Category: Nhân Vật Lịch Sử

  • Hình ảnh những hoa hậu đầu tiên ở Sài Gòn xưa

    Hình ảnh những hoa hậu đầu tiên ở Sài Gòn xưa

    Ít ai biết rằng ngay từ thời Pháp thuộc, tại Sài Gòn đã tổ chức khá nhiều cuộc thi sắc đẹp để chọn ra những ngôi sao nhan sắc. Vậy ai là cô gái đầu tiên giành được giải hoa hậu của xứ Nam Kỳ?

    Có rất nhiều tài liệu chứng minh rằng, ngay từ thời Pháp thuộc, khi chế độ phong kiến vẫn còn hà khắc với người phụ nữ, thì tại đất Nam kỳ người Pháp đã tổ chức khá nhiều cuộc thi sắc đẹp nhằm tìm kiếm những gương mặt khả ái nhất vùng. Trên nền tảng những cuộc thi đó, người Việt cũng đã manh nha tổ chức những cuộc thi sắc đẹp có uy tín. Hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những giai nhân nức danh Nam Kỳ một thời, để tìm xem những ai được người dân gọi là hoa hậu đầu tiên của Nam Kỳ.

    Cô Ba “xà bông” – Hoa khôi đầu tiên của đất Nam Kỳ

    Cô Thiệu Trà Vinh còn được dân gian thường gọi là cô Ba Xà Bông là con thầy thông Chánh ở đất Trà Vinh xưa. Cô được nhiều người trong vùng ngưỡng mộ vì sở hữu một ngoại hình yêu kiều khó ai sánh bằng. Người ta nói rằng mẹ của cô vốn rất xinh đẹp, thế nên cô Ba được thừa hưởng những nét đẹp đó từ mẹ của mình. Trong cuốn “Sài Gòn tạp pín lù” của học giả Vương Hồng Sển, tác giả giới thiệu vẻ đẹp của cô Ba Thiệu như sau: “Kể về người đẹp trong Nam, xưa hơn hết, có cô Ba, con thầy Thông Chánh”.

    Hình ảnh những hoa hậu đầu tiên ở Sài Gòn xưa

    Cô Ba Thiệu là người giành chiến thắng trong cuộc thi sắc đẹp đầu tiên ở Nam Kỳ do người Việt tổ chức.

    Có tài liệu cho rằng cuộc thi hoa hậu đầu tiên ở Việt Nam do chính người Việt đứng ra là một cuộc thi mang tên Miss Sài Gòn được tổ chức vào năm 1865. Đây là cuộc thi sắc đẹp dành cho tất cả các cô gái Việt Nam ở Sài Gòn và những vùng lân cận. Tuy là lần đầu tổ chức nhưng cuộc thi đã thu hút gần 100 cô gái đăng ký dự thi. Và kết quả chung cuộc người đoạt được vương miện và trở thành hoa khôi Nam kỳ là cô Ba Thiệu.

    Hình ảnh những hoa hậu đầu tiên ở Sài Gòn xưa

    Khi mô tả về vẻ đẹp của cô Ba, học giả Vương Hồng Sển viết rằng: “Trong giới huê khôi, nghe nhắc lại, trước kia, hồi Tây mới đến, có cô Ba, con gái thầy Thông Chánh, là đẹp không ai bì; đẹp tự nhiên, không răng giả, không ngực keo su nhơn tạo, tóc dài chấm gót, bới ba vòng một ngọn, mướt mượt và thơm phức dầu dừa mới thắng, đẹp không vì son phấn giả tạo, đẹp đến nỗi nhà nước in hình vào con tem Nhà thơ Dây thép (Bưu điện), và một hiệu buôn xà bông xin phép họa hình làm mẫu rao hàng: xà bông Cô Ba; muốn biết danh tiếng bực nào xin ráng tìm các bà cỡ 1900 hỏi lại!”.

    Khi cô đăng quang, nhiều người Pháp đã đề nghị cô chụp ảnh để đăng báo ở chính quốc. Họ rất muốn chụp cô trong trang phục áo tắm nhưng cô không đồng ý.

    Vì hình của người đẹp này được in nổi trên các sản phẩm nổi tiếng của Hãng xà bông Việt Nam do ông Trương Văn Bền lập ra, nên mọi người thường quen gọi cô Ba Thiệu là cô Ba Xà Bông. Có thể nói cô Ba là gương mặt thương hiệu đầu tiên ở đất Nam Kỳ vì trở thành “người mẫu” gắn liền với một thương hiệu nổi tiếng Việt Nam ra đời đầu thế kỷ 20.

    Hình ảnh những hoa hậu đầu tiên ở Sài Gòn xưa

    Hình của cô Ba Thiệu được in trên hộp của một hãng xà bông của Việt Nam.

    Cuộc đời cô Ba xà bông gặp khá nhiều truân chuyên. Sau khi đoạt giải hoa khôi, cô cưới biện lý Jaboin và sống một cuộc sống khép kín. Tuy nhiên vào năm 1893, ông Chánh và Jaboin xảy ra mâu thuẫn, cô Ba đã cầm súng bắn chết tên biện lý Jaboin. Cô bị Tòa đại hình Mỹ Tho kết án ngày 19/6/1893 và bị xử tử ngày 18/1/1894 tại Trà Vinh.

    Nam phương hoàng hậu – Người đẹp 3 lần giành giải hoa hậu Đông Dương

    Nam Phương hoàng hậu tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan sinh ra tại huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Bà là vị hoàng hậu cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam.

    Hình ảnh những hoa hậu đầu tiên ở Sài Gòn xưa

    Nam phương hoàng hậu vốn là cháu ngoại của đại phú gia giàu có bậc nhất Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20 – huyện Sỹ Lê Phát Đạt. Người thời đó cho rằng số tài sản của Huyện Sỹ còn nhiều hơn tổng tài sản của Vua Bảo Đại.

    Hình ảnh những hoa hậu đầu tiên ở Sài Gòn xưa

    Năm 1932, người đẹp này đã nổi danh về nhan sắc khắp vùng Nam Kỳ và cả Đông Dương. Nhiều tài liệu cho rằng trước khi Thị Lan trở thành chính cung hoàng hậu của vua Bảo Đại, bà đã 3 lần giành được giải hoa hậu Đông Dương.

    Tuy nhiên, theo nghiên cứu của nhà sử học Dương Trung Quốc thì trong thời Pháp thuộc tuy có tổ chức nhiều cuộc thi sắc đẹp, nhưng không có cuộc thi nào mang tên Hoa hậu Đông Dương. Vì vậy có thể danh hiệu này được người dân trao tặng cho hoàng hậu vì yêu quý nhan sắc tuyệt trần của bà.

