy xuống nước, quân ta dùng câu liêm móc lên bắt sống.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    – Theo sách Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh, người ta cũng đã khai quật được một lưỡi câu liêm đời Trần, hình dáng như sau ( có vẽ hai mũi câu liêm đã bị gãy):

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

     

    10/ Đao kiếm:

    Theo người Việt thường hình dung:

    – Kiếm là thứ vũ khí cán ngắn, thân kiếm thanh mảnh, mũi nhọn, lưỡi có thể dài hoặc cong, thường dùng để đâm hoặc chém.

    – Đao được xem là tương tự kiếm nhưng thân thường to bản và có lưỡi cong, chủ yếu dùng để chém.

     

    Thật ra Trung Quốc và các nước Đông Á khác không phân loại như vậy. Thứ người Việt thường xem là “ đao” kia thực chất là mẫu đao kiểu Tống-Minh,có lưỡi cong và thân thường to bản. Thế nhưng, đó chỉ là một trong rất nhiều kiểu đao mà thôi.

     

    Theo cách phân loại của Trung Quốc, được cả Hàn và Nhật đồng tình sử dụng:

    –  Kiếm: có 2 lưỡi, có thể dùng để đâm hoặc chém

    –  Đao: có 1 lưỡi, thiên về chém Nhưng vẫn có thể dùng để đâm ( nếu có mũi nhọn).

    * Katana -刀, trong tiếng Nhật kỳ thực có nghĩa là đao, không phải là kiếm như người Việt thường gọi.

    * Cần phải nói thêm rằng, trước khi đụng độ với quân Mông Cổ, đao kiếm các nước Đông Á như Trung Quốc, Hàn, Nhật đều thẳng tắp. Đao cong mà ta thấy sau này là do ảnh hưởng từ vũ khí của người Mông Cổ.

     

    Như vậy, để tránh những rắc rối có thể xảy ra do việc phân loại, tôi gộp hết cả hai loại vào một nhóm.

    Nhà Trần để lại một số tư liệu về đao kiếm như sau:

    – Trong bài Bạch Đằng Giang Phú, Trương Hán Siêu mô tả quân nhà Trần trong trận Bạch Đằng như sau:

    ,  – Tì hưu lục quân, binh nhẫn phong khỉ”

    Từ “ nhẫn”-có thể dùng để ám chỉ vũ khí có mũi nhọn, lại cũng có thể dùng để ám chỉ vũ khí có lưỡi để chém ( VD: đao nhẫn –  : lưỡi đao). Như vậy, từ này có thể dùng để cùng lúc ám chỉ cả giáo, đao, kiếm và tất cả các vũ khí dùng để đâm hoặc chém khác.

     

    – Đao còn được nhắc đến gián tiếp ở các sự kiện như sau trong Toàn Thư:

    + “1285: Tháng 5, ngày mồng 3, hai vua đánh bại giặc ở phủ Trường Yên2, chém đầucắt tai giặc nhiều không kể xiết.”

    + “ 1285: Hôm đó, ta đánh bại giặc ở Tây Kết, giết và làm bị thương rất nhiều, chém đầu Nguyên Soái Toa Đô8”

    + Năm 1288, có người tên Đặng Long hàng giặc, “ hắn bị bắt, đem chém để răn bảo kẻ khác.”

    + Năm 1309: “ Tên Hân bị chém ở cầu Giang Khẩu”.

    Còn rất nhiều dòng có nội dung tương tự thế. Vũ khí dùng để chém người ở đây tuy không được nói rõ, nhưng ta có thể dễ dàng nhận biết là đao hoặc kiếm ( dù thiên về đao hơn).

     

    – tranh Trúc Lâm Đại Sĩ Xuất Sơn Đồ có lẽ là bằng chứng rõ ràng nhất về sự xuất hiện của đao kiếm đời Trần. Trong tranh có vẽ các thị vệ cầm đao đang đứng hầu. Cây đao trong tranh là loại đao cong, cho thấy nhà Trần đã rất nhanh chóng tiếp thu mẫu vũ khí này trong quá trình chiến đấu với người Mông Cổ.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    quân hầu cầm đao cong trong tranh Trúc Lâm Đại Sĩ Xuất Sơn Đồ đời Trần.

     

    11/ Kỵ binh:

    – Được Toàn Thư nhắc đến trong trận Bình Lệ Nguyên năm 1258. Trận này miêu tả tướng Lê Tần “ một mình một ngựa ra vào trận giặc ( Mông Cổ), sắc mặt bình thản như không”.

    Tuy thế, sử không miêu tả rõ hơn về trang bị giáp trụ lẫn vũ khí mà kỵ binh thời này sử dụng. Nó cũng không miêu tả quy mô kỵ binh đời Trần chi tiết như thế nào.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    thạp gốm đời Trần, vẽ cảnh người cưỡi ngựa. 

     

    12/ Tượng binh:

    – Toàn Thư có vài lần nhắc đến voi vào đời Trần như sau “ 1269: Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành dâng voi trắng.”. Thế nhưng, không thật sự có một dòng nào nhắc đến voi chiến vào đời Trần.

