Author: Hình ảnh Việt Nam

  • Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Sau mỗi dịp Tết Nguyên đán, các lễ hội mùa xuân trên khắp đất nước bắt đầu được khai hội. Lễ hội mùa xuân ở Việt Nam là một trong những nét đẹp văn hóa và tâm linh đậm đà bản sắc dân tộc. Các lễ hội mỗi vùng miền có đặc trưng riêng luôn thu hút được đông đảo du khách trong và ngoài nước đến chiêm bái, tham quan.

    Mùa xuân ở Việt Nam thường bắt đầu từ khoảng tháng 2 cho đến tháng 4 và là thời gian diễn ra nhiều lễ hội nhất. Thời tiết thường xuất hiện những cơn mưa phùn, mưa nhỏ nhiều ngày, độ ẩm trong không khí tăng cao nên gây ra thời tiết nồm ẩm. Đây là khoảng thời gian ấm áp nhất trong năm, với thời gian ban ngày rất dài.  Xem bài viết:  Tết 3 miền Bắc – Trung – Nam

    Lễ hội mùa xuân nổi tiếng ở miền Bắc

     

    Lễ hội chùa Hương

    Lễ hội Chùa Hương hay trẩy hội Chùa Hương là lễ hội lớn nhất và kéo dài nhất ở Việt Nam. Lễ hội chùa Hương được tổ chức tại khu thắng cảnh Hương Sơn nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.

    Lễ hội Chùa Hương kéo dài từ ngày mùng 6 Tết cho tới hết tháng 3 Âm lịch. Đây là một lễ hội lớn được tổ chức hằng năm, thu hút số lượng đông đảo các Phật tử trên cả nước tham gia hành hương.

    Lễ hội gò Đống Đa

    Lễ hội gò Đống Đa hay còn gọi là lễ hội chiến thắng là một trong những lễ hội lớn diễn ra tại quận Đống Đa, Hà Nội. Lễ hội được diễn ra vào ngày mùng 5 Tết.

    Lễ hội gò Đống Đa được tổ chức để tưởng nhớ đến những chiến công chống giặc ngoại xâm cứu nước của vua Quang Trung. Lễ hội mang những nghi lễ truyền thống, cờ hoa rực rỡ cùng tiếng trống chiêng thôi thúc chiến đấu, làm sống dậy những trang sử vẻ vang của dân tộc.

    Lễ hội Khai ấn đền Trần

    Lễ khai ấn đền Trần diễn ra giữa đêm 14 và mở đầu cho ngày 15 tháng Giêng, tại Khu di tích đền Trần, phường Lộc Vương, TP Nam Định. Đây là lễ hội mùa xuân nổi tiếng Việt Nam để tri ân công đức của các vị vua Trần. Hội sẽ được bắt đầu với lễ khai ấn, diễn ra vào giờ Tý và ấn được phát tại 3 nhà: nhà trưng bày đền Trùng Hoa, nhà Giải Vũ và một điểm trong khu vực vườn cây thuộc đền Trần.

    Lễ hội mùa xuân đền Trần những năm gần đây thu hút rất nhiều du khách thập phương với mong muốn một năm mới phát tài, thành đạt.

    Lễ hội Yên Tử

    Yên Tử không chỉ nổi tiếng với cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ mà còn là nơi tín ngưỡng tâm linh của rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Yên Tử chính là nơi bắt nguồn của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và cũng là trung tâm Phật Giáo Việt Nam.

    Lễ hội Yên Tử (Quảng Ninh) sẽ bắt đầu từ ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm và kéo dài đến tận tháng 3 Âm lịch. Du khách có thể tới Yên Tử để tham quan ngôi chùa bằng đồng ấn tượng nằm trên đỉnh núi, du xuân vãn cảnh, thưởng ngoạn tiết trời xuân. Nơi đây du khách cầu bình an, may mắn cho cả năm thuận buồm xuôi gió.

    Yên Tử được xem như một điểm hấp dẫn du lịch tôn giáo, lịch sự, văn hóa và sinh thái. Bất kỳ ai đến với lễ hội Yên Tử, nhất là đến được chùa Ðồng đều cảm thấy choáng ngợp bởi sự kỳ vĩ của thiên nhiên. Những giá trị tinh thần, văn hoá của tổ tiên; sự dâng hiến tinh khiết, trong hoa lá…

    Lễ hội chợ Viềng

    Phiên chợ Viềng tại Nam Định nổi tiếng trong các lễ hội mùa xuân tại Việt Nam. Đi chợ Viềng người dân mong muốn “mua may bán rủi”. Dù không mang nhiều tính thương mại nhưng lại có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, cầu may theo quan niệm truyền thống.

    Lễ hội diễn ra vào đêm mùng 7, rạng sáng mùng 8 tháng Giêng Âm lịch. Lễ hội thu hút rất đông người dân, khách du lịch tới tham gia. Các mặt hàng tại chợ Viềng hết sức đa dạng, từ đồ ăn cho tới các vật dụng thôn quê quen thuộc như: thúng, đơm, giỏ, đó, đòn gánh, cuốc xẻng… mỗi du khách có thể lựa chọn mua một thứ đồ yêu thích để lấy “may”.

    Lễ hội Đền Hùng – Giỗ Tổ Hùng Vương

    Lễ hội Đền Hùng là một trong những lễ hội mùa xuân lớn nhất cả nước nhằm tưởng nhớ công ơn của các vị vua Hùng đã có công dựng nước và giữ nước. Lễ hội được tổ chức trong vòng 6 ngày từ mùng 5 đến ngày 10 tháng 3 Âm lịch.

    Đến lễ hội, du khách sẽ được chứng kiến màn rước kiệu vua và lễ dâng hương. Ngoài ra còn rất nhiều hoạt động văn hóa và trò chơi dân gian hấp dẫn như: Hát xoan, đấu vật, kéo co, bơi…

    Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Lễ hội Chùa Hương là lễ hội lớn nhất và kéo dài nhất ở Việt Nam. Ảnh: TL

    Lễ hội mùa xuân miền Trung

     

    Lễ hội Đền vua Mai

    Lễ hội Đền vua Mai diễn ra từ ngày mùng 3 đến mùng 5 Tết. Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ đến vua Mai Hắc Đế, tên thật là Mai Thúc Loan. Vị vua này được sinh ra và lớn lên lại xã Đông Liệt (nay đã được đổi tên thành xã Nam Thái, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

    Lễ hội vật làng Sình

    Lễ hội vật truyền thống làng Sình mang đậm những nét văn hóa đặc sắc của cố đô Huế. Lễ hội diễn ra vào ngày mùng 10 tháng Giêng Âm lịch hàng năm.

    Lễ hội mang đến những trải nghiệm tuyệt vời, kích thích việc rèn luyện sức khỏe, sự tự tin, lòng dũng cảm đối với thế hệ thanh niên.

    Lễ hội Cầu Ngư

    Lễ hội Cầu Ngư còn có tên gọi khác là Lễ hội Cá Ông. Lễ hội được xem là một trong những lễ hội văn hóa đặc trưng của các ngư dân làng chài ven biển Nam Trung Bộ.

    Tham dự lễ hội, du khách có thể để ngắm nhìn những bộ trang phục truyền thống cùng phong tục thờ cúng Cá Ông theo truyền thuyết dân gian. Lễ hội sẽ được tổ chức vào tháng Giêng hàng năm với mong muốn cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy khoang.

     

    Lễ hội mùa xuân ở miền Nam

     

    Lễ hội núi Bà Đen

    Lễ hội núi Bà Đen (Tây Ninh) là một trong những lễ hội lớn nhất miền Nam. Lễ hội bắt đầu diễn ra từ mùng 4 Tết và kéo dài suốt tháng Giêng. Tuy nhiên, bắt đầu từ chiều 30 Tết cho đến hết tháng Giêng Âm lịch du khách thập phương đã đổ về đây dâng hương, cầu bình an, may mắn cho bản thân, gia đình. Ngoài ra, du khách có thể ngắm phong cảnh hùng vĩ, tận hưởng không khí nơi đền chùa thiêng liêng.

    Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu

    Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu (hội chùa Bà – Bình Dương) bắt đầu từ ngày 13 tháng Giêng và diễn ra trong 3 ngày. Lễ hội mang đậm nét văn hóa độc đáo của vùng Đông Nam Bộ.

    Ở lễ hội chùa Bà Thiên Hậu, người dân thường bày bàn cúng trước cửa vào đêm 13 tháng Giêng để chuẩn bị rước Bà vào sáng hôm sau. Dân chúng khắp nơi đổ về thắp hương và cầu mong phúc lộc, bình an.

    Lễ hội đền Đức Thánh Trần

    Lễ hội đền Đức Thánh Trần là một trong những lễ hội tâm linh lớn nhất của TP Hồ Chí Minh. Lễ hội được diễn ra từ ngày mùng 8 đến ngày 10 tháng Giêng Âm lịch hàng năm.

    Lễ hội diễn ra nhằm tri ân công đức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Đồng thời là dịp để giáo dục truyền thống, lịch sử cho thế hệ thanh niên kế cận tiếp bước.

    Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Lễ hội mùa xuân ở Việt Nam là một trong những nét đẹp văn hóa và tâm linh đậm đà bản sắc dân tộc. Ảnh: TL

    Những lưu ý người tham gia lễ hội mùa xuân cần phải biết để không phạm luật

    Tại Khoản 2, Điều 6, Nghị định 110/2018/NĐ-CP về quản lý và tổ chức lễ hội có những quy định mà người tham gia lễ hội cần phải biết để không phạm luật như sau:

    – Chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật; nội quy thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội;

    – Ứng xử có văn hóa trong hoạt động lễ hội; trang phục lịch sự, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam; không nói tục, chửi thề xúc phạm tâm linh, gây ảnh hưởng xấu tới không khí trang nghiêm của lễ hội;

    – Thắp hương, đốt vàng mã đúng nơi quy định; không chen lấn, xô đẩy gây mất trật tự an ninh; giữ gìn vệ sinh môi trường;

    – Không tổ chức hoặc tham gia các hoạt động mê tín, dị đoan, cờ bạc và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

    – Không thực hiện việc đổi tiền có chênh lệch giá trong khu vực di tích, lễ hội;

    – Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngoài việc chấp hành nghiêm quy định trên còn phải thực hiện các quy định sau:

    Không đi lễ hội trong giờ hành chính;

    Không dùng xe công và các phương tiện công (hoặc thuê khoán phương tiện) tham gia lễ hội (trừ trường hợp thuộc thành phần tham gia tổ chức lễ hội hoặc được giao thực thi nhiệm vụ).

  • Nguồn gốc của nước mắm Việt

    Nước mắm là đặc sản của Việt Nam (hiện nay gọi là nước mắm truyền thống), trải qua chiều dài lịch sử có thể đã tồn tại từ trước thời Chúa Nguyễn. Lịch sử đó thế nào, xin nhường lại cho những nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực. 

    Sử ghi, đời Tiền Lê cách nay hơn ngàn năm đã phải cống nạp nước mắm cho nhà Tống. Thời đó Đại Cồ Việt chỉ kiểm soát tới châu Hoan, châu Ái (Thanh – Nghệ). Mắm có thể đã xuất hiện lúc đấy, nhưng mắm là chính, nước mắm là sản phẩm phụ, là thứ nước tươm ra từ làm mắm (cái). Nước mắm được gọi là gì vào thời đó, “lệ ngư” chăng? Với tôi vẫn còn là dấu hỏi.

    Nước mắm Phan Thiết 1935. Tranh của học sinh Trường Vẽ Gia Định, Monographie dessinée de l’Indochine, NXB Paul Geuthner
    Nước mắm Phan Thiết 1935. Tranh của học sinh Trường Vẽ Gia Định, Monographie dessinée de l’Indochine, NXB Paul Geuthner

     

    Gần đây một số bài báo cho rằng, ông Bát Xì Trần Gia Hòa ở Phan Thiết là ông tổ của nước mắm Việt Nam. Nói thế là lộng ngôn.