    Hình ảnh những hoa hậu đầu tiên ở Sài Gòn xưa

    Cô Ba Trà – Ngôi Sao Sài Gòn

    Cô Ba Trà tên thật là Trần Ngọc Trà, sinh năm 1906, bà là người phụ nữ sinh đẹp nổi tiếng đất Sài thành vào những năm đầu thế kỷ 20, và được mệnh danh là Étoile de Saigon (tạm dịch: ngôi sao Sài Gòn).

    Xuất thân từ một làng quê nghèo ở Cần Đước (Long An). Năm 16 tuổi, sau khi cha qua đời, cô Ba Trà một mình lên Sài Gòn để mưu sinh. Nhiều người cho chính những bi thương từ thuở ấu thơ đã góp phần hình thành nên tính cách của người phụ nữ này: coi đời lạnh như băng.

    Cô Ba Trà sớm bộc lộ dung mạo xinh đẹp khi mới chỉ 16 tuổi và nhanh chóng trở thành “ngôi sao” của đất Sài Gòn hoa lệ. Với vẻ đẹp “sắc nước nghiêng thành”, cùng một trí thông minh và cách nói chuyện khôn khéo, cô Ba Trà đã đốn ngã hàng loạt tay chơi hào hoa giàu có bậc nhất đất Nam Kỳ như Hắc công tử (Trần Trinh Huy), Bạch công tử (Lê Công Phước), công tử Bích. Chính vì thế dù không đoạt được danh hiệu chính thức nào, nhưng người dân vẫn thường dành tặng cho cô Ba danh hiệu Người đẹp Nam Kỳ.

    Trải qua 4 cuộc hôn nhân lần lượt là: viên quan ba người Pháp, con trai tỷ phú đất Phan Rang, bác sĩ Trần Ngọc Án, và cuối cùng là một triệu phú trẻ tuổi, nhưng tất cả đều tan vỡ. Kể từ đó, người đẹp lao vào ăn chơi, cặp kè hết người này đến người khác và dấn sâu vào con đường bài bạc.

    Hình ảnh những hoa hậu đầu tiên ở Sài Gòn xưa

    Những canh bạc lớn đã đốt sạch gia sản của người đẹp. Khi còn trẻ, cô Ba Trà được nhiều người săn đón bao nhiêu thì đến lúc già, cô lại phải sống trong cảnh cô độc, nghèo túng. Đến cuối đời, hoa khôi Trần Ngọc Trà lâm vào cảnh nợ nần, túng bấn và phải đi làm công ở một cửa tiệm tồi tàn để kiếm sống qua ngày. Hết tiền, cô Ba phải bán nhà và sống trong một xó chân cầu thang của một chung cư, tài sản duy nhất là cái ghế bố cô nằm. Người ta nói rằng họ thấy cô Ba Trà chết trên ghế bố dưới chân cầu thang một chung cư ở Sài Gòn.

    Theo Toàn Nguyễn/Tri thức trẻ

  • Tướng mạo kỳ lạ của các vị Quân Vương Việt Nam

    Tướng mạo kỳ lạ của các vị Quân Vương Việt Nam

    Xem tướng số nhiều người cho rằng không đúng, bởi đừng nhìn mặt mà bắt hình dong. Tuy thế hàng ngàn năm nay dân gian vẫn lưu truyền và củng cố thuyết tướng mệnh; xem tướng biết vận mệnh. Đặc biệt trong số những vị vua tài giỏi của Việt Nam thời xưa, xuất hiện 4 vị có tướng mạo lạ kỳ của bậc quân vương. Mời các bạn cùng tìm hiểu:

    1.Lý Thái Tông

    Từ khi sinh ra, Lý Thái Tông sau gáy có đến 7 nốt ruồi tụ lại như chòm sao Bắc Đẩu, được xem là điềm báo xứng đáng nối ngôi thiên tử.

    Lý Thái Tông tên húy Phật Mã, sinh năm Canh Tý (1000) ở chùa Duyên Ninh thuộc cố đô Hoa Lư. Ông là con trai trưởng của Vua Lý Thái Tổ và bà Lê Thị Phất Ngân, con gái Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) và Dương Vân Nga.

    Tướng mạo kỳ lạ của các Ông Vua Tài Giỏi Việt Nam
    Tượng Lý Thái Tông tại đền Lý Bát Đế.

    Tương truyền, ngay từ khi lọt lòng, Lý Phật Mã đã có những dấu hiệu lạ lùng. Lúc bé, chơi đùa với bọn trẻ trong cung, ông thường bắt chúng dàn hàng tả hữu trước sau để làm quân hầu hộ vệ cho mình. Ông cho một vị đạo sĩ cái áo. Đạo sĩ treo cái áo trong quán, nửa đêm thấy rồng vàng hiện ra, khiến người ta duy tâm đây là lời “sấm truyền” cho một đế vương.

    Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) rất chú ý tới Phật Mã và có ý nuôi dạy ông kế vị. Năm Nhâm Tý (1012), lúc mới 13 tuổi, Lý Phật Mã đã được lập làm Đông cung Thái tử, rồi được phong làm Khai Thiện Vương, đồng thời nhiều lần được cử làm tướng cầm quân đi dẹp loạn và lập được công lớn. Vì thế, triều thần cũng như thần dân lúc bấy giờ rất tôn kính Phật Mã. Năm 1028, vua cha mất, Lý Phật Mã lên ngôi.

    Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhận xét về Lý Thái Tông: “Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông”. Ông là vị vua giỏi thời nhà Lý. Hơn 30 năm chinh chiến và trị quốc, ông đã củng cố nền cai trị của nhà Lý, chống lại những nguy cơ chia cắt, bạo loạn, xâm lấn, thu phục lòng dân, khiến cho nước Đại Cồ Việt trở nên vững mạnh.

    2.Trần Nhân Tông: Có màu da như vàng ròng

    Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11/11 năm Mậu Ngọ (1258), là con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu. Khi mới sinh toàn thân màu da như vàng ròng – sáng chói. Vua cha đặt tên là Phật Kim. Sách Thánh Đăng ngữ lục chép: “Đến khi vua ra đời, màu da như vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật…”.

    Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Được tinh anh của Thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng ròng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng… Vai bên tả có một nốt ruồi đen, các nhà tướng số cho rằng: ngày sau sẽ gánh vác việc lớn”.

    Tướng mạo kỳ lạ của các Ông Vua Tài Giỏi Việt Nam
    Ảnh thờ Vua Trần Nhân Tông.

