Category: Chứng nhân lịch sử

  • Ảnh hiếm về cuộc sống của người Việt Nam xưa

    Những bức ảnh dưới đây sẽ cho bạn cách nhìn cận cảnh nhất về cuộc sống của ông cha ta hơn 100 năm trước.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Hội thi chim, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Một nông dân ở Hà Nội chở lợn ra chợ bán, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Các chị em đang đãi gạo thổi cơm, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Hình ảnh người dân đang cấy lúa, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Những người ở Hà Nội gánh tre đi bán, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Một gia đình tiêu biểu ở Hà Nội, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Một phú hộ ở Bắc kỳ, ảnh chụp đầu thế kỷ 20.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Hớt tóc, lấy ráy tai dạo ở Hà Nội, ảnh chụp cuối thế kỷ 19.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Một gánh hàng ăn vặt ở Hà Nội, ảnh chụp khoảng năm 1910.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Lính khố đỏ của triều đình – Một người phụ trách thông tin liên lạc

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Một khúc sông ở Nam Kỳ, ảnh chụp khoảng từ 1898 đến 1905.

    Cuộc sống của Việt Nam cách đây 100 năm qua những bức ảnh hiếm

    Thẻ công nhân của nhà máy dệt Nam Định
  • Ảnh hiếm về phụ nữ Việt Nam thời xưa

    Vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam những năm 1910 qua loạt ảnh màu giá trị giúp mọi người có cái nhìn chân thực hơn về giai đoạn lịch sử này.

    Ảnh hiếm về phụ nữ Việt Nam thời xưa

    Theo Kiến Thức
  • Hình ảnh xưa cũ Huế – Sài Gòn – Hà Nội

    Hình ảnh xưa cũ Huế – Sài Gòn – Hà Nội

    Hình ảnh xưa cũ, thân thương của “Huế, Sài Gòn, Hà Nội”

    Dưới đây là những tư liệu hiếm hoi được các nhiếp ảnh gia nước ngoài ghi lại- hình ảnh phố phường Hà Nội, Huế, Sài Gòn… từ những thế kỷ trước.

    Những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, buôn bán hàng rong trên khắp các ngõ phố trở thành một nét văn hóa của người Việt lúc bấy giờ. Phố phường Việt Nam trong những năm 1930, 1940 thế kỷ trước gắn liền với hình ảnh những gánh hàng rong trên khắp các con phố, ngõ nhỏ. Từ người già đến trẻ nhỏ ai cũng có thể bán hàng.

    Đâu đó trên khắp hè phố Sài Gòn là những quán hủ tiếu, đồ giải khát. Trên các ngõ nhỏ Hà Nội là những gánh phở, hàng cắt tóc dạo… Những người Việt nhỏ bé, tần tảo cười tươi chào bán các mặt hàng luôn là hình ảnh quen thuộc, gần gũi.

    Bộ ảnh dưới đây sẽ đưa đến cho độc giả những hình ảnh, những góc nhìn thân quen, giản dị nhất về phố phường Việt Nam- những năm thế kỷ trước.

    Gánh phở dạo trên phố Hà Nội
    Gánh phở dạo trên phố Hà Nội

    Auto Draft

    Auto Draft

    Hàng quán ven đường phố Hà Nội
    Hàng quán ven đường phố Hà Nội

     

    Auto Draft

    Một góc khác của Hà Nội. Ảnh chụp bởi Firmin – André Salles
    Một góc khác của Hà Nội. Ảnh chụp bởi Firmin – André Salles

    Hàng cắt tóc dạo trên đường Hà Nội
    Hàng cắt tóc dạo trên đường Hà Nội

    Gánh hàng rong trên bờ Sông Hồng
    Gánh hàng rong trên bờ Sông Hồng

     

    Một gánh phở ở chợ Hải Phòng.
    Một gánh phở ở chợ Hải Phòng.

     

    Một em bé bán bánh đa nướng
    Một em bé bán bánh đa nướng

     

    Một quầy bán đồ giải khát trên đường phố Huế
    Một quầy bán đồ giải khát trên đường phố Huế

     

    Gánh phở dạo trên đường phố Huế
    Gánh phở dạo trên đường phố Huế

    Một quầy bán hủ tiếu góc đường Lê Lợi – Nguyễn Trung Trực, Sài Gòn.
    Một quầy bán hủ tiếu góc đường Lê Lợi – Nguyễn Trung Trực, Sài Gòn.

     

    Người bán dạo trên bùng binh trước chợ Bến Thành, Sài Gòn
    Người bán dạo trên bùng binh trước chợ Bến Thành, Sài Gòn

     

    Một cậu bé bán bóng bay dạo trên phố Sài Gòn cười tươi, "tạo dáng" trước ống kính
    Một cậu bé bán bóng bay dạo trên phố Sài Gòn cười tươi, “tạo dáng” trước ống kính

     

    Những đôi quang gánh quen thuộc tại một góc chợ Sài Gòn
    Những đôi quang gánh quen thuộc tại một góc chợ Sài Gòn

     

    Ảnh chụp gánh hàng rong tại Chợ Lớn, cách đây 130 năm
    Ảnh chụp gánh hàng rong tại Chợ Lớn, cách đây 130 năm

     

    Nguồn:cuucshuehn.net

  • Ai là người Việt Nam đầu tiên đi xe đạp?

    Ai là người Việt Nam đầu tiên đi xe đạp?

    Xe đạp ra đời từ giữa thế kỷ 19 nhưng chiếc xe đạp có hai bánh bằng có đường kính bằng nhau như ta thấy hiện nay mới chính thức ra đời ở Pháp vào năm 1885.

    Bức tranh được họa vào những năm 1895 -1897 cho thấy Hoàng đế An Nam, tức vua Thành Thái bấy giờ (1887- 1907) là người Việt Nam đầu tiên sở hữu xe đạp. 
    Bức tranh được họa vào những năm 1895 -1897 cho thấy Hoàng đế An Nam, tức vua Thành Thái bấy giờ (1887- 1907) là người Việt Nam đầu tiên sở hữu xe đạp.

    Sự kiện trên được báo L’Illustration đương thời đã đăng bài kèm theo bức họa.
    Vua Thành Thái sử dụng xe đạp chỉ để đi dạo trong hoàng thành trong lúc rãnh rỗi.
    Quan sát xe đạp lúc nầy chưa có “gạc đờ bu” (chắn bùn), xe không sử dụng xích kéo mà dùng hai cây ” lắp” để truyền lực. Đèn xe lúc ấy chưa có dynamo và dường như được thắp sáng bằng dầu …mù u !

                                Theo Blogger  Ngô Bá Dũng
     Tuy vậy, vua Thành Thái không phải người Việt đầu tiên …đi xe đạp

    Ai là người Việt Nam đi xe đạp đầu tiên? Cái này chưa ai biết chính xác!

    tấm hình xưa nhứt chụp vua Thành Thái đi xe đạp lóng chừng 1900 tới 1907
    Tấm hình xưa nhứt chụp vua Thành Thái đi xe đạp

    Thành Thái không phải là người đi xe đạp đầu tiên, vì lúc đó ông ở Huế, mà chiếc xe đạp đầu tiên là nhập vô Sài Gòn và dân Sài Gòn đạp xe đạp đầu tiên.

    Nam Kỳ đạp xe

    Chiếc xe mà Pháp kêu là Bicyclette, Anh kêu là Bicycle,Tàu kêu自行车 Tư hành xa. Dân Nam Kỳ hay lấy hành động đặt tên: thấy ngồi đạp bằng hai cái chân nên đặt là “xe đạp”.
    Những bộ phận của chiếc xe đạp được dân Nam Kỳ Vệt hóa hết. Đàng trước có cái tay lái kêu là guy-đông (guidon), dưới chân có bàn đạp pê-đan (pedale), ngồi trên yên là selle de vélo…

    Rồi có cái vỏ xe les pneumatiques bằng cao su, ruột xe les chambres a air , phía sau có cái yên để chở người kêu là pọc-ba-ga (porte-bagages). Lại có sợi dây sên -gạc-đờ-sên (garde-chaine), hai cái vè chắn bùn bánh xe kêu là gạc-đờ-bu (garde-boue), căm xe là les rayons, líp xe (roue libre), rồi thắng xe là frein (phanh)….
    Xe đạp xưa nhập nguyên chiếc từ Pháp qua ,nhãn của các hãng Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling…,mỗi xe đều có một cái ống bơm tay (pompe), một cái dynamo quay điện để sáng đèn đi ban đêm.

    Xe đạp sau đó ra Bắc Kỳ

    Nói xe đạp phải nhắc tới ông Nguyễn An Ninh hồi những năm 1926 làm báo La Cloche fêlée (Cái chuông rè). Ông thường mặc áo trắng, đi xe đạp, tay ôm mớ nhật trình, miệng rao bán khắp Sài Gòn.
    Sau khi Pháp đóng cửa tờ báo, ông đạp xe đi bán dầu cù là, vừa bán vừa tuyên truyền chánh trị.
    Đô thành Sài Gòn (tên gọi Sài Gòn thời trước năm 1975) mỗi sáng sớm có nhiều công chức đi làm bằng xe đạp, học trò đạp tới trường, tà áo dài trắng và chiếc xe đạp thành biểu tượng của học trò thời bấy giờ.
    Xin đọc lại một đoạn văn của ông Hồ Biểu Chánh tả đô thành Sài Gòn hồi năm 1954 trong “Bức thơ hối hận”:

    “ Buổi sớm mai, trong thủ đô Sài Gòn, cũng như trong vùng ngoại ô Bà Chiểu Ngã Năm, sự hoạt động của dân cư tạo thành một quang cảnh náo nhiệt cực điểm.

    Theo FB/ Nguyễn Gia Việt

     

     

     

  • Cuộc trả lời phỏng vấn cuối cùng của cựu hoàng Bảo Đại

    Cuộc trả lời phỏng vấn cuối cùng của cựu hoàng Bảo Đại

    Trước khi Bảo Đại qua đời (1997), nhà sử học trẻ Fédéric Mitterand – cháu của Tổng thống Mitterand đã có cuộc phỏng vấn trực tiếp cựu hoàng tại nhà riêng (tầng trệt cao ốc 29 Presnel, quận 16 – Paris).

    Cuộc trả lời phỏng vấn cuối cùng của cựu hoàng Bảo Đại

    Trong cuộc phỏng vấn này, lần đầu tiên cựu hoàng nói về những kỷ niệm và thổ lộ ước vọng của ông về đất nước Việt Nam, trong đó có việc ông thành lập chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật và trong trường hợp nào ông đã thoái vị làm cố vấn cho chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.