    Đầu thế kỷ 17, thừa sai người Ý, Cristoforo Borri, được phái đến An Nam truyền giáo và lưu lại xứ này sáu, bảy năm. Ông mô tả về nước mắm trong quyển “Xứ Đàng Trong năm 1621” (1) như sau:

     Thực ra người Đàng Trong ăn cá nhiều hơn ăn thịt. Họ chuyên chú đánh cá chủ yếu là vì họ rất ham thứ nước “sốt” gọi là balaciam làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão ra trong nước. Đây là một thứ nước cốt cay cay tựa như mù tạt (moutarde) của ta, nhà nào cũng dự trữ một lượng lớn đựng đầy trong chum, vại như tại nhiều nơi ở châu Âu, người ta dự trữ rượu. Thứ nước cá này dùng một mình thì không nuốt được, nhưng được dùng để gợi nên hương vị, kích thích tì vị để ăn cơm vốn nhạt nhẽo và không có mùi vị nếu không có thứ nước đó…

    Giữa thế kỷ 18, khi Đàng Ngoài “lấn đất” Đàng Trong, Lê Quý Đôn được cử làm Hiệp trấn xứ Thuận Hóa (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Năm 1776 ông ghi trong  “Phủ biên Tạp lục” rằng, nơi đây đã thu thuế nước mắm thay cho thuế thân.

    Rất tiếc cả hai ông Cristoforo Borri và Lê Quý Đôn đều không nói dân Đàng Trong thời ấy làm nước mắm thế nào. Tuy nhiên, chi tiết “thu thuế dân làm nước mắm” cho thấy, thời đó nước mắm được dùng khá phổ biến, dù chỉ sản xuất ở quy mô gia đình, chứ không phải là hàng tinh túy, quý hiếm đựng trong các bình sang trọng như ở La Mã, Hy Lạp…

    Năm 1931, J. Guillerm trong bài báo Kỹ nghệ nước mắm ở Đông Dương đăng trên tạp chí Các  Viện Pasteur Đông Dương đã điểm sơ qua về lịch sử nước mắm, nói khá kỹ về kỹ nghệ làm nước mắm dưới góc độ khoa học, kể cả việc buôn bán nước mắm ở Đông Dương, các trò gian lận, và biện pháp của chính quyền thuộc địa nhằm ngăn chặn nạn nước mắm giả.

    Ông Bát Xì khởi nghiệp nghề nước mắm ở Phan Thiết đầu thế kỷ 20. Nói ông có công giúp phát triển nghề nước mắm ở Phan Thiết thì được, nhưng nói Bát Xì là ông tổ nghề nước mắm, không phải lộng ngôn thì là gì?

    Các chúa Nguyễn hùng cứ phương Nam từ thế kỷ 17, như vậy nước mắm – hiểu theo nghĩa, cách làm và hương vị gần giống như nước mắm ngày nay, muộn nhất đã có từ thời Chúa Nguyễn, và ắt hẳn xuất xứ từ vùng Nam Trung Bộ (Bình Thuận – Quảng Trị), với nước mắm Mỹ Thủy (Quảng Trị), Cửa Đại, Cửa Khe (Quảng – Đà), xuống đến tận Phan Thiết. Nơi nào mới là nguồn cội của nước mắm ngày nay?

    Nước mắm là đặc sản của Việt Nam (hiện nay gọi là nước mắm truyền thống), trải qua chiều dài lịch sử có thể đã tồn tại từ trước thời Chúa Nguyễn. Lịch sử đó thế nào, xin nhường lại cho những nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực. Chỉ xin lưu ý giùm: Garum có thể là “fish sauce”, nhưng không phải là nước mắm.

    Chú thích:

    (1) “Xứ Đàng Trong năm 1621”, bản dịnh của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị.

    (2) L’ Industrie du Nuoc Mam en Indochine của J. Guillerm, tạp chí Các Viện Pasteur Đông Dương năm 1931, bản dịch của Công Khanh.

    Vũ Thế Thành (trích “Chuyện đời nước nắm”, tái bản 2021)

  • Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Tương truyền những vị vua nhà Nguyễn không quan tâm đến việc đào tạo quân đội nhiều như trước nên quân lính cùng vũ khí ngày càng lạc hậu.

    Vốn là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, triều Nguyễn tồn tại hơn 143 năm cùng nhiều đời vua chúa, mãi năm 1945 mới kết thúc sau khi Pháp xâm lược.

    Binh lính triều Nguyễn thuộc thời cận đại nên được trang bị vũ khí hiện đại hơn so với trước. Tuy nhiên, số lượng vũ khí cho binh lính có hạn, thời gian luyện tập hạn chế nên không đủ sức chống lại thực dân Pháp. Nước ta thời Pháp thuộc được Pháp chia thành 3 xứ với 3 chế độ khác nhau, lần lượt là Bắc Kỳ (Tonkin), Nam Kỳ (Cochinchine) và Trung Kỳ (Annam).

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Tại xứ Trung Kỳ (Annam), lính thú nhà Nguyễn có nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ triều đình khỏi những vấn đề từ bên ngoài. Triều đình đã cho xây dựng và đào tạo một số loại lính thú, được gọi là “Lính khố vàng”, thắt lưng được làm bằng dây vải màu vàng, có nón đội trên đầu, chóp nón làm bằng đồng thau.

    Các loại quân lính thời nhà Nguyễn gồm: “Lính kinh đô” có nhiệm vụ bảo vệ hoàng gia và kinh thành Huế, “Lính thượng tứ” gồm lính kỵ binh và lính bộ binh’ “Lính kỹ thuật” có nhiệm vụ lo binh khí và súng thần công. Lính triều đình chưa có giày dép nên vẫn đi chân đất. Binh lính thời kỳ này đã được trang bị súng hỏa mai, nhưng họ chủ yếu vẫn dùng đao và kiếm. Súng hỏa mai vẫn là loại súng thô sơ, được tạo nên từ một ống kim loại, thuốc súng và đạn dược nạp trên đầu, phải châm ngòi thì nó mới nổ.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Khả năng bắn của súng hỏa mai không nhanh, sau này nó được thay thế bằng súng trường, dùng vỏ đạn kim loại có lực bắn mạnh và nhanh hơn. Đến thời vua Gia Long còn xuất hiện thêm súng đại bác thần công, tên đầy đủ là “thần uy tướng công” hay còn gọi là súng lớn hay pháo. Loại súng này có khả năng bắn đạn ra tầm xa và lực phá hủy mạnh hơn súng hỏa mai.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Để chọn binh lính cho triều đình, thanh niên trai tráng trong làng sẽ được xã, thôn ghi vào sổ đinh, sau đó chọn lựa kỹ càng rồi gửi lên quan huyện, chuyển lên phủ. Người được chọn sẽ làm nhiệm vụ ở địa phương hoặc đưa lên triều đình đào tạo. Những người lính thú bảo vệ biên cương sẽ phải rời xa quê hương, trấn giữ biên giới trong 3 năm. Thời đó gọi là “chế độ quân dịch” còn ngày nay gọi là “nghĩa vụ quân sự”.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Công việc này rất vất vả, bao khó khăn gian khổ rình rập. Hết rừng thiêng nước độc, hùm beo, cá sấu đầy rẫy, rắn độc, muỗi hay các hiểm họa khác có thể khiến những người lính bỏ mạng bất cứ khi nào. Bên cạnh đó, việc canh gác, bảo vệ phải làm ngày làm đêm, ăn uống cực khổ, sức khỏe không ổn định, nhiều người không chết vì bệnh cũng chết bởi đói khát.

    Xem thêm bài viết:

    Sai Sót Khi Tái Dựng Trang Phục Của Các Vị Vua Triều Nguyễn

     

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu
    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Bên cạnh đó, vua triều Nguyễn ngày càng không quan tâm đến đào tạo, trang bị quân đội nhiều như trước. Ngân khố hạn chế, quân đội ngày càng lạc hậu, sa sút. Dưới thời vua Gia Long hay Minh Mạng lấy cách tổ chức của quân đội phương Tây làm kiểu mẫu, số lượng người cầm cờ giảm từ 40 xuống còn 2 người, chỉ cần chất lượng, không cần số lượng.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Đến thời vua Tự Đức, tình hình vẫn không được cải thiện khi vũ khí đều cũ kỹ, thủy binh không được chăm chút, binh pháp không được cải tiến. Cách dẫn quân, đánh trận không được cách tân mà theo hướng bảo thủ. Do đó, không có gì lấy làm lạ khi thành Gia Định dễ dàng rơi vào tay Pháp. Sau này, 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cũng phải nhường lại cho thực dân Pháp. Quân Pháp nhân cơ hội đó chiếm luôn 3 tỉnh Nam Kỳ: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu
    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Có thể thấy, triều Nguyễn không chịu cải cách quân binh, chỉ chăm chăm giữ lại cái cũ khiến cho việc đào tạo quân đội bị kìm hãm, dẫn đến việc mất nước.

    Theo songdep.com.vn

  • Luận bàn chuyện the phòng trong Truyện Kiều

    Chuyện xưa chuyện nay, luận bàn chuyện the phòng trong Truyện Kiều, giải thích một số từ khoá “bí kíp” phòng the của dân “chơi. Tâm lý, và đặc biệt là sinh lý, là một đề tài được coi là nhạy cảm ở Việt Nam. Việc thiếu những bài viết, cũng như những nghiên cứu về nó chính là một thiệt thòi cũng như khiếm khuyết rất lớn trong nền tri thức Việt.

    Luận bàn chuyện the phòng trong Truyện Kiều
    Chỉ một đoạn thơ cũng đủ để mình thấy tại sao Truyện Kiều lại được xem là đỉnh cao văn học Việt… bởi vì đọc là vậy chứ chưa chắc đã hiểu cái “vậy” nghĩa là gì.

    Trong tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du, đoạn thuật cảnh nàng Kiều sa vào lầu xanh, mụ Tú Bà thong dong dặn dò Kiều cách tiếp đãi khách làng chơi, có những câu:
    “Nghề chơi cũng lắm công phu
    Làng chơi ta phải biết cho đủ điều”
    và:
    “… ai cũng như ai,
    Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
    Ở trong còn lắm điều hay,
    Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
    Này con thuộc lấy nằm lòng,
    Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.”
    Ở đây :
    “Vành ngoài” là bề ngoài, cách đối đãi bề ngoài với khách.
    “Bảy chữ” là bảy việc ghi bằng bảy chữ để dễ nhớ. Bảy việc này là bảy việc làm ở ngoài để khách say mê.
    *

    Vành ngoài bảy chữ : (khốc, tiễn, thích, thiên, giá, tẩu, tử)

    1. Khốc: Có nghĩa là khóc, dùng nước mắt để tranh thủ lòng thương cảm của khách làng chơi. Phải khóc lóc như thật để chứng tỏ mình thành tâm, thiệt ý. Tú bà đã dạy Kiều dùng nước gừng non sống tẩm vào khăn tay để lau nước mắt thì nước mắt sẽ không khô mà còn tuôn ra như suối. Hay ở chỗ là sau khi khóc nhiều cũng sẽ ít làm đỏ mắt, nhức mắt, hay sưng mắt. Nước gừng nếu pha thêm vài vị thuốc nam lành tính thì sẽ giúp đạt được hiệu quả tối ưu nhất.

    “Mỹ nhân lệ, quân tử hàng.”
    Chuyện về nước mắt mỹ nhân nhiều không sao kể hết được, mỗi thời mỗi có, chỉ có thể đặc sắc hơn chứ không thể ít hơn. Nếu mà buộc phải kể ra thì không thể không nói đến một trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa xưa, chính là nàng Điêu Thuyền. Xin mượn đôi lời của người xưa mà ghi chép lại.
    “Mười tám lộ quân chư hầu không giết nổi Đổng Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Điêu Thuyền lại giết nổi Trác. Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không thắng nổi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Điêu Thuyền thắng nổi. Ôi, lấy chăn chiếu làm chiến trường, lấy son phấn làm khôi giáp, lấy mày ngài làm cung nỏ, lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn, lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến lược mưu cơ. Xem thế thì cái bản lãnh của “nữ tướng quân” quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!”

