Author: Hình ảnh Việt Nam

  • Thời đội mũ rơm đi học

    Ban đầu, mũ rơm được làm đơn giản từ những sợi rơm như nùn rơm nhưng bện nhỏ hơn và uốn theo hình nón, có nhiều cỡ cho từng lứa tuổi. Mũ rơm giúp cho người đội hạn chế sự sát thương của bom bi. Ngoài mũ rơm, những em học sinh thời chiến còn được cha, mẹ trang bị cho những nùn rơm nhỏ, đeo sau lưng giống như cái khiên… Những sợi rơm vàng thân thuộc đó đã trở thành hành trang cùng các em tới trường.
    Ngay từ năm 1964, khi Mỹ tiến hành đánh bom miền Bắc, những chiếc mũ rơm đã được phổ biến rộng rãi. Những người từng sống và lớn lên trong thời kỳ đó hẳn ai cũng nhớ hình ảnh chiếc mũ rơm trên đầu học sinh khi cắp sách đến trường dưới làn bom đạn.
    Lớp học ở sân đình, bàn ghế đơn sơ cùng chiếc nùn làm từ rơm
    Lớp học ở sân đình, bàn ghế đơn sơ cùng chiếc nùn làm từ rơm
    Các em học sinh nhanh chóng di chuyển vào hầm khi có báo động
    Các em học sinh nhanh chóng di chuyển vào hầm khi có báo động
    Chiếc mũ rơm dày, nặng và túi thuốc cá nhân trên vai mỗi học sinh khi đến trường vào những năm chiến tranh đã trở thành quen thuộc, đã tạo nên những cảm xúc cho những nhà thơ để viết nên những vần thơ đẹp. Nhưng trên hết, hình ảnh những trẻ em đầu đội mũ rơm đến trường đã cho thấy: Các em đã được chuẩn bị tâm thế để “sống chung với bom đạn chiến tranh”, biết tự phòng, chống để tự cứu mình. Có lẽ do chiến tranh hiện diện quá lâu nên trở thành quen, không còn là nỗi ám ảnh, âu lo cho mọi người, kể cả với những em nhỏ. Họ đã bình tĩnh đi qua chiến tranh…
    Thời đội mũ rơm đi học
    Những bức ảnh học sinh đội mũ rơm đi học nằm trong triển lãm Trẻ em thời chiến được trưng bày tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) từ ngày 1 đến 5/6. Mũ rơm đi học là phong trào của học sinh miền Bắc, ra đời trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.

    Thời đội mũ rơm đi học
    Học sinh, trẻ em đến trường, ra ngoài lao động đều đội mũ rơm tránh bom, đặc biệt là bom bi rất nguy hiểm. Thời kỳ chiến tranh phá hoại, Hải Phòng là một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của bom đạn. Các lớp học ở An Hải (huyện cũ) đều có trần lợp rơm khá dày.

    Thời đội mũ rơm đi học
    Lớp học ở sân đình, bàn ghế đơn sơ, có thêm mũ rơm và chiếc túi cứu thương làm bạn với học trò.

    Thời đội mũ rơm đi học
    Học sinh trường cấp 2 Hữu Loan (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) tập đan mũ rơm. Những sợi rơm bện chặt lại có thể hạn chế được sự sát thương của bom đạn, nhất là bom bi.

    Thời đội mũ rơm đi học
    Học sinh trường cấp 1 Minh Phương (Việt Trì) đội mũ rơm cho nhau. Chiếc mũ đi vào bài thơ Chào xuân 67 của nhà thơ Tố Hữu: Chào các em, những đồng chí của tương lai/ Mang mũ rơm đi học đường dài/ Chuyện thần kỳ dân tộc ta là vậy…

    Thời đội mũ rơm đi học
    Hành trang đến trường của tuổi thơ thời chiến ngoài sách vở còn có mũ rơm, cáng cứu thương, xẻng, cuốc để đào hầm.

     Học cách sơ cứu vết thương sau giờ học.
    Học cách sơ cứu vết thương sau giờ học.

    Thời đội mũ rơm đi học
    Chiếc mũ rơm cũng không rời khi học sinh tự làm bánh mì.

    Thời đội mũ rơm đi học
    Học sinh đào hầm cá nhân ở khắp nơi để có thể trú ẩn bất cứ lúc nào có báo động.

    Thời đội mũ rơm đi học
    Hai nữ sinh ôn bài bên hầm trú ẩn.  Độc giả Nguyễn Thanh Minh chia sẻ: “Không thể quên những tháng năm tuổi thơ đã trải qua, hồn nhiên đến trường với mũ rơm trên đầu, mặc cho tiếng rít của máy bay phản lực, tiếng bom rền, tiếng súng cao xạ của bộ đội ta, từng tràng đạn đỏ lừ nối đuôi nhau phóng lên trời tạo thành một lưới lửa vây máy bay Mỹ, tiếng vo vo của mảnh đạn phòng không rơi xuống như tiếng bay của đàn ong. Rồi hò reo, chạy theo các chú bộ đội đi bắt phi công Mỹ bị bắn rơi nhảy dù dù bị người lớn cấm. Rồi trải qua những năm tháng gian khổ chống quân Trung Quốc xâm lược biên giới. Để rồi sau này vẫn ngẩng cao đầu vào đại học. Chúng tôi tự hào là thế hệ 6X”.

     

    Thời đội mũ rơm đi học
    Sau này, mũ rơm còn là quà của GS Nguyễn Thiện Nhân, nguyên Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo tặng cho thầy trò trường THCS Nam Từ Liêm trong lễ khai giảng năm học mới.

    Theo VNE và Hoalo.VN

  • Ảnh hiếm về cuộc sống của người Việt Nam xưa

    Những bức ảnh dưới đây sẽ cho bạn cách nhìn cận cảnh nhất về cuộc sống của ông cha ta hơn 100 năm trước.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Hội thi chim, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Một nông dân ở Hà Nội chở lợn ra chợ bán, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Các chị em đang đãi gạo thổi cơm, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Hình ảnh người dân đang cấy lúa, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Những người ở Hà Nội gánh tre đi bán, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Một gia đình tiêu biểu ở Hà Nội, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Một phú hộ ở Bắc kỳ, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Hớt tóc, lấy ráy tai dạo ở Hà Nội, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Một gánh hàng ăn vặt ở Hà Nội, ảnh chụp khoảng năm 1910.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Lính khố đỏ của triều đình – Một người phụ trách thông tin liên lạc

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Một khúc sông ở Nam Kỳ, ảnh chụp khoảng từ 1898 đến 1905.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Thẻ công nhân của nhà máy dệt Nam Định
  • Ảnh hiếm về phụ nữ Việt Nam thời xưa

    Vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam những năm 1910 qua loạt ảnh màu giá trị giúp mọi người có cái nhìn chân thực hơn về giai đoạn lịch sử này.

    Ảnh hiếm về phụ nữ Việt Nam thời xưa

    Theo Kiến Thức
  • Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc qua những bức ảnh xưa cho thấy một đô thị hiện đại được hình thành từ cuối thế kỷ 19 ở bên dòng sông Hồng góp phần tạo dựng một giai đoạn tiếp nối mới trong quá trình phát triển một nền văn minh sông Hồng từ trước đến nay.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Hồ Hoàn Kiếm năm 1940

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Toàn cảnh Hồ Gươm và khu phố phía Nam đã hình thành

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Nhà Thờ Lớn Hà Nội

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Bách hóa tổng hợp (có dòng chữ Grands Magasins Réunis trên cao , nay là Tràng Tiền Plaza)

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Buôn bán ở chợ đồng xuân

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố này bây giờ là Phạm Ngũ Lão, sau Nhà hát lớn, gần đường đê

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    y Cảnh sát – nay là trụ sở công an ở ngã tư Tràng Thi – Lê Thái Tổ – Bà Triệu

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Nhà bán hoa ven hồ góc đường Hàng Khay đối diện Bách hóa Tổng Hợp Hà Nội nay đã bị phá

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Dãy phố Hàng Khay sầm uất cửa các hàng

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    .Phố Hàng Khay toàn cảnh nhìn từ ngã tư Tràng Tiền.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Tràng Tiền 1897

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Bà Kiệu nằm ngay trước cổng đền Ngọc Sơn. Nay một phần của ngôi đền này trở thành tượng đài

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Rạp chiếu phim đầu tiên của Hà Nội – Palace, tại phố Nguyễn Xí

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Đài phun nước Con Cóc nằm cạnh khách sạn Metropole

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Cầu Long Biên (1958).