    Cuộc phỏng vấn này đã được phát trên truyền hình Pháp nhiều lần, hoàng nữ Phương Thảo (con của bà Bùi Mộng Điệp và cựu hoàng Bảo Đại) đã thu được và cung cấp cho tôi, kỹ sư Bùi Hữu Lân (cựu sinh viên Đại học Bách khoa Pháp) và ông Nguyễn Đắc Xuân chuyển qua Việt ngữ. Xin trích một số đoạn để bạn đọc tham khảo về những sự kiện cách nay 70 năm.

     

    Về nền độc lập của Việt Nam

    – Frédéric Mitterand: Đây là một thời kỳ (1944-1946) lạ lùng: có một chủ quyền của nước Pháp Vichy, có đông đảo người Nhật, có vua Bảo Đại im lặng đứng nhìn tình thế, bên cạnh nhân dân Việt Nam. Nước Pháp được giải phóng, thay đổi chế độ chính trị, với tướng De Gaulle lên cầm quyền. Lúc ấy ở Việt Nam tình hình ra thế nào?

    – Bảo Đại: Người Việt chúng tôi mù tịt. Chúng tôi hoàn toàn không biết việc gì đã xảy ra. Chúng tôi có biết nước Pháp được giải phóng, chấm hết.

     Và người Nhật? Lúc ấy một thời gian sau họ làm đảo chánh?

    – Người Nhật làm đảo chánh vì người Pháp cho rằng, sau khi quân Nhật đã thua nhiều trận ở mặt trận Thái Bình Dương, nước Nhật đã đến thời tận số. Cho nên người Pháp mới bắt đầu tổ chức một loạt kháng chiến. Người Nhật, thấy đã hết thời, không muốn như vậy và đó cũng là một vấn đề thể diện. Họ đã làm đảo chánh và gạt bỏ chủ quyền của Pháp.

     Lúc ấy, ngài bất đắc dĩ cũng bị lôi cuốn phần nào trong cuộc ẩu đả đó?

    – Đó là một câu chuyện khá đầy kịch tính. Hôm người Nhật làm đảo chánh tôi không có mặt trong cung. Tôi đi săn. Đến khi trở về cung các cửa cung đều mở. Có tiếng súng nổ. Một sĩ quan Nhật đến trình diện với tôi, xin tôi chịu khó chờ một chút: “Chúng tôi đang giải quyết vài vấn đề”, và sau đó ông sĩ quan này dẫn tôi vào cung. Một thời gian sau, tôi vào trong cung, cũng ông sĩ quan ấy nói với tôi: “Ngày mai, có một nhân vật quan trọng, một đại sứ, đến trình diện với ngài”. Ngày hôm sau tôi tiếp đại sứ Yokoyama. Đại sứ trình uỷ nhiệm thư và nói với tôi rằng: “Thiên Hoàng cho tôi đến bên cạnh Ngài”. Đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với người Nhật.

     Trước đó ngài đã có suy nghĩ về hoàng đế Nhật Bản?

    – Chúng tôi biết hoàng đế Nhật, nhất là Minh Trị Thiên Hoàng, đã mở cửa nước Nhật cho thế giới hiện đại.

     Và ngài có quan tâm đến kinh nghiệm này?

    – Có, tôi có theo dõi khá sát lịch sử nước Nhật.

     Người Nhật tỏ ra rất kính trọng ngài, và ngay sau đó, đề nghị ngài tuyên bố nước Việt Nam độc lập. Một tình trạng gay cấn vì thực sự không còn chủ quyền của Pháp lúc đó nữa. Chính tướng De Gaulle cũng đã nó: “Tôi thấy Đông Dương đã rời xa như một con tàu lớn”. Không có vấn đề duy trì chính quyền Vichy, còn người Nhật thì yêu cầu ngài tuyên bố độc lập. Và ngài lưỡng lự?

    – Trước hết, tôi nghi ngờ vì không biết nền độc lập này có giá trị đến mức nào.

     Đó là một cái bẫy?

    – Không phải là cái bẫy nhưng hai chữ ấy vô cùng kỳ diệu, đó là hai chữ thiêng liêng, hai chữ Độc Lập. Đối với thần dân tôi, tôi không thể từ chối Độc Lập, nếu tôi từ chối, thần dân tôi sẽ trách tôi. Đó là cơ hội ngàn năm một thuở để chứng tỏ rằng chúng tôi độc lập, dù cái độc lập ấy có hình thức thế nào. Điều kỳ lạ là khi tôi ký tuyên ngôn độc lập, tôi hỏi Đại sứ Nhật: “Có vấn đề trao đổi gì không?”. Ông trả lời: “Không, chúng tôi không đòi hỏi ngài bất cứ một điều gì; chúng tôi giải phóng quý quốc; có thế thôi”.

     Nhưng dầu sao, ngài không ngại trở nên một con bài trong tay người Nhật, và ngài không ngại làm cho người Pháp nghĩ rằng ngài đã bỏ rơi họ?

    – Không, hoàn toàn không. Tôi không muốn tôi là con bài trong tay người Nhật. Một hôm ông tướng chỉ huy quân đội viễn chinh Nhật ở Đông Dương xin tôi tham gia vào chiến cuộc để giúp nước Nhật, vì lúc đó Nhật đang ở trong một giai đoạn khó khăn, tôi trả lời: “Nay chúng tôi độc lập, không thể sai khiến chúng tôi điều gì nếu chúng tôi đã độc lập. Chúng tôi tự do làm điều gì chúng tôi muốn, các Ngài không có quyền can thiệp vào nội bộ chúng tôi”. Và người Nhật đã hiểu.

     Có cái ngại kia, ngại làm cho người Pháp nghĩ rằng ngài đã bỏ rơi họ?

    – Không những tôi đã nghĩ đến việc này, mà nhiều người Pháp đã cho rằng tôi đã phản bội họ. Khi tôi trở qua Pháp năm 1948, có một chiến dịch báo chí chống tôi, nói rằng: “Đó là một con người phản bội, ông ấy đã bỏ rơi chúng ta, ông ấy đi với bọn Nhật”. Tôi phải đưa Hiệp ước Bảo hộ ra. Nó đây, theo điều 11 hay 13, nước Pháp có trách nhiệm giữ an ninh cho nhà vua, chống lại kẻ địch bên ngoài cũng như nội loạn bên trong. Ai đã phá bỏ hiệp ước này? Không phải tôi. Ngày 9-3-1945, chủ quyền Pháp đã không còn nữa.

     Người Nhật có ngược đãi người Pháp không?

    – Không, quân đội của Thiên Hoàng không làm cái việc tàn ác. Thủ phạm là đội Kempetai, là một loại Lê Dương của Nhật. Đội Kempetai này đã làm các việc tàn ác đối với người Pháp.

     Bỗng nhiên ta lâm vào cái thế phức tạp. Vì ngài có nhiều quyến luyến với người Pháp. Ngài không thể bình thản mãi?

    – Đó là tình cảm cá nhân, nhưng tôi phải nghĩ trước hết đến quốc gia dân tộc. Người Nhật đã đem độc lập đến cho chúng tôi, tôi phải cụ thể hoá nền độc lập đó. Cho nên tôi đã lập một chính phủ. Các quan đại thần lúc ấy đã xin rút lui để chúng tôi có một chính phủ tân tiến.

    – Lúc đầu tiên ngài thực hiện quyền lực của một ông vua lập hiến, của một ông vua thời hiện đại. Vậy chính phủ ấy có những ai.

    – Đó là những trí thức trẻ, nhiều người ở Pháp, những kỹ sư trường bách khoa, những tiến sĩ luật, những bác sĩ y khoa, họ thông hiểu cả Đông và Tây. Về chức Thủ tướng, tôi đã chọn một học giả thông hiểu cả Đông và Tây.

     Trước tình hình mới ấy, tâm trạng của dân chúng thế nào?

    – Có thể nói rằng dân chúng cảm thấy nhẹ nhõm.

     Nước Nhật sụp đổ. Bom nguyên tử nổ. Đế quốc Nhật Bản không còn. Vào khoảng đó, những người Cộng sản gây nên một áp lực ngày càng lớn?

    – Thật ra, lúc đầu không phải là những người Cộng sản, mà là những người quốc gia. Đồng bào tôi, nhất là giới trí thức, nghĩ rằng cần có một cuộc cách mạng. Đối với họ, nếu không có cách mạng thì không có tiến hoá. Tôi sợ họ làm một cuộc cách mạng. Nếu ông nhớ lại cái hiệp ước Yalta và Postdam, mặc dầu Nhật thua trận, nhưng Nhật có trách nhiệm phải giữ trật tự, tức là quân đội Nhật không bị giải giáp. Tôi sợ quân Nhật bắn vào dân. Tôi mới nói rằng: “Thần dân đã muốn một cuộc cách mạng, thì chính tôi đã làm một cuộc cách mạng đó rồi. Tôi sẽ ra đi như thế”.

     Và ngài thoái vị. Việc này đối với chúng tôi, quả là hơi khó hiểu?

    – Không, có thể khó hiểu đối với ông, nhưng không khó hiểu đối với người dân Việt Nam. Người dân Việt Nam đã hiểu. Chỉ có điều người dân Việt Nam không thấy một việc, đó chính là những người trong chính phủ mới là những người Cộng sản. Nhưng họ có biết một việc, là trong chính phủ ấy, nghĩa là người đứng ra lập chính phủ ấy, tức ông Hồ Chí Minh đã được người Mỹ vũ trang. Dân Việt Nam nghĩ rằng đã có người Mỹ đứng sau lưng họ, họ sẽ có nhiều thế lực hơn để giành độc lập từ tay người Pháp. Đến giờ, người Mỹ tự xem là những người chống Cộng.

    Tâm trạng của ngài lúc ấy thế nào?

    – Tôi hoàn toàn không bị bối rối với những vấn đề ấy. Tôi cảm thấy sự trỗi dậy ấy, trước hết là các người quốc gia muốn có thể cụ thể hoá nền độc lập, họ không muốn tôi ở vị trí lãnh đạo vì tôi không có đủ phương tiện để tranh thủ độc lập từ người Pháp; nhưng vì có một chính phủ được người Mỹ ủng hộ, nên dân Việt Nam cho rằng chính phủ ấy có nhiều phương tiện hơn tôi để tranh thủ từ người Pháp một nền độc lập thực sự.

    *     *

    *

    Về Chủ tịch Hồ Chí Minh

     Và ngài đã thoái vị. Từ đây bắt đầu một giai đoạn thật ly kỳ trong cuộc đời ngài. Đó là giai đoạn quan hệ với Cụ Hồ Chí Minh và người cấp dưới của ông ấy. Ngài đã tiếp xúc với Cụ Hồ Chí Minh hay ai tiếp xúc?

    – Trước tiên các bộ trưởng của Cụ Hồ tiếp xúc với tôi, để tiếp nhận sự chuyển giao quyền lực.