    Xin đừng ai coi thường nước mắt của nữ nhân, thứ vũ khí đó không phải dễ chống lại được đâu. Chính tôi đây lỡ có gặp thì buộc lòng phải bỏ chạy. Bởi nếu không chạy thì chính là sẽ xiêu lòng, rồi sai lòng.
    *
    2. Tiễn: Có nghĩa là cắt. Rủ khách cùng mình mỗi người cùng cắt một mớ tóc, kết thành một sợi rồi chia cho nhau buộc vào hai cánh tay, làm lễ “kết tóc” biểu tỏ thủy chung bền chặt, khách sẽ tưởng là mình chân thành mà không nỡ bỏ. Tốt nhất làm lễ xong thì cho vào túi gấm hoặc túi thơm, bên ngoài thêu tên hai người, hiệu quả tâm lý sẽ càng tăng.

    Nguồn gốc sâu xa của việc này là xuất phát từ hai tục lệ khi xưa, một khi động phòng và một khi hạ táng.
    Động phòng : Trong đám cưới của người Trung Hoa xưa, vào đêm tân hôn hay còn gọi là đêm động phòng hoa trúc, tân lang và tân nương sẽ thực hiện một nghi thức gọi là: “Giao ti kết long phượng, lũ thải kết vân hà, nhất thốn đồng tâm lũ, bách niên trường mệnh hoa”, nghĩa là: Tân lang và tân nương sẽ cùng ngồi trên giường, người con trai ngồi bên trái người con gái ngồi bên phải, mỗi người tự cắt một nhúm tóc của mình. Sau đó dùng sợi tóc dài nhất kết thắt lại bó buộc chặt với nhau, để biểu hiện vợ chồng kết tóc đồng tâm, mãi mãi yêu thương, sống chết có nhau mãi mãi không chia lìa. Luôn yêu thương ân ái tôn trọng lẫn nhau, tin tưởng không nghi ngờ lẫn nhau.

    Hạ táng: Vào thời nhà Hán người Trung Quốc xưa còn có một phong tục khi tổ chức tang lễ cũng có liên quan như sau. Nếu như người vợ không may mắc bệnh qua đời, người chồng sẽ phải bẻ chiếc lược hai vợ chồng dùng hằng ngày làm đôi. Một nửa còn vương những sợi tóc của người vợ lưu lại bên mình, còn một nửa bỏ vào quan tài trôn theo người chết để biểu hiện mãi mãi không quên người vợ đã kết tóc se tơ với mình, mãi mãi ghi nhớ tình cảm vợ chồng ân ái sâu đậm.

    Cơ bản là trong quan niệm của người xưa, “răng, tóc, máu, xương” là những vật có tính linh, có ý nghĩa và có giá trị khi kết nối, tương giao, hoặc dùng làm bùa ngải. Ví dụ như bùa se duyên chẳng hạn. Chính là dùng đến tâm lý hy sinh – ràng buộc.
    *
    3. Thích: Có nghĩa là đâm, chích. Lấy cây trâm chích vào cổ tay hay trên bắp đùi mấy chữ “Thân phu mỗ nhân” (người chồng thân yêu tên là mỗ), khách thấy vậy càng thêm yêu quý, tin tưởng ta. Cứ chích trước một lần, rồi dùng kem che lại, sau này chích lại nhẹ thôi, chính là khơi lớp kem thì chữ sẽ hiện ra. Như vậy sẽ lâu dài và ít đau.
    Cái này thì thời nay cũng có, mấy anh chị cô cậu yêu nhau thỉnh thoảng cũng có lúc bốc đồng, xăm tên của người yêu trên người rồi chụp hình khoe các kiểu. Sau thì xóa hoặc kiếm hình khác xăm đè lên. Mực xóa được, da tẩy được, vậy nên đừng dùng nó để minh chứng cho cái gì cả, tôi chỉ muốn nói vậy thôi. Còn muốn bốc đồng thì cứ cắn nhau hay mút nhau là được rồi, tác dụng cũng không kém đâu.
    *
    4. Thiên: Có nghĩa là đốt, dùng hương đốt vào sáu huyệt của chàng và nàng. Sau khi thề thốt, cả hai áp người vào nhau cùng đốt các huyệt trên bụng, trên cánh tay, cổ tay. Mánh khóe này thuộc phạm vi “khổ nhục kế”. Là dùng trầm hương để đốt, có thể coi như một cách châm huyệt bằng nhiệt độ.

    Cách này khó, phải học kỹ mới làm đúng được, sáu huyệt kia tương truyền là “lục tiệt dục huyệt”, có tác dụng kích thích dục tính, chủ yếu là ở nam nhân. Cách này còn có một cách luận khác, đó là sau khi bị đốt sáu huyệt, thì vị khách kia sẽ vô cùng bị kích thích, dồn hết dương khí vào việc giao hoan ngay sau đó. Khiến cho khi về nhà gặp vợ, thì dù có muốn cũng bất lực (sài hết rồi). Khiến khách nhân lệ thuộc vào phương pháp đốt huyệt đó, chỉ khi đến lầu xanh thì mới được thỏa mãn, lâu dài thì chính là hại nhiều hơn lợi. Chính là ý nghĩa của chữ “tiệt” trong cách gọi tên sáu huyệt đó.

    Còn với nữ nhân, mà ở đây là nói đến những người trong lầu xanh, trộn một chút mỡ lợn với sáp ong bôi vào trước, rồi lấy phấn đánh cho mờ đi. Thì khi đốt sẽ cháy khói và lưu sẹo bỏng y như thật, xong xuôi thì chỉ cần rửa nước là sạch. Có thể dùng cách này để vờ tự đốt mình trước, rồi mới dẫn dụ khách đốt sau. Là tuyệt chiêu trong tuyệt chiêu, là ém khách quen khiến họ không thể rời.
    *
    5. Giá: Có nghĩa là cưới hỏi làm vợ chồng. Sau khi điều tra biết khách là kẻ giàu có thì thủ thỉ, rủ rê, bàn chuyện cưới nhau. Tất nhiên khách muốn cưới thì phải bỏ ra một số tiền lớn để chuộc mình ra. Khi đã xài hết tiền thì tìm cách lật lọng để đuổi khéo khách đi. Cũng có thể dùng tú bà làm rào chắn, nói là giá cả tăng lên, mặt dày thì nói là tiền bị trộm mất, cần chuộc lại từ đầu.
    Cái này thì..
    Bắt thang mà hỏi ông trời,
    Đem tiền cho gái có đòi được không ?
    Không bàn thêm hướng đó nữa.
    Mà nói thật, chốn bụi hồng cay đắng ân tình ấm lạnh, chuyện gì họ cũng trải qua hết rồi. Cho dù ngay lúc đó là vị khách kia có thật lòng thì sao ? Có ai trai tơ mà đi lấy gái lầu xanh hay không, còn gia đình dòng họ nữa chứ, rước được về thì rồi liệu sống có được yên?

    Còn mấy lão gia, mấy ông chủ kia, ai mà không vợ con đề huề, họ phụ bạc người chung thân cả đời của họ được, thì họ cũng phụ bạc mình được. Trẻ đẹp thì đã sao, trẻ đẹp mãi được à, cái gì mua bằng tiền thì cũng đều có hạn sử dụng hết. Tới lúc hết hạn rồi thì liệu có còn đủ sức để quay về lầu xanh kiếm ăn hay không ? Còn chưa nói tới việc cái quá khứ phấn son kia nó đeo bám. Chữ “nghiệp” khó thấy, nhưng không phải là không có.

    Tốt nhất là cứ kiếm tiền, vì tiền cái đã, rồi khi đã hết thời thì hãy tính đến chuyện đi phương trời khác mà mưu sinh, sống bình yên hoặc làm lại từ đầu, sao cũng được. Dù là xưa hay nay, thì phụ nữ thông minh đừng đặt tương lai hay hạnh phúc của mình vào tay đàn ông, đặc biệt là thứ đàn ông mò tới lầu xanh. Đặt vào tiền đáng tin hơn. (khá gần với chân lý)
    *
    6. Tẩu: Có nghĩa là chạy. Đây là kế “đà đao”. Nếu thấy dan díu đã lâu, khách đã hết tiền, muốn chuộc không có tiền mà muốn chơi cũng không còn tiền đâu chơi tiếp thì chỉ còn cách tống khứ khách đi cho rảnh. Lúc ấy phải giả vờ rủ khách đi trốn, hẹn giờ hẹn chỗ nhưng không đến, đánh tiếng cho lính đi bắt kẻ bỏ trốn, thế tất khách phải sợ mà trốn thật. Nếu cần thì thuê họa sư vẽ giấy truy nã, rồi dán gần cổng lầu xanh, hiệu quả chắc chắn tốt.

    Cách này phải cao thủ mới vận dụng tốt được, đã từng nghe thấy chuyện vợ bé cố tình thông báo để vợ lớn tới đánh ghen chưa ? Chỉ cần tự sắp xếp thủ thân sao cho tốt là được, còn lý do là vì mấy ông có vợ bé lại hay ghen ghê lắm. Bản thân thì không thể rước người ta đường đường chính chính về ở với mình được, mà cứ một hai bắt người ta phải chung tình. Bắt đầu bằng cái gì thì kết thúc bằng cái đó, hết tiền thì hết tình thôi, quá đơn giản và dễ hiểu.
    Vợ bé kia còn phải tính đường tìm nguồn tiền khác nữa chứ, thử hỏi có ai đi làm vợ bé mà lại chịu cày cuốc vất vả trong công xưởng hay trên đồng ruộng hay không ? Vợ bé là phải cày trên giường, và tiền là phải bay ra từ cái giường đó, không tiền thì không cho cày, vậy thôi.
    *

    7. Tử: Có nghĩa là chết. Chết giả chứ không phải chết thật. Thề thốt cho họ tin là mình yêu họ, chỉ biết có họ thôi, nếu không tin thì chết ngay tại chỗ, trước mắt cho chàng thấy. Nếu biết y có thê thiếp rồi, không thể lấy mình được thì càng làm già đến độ rủ y “cả hai cùng chết hơn là chẳng lấy được nhau!”. Lúc đó, có tán gia bại sản, đem hết bạc tiền ra dâng cho mình, y cũng không tiếc. Là tới cái mạng thiếp còn không tiếc trao cho chàng, không lẽ chàng lại tiếc tiền với thiếp.

    Cái này thì thôi không bàn, hồi giờ không có quen viết mấy chuyện chết chóc, chết giả cũng không muốn viết. Cơ bản là có anh nào đang yên đang lành mà nhận được tin nhắn của ‘tiểu hồ ly’: “anh mà không…thì tôi chết cho anh xem.”
    Cứ bình tĩnh, chính là họ đang đợi mình tới xem rồi họ mới bắt đầu đi chết. Không vội, ghé cây ATM thì sẽ giải quyết vấn đề đó được tốt hơn.

    Mà nói thật, đàn ông một hai lần đầu có thể lú, có thể ngu, chứ nhiều thì sẽ bớt đó. Nên về lâu dài thì cách này sài không ổn đâu, nên để dành làm quân bài cuối, dùng để hốt cú chót thì tốt nhất. Bởi thường nếu buộc phải dùng đến cách này thì giai đoạn yêu đương có lẽ đã qua giai đoạn mặn nồng nhất. Chốt hạ được rồi, làm sao cho đẹp với cho đầy là được.

    Cơ bản là đời bạc, người bạc, ta bạc, tình bạc, và cuối cùng là vì tiền bạc. Bảy chữ kia là che lấp chữ bạc đó mà thôi, người vui ta vui là được. Đàn ông thôi không muốn nói, còn phụ nữ mà có cái quan điểm “ăn bánh trả tiền” thì là rất ngu, rất hạ giá của mình. Chữ “tình” lúc nào cũng đứng trước và đắc giá hơn chữ “dục”, tình giả tiền thật mới là thông minh nhất.