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Ga Hà Nội

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Khu Đấu Xảo nay là Cung Văn Hóa Hữu Nghị Việt-Xô năm 1923

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Nhà đấu xảo (trung tâm thương mại một thời), nay là Cung văn hóa Hữu nghị.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Nhà đấu xảo (trung tâm thương mại một thời), nay là Cung văn hóa Hữu nghị.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Trường Albert Sarraut

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Vườn hoa Canh nông, nay là công viên Lê Nin trên đường Trần Phú.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Con phố Ven Sông Hồng nối từ cầu Long Biên đi về phia Nhà Hát Lớn Hà Nội thời đó được coi như tuyến phố thương mại mới

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Từ những ngôi nhà cổ đã dần bị Âu hóa

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Những mái nhà cổ rồi xuất hiện thay thế dần bởi những mái nhà ngói Tây

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Mái nhà cổ phố Hàng Bạc (ảnh chụp năm 1956)_

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Mặt tiền các ngôi nhà phố đã được trang trí nhiều nét kiến trúc Pháp thuộc thời đó

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Bạc

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Bạc vẫn còn uốn theo thế đường khi xưa với những mái ngói lô xô.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Đường (rue du Sucre) những năm cuối 40 đầu 50, đã rõ nét kiến trúc mặt tiền giai đoạn Pháp thuộc.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Buồm (ảnh chụp năm 1940)_

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Gai với những thay đổi liên tục về phông cách kiến trúc khi những người ở đây kinh doanh tốt nên có tiền để xây mới, sang sửa.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Gai vẫn đọng lại những nét kiến trúc cổ truyền

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Quạt lúc này vẫn còn giữ được không gian kiến trúc cảnh quan xưa

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Mã Mây hay còn được gọi là Phố quân Cờ Đen cũng còn rất nhiều đoạn đặc trưng phố của người bản địa

    (36phophuong.vn)

  • Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Cuộc chiến ở Việt Nam là nơi sản sinh ra nhiều tên tuổi huyền thoại trong làng phóng viên ảnh chiến trường thế giới.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Eddie Adams (1933 – 2004) là nhiếp ảnh gia người Mỹ được biết đến qua các bức chân dung của nhân vật nổi tiếng, chính trị gia, đồng thời là phóng viên chiến trường, nhà báo ảnh xuất sắc. Ông đã có mặt tại 13 cuộc chiến, từ chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam đến chiến tranh vùng Vịnh năm 1991.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Bức ảnh nổi tiếng nhất trong sự nghiệp của Eddie Adams được chụp khi ông là phóng viên của hãng thông tấn Associated Press (AP). Đó là bức ảnh Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia của chế độ Sài Gòn Nguyễn Ngọc Loan bắn thẳng vào đầu một chiến sĩ cộng sản trên đường phố Sài Gòn ngày 1/2/1968. Adams đã giành được giải Pulitzer năm 1969 cho hạng mục Ảnh sự kiện và giải thưởng Ảnh Báo chí Thế giới năm 1968 nhờ bức ảnh này.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Françoise Demulder (1947 – 2008) là một nữ phóng viên nhiếp ảnh chiến trường người Pháp. Từng học triết học tại Paris và có thời gian ngắn làm người mẫu, nhưng bà đã bỏ tất cả vì sự đam mê công việc của một phóng viên chiến trường. Bà bắt đầu sự nghiệp năm 1972 tại Việt Nam, ở tuổi 25. Ngày 30/4/1975, Demulder là phóng viên duy nhất chụp được khoảnh khắc chiếc xe tăng Giải phóng húc đổ cổng của Dinh Độc Lập (ảnh đen trắng), đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh Việt Nam. Sau này bà là người phụ nữ đầu tiên giành giải thưởng ảnh Báo chí thế giới (World Press Photo). Ảnh màu: Một chiếc xe tăng khác băng qua cổng chính của Dinh độc Lập ngày 30/4/1975, Françoise Demulder chụp.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Henri Huet (1927 –1971, quốc tịch Pháp, có mẹ là người Việt) là một phóng viên ảnh nổi tiếng của AP trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Đến Việt Nam từ năm 1965, ông đã bị thương nặng vào năm 1967 và đã được AP chuyển về văn phòng tại Tokyo. Nhưng ngay sau đó ông lại yêu cầu được chuyển trở lại chiến trường Việt Nam. Henri Huet mất do tai nạn máy bay trực thăng tại Lào cùng 3 phóng viên khác năm 1971.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Các hình ảnh của Huet có ảnh hưởng mạnh đến dư luận tại Mỹ. Một trong những ảnh đáng nhớ nhất của ông có Binh nhất Thomas Cole, một người cứu thương trẻ của Sư đoàn Kỵ binh I của quân đội Hoa Kỳ, đang săn sóc các binh sĩ bạn mặc dù anh ta cũng đã bị thương.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Horst Faas (người Đức, 1933-2012) là một phóng viên ảnh huyền thoại của hãng thông tấn AP và thế giới nói chung. Ông đến Việt Nam năm 1962 và là người đứng đầu bộ phận ảnh của AP tại Sài Gòn suốt cho đến 1970. Trực tiếp cầm máy trên chiến trường, ông từng bị thương nặng ở chân năm 1967 do bom đạn. Không chỉ chụp ảnh về chiến sự, Faas còn tuyển dụng và đào tạo nhiều tay máy, trong đó có Huỳnh Công Út, nổi tiếng với cái tên Nick Út.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Một tấm ảnh về chiến tranh Việt Nam của Horst Faas đã đoạt giải Pulitzer năm 1965. Bức ảnh ghi lại cảnh một người cha ôm xác con nhìn lên chiếc xe chở lính Sài Gòn. Đứa bé thiệt mạng khi quân lực Sài Gòn tấn công vào một ngôi làng gần biên giới Campuchia.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Hubert van Es (1941 – 2009) là một nhiếp ảnh gia người Hà Lan có mặt tại Việt Nam để làm việc cho hãng thông tấn và United Press International (UPI) vào năm 1975, thời điểm cuộc chiến đã đến hồi kết. Ông là người đã thực hiện bức ảnh nổi tiếng ngày 29/4/1975, ghi lại cảnh đám đông di tản chen nhau lên một máy bay trực thăng đậu trên nóc một tòa nhà của CIA tại Sài Gòn.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Larry Burrows (người Anh, 1926 – 1971) là phóng viên ảnh của tạp chí Life. Đến Việt nam từ năm 1962, ông là một trong những nhiếp ảnh gia có mặt sớm và xây dựng được sự nổi tiếng của mình tại Việt Nam. Ông mất năm 1971 cùng Henri Huet và hai phóng viên khác trong vụ rơi trực thăng ở Lào.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Những phóng sự ảnh của Larry Burrows xuất hiện trên tạp chí Life đã làm bàng hoàng về sự tàn khốc cuộc chiến ở Việt Nam. Một trong những loạt ảnh nổi tiếng nhất của ông xuất bản trên tạp chí LIFE ngày 16/4/1965, có tựa đề “Một ngày bay cùng Yankee Papa 13” đã tái hiện lại một ngày chết chóc của binh sĩ Mỹ tại một đơn vị Trực Thăng ở Việt Nam.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Malcolm W. Browne (người Mỹ, 1933 – 2012) vốn là một nhà hóa học nhưng tham gia quân dịch vào cuối cuộc Chiến tranh Triều Tiên, sau đó gia nhập hãng thông tấn AP và làm trưởng đại diện AP ở Đông Dương từ 1961 – 1968. Ông là một trong những nhà báo đầu tiên thường trú đưa tin về Chiến tranh Việt Nam.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Bức ảnh nổi tiếng làm nên tên tuổi của Browne là ảnh chụp cảnh tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức năm 1963. Bức ảnh giành giải Ảnh Báo chí Thế giới năm 1963 và được đánh giá là bức ảnh làm đổi thay lịch sử. Bức ảnh đã khiến Tổng thống Mỹ giận dữ, mở đường cho việc nước Mỹ chấm dứt sự ủng hộ của mình với chính quyền Ngô Đình Diệm.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Nick Út, tên thật Huỳnh Công Út, (người Mỹ gốc Việt, sinh năm 1951 sinh tại Long An) là phóng viên ảnh cho hãng thông tấn AP tại Việt Nam từ năm 16 tuổi. Anh ruột của ông – Huỳnh Thanh Mỹ cũng là một phóng viên chiến trường làm việc cho AP – đã chết trong Chiến tranh Việt Nam. Bản thân Nick Út cũng bị thương 3 lần trong Chiến tranh Việt Nam.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Ông là người chụp bức ảnh em bé Phan Thị Kim Phúc và những đứa trẻ khác bị bỏng do bom napalm của Mỹ tại Trảng Bàng – Tây Ninh ngày 8/6/1972. Sau khi công bố, bức ảnh trở nên nổi tiếng và mang lại cho ông giải Pulitzer 1973. Bức ảnh này đã đi vào lịch sử với cái tên “Em bé Napalm”, được xếp thứ 41 trong 100 bức ảnh có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ 20 do Đại học Columbia bình chọn.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Philip Jones Griffiths (bên trái ảnh, người xứ Wales, 1936 – 2008) là một trong những phóng viên ảnh chiến trường nổi bật trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Đến miền Nam Việt Nam để đưa tin cho hãng thông tấn Magnum (Anh) vào năm 1965, ông đã thực hiện nhiều bức ảnh gây sốc, phơi bày sự thật trần trụi về cuộc chiến phi nghĩa do Mỹ tiến hành ở Việt Nam.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Năm 1971, cuốn sách ảnh Vietnam Inc của ông về cuộc chiến đã tạo ra cú sốc lớn khi cho người xem một góc nhìn chân thực hơn về cuộc chiến khủng khiếp ở Việt Nam. Những bức ảnh đó đã góp phần thức tỉnh trái tim hàng triệu người yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Ảnh: Một phụ nữ Việt Nam bị thương trong cuộc giao tranh trên đường phố Sài Gòn năm 1968.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Wilfred Graham Burchett (người Australia, 1911- 1983) là một phóng viên cánh tả nổi tiếng, là phóng viên phương Tây đầu tiên có mặt và đưa tin tại Hiroshima, Nhật Bản sau khi Mỹ thả bom nguyên tử. Ông cũng là phóng viên phương Tây hiếm hoi từng sống cùng với bộ đội Việt Nam tại chiến khu Việt Bắc và chiến trường miền Nam trong hai cuộc chiến tranh của người Việt Nam chống lại quân đội Pháp và Mỹ.

    Top 10 PV Ảnh chiến tranh Việt Nam nổi tiếng nhất

    Trong sự nghiệp của mình, Wilfred Burchett đặc biệt gắn bó với Việt Nam. Mặc dù đã 60 tuổi, ông vẫn đi hàng trăm km qua nhiều chiến trường, đã từng ở trong địa đạo Củ Chi với các du kích. Bên cạnh hình ảnh chiến tranh, ông cũng thực hiện nhiều bức ảnh đời thường, ghi lại các góc cạnh đời sống của người dân miền Bắc. Những hình ảnh và bài viết của ông đã tác động mạnh mẽ đến cái nhìn của công chúng thế giới về cuộc chiến giải phóng dân tộc của người Việt Nam.