    Trần Khâm được vua cha Trần Thánh Tông nhường ngôi vào ngày 22/10 năm Mậu Dần (1278). Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình). Các sử gia thời Hậu Lê đã viết về Trần Nhân Tông: “Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân”.

    3.Lê Thái Tổ: Miệng rộng, mũi cao và bả vai có 7 nốt ruồi

    Về lý lịch xuất thân của Lê Thái Tổ (Lê Lợi), sách Đại Việt thông sử chép: “Vua sinh giờ Tí (tức từ khoảng 23h đến 1h sáng) ngày mùng 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385), niên hiệu Xương Phù thứ 9 nhà Trần, tại làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương. Nguyên trước, xứ Du Sơn, thôn Như Áng Hậu thuộc làng này (Chủ Sơn), có một cây quế, dưới cây quế này có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai. Từ khi Vua ra đời thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho là một sự lạ. Ngày Vua ra đời thì trong nhà có hào quang đô chiếu sáng rực và mùi thơm ngào ngạt khắp làng. Khi lớn lên thì thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên, bả vai bên trái có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ, tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường”.

    Tướng mạo kỳ lạ của các Ông Vua Tài Giỏi Việt Nam
    Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh, mở đầu triều Lê sơ, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

    Lê Lợi sinh ra trong một gia đình “đời đời làm quân trưởng một phương”. Năm ông 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.

    Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách. Rồi sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.

    Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh, mở đầu triều Lê sơ, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Mặc dù ở ngôi ngắn ngủi được có 6 năm nhưng những việc làm của ông vua này có ý nghĩa đặt nền móng vững chắc cho cả một triều đại và nên độc lập phồn vinh của quốc gia Đại Việt. Việc làm đầu tiên của Lê Thái Tổ là bàn định luật lệnh. Và nhờ cố gắng đó, hai năm sau (1430), Lê Thái Tổ đă cho ban hành những điều luật đầu tiên của triều đại mình”.

    4.Quang Trung: Mắt lập lòe như ánh điện

    Nguyễn Huệ (1753 – 1792), còn được biết đến là Vua Quang Trung hay Bắc Bình Vương, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn (ở ngôi từ 1788 tới 1792). Ông là một trong những lãnh đạo chính trị tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam với những trận đánh nội chiến và chống ngoại xâm chưa thất bại lần nào.

    Tướng mạo kỳ lạ của các Ông Vua Tài Giỏi Việt Nam
    Quang Trung – Nguyễn Huệ cũng được xem là người anh hùng áo vải của dân tộc Việt Nam.

    So với các hoàng đế khác trong lịch sử Việt Nam, có lẽ Quang Trung – Nguyễn Huệ được các sử thần lưu lại những miêu tả chi tiết hơn về vóc dáng, thậm chí miêu tả cả đến làn da, mái tóc và đặc biệt là đôi mắt: “Quang Trung là người cao lớn, tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông. Kỳ lạ nhất là cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối, nó khiến nhiều người khi thấy đều run sợ, hãi hùng…“không một người nào dám nhìn thẳng vào mắt ông” (Hoàng Lê nhất thống chí). “Đôi mắt lập lòe như ánh điện” (Đại Nam chính biên liệt truyện), “con mắt nhỏ nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu” (Tây Sơn thuật lược)…

    Sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung cũng trích dẫn tướng mạo của Hoàng đế Quang Trung theo mô tả của một quan viết sử dưới thời Nguyễn: “Huệ tóc quăn, mặt đầy mụn, có con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu, lúc lâm trận thì thế thắng uy nghi, anh hùng lẫm liệt, cho nên mới bình định được phương Nam, dẹp phương Bắc, tiến đến đâu thì không ai hơn được… Óc thông minh đó sẽ làm nên sự nghiệp lớn, tiếng nói sang sảng như chuông sẽ là lệnh truyền hiệu nghiệm đầy sức thuyết phục. Với đôi mắt như ánh điện, thay được đèn soi sáng cả chiếu vào lúc ban đêm, có thể xuyên thấu mọi tâm can sâu thẳm của mỗi con người, của đối phương nên đã làm người người đều kinh sợ. Cái nhãn quang đó cùng bộ óc thông minh của ông đã làm nên sự nghiệp phi thường như lịch sử đã ghi lại”.

    Ngoài ra, trong một phác họa chân dung vua Quang Trung in trên một tờ tiền giấy, hậu thế có thể thấy đôi mắt của vua là một đôi mắt đẹp đặc trưng kiểu người Việt Nam, nghĩa là đôi mắt to, hai mí lớn, nhãn cầu hơi lồi và ánh nhìn ngay thẳng, chính trực. Có lẽ do quá ấn tượng về nhân cách, tài trí vô song của vị vua áo vải này mà các sử gia đã phần nào “thần thánh hóa” đôi mắt của vua, nhằm cho đời sau cảm nhận được uy lực lạ lùng của đôi mắt ấy. Việc miêu tả chi tiết đôi mắt, làn da cũng như mái tóc của vua Quang Trung càng cho thấy sự gần gũi của vị vua có xuất thân dân dã này.

    Theo Đất Việt

  • 17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Sự xuất hiện của người Pháp vào giữa thế kỷ 19 đã mang tới những thay đổi lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Cũng chính nhờ họ mà ngày nay chúng ta còn có thể chiêm ngưỡng được những hình ảnh quý báu của quá khứ vương triều Việt.

     

    Nhà Nguyễn (1802 – 1945) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Trong 143 năm tồn tại của mình, nhà Nguyễn đã ghi lại nhiều dấu ấn quan trọng trong dòng chảy lịch sử.
    Đó cũng là thời kỳ xã hội Việt Nam biến đổi đầy xáo trộn. Sự can thiệp vũ lực của người Pháp đã mang đến những thăng trầm lớn cho lịch sử. Các nhiếp ảnh gia đã lưu lại những hình ảnh tư liệu quý giá.