    Bán thân vất vả tính theo lần
    Bán tâm thong thả tiền tự trao.
    ***

    Bảy chữ vành ngoài chủ yếu là về tâm lý, là các cách chiêu dụ lừa gạt khách làng chơi, trong thực tế hiện tại thì mọi người cũng có thể đôi chút sử dụng để hâm nóng lại chuyện tình cảm. Chỉ cần đừng quá mức hoặc quá lạm dụng là được.
    Cái gì là kinh nghiệm, là kiến thức, là bản lĩnh trong yêu đương, giường chiếu ? Bảy chữ kia nó chiếm 1/3 rồi đó.
    *

    “tám chữ vành trong”

    Còn về “tám chữ vành trong” thì “ghê” lắm, nó thuộc về sinh lý, cũng như các kỹ năng và biến thể của kỹ thuật the phòng, cũng như là làm biến đổi, biến dạng một số điểm trên bộ phận cơ thể, là chỉnh sửa, tập luyện, và rèn luyện. Nếu như bảy chữ vành ngoài là để câu dẫn chiêu dụ, thì tám chữ vành trong là để hút hồn, mê hồn theo đúng nghĩa đen. Nếu biết cách áp dụng chính xác thì gọi là ‘bùa mê thuốc lú’ cũng không quá đáng, giúp một phụ nữ ngũ tuần, lục tuần làm mê mệt chết lên chết xuống năm bảy anh thanh niên trai tráng là chuyện bình thường, chưa chắc đám gái xuân mơn mởn có thể so sánh được. (Ví dụ như cách để “cưỡng tinh”, tức là khiến thời gian cực khoái khi xuất tinh của nam nhân kéo dài ra. Nó hoàn toàn là một phương pháp khoa học.)

    Sau này tôi sẽ biên soạn tám chữ đó thành một bài viết hoàn toàn mang tính khoa học, sinh học và tâm lý học. Với các thuật ngữ và danh từ chính xác cụ thể, cùng các phương pháp và bước thực hiện rõ ràng, không chút thô tục hay thô thiển, có đầy đủ giá trị để nghiên cứu và học hỏi.

    Chính là kế thừa kinh nghiệm the phòng mấy ngàn năm của phương Đông, và kết hợp với khoa học thực nghiệm phương Tây, để đưa ra kết quả không hẳn là tuyệt đối chính xác, nhưng chắc chắn là đã tốt nhất có thể.
    *
    Biên soạn: Trương Lang Vương.
    Trích lục từ bài viết của thầy giáo, bác sĩ, nhà sử học, Huế học, tác giả Hồ Đắc Duy. (1944 – 2018)
    Via: Nhân Văn Giai Phẩm

  • Nghi lễ đón Tết trong cung đình nhà Nguyễn

    Tết trong cung vua, phủ chúa bao giờ cũng gây tò mò với nhiều người. Ngoại trừ những người từng được kề cận, ai cũng muốn biết lễ tết trong hoàng cung diễn ra thế nào?

    Nghi lễ đón Tết trong cung đình nhà Nguyễn

    Nghi lễ đón tết trong cung Nguyễn. (Ảnh: Nhà nghiên cứu Võ Tòng Xuân).

    Nhà Nguyễn – chế độ phong kiến cuối cùng ở Việt Nam – đã cáo chung hơn nửa thế kỷ. Tuy nhiên, nhiều dấu ấn triều đại này tạo ra vẫn tồn tại, trong đó có không ít di tích được công nhận là di sản văn hóa của UNESCO, bao gồm cả những phong tục, lễ lượt của nhà vua trong dịp Tết.

    Lễ Ban sóc
    Theo sách Lễ Tết ăn chơi trong cung Nguyễn, hàng năm, triều Nguyễn mở đầu việc đón năm mới bằng lễ Ban sóc diễn ra vào ngày mùng một tháng 12 tại lầu Ngọ Môn.

    Ban sóc nghĩa là cơ quan Khâm Thiên Giám làm lịch cho năm mới xong, phân phát lịch của nhà vua cho bá quan và hoàng thân, quốc thích. Những người được ban lịch mặc lễ phục quay đầu về phía ngai vàng đặt trong điện Thái Hòa lạy 5 lạy để tạ ơn vua.

    Tiếp sau lễ Ban sóc là lễ Phất thức, nghĩa là quét dọn, lau chùi các ấn ngọc, ấn vàng, kim sách, ngân sách. Lễ này được tiến hành tại điện Cần Chánh – nơi tàng trữ những tráp đựng của báu quốc gia.

    Sau khi lau chùi xong, người ta căn cứ biên bản của năm trước kiểm kê lại toàn bộ vật báu trước khi bỏ vào tráp khóa chặt. Sau lễ Phất thức, các cơ quan nghỉ việc chuẩn bị đón Tết.

    Đến ngày 30 Tết, Khâm Thiên Giám chọn giờ lành để cho Bộ Lễ dựng cây nêu. Cây nêu của kinh thành, các địa phương, chùa chiền, gia đình cũng dựng theo. Đó là thời khắc báo hiệu toàn dân cùng đón Tết. Cây nêu báo hiệu ngày toàn dân nghỉ việc để ăn Tết.

    Tết Nguyên đán diễn ra đúng ngày mùng một đầu năm. Hôm ấy, quân lính mang khí giới, cờ lọng, voi ngựa trang sức rực rỡ cùng các loại xe nhà vua thường dùng… sắp hàng trước sân điện Thái Hòa ra đến cửa Ngọ Môn.

    Vua mặc đại triều, từ điện Cần Chánh ra điện Thái Hòa rồi ngự trên ngai vàng để bá quan và hoàng thân quốc thích lạy mừng. Trong lúc vua ngự, lầu Ngọ Môn rung chuông, trống đánh liên hồi, hết sức uy nghiêm.

    Các bà vợ vua vẫn ở trong thành. Người trong Tam Cung và có chức sắc, Tết Nguyên đán được mặc lễ phục, đứng bên đường làm hai hàng rào danh dự từ điện Càn Thành ra điện Cần Chánh để chào vua đi qua.

    Từ ngày 30 đến mùng 3 Tết, cỗ bàn được đặt cúng ở các miếu và điện Phụng Tiên, hương khói nghi ngút. Mỗi lần cúng 32 món ăn riêng như nem, chả, gà hầm, thịt quay, thịt dê… Buổi sáng cúng các vua, buổi chiều cúng công thần. Đồ cúng do cung vua nấu hoặc các địa phương dâng về kinh thành.

    Lễ cày Tịch điền
    Ngoài các lễ lượt trong hoàng cung, ngày Tết còn có lễ Tịch điền hết sức quan trọng, nhằm mục đích khuyến khích phát triển nông nghiệp. Ngày này, vua và hoàng thân quốc thích sẽ xuống ruộng cày mấy đường để khuyến khích dân chúng phát triển nông gia.

    Vua mặc áo chẻn, bịt khăn đường cân, mang hia, một tay cầm roi, một tay cầm chiếc cày sơn vàng, do hai con bò phủ lụa vàng kéo. Theo hầu vua có quan Phủ doãn Thừa Thiên và một viên ấn quan của Bộ Hộ, người mang thúng giống, kẻ vải giống.

    Sau khi cày xong, vua ngồi lên Đài quan canh để xem hoàng thân và các đại thần cày tiếp. Đây chỉ là hoạt động tương trợ. Sau khi lễ Tịch điền kết thúc, khoảnh ruộng này sẽ được giao lại cho người chuyên trách, có nghĩa vụ trồng để lấy thóc cúng đàn Nam Giao, tế các thần và các lăng, miếu.

    Những lễ lượt trong Đại Nội và cày ruộng tịch điền được tổ chức trong vòng hoàng gia, chỉ một số đại thần và một số ít vị chức sắc, còn dân chúng không được tham dự.

    Ban “lửa tình” cho các cung phi
    Dịp Tết, không vợ và con nào được ngồi ăn cùng vua cả. Vì thế, có nhiều bà mang tiếng là vợ vua mà quanh năm không được thấy mặt chồng, dù họ chỉ ở cách nơi ở của vua có vài chục mét.

    Để tạo cơ hội cho các bà phi, tần, mỹ nữ trong chín bậc được trông thấy mặt vua những ngày đón xuân, các vua Nguyễn nghĩ ra một cách gặp mặt rất độc đáo.

    Theo đó, đến ngày đông chí hàng năm, tất cả lửa trong cấm thành đều phải tắt hết. Cung điện Càn Thanh nhóm một lò lửa thật lớn. Đúng vào lúc nửa đêm, các bà trong cung lục viện được phép mang lồng ấp đến điện Càn Thanh để vua ban cho ít lửa, ngụ ý ban hơi ấm cho mọi người. Chút “lửa tình” này sẽ được các bà giữ cẩn thận quanh năm.

    Theo quan niệm ngày xưa, vua là “thiên tử”, nắm trong tay mọi quyền hành. Ngày Tết với các bậc thiên tử không chỉ là thời gian nghỉ việc triều chính để chơi, mà còn để kiểm kê của báu (lễ Phất thức), chuẩn bị cho công việc của năm sau, tưởng nhớ đến tổ tiên, khuyến khích dân chúng siêng năm sản xuất (lễ Tịch điền).

    Nhà Nguyễn đã không còn nữa, nhưng tất cả những sinh hoạt Tết ấy vẫn được tìm thấy trong sử sách và có những ý nghĩa nhất định. Đó cũng là một phần trong di sản phi vật chất của chúng ta hôm nay.
    Nguồn: KH

  • Nghi lễ Tết của Hoàng tử, Công chúa triều Nguyễn

    Nghi lễ Tết của Hoàng tử, Công chúa triều Nguyễn

    Theo các tư liệu lịch sử còn lưu lại, hoàng tử, công chúa ngày xưa thường có nhiều hoạt động đón Tết, chơi xuân.

    Nghi lễ Tết của Hoàng tử, Công chúa triều Nguyễn

    Nghi lễ đón Tết trong cung triều Nguyễn. (Ảnh: Nhà nghiên cứu Võ Tòng Xuân).

    Theo sách “Đời sống trong cung đình triều Nguyễn”, hoàng tử, công chúa nhà Nguyễn lập gia đình đều được xây dựng phủ đệ riêng ở ngoài kinh thành. Cuộc sống của họ xem như tách biệt hoàn toàn với hoàng cung.

    Nghi lễ Tết của hoàng tử, công chúa
    Dịp gần Tết, nhịp sống ở phủ đệ rộn ràng hơn ngày thường. Số quan lại, binh lính, người hầu trong phủ đệ giảm khi một số xin phép về nhà ở quê lo Tết cho gia đình. Số còn lại ở phủ đệ được phân công canh gác, tập trung dọn dẹp, chuẩn bị phẩm vật sinh hoạt trong những ngày Tết.

    Theo quy định của triều Nguyễn, lễ Thướng tiêu (dựng cây nêu) là khởi đầu của nghỉ Tết. Khi Thướng tiêu ở Đại Nội thực hiện xong, các ông hoàng, bà chúa mới làm lễ này tại phủ đệ của mình.

    Sau lễ lễ Thướng tiêu, triều đình tiến hành lễ tế cuối năm tại các miếu để mời bậc tiên đế về ăn Tết, tổ chức ngày 30 tháng Chạp. Vua làm chủ tế lễ, thân công, hoàng tử, đại thần cùng đi theo. Đêm giao thừa, các phủ đệ đều đốt pháo với ngụ ý xua đuổi tà ma, điều xui xẻo, đưa tiễn cái cũ, đón điều mới, may mắn, tốt tươi.

    Sáng mùng một Tết, vua ngự ở điện Thái Hòa, tiến hành đại lễ chào đón năm mới. Các hoàng đệ, hoàng tử, công chúa đến mừng vua 5 lạy. Sau lễ mừng, vua truyền chỉ ban tiền thưởng xuân và yến tiệc. Các hoàng thân, hoàng tử mỗi người được ban trên dưới 20 lạng bạc. Tiếp đến, nhà vua đưa các hoàng tử đến cung Diên Thọ dâng biểu chúc mừng Hoàng Thái hậu và làm lễ Khánh hạ.