     Luôn luôn đi theo nguyên tắc một sự kế tục hợp pháp. Nền Cộng hoà là cô gái do nhà vua sinh ra?

    – Có thể là như vậy.

     Và ngài đã chuyển giao quyền lực?

    – Chính tôi đã khai sinh ra cái nền Cộng hoà đó. Lúc đó đại diện Cụ Hồ Chí Minh nói với tôi: “Mời ngài đi Hà Nội, Cụ Hồ có thể quen biết ngài”. Rồi tôi đi Hà Nội.

     Ngài trở thành Vĩnh Thuỵ?

    – Vâng, tôi trở thành một công dân thường.

     Ngài không quá hối tiếc nền quân chủ đã chấm dứt, nền quân chủ ấy dầu sao cũng là một thể chế đã được tổ tiên ngài lập nên?

    – Có chứ, dĩ nhiên tôi còn cảm thấy nhiều hơn. Và hối tiếc nữa, nhưng nó là một trang sử đã được lật qua. Đó là định luật của nước tôi.

     Và ngài đã muốn để mình lật trang sử đó?

    – Tôi muốn để chính tôi lật, thay vì để cho một vũng máu lật trang sử.

    – Và ngài đã đi Hà Nội để gặp cụ Hồ Chí Minh. Điều kỳ lạ là cụ Hồ Chí Minh đối xử với ngài với một sự cung kính đặc biệt?

    – Vâng, xin đừng quên rằng cụ Hồ xuất thân từ một gia đình quan lại. Và cụ đã đối xử với tôi như tôi còn làm vua. Cụ cấm những người xung quanh cụ gọi tôi bằng đồng chí, bằng những tên gọi của giai cấp vô sản, và luôn luôn gọi tôi là Hoàng thượng.

    – Cụ Hồ Chí Minh mời ngài làm cố vấn tối cao của Chính phủ?

    – Vâng, lúc đó không một lý do gì để mà từ chối bởi vì mọi người Việt Nam đều theo Cụ. Điều chúng tôi muốn, là nước nhà phải được độc lập. Tôi muốn làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Mọi người Việt Nam đều muốn ủng hộ chính phủ ấy để tranh thủ một nền độc lập thật sự.

    – Ngài đã ở gần cụ Hồ Chí Minh, cụ ấy đã cho ngài cảm tưởng thế nào của cụ ấy? Nay đã qua một thời gian dài, cảm tưởng ấy có thay đổi nhiều không?

    – Không, không thay đổi. Ông hãy nhớ đại hội Tours, cụ Hồ ở Pháp lúc ấy. Rồi cụ đi Moscou để lập đảng Cộng sản Việt Nam.

    – Đối với ngài, cụ Hồ cũng là một nhà ái quốc?

    – Đối với tôi, còn hơn thế nữa, đó là một người có tinh thần quốc gia. Cụ là một người yêu nước.

    – Trong cuốn sách của ngài, không thấy có một lời buộc tội khắt khe nào đối với cụ Hồ. Ngài quý trọng cụ Hồ? Và cũng thế, quả là rất ngạc nhiên khi thấy cụ Hồ không bao giờ công kích ngài?

    – Không, không có lý do gì để tôi công kích Cụ ấy. Ban đầu, tôi còn ủng hộ Cụ ấy nữa. Cố gắng đưa nước nhà thoát khỏi chiến tranh, vì chúng tôi đã khổ vì chiến tranh.

     Một sự kiện lạ lùng. Có lúc cụ Hồ đã nghỉ đến việc trao lại quyền hành cho ngài?

    – Nhưng việc này chính tự tay cụ Hồ. Một hôm cụ Hồ đến gặp tôi. Trước đó, cụ đã gọi điện thoại, Cụ nói sẽ đến gặp tôi. Tôi tưởng Cụ ấy ốm. Cụ nói với tôi: “Không có, tôi muốn ngài nắm lại chính quyền”. Tôi hỏi : “Tại sao?”. Cụ nói : “Tôi bị để ý quá, tôi quá đỏ, tôi cảm thấy không được Đồng minh tín nhiệm”. Tôi tưởng Cụ đùa. Cụ nói : ‘Không có, ngài hãy trình diện một chính phủ vào cuối ngày hôm nay”. Trong ngày tôi đã có nhiều cuộc tiếp xúc, cho đến chiều thì cụ Hồ gọi lại cho tôi. Cụ nói : “sau khi đã suy nghỉ kỷ lại, xin ngài bỏ qua cho tôi chuyện vừa qua. Trước cái khó khăn của hoàn cảnh này, tôi không có quyền đào nhiệm”. Tôi nói : “Vậy thì xin Cụ hãy tiếp tục”.

    – Quả là quá ngạc nhiên, rất xúc động khi thấy có sự đoàn kết cao như vậy. Tại sao cuộc thương thuyết với nước Pháp bị bế tắc? Phải chăng lỗi hoàn toàn về phía Pháp?

    – Hãy bắt đầu với Hiệp ước ngày 6-3. Ký giữa Sainteny và cụ Hồ. Tôi biết rõ hiệp ước ấy vì tôi đã soạn thảo với cụ Hồ. Hiệp ước ký xong thì tôi đi Trung Quốc. Sau đó là Hội nghị Fontainebleau. Khi cụ Hồ sang Pháp. Hội nghị không đạt kết quả gì, vì mỗi bên đều giữ vững lập trường của mình. Không ai muốn thương lượng thật sự, phía Pháp cũng như phía Việt Nam.

    – Tôi tưởng tượng có những trang “tít” trên các báo. Ngài đã trở nên một ông vua “đỏ”?

    – Hoàn toàn không như vậy. Mọi người gọi tôi là công dân Vĩnh Thụy. Chỉ có thế.

    – Lúc ấy ngài biết gì về chủ nghĩa cộng sản? Ngài đã nắm hết chủ nghĩa cộng sản?

    – Không, tôi biết rất ít.

    – Trong khoảng thời gian hai năm ấy, ngài đã ở bên cụ Hồ, và ngài đã giúp cho cụ Hồ nhiều việc quan trọng. Nếu phải lặp lại việc này hôm nay, ngài cũng sẽ lặp lại chăng? Ngày nay ngài đánh giá việc này thế nào?

    – Còn tùy. Nếu là vì hạnh phúc của thần dân tôi, tôi cũng sẽ làm.

    *     *

    *

    Về quan hệ với người Pháp

    – Chiến tranh thực sự bùng nổ giữa Pháp và Việt Minh, một cuộc chiến ác liệt, gian khổ. Ngài là một người lưu vong. Ngài không còn gì trong tay cả. Tuy vậy, lần hồi, ngài lại được công luận chú ý, nhất là các người Pháp đã biết ngài, và đông đảo người Việt Nam muốn độc lập?

    – Để nói cho rõ hơn, sau khi đô đốc d’Argenlieu mãn nhiệm kỳ. Ông Bollaert sang Đông Dương với chỉ thị của Paris là gắng khôi phục hòa bình. Dưới hình thức nào? Kêu gọi tất cả những người đang chiến đấu chống Pháp, và những người quốc gia đang đứng ngoài cuộc chiến lúc ấy, có nhiều người Việt Nam đã nghỉ đến tôi. Ông Bollaert đã đứng ra kêu gọi qua bài diễn văn nổi tiếng đọc ở Hà Đông, trong bài diễn văn này ông đã nói đến hai chữ Độc lập, nhưng không nói bằng tiếng Pháp, mà bằng tiếng Việt. Lúc đó, tôi có tiếp một ông sứ giả của ông Bollaert, người này nói với tôi như sau : “Ngài phải đáp lại lời kêu gọi của ông Bollaert. Nếu ngài không trả lời, cụ Hồ Chí Minh sẽ trả lời và sẽ qua mặt ngài”. Tôi đáp :” Tôi rất muốn thế, tôi chờ cụ Hồ trả lời vì quý ông đã nhắm vào cụ Hồ mà kêu gọi”. Sau một thời gian, vì không ai đáp lại lời kêu gọi của ông Bollaert và vì đã có nhiều người quốc gia muốn tập hợp lại và khẩn khoản xin tôi tiếp xúc với đại diện nước Pháp, trong bối cảnh đó, tôi đã chấp thuận gặp ông Bollaert ở vịnh Hạ Long. Đó là lần tiếp xúc đầu tiên.

    – Thời gian tiếp xúc có lâu không?

    – Thời gian tiếp xúc là một ngày. Ông Bollaert muốn tuyên bố Thống nhất – Độc lập. Nhưng ngược lại, ông đưa ra nhiều tu chính án hoàn toàn không phù hợp với tôi.

     Và ngài đã bác bỏ?

    – Do đó tôi đã từ giã ông ta. Tôi nói với ông ta rằng, tôi chỉ gặp ông với tư cách cá nhân. Nước tôi và nhân dân tôi không cho tôi một ủy nhiệm gì, để ký bất cứ điều gì cả. Ông Bollaert đáp : “Đây là lần tiếp xúc đầu tiên”.

     Điều gì đã khiến cho ngài trở về nước?

    – Đối với tôi, đây là một cơ hội mà tôi có thể nói là lịch sử. Bởi vì có một điều mà ít người Việt Nam biết đến, đó là tôi phải chuộc lại lỗi lầm của tổ tiên tôi: để mất sáu tỉnh Nam Kỳ.

    – Đất Nam Kỳ, đó là các vùng Alsace-Lorraine của nước Việt Nam?

    – Đúng vậy.

     Sau cùng, ngài đã chấp thuận trở về nước. Kỳ này đã tranh thủ được Độc lập và Thống Nhất?

    – Không, không phải ở vịnh Hạ Long mà tôi tranh thủ được Độc lập, mà chính là sau khi ông Bollaert ra đi, kể từ năm 1949, tôi đạt được các thỏa hiệp đầu tiên với Tổng thống Pháp Auriol. Không phải giống như các thỏa hiệp ngày nay, mà là trao đổi văn thư.

    – Một tình trạng thật lạ lùng. Ngài đã là vua, ngài đã là ông Vĩnh Thụy, đại biểu quốc hội thời Hồ Chí Minh, và ngài đã trở về với tư cách đứng đầu một nhà nước. Nhà nước đó có hình thức thế nào? Ngài là Đức Bảo Đại – Tổng thống nước cộng hòa?

    – Không, không phải tổng thống vì lúc ấy chưa xác định được thể chế. Tôi tự phong tôi là Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam. Tôi nói với nhân dân Việt Nam rằng : Khi tôi đã làm xong nhiệm vụ của tôi, tức là cụ thể hóa nền độc lập, xây dựng lại đất nước, đến lúc đó, chính nhân dân sẽ chọn lấy chế độ mình muốn. Tôi không chủ trương một chế độ nào cả. Tôi chỉ tự phong một cách đơn giản là Quốc trưởng thôi.