    Theo KIẾN THỨC

  • Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lên ngôi vua, ấy là vua Gia Long, vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn. Gia Long chọn đóng đô ở Huế. Thăng Long sau đó được đổi thành tổng trấn Bắc Thành với 11 trấn trực thuộc. Nhà Nguyễn bấy giờ đặt quan tổng trấn Bắc Thành và trao quyền hành rất lớn, lại đặt ra các Tào, gần như cơ quan đại diện của các Bộ tại Thăng Long. Quan tổng trấn Bắc Thành được quyền tự quyết cắt đặt quan lại, bãi quan miễn chức, xét xử kiện tụng, sau khi tiến hành xong rồi mới tâu trình. Bởi vậy, quan phủ ở Thăng Long – Bắc thành bấy giờ gần như một triều đình thu nhỏ. Điều đó cho thấy, nhà Nguyễn vẫn đề cao tầm quan trọng của Thăng Long đến mức nào.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Bản đồ Hà Nội 1873

    Thành Hà Nội (thành) – vi.wikipedia.org Vua Gia Long cho phá dỡ Cấm thành Thăng Long, cho xây dựng lại một tòa thành mới hình vuông, mô phỏng theo kiểu Vauban của Pháp. Mỗi mặt thành được bố trí 2 pháo đài, mỗi góc đều có pháp đài góc. Thành ngoài được mở 7 cửa, trên mỗi cửa có lầu và cột đồng. Xung quanh thành đều có hệ thống hào được dẫn nước từ sông Tô Lịch. Cầu bắc qua hào để vào thành được xây bằng gạch nung chín. Nền thành rộng chừng 28m, mặt thành rộng khoảng 8m. Trên thành có xây tường nhỏ bằng gạch làm chỗ núp cho quân bắn xuống khi có chiến tranh. Vua Gia Long cho xây thêm tòa điện phía sau điện Kính Thiên làm hành cung, xây các cửa thành Đông Nam, Tây Nam, Đông, Tây và Bắc. Phía trước Hoàng thành Thăng Long cũ, vua Nguyễn cho xây cột cờ, gọi là Điền Đài, cao 100 thước. Tháng 7 năm 1820, vua Minh Mạng lại bổ sung thêm một số công trình ở Thăng Long. Vua Nguyễn cho dựng thêm các điện, đường hành cung và làm các quán dịch để tiếp sứ thần Trung Quốc từ Kinh Bắc lên tới Lạng Sơn. Phía trước điện Kính Thiên, vua Minh Mạng cho dựng điện Thị Triều và điện Cần Chánh. Ở bờ Nam sông Nhĩ đặt nhà tiếp sứ lợp ngói, bờ Bắc sông Nhĩ đặt các trạm sứ quán từ trạm Gia Quất đến Lạng Sơn cả thảy 7 trạm. Ở giữa trạm dựng một nhà ngói, các tòa nhà trước, sau và hai bên đều dùng gỗ tạp và lợp cỏ tranh.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Vị trí thành Thăng Long-Hà Nội qua các thời kỳ (Khảo sát thực địa -giả định)

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Bản đồ Thành cổ Hà Nội thời Pháp chiếm đóng

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cảnh tổng quát Thành Hà Nội, thủ phủ của Bắc Kỳ-1880, nhìn từ cửa phía Đông thành.

    Tới năm 1931, vua Minh Mạng thực hiện công cuộc cải cách hành chính với quy mô lớn. Cấp tổng trấn Bắc Thành và Gia Định Thành bị bãi bỏ. Vua Minh Mạng chia cả nước làm 30 tỉnh đặt dưới sự cai trị thống nhất của triều đình. Thủ phủ của Tổng trấn Bắc Thành, gồm khu vực Kinh thành Thăng Long các triều đại trước và mở rộng thêm, được cắt thành tỉnh Hà Nội. Bấy giờ, tỉnh Hà Nội được triều Nguyễn cắt đặt cho 4 phủ là Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa và Lý Nhân; 15 huyện là Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm, Thượng Phúc, Thanh Trì, Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An, Nam Xang, Duy Tiên, Bình Lục, Phú Xuyên, Kim Bảng và Thanh Liêm. Thành tỉnh Hà Nội trước đó được nhà Nguyễn dựng lại với chu vi 1.728m, cao 4,5m, hào bao quanh rộng khoảng 16m. Đến lúc vua Minh Mạng chia lại tỉnh hạt, bèn cho bạt bớt đi 1 thước 8 tấc cho phù hợp với quy chế thành của một tỉnh. Như vậy, đến thời Nguyễn, dù Kinh đô được đặt ở Huế, nhưng Thăng Long – Hà Nội vẫn tồn tại như một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội lớn, rất được triều đình coi trọng.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Sơ đồ vị trí các cổng thành Hà Nội

     

    Cửa Chính Bắc Vị trí và hình dáng Sử chép rằng Cửa Bắc được xây dựng từ thời Nguyễn, trên nền Cửa Bắc của thời Lê và hoàn thành năm 1805. Cửa Bắc được xây dựng theo kiến trúc vọng lâu: phía trên là lầu, phía dưới là thành.[1] Cửa Bắc nay nằm trên đường Phan Đình Phùng thuộc quận Ba Đình, Hà Nội. Cửa Bắc là một khối gần như vuông dạng hình thang, tường hai bên xoải ra. Lòng cửa là vòm cuốn xây gạch. Mép cửa kè đá hình chữ nhật, riềm trên bằng đá trang trí viền cánh sen. Trên nóc cửa có vọng lâu là một phương đình 8 mái. Phía bắc trán cửa có gắn tấm biển, ở giữa khắc nổi ba chữ Hán “Chính Bắc Môn” (正北門). Riềm cửa gắn biển đá trang trí nổi hoa dây. Bên cạnh phía phải gắn một tấm biển đá khắc ngày 25 tháng 4 1882,[2] đánh dấu ngày quân Pháp khai hỏa, bắn vào thành và chiếm lấy thủ phủ xứ Bắc Kỳ. Tường cửa còn nguyên dấu đạn đại bác của quân xâm lăng.[1] Trên lầu hiện là nơi thờ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu – hai vị Tổng đốc đã có công cùng nhân dân thành Hà Nội chống trả lại kế hoạch xâm chiếm thành của thực dân Pháp. Hai ông đều nhận lấy cái chết dầu [không] giữ được thành. (nguồn: wikipedia.org)

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Đây là cửa Chính Bắc của thành Hà Nội, do Emile Gsell chụp (khoảng năm 1880) trước khi thành bị tàu chiến Pháp khai hỏa bắn vào ngày 25 tháng 4 1882 trong trận chiến thành Hà Nội lần thứ hai, do vậy trong hình này tường của cửa thành còn nguyên vẹn chưa có dấu đạn đại bác như còn lại ngày nay.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cũng cửa thành Chính Bắc này, ảnh do BS Hocquard chụp khoảng 1884-85, đã sụp đổ điêu tàn

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa Bắc nhìn từ bên trong, kh. năm 1884-1885, sau khi quân Pháp đã chiếm thành Hà Nội.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa Bắc phía trước cổng thành đã lấp hào sông chạy quanh, tường thành bị hạ thấp .

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cổng thành Hà Nội trước năm 1896 càng rõ khi thấy khoảng đất bằng phẳng trước mặt.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Thành Cửa Bắc phía trên bị biến dạng xây dựng công trình cho mục đích sử dụng khác.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Vọng lâu bị phá

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Đã được cải tạo, phục hồi lại nguyên trạng

    Năm 1999 cũng tại đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện các phần còn lại của một bức tường xây bằng đá và gạch vồ, nền móng dày 1,2m và dấu tích của một kiến trúc khác thời Lê tại độ sâu từ 1,66m – 2,20m

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Vết đại bác trên cổng Bắc thành Hà Nội do pháo thuyền của Pháp bắn vào. Nguyên văn biển đá bằng tiếng Pháp: 25 avril 1882: Bombarde de la citadelle par les canonnières “Surprise” et “Fanfare”; nghĩa là Ngày 25/04/1882: Vết bắn phá thành của các pháo thuyền “Surprise” và “Fanfare”.

    Nguồn: Cửa Bắc vi.wikipedia.org

     

    Cửa Nam

    Phía nam thành Hà nội có hai cửa: cửa Tây Nam và cửa Đông Nam (cửa Đại Hưng), tất cả đã mất theo thời gian. Cửa Nam chỉ còn trong tên một con phố nơi có những tên đất như Đình Ngang (nơi dừng lại để soát xét giấy tờ, thẻ bài trước khi vào Hoàng Thành), Cấm Chỉ (dừng nơi khu cấm) và một góc cái vườn hoa thời Pháp thuộc có dựng tượng “Bà đầm xòe”.

     

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa Đông Nam thành Hà Nội-Bức ảnh này cho thấy hình ảnh Cửa Nam đổ nát, phía trong thấy rõ Kì Đài và Đoan Môn.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Phục dựng lai bằng 3D Cửa Đông Nam (cửa Đại Hưng), Cửa Nam thời Lý – Trần có tên là cửa Đại Hưng; nơi đây là cửa chính ra vào của các quan lại những ngày thiết triều, của các quan nhậm tại trấn ngoài có việc vào triều, nơi trần thiết lễ nghi mỗi khi Nhà nước có công việc quan trọng như tế lễ Giao, lễ Tịch Điền, nhà vua đi kinh lý các địa phương (thời Lý – Trần các vua năng đi tuần thú ra ngoài, vua Lê thì rất hiếm).