    Sang mùng 2 Tết, các ông hoàng, bà chúa làm lễ tại phủ đệ. Sau đó, họ vào Đại Nội xin phép vua rước mẹ mình về phủ để con cháu có dịp mừng tuổi, chúc phúc và báo hiếu.

    Dịp Tết về thăm con cháu tại phủ đệ, các bà hoàng đều chuẩn bị những món quà quý chỉ có ở chốn cung đình làm vật kỷ niệm và mừng tuổi. Trong hồi ký, tác giả Bửu Kế đã miêu tả sự kiện đón Tết tại phủ Lạc Biên quận công như sau:

    “Ngài tôi vào tâu xin hoàng đế cho phép bà tôi ra ngoài để con cháu dâng tuổi. Bà tôi đi một chiếc võng, hai bên có rèm bỏ xuống che kín cả người. Đòn võng sơn đỏ, hai đầu trở thành hình đầu phụng và đuôi phụng, khác hẳn đòn võng của ngài tôi trổ hình đầu rồng và đuôi rồng…

    Hai bà nữ quan hầu trầu thuốc và bưng tráp đã đứng khép nép sau lưng bà tôi. Ngài tôi, chị tôi và tôi lần lượt quỳ xuống dâng rượu thọ…Thăm con cháu đâu được một tiếng đồng hồ, bà tôi lại lên võng trở vào Đại Nội”.

    Ông hoàng, bà chúa chơi gì trong dịp Tết?
    Trong ba ngày Tết, các ông hoàng, bà chúa rất bận rộn, đi chúc Tết hoặc ở phủ đệ tiếp khách. Con cháu trong các phủ phòng khác, các vị tôn tước, quan lại trong triều thường đến phủ đệ chúc Tết.

    Đến mùng 3 Tết, những người nghèo khổ kéo nhau đến cổng ngõ phủ đệ của các ông hoàng, bà chúa xin tiền. Các ông hoàng, bà chúa sẵn lòng ban cho họ một ít tiền trong ngày đầu năm mới, thể hiện lối sống phong lưu, tấm lòng khoan dung, dẫu có lúc các ông hoàng, bà chúa cũng đang gặp khốn khó.

    Tết cũng là dịp để các ông hoàng, bà chúa gặp gỡ giới văn nghệ sĩ, cùng nhau sáng tác thi ca và ngâm vịnh thi phú tại phủ đệ. Những ông hoàng, bà chúa có khiếu thơ văn như: Tùng Thiện vương Miên Thẩm, Tuy Lý vương Miên Trinh, Tương An quận vương Miên Bửu, Công chúa Mai Am, Công chúa Huệ Phố… Họ đã để lại cho hậu thế một khối lượng tác phẩm văn chương đồ sộ, góp phần tạo ra hiện tượng văn chương tiêu biểu của giai đoạn này.

    Một số ông hoàng, bà chúa tổ chức diễn tuồng, ca Huế trong phủ đệ. Các vở tuồng được trình diễn vào những ngày Tết như: Ngự Văn Quân, Vạn bửu trình tường…, cầu chúc một năm mới gặp nhiều điều an lành.

    Những buổi biểu diễn tuồng vào dịp Tết không chỉ dành riêng cho các ông hoàng, bà chúa, tầng lớp quý tộc, quan lại, mà còn mở cửa cho dân chúng sống xung quanh phủ đệ đến xem.

    Phủ đệ cũng là nơi tổ chức nhiều trò chơi cung đình và dân gian như: Đổ xăm hường – trò chơi gieo các hột xúc xắc để dành những chiếc thẻ khắc chữ màu đỏ ghi các học vị trong hệ thống khoa cử thời xưa (tú tài, cử nhân, tiến sĩ, hội nguyên, thám hoa, bảng nhãn, trạng nguyên).

    Khi kết thúc ván chơi, người giữ trong tay những thẻ nào, có bao nhiêu điểm, tổng số điểm cộng lại sẽ giúp xác định kẻ thắng người thua.

    Tiếp đến là trò chơi Đầu hồ – ném mũi tên (phi tiêu) gõ vào “con cóc” (miếng gỗ dẹp đặt giữa bình và vị trí người chơi), sao cho khi bật lên sẽ rơi xuống lọt vào miệng bình. Đây là trò chơi thử thách sự khéo léo, tinh nhạy của người chơi.

    Ngoài ra, còn có chơi Bài vụ, Bài Chòi, trò chơi thu hút nhiều người tham gia nhất. Riêng các phi tần thời Nguyễn thích chơi bài, đặc biệt là bài tứ sắc và tổ tôm.

    Khi các ông hoàng, bà chúa lập phủ đệ ở bên ngoài kinh thành, dân chúng đã chịu ảnh hưởng của cuộc sống bình dân và văn hóa dân gian một cách sâu đậm. Như vậy, phủ đệ là nơi giao thoa, hòa quyện lối sống văn hóa cung đình và dân gian, từ đó góp phần hình thành tính cách con người xứ Huế.

    Cuộc vui chơi, du xuân kéo dài đến ngày mùng 7 tháng giêng, các ông hoàng, bà chúa tổ chức lễ hạ nêu tại phủ đệ, bắt đầu một năm làm việc mới. Phủ đệ trở về với không gian và nhịp sống kín đáo, thâm nghiêm như cũ.

    Nguồn: DV

  • Một ngày của người Việt xưa diễn ra như thế nào?

    Một ngày của người Việt xưa diễn ra như thế nào?

    Ngày thường của nhà Vua

    Nhà vua thường thức giấc vào cuối giờ dần, khoảng bốn rưỡi sáng, để còn kịp chỉnh trang buổi đăng triều, nếu không phải lên triều, ngài có thể dậy muộn hơn một canh giờ.

    Một thái giám bưng cho ngài một chén trà thuốc súc miệng, sau khi nhấp trước một ngụm, mới đến hoàng đế, rồi ngài nhổ ngụm nước vào ống nhổ bạc miệng rộng. Ngài vén quần ngồi vào chiêc ghế vệ sinh, dưới có đặt một chậu sành. Hoàng cung phong kiến từ thời Hán có một ông vua bị ám sát ngay trong nhà xí, nên không bao giờ được xây nữa. Vua, hoàng hậu và cung nữ đều đại tiểu tiện bằng chậu. Riêng chậu của vua được ngự y giữ lại còn nghiên cứu sức khỏe của ngài ngự qua phân. Xong xuôi, thái giám dùng khăn mềm lau sạch, rồi thấm một chút mật ong vào hậu môn của ngài. Vua khoan thai đi một bài quyền dưỡng sinh trên phương đình của ngự uyển, cũng tại đó, thái hậu đã chuẩn bị bữa sáng đạm bạc, gồm một ấm trà sâm, một đĩa bánh nhỏ bằng bột gạo trứng và mật ong do đích tay bà làm, một bát miến gà. Tất cả món ăn đều được thái hậu kiểm tra và cho người nếm thử. Hai tên thị nữ sẽ lau người cho ngài bằng nước ấm, thay quần áo trong, rồi khoác ra ngoài áo trong một bộ hoàng bào mầu trắng, thêu rồng vàng, nếu ngài không lên triều. Vua được chải tóc vấn thành búi giữa đỉnh rồi lồng vào đó một mũ miện vàng khít với nhục kháo (búi tóc), xỏ giầy đen bằng nhung.

    Ngài đến ngự thư phòng bắt đầu duyệt tấu sớ. Trên án thư, một dàn bút lông các cỡ đã được rửa sạch sẽ, một nghiên mực đen đã được mài đầy và sánh, một nghiên son thắm cũng đầy như vậy, vài ba cái chặn giấy bằng đá ngọc Tuyền châu, một cuốn sổ giấy vàng ghi lịch trình công việc, và hai chồng công văn từ khắp nơi gửi đến, cái bằng thẻ tre kết sách, cái là sách gấp bìa lụa, cái viết thành quyển trên lụa và giấy cuộn tròn. Sau hai canh giờ phê bút, ngài ngự thay áo và thưởng một ấm trà sen dưỡng tâm.

    Quá ngọ chút đỉnh, ngài ra phòng ngoài dùng bữa trưa với ba mươi món, ngài dừng lại đó mươi phút, không đụng tay vào món nào, rồi ban hết cho quần thần thị vệ, rồi lui về phòng riêng dùng một bữa trưa khác lại do đích thân thái hậu, đôi khi chỉ là niêu cơm nhỏ, niêu cá kho tộ, và chút rau luộc. Ngự y sẽ xoa nhẹ lưng cho ngài, dâng một xuyến trà bát bảo, ngài ngủ trưa chừng nửa canh giờ. Hai tên cung nữ quỳ gần đầu long sàng, hai tên khác dùng quạt lông phẩy nhẹ dưới chân, hai tên nữa đứng xa hơn cũng quạt nhẹ vào tạo một luồng khí mát, bốn tên thị vệ tay không, mình trần lực lưỡng đứng bốn góc phòng. Trên long sàng, ngài gối trên một gối gỗ sơn son cổ hơi cao, dưới là đệm gấm, bụng phủ chăn lụa mềm, xung quanh buông màn the trắng ngà dệt lồng cảnh Thần kinh thập nhị cảnh (Mười hai phong cảnh đẹp đất đế đô).

    Thức giấc trưa, ngài dùng một bát yến hấp đường phèn, xuống thư phòng viết vài bức thư pháp, điểm nhỡn cho một bức họa được vẽ đã nhiều hôm, rồi gặp gỡ vài quan lục bộ đại thần, chiều muộn ngài luyện Thái cực kiếm cùng võ sư, tắm rửa, rồi ra hồ Tịnh tâm, ngắm hoa sen.
    Sau bữa tối, ngài thay quần áo, duyệt công văn tới cuối giờ hợi. Bốn tên cung nữ khỏa thân nằm trước trong chăn để hơi ấm đầy long sàng. Ngài cùng với một ái phi mới tuyển từ thôn quê tuổi trăng tròn long vân khánh hội.

    Vua Khải Định
    Vua Khải Định

    Ngày thường của Thầy đồ

    Thầy đồ thức dậy muộn, khi mặt trời đã chiếu vào hiên nhà. Ngài vạch quần lá tọa, tồ một bãi vào bụi cây vườn sau, rồi ngâm mấy câu trong Kinh Thi : Quan quan thư cưu. Súc miệng bằng nước chè, lấy vỏ cau khô đánh răng, vục mặt vào chậu nước sành đặt trên chạc cây, ngài vuốt tóc mai vắt qua tai (gọi tóc mai gọng kính) búi lại búi tóc, ngài nghiêm trang đánh một bát xôi với vừng, ngồi vào án thư nhỏ đặt trên sập, xem qua mấy quyển Tứ thư, Ngũ kinh, chuẩn bị cho kỳ lều chõng tới.
    Đàn trẻ mươi đứa từ vài làng đã ríu rít ngoài hiên. Chúng xộc vào nhà, đứa đun nước, đứa rửa ấm chén pha trà, đứa bê nghiên đi mài mực, đứa trải chiếu. Thầy đồ bận áo dài đen ra ngoài áo cánh, đội lên đầu khăn xếp, bắt đầu ê a đọc thi thư cho lũ trẻ bò lom khom dưới chiếu viết ám tả. Sau bữa trưa đạm bạc, ngài ngủ dài trên võng, rụi mắt sang chiều, ngài thong thả sang chùa đàm đạo với sư cụ, hoặc ngắm hoa, hoặc thũng thẵng đến chơi một sinh đồ làng bên, cùng nhau nói chuyện thế sự và ngâm thơ.
    Tối đến mẹ thầy đồ đã sắp sẵn lưng cút rượu, đĩa lòng lợn, đĩa lạc rang đặt trên chõng tre thấp ngoài sân, sau đó ngài chong đèn mài mực chép vài đoạn trong kinh sách. Chiếc đèn dầu lạc cứ chập chờn, thỉnh thoảng lại phải khêu bấc, ngài thắp thêm cây nến cho sáng, cháy hết cây nến thì đi ngủ.