    – Nền độc lập đầu tiên, có người đã trách ngài rằng đó là nền độc lập của Nhật; còn lần này ngài sẽ không bị mang tiếng rằng đó là độc lập của Pháp?

    – Hoàn toàn không. Người Pháp đã thương lượng thực sự với tôi. Độc lập. Thành lập quân đội Quốc gia. Tôi đã có đại diện ngoại giao ở nhiều nước khác. Rất nhiều nước đã thừa nhận chúng tôi.

     Ngài có nhiều bạn trong chính phủ Pháp. Ngài có những bạn trung thành với ngài không?

    – Tổng thống Auriol là một người rất thông cảm với tôi và đã giúp tôi rất nhiều. Bộ trưởng ngoại giao, ông Bidault.

    – Tổng thống Auriol, một đảng viên Đảng Xã hội, cựu Bộ trưởng trong mặt trận bình dân. Ngài có mâu thuẫn với những ai đã nắm được lịch sử?

    – Ông ấy là đảng viên đảng Xã hội, việc này không có gì quan trọng với tôi cả, miễn là qua ông ấy, tôi đạt được các nguyện vọng của nhân dân tôi. Đó là điểm chính yếu.

     Ngài trở về Việt Nam, và trong vai trò của ngài, ngài đã được dân chúng đón tiếp nồng nhiệt. Ngài rất được lòng dân vào thời đó. Việc này diễn tiến ra sao?

    – Tôi chưa bao giờ cần mưu sự đắc nhân tâm. Tôi trở về nước để làm một nhiệm vụ với đất nước và nhân dân Việt Nam.

    *     *

    *

    Về chế độ Ngô Đình Diệm

     Ông Diệm trước đó đã luôn luôn bày tỏ lòng trung thành đối với ngài? Nay đã có một bước ngoặt, điều gì đã xảy ra?

    – Ông ta bị giật giây bởi toàn bộ gia đình ông ta, và cũng bởi các quan thầy Mỹ. Khi tôi yêu cầu ông Diệm cầm quyền, tôi có nói việc này cho Bộ trưởng ngoại giao Mỹ Foster Dulles. Lúc ấy ông ta không muốn ông Diệm. Một thời gian sau, tôi mới hiểu vì sao. Bởi vì người Mỹ chưa sẵn sàng nắm nước Việt Nam, họ muốn giữ lại vai trò ông Diệm làm dự phòng, để tung ra khi thuận tiện.

     Mục đích của ông Diệm? Một chế độ gia đình trị?

    – Ông không có mục đích chính xác. Dẫu sao ông ta cũng không có tham vọng dựng lên một triều đại. Ông ta muốn cai trị theo một loại độc tài con, nói đúng hơn, đó là một chế độ độc tài gia đình trị.

    – Ở Triều Tiên thời đó có Lý Thừa Vãn?

    – Và có Magsaysay ở Phi Luật Tân.

    – Ngài có thấy người Mỹ chú ý đến Việt Nam? Ngài có thấy bóng dáng người Mỹ sau các sự kiện này?

    – Tôi thấy rất rõ là người Mỹ muốn có mặt ở Thái Bình Dương. Chiến tranh Algerie đã bắt đầu. Người Mỹ đã làm một loại trao đổi: để cho nước Pháp giải quyết vấn đề Algerie, và nước Pháp rút chân ra khỏi Việt Nam, nhường chỗ cho nước Mỹ.

     Khi Hiệp ước Geneve được ký kết, và ông Diệm lần lần cũng có quyền lực ở Việt Nam, thì ngài ở Pháp. Ngài có nghỉ chuyện trở về Việt Nam?

    – Không, hoàn toàn không. Đối với tôi, thế là hết. Tôi đã nói với các đồng minh của tôi và các nước ủng hộ tôi: Vai trò của tôi đã chấm dứt, hoặc tôi là chủ từ bắc chí nam, hoặc tôi là không gì hết. Vì quý vị đã cắt đất nước của tôi làm hai, tôi sẽ cử một người đứng ra, coi phần còn lại, do đó có ông Diệm.

     Ngài thấy thế nào khi ông Diệm tuyên bố nền cộng hòa sau một cuộc trưng cầu dân ý? Cảm tưởng của ngài thế nào?

    – Tôi biết trước chuyện này sẽ xảy ra. Tôi hoàn toàn không bị bất ngờ, bởi vì mọi thứ đã được xếp đặt trước. Tôi không muốn nhảy xuống vũ đài để bảo vệ cái thế của tôi.

     Năm 1955, ngài có nghỉ rằng chắc chắn chiến tranh sẽ tái tục, hay có thể giữ nguyên trạng trong một thời gian dài?

    – Tôi đã hy vọng giữ nguyên trạng như nước Đức : Tây Đức và Đông Đức. Tôi đã nghỉ rằng miền Nam giàu hơn miền Bắc, sẽ thu hút người miền Bắc. Xui thay, sự việc xảy ra đã không phải như thế. Tôi cũng biết người Mỹ có mặt trong vụ này.

    *     *

    *

    Về cuộc sống ở Pháp

    – Người con bình thản trong cung điện Huế ngày xưa, bây giờ chịu đựng các phán xét tiêu cực hay sự im lặng, hay ngài đã đau khổ?

    – Không, hoàn toàn không. Tôi đã trở lại thời thơ ấu, đây là một thái độ đúng. Chính nhờ cái giáo dục ấy mà tôi đã giữ được mọi sự thanh thản trong lòng.

     Bây giờ, ngài đã sống tại Pháp hơn 35 năm nay, một cuộc sống giản dị, rất đứng đắn nhưng không có nhiều phương tiện. Dẫu sao cũng có nhiều người biết ngài, và rõ ràng rất thích quan hệ với ngài. Ngài đã thích nghi với đời sống ở đây như thế nào?

    – Tôi đã thích nghi rất tốt với đời sống ở Pháp. Tôi đã đến đất nước này khi còn rất trẻ. Tôi cũng có thể trở về nước tôi nhưng tôi thích ở Pháp hơn bởi vì tôi biết rõ tính tình người Pháp. Tôi cảm thấy ở đây, ở Pháp, hoàn toàn như ở quê tôi.

     Nhưng đồng thời hình ảnh nước Việt Nam luôn luôn hiện ra trong đời sống của ngài?

    – Tôi luôn luôn nhớ đến thần dân khốn khổ của tôi.

     “Tôi xa quê cha đất tổ thế là 25 năm” – Ngài đã viết như thế cách đây 10 năm- “25 năm trên đất Pháp, trên mảnh đất đã đón nhận tôi, với bao nhiêu kỷ niệm thời niên thiếu- Từ khi hoàng hậu Nam Phương qua đời, tình thương đã bị cướp mất quá sớm, và từ khi các con tôi bay xa, tôi thường là một người đơn chiếc. Tôi đã nếm qua và tôi đã sống qua những gì mà nhân dân tôi đang nếm qua và đang sống trong lúc này – nơi thì lòng bao dung, tình bằng hữu, nơi thì hiểu lầm, ác ý; sự đầm ấm khi gặp lại bạn cũ, sự lạnh lẽo của cảnh cô đơn. Trong thời gian đó, tôi luôn luôn sống theo nhịp tim của những người sống trong lo âu, bối rối. Tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ, lòng tôi luôn luôn ôm ấp cùng một nguồn hy vọng”. Rồi một ngày kia, khi vua Bảo Đại không còn nữa, ông Vĩnh Thụy không còn nữa, ở Việt Nam còn có những người tưởng nhớ đến công đức của ngài không?

    – Không phải tôi là người nói đến việc này. Xin để cho nhân dân tôi phán xét, xin để cho lịch sử phán xét tôi.

    Theo TẠP CHÍ XƯA & NAY

  • Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu Mỹ

    Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu Mỹ

    Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm, người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ.

    Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.

    Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hoà Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.

    Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu MỹTuy không phải sứ giả, nhưng Lê Kim đến Hoa Kỳ trước Bùi Viện 20 năm
    .

    Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về thành phố Xanh–Phát–Lan–Xích–Cố (phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờDaily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.

    Trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.

    Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là từ ngữ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.

    Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu Mỹ

    .
    Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.

    Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.

    Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu Mỹ
    Ở Hoa Kỳ, Lê Kim vừa tìm vàng, vừa làm nhà báo và được một nhà văn viết trong cuốn “Đổ xô đi tìm vàng”.

    Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.

    Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.

    Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.

    Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.

    Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.

    Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.

    Người Minh Hương cầm quân chống Pháp

    Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương.

    Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.

    Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: “Gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về”, Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.

    Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi Pháp xâm lược Việt Nam. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi.

    Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu MỹDi tích làng Xuân Lũng – quê gốc Lê Kim.

    Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăng trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối:

    “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
    Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.

    Ghi công ông, hiện ở phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm nối phố Nguyễn Xiển với phố Mạc Hiển Tích.


    Cuộc đời sinh động và bi hùng của Trần Trọng Khiêm được hai nhà văn hư cấu nghệ thuật trong hai cuốn tiểu thuyết có nhan đề: La rueé vers l’or(Đổ xô đi tìm vàng) của Rene Lefebre (Nhà Xuất bản Dumas, 1937) và Con đường thiên lý của Nguyễn Hiến Lê (năm 1972).

    Con đường Thiên lý
  • Vua Hùng tên thật là gì?

    Vua Hùng tên thật là gì?

    Vua Hùng tên thật là gì?

    1. Hùng và Lạc

    Chữ Hùng (雄: trong Hùng vương, Hùng điền) hay chữ Lạc (雒: trong Lạc vương, Lạc điền, Lạc hầu, Lạc tướng) chữ nào có trước?

    Chữ Lạc có trước, xuất hiện trong văn bản Giao Châu ngoại vực kí [交州外域記, Jiaozhou waiyu ji]. Cụ thể như sau:

    交州外域記曰,交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民。設雒王雒侯主諸郡縣。縣多為雒將。雒將銅印青綬。

    Giao châu ngoại vực kí viết: “Giao Chỉ tích vị hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền, kì điền tòng triều thủy thượng hạ/thướng há, dân khẩn thực kì điền, nhân danh vi lạc dân. Thiết lạc vương lạc hầu chủ chư quận huyện. Huyện đa vi lạc tướng. Lạc tướng đồng ấn thanh viện.”

    Giao châu ngoại vực kí nói rằng: ‘Jiaozhi/ Giao Chỉ thời xưa khi chưa có quận huyện, đất đai (thì) có ruộnglạc. Những ruộng này theo (sự) lên xuống của con nước, và người dân cày cấy lấy cái ăn [ở] ruộng đó vì thế được gọi là dân lạc. Đặt các ông hoàng lạc (lạc vương), các ông quanlạc (lạc hầu) cai quản ở các quận huyện. Nhiều huyện có tướng lạc (lạc tướng). Các tướng lạc có dấu đồng và dải xanh.’