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Họa đồ thành Thăng Long thời Lê với sông Nhị chảy ở phía đông, tháp Báo Thiên ở giữa, vương phủ chúa Trịnh chếch ở phía nam tháp, hồ Tây ở phía bắc và thành Thăng Long gồm hai vòng lũy (và có Đại Hưng Môn, Chính Đông, cửa Tây ) nằm giữa hồ Tây và tháp Báo Thiên.

    Vấn đề vị trí các cửa thành trải qua các vương triều có cùng vị trí còn cần khảo cứu và có chứng cứ khảo cổ, tư liệu xác thực.

     

    Cửa Đông

    Chính Môn Đông (thành Cửa Đông) nằm phía Đông Hoàng Thành, dẫn vào khu cư dân sầm uất nhất kinh thành – khu phố cổ quận Hoàn Kiếm ngày nay. Cũng như Cửa Nam, Cửa Đông ngày nay chỉ còn là tên một con phố. Trước kia có một đường đi cũ trong thành từ cửa Đoan Môn ra đến Chính Môn Đông, qua cổng thành và dương mã thành, qua cầu bắc trên hào, để ra ngoài, tại đây con đường quặt về hướng Đông nam một quãng mới toả đi các phố của khu Cửa Đông. Bức ảnh này cho thấy Chính Môn Đông năm 1885 với phía trong là các khu nhà trại lính Pháp.

    Trên bức ảnh vẫn thấy rõ dấu tích cây cầu bắc qua hào. Khi Chính Môn Đông, tường thành và con hào bị phá bỏ, người Pháp cho mở một con đường mới thẳng từ Cổng Tỉnh (chiếc cổng sắt lớn thay cho Chính Môn Đông) ra khu phố cũ, con đường mới đó được đặt tên là Rue Général Bichot, nhân dân ta cứ quen gọi là phố Cửa Đông hoặc con đường Cổng Tỉnh. Bên ngoài Cổng Tỉnh luôn túc trực đông đảo một đội quân xe kéo, đáp ứng nhu cầu đi lại của binh lính Pháp từ trong thành vào khu 36 phố phường của Hà Nội. Quân đội Pháp biến Cấm Thành thành sở chỉ huy pháo binh, còn toàn bộ phía Đông Hoàng Thành (khu vực giữa hai con đường Nguyễn Tri Phương và Lý Nam Đế ngày nay) trở thành một trại lính khổng lồ.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Bản vẽ phục dựng khu vưc trước vửa Đông Hoàng Thành

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Nhìn vào phía trong thành từ Cửa thành phía Đông

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cổng Đông Thành Hà Nội năm 1885

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa Đông Thành Hà Nội năm 1890, lúc này đã bị hạ tầng lầu trên trên thành.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Nhìn theo hướng khác năm 1898

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa Đông-chính Đông Môn

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Phố Cửa Đông, Hà Nội.

     

    Cửa Tây thành Hà Nội.

    (Cửa Tây – Dương Mã Thành – đời Nguyễn)
    Trong bài viết: “Những vết tích của Hoàng Thành Thăng Long trên mặt đất và dưới lòng đất” GS Trần Quốc Vượng tiết lộ: “Tôi cùng với ông Đỗ Văn Ninh và một cán bộ kỹ thuật (đo vẽ khảo cổ) được thu nhận vào theo dõi công việc đào móng xây dựng công trường Lăng Bác. Chúng tôi đã thấy gì? Thấy được Cửa Tây – Dương Mã Thành – đời Nguyễn cùng nhiều đoạn thành, nền là lớp đá ong rất dày, trên xây gạch Nguyễn lẫn lộn gạch vồ Lê. Thấy nhiều di vật (gạch, ngói lưu li xanh vàng, đồ gốm sứ Lý – Trần – Lê – Nguyễn…).

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa thành Hà Nội nhìn từ phía đường Sơn Tây (Ảnh của Hocquard chụp khoảng 1885 -1886)

    Thấy những đống xương: Người, thú (trâu bò, lợn, gà…), có xương bả vai trâu có một đinh ba sắt xuyên qua (lễ hiến tế). Thấy một vài cái giếng xây bằng gạch “Giang Tây quân\’” (chữ in trên gạch, niên đại thuộc Đường thế kỷ VII – IX), có gạch in chữ “Lý gia đệ tam đế Long Thụy thái bình tứ niên tạo” (làm năm Long Thụy thái bình thứ tư, đời vua thứ ba nhà Lý – 1057) v.v… (thời ấy phải nghiêm ngặt tuân thủ định chế của công trường: Không được mang vào và mang ra bất cứ hiện vật gì, không được hỏi, được nói bất cứ cái gì mình biết và không biết, không được đi ra khỏi nơi quy định…)”.

    Đối chiếu bản đồ cũ với ảnh Google có thể thấy bốn con đường chạy quanh Hoàng Thành xưa hiện giờ là: Phan Đình Phùng (phía Bắc), Trần Phú (phía Nam), Lý Nam Đế (phía Đông) và Hùng Vương (phía Tây). Vẫn theo GS Trẫn Quốc Vượng: Về phía Tây Hoàng Thành Lê, thì còn chứng cứ: Khán Sơn.

    Toàn thư chép là ở góc Tây Bắc Hoàng Thành, nơi vua Lê Thánh Tông và các đại quan ngự xem quân sĩ tập trận. Thời Pháp thuộc, chính quyền Pháp sai san phẳng Khán Sơn làm nền, trên đó xây dựng trường trung học mang tên viên toàn quyền Albert Sarraut, nay được cải tạo, sửa thành trụ sở TƯ Đảng CSVN.

  • Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Tem phiếu, cửa hàng mậu dịch… chỉ còn trong ký ức của những người sinh từ những năm 70 về trước.

    Thời gian có thể tạo nên những công trình, những kỳ tích nhưng cũng chính thời gian vô tình xóa đi nhiều thành tựu quá khứ. Tuy nhiên, chỉ duy nhất có hồi ức là vẫn sống mãi cùng với cuộc đời của những ai được một lần chứng kiến.

    Thời kỳ bao cấp, nhất là thập kỷ 1980 thuộc giai đoạn điển hình trong lịch sử Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như nghệ thuật của đất nước.

    Thời kỳ bao cấp (1976 – 1986) là một giai đoạn để lại nhiều ấn tượng khó quên trong cuộc sống người dân Việt Nam. Tuy nhiên, với thế hệ trẻ, để hình dung trọn vẹn được sự vất vả của mỗi gia đình trong giai đoạn lịch sử này không phải là điều dễ dàng. Có lẽ nó chỉ còn trong ký ức của những người Việt sinh từ những năm 70 về trước.

    Cùng ngược dòng thời gian với những hình ảnh quý về miền Bắc thời bao cấp:

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Tem phiếu mua thịt.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Những cửa hàng mậu dịch quen thuộc tại thời bao cấp.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

      

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Những gói mứt tết quen thuộc trong ký ức của nhiều người.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

      

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Phiếu mua lương thực.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Cảnh sát giao thông trên xe cup đỏ – phương tiện giao thông “hạng sang” thời đó.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Phiếu mua lương thực.Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Bách hóa tổng hợp được coi là trung tâm mua sắm lớn nhất thời bấy giờ.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

      

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Rạp chiếu phim.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

      

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Xe đạp là phương tiện giao thông thông dụng thời đó.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

      

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

      

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Nụ hôn Việt trên tạp chí Life.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Bia hơi được bán qua khung sắt để tránh lộn xộn.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Phòng khách cơ bản thời bao cấp.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Cân lúa nộp cho hợp tác xã.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

      

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Cầu Long Biên.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Quán bia hơi.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Giải trí chính của trẻ em thời đấy là những hàng cho thuê truyện.

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

      

    Những hình ảnh quý về miền Bắc thời kỳ bao cấp

    Quán ăn vỉa hè.

    Xem thêm loạt ảnh Việt Nam 1992 : https://hinhanhvietnam.com/anh-cuc-chat-ve-cuoc-song-o-ha-noi-nam-1992/

    (Tiếp tục cập nhật)

  • Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

    Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

     

    1. Thị

    Nói tới thị xin mọi người trở về cái thời hồng hoang, ăn lông ở lổ của bộ lạc và thị tộc.
    Xã hội khi đó rất lạc hậu nên cần người, sanh đẻ rất khó nuôi, thành ra vai trò người đờn bà rất quan trọng.
    Thị tộc mẫu hệ là hình thức thị tộc đầu tiên và phổ biến của xã hội loài người. Người phụ nữ có vai trò lớn, là người đứng đầu gia đình và các thị tộc.
    Thị tộc phụ hệ là giai đoạn kế tiếp thị tộc mẫu hệ, ra đời từ thời kỳ đồ đá.

    Dân tộc Việt phải nhắc tới Hồng Bàng Thị (鴻龐氏) dịch ra là họ Hồng Bàng, nhưng ý nghĩa ban đầu là “người mẹ Hồng Bàng”.
    Bên Tàu có, như: “Phục Hi thị” 伏羲氏, “Thần Nông thị” 神農氏, “Cát Thiên thị” 葛天氏, “Hữu Hỗ thị” 有扈氏 cũng là kiểu này.
    Nữu Hỗ Lộc thị thời nhà Thanh là một trong bát kỳ, Sùng Khánh Hoàng thái hậu dòng tộc Nữu Hỗ Lộc thị là thân mẫu của Càn Long Hoàng đế. Hòa Thân, một nhân vật đầy quyền lực cũng thuộc Nữu Hỗ Lộc thị.

    Thị là một danh xưng mặc định cho người đờn bà. Cả Tàu lẫn Việt đều chỉ đại từ nhơn xưng ngôi thứ ba số ít chỉ phụ nữ là”y thị”.
    Thành ra có những cách gọi, xưng hô đờn bà như bà Trần Thị,Nguyễn Thị,Lý Thị, Vương Thị.