    Ngày thường của anh nông dân

    Khi tiếng chuông chùa điểm lúc cuối giờ dần, chàng nông dân thức giấc rửa mặt qua loa bằng chiếc gáo dừa, quét vội cái sân bằng chổi sể, rồi đánh ba bát cơm với rau dền và muối rang trên mâm chõng tre nhỏ đặt góc sân. Năm rưỡi trời còn mờ sương, chàng dắt trâu, vai đeo cầy ra đồng, giữa giờ thìn, khi nắng đã chói chang, thửa ruộng cũng đã cầy xong, hít một hơi thuốc lào dài, bèn trở về nhà, không quên cắp theo sọt phân trâu ỉa vãi, và ba con ếch bắt được bên bờ ruộng. Cởi bộ quần áo đi làm, treo lên con sào đầu cối giã gạo sườn nhà, chàng mặc bộ cánh nâu chưa sờn, tuy có vá vài mụn.
    Bữa cơm trưa độn sắn, nhưng lại có đĩa ếch xào măng. Chàng ngủ một mạch đến ba giờ chiều, rồi vác cuốc ra bãi xới mầu, chiều tối tranh thủ mò cua bãi, nhẩy xuống sông bơi, rồi quay về rào lại mảnh vườn đến tối mịt. Cả nhà chong ngọn đèn dầu tí xíu, ăn cơm ngoài sân, một ấm nước vối, một rổ khoai. Cô vợ còn giã gạo và giặt quần áo, khi cô cùng chồng chùi chân vào cái chổi lúa, đập mấy cái, leo lên giường và quấn chặt vào nhau một hồi, quay ra thủ thỉ câu chuyện tiếu lâm Tay ải tay ai, rồi ngủ say bí tỉ.

    Kết quả hình ảnh cho https://hinhanhvietnam.com nghề
    Ảnh thiếu nữ thời Pháp

    Ngày thường của thợ mộc

    Cha con ông phó mộc đến nhà chủ ở làng bên từ tối hôm qua. Gia chủ muốn đóng một rương thờ. Ngủ trên sập và đắp chiếu, hai người dậy sớm, rửa mặt mũi qua loa, rồi đánh một nồi cơm to với rau luộc, cá kho giềng. Trà lá hút thuốc lào, đàm đạo với chủ nhà chừng nửa canh giờ, họ giở hòm đồ nghề gồm nhiều tràng, đục, búa, khoan, bào, thước, mực, còn cưa và rìu cầm theo tay. Gỗ đã được pha sẵn, giờ thì họ chỉ việc chế tinh.
    Thoạt tiên đo gian giữa, nơi sẽ đặt rương thờ, sau tính mực thước sao cho số đo toàn rơi vào những cung tốt phát về phúc đức và sinh nam tử. Trước tiên họ dựng khung, sau đó sẽ quây ván, trổ và chạm khắc hoa văn, kết thúc là sơn thếp…công việc còn phải kéo dài đến cuối năm, ngày đầu mới tính toán và dựng việc đại khái. Tuy nhiên đầu năm sau họ phải tiến triều, vào bộ lễ sửa sang một số đồ thờ tự trong Thái Miếu.
    Mặt trời đã đứng bóng, hai cha con thợ mộc, nhẩn nha uống tuần trà, rửa lại điếu bát, đợi ông chủ về uống rượu. Bữa cơm trưa đầu tiên có cả tiết canh vịt và vò rượu đầy. Cả ba sau đó lăn ra phản gỗ gáy khò khò. Giờ mùi họ tỉnh giấc, xúm lại đánh vài ván cờ trêu chọc nhau om xòm, rồi lại bắt tay vào công việc. Buổi tối lại cơm no rượu say, cậu con trai chạy vào làng làm quen với cô hàng xóm, ông bố cùng gia chủ đánh tổ tôm cho tới giờ hợi. Cả đời một người thợ mộc giỏi lắm là dựng được ba chục bộ bàn thờ, nhưng bộ nào cũng đáng là tác phẩm.

    nghe moc xua
    Nghề mộc

    Ngày thường của lái buôn

    Chàng lái buôn chít lại khăn đầu rìu, xốc hầu bao có túi tiền rủng rẻng, bao khăn khoác vai đựng quần áo, bước khỏi quán phở, rồi ra bến thuyền Sơn Tây.
    Trên thuyền những người dân Mường đã chất vài bao hương liệu, thảo dược, qua Hương Canh, lái buôn sẽ nhập thêm ít gốm sành, rồi xuôi Thăng Long và Phố Hiến. Đám dân Đểu Cáng đã về hết (Chỉ người gánh thuê, Đểu là một người gánh hai thùng hai bên, Cáng là hai người gánh chung một đòn, thúng ở giữa). Từ Sơn Tây xuống Kẻ Chợ chừng năm sáu mươi cây, nhưng theo đường sông Hồng phải bẩy tám mươi cây, một ngày đò mới tới.
    Quá trưa thuyền dừng quãng Phúc Yên, cập bến nghỉ ăn và mua đồ gốm, chiều đò xuôi tiếp bến Chương Dương, khách và chủ thuyền cởi dải rút quần lá tọa, vạch chim đái tồ tồ xuống mặt sông, xốc lại áo quần rồi chuyển hương liệu lên bờ.
    Ở lại Thăng Long chừng ba hôm, chàng lái buôn nhập thêm ít lụa Hà Đông, đi chơi cô đầu và nghe ca trù, chàng trọ một người quen ở phố Thuốc Bắc. Thuyền lại đi tiếp xuống Bát Tràng, chàng mua vài chục lô bát chiết yêu, lục bình cỡ lớn, rồi đi phố Hiến giao hàng.
    Hàng chục ngày lênh đênh trên sông, gặp bến thì lên bờ ăn nghỉ, còn không thổi nấu trên thuyền, nếu đi quá lâu, chủ thuyền cũng đành đồng ý cho gã lái buôn cắp theo một cô đào quá lứa cho vui chuyện. Tắm rửa thông thường dùng nước sông, trừ khi khan hiếm còn không chủ thuyền thường tích nước mưa nấu ăn và pha trà. Đêm ngồi đầu thuyền ngắm trăng, thưởng trà cũng thật là thanh cảnh.

    Xem thêm các nghề ngày xưa: https://hinhanhvietnam.com/tag/nghe-nghiep-viet-nam-xua/

    Nguồn: Sách Văn minh vật chất của người Việt – Phan Cẩm Thượng.

  • So sánh trang phục xưa của Việt Nam và Triều Tiên

    So sánh trang phục xưa của Việt Nam và Triều Tiên

     

    Trang phục đại triều của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Khải Định)
    Trang phục đại triều của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Khải Định)
    Trang phục đại triều của quan Triều Tiên và Việt Nam (thời Nguyễn)
    Trang phục đại triều của quan Triều Tiên và Việt Nam
    Thường phục của nam nhân Triều Tiên và Việt Nam
    Thường phục của nam nhân Triều Tiên và Việt Nam
    Đại triều phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Đại triều phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Lễ phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Lễ phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Áo cưới cung đình của nữ quý tộc Triều Tiên và Việt Nam
    Áo cưới cung đình của nữ quý tộc Triều Tiên và Việt Nam
    Tế phục của vua Triều Tiên và Việt Nam
    Tế phục của vua Triều Tiên và Việt Nam
    Võ phục cung đình của Triều Tiên và Việt Nam
    Võ phục cung đình của Triều Tiên và Việt Nam
    thường phục của quan chức Triều Tiên và Nguyễn
    thường phục của quan chức Triều Tiên và Nguyễn
    trang phục của các quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    trang phục của các quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    trang phục nữ nhân Triều Tiên và Việt Nam
    trang phục nữ nhân Triều Tiên và Việt Nam
    Thường triều phục/ tế phục của quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    Thường triều phục/ tế phục của quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    Võ phục cách tân của vua Triều Tiên và Việt Nam ( vua Khải Định)
    Võ phục cách tân của vua Triều Tiên và Việt Nam ( vua Khải Định)
    Võ phục truyền thống của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Thành Thái)
    Võ phục truyền thống của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Thành Thái)

    Theo FB/MÀU ÁO HOA RỪNG

  • Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Nói lái là một hình thức vô cùng độc đáo của ngôn ngữ Việt. Ngay từ trong truyện dân gian, có có câu chuyện liên quan đến nói lái. Bạn có bao giờ nghe giai thoại giải thích đại phong là lọ tương?

    Đại khái là một người bán tương ghi tên nhãn hiệu là Đại Phong. Món này ăn với rau muống rất ngon. Nhưng người mua thắc mắc Đại Phong là gì thì được giải thích như sau:

    – Đại là lớn, phong là gió. Đại phong là gió lớn, gió lớn thì chùa đổ, chùa đổ thì tượng (Phật) lo, tượng lo là lọ tương.

    Một giai thoại khác, ở trong Nam. Lúc ấy, vào buổi tàn thời của nho học, người ta bỏ bút lông, giắt bút chì; một số chạy theo thực dân Pháp. Trong số ấy có Nguyễn Văn Tâm, một lòng cúc cung với mẫu quốc, được người Pháp cất nhắc làm quan lớn; trên dưới trong ngoài, ai cũng biết nhờ bợ đỡ quan thầy mà làm quan to.

    Tâm lấy làm tự đắc lắm. Phú quí sinh lễ nghĩa, quan lớn nhà ta cũng muốn tỏ ra mình phong lưu, muốn có những bức hoành, trướng để trang trí. Có người dâng lên quan bốn chữ đại tự Đại Điểm Quần Thần, viết chân phương, rất đẹp và giải thích Quần thần là người bề tôi, Đại điểm là điểm lớn, ý nói quan lớn là người bề tôi có vị trí to lớn, quan trọng trong triều.

    Quan lấy làm thích thú đem treo bức liễn trong phòng khách; ai đến thăm quan cũng đem khoe và giải thích như trên. Ít lâu sau có người đến ngắm bức liễn, rồi xin quan lớn dẹp đi. Quan ngạc nhiên hỏi, người ấy xin đừng bắt tội, đuổi hết tả hữu rồi giải thích: Người viết liễn đã cố ý bỡn quan lớn, mà quan không biết. Bốn chữ trên dịch từng chữ: Đại điểm là chấm to; Quần thần là bề tôi, nói theo kiểu trong Nam là bầy tôi. Đại Điểm Quần Thần là Chấm To Bầy Tôi nói lái lại là Chó Tâm Bồi Tây. Chẳng nghe chuyện kể nói quan có tìm tác giả bốn chữ nói trên để trị tội hay vì không muốn làm vỡ chuyện mà ỉm luôn.

    Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Trong đời sống hàng ngày, chẳng hiếm khi chúng ta gặp những câu nói lái, đôi khi chỉ để bỡn cợt, châm biếm hay tránh những tiếng thô tục.

    Ở Nam Bộ, có câu :

    Con cá đối nằm trên cối đá,
    Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
    anh mà đối được, dẫu nghèo em cũng ưng.

    Người Việt, đối với những người lớn tuổi hay trưởng thành ở Việt Nam chẳng có ai là không biết cách nói lái, tùy theo gốc gác hay sinh hoạt ở Bắc, Trung hay Nam mà cách nói lái có khác nhau; nhưng tựu chung, khi nói lái, người ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà người nghe, vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra như trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần kể trên.

    Đi sâu hơn vào chi tiết: một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chữ Chanh, chẳng hạn, gồm phụ âm Ch và âm anh. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ được phát âm khác nhau: Chanh, chánh, chành, chạnh… và tất nhiên có nghĩa khác nhau, và đây cũng là nét độc đáo của ngôn ngữ Việt, người nước ngoài bảo người Việt nói chuyện nghe giống như hát.

    Cũng có chữ không có phụ âm mà chỉ có âm, như trong ảnh ương hay ảo ảnh…

    Nói Lái theo cách ngoài Bắc.

    Trở lại câu chuyện đại phong là lọ tương nói trên. Tượng lo nói lái lại là lọ tương, người miền Bắc đổi chỗ cho hai chữ, đồng thời đổi luôn hai dấu (nghĩa là đổi âm sắc): lo đổi chỗ cho tượng, lấy dấu nặng thành lọ, tượng đổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành tương.