    Chữ Hùng có sau, xuất hiện trong Nam Việt chí. Cụ thể như sau:

    交趾之地頗爲膏腴,徙民居之,始知播植,厥土惟黑壤,厥氣惟雄,故今稱其田為雄田,其民為雄民,有君長亦曰雄王,有輔佐焉亦曰雄侯,分其地以為雄將。(出南越志)

    Giao Chỉ chi địa phả vi cao du, tỉ dân cư chi, thủy tri bá thực, quyết thổ duy hắc nhưỡng, quyết khí duy hùng, cố kim xưng kì điền vi hùng điền, kì dân vi hùng dân, hữu quân trưởng diệc viết hùng vương, hữu phụ tá yên diệc viết hùng hầu, phân kì địa dĩ vi hùng tướng.

    Vùng đất Jiaozhi/ Giao Chỉ tương đối màu mỡ. Di dân đến sống ở đó, mới bắt đầu biết gieo trồng. Đất ở đây rặt là đất phì nhiêu đen. Khí ở đây mạnh (hùng). Cho nên bây giờ gọi những ruộng ở đây là ruộng hùng, dân ở đây là dân hùng. Có người lãnh đạo tối cao (quân trưởng) cũng gọi là vua hùng (hùng vương). Có những người phụ tá ông ấy [tức ông vuahùng] thì cũng gọi là quan hùng (hùng hầu). Chia đất ở đây để cho các tướng hùng (hùng tướng).

    2. Hùng hay Lạc

    Nam Việt chí ra đời sau Giao Châu ngoại vực ký hàng trăm năm. Quan trọng hơn, chữ Lạc (雒) chữ chỉ là để phiên âm từ tiếng Việt cổ qua chữ Hán cổ. Còn chữ Hùng (雄) là một chữ có nghĩa.

    3. Chữ Lạc từ đâu mà có

    Người Việt cổ không có họ. Tên đặt theo nghề. Đến đời Trần vẫn đặt tên theo nghề cá. Lần ngược lên thời Hai Bà, tên người được đặt theo nghề nuôi tằm (Trứng Chắc, Trứng Nhì, rồi được người Tàu văn bản hóa bằng hán tự, rồi được các nhà sử học ngày xưa của VN dịch về tiếng ta thành Trưng Trắc, Trưng Nhị. Có rất nhiều ví dụ về tên nôm của danh nhân được người Tàu hán tự hóa rồi dịch ngược ra tiếng ta. Ai đọc Tạ Chí Đại Trường sẽ nhớ trường hợp rất thú vị của Lý Thường Kiệt – Thằng Kặc. Ngay cả trong lịch sử cận đại, nhiều tên riêng do phiên âm qua chữ latin rồi sau này dịch ngược lại qua tiếng Việt cũng có những biến thể thú vị như Chí Hòa – Kỳ Hòa, Vũng Quýt – Dung Quất).

    Quay trở lại với văn bản Giao Châu ngoại vực ký đã nói ở trên, thời cổ người dân sống bằng nghề nông, trồng cây lạc, trên các thửa ruộng lạc, tưới tiêu bằng thủy lợi tự nhiên, dân sống trên ruộng lạc, gọi là dân lạc, thủ lĩnh của dân lạc gọi là lạc vương, dưới lạc vương là các lạc hầu, lạc tướng.

    Chữ lạc chính là chữ lúaRuộng lạc là ruộng lúaDân lạc là dân (trồng) lúa. Tiếng Việt cổ gọi lúa là lọ. Phiên âm qua tiếng Hán rồi phiên âm ngược lại tiếng Việt mà trở thành lạc.

    Người Mường (cùng ngôn ngữ với người Việt cổ) gọi lúa là lọ hoặc . Tục ngữ người Mường có câu “Cơm mường Vó, lọ mường Vang”.

    Qua bao năm lạc lối, tên riêng lúa của cha ông chúng ta, chạy qua bên Tàu, quay về với các nhà viết sử Việt thời cổ, lạc tiếp vài lần nữa, thành chữ lạc. Nay nhờ 5xu biết google nghiên cứu mà tìm ra nghĩa gốc của từ. Chúc mừng Vua Lúa (nước) tục gọi Hùng Vương. Chúng con xin trả tên đúng về cho cụ.

    (Nguồn: http://5xublog.org. Ngày 06/01/2012)

  • Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Nụ cười nữ sinh, cảnh tắm giặt trên vỉa hè, những trò chơi truyền thống… là các hình ảnh thú vị về trẻ em ở miền Nam Việt Nam trước 1975 do một người Mỹ ghi lại. Đó là những hình ảnh do tay máy Henk Hilterman thực hiện năm 1967 ở Sài Gòn và vùng ngoại vi. ( Phần bên dưới  có tổng hợp thêm ảnh từ những nguồn khác nhau)

    Những khung hình đẹp được chụp với phong cách chuyên nghiệp, chủ yếu ghi lại những khoảnh khắc hồn nhiên của trẻ em này hứa hẹn sẽ đem lại cho người xem nhiều cảm xúc khó quên.


    Nữ sinh trong một ngôi trường xếp hàng vào lớp.


    Ngày nay bé gái này là một quý bà U60!.


    Vẻ hồn nhiên của các nam sinh.


    Học sinh chơi đánh đáo.


    Những đứa trẻ vây quanh một gánh hàng quà vặt trên đường Phạm Ngũ Lạo, gần ga tàu hỏa.


    Trẻ em tắm giặt ngay trên vỉa hè.


    Bơi lội và đùa giỡn trên sông.


    Trẻ em nghèo chờ đợi để nhận sữa tại chương trình phát sữa cho trẻ em nghèo do Hội Hồng Thập Tự tiến hành.


    Hai cậu bé đứng trước một bức tường làm từ vỏ bình đựng xăng dầu.


    Trẻ em nghèo miền Nam Việt Nam.


    Những đứa trẻ chơi ô ăn quan.


    Cậu bé múc nước bằng xô thiếc.


    Người phụ nữ và những đứa trẻ bên túp lều của mình ở ngoại ô.


    Trẻ em lao động tại một công trường xây dựng.


    Trẻ em bị dịch bệnh được chăm sóc tại một bệnh viện.


    Ảnh tổng hợp

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Trẻ em trong một khu chợ ở Sài Gòn

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975
    Nữ sinh với áo dài và nón truyền thống

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Ông bố và những đứa con bên tàu Bệnh viện Helgoland của Đức, được Mỹ thuê trong thời gian chiến tranh leo thang tại Việt Nam

    Trẻ em miền Nam ngày xưa cho dù ở quê hay là ở thành thị đều đủ ăn, đủ mặc, ko có ai là bị thiếu đói cả. Ngoài ra chính phủ Mỹ hồi đó có chương trình viện trợ nhu yếu phẩm, lương thực, giáo dục cho trẻ em nghèo rất đầy đủ. Post thêm vài tấm hình cùng của tác giả Henk Hilterman:

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Người dân xếp hàng chờ phân phát lương thực tại Nhà Bè

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Trẻ em nghèo chờ đợi để nhận sữa tại chương trình phát sữa cho trẻ em nghèo do Hội Hồng Thập Tự tiến hành

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975

    Tinh khôi nụ cười trẻ em Miền Nam Việt Nam trước năm 1975
    Sở thú SG 1965- Thomas W. Johnson
  • Bộ ảnh bí mật chiến tranh Việt Nam chưa từng được công bố

    Bộ ảnh bí mật chiến tranh Việt Nam chưa từng được công bố

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    1972, Võ Anh Khánh: Các cán bộ cách mạng gặp nhau trong rừng Năm Căn. Họ phải che mặt để giấu kín thân phận, không cho người khác biết về mình, nhằm đề phòng tình huống bị bắt giữ và thẩm vấn. Theo nhiếp ảnh gia Võ Anh Khánh, chuyển ảnh từ nơi này ra miền Bắc là công việc rất khó khăn. Đôi khi các bức ảnh bị thất lạc hoặc bị tịch thu trong lúc đang trên đường ra Bắc.

    Rất nhiều bức ảnh nổi tiếng đó là tác phẩm của các phóng viên ảnh, hãng tin phương Tây, hoạt động bên cạnh lính Mỹ và lính Việt Nam Cộng hòa. Nhưng quân giải phóng cũng có hàng trăm phóng viên ảnh chiến trường của riêng họ và những người này đã ghi lại nhiều góc cạnh của cuộc chiến, dưới những điều kiện nguy hiểm nhất.

    Gần như các tay máy của quân giải phóng đều tự học và họ làm việc cho Thông tấn xã Việt Nam, Mặt trận giải phóng dân tộc, quân đội hoặc nhiều tờ báo khác nhau. Nhiều người đã giấu tên hoặc dùng tên giả khi gửi về các cuốn phim, với suy nghĩ rằng mình cũng chỉ là một phần nhỏ bé của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, vốn lớn hơn nhiều.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    Tháng 7/1967, Bảo Hạnh: Tân binh kiểm tra sức khỏe ở Hải Phòng. Hệ thống tuyển quân dựa trên sự tình nguyện của miền Bắc đã chuyển thành chế độ nghĩa vụ quân sự vào năm 1973, khi tất cả nam giới có khả năng chiến đấu đều phải nhập ngũ. Từ một lực lượng chỉ 35.000 người vào năm 1950, quân giải phóng đã tăng số lượng lên hơn nửa triệu người vào giữa những năm 1970. Đây là lực lượng được chính quân đội Mỹ thừa nhận là thuộc hàng tinh nhuệ bậc nhất thế giới.

    Trang thiết bị và nguồn vật liệu tạo ảnh rất hiếm hoi. Hóa chất xử lý ảnh thường được trộn trong các ấm trà, cùng với nước suối. Phim đã chụp chỉ được rửa vào ban đêm. Một phóng viên ảnh, ông Trần Ấm, chỉ có một cuộn phim duy nhất, với 70 bức ảnh, để sử dụng trong suốt thời gian chiến tranh diễn ra.

    Đối mặt với nguy cơ thiệt mạng do trúng phi pháo, trúng đạn hay từ môi trường độc hại, các nhiếp ảnh gia ấy vẫn không ngại khó khăn, vượt qua hiểm nguy gian khổ để ghi lại đời sống chiến đấu dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh; các phong trào kháng chiến ở đồng bằng sông Mekong và tác động đẫm máu từ cuộc chiến lên dân thường vô tội.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    1973, Lê Minh Trường: Một cô du kích đứng gác ở đồng bằng sông Mekong. Nhiếp ảnh gia Lê Minh Trường cho biết: “Bạn có thể tìm thấy những người phụ nữ như thế này ở gần như mọi nơi trong chiến tranh. Cô ấy mới 24 tuổi, nhưng đã mất chồng 2 lần. Cả 2 người chồng của cô ấy đều là quân nhân. Tôi thấy cô ấy là hiện thân của một nữ du kích lý tưởng, người đã có những hy sinh vĩ đại cho đất nước”.