    Nên nhớ Việt tộc là một tộc khá cá biệt của thế giới văn minh, chúng ta theo chế độ mẫu hệ dài hơn người Tàu nữa, Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh là bằng chứng.
    Tôi đã từng nói Việt tộc ta trường tồn là có một phần “mẫu hệ”, nhờ mẫu hệ mà 1000 năm bị Tàu đô hộ ta không mất gốc.
    Cái chế độ mẫu hệ ở Việt Nam ta từ hồi Bà Trưng, Bà Triệu và tới nay đã là phụ hệ khi con mang họ cha. Tuy nhiên con mang họ cha là lý thuyết thôi, trong gia đình quyền lực của các bà vẫn bao trùm.

    Cái câu “Hỏi má mày” nghe trong xóm làng hơi bị nhiều.
    Ông bà xưa VN ta có câu : ”Mua heo chọn nái mua gái chọn dòng” là vì thế.
    Người Việt mình rất nhơn văn, không có tục bó chưn đau đớn như Tàu, chẳng có tục tùy táng người hầu, vợ lẽ sau khi chết…

    Việt cổ có tục xâm mình ,ăn trầu và nhuộm răng đen.
    Người Việt đặt tên con gái thì bưng nguyên chữ 氏 thị vô làm chữ lót một cách bất di bất dịch.
    Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan, bà là chánh thất vua Gia Long, là mẹ đẻ của hoàng tử Cảnh.
    Đoan Huy Hoàng thái hậu Hoàng Thị Cúc –tên thường gọi là Bà Từ Cung là thứ thất của vua Khải Định –mẹ của vua Bảo Đại… rồi bà Nguyễn Hữu Thị Lan, bà Bùi Thị Xuân, Ngô Đình Thị Hiệp…

    Người Việt đặt lót thị nhiều chứ người Tàu không thấy kiểu này.
    Nói vầy cho dễ hiểu nè, Việt đặt là Bành Thị Chơi,Tàu đặt tên là Bành Sướng Chơi và Tàu kêu thông dụng là bà Bành thị.
    Không phải con gái là cứ đặt thị, có người không lót chữ thị, tùy ý thích thôi.
    Thí dụ như : Bà Đạm Phương nữ sử tên thật là Công Tôn Nữ Đồng Canh là cháu nội vua Minh Mạng.
    Ca sĩ Quỳnh Giao tên thiệt là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang là cháu sơ vua Minh Mạng.
    Nhưng lại có bà Tôn Nữ Thị Ninh.
    Cái tên này hay nè? Công Tằng Tôn Nữ Tạ Thị Đánh Đu Tòn Ten Bong Lòng Đèn Lấp La Lấp Lánh Như Ánh Thuỳ Dương
    Ta nghe Thị Mẹt, Thị Màu, Thị Nở, Thị Hết, Thị Bẹt là một dạng gọi trỏng của người VN.
    Nhưng thị cũng là một cái họ riêng dù hiếm hoi. Vua Minh Mạng cho người Khmer họ Thị
    Kết luận: Lót chữ thị 氏 là dấu vết và nhắc nhớ tới mẫu hệ của Việt tộc ta.

    Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

    2. Văn

    Văn ra đời sau chữ thị vì phụ hệ đi sau mẫu hệ.

    Trong Nho giáo xưa thì học là giỏi, trau dồi học vấn,văn ôn võ luyện.
    Võ thì mạnh bạo, nhưng sát phạt, không dám khoe, văn thì phải khoe.

    Ông bà ta quan niệm học hành thi cử tiến thân.
    “Trai nam nhơn thi chữ
    Gái thục nữ thi tài”

    Chữ 文 Văn xuất xứ đầu tiên nghĩa là “chữ”.
    Chữ tượng hình là chữ bắt chước hình tượng các loài mà đặt ra kêu là “văn” 文, gộp cả hình với tiếng gọi là “tự” 字.
    Văn tự là chữ viết, thành ra ta có Anh Văn, Pháp Văn,Hoa Văn…

    Văn còn là“văn minh” 文明, “văn hóa” 文化.
    Người xưa tôn thờ sao Văn Xương, Văn Khúc vì tượng trưng cho thông minh, hiếu học, học giỏi, văn chương, mỹ thuật, âm nhạc, thành đạt.

    “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
    Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
    Anh về học lấy chữ nhu
    Chín trăng em đợi, mười thu em chờ”

    Người Việt thích lót chữ văn cho con trai là muốn con mình học giỏi, thi đậu, thành đạt.
    Các bạn nên hiểu là bên Tàu cũng có lót chữ văn, tuy nhiên không nhiều như Việt mình, thí dụ Triệu Văn Trác, Mã Văn Tài.

    Nhưng con gái mà tên Phạm Văn Phương thì cũng lạ.
    Văn cũng là một cái họ khá phổ biến của người Tàu và VN, thí dụ Văn Thiên Tường.
    Nhưng cũng như thị, người Việt không phải cứ con trai là lót chữ văn.
    Thí dụ như Hồ Quý Ly có con là Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương.
    Nhà Lê Sơ, con cháu Lê Lợi đặt tên là Lê Nguyên Long, Lê Bang Cơ, Lê Nghi Dân, Lê Tư Thành…
    Chúa Nguyễn thì lót chữ Phúc cho con, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Khoát…
    Vua Minh Mạng thì làm bài phiên hệ “Miên-Hường…” đặt cho con.
    Họ Ngô thì lấy chữ Đình lót cho con: Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm…

    Túm lại: Chữ lót văn là như vậy đó
    “Đêm qua chớp bể mưa nguồn
    Hỏi người tri kỷ có buồn hay chăng
    Cá buồn cá lội tung tăng
    Em buồn em biết đãi đằng cùng ai?”

    Nguyễn Gia Việt/Dansaigonxua

  • Hình ảnh xưa cũ Huế – Sài Gòn – Hà Nội

    Hình ảnh xưa cũ Huế – Sài Gòn – Hà Nội

    Hình ảnh xưa cũ, thân thương của “Huế, Sài Gòn, Hà Nội”

    Dưới đây là những tư liệu hiếm hoi được các nhiếp ảnh gia nước ngoài ghi lại- hình ảnh phố phường Hà Nội, Huế, Sài Gòn… từ những thế kỷ trước.

    Những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, buôn bán hàng rong trên khắp các ngõ phố trở thành một nét văn hóa của người Việt lúc bấy giờ. Phố phường Việt Nam trong những năm 1930, 1940 thế kỷ trước gắn liền với hình ảnh những gánh hàng rong trên khắp các con phố, ngõ nhỏ. Từ người già đến trẻ nhỏ ai cũng có thể bán hàng.

    Đâu đó trên khắp hè phố Sài Gòn là những quán hủ tiếu, đồ giải khát. Trên các ngõ nhỏ Hà Nội là những gánh phở, hàng cắt tóc dạo… Những người Việt nhỏ bé, tần tảo cười tươi chào bán các mặt hàng luôn là hình ảnh quen thuộc, gần gũi.

    Bộ ảnh dưới đây sẽ đưa đến cho độc giả những hình ảnh, những góc nhìn thân quen, giản dị nhất về phố phường Việt Nam- những năm thế kỷ trước.

    Gánh phở dạo trên phố Hà Nội
    Gánh phở dạo trên phố Hà Nội

    Auto Draft

    Auto Draft

    Hàng quán ven đường phố Hà Nội
    Hàng quán ven đường phố Hà Nội

     

    Auto Draft

    Một góc khác của Hà Nội. Ảnh chụp bởi Firmin – André Salles
    Một góc khác của Hà Nội. Ảnh chụp bởi Firmin – André Salles

    Hàng cắt tóc dạo trên đường Hà Nội
    Hàng cắt tóc dạo trên đường Hà Nội

    Gánh hàng rong trên bờ Sông Hồng
    Gánh hàng rong trên bờ Sông Hồng

     

    Một gánh phở ở chợ Hải Phòng.
    Một gánh phở ở chợ Hải Phòng.

     

    Một em bé bán bánh đa nướng
    Một em bé bán bánh đa nướng

     

    Một quầy bán đồ giải khát trên đường phố Huế
    Một quầy bán đồ giải khát trên đường phố Huế

     

    Gánh phở dạo trên đường phố Huế
    Gánh phở dạo trên đường phố Huế

    Một quầy bán hủ tiếu góc đường Lê Lợi – Nguyễn Trung Trực, Sài Gòn.
    Một quầy bán hủ tiếu góc đường Lê Lợi – Nguyễn Trung Trực, Sài Gòn.

     

    Người bán dạo trên bùng binh trước chợ Bến Thành, Sài Gòn
    Người bán dạo trên bùng binh trước chợ Bến Thành, Sài Gòn

     

    Một cậu bé bán bóng bay dạo trên phố Sài Gòn cười tươi, "tạo dáng" trước ống kính
    Một cậu bé bán bóng bay dạo trên phố Sài Gòn cười tươi, “tạo dáng” trước ống kính

     

    Những đôi quang gánh quen thuộc tại một góc chợ Sài Gòn
    Những đôi quang gánh quen thuộc tại một góc chợ Sài Gòn

     

    Ảnh chụp gánh hàng rong tại Chợ Lớn, cách đây 130 năm
    Ảnh chụp gánh hàng rong tại Chợ Lớn, cách đây 130 năm

     

    Nguồn:cuucshuehn.net

  • Số phận của những vị “VUA TRẺ” trong sử Việt

    Số phận của những vị “VUA TRẺ” trong sử Việt

    “Vua trẻ con” dùng để chỉ những vị vua lên ngôi khi chưa 15 tuổi. Trong đó, có vua sau khi trưởng thành ghi dấu ấn trong lịch sử, nhưng cũng có vua mệnh mỏng, chết đi trước khi đủ lớn để tự khẳng định mình, và họ vĩnh viễn rời khỏi vũ đài chính trị với tư cách là những vị “vua trẻ con” mà thôi.