    Ta lấy vài thí dụ khác:

    Đấu tranh nói lái lại là tránh đâu: tranh đổi chỗ cho đấu, lấy dấu sắc của đấu thành tránh, đấu đổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh (không dấu) thành đâu.

    Hải phòng nói lái lại là phỏng hài: hải đổi chỗ cho phòng lấy dấu huyền của phòng thành hài, phòng đổi chỗ cho hải lấy dấu hỏi của hải thành phỏng

    Cứ theo cách ấy thì:

    Sầm Sơn là sờn sâm
    Thái Bình nói lái là bính thài
    Hà Nội là nồi hạ…

    Như vậy thì hai chữ có cùng dấu không nói lái được, như nhân dân, anh em, Sài Gòn, thánh thót, thực vật…. Cũng vậy, những tiếng láy như xanh xanh, hơ hớ, đo đỏ, lăng xăng… không thể nói lái được và nếu chúng ta cố tình theo qui luật trên thì cũng chỉ đổi vị trí cho nhau thôi.

    Nói lái theo kiểu trong Nam.

    Trong Nam người ta nói lái theo cách khác: cá đối nói lái lại thành cối đá.

    Ta nhận thấy theo cách nói lái trong nam, âm trong hai chữ đổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí, phụ âm c ghép với âm ối của đối thành cối, và phụ âm đ ghép với âm á thành đá. Như vậy:

    Sài gòn – sòn gài
    Cần thơ nói lái là cờ thân
    Cầy tơ là cờ tây
    Cửu long là cỏng lưu
    Thủ Đức thức đủ
    vv.. và vv..

    Bút hiệu Thế Lữ (trong Tự Lực Văn Đoàn) chính là chữ nói lái của tên thật của ông: Nguyễn Thứ Lễ. Ngày trước đã có vế đối:

    Ngày Tết, Thế Lữ đi hai thứ lễ: lê ta và lê tây

    Trong vài trường hợp người ta nói lái cho cả ba chữ, bằng cách giữ nguyên chữ giữa như trong trường hợp mèo đuôi cụt thành mút đuôi kèo (dấu nặng trong cụt biến thể thành dấu sắc trong mút), như vậy hà thủ ô nói lái thành hồ thủ a.

    Đôi khi người ta lại đổi chỗ hai phụ âm cho nhau (tuy ít thôi) để sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hơn, thí dụ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành biến chinh, do đó với hai chữ tranh đấu có người đã đùa mà nói rằng: tranh đấu thì tránh đâu khỏi bị trâu đánh thì thế nào cũng phải đấu tranh.

    Cũng như trong trường hợp trên, những chữ trùng âm như nhân dân, lù đù, lật đật… không nói lái được.

    Vài giai thoại – câu đối – câu đố

    Chúng ta đã thấy giai thoại về Đại điểm quần thần, Đại phong ở trên. Chúng ta cũng thường nghe nói đến câu tiếng lóng “hạ cờ tây” là “hạ cầy tơ” của dân nhậu trong Nam và “mộc tồn” (là “cây còn”, nói lái thành “con cầy”) ở ngoài Bắc, hay những lối nói lái rất quen thuộc: con chín bến đò (con chó bến đình), Hương bên đèo (heo bên đường), theo con Hương (thương con heo)…

    Trong Nam, mấy bạn nhậu thường hay nói chữ: “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu” cũng đừng vội tưởng họ sính nho, thật ra họ đùa “rượu gặp tri kỷ có trời mới biểu (bảo) thôi” (thiên = trời, bôi thiểu = biểu thôi)….

    Về câu đối, xin trở lại câu ca dao trên:

    Con cá đối nằm trên cối đá.
    Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.
    Anh mà đối đặng dẫu nghèo em cũng ưng.

    được đối là:

    Chim mỏ kiến(g) nằm trong miếng cỏ
    Chim vàng lông đáp đậu vồng lang
    Anh đà đối đặng hỏi nàng ưng chưa?

    Phải công nhận là câu đố và câu trả lời không chê vào đâu được, chắc gì chúng ta tìm được câu trả lời nào hay hơn cho cô gái tinh nghịch này.

    Một câu khác, nghe chừng như xuông miệng nói chơi, nhưng lại đối rất chỉnh, trong cả hai vế đều dùng cách nói lái:

    Kia mấy cây mía
    Có vài cái vò

    Một câu đối khác, nghe được sau 75, lúc người dân trong Nam không còn gì để sinh sống, đặc biệt là giới thầy cô thuộc chế độ cũ được lưu dụng. Dầu gì chăng nữa, trước đó họ là lớp người tuy sống nhờ đồng lương cố định, nhưng cũng có cơm ăn áo mặc đầy đủ. Người ta nghe thấy hai câu đối tết, nhại theo Tú Xương ngày trước, nhưng rất đặc sắc và chua xót:

    Chiều ba mươi, thày giáo tháo giày ra chợ bán
    Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang.

    Thực tế là giày không còn là một phần trong y phục của thày giáo, nhưng cháo đã là phần lương thực thường thấy trong bữa ăn hàng ngày.

    Trong một đám cưới, chú rể người Hóc Môn, cô dâu ở Gò Công; có người rắn mắt đọc đùa câu đối:

    Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc – Gái Gò Công vừa gồng vừa co

    Trong văn chương bình dân Việt Nam, câu đố chiếm một vị trí tuy khiêm nhường nhưng có sức sống tương đối mạnh mẽ so với hò đối đáp chẳng hạn. Ngày nay ta vẫn thường nghe những câu đố trong khi không còn thấy hò đối đáp trong sinh hoạt hàng ngày của người bình dân. Trong các dạng câu đố, cách dùng nói lái để đánh lừa người khác là một trong những cách tuy dễ nhưng cũng làm khó cho người bị đố không ít. Sau đây là vài câu đố dùng nói lái, lời giải có ngay trong câu đố:

    -Tổ kiến, kiển tố, đố là chi? – (đáp: tổ kiến)

    -Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai. Bò la, bò liệt đố ai biết gì? – (đáp: khoai lang).

    Những chữ mũi, lái, khứ, lai chỉ cốt để đánh lừa người bị đố.

    – Con gì ở cạnh bờ sông,
    cái mui thì nát cái cong thì còn – (đáp: con còng – cong còn nói lái thành con còng)

    – Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng – (đáp: ngón chưn cái)

    – Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn – (đáp: con ngựa)

    – Miệng bà ký lớn, bà ký banh
    Tay ông cai dài, ông cai khoanh – (đáp: canh bí, canh khoai)

    Một vài người cũng câu nệ về nói lái, tránh đặt tên con những chữ có thể nói lái thành thô tục như Thái (dễ ghép với chữ có phụ âm d: thái dọt, thái dúi, thái dòng…). Lài (dễ ghép với chữ có âm ồn như lài dồn, lài cồn, lài mồn…). Côn, Tôn, Đôn (ghép với chữ có phụ âm l) v.v.. và v.v..

    Vài suy nghĩ

    Qua những phân tích trên, ai cũng công nhận nói lái quả là một đặc thù của tiếng Việt. Chúng ta dùng nói lái để châm biếm, để gài người khác trong các câu đố, câu đối, để tránh những thô tục khi cố ý ghép chữ dể hạ thấp người khác.

    Bỏ qua một bên những cái độc đáo, lắt léo của nói lái trong câu đố, câu đối; để chỉ chú ý đến phần đông các trường hợp chúng ta sử dụng nói lái như là một hình thức hạ thấp người khác. Trong phần trên chúng ta đã thấy nhà nho nào đó đã dùng sự uyên bác của mình để chửi một quan to mà quan chẳng những đã không biết mà còn hoan hỉ chấp nhận trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần.

    Chúng ta đã dùng nói lái như một thứ vũ khí của người muốn dùng tiểu xảo để chống đối, để chứng tỏ mình hơn người, như một thứ vũ khí của kẻ yếu, kẻ bị trịđể bôi bác, nhạo báng, ám chỉ… để hạ phẩm cách của kẻ mạnh, kẻ thống trị.

    Vấn đề nêu ra để chúng ta phải suy gẫm là tại sao chúng ta có những cách rất tiêu cực như vậy? Phải chăng vì hoàn cảnh dân tộc Việt Nam đã đắm chìm quá lâu trong cảnh bị trị, dù của ngoại bang hay của chính người đồng chủng. Người dân phải tìm cách tránh né, che đậy để sinh tồn trước sức mạnh của kẻ thống trị. Vấn đề đặt ra cho chúng ta cùng suy nghĩ là chúng ta có nên duy trì mãi những tiêu cực tương tự trong những sinh hoạt thường ngày của chúng ta không? Ai cũng thấy rõ một điều là sức sống của người Việt vô cùng to lớn, mãnh liệt, nhưng đồng thời cũng thể hiện những tiêu cực vô cùng tai hại. Chính vì chỉ muốn sống còn bằng bất cứ giá nào, người Việt đã mất đi những tích cực của tập thể cần phải có, điều này đã giúp cho kể thống trị tồn tại lâu trong vị trí và là một cách giải thích tại sao dân tộc chúng ta bị trị lâu đến như vậy.

    Dù vậy, nói lái vẫn là một hình thức vô cùng đặc sắc của ngôn nhữ Việt, với khả năng nhạy bén về tính trào phúng, tính châm chọc… (và chúng ta chỉ nên khai thác khía cạnh tích cực này), chúng ta tin rằng nói lái sẽ tồn tại với người Việt.

    Hòa Đa (Saigonxua)

  • Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Dân miền Saigon chắc hẳn còn nhớ các tên nhà thương như nhà thương Chợ Rẫy, nhà thương Chợ Quán, Bình Dân, Nguyễn Văn Học, Từ Dũ, Hùng Vương hay nhà thương Hồng Bàng…

    Trên bảng hiệu thường dùng từ “bịnh viện” (hoặc “bệnh viện”), nhưng người dân miền Nam không gọi nhà thương là bệnh viện. Ở Saigon đôi lúc cũng có nghe người ta gọi nhà thương là bệnh viện nhưng những người đó không phải là dân gốc cố cựu miền Nam, thường là dân di cư năm 54.

    Tiếng “nhà thương” bắt nguồn từ ý nghĩa nhà chữa trị cho người thương tật bịnh hoạn. Nhưng dân miền Nam gắn liền nhà thương với tình thương và chánh phủ đã giúp vun bồi ý nghĩa, niềm tin đó.

    Ở những nhà thương công bệnh nhân đi khám bịnh, điều trị thì miễn phí, không tốn đồng xu nào. Vì vậy nó còn được gọi là nhà thương thí, (bố thí) cho người nghèo. Ở Sài gòn lúc trước người có tiền thì người ta đi nhà thương Đồn Đất, hay mấy nhà thương của bang hội người Hoa như Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Sùng Chính…

    Đương nhiên nhà thương công thì chật chội, không thoải mái tiện nghi, nhưng bù lại các ca bệnh nặng ngặt nghèo thì phải vô nhà thương công, sanh con so thì phải vô Từ Dũ hay Hùng Vương, vì đó là mấy nhà thương thực tập của trường y Saigon, tập trung các thầy, các cô, giáo sư, bác sĩ ưu tú của miền Nam. Thỉnh thoảng có người thân bịnh nhân la bài hải lên “đây là nhà thương chớ đâu phải nhà ghét” khi họ thấy y tá hằn hằn học nặng tay.

    Ngày nay tiếng “nhà thương” không còn sử dụng nữa.

    Một số “nhà thương” của SAIGON xưa:

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Đồn Đất Hospital – Sài Gòn 1940 – 1950 (nay Bệnh viện Nhi đồng 2, 14 Lý Tự Trọng, Bến Nghé, Quận 1)

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện Chợ Quán 1974 Lễ khánh thành Trung Tâm Y Khoa Hàn-Việt ngày 2-3-1974 do Hàn Quốc giúp xây dựng.