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Chân dung vua Thành Thái (1889-1907) trong bộ triều phục

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Một vương phi già trong triều đình ở Huế

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Thái tử Bảo Long, con vua Bảo Đại, ảnh chụp năm 1936

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Các quan hành lễ trước điện Thái Hòa

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Vua Khải Định bên cạnh các quan cố vấn triều đình

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Vua Khải Định ăn trưa tại điện Cần Chánh

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Lễ thiết triều của các quan lại triều Nguyễn, ảnh chụp năm 1926

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Bà Chúa Nhất, trưởng nữ của vua Dục Đức, chị cả của vua Thành Thái, ảnh chụp năm 1931

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Hai vị quan phục vụ trong triều, ảnh chụp tại Huế năm 1931

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Chân dung vua Bảo Đại, ảnh chụp năm 1928

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Nam Phương hoàng hậu thời thiếu nữ

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Nhan sắc của Nam Phương hoàng hậu

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Nam Phương hoàng hậu trong lễ tấn phong năm 1934

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Hai người vợ của vua Thành Thái năm 1907

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Vua Duy Tân chụp cùng quan lại trong triều năm 1907

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Vị vua trẻ tuổi Duy Tân ngồi trên kiệu, ảnh chụp năm 1907

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Ảnh chụp một vị quan triều Nguyễn cùng với vợ của mình năm 1899

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Nhà Nguyễn (1802 – 1945) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Trong 143 năm tồn tại của mình, nhà Nguyễn đã ghi lại nhiều dấu ấn quan trọng trong dòng chảy lịch sử.
  • 50 bức ảnh lịch sử về Chủ tịch Hồ Chí Minh

    50 bức ảnh lịch sử về Chủ tịch Hồ Chí Minh

    Dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mãi mãi đi xa, hình ảnh giản dị mà cao cả của Người sẽ còn sống mãi trong trái tim của nhân dân Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hoà bình, chính nghĩa trên toàn thế giới.

     

    Dưới đây là những bức ảnh tiêu biểu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chủ tịch, scan từ ấn bản “Hồ Chủ tịch sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”, xuất bản tháng 11/1970.

    Auto Draft

    Nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc năm 30 tuổi, khi ở Pháp.

    Auto Draft

    Tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua (nước Pháp), tháng 12/1920, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

    Auto Draft

    Giữa năm 1923, Người sang Liên Xô.

    Auto Draft

    Sau Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 5, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu tham gia cách mạng Trung Quốc, đồng thời lo xây dựng phong trào cách mạng Việt Nam và Đông Dương.

    Auto Draft

    Đồng chí Nguyễn Ái Quốc năm 1930.

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch năm 1945.

    Auto Draft

    Tháng 2/1946, Người nói chuyện với hơn 10 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội sau cuộc tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch trong phòng làm việc của Người ở Phủ chủ tịch năm 1946.

    Auto Draft

    Ngày 31/5/1945, Người dẫn đầu Đoàn đại biểu Chính phủ ta sang đàm phán chính thức với chính phủ Pháp.

    Auto Draft

    Người làm việc trong hang đá ở Việt Bắc năm 1951.

    Auto Draft

    Người dạy: “Thực túc thì binh cường” và ngày ngày Người tăng gia sản xuất cùng đồng bào, chiến sĩ.

    Auto Draft

    Năm 1949, Đoàn đại biểu Nam Bộ từ miền Nam ra thăm miền Bắc đã tới quây quần bên Hồ Chủ tịch.

    Auto Draft

    Từ chiếc máy đánh chữ của Người đã ra đời nhiều văn kiện liên quan đến vận mệnh đất nước.

    Auto Draft

    Là người sáng lập và lãnh đạo quân đội ta, Hồ Chủ tịch đã theo dõi mặt trận suốt thời gian chiến dịch biên giới.

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch, vị Tổng tư lệnh tối cao.

    Auto Draft

    Người với các đại biểu Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt, năm 1951.

    Auto Draft

    Cuối năm 1953, tại Việt Bắc, Hồ Chủ tịch và các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.

    Auto Draft

    Người chủ trì một phiên họp Hội đồng Chính phủ sau chiến thắng Điện Biên Phủ.

    Auto Draft

    Thăm đền Hùng, Hồ Chủ tịch nói với các chiến sĩ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải ra sức giữ nước”.

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch sau ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954

    Auto Draft

    Người thăm nhà máy diêm Thống Nhất những năm đầu khôi phục kinh tế (1956).

    Auto Draft

    Đến thăm nhà máy xe lửa Gia Lâm, Người nhắc nhở công nhân, cán bộ phát huy truyền thống cách mạng của nhà máy, ra sức xây dựng miền Bắc, ủng hộ miền Nam.

    Auto Draft

    Đại biểu học sinh trường trung học Trưng Vương (Hà Nội) đến chúc thọ ) Hồ Chủ Tịch (5/1956).

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch thăm trường trung học Trung Hoà của Hoa Kiều ở Hà Nội.

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch nói chuyện với học viên trường Nghệ thuật sân khấu trung ương.

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch rất quan tâm đến việc giải phóng phụ nữ. Năm 1956, Người căn dặn các cán bộ phụ nữ toàn miền Bắc “đoàn kết chặt chẽ, ra sức tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà và giữ gìn hoà bình thế giới”.

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch thăm kè Cố Đô, tình Hà Tây (1958).

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch tát nước chống hạn ở cánh đồng Quang Tô, xã Đại Thanh, tỉnh Hà Tây (1958).

    Auto Draft

    Xem hình mẫu xây dựng thủ đô Hà Nội, Người dặn dò về vấn đề nhà ở của nhân dân lao động (1959

    Auto Draft

    Người với các đại biểu đạo Thiên Chúa.

    Auto Draft

    Lên thăm khu tự trị tây Bắc (5/1959), Hồ Chủ tịch trao tặng đồng bào các dân tộc bức trướng của đồng báo Thủ đô Hà Nội.

    Auto Draft

    “Người ngồi đó với cây chì đỏ / Vạch đường đi từng bước, từng giờ” (Tố Hữu).

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch chúc mừng cụ Tôn Đức Thắng được Quốc hội khoá 2 bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (7/1960).

    Auto Draft

    Ngày 5/9/1960, Đảng lao Động Việt Nam họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3. Trong diễn văn kha mạc, Người nêu rõ: “Đại hội lần thứ hai là đại hội kháng chiến. Đại hội lần này là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”.

    Auto Draft

    Người cầm nhịp hát bài “Đoàn kết”.

    Auto Draft

    Mười vạn nhân dân và cán bộ tỉnh Thanh Hoá hứa với Người sẽ ra sức xây dựng Thanh Hoá thành một tỉnh kiểu mẫu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa (1961).

    Auto Draft

    Ngày 9/12/1961, về thăm quê nhà lần thứ hai, Người chụp ảnh với các chiến sĩ phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931.

    Auto Draft

    Người đến thăm các chiến sĩ của lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội (1966).

    Auto Draft

    Bác Hồ với các anh hùng và dũng sĩ miền Nam.

    Auto Draft

    Bác Hồ với các anh hùng và dũng sĩ miền Nam.

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch xem triển lãm tranh miền Nam.

    Auto Draft

    Bác Hồ trong trang phục của Hải quân nhân dân Việt Nam.