    – Trong các sản phẩm thủ công nghiệp, chúng ta vẫn còn thấy hình ảnh voi trên các thạp gốm tráng men đời Trần.

    voi trên thạp gốm đời Trần

    – Ngoài ra, bảo tàng Lịch Sử Quốc Gia vẫn còn lưu lại một cái bình trà hình con voi có quản tượng ngồi trên nó.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    Như vậy, dưới đời Trần, người Việt thật sự có tiến hành thuần hoá và sử dụng voi. Tuy nhiên, ta không có bằng chứng khẳng định việc họ dùng voi trong chiến trận. Ta chỉ có thể suy đoán rằng thời Trần vẫn có tượng binh, vì binh chủng này đã từng được sử dụng vào đời Lý trước đó ( Thân Cảnh Nguyên đánh quân Tống xâm lược ở ải Quyết Lý năm 1077) và đời Hồ sau đó ( nhà Hồ sử dụng voi chiến trong trận Đa Bang năm 1407).

     

    13/ Máy bắn đá:

     – Nguyên sử, phần An Nam truyện có chép việc sử dụng pháo của quân nhà Trần. Sự kiện đó diễn ra vào tháng 2-1285. Quân Nguyên lúc đó tiến đến gần Đông Bộ Đầu, đóng ở bên kia sông Nhị, chuẩn bị tiến công vào Kinh thành Thăng Long. Quân ta do vua Trần chỉ huy từ bên này sông đã “bắn pháo hô to, thách đánh” (nguyên văn của Nguyên sử là: Phát pháo đại hô cầu chiến.). Nguyên văn chữ Hán ghi chữ “ pháo” bằng bộ “ thạch” ( đá), ám chỉ máy bắn đá.

    Ta không biết đời Trần sử dụng loại máy bắn đá cụ thể gì. Nhưng theo truyền thống các nước Á Đông như Trung Quốc, Nhật thì trong khu vực thịnh hành loại máy bắn đá giật tay thô sơ.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    máy bắn đá giật tay, kiểu máy bắn đá rất phổ biến ở Á Đông.

     

    14/ Hoả súng:

    là phiên bản rất sơ khai của súng ống hiện đại. Kích cỡ của nó lúc đó có thể to như đại bác, nhưng thường là những ống đồng nhỏ, buộc lên đầu cán gỗ để người lính cầm tay khi bắn.

    Loại vũ khí này bắt đầu xuất hiện vào cuối đời Trần. Nhưng hiện nay, ta không còn lưu lại được mẫu hoả súng nào của triều đại này nữa. Thông tin duy nhất còn lại về sự xuất hiện của nó là trong trận chiến cuối cùng với Chế Bồng Nga được Toàn Thư ghi chép:

    “ Khát Chân liền ra lệnh các hoả súng nhất tề nhả đạn,bắn trúng thuyền Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền, Bồng Nga chết, người trong thuyền ồn ào kêu khóc”

    Điều đáng lưu ý ở đây là sức mạnh đáng kể của hoả súng nhà Trần. Vào thế kỷ XIV, các hoả súng đương thời trên thế giới thường có lực bắn và tầm bắn yếu. Thế nhưng, hoả súng nhà Trần – dù không biết được bắn ở cự ly nào – đã xuyên thủng cả ván thuyền và giết chết vua Chiêm. Đây là một điều đặc biệt đáng ghi nhận.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    mẫu hoả súng của nhà Nguyên- Mông thế kỷ XIV

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    cách sử dụng hand-cannon đương thời

    15/ phủ:

    một cây rìu có cán dài.

    Quân đội thời Trần sử dụng những vũ khí gì?

    Nằm ở góc trái tấm hình dưới đây là cây phủ đầu rồng đời Trần được khai quật. Tuy vậy, không có bằng chứng gì phủ được nhà Trần sử dụng làm vũ khí, bởi vì nó vốn được các triều đại phong kiến dùng làm…đồ nghi trượng mà thôi.

     

    16/ Nỏ nước:

    Website này đề cập đến An Nam Tức Sự của sứ giả Trần Phu:

    http://thuvienhoasen.org/a12913/phan-i-nghien-cuu-ve-tran-nhan-tong-chuong-v-vua-tran-nhan-tong-va-su-nghiep-xay-dung-hoa-binh-thoi-hau-chien

    Theo đó, Trần Phu từng nhắc đến một thứ vũ khí gọi là nỏ nước:

    “Nỏ nước, một tên khác là xá sa, người bắn dùng hơi để bắn xa được ba mươi bộ. Bắn trúng thì thấy có cái bóng màu hồng và ngứa thì liền lấy dao khoét bỏ mảnh thịt đó đi. Không thế thì ngứa cho đến chết “.

     

    Thế nhưng, do thiếu bản chữ Hán, tôi không thể kiểm chứng được thông tin này. Ngoài ra, cách diễn tả của đoạn trích cũng quá khó hình dung loại vũ khí trên có hình thù và hoạt động như thế nào.

     

    17/ Máy bắn nỏ:

    Trong An Nam Chí Lược, Lê Trắc xác nhận quân đội nhà Trần sử dụng loại thuyền tiêu chuẩn có tên là Mông Đồng. Mỗi chiếc thuyền này có thể chở khoảng 50 người gồm một nửa là tay chèo, nửa kia là quân lính. Ngoài ra, mỗi thuyền còn được trang bị 2 máy bắn nỏ.

    Tuy vậy, ta không có thông tin chi tiết về loại máy bắn nỏ được nhà Trần sử dụng.

    Nguồn: Daiyevon Blog