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện SAIGON – 1900s

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện Từ Dũ mặt đường Hồng Thập Tự (Nay là Nguyễn Thị Minh Khai)

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Chợ Rẫy Hospital – Chợ Lớn / Sài Gòn 1965 – Photo by Michael Mittelmann

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện Cơ Đốc, Ngã Tư Phú Nhuận góc Võ Tánh – Võ Di Nguy – Photo by Darryl Henley

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Saigon 1966: Station Hospital – Bệnh viện Hải Quân Mỹ trên đường Trần Hưng Đạo, đối diện KS Metropole

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Lễ khánh thành Bệnh Viện Vì Dân
    Bệnh viện Thống Nhất là một bệnh viện được thành lập vào ngày 04/09/1971 với tên gọi ban đầu là Bệnh viện Vì Dân

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Saigon 1965 – Bệnh viện Grall, nay là Nhi Đồng 2 Robert Gauthier’s Gallery

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Dưỡng Trí Viện Biên Hòa là nhà thương nổi tiếng điều trị bệnh về tâm thần, thường được gọi là “nhà thương điên”, sau 75 được đổi lại thành tên: Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương:

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Theo Saigonvivu

  • Xem chỉ số chất lượng không khí ở đâu?

    Xem chỉ số chất lượng không khí ở đâu?

    Chỉ số chất lượng không khí (AQI) được đo bằng cách xác định nồng độ chất ô nhiễm không khí trong một khoảng thời gian trung bình, thu được từ máy theo dõi không khí. Nồng độ và thời gian là thước đo liều lượng chất gây ô nhiễm không khí. Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ EPA, chỉ số AQI được tính toán với 5 thông số ô nhiễm không khí chủ yếu là: ozon mặt đất; ô nhiễm phân tử (còn gọi là hạt lơ lửng); carbon monoxide (CO); sulfur dioxide (SO2) và nitrogen dioxide (NO2). Thang đo từ EPA quy định theo màu sắc cụ thể đối với từng khoảng giá trị AQI :

    • màu xanh (AQI từ 0 đến 50 – tốt), màu vàng (AQI từ 51 tới 100 – trung bình).
    • màu cam (AQI từ 101 tới 150 – kém).
    • màu đỏ (AQI từ 151 tới 200 – xấu), màu tím (AQI từ 201 tới 300 – rất xấu).
    • màu nâu (AQI từ 301 tới 500 – nguy hại).

    Cổng giao tiếp điện tử UBND TP Hà Nội

    http://portal.hanoi.gov.vn/quantrac_khongkhi1 (Cổng giao tiếp điện tử UBND TP Hà Nội).

    Xem chỉ số chất lượng không khí ở đâu?

    Chỉ số chất lượng không khí qua các trạm đo trên cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội.

    Xem chỉ số chất lượng không khí ở đâu?

    Tại trang web trên, người dân có thể lựa chọn các điểm đo để xem chỉ số chất lượng không khí.

    Ngoài ra, người dân cũng có thể truy cập trang: http://moitruongthudo.vn/. Đây là cổng thông tin quan trắc môi trường của UBND TP Hà Nội. Tại đây, người dân có thể xem chỉ số chất lượng không khí ngay trên bản đồ.

    Xem chỉ số chất lượng không khí ở đâu?

    Chỉ số chất lượng không khí từng khu vực được hiển thị trên bản đồ tại trang web: http://moitruongthudo.vn/.

    Ngoài truy cập vào các trang web của Hà Nội, người dân cũng có thể vào trang web: http://cem.gov.vn/. Đây là cổng thông tin quan trắc môi trường của Tổng mục Môi trường (Bộ TN&MT).

    Xem chỉ số chất lượng không khí ở đâu?

    Cổng thôn tin quan trắc môi trường của Tổng cục Môi trường có nhiều thông tin thống kê khác.

    Bên cạnh đó, người dân cũng có thể truy cập vào trang web cung cấp chỉ số chất lượng không khí của Đại sứ quán Mỹ tại địa chỉ: https://aqicn.org/city/vietnam/hanoi/us-embassy/vn/.

    web cung cấp chỉ số chất lượng không khí của Đại sứ quán Mỹ

    Xem chỉ số chất lượng không khí ở đâu?

    Ứng dụng PamAir cung cấp thông tin chỉ số chất lượng không khí.

    Nhiều ứng dụng cung cấp chỉ số chất lượng không khí

    Nếu như không có thời gian truy cập vào các website để xem chất lượng không khí, người dân có thể tải nhiều ứng dụng khác ngoài AirVisual như PamAir, Air Quality, Air Matters, Air Quality Index BreezoMeter, Air Quality Index Near Me,AirNow.

    Air Matters

    Air Matters được thành lập năm 2011 và ứng dụng cùng tên của họ cung cấp thông tin chất lượng không khí, cảnh báo thời tiết, ô nhiễm theo thời gian thực cho hơn 180 quốc gia. Tải về cho Android và iOS.

    Plume Air Report

    Plume có giao diện khá đẹp mắt, giúp bạn dễ hình dung khi nào nên ra ngoài dựa trên điều kiện chất lượng không khí thu được. Giao diện khá trực quan với dòng thời gian ở nửa dưới ứng dụng và ở trên cùng chỉ ra chất lượng không khí, nhiệt độ… Tải về cho Android và iOS.

    Sh**t! I Smoke

    Ứng dụng này thông báo khá độc đáo, thay vì sử dụng các con số thì ứng dụng lại quy đổi ra số điếu thuốc lá mà bạn hút phải mỗi ngày. Ví dụ như ứng dụng sẽ báo “bạn đã hút 2,7 điếu thuốc hàng ngày” hơn là chỉ thông báo chỉ số AQI. Bạn có thể kiểm tra chỉ số cụ thể bằng cách nhấn vào More Details. Tải về cho Android và iOS.

    Bên cạnh các ứng dụng trên, bạn có thể tham khảo qua các website như:

    • AirVisual: Airvisual.com (Website vẫn còn truy cập được)
    • Cổng thông tin quan trắc môi trường Hà Nội: Moitruongthudo.vn (Chỉ tham khảo được khu vực Hà Nội).
    • BreezoMeter: BreezoMeter.com
    • AQICN: Aqicn.org

    Các ứng dụng cung cấp chỉ số chất lượng không khí nêu trên đều có trên các chợ ứng dụng. Người dùng chỉ cần tải về để sử dụng.

    HinhanhVietNam.com Tổng hợp từ nhiều nguồn

  • Màu áo cô dâu Việt Nam

    Màu áo cô dâu Việt Nam

    Theo sách “Trang phục Việt Nam” của nhà nghiên cứu trang phục Đoàn Thị Tình, cô dâu miền Bắc (thời Nguyễn) vào ngày cưới tóc vấn đuôi gà, đầu khăn gài con bướm bạc, cổ đeo kiềng bạc, chuỗi hạt vàng, lưng đeo xà tích, váy sồi đen, mặc áo mớ ba, bên ngoài mặc áo the đen, trong là áo hồng và áo xanh. Cô dâu các miền khác cũng có lối ăn mặc tương tự, nhưng có một số tiểu tiết khác biệt. Cô dâu miền trung và miền Nam chải lật búi tóc, thay vì vấn đuôi gà. Cô dâu miền Trung có thể mặc lồng hai áo năm thân, bên trong là màu đỏ hoặc hồng điều, bên ngoài là áo vân màu xanh chàm (Cũng có thể mặc thêm áo the đen bên ngoài thành áo mớ ba), mặc quần trắng.

    Về cô dâu Nam Bộ, Sách “Trang phục Việt Nam” cũng cho biết cô dâu miền Nam mặc quần lĩnh đen, tuy nhiên không nói rõ áo màu gì. Còn heo sách “Nhà ở – Trang phục – Ăn uống của các dân tộc vùng ĐBSCL” của tác giả Phan Thị Yến Tuyết, xuất bản năm 1993, trang 66:

    “Vào lễ cưới, trang phục của cô dâu chú rể vùng Gia Định trước kia và vùng ĐBSCL hiện nay có những diễn biến theo phong tục và quan điểm thẩm mỹ, thời trang. Cho đến đầu thế kỷ XX… cô dâu mặc áo vân đen mỏng, quần đũi màu hồng sậm, cổ đeo xâu chuỗi hổ phách “hạt to bằng ngón tay cái”, hai tai xỏ đôi bông búp bạc. Dâu và rể đều khoác bên ngoài áo thụng rộng xanh, lót màu cánh sen, khi ra sân có cặp lọng che. Trong những gia đình theo tục cũ, trang phục của cô dâu và chú rể đều là áo cặp.

    cô dâu Đông Dương đầu thế kỉ XX, mặc áo cặp, trong đỏ ngoài xanh, đội nón cụ
    cô dâu Đông Dương đầu thế kỉ XX, mặc áo cặp, trong đỏ ngoài xanh, đội nón cụ

    Áo cặp ở Nam Bộ có thể là một dạng tàn dư, tồn tại biến dạng của “áo mớ” (áo mớ ba, mớ bảy) nơi tầng lớp mệnh phụ giàu có ở miền Trung. Vì khí hậu Nam Bộ nóng quanh năm, cư dân còn nghèo nên áo mớ không thể dung nạp, chỉ còn dừng lại ở dạng áo cặp trong nghi thức trang trọng như lễ cưới. Hoặc rõ rệt hơn, có thể “áo cặp” là phong tục chỉ sự “đủ đôi đủ cặp” trong lễ cưới, vì ngày trước ở vùng Gia Định có thời cô dâu, chú rể ngoài “áo cặp” còn mặc “quần cặp”. Áo cặp tức áo song khai, cô dâu dùng áo the lót gấm hồng, chú rể dùng hàng the lót gấm xanh có dệt chữ “thọ” nhỏ (chữ thọ lớn chỉ dùng cho người lớn tuổi).

    cô dâu miền Nam đầu thế kỷ XX, mặc áo xanh ngoài, áo hồng bên trong, đội nón cụ. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu miền Nam đầu thế kỷ XX, mặc áo xanh ngoài, áo hồng bên trong, đội nón cụ. Chú rể mặc áo lam

    Chiếc áo dài của cô dâu, chú rể mặc bên ngoài người ta gọi là áo thụng. Đó là chiếc áo dài và rộng so với áo dài mặc bên trong, tay áo thụng cũng rất dài và rộng, của tay áo có khi lên đến 30 cm. Áo thụng thường được may bằng vải gấm dày, màu lục sậm, xanh sậm hoặc xanh lam có dệt hoa văn. Ngày trước, cô dâu chú rể tầng lớp bình dân ở ĐBSCL có khi mặc áo cặp, đội nón, đội khăn nhưng đi chân đất, không mang giày dép ”

    Còn theo bài viết “Gam màu đặc trưng của phục trang xứ Huế” trên trang báo Nét Cố Đô thì cô dâu Huế mặc áo cặp điều lục, đồng thời giải thích điều là màu đỏ, lục là màu xanh.

    Như vậy có thể nói, kiểu mặc áo ngoài màu xanh, áo trong hồng hay đỏ (tức áo lục điều) là một kiểu phối màu phổ biến và nhất quán của cô dâu Việt thời Nguyễn, thậm chí có thể là trong những thời kỳ trước đó.

    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam

    Tuy nhiên, trong thực tế, ngoài màu xanh, trong một số đám cưới cô dâu có thể còn mặc nhiều màu khác nữa, tuỳ vào từng quan niệm, địa vị và hoàn cảnh. Áo đen, áo thâm là màu mang tính “bản sắc dân tộc”, được người Việt ưa chuộng trong lễ, tiết. Áo đỏ, áo vàng một phần là ảnh hưởng từ các dạng áo Nhật Bình trong cung. Áo đỏ cũng có thể do ảnh hưởng từ áo đỏ của cô dâu Trung Quốc, mang ý nghĩa đại cát, đại hỉ. Áo hồng, áo tím là màu đẹp, nhẹ nhàng, gợi cảm… Nếu có điều kiện, xin sẽ nói rõ hơn ở các bài sau về nguồn gốc và ý nghĩa các màu sắc trong đám cưới Việt xưa, đặc biệt là màu xanh đã nói đến ở trên.

    Theo Lê Phan – ĐVCP