    Số phận của những vị "VUA TRẺ" trong sử Việt
    Số phận của những vị “VUA TRẺ” trong sử Việt

    .
    1. Đinh Phế Đế Đinh Toàn (974 – 1001): Vua trẻ con đầu tiên trong lịch sử phong kiến nước ta, lên ngôi khi 6 tuổi, làm vua chưa đầy 1 năm. Sau khi Lê Hoàn lên ngôi, Đinh Toàn được phong làm Vệ Vương. Năm 1001, trong dịp cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn, Đinh Toàn bị trúng tên, mất năm 27 tuổi.
    .
    2. Lý Nhân Tông Lý Càn Đức (1066 – 1127), là vị vua thứ 4 của triều Lý, lên ngôi khi 6 tuổi, trị vì tổng cộng 55 năm. Dưới thời trị vì của Nhân Tông “nước Việt phồn vinh, dân được giàu đông”.
    .
    3. Lý Thần Tông Lý Dương Hoán (1116 – 1138), là vị vua thứ 5 của nhà Lý, lên ngôi năm 11 tuổi. Thời Thần Tông nhân dân no đủ, nhưng ông cũng chỉ trị vì được 10 năm rồi mất khi còn rất trẻ.
    .
    4. Lý Anh Tông Lý Thiên Tộ (1138-1175), là vị vua thứ 6 của nhà Lý, lên ngôi khi mới 3 tuổi. Vua còn nhỏ, Lê Thái hậu nắm quyền nhiếp chính tư thông với Đỗ Anh Vũ làm triều chính đảo điên. Nhờ có các trọng thần như Tô Hiến Thành gánh vác, nếu không triều đình đã nát cmnr. Anh Tông làm vua được 37 năm, mất năm 40 tuổi.
    .
    5. Lý Cao Tông Lý Long Trát (1173 – 1210), là vị vua thứ 7 của nhà Lý, lên ngôi năm 3 tuổi. Khi còn nhỏ, Cao Tông tỏ ra ngoan hiền, chăm học hỏi, nhưng khi lớn lên ông càng ngày càng trở nên “bung lụa”, tin cậy hoạn quan, nhân dân đói khổ, nổi dậy khắp nơi, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy.
    .
    6. Lý Chiêu Hoàng Lý Phật Kim (1218-1278), là vị vua thứ 9 và cuối cùng của triều đại nhà Lý, lên ngôi khi 7 tuổi, tới 8 tuổi thì nhường ngôi cho Trần Cảnh.
    –> Triều Lý có 9 đời vua thì đã có tới 5 vị lên ngôi ngay từ khi còn ở tuổi thiếu niên, nhi đồng. Âu cũng là cái dở của nhà Lý.
    .
    7. Trần Thái Tông Trần Cảnh (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần, lên 7 tuổi được đưa vào cung làm hầu cận cho Lý Chiêu Hoàng, lên 8 tuổi được lấy nữ hoàng làm vợ và được nhường ngôi báu.
    .
    8. Trần Minh Tông Trần Mạnh (1300 – 1357), là vị vua thứ 5 của nhà Trần, lên ngôi lúc 14 tuổi. Trần Minh Tông tính tình nhân hậu, biết trọng người tài. Minh Tông được sử cũ khen ngợi là một ông vua sáng suốt, dù không phải là không có tỳ vết.
    .
    9. Trần Hiến Tông Trần Vượng (1319 – 1341), là vị vua thứ 6 của nhà Trần, lên ngôi khi 10 tuổi. Hiến Tông tuy cai trị trên danh nghĩa, nhưng việc điều khiển triều chính đều do cha là Thái thượng hoàng Trần Minh Tông xử lý. Hiến Tông mất sớm, khi mới 23 tuổi. Theo sử sách đánh giá, vua là một người “tư trời tinh anh và sáng suốt”.
    .
    10. Trần Dụ Tông Trần Hạo (1336 – 1369), là vị vua thứ 7 của nhà Trần, lên ngôi khi 5 tuổi. Dụ Tông thông minh, có học vấn, buổi đầu lại được những trung thần có tài giúp sức, nên chính sự tốt đẹp. Nhưng quãng đời về sau lại càng nát, bị bọn gian thần lũng đoạn.
    .
    11. Trần Thuận Tông Trần Ngung (1378 – 1398), là vua thứ 11 triều Trần, lên ngôi khi 11 tuổi. Vua chỉ làm bù nhìn vì mọi quyền lực đều nằm trong tay Hồ Quý Ly. Làm vua được 10 năm, 1 năm đi tu và bị Hồ Quý Ly giết năm 22 tuổi. Poor vua!
    .
    12. Trần Thiếu Đế Trần Án (1396 – ?), là vị vua thứ 12 và là vị vua cuối cùng của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, lên ngôi khi 3 tuổi ba năm sau thì bị Hồ Quý Ly bức phải nhường ngôi. Nhà Trần mất về tay nhà Hồ.
    .
    –> Vì triều Trần có lệ vua cha khi còn sống đã truyền ngôi cho con và mình lên làm thượng hoàng, vì vậy các vua Trần đều lên ngôi khi tuổi còn rất trẻ, hầu hết được đặt lên ngai vàng trong tình thế bất thường.
    .
    13. Lê Thái Tông Lê Nguyên Long (1423 – 1442), là vị vua thứ 2 của nhà Lê sơ, lên ngôi năm 11 tuổi, tự điều hành mọi công việc, được sử gia khen là “vua thiên tư sáng suốt, nối vận thái bình”. Ông làm vua đươc 9 năm rồi chết đột ngột khi mới 20 tuổi trong vụ án Lệ Chi Viên chấn động.
    .
    14. Lê Nhân Tông Lê Bang Cơ (1441 – 1459), là vị vua thứ 3 của nhà Lê sơ, lên ngôi khi mới 2 tuổi, 12 tuổi thì tự điều hành triều chính. Ông trị vì trong 17 năm rồi bị người anh cùng cha khác mẹ là Nghi Dân ám sát năm 19 tuổi.
    .
    15. Lê Chiêu Tông Lê Ý (1506 – 1526), là vị vua thứ 10 của nhà Lê Sơ, lên ngôi khi 11 tuổi trong bối cảnh đất nước loạn lạc. Triều chính nằm trong tay Mạc Đăng Dung. Lớn lên, Lê Chiêu Tông ngầm mưu triệt hạ phe cánh họ Mạc, việc bị lộ, vua bị giết khi mới 21 tuổi.
    .
    16. Lê Cung Hoàng Lê Xuân (1507 – 1527), là vị vua thứ 11 của nhà Lê sơ, lên ngôi khi 15 tuổi. Cung Hoàng lên ngôi bù nhìn, bị quyền thần Mạc Đăng Dung không chế, thực tế không hề có quyền hạn. Vận nước đã hết, tài năng Cung Hoàng lại không có, làm vua được 5 năm thì bị Mạc Đăng Dung giết chết năm 20 tuổi.
    –> Triều Lê sơ kéo dài 99 năm, trải qua 10 đời vua, có 4 vị lên ngôi khi còn độ tuổi thiếu nhi.
    .
    17. Mạc Anh Tổ Mạc Mậu Hợp (1560 – 1592) là vị vua thứ 5 của nhà Mạc, lên ngôi lúc mới 2 tuổi. Khi quân Nam triều dưới sự chỉ huy của Trịnh Tùng bắc tiến, Mạc Mậu Hợp thua chạy, đánh mất thành Đông Kinh. Sau đó, ông bị quân Nam triều bắt khi đang giả làm sư và bị Trịnh Tùng xử tử. Hưởng dương 32 tuổi.
    .
    18. Vũ An vương Mạc Toàn (? – 1593) là vua thứ 6 và là vua cuối cùng nhà Mạc. Mạc Toàn lên ngôi khi lực lượng nhỏ yếu, không được nhân tâm ủng hộ. Ông bị quân Trịnh bắt được và đem chém đầu cùng nhiều tông thất nhà Mạc. Mạc Toàn chỉ xưng hiệu được vài tháng, không rõ sống được bao nhiêu tuổi. Nhưng dựa vào chi tiết vua cha Mậu Hợp mất lúc mới 30 tuổi, nên có lẽ Mạc Toàn cũng lên ngôi khi còn trẻ con.
    .
    19. Lê Trung Tông Lê Duy Huyên (1535 – 1556), là vị vua thứ hai của nhà Lê trung hưng, lên ngôi khi 13 tuổi, và mọi việc do Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm đứng ra giúp đỡ. Dưới thời Trung Tông hoàng đế, vùng kiểm soát của nhà Lê tiếp tục được mở rộng, tiếng vang lan ra, hào kiệt, danh sĩ tứ phương tìm về theo nhà Lê ngày càng đông.
    .
    20. Lê Thế Tông Lê Duy Đàm (1567 – 1599), là vị vua thứ 4 của nhà Lê trung hưng, lên ngôi năm 7 tuổi. Nhà Mạc bị đánh bại, chạy lên Cao Bằng. Lê Thế Tông được đón về Thăng Long, nhưng quyền lực vua Lê bị thu hẹp bên cạnh sự bành trướng của phủ chúa Trịnh. Lê Thế Tông mất năm 33 tuổi.
    .
    21. Lê Kính Tông Lê Duy Tân (1588 – 1619), là vị vua thứ 5 của nhà Lê trung hưng, làm vua năm 11 tuổi. Khi trưởng thành, thấy thế lực chúa Trịnh lấn át quá đáng, Lê Kính Tông mưu giết Trịnh Tùng. Việc không thành, vua bị chúa Trịnh bức thắt cổ chết.
    .
    21. Lê Thần Tông Lê Duy Kỳ, lên ngôi năm 12 tuổi. Năm 36 tuổi ông nhường ngôi cho con, lên làm Thái thượng hoàng. Ai ngờ con chết sớm, Thần Tông được chúa Trịnh mời lên làm vua một lần nữa. Ông cũng là vị Vua Việt Nam duy nhất hai lần lên ngôi.
    .
    22. Lê Chân Tông Lê Duy Hựu (1630 – 1649), là vị vua thứ 7 của nhà Lê trung hưng, con trưởng của Thần Tông, lên ngôi năm 13 tuổi. Ngồi ngai vàng được 6 năm thì bị bệnh mất.
    .
    23. Lê Huyền Tông Lê Duy Vũ (1654 – 1671), là vị vua thứ 8 của nhà Lê trung hưng, con thứ hai của Lê Thần Tông, sau khi cha chết, lên nối ngôi khi mới 9 tuổi, mất sớm vào tuổi 18.
    .
    24. Lê Gia Tông Lê Duy Cối (1661 – 1675), là vị vua thứ 9 của nhà Lê trung hưng trong lịch sử, cũng là con thứ của Thần Tông, làm vua khi 12 tuổi, ở ngôi 3 năm rồi mất.
    –> Thời Lê trung hưng có 16 đời vua, có tới 7 đời vua trẻ con, trong đó một số chết yểu.
    .
    25. Cảnh Thịnh đế Nguyễn Quang Toản (1783 – 1802), là vị vua cuối cùng của nhà Tây Sơn, lên ngôi khi 9 tuổi. Cảnh Thịnh sau khi lên ngôi thì bị họ ngoại chuyên quyền, trong đó có Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Vua nhỏ tuổi, không có kinh nghiệm nên không giữ được việc triều chính, làm cho các đại thần giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục, triều chính sụp đổ. Cảnh Thịnh cùng hoàng thất Tây Sơn đều bị vua Gia Long dùng cực hình 5 voi xé xác. Khi bị hành hình, Cảnh Thịnh đế 19 tuổi.
    .
    26. Kiến Phúc đế Nguyễn Phúc Ưng Đăng (1869 – 1884), là vị vua thứ 7 của nhà Nguyễn, lên ngôi năm 14 tuổi, làm vua được 8 tháng thì bị đầu độc chết.
    .
    27. Hàm Nghi đế Nguyễn Phúc Ưng Lịch (1872 – 1943), là vị vua thứ 8 của nhà Nguyễn, lên ngôi năm 13 tuổi. Vua bị Pháp bắt khi 17 tuổi và bị đày sang Angiêri và qua đời tại đây năm 1943 vì bệnh ung thư dạ dày.
    .
    28. Thành Thái đế Nguyễn Phúc Bửu Lân (1879 – 1954), là vị vua thứ 10 của triều đại nhà Nguyễn, lên làm vua năm 10 tuổi. Đây là ông vua yêu nước, thương dân, có ý chí chống Pháp. Chính vì vậy, ông bị chính quyền Pháp ép phải thoái vị năm 28 tuổi và bị đi đày ở đảo Reunion.
    .
    29. Duy Tân đế Nguyễn Phúc Vĩnh San (1900 – 1945), là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn, lên ngai vàng khi 8 tuổi. Tuy nhiên, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với Pháp. Ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội dự định khởi nghĩa nhưng thất bại và Duy Tân bị bắt đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Trong cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, ông gia nhập quân Đồng Minh chống phát xít Đức rồi mất vì tai nạn máy bay ở Trung Phi, hưởng dương 45 tuổi.
    .
    30. Bảo Đại đế Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (1913 – 1997), là vị vua thứ 13 và là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn nói riêng và của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam nói chung, lên ngôi khi 13 tuổi.