    Auto Draft

    Bác Hồ trong trang phục của Hải quân nhân dân Việt Nam.

    Auto Draft

    Người tặng hoa phong lan cho ba đại biểu dân quân gái Quảng Bình, Vĩnh Linh.

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch và các đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh.

    Auto Draft

    Lời Hồ Chủ tịch: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm phải trồng người”.

    Auto Draft

    Hồ Chủ tịch sống mãi trong sự nghiệp chúng ta.
  • Lối sống điều độ của Vua Minh Mạng

    Lối sống điều độ của Vua Minh Mạng

    Để có thể lực cường tráng, chăn gối viên mãn, ngoài thuốc men tẩm bổ, Minh Mạng còn rèn luyện sức khỏe bằng phương pháp mà ngày nay rất phổ biến.

    Minh Mạng tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, lên ngôi vào tháng giêng năm Canh Thìn (tức tháng 2/1820) khi 29 tuổi, độ tuổi thanh niên với sức khỏe và lòng nhiệt huyết nhưng nhà vua không vì thế mà sa vào hưởng lạc, trái lại ông lấy công việc, hoạt động để nuôi dưỡng tinh thần, vun bồi thể chất.
    Không thể lấy chuyện Minh Mạng có nhiều con mà cho rằng vua ham mê sắc dục được, bản thân nhà vua xem thịnh suy, hưng vong của đế vương đời trước làm tấm gương để tự răn mình “không hề dám đắm say về lạc thú” và khẳng định rằng: “Cái đức của đấng quân vương là không có nhàn rỗi, dâm dật” (Đại Nam thực lục).

    Lên ngôi không lâu, trong một buổi thiết triều, Minh Mạng nói với triều thần rằng:

    – Trẫm đang độ tuổi trẻ, còn sáng suốt về tinh thần, mạnh mẽ về sức lực, nên trẫm hằng chăm lo việc triều chính.
    Một lần khác, vua lại nói:

    – Trẫm với các khanh cùng hội họp, lòng trẫm lấy làm khoan khoái, há không hơn cả ngày ở trong cung đối diện với đám phụ nữ, không có điều gì để nói năng cả hay sao.
    Vua Minh Mạng

    Hoàng đế và đại thần

    Sách Minh Mạng chính yếu chép vào năm Kỷ Hợi (1839), nhân có quan Hiệp biện đại học sĩ, Tổng đốc tỉnh Bình Phú (Bình Định – Phú Yên) là Vũ Xuân Cẩn vào kinh chầu, vua Minh Mạng thấy ông râu tóc bạc phơ bèn hỏi tuổi và hỏi vì sao già mà vẫn có sức khỏe như vậy. Quan Tổng đốc Vũ Xuân Cẩn mới tâu rằng:

    – Hạ thần nay đã 68 tuổi, ở tỉnh thời thường đến xem quân lính, nhân dân đốn cây, chặt củi, nên có thể trèo leo, lên xuống núi khe mà không biết mỏi mệt.

    Nghe vậy nhà vua nói rằng:

    – Trẫm ở trong cung, cũng thường đi bộ, tập giờ lâu mà không biết mệt mỏi, thế mới biết người ta phải tập vận động, cố gắng thì ngày một thêm mạnh, cứ ngồi yên mà lười biếng thì ngày một thêm yếu, không kể tuổi già hay trẻ vậy!

    Vua Minh Mạng
    Hoàng đế bộ hành

    Minh Mạng còn khuyên dạy các hoàng tử không nên lười nhác, phải chăm vận động. Vua nói rằng:

    – Ta xem các con ngày nay không bằng ta lúc còn trẻ tuổi. Trước kia ta theo đức Thế Tổ Cao hoàng đế [Gia Long], dừng xa giá tại tỉnh Gia Định, lúc xa giá ra trận, thường ở lại để coi giữ địa phương. Trời rét như cắt, ta mặc áo đơn, cưỡi thuyền đi lại trên mặt biển mà không biết lạnh. Các con tuổi mới trên dưới 30 mà không chịu nổi nóng lạnh, sau này đến năm sáu, bảy mươi tuổi làm sao mạnh mẽ được vậy. Ta nay hằng nghĩ đến tự cường, không dám để mình nhàn hạ quá. Các con nên theo ý ta, không mưu đồ sự an nhàn vui vẻ vậy!

    Theo Khám phá Huế.

  • Lỗ Mạnh Hùng – Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    Lỗ Mạnh Hùng – Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    Trong lịch sử Sài Gòn trước năm 1975, cậu bé Lỗ Mạnh Hùng đã khiến nhiều người khâm phục khi là phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất.

    Lỗ Mạnh Hùng - Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    Trước năm 1975, cậu bé Lỗ Mạnh Hùng được biết đến như một phóng viên ảnh chuyên nhiệp nhỏ tuổi nhất làng báo chí.

    Lỗ Mạnh Hùng - Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    Cậu bé tác nghiệp từ năm 1967, khi mới 11 tuổi, với tư cách một nhiếp ảnh viên của Lỗ Vinh Ảnh Xã – hãng thông tấn quy mô nhỏ do cha cậu đứng đầu.

    Lỗ Mạnh Hùng - Lỗ Vinh
    Lỗ Mạnh Hùng – Lỗ Vinh

     

    Lỗ Mạnh Hùng - Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    Dù chỉ là một đứa trẻ nhưng Lỗ Mạnh Hùng được cha mình – một phóng viên chiến trường kỳ cựu – đào tạo bài bản, được trang bị đẩy đủ như một phóng viên ảnh chuyên nghiệp.

    Lỗ Mạnh Hùng - Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    Cậu đảm nhiệm những công việc khó khăn như bất cứ phóng viên chiến trường nào khác ở Sài Gòn…

    Lỗ Mạnh Hùng - Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    … sẵn sàng có mặt tại những điểm chiến sự nóng bỏng của thành phố trong biến cố Tết Mậu Thân 1968.

    Lỗ Mạnh Hùng - Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    Công việc của Lỗ Mạnh Hùng khiến nhiều người khâm phục.

    Lỗ Mạnh Hùng - Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    Nhưng cũng có không ít ý kiến chỉ trích đây là hành vi lạm dụng trẻ em cùng quan ngại cậu bé có thể bị tổn thương vị cuộc chiến.

    Lỗ Mạnh Hùng - Lỗ Vinh
    Qúa trinh tác nghiệp
    Lỗ Mạnh Hùng - Lỗ Vinh
    Gia đình Lỗ Mạnh Cường

    Lỗ Mạnh Hùng - Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    Năm 1968, tờ Southeast Missourian của Mỹ có đăng một bài viết về Lỗ Mạnh Hùng với tiêu đề: “Một cậu bé nhiếp ảnh gia tìm kiếm hiểm nguy khi những người khác bỏ chạy”.