    Một số chụp ảnh để ghi lại lịch sử và số khác dùng máy ảnh của họ làm vũ khí trong cuộc chiến tuyên truyền. Do phải chụp ảnh trong bí mật ở miền Nam, phóng viên ảnh Võ Anh Khánh đã không thể đưa ảnh ra Hà Nội. Nhưng ông triển lãm các bức ảnh ngay trong những cánh rừng đước ở đồng bằng sông Mekong để truyền cảm hứng cho lực lượng kháng chiến.

    Nhiều bức ảnh trong số này hiếm khi được nhìn thấy ở Việt Nam, chưa nói tới thế giới. Trong những năm 1990, các phóng viên ảnh lừng danh Tim Page và Doug Niven đã bắt đầu lần theo những nhiếp ảnh gia của quân giải phóng còn sống.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    1970, Lê Minh Trường: Một người du kích chèo thuyền trên sông qua rừng đước ở đồng bằng sông Mekong. Người Mỹ dùng các loại chất độc diệt cỏ để phá hoại lớp vỏ che chắn tự nhiên của đối phương. Nhiếp ảnh gia Lê Minh Trường đã cảm thấy kinh khủng trước những gì ông chứng kiến, bởi người Việt coi các cánh rừng đước là khu vực có tiềm năng tốt cho hoạt động nông nghiệp và đánh bắt cá.

    Một trong số đó vẫn còn giữ một chiếc túi lầm bụi, chứa các cuốn phim âm bản chưa từng được rửa ảnh. Người khác thì giấu các cuộn phim dưới chậu rửa mặt trong buồng tắm. Võ Anh Khánh giữ các thước phim của ông trong một hộp đạn Mỹ, có sử dụng gạo để chống ẩm.

    Khoảng 180 bức ảnh chưa từng công bố đó và câu chuyện về những con người can đảm đã làm ra chúng vừa được tập hợp trong cuốn sách Another Vietnam: Pictures of the War from the Other Side (tạm dịch Một Việt Nam khác: Các bức ảnh về cuộc chiến tranh chụp từ phía bên kia).

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    1974, Lê Minh Trường: Phụ nữ vất vả kéo lưới trên thượng nguồn sông Mekong. Họ đảm nhận một công việc thường chỉ do đàn ông thực hiện.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    9/1972, Đoàn Công Tính. Dân quân lục soát tại bãi xác một chiếc máy bay của Hải quân Mỹ bị bắn rơi ở ngoại ô Hà Nội. Đây có vẻ như là mảnh vỡ của chiếc A-7C Corsair II do phi công, Đại úy Hải quân Stephen Owen Musselman điều khiển. Chiếc máy bay này đã trúng tên lửa phòng không (SAM) ngay tại khu vực phía Nam Hà Nội khi đang bay hỗ trợ một nhiệm vụ ném bom của máy bay B-52 trong ngày 10/9/1972. Musselman đã nhấn nút phóng khẩn cấp ra khỏi máy bay trước khi nó đâm xuống đất. Anh bị đưa vào diện mất tích trong lúc làm nhiệm vụ cho tới ngày 1/3/1978, khi bộ trưởng Hải quân phê chuẩn văn bản cho rằng anh đã chết. Ngày 7/7/1981, di cốt được cho là của Musselman đã được chính phủ Việt Nam trao trả lại cho phía Mỹ.

    Trong cuốn sách, các phóng viên ảnh đã chia sẻ khá nhiều về công việc của họ. Ông Lâm Tấn Tài cho biết: “Cánh rừng tối đen đó chính là phòng tối khổng lồ của tôi. Vào buổi sáng, tôi thường rửa ảnh tại một con suối rồi phơi chúng trên cây cho khô. Vào buổi chiều, tôi sẽ cắt ảnh và viết chú thích. Sau đó tôi bọc các bức ảnh và phim âm bản trong giấy rồi để gần thân mình. Làm như thế, ảnh sẽ luôn được khô ráo và có thể dễ dàng được tìm thấy nếu tôi bị giết”.

    “Tại thời kỳ Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam, tôi đã chụp được các bức ảnh đáng nhớ nhất của mình. Tôi chụp được cảnh chiếc máy bay của Thượng nghị sĩ John McCain rơi trên bầu trời Hà Nội. Tôi rất tự hào về bức ảnh đó và muốn nó chuyển tải thông điệp về lòng yêu nước trước mối đe dọa ngoại xâm”, ông Vũ Ba nói.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    1972, Lê Minh Trường. Du kích canh gác một tiền đồn trên biên giới Việt Nam – Campuchia, được bảo vệ bởi các ống tầm vông tẩm độc. Tầm vông thường được vót nhọn rồi làm cho cứng lại bằng lửa, trước khi được ngụy trang để bẫy kẻ thù. Những cái bẫy như thế chỉ nhằm gây thương thích chứ không giết chết nạn nhân, bởi người lính bị thương sẽ làm chậm tốc độ của đồng đội và hoạt động cứu thương sẽ làm lộ vị trí của đơn vị.

    “Chúng tôi thậm chí còn sáng tạo ra một dạng chụp ảnh bằng đèn flash mới để mô tả những người lính và dân làng của chúng tôi đang sống trong các hầm, hào tránh bom. Chúng tôi chế đèn flash bằng cách đổ thuốc súng vào một thiết bị cầm tay nhỏ rồi dùng diêm đốt thuốc súng. Khi cháy, thuốc súng sẽ tạo đủ lượng ánh sáng mà chúng tôi cần”, phóng viên ảnh Mai Nam chia sẻ.

    Nhiếp ảnh gia Dương Thanh Phong thì chia sẻ: “Tôi không chụp ảnh vì giá trị thẩm mỹ. Tôi không nghĩ về vẻ đẹp. Những ngôi nhà cháy nham nhở và các xác chết rõ ràng không đẹp. Bất kỳ giá trị thẩm mỹ nào đó xuất hiện đều sẽ bị thay thế bởi các mục đích của chúng tôi trong việc ghi lại cuộc chiến”.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    Ngày không rõ, Hoàng Mai. Quân giải phóng chiến đấu mặt đối mặt với đối phương, tại khu vực dường như là đồng bằng sông Mekong. Bức ảnh hiếm hoi này cho thấy cả hai bên trong chiến trận, với bóng dáng lính Việt Nam Cộng hòa ở góc trên của ảnh và quân giải phóng ở phía dưới. Những người lính giải phóng đã tấn công đối phương từ cả hai cánh trái và phải, có nghĩa đơn vị này của Việt Nam Cộng hòa sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    Tháng 9/1965, Minh Đạo. Sử dụng bia tự chế, một đơn vị dân quân đang tập bắn máy bay ở Thanh Trì. Dù sử dụng các khẩu súng trường cổ lỗ có từ thời Thế chiến 2 như thế này, người Việt Nam vẫn có thể bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. Đơn vị dân quân này, thuộc Đại đội 6 của làng Yên Mỹ, đã giành danh hiệu Lực lượng Dân quân xuất sắc trong 3 năm liên tiếp.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    1973, nhiếp ảnh gia vô danh. Công nhân xây dựng đang thảo luận cách sửa chữa cầu Hàm Rồng. Do đây là tuyến đường duy nhất để máy móc và xe tải hạng nặng đi qua sông Mã nên nó được bảo vệ rất gắt gao. Vài chiếc máy bay Mỹ đã bị bắn rơi gần đó. Một đội tìm kiếm người mất tích của Mỹ đã tìm thấy một số di cốt của các phi công tại đó.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    1966, Lê Minh Trường. Binh lính hành quân trên đường mòn Hồ Chí Minh trong dãy Trường Sơn chạy dọc theo Việt Nam. Với quân giải phóng, đường mòn Hồ Chí Minh còn được gọi là đường Trường Sơn.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    Tháng 3/1971, Đoàn Công Tính. Du kích Lào dùng voi và sức người kéo hàng tại khu vực gần đường 9 ở Nam Lào, trong thời kỳ chính quyền Việt Nam Cộng hòa tìm cách kiểm soát cung đường này. Màn tấn công của quân đội Việt Nam Cộng hòa, trong chiến dịch Lam Sơn 719, nhằm kiểm tra khả năng của lực lượng này trong bối cảnh sự hỗ trợ từ Mỹ đang giảm dần. Tuy nhiên chiến dịch đã kết thúc trong thảm họa, với nhiều người lính Việt Nam Cộng hòa bỏ chạy trong hoảng sợ.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    15/9/1970, Võ Anh Khánh. Một nạn nhân của hoạt động ném bom do Mỹ thực hiện, anh du kích người Campuchia có tên Danh Son Huol, đang được đưa tới phòng phẫu thuật nằm trong một cánh rừng đước ở Cà Mau. Đây thực sự là một ca phẫu thuật đang diễn ra, không phải một chiêu chụp ảnh để tuyên truyền. Tuy nhiên người phóng viên ảnh thấy rằng bức ảnh rất ấn tượng nên đã không in nó ra.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    1972, Nguyễn Đình Ưu. Binh lính quân giải phóng băng qua một vùng đất trống gần Đường 9 nam Lào trong Chiến dịch Lam Sơn 719, nỗ lực thất bại của quân Việt Nam Cộng hòa nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    30/4/1975. Giày lính bị bỏ lại la liệt trên con đường nằm ở ngoại ô Sài Gòn. Binh lính Việt Nam Cộng hòa đã vứt bỏ những đôi giày cùng bộ quân phục của họ nhằm che giấu thân phận. “Tôi không bao giờ quên những đôi giày và âm thanh lụp bụp vang lên khi chúng tôi chạy xe qua chúng”, Dương Thanh Phong nhớ lại. “Nhiều thập kỷ chiến tranh đã kết thúc và cuối cùng chúng tôi đã có hòa bình”.

    Những hình ảnh chụp trong điều kiện bí mật chưa từng công bố về chiến tranh Việt Nam

    Tháng 5/1975, Võ Anh Khánh. Người già từ miền Nam và miền Bắc Việt Nam ôm nhau. Họ đã sống đủ lâu để chứng kiến Việt Nam thống nhất và không còn bóng dáng của các lực lượng ngoại xâm.

    Hương Giang (Theo Mashable)

  • Hình ảnh các người đẹp Sài Gòn trên trang bìa tạp chí “Vietnam”

    Hình ảnh các người đẹp Sài Gòn trên trang bìa tạp chí “Vietnam”

    Hình ảnh các người đẹp Sài Gòn trên trang bìa tạp chí “Vietnam”, đây là ấn phẩm quốc tế được phát hành ở Sài Gòn trước 1975.