    Những bức ảnh cực hiếm về cuộc đời Vua Bảo Đại

     

    Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm, truyền được 13 đời vua. Các vị “vua trẻ con” đều rơi vào thời kỳ Pháp đô hộ.

    FB/DAINAMBALL

  • Tại sao gọi là XE ĐÒ?

    Tại sao gọi là XE ĐÒ?

    Có lần tôi hỏi nhà văn Sơn Nam khi gặp ông ở quán cà phê vỉa hè trước Nhà Văn hóa quận Gò Vấp cách nay hai mươi năm. Trong chiếc áo sơ mi cụt tay, khuôn mặt ốm nhăn nheo màu bánh ít, mắt đăm chiêu sau cặp kiếng dày, ông thủng thỉnh trả lời theo kiến giải của mình.
    Đồng bằng Nam bộ sông nước chằng chịt, ngày xưa phương tiện đi lại chủ yếu bằng đò ghe, cho đến thập niên ba mươi, người Pháp thành lập vài hãng xe chở khách đi miền Tây. Thời ấy đường bộ chưa phát triển, xe đến bến khách phải chuyển tiếp bằng đò ghe nên người ta gọi là xe đò cho tiện.

    Tại sao gọi là XE ĐÒ?

    Nghe vậy thôi, sau này tôi tìm hiểu thêm chút ít, biết rằng người Bắc gọi xe đò là xe khách hoặc xe ca, còn người Trung lại gọi xe đò giống như người Nam. Một số người giải thích vì hầu hết các chủ nhà xe đi miền Trung là người Sài Gòn nên “xe đò” trở thành phương ngữ chung cho tiện. Và rồi câu chuyện sôi nổi hơn khi nhà văn nhắc tới kỷ niệm thời học sinh trung học từng đi xe đò từ Rạch Giá về Cần Thơ mà ông có nhắc lại trong tập “Hồi ký Sơn Nam” :

    “…Tiền xe từ Rạch Giá đến Cần Thơ là một đồng hai (120km) nhưng nhỏ tuổi như tôi chỉ tốn có 6 cắc. Tôi lên xe ngồi để người phụ xế sắp đặt chỗ ngồi cho gọn, khép nép, chung quanh xe là nhiều người rao hàng để hành khách ăn buổi sáng vì buổi trưa mới đến bến Cần Thơ. Tôi còn nhỏ, ba tôi cho riêng tôi 2 cắc, rất tủi thân vì trong khi ấy gia đình khá giả dám trả 1 đồng hai (hai chỗ dành cho trẻ con rộng rãi hơn) lại dành cho con một cái bánh bao to để ăn dọc đường. Xe khách bóp kèn inh ỏi, chạy vòng quanh để tìm kiếm khách…”.

    Tại sao gọi là XE ĐÒ?
    BẾN XE ĐÒ LỚN TRÊN ĐƯỜNG TRƯƠNG VĨNH KÝ (PETRUS KÝ) NĂM 1950, GẦN NGÃ SÁU SÀI GÒN CÓ TƯỢNG PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG ( ẢNH DONALD F. HARRISON COLLECTION – THE VIETNAM CENTERAND ARCHIVE)
    Nhưng điều thú vị nhất là ông kể hồi thời kỳ đầu xe đò do người Pháp làm chủ toàn là loại xe nhỏ chở khách chừng hơn hai mươi người. Nhưng chỉ một thập niên sau, người Việt mình giàu có tham gia mở công ty lập hãng, nhập cảng máy, khung gầm từ châu Âu châu Mỹ, đóng thùng thành xe đò loại lớn chở hơn năm chục hành khách, cạnh tranh ác liệt trong giai đoạn đường bộ được mở rộng và phát triển ở các tỉnh miền Tây và Ðông Nam Bộ.
    Giao thông kết nối khắp nơi, nhu cầu đi lại của người dân càng nhiều, tạo thành thời vàng son của xe đò. Chiến tranh Ðông Dương nổ ra, Nhật vào chiếm miền Nam, xăng dầu khan hiếm, bị giám sát chặt chẽ, ngành xe đò suy giảm, một số hãng xe hoạt động cầm chừng và phải thay đổi nhiên liệu cho xe hoạt động.

    Ông Sơn Nam kể : “Xe ô tô chở khách phải dùng “ga”, hiểu là than củi tràm, bỏ vào cái thùng tròn đặt bên hông xe phía sau. Trước khi cho xe nổ máy thì quạt cho than tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe chạy, gọi “Autogène”, theo mô hình của Kỹ sư Thịnh Hưng Ngẫu chế tạo ở Sài Gòn”.

    Hình ảnh chiếc xe đò nhỏ chạy bằng than đốt trong cái thùng phía sau xe được lặp lại từ năm 1975 đến 1985, chắc người Sài Gòn tuổi trung niên trở lên đều biết rõ. Tôi từng đi loại xe sử dụng nhiên liệu này, mỗi lần chui vào cửa xe phía sau là đều phải cẩn thận với cái thùng than cháy nóng được treo dính ở đuôi xe. Thường thì người ta chỉ cải tiến xe đò lỡ – tức là loại xe Renault cũ xì từ giữa thập niên 50.

    Sáng tạo thời bao cấp: Xe đò chạy bằng…than!

     

    Tại sao gọi là XE ĐÒ?
    XE ĐÒ RENAULT CHẠY TUYẾN TỪ HUẾ QUA AN LỖ RỒI ĐẾN SỊA –TRUNG TÂM HUYỆN QUẢNG ĐIỀN NGÀY NAY. HINH CHỤP 1964. NGUỒN LONNIE M. LONG COLLECTION – VIETNAM CENTER

    Tuy giới lái xe gọi đó là xe đò hỏa tiễn nhưng nó chạy chậm hơn xe chạy xăng hoặc dầu. Có lúc xe chạy ì à ì ạch khi than cháy không hết, lơ xe phải dùng thanh sắt mở lò đốt cời than. Hoặc thỉnh thoảng gặp đường vồng xóc, than văng ra khỏi cửa thông không khí, rớt xuống đường cháy đỏ rực. Vô phúc cho chiếc xe đạp nào chạy phía sau tránh không kịp, cán phải cháy lốp xe.