    Lỗ Mạnh Hùng - Phóng viên chiến trường nhỏ tuổi nhất Sài Gòn trước 1975

    Sau đó, cậu bé dường như đã âm thầm biến mất khỏi làng báo Sài Gòn. Không ai rõ số phận của chàng phóng viên đặc biệt sau này ra sao.

    Theo Kiến Thức

  • Những bức ảnh cực hiếm về cuộc đời Vua Bảo Đại

    Bảo Đại là vị Vua cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta. Cai trị đất nước giữa thời kỳ “bản lề”, lại thấm nhuần văn hóa Pháp từ bé, những hình ảnh đáng nhớ về ông thường gắn với đời sống quý tộc phong lưu, “Âu hóa” hơn là chuyện vận mệnh đất nước. 

     

    Auto Draft

    Bảo Đại tiếp xúc với nền văn hóa Pháp từ rất sớm. Bức ảnh trên chụp khi ông còn đang là Hoàng tử Vĩnh Thụy, trong chuyến thăm tới Pháp năm 1922 cùng Vua cha Khải Định (Ảnh: T. Do Khac)

    Auto Draft

    Cũng trong năm 1922, Hoàng tử Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung Kỳ Jean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và bắt đầu quá trình học tập theo chương trình giáo dục Pháp. Đến năm 1932, ông theo học tại Trường Khoa học Chính trị Pháp (Ảnh: Bettmann)

    Auto Draft

    Do tiếp xúc, sống và học tập cùng văn hóa phương Tây từ nhỏ, Bảo Đại trưởng thành giống với một cậu trai pháp bảnh bao hơn là một vị Vua của một nước phong kiến châu Á (Ảnh: Bettmann/CORBIS)

    Auto Draft

    Vị Vua cuối cùng của Việt Nam có vóc dáng cao lớn (1m82), gương mặt điển trai, lối sống phóng khoáng, phong độ, vì vậy mà có đời sống tình cảm khá phực tạp, chịu điều tiếng là mê ăn chơi, hưởng lạc. Bức ảnh này được chụp Bảo Đại trong trang phục dạ hội tại Pháp vào năm 1932 (Ảnh: Agence Mondial)

    Auto Draft

    Bảo Đại được biết đến là một người cưỡi ngựa điêu luyện như một kỵ sỹ. Ông cũng yêu thích và hâm mộ nhiều môn thể thao thời thượng, quý tộc thời đó như golf, tennis, bơi thuyền. (Ảnh: Raymond Reuter/Sygma/Corbis)

    Auto Draft

    Bảo Đại đặc biệt thích chơi Tennis. Vì vậy sau khi về nước ông đã cho xây dựng một sân quần vợt “tiêu chuẩn quốc tế” ngay tại kinh thành Huế, khiến nhiều du khách hiện nay tới thăm di tích Cố đô Huế vẫn nghĩ đó là một công trình hiện đại được xây sau này!

    Auto Draft

    Một bức ảnh hiếm hoi Bảo Đại chụp cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không rõ ngày tháng của bức ảnh nhưng nhiều khả năng là giai đoạn sau khi ông thoái vị và tham gia Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Ảnh: T. Do Khac)

    Auto Draft

    Vào tháng 3/1946, trên tư cách cố vấn tham dự phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh, Trung Quốc, Bảo Đại đã không về nước mà đến Côn Minh rồi qua Hồng Kông, chấp nhận sống cuộc đời lưu vong. Bức ảnh trên nằm trong loạt ảnh được tạp chí Time của Mỹ thực hiện vào tháng 6/1948, tại căn hộ riêng của ông ở Hồng Kông (Ảnh: Life)

    Auto Draft

    Vị cựu Hoàng lưu vong tiếp phóng viên trong bộ vest sáng màu chải chuốt, tay châm thuốc lá như một tay chơi sành điệu. Tại Hồng Kông, để tiện ăn chơi mà không bị chú ý, Bảo Đại đổi tên thành Wang Kunney tiên sinh, tuy nhiên danh phận Đế vương của ông không thể che mắt được người thường. Dân thượng lưu Hồng Kông đồn rằng muốn xem mặt Bảo Đại chỉ cần tìm ở 14 tiệm nhảy, nếu không thấy thì tìm ở các sòng bạc (Ảnh: Life)

    Auto Draft

    Bảo Đại hướng dẫn chú cún cưng của mình thực hiện động tác bắt tay (Ảnh: Life)

    Auto Draft

    Bức ảnh chụp trong một chuyến công tác tới Pháp năm 1948 tại khách sạn Ritz, trung tâm Paris (Ảnh: Bettmann/CORBIS)

    Auto Draft

    Sau thời gian dài lưu vong ở Hồng Kông rồi Pháp, Bảo Đại về nước vào tháng 3/1949 để 4 tháng sau đó lên làm Quốc trưởng Chính phủ Lâm thời Quốc gia Việt Nam do thực dân Pháp dựng lên. Trong hình ông đang đứng nói chuyện với viên sỹ quan Pháp khi vừa đáp xuống sân bay Gia Lâm, Hà Nội vào tháng 3/1954, vẫn trong bộ âu phục chải chuốt quen thuộc cùng cặp kính râm lịch lãm (Ảnh: Life)

    Auto Draft

    Bảo Đại làm Quốc trưởng đến tháng 10/1955 thì bị Ngô Đình Diệm phế truất. Ông sau đó sang Pháp sống lưu vong tại Paris cho đến cuối đời (Ảnh: Life)

    Auto Draft

    Một bức ảnh kháp chụp trong cùng chuyến đi Hà Nội năm đó (Ảnh: Stringer/AFP)

    Auto Draft

    Bảo Đại chụp cùng Tướng Pháp Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi trong chuyến thăm đồng bào thiểu số Tây Nguyên tại Buôn Mê Thuột vào tháng 5/1950 (Ảnh: Stringer/AFP)

    Auto Draft

    Vua Bảo Đại trên trang bìa tạp chí Pháp Paris Match, số ra tháng 9/1953, vẫn với điếu thuốc lá trên tay – thứ gần như gắn liền với “thương hiệu” Bảo Đại (Ảnh: (Ảnh: Walter Carone/Paris Match)

    Auto Draft

    Một bức ảnh “chất lừ” khác cũng trong số tạp chí đó (Ảnh: Walter Carone/Paris Match)