    Xin gửi các bạn bộ ảnh Chân dung người mẫu ảnh trên bìa tạp chí Sài Gòn trước 1975

    Hình ảnh các người đẹp Sài Gòn trên trang bìa tạp chí “Vietnam”
    Ca sĩ nổi tiếng Phạm Thị Hiếu ngồi thư giãn trên thảm cỏ của Thảo Cầm Viên.
    Hình ảnh các người đẹp Sài Gòn trên trang bìa tạp chí “Vietnam”
    Hot girl Nguyễn Thị Túy Phượng – người nhận được giải thưởng trang phục đẹp nhất tại Liên hoan nhạc Pop tổ chức tại Sài Gòn ngày 30/1/1972.
    Hình ảnh các người đẹp Sài Gòn trên trang bìa tạp chí “Vietnam”
    Hot girl Sài Gòn Nguyễn Thi Kim Anh, 24 tuổi, tốt nghiệp tại một trường trung học Công Giáo ở Đà Lạt, có sở thích chơi quần vợt và bơi lội, đang làm việc cho một công ty kinh doanh tại Sài Gòn thời điểm năm 1971.
    Hình ảnh các người đẹp Sài Gòn trên trang bìa tạp chí “Vietnam”
    Nữ diễn viên nổi tiếng Kim Vui, người đoạt Giải thưởng năm 1971 dành cho nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất với vai cô đóng trong phim Chân Trời Tím.
    Hình ảnh các người đẹp Sài Gòn trên trang bìa tạp chí “Vietnam”
    Nữ nghệ sĩ Bạch Lan Thanh đứng trên cánh đồng lúa vào mùa thu hoạch.
    Hình ảnh các người đẹp Sài Gòn trên trang bìa tạp chí “Vietnam”
    Lê Mai và Thanh Mai, hai nữ sinh ưu tú của trường Trung học Lê Bảo Tịnh tại Sài Gòn trước 1975.
  • Những con nghiện thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Những con nghiện thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Loạt ảnh về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn năm 1948 của tạp chí Life khiến người xem không khỏi bị sốc về mặt trái của “Hòn ngọc Viễn Đông” xưa.Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Cổng chính Nhà máy Chế biến Thuốc phiện ở số 74 đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng), Sài Gòn năm 1948.

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Tờ thông báo gắn ở cổng nhà máy thuốc phiện Sài Gòn.

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Sân trong nhà máy thuốc phiện Sài Gòn nhìn qua cửa sổ văn phòng nhà máy.

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Dân nghiện cùng hút thuốc phiện trong một “dưỡng đường giải độc”, tên gọi một cách hoa mỹ cho các tiệm hút thuốc phiện công khai.

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Những con nghiện thuốc phiện sau khi đăng ký với chính quyền sẽ được phép đến các tiệm thuốc phiện để thỏa mãn lạc thú cùng “nàng tiên nâu”.

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Một con nghiện lớn tuổi sửa soạn đồ nghề hút chích.

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Ngất ngây bên bàn đèn thuốc phiện.

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Một phụ nữ phương Tây trong động thuốc phiện Sài Gòn.

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Nơi để ống điếu và bàn đèn tại một tiệm thuốc phiện.

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Từ khi chiếm đóng Đông Dương, người Pháp đã thúc đẩy việc tiêu thụ thuốc phiện trong người dân địa phương nhằm thu lợi từ hoạt động sản xuất và kinh doanh thuốc phiện.

    Ảnh độc về tệ nạn thuốc phiện ở Sài Gòn xưa

    Trong giai đoạn đỉnh cao, ngành công nghiệp thuốc phiện đã đóng góp trên 1/3 tổng thu nhập hàng năm của Pháp ở Đông Dương thuộc địa.

    Theo KIẾN THỨC

  • Giang hồ Sài Gòn trước 1975

    Giang hồ Sài Gòn trước 1975

    Diện mạo giang hồ thời Pháp thuộc

    Thời Pháp thuộc, giang hồ miền Nam phần lớn là những tá điền “dốt đặc cán mai”, một chữ bẻ đôi không biết, chịu không nổi ách áp bức, bóc lột của bọn cường hào, ác bá bèn bỏ xứ đi làm trộm cướp, y như nhân vật thầy giáo Hai Thành trong vở cải lương Đời cô Lựu.

    Giang hồ người Hoa vùng Chợ Lớn đội lốt đoàn lân

    Giang hồ người Hoa vùng Chợ Lớn đội lốt đoàn lân.

    Những nông dân tay lấm, chân bùn này trôi dạt lên Sài Gòn – Chợ Lớn sống lang thang ven kênh rạch, bến xe thổ mộ, nhà ga… Ban ngày, họ nai lưng làm cu-li. Tối đến, họ cởi áo bôi mặt nhọ nồi, lận mã tấu trong cạp quần hành nghề “đạo tặc”.

    Khắp Nam kỳ lục tỉnh thời kỳ này đừng hòng đào đâu ra một tay giang hồ quậy phá làng xóm hoặc trộm chó, bắt gà. Giang hồ thời Tây sống anh hùng mã thượng, “trọng nghĩa, khinh tài” và luôn luôn “kiến nghĩa bất vi” y như những nhân vật “quân tử Tàu” trong truyện Thất hiệp ngũ nghĩa, Thất kiếm thập tam hiệp. Cũng chính vì vậy, chính quyền thực dân Pháp cùng bọn tay sai ác ôn luôn ăn không ngon, ngủ không yên. Chúng tìm mọi cách bắt bớ, giam cầm, thậm chí lén lút thủ tiêu họ nhằm trừ hậu họa.

    Lãnh địa giới giang hồ hùng cứ vào những năm 20 – 30 thế kỷ trước là Chợ Lớn, Lăng Ông – Bà Chiểu, Xóm Thuốc (Gò Vấp), bến phà Thủ Thiêm, cầu Sắt (Đa Kao) và bến xe Lục tỉnh. Nét đặc biệt của giang hồ đầu thế kỷ 20 so với du đãng bây giờ chính là bản lĩnh. Tay anh chị nào cũng võ nghệ đầy mình, không giỏi quyền cước thì đừng hòng trụ vững ở cái thế giới “lắm người, nhiều ma” này.

    Khi có chuyện phải “đối thoại” với nhau bằng dao búa, họ không bao giờ ỷ lại vào lực lượng hùng hậu để “đánh hội đồng” theo kiểu “ruồi bu cùi bắp” như đám choai choai bây giờ mà sẵn sàng chơi “bặc-co” tay đôi “một chọi một”. Có thể kể đến cuộc đụng độ của Bảy Viễn với Mười Trí, quyền sư Mai Thái Hòa so tài với gã giang hồ Tư Ngang tại “hãng phân” Khánh Hội (Q.4), “thầy ngải” Nguyễn Nhiều bẻ lọi tay trùm du đãng khu lò heo Gia Định – Phillip – ở cầu Sơn (Thị Nghè)…

    Giang hồ xưa tuy nghèo chữ nghĩa nhưng giàu chữ “tín”, cư xử với nhau rất “nghĩa khí”, bởi thế mới sinh ra từ “điệu nghệ” do từ “đạo nghĩa” đọc trại ra. Thời kỳ này, giang hồ Sài Gòn ít nhiều chịu ảnh hưởng từ nhân vật trong các pho truyện “Tàu” được bán khắp các bến xe do nhà in Tín Đức Thư Xã ấn hành.

    Giang hồ Sài Gòn trước 1975
    Giang hồ khu Cầu Muối (Sài Gòn) thập niên 1950.

    Thực tế cho thấy, không ít tay du đãng sừng sỏ từng lấy biệt danh là Võ Tòng, La Thành, Đơn Hùng Tín, Tiểu Lý Quảng, Triệu Tử Long, Đông Phương Sóc… như là một thứ “danh thiếp”nhằm khẳng định tên tuổi trong chốn giang hồ.

    Những cuộc “long tranh, hổ đấu”

    Gần một thế kỷ đã trôi qua nhưng trong võ lâm giang hồ vẫn tồn tại 2 câu chuyện thuộc vào hàng “điển tích”. Câu chuyện thứ nhất xảy ra vào năm 1936, trùm du đãng Bảy Viễn bị đày ra đảo Côn Lôn vì can tội cướp tiệm vàng. Tại đây, hắn bị biệt giam tại phòng 5 và đã đụng độ tên cọp rằn ác ôn người Miên tên Khăm Chay – một tướng cướp trên núi Tà Lơn. Tên này võ nghệ cao cường, có luyện “gồng Trà Kha”, được chúa đảo Bouvier đỡ đầu với chính sách dùng tù Miên trị tù Việt.

    Trong cuộc so tài, Bảy Viễn đã tung một cú đá xỉa bằng năm đầu ngón chân (Kim Tiêu cước) nhanh và hiểm trúng vào nhân trung (yếu huyệt) Khăm Chay khiến hắn bể sóng mũi, giập môi, gãy răng, máu tuôn xối xả, tràn cả vào mồm. Khăm Chay lảo đảo vài bước rồi đổ gục xuống nền buồng giam. Từ đó, cọp rằn Khăm Chay lặn mất tăm. Phục ở chỗ, gã không hề dựa hơi chúa đảo người Pháp phái lính mã tà tra tấn địch nhân hay kéo bọn tù đàn em dùng số đông trả thù Bảy Viễn. Kể ra đó cũng là nghĩa khí của đấng trượng phu!

    Giang hồ Sài Gòn trước 1975
    Hình tượng giang hồ Bình Xuyên – Bảy Viễn – trong phim Dưới cờ đại nghĩa.

    Câu chuyện thứ 2 là khi thủ lĩnh Bình Xuyên – Ba Dương – đề nghị Sáu Cường ủy lạo gạo, tiền nuôi binh đánh Tây. Gã anh chị có chân to như “chân voi” (hai bàn chân Sáu Cường chiều dài hơn 3 tấc) đã dõng dạc tuyên bố: “Nếu Ba Dương chịu nổi một cước của Sáu Cường này thì muốn bao nhiêu gạo cũng được”. Ba Dương chấp nhận. Trận thư hùng diễn ra tại bến xe An Đông.

    Khi Ba Dương đến, đám thuộc hạ của Sáu Cường đồng loạt cười ồ bởi ngoại hình tay thủ lĩnh lực lượng quân đội Bình Xuyên quá “mỏng cơm”. Nhưng sau khi Sáu Cường xuất chiêu mới biết là mình đã lầm.

    Để khắc chế cú đá nặng ngàn cân của đối phương, thân hình Ba Dương luồn lách uyển chuyển như con rắn, dùng “xà tấn” lòn thấp người tránh né đồng thời dùng “hạc quyền” khẽ chạm vào hạ bộ của “thần cước” Sáu Cường. Liên tục 3 cú đá mạnh và nhanh như điện mà Sáu Cường tung ra, đối thủ đều né tránh tài tình. Cùng lúc, Ba Dương 3 lần dùng tuyệt kỹ võ hạc “mổ” nhẹ vào “của quý” Sáu Cường, dụng ý chỉ nhằm cảnh cáo.