    Xe đò hỏa tiễn chạy những đường ngắn như Sài Gòn – Long Khánh, Chợ Lớn – Cần Giuộc – Gò Công, Sài Gòn – Long An, còn xe đò dài vẫn chạy bằng xăng dầu, nhưng không còn nhiều như trước.

    Trên mui phía đầu xe thường có thùng phuy nước dùng để làm nguội máy, kế tiếp là nơi chở hàng hóa, xe gắn máy, xe đạp cho khách buôn chuyến và khách đi tỉnh xa.

    Tôi còn nhớ mãi lần đầu được đi xe lô về quê bên ngoại ở Càn Long, Trà Vinh. Năm đó tôi chín tuổi, đi cùng với người anh bà con. Xe lô có bãi xe ở Bến Bạch Ðằng và Bến Chương Dương. Bãi xe lô hay nhiều bãi bến xe đò khác khắp nơi trong thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn đều nằm hai dãy dọc theo đường phố. Phòng vé là một cái quầy hay cái bàn gắn tấm biển to đề tên từng hãng xe, chạy lộ trình nào. Riêng xe lô không cần bán vé, khách đến bãi xe còn chỗ trống cứ lên, đủ người thì bác tài chạy. Loại xe này gọi đúng tên là “Location”, sơn màu đen, kiểu xe ô tô chở chừng bảy tám người nhưng bác tài cố nhét thêm hành khách.

    Xe lô chạy nhanh hơn xe đò vì không bắt khách dọc đường, không lên xuống hàng hóa cồng kềnh, lại có khi qua cầu tạm không cần bắt hành khách xuống cuốc bộ. Ðể gió lùa vào cho hỉ hả đám hành khách ngồi chật cứng như nêm, lại thêm giỏ xách túi bị, va li lỉnh kỉnh, bác tài mở cửa sau bung lên cột chặt lại, người ngồi phía sau ngó ra phố phường. Xe chạy ra khỏi Phú Lâm, nhìn cảnh đồng lúa xanh tươi hai bên đường, lòng cảm thấy phơi phới mặc dầu lâu lâu tôi phải nhấc mông trở cẳng vì bị ngồi bó gối.

    Tại sao gọi là XE ĐÒ?
    XE ĐÒ FORD TẠI BẾN XE NGUYỄN CƯ TRINH 1965

    Nói là đi xe lô thì hành khách không cần xuống bộ qua cầu tạm, chứ lần đó tôi vẫn phải xuống cuốc bộ như bao chuyến xe đò khác. Tôi mới ca cẩm, xe lô cái nỗi gì, có mà “lô ca chân” theo lời hát của một tuồng cải lương trên truyền hình. Sau năm 1968, cuộc chiến ngày càng ác liệt, cầu đường nhiều nơi bị “mấy ổng” gài mìn phá hủy, có nơi phải dựng cầu tạm, đầu cầu có đặt trạm kiểm soát của quân cảnh hay cảnh sát.

    Ðường về Trà Vinh chỉ hơn 160 cây số mà qua mấy chục cây cầu, lại phải chờ phà Mỹ Thuận. Ði xe lô cho được nhanh mà về đến nơi phải mất năm sáu tiếng đồng hồ, huống hồ chi hành khách đi miệt Hậu Giang, Cà Mau xuống ở bến xe còn phải đón đò về nhà ở vùng U Minh, Miệt Thứ mất cả ngày đường. Chỉ có xe thư tức là xe đò làm nhiệm vụ giao nhận thư từ bưu phẩm chuyển cho bưu điện tỉnh mới được ưu tiên, không phải lụy phà hay bị cảnh sát xét hỏi.

    Bây giờ xe đò tiến bộ hơn nhiều, xe có máy lạnh, ghế nằm thoải mái cho khách đường xa, duy chỉ không có phòng vệ sinh trong xe, lại còn tặng thêm nước uống, khăn ướt lau mặt. Xe chạy nhanh nhờ có cầu qua hai con sông Tiền và sông Hậu, tôi ngồi xe Mai Linh chạy một lèo về tới chợ Cà Mau chỉ mất sáu tiếng đồng hồ. Nếu không kể đến loại xe dù bắt khách dọc đường, thì xe đò là phương tiện đi đường xa tương đối rẻ tiền.

    Trước năm 1975, Xa cảng miền Tây là bến tập trung các xe đò về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh đó lại có bến xe Chợ Lớn đi về Cần Giuộc, Gò Công, Lý Nhơn, về sau bến xe này gộp lại với Xa cảng miền Tây mở rộng thành Bến xe miền Tây nằm trên đường Kinh Dương Vương quận Bình Tân.

    Còn bến Miền Ðông dành cho xe đi các tỉnh miền Trung và phía Bắc trên đường Petrus Ký trước kia thì gộp lại với hai bến xe nhỏ là Nguyễn Cư Trinh đi lộ trình cao nguyên và Nguyễn Thái Học đi Long Hải – Vũng Tàu – Phan Thiết, rồi sau đó vài năm chuyển về bến xe Văn Thánh, và cuối cùng yên vị tại Bến xe miền Ðông trên đường Ðinh Bộ Lĩnh hiện nay.

    Nhưng nghe đâu hai bến xe này sẽ phải dời ra xã Tân Túc huyện Bình Chánh và Suối Tiên Q. 9 để có diện tích rộng hơn, đáp ứng được cho nhu cầu ngày càng tăng. Sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến Bến xe An Sương, bến này đúng ra có xe đi Tây Ninh – Bình Phước – Bù Ðăng, 9 Xe do 6Bù Ðốp vùng Tây Trường Sơn, nhưng cũng có xe đi vài tỉnh thành của cả ba miền, do hai bến xe miền Ðông và miền Tây nhỏ hẹp.

    Ai cũng có kỷ niệm lần đầu đi xe đò. Mỗi chuyến xe chuyên chở nỗi niềm hoài niệm. Có người nhớ chuyện tiền vé như nhà văn Sơn Nam. Có người lòng phơi phới nhìn thấy phong cảnh đồng lúa xanh tươi chạy dài bên quốc lộ như tôi. Cũng có người nhớ mùi mồ hôi, mùi xăng dầu giữa nắng gió miền Trung. Nhớ bến bãi ồn ào í ới ngày xưa. Và cũng có người tuổi đời chồng chất, nhớ cảnh xuống xe qua cầu xe lửa Bến Lức, Tân An thuở xa lắc xa lơ.

    Bài viết :Yên Huỳnh

  • Tục để móng tay dài “siêu dị” của người Việt Nam xưa

    Tục để móng tay dài “siêu dị” của người Việt Nam xưa

    Quan niệm của người xưa về sự quyền quý, cao sang là người không phải “động chân, động tay”, tức là mọi việc năng nhọc đều sai khiến người khác. Lao động chân tay bị coi là công việc thấp hèn. Cộng với quan niệm của một số nho sĩ cho rằng, thân thể mình là do tạo hoá và cha mẹ ban cho, do vậy phải gìn giữ tất thảy cái gì có thể gìn giữ được.

    Tục để móng tay dài
    Do vậy mà nảy sinh một tục của giới mày râu là để móng tay dài, không cắt ngắn. Những móng tay để dài đến mức nó cuộn tròn khiến bàn tay khó có thể cầm nắm hoặc làm việc gì nặng nhọc là cách thể hiện quan niệm và địa vị của mình. Đương nhiên vì không thể tuyệt đối không sử dụng bàn tay, nên thông thường người ta chỉ để móng tay của bàn tay trái, còn bàn tay phải thì ít nhất cũng phải dùng để cầm cây bút hay một vài sinh hoạt cá nhân.
    một ông quan người An Nam (VN) với móng tay để dài
    Một ông quan người An Nam (VN) với móng tay để dài

     

    Tục để móng tay dài
    Một bàn tay của quan An Nam. Các ngón tay được để móng dài, để chứng tỏ đẳng cấp xã hội (không phải làm việc tay chân, chỉ lao động bằng trí óc!), trừ ngón trỏ dùng để… gãi!

     

    Tục để móng tay dài
    Hanoi – Long nails of a native’s hand Bàn tay của một nhà nho, với móng tay để dài, biểu hiện cho vị trí cao trong xã hội (tức là người không phải lao động bằng tay chân)

     

    ông lang móng tay dài
    ông lang móng tay dài

     

    Móng tay để dài của một nhà nho - Photo by Léon Busy
    Móng tay để dài của một nhà nho – Photo by Léon Busy

     

    Hà Nội - Ông lang (thầy thuốc) với móng tay để dài
    Hà Nội – Ông lang (thầy thuốc) với móng tay để dài

     

    Đông Dương thập niên 1920 - Một nho sĩ Annam với móng tay dài, niềm tự hào và thích thú của ông ta
    Đông Dương thập niên 1920 – Một nho sĩ Annam với móng tay dài, niềm tự hào và thích thú của ông ta

     

    SàiGòn - người phụ nữ nhà giàu với móng tay để dài
    SàiGòn – người phụ nữ nhà giàu với móng tay để dài

     

    Tục để móng tay dài
    Go Cong 1920-1929 – Un chef de canton qui a de longs ongles – Một ông cai tổng (chánh tổng) với bàn tay để móng dài Với móng tay dài loằng ngoằng như thế này, xỏ vào được tay áo dài chắc không phải là việc dễ dàng lắm! Nam Kỳ Tỉnh chia thành tổng (canton), đứng đầu là Chánh tổng (Chef de canton), còn gọi là Cai tổng. Tổng chia thành làng (village), đứng đầu là Hội đồng Hương chức (còn gọi là Ban Hội tề) do Hương cả phụ trách chung.

     

     

    Tục để móng tay dài
    SAIGON 1869 – Hand of a rich Annamese. See the long nails on his left hand. Photograph by Wilhelm Burger Móng tay để dài của một người Annam giàu có tại Saigon.

    [ Flickr/ manhhai]