    Auto Draft

    Bảo Đại cùng con gái, Công chúa Phương Mai hào hứng theo dõi cuộc đua Công thức một từ hàng ghế V.I.P tại đường đua Monza huyền thoại của Ý năm 1955. Có lẽ ông cũng là một trong những người Việt đầu tiên có cơ hội xem trực tiếp môn thể thao vốn dành cho giới nhà giàu này (Ảnh: Mario De Biasi/Mondadori Portfolio)

    Auto Draft

    Bảo Đại chụp cùng người vợ Pháp của mình, bà Monique Baudot vào năm 1992, 5 năm trước khi ông qua đời vào năm 1997 (Ảnh: Raymond Reuter/Sygma/Corbis)

  • Tấm hình chân dung đầu tiên của người Việt

    Điều thú vị xung quanh chuyện: Ai là người được chụp ảnh chân dung đầu tiên?
    Bức ảnh chụp cụ Phan Thanh Giản (1796-1867) là bức ảnh chụp chân dung xưa nhất của người Việt Nam, bức ảnh được chụp vào năm 1863 tại Paris Pháp khi cụ Phan cầm đầu phái đoàn sứ bộ nhà Nguyễn sang Pháp để xin chuộc lại 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ

    Bức ảnh chụp cụ Phan Thanh Giản
    Bức ảnh chụp cụ Phan Thanh Giản

    Ông sang Pháp được ba tháng nhưng không gặp được vua Napoleon III, ông đành trở về Việt Nam với những lời hứa hẹn của Pháp, nhưng khi về đến Việt Nam thì Pháp đã đánh chiếm thêm 3 tỉnh miền tây

    Sau đó ông được triều đình nhà Nguyên phân bổ trách nhiệm vào trấn thủ miền nam, tới năm 1867 toàn bộ Nam Kỳ thất thủ và rơi vào tay người Pháp. Cảm thấy không thể hoàn thành được sứ mệnh của triều đình giao cho, ông uống thuốc độc tử tử chết cùng năm để lại di chúc cho con cháu là “không nên làm chính trị”

    Hiện tại bức hình này còn được lưu tại bảo tàng nhân chủng học ở Paris Pháp.

    Theo thôn tin mà HinhAnhVietNam được biết, một nhóm bạn trẻ đang hoàn thiện công nghệ in ảnh 3D để làm tượng từ ảnh thật : http://chibi3d.com bạn quan tâm thì cứ liên hệ thử nhé!

  • Bốn danh tướng vĩ đại của dân tộc

    Bốn danh tướng vĩ đại của dân tộc

    Xuyên suốt dòng chảy hào hùng của lịch sử dân tộc, đã xuất hiện nhiều anh hùng, hào kiệt tiêu biểu cho nguyên khí quốc gia. Trong số đó có 4 danh tướng, mà công lao, sự nghiệp như trời đất bao la, kết tinh những tinh hoa tốt đẹp của dân tộc; mãi mãi trường tồn cùng non sông gấm vóc Việt Nam, trong mỗi con tim của con Hồng cháu Lạc.
    Bốn danh tướng vĩ đại của dân tộc

    Từ trái qua phải tượng các danh nhân: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo và Nguyễn Huệ. 

     

    Người anh hùng dân tộc, danh tướng Lý thường Kiệt 

    Sinh ra ở Thăng Long (Hà Nội ngày nay), ông là danh tướng kiệt xuất thời nhà Lý, đã để lại cho đời những mốc son chói lọi về sự nghiệp quân sự cũng như những cải cách tiến bộ.

    Trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước, ông để lại những trận đánh để đời, làm cho giặc xâm lăng bạt hồn kinh vía. Trận đánh cuối năm 1075, đầu năm 1076, trên đất nhà Tống là trận đánh rất độc đáo. Ông chủ động đánh phủ đầu làm tiêu hao sinh lực quân thù, tiêu hao hậu cần, san phẳng thành lũy…dập tắt ý đồ xâm lược nước ta của nhà Tống, làm nhụt nhuệ khí của bọn cầm quyền phương Bắc. Có được chiến thắng đó nhờ sự sáng suốt của ông là thông qua sự kết hợp giữa quân sự và dân vận làm cho nhân dân hai nước trên biên giới hiểu rõ chính nghĩa của ta là đánh giặc để giữ nước. Nhưng làm nên tên tuổi lẫy lừng  của người anh hùng dân tộc vĩ đại chính là chiến thắng giặc Tống trên sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay) đầu năm 1077. Đây là một trong những trận đánh hay nhất trong nghệ thuật quân sự hào hùng chống ngoại xâm của cha ông ta. Cái hay ở chỗ ông vừa dụ vừa đánh. Trong đêm ông sai người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát đọc bài thơ “Sông núi nước Nam”, với hồn thơ đanh thép khẳng định chủ quyền quốc gia thiêng liêng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. (Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời/ Cớ chi giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời). Giặc nghe bài thơ trên hồn vía thất lạc giảm nhụt ý chí, và tự động buông vũ khí đầu hàng. Chúng ta chiến thắng mà không bị đổ máu của tướng sĩ, hao tiền của của dân. Bài thơ bất hủ này được xem là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của nước Việt Nam.Tên tuổi và sự nghiệp của danh tướng Lý Thường Kiệt chói sáng mãi trong lịch sử vinh quang của dân tộc. Để ghi nhớ công lao to lớn của ông nhân dân ta đã lập đền thờ ông ở nhiều nơi, với tấm lòng thành kính bậc tiên hiền  đã có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

    Bốn danh tướng vĩ đại của dân tộc

    Hình ảnh đại quân của Quang Trung tiến vào thành Thăng Long.

     

    Danh tướng kiệt xuất Trần Hưng Đạo

    Trần Hưng Đạo quê ở Nam Định, là danh tướng vĩ đại của nhà Trần.

    Đế chế Nguyên Mông nổi tiếng hưng thịnh và hùng mạnh nhất thế giới, vó ngựa của chúng tung hoành khắp nơi, chinh phạt trời Á sang Âu. Không có nước nào địch nổi đội quân hùng mạnh, thiện chiến của Hốt Tất Liệt. Nhưng cả ba lần (1258, 1285 và 1287), chúng sang xâm lược nước ta là cả ba lần phải nhận đại bại nhục nhã dưới tài chỉ huy của các danh tướng nhà Trần, mà tiêu biểu là Trần Hưng Đạo lừng danh. Chiến thắng giặc Nguyên Mông là đỉnh cao về nghệ thuật quân sự ở nước ta mà chiến lược gia không ai khác đó chính là thiên tài quân sự Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn. Ông dùng kế sách “ vườn không nhà trống”, không để  cho giặc lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, kéo dài chiến tranh không có lợi cho ta; xóa bỏ mọi hiềm khích, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, khích lệ tướng sĩ bằng hùng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ”. Đây là bản Tuyên ngôn thứ hai thể hiện hào khí chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tướng sĩ nghe lời hịch nấc lòng, thích vào tay hai chữ “Thát sát”  (giết giặc Mông Nguyên). Ông xây dựng khối đại đoàn kết trên dưới một lòng, giết giặc giữ nước, trọng dụng nhân tài như Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Yết Kiêu, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản… để làm nên chiến thắng.