    Biết mình đã lỡ đụng nhằm cao thủ, trùm giang hồ bến xe An Đông lập tức dừng đòn, nghiêng người cúi đầu đưa hai tay cung kính bái phục Ba Dương như một hiệp khách bại trận và tất nhiên giao kèo trước đó được hai tay anh chị thực thi chóng vánh. Không hề có chuyện Sáu Cường giở trò chơi dơ “lật kèo” ỷ nhiều đánh ít, mặc dù Ba Dương đến bến xe An Đông “phó hội” đơn thân độc mã, tay không tấc sắt.

    “Cao bồi” xuất hiện

    Sau khi chế độ Diệm – Nhu bị đảo chính và triệt hạ, giang hồ theo kiểu “108 anh hùng Lương Sơn Bạc” coi như xóa sổ. Cho đến những năm đầu 60, khi trào lưu “Làn Sóng Mới” (Le Nouvel Vague) từ phương Tây đổ bộ lên “Hòn ngọc Viễn Đông”, một số tay anh chị bắt đầu xuất hiện trở lại và chia nhau hùng cứ những khu vực manh mún ở Sài Gòn.

    Cụm từ “hippy choai choai” do báo chí Sài Gòn đặt, ám chỉ lớp người trẻ ăn mặc theo kiểu cao bồi miền viễn Tây Texas (Hoa Kỳ) cưỡi ngựa chăn bò với quần jean, áo sơmi ca rô sọc to xanh đỏ, giày ống cao gót, tóc dài phủ gáy, phóng xe máy Sachs như điên trên đường phố, miệng phì phèo thuốc lá Salem. Ban ngày, các “cao bồi” này “ngồi đồng” ở các quán cà phê nhạc ngoại quốc trên đại lộ Lê Lợi, Nguyễn Huệ.

     Giang hồ Sài Gòn trước 1975

    Trần Đại (Trần Quang đóng) đánh Bốn “lơ xe” (Tâm Phan đóng) trong phim Điệu ru nước mắt của đạo diễn Lê Hoàng Hoa.

    Tối đến, họ “đóng đô” ở các phòng trà, vũ trường giá “bèo” như Anh Vũ, Bồng Lai, Melody, Lai Yun (Lệ Uyển), Arc En Ciel (khu Tổng Đốc Phương), ngã tư Bảy Hiền, hồ bơi Chi Lăng, Victoria (Phú Nhuận)…, sẵn sàng gây sự và đánh lộn, đập phá, đâm chém chỉ để nhằm khẳng định mình là “cao bồi” chính hiệu!

    Sau cuộc chính biến lật đổ “Ngô triều” vào đầu thập niên 60, trật tự đô thị Sài Gòn trở nên hỗn độn, khó kiểm soát. Nhân cơ hội này, nhiều thành phần “cao bồi” manh nha xuất hiện, “vỗ ngực xưng tên”. Nổi trội trong giới giang hồ là những “đại ca” tên tuổi như Cà Na ở khu Tân Định (sau theo võ sư Huỳnh Tiền, đấu võ đài 8 trận toàn thắng với biệt danh Huỳnh Sơn), Bích “Pasteur”, Búp “Moderne”, Bình “thẹo”, Lộc “đen” (vua nhảy bebop), Hân “Faucauld”, Sáu “già”, Nhã “xóm chùa”…

    Quận 1 – vùng đất màu mỡ trù phú – do “tứ đại thiên vương” Lê Đại, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế chia nhau cai quản. Đám lâu la đông hàng trăm tên gồm A “chó”, Hải “sún”, Lâm “khùng” (tức Lâm “chín ngón” sau này), Lương “chột”, Hùng “đầu bò”, Việt “Parker”, Đực “đen”.

    Khu vực quận 3 có Minh “nhảy dù”, Cẩm “Mambo”, Lâm “thợ điện” (nhà ở đường Nguyễn Thiện Thuật bán đồ điện gia dụng), Hùng “mặt mụn” (thủ phạm đâm chết Lâm “thợ điện” ở bệnh viện Từ Dũ bằng con dao cắt bánh mì sau một vụ cãi nhau vớ vẩn vì chiếc xe đạp Martin). Xuôi về quận 5 hướng chợ Nancy rồi Đại Thế Giới (chợ Soái Kình Lâm – “đèn năm ngọn”) là lãnh địa của những trùm giang hồ người Hoa như Tín Mã Nàm (Nàm Chẩy), Sú Hùng, Hổi Phoòng Kiên, Trần Cửu Can, Ngô Tài…

    Bóng hồng sát thủ

    Trong giới giang hồ Sài Gòn thập niên 60 – 70 xuất hiện một “bóng hồng sát thủ”, đó là Lệ Hải – “người tình một năm” của ông trùm Đại “Cathay”. Lệ Hải xuất thân con nhà giàu có, gia giáo, trâm anh thế phiệt, cựu nữ sinh trường Marie Curie, thi đỗ tú tài I. Năm 17 tuổi, Lệ Hải đã thi lấy bằng lái ô tô, hằng đêm lướt đến các vũ trường trên chiếc Toyota Corolla màu đỏ cánh sen bóng lộn.

    Là một giai nhân giàu có lại “biết chữ”, Lệ Hải không thèm cặp bồ với những tay giang hồ thô kệch võ biền mà chấp nhận làm người tình của bác sĩ Nghiệp – một thầy thuốc có ngoại hình trí thức kèm máu du đãng nổi tiếng Sài Gòn bởi luôn có mặt bên cạnh Đại “Cathay” ở các phòng trà, động hút. Sau khi đã “hoa chán, nguyệt chê” Lệ Hải, gã bác sĩ bèn “sang tay” người tình cho Đại “Cathay” trong một đêm sinh nhật thác loạn tổ chức ở phòng trà Lido trên đại lộ Trần Hưng Đạo, Q.5.

    “Gái giang hồ” hội ngộ “trai tứ chiếng”, vóc dáng “du đãng mang nét mặt thư sinh” của Đại “Cathay” nhanh chóng thu hút “nữ quái” đa tình. Từ sau đêm đó, Lệ Hải bỏ nhà đi “sống bụi đời” cùng Đại “Cathay” như vợ chồng. Thế nhưng, cuộc tình “sét đánh” cũng nhanh chóng vỡ tan sau một năm chăn gối mặn nồng. Lệ Hải bỏ người tình, cặp bồ với nhiều nhân vật giàu có thế lực, vừa thỏa mãn tình lại dễ moi tiền.

    Với gương mặt ưa nhìn, nét đẹp thanh tú, cao ráo, trắng trẻo, lại có học thức, Lệ Hải dễ dàng dùng “mỹ nhân kế” mồi chài những ông chủ salon lắm tiền nhiều của, các dân biểu “tai to mặt lớn” hay sĩ quan tướng lĩnh Sài Gòn “vui vẻ qua đêm”. Chẳng bao lâu, Lệ Hải đã lột xác thành một nữ chúa trong giới giang hồ sau khi nhờ Đạt “ba thau” xăm trổ hình bông hồng đỏ dưới rốn và con rắn phùng mang nơi ngực trái.

    Qua sự giới thiệu của “nhà văn chém mướn” Nguyễn Đình Thiều, nhà văn Nhã Ca đã hội ngộ Lệ Hải tại vũ trường Ritz và được “yêu nữ” đồng ý cho chắp bút về cuộc đời du đãng của mình. Tiểu thuyết Cô hippy lạc loài ấn hành đã gây xôn xao dư luận. Những gia đình khá giả có con gái đang độ tuổi trưởng thành đọc xong tiểu thuyết của Nhã Ca đều lo ngay ngáy, ăn ngủ không yên.

    Ăn theo cuốn tiểu thuyết này, năm 1973, Lidac Film giao cho đạo diễn Lê Dân thực hiện bộ phim màu 35mm màn ảnh rộng với tựa Hoa mới nở qua sự diễn xuất của Bạch Liên, Vũ Thái Bình, Mỹ Hòa, Cát Phượng, La Thoại Tân, bà Bảy Ngọc, bà Năm Sa Đéc, Đinh Xuân Hòa… Bộ phim đã dự Liên hoan thanh niên thế giới lần 8 tổ chức tại Canada năm 1974.

    Nhà thơ trẻ Văn Mạc Thảo sau một đêm “tâm sự” cùng Lệ Hải đã cảm hứng sáng tác một bài thơ, trong đó có hai câu “Ta gọi tên em là yêu nữ/ Là loài yêu mị, gái hồ ly”. Bài thơ sau đó được Ngọc Chánh (trưởng ban nhạc Shotguns) phổ nhạc với tiếng hát nam danh ca Elvis Phương: “Loài yêu nữ mang tên em…” được giới “hippy choai choai” Sài Gòn thuộc nằm lòng. Nữ văn sĩ Lệ Hằng cũng gặp Lệ Hải tìm cảm hứng sáng tác Kinh tình yêu và Bản tango cuối cùng – 2 quyển tiểu thuyết “hit” nhất trên văn đàn miền Nam năm 1973.

    Tháng 4.1975, khi quân giải phóng đánh chiếm sân bay Biên Hòa, Lệ Hải vội vã cùng chồng hờ – một ông chủ salon ô tô người Hoa giàu sụ – mua tàu vượt biển di tản qua Úc rồi sau đó định cư tại Anh. Khi gã chồng Hoa kiều bất ngờ đột tử sau một đêm ân ái, Lệ Hải sống lặng lẽ, cô độc trong tòa biệt thự xa hoa, lộng lẫy, không con cái cũng chẳng có người thân, từng ngày buồn bã gặm nhắm về những tháng ngày dữ dội của thế giới du đãng Sài Gòn trong sương mù London rét buốt.
    Trong các tiểu thuyết viết về thế giới du đãng của nhà văn Duyên Anh – Vũ Mộng Long xuất bản trước 1975, chỉ có 4 nhân vật là những nguyên mẫu có thật ngoài đời gồm Lê Văn Đại (tức Đại “Cathay”), Trần Thị Diễm Châu, Chương “còm” và Dũng “Đa Kao” còn những Hoàng “guitar”, Quyên “Tân Định”, Bồn “lừa”, Hưng “mập”, Danh “ná”, Vọng “ghẻ”, thằng Khoa, thằng Côn, thằng Vũ, con Thúy… là do nhà văn phịa ra bên bàn đèn thuốc phiện. Tương tự, nhân vật “Loan mắt nhung” trong tiểu thuyết cùng tên cũng do nhà văn Nguyễn Thụy Long hư cấu.
    Theo Dân Việt/Dòng Đời