    Lần đầu tiên trong chế độ phong kiến đã diễn ra “Hội nghị Diên Hồng” nổi tiếng. Ông đã khéo dựa vào sức dân để phát động nghệ thuật chiến tranh nhân dân hợp lực lại để  đánh bại chế độ hùng mạnh nhất bấy giờ. Tố chất xuất chúng của ông là biết chọn lựa thời cơ để đánh giặc. Minh chứng hùng hồn là trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1287, ông đã dựa vào quy luật thiên nhiên để đánh thắng giặc, bằng cọc gỗ vát nhọn cắm xuống sông che lấp bằng thủy triều và nhử chúng vào sâu, vào thế trận của ta giăng sẵn rồi nhấn chìm tất cả kẻ thù xuống sông khi thủy triều xuống.

    Bằng nghệ thuật quân sự độc đáo này ông đã ba lần đánh bại quân Nguyên Mông xâm lược nước ta – Cáo chung một chế độ khét tiếng, làm sụp đổ một triều đại Hốt Tất Liệt hùng mạnh, mở ra  nền độc lập cường thịnh cho dân tộc Việt Nam. Tấm gương của ông là tài sản vô giá, là nguồn cổ vũ động viên to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đời này sang đời khác. Nhân dân ta lập đền thờ ông ở nhiều nơi để tưởng nhớ công lao to lớn của Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn và suy tôn ông là Đức Thánh Trần. Ngày nay ông trở thành vị Thánh thiêng liêng được thờ phụng trên mọi miền đất nước.

    Bốn danh tướng vĩ đại của dân tộc

    Trận chiến trên sông Bạch Đằng. 

    Người anh hùng áo vải, danh tướng kiệt xuất Nguyễn Huệ

    Ông là một danh tướng vĩ đại – một vị vua anh minh của triều đại Tây Sơn. Nguyễn Huệ là bậc kỳ tài trong thiên hạ, tài năng phát lộ rất sớm, mới ngoài hai mươi tuổi ông đã có công lớn trong việc dẹp hai thế lực hùng mạnh trong nước, Chúa Trịnh Đàng Ngoài và Chúa Nguyễn Đàng Trong đã gây ra nội chiến triền miên, làm cho nước ta thời bấy giờ suy kiệt. Ông đã thực hiện sứ mệnh thống nhất đất nước mở ra triều đại Tây Sơn.

    Ông là nhà quân sự thiên tài sử dụng chiến thuật nước xa cứu lửa gần, bằng những cuộc hành quân thần tốc, đánh đòn chớp nhoáng làm cho quân thù trở tay không kịp. Thiên tài quân sự chói sáng với trận thủy chiến lừng danh Rạch Gầm – Xoài Mút (Tiền Giang) tháng 1/ 1785, chôn vùi 5 vạn quân Xiêm dưới sông sâu. Chiến thắng Kỷ Dậu (đầu năm 1789), đập tan 20 vạn quân Thanh. Đây là chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của vị tướng và cũng là vị vua Hoàng đế 37 tuổi.

    Nguyễn Huệ là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong các triều đại vua chúa phong kiến ở nước ta. Trên ngôi vị Hoàng đế ông đã thống nhất sơn hà mà còn mở mang bờ cõi, phát triểnkinh tế, lưu hành tiền mới, chăm lo cuộc sống cho nhân dân… Trọng dụng nhân tài, bang giao với các nước. Nguyễn Huệ đột ngột băng hà khi còn quá trẻ, khi tài năng tiếp tục tỏa sáng. Cũng như sứ mệnh lịch sử nước nhà lúc đó đang cần ông. Một mất mát vô cùng to lớn! Người anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ là lãnh tụ nông dân kiệt xuất, là nhà quân sự, chính trị thiên tài, là anh hùng dân tộc vĩ đại trong thế kỷ XVIII. Ông có công lớn trong thống nhất đất nước sau 20 năm bị chia cắt.

    Nhân ta đã dựng tượng đài và đền thờ ông khắp nơi trong cả nước. Tại huyện Tây Sơn (Bình Định) đã xây tượng đài và nhà thờ Hoàng đế Quang Trung có quy mô cấp Nhà nước.

    Bốn danh tướng vĩ đại của dân tộc

    Tượng Đại tướng Võ Nguyên Giáp. 

     

    Danh tướng kiệt xuất Võ Nguyên Giáp

    Ông quê ở Quảng Bình, là một nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sự thiên tài, là danh tướng vĩ đại nhất của thế kỷ XX, là nhà văn hóa lớn của thời đại Hồ Chí Minh.

    Võ Nguyên Giáp  là Tư lệnh chiến trường đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, chấn động địa cầu, kết thúc gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp ở Đông Dương. Chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ trên không 1972, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút quân về nước vô điều kiện. Đại thắng mùa xuân 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

    Bốn danh tướng vĩ đại của dân tộc

    Cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ Cát ở Điện Biên Phủ.

    Ông không những là danh tướng vĩ đại nhất của thế kỷ XX, mà còn vĩ đại nhất của mọi thời đại. Tài thao lược và tác chiến của ông toàn diện trên mọi bình diện địa hình đất liền, rừng núi, trên sông, trên không, biển đảo, trên đất bạn (Lào, Campuchia) đều thắng lợi rực rỡ. Ông là một vị tướng làm theo lời dạy của Bác hồ “Kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

    Đất nước ta luôn ghi nhớ công ơn của ông và nhân dân ta đã suy tôn ông là vị tướng của nhân dân. Hàng ngày từng đoàn người nối dài, với lòng thành kính viếng ông ở nơi an nghỉ, những di tích và địa danh lịch sử gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của ông.

    Quang vinh thay những anh hùng dân tộc vĩ đại, những danh tướng kiệt xuất, tên tuổi của các ông mãi mãi trường tồn cùng non sông đất nước. Trong tương lai gần Nhà nước ta sẽ đề nghị UNESCO vinh danh những danh tướng vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam anh hùng.

    LÊ PHAN/Lao động và Xã hội

  • Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Bạn đã từng nghe về danh xưng Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn trước 1975 chưa?

    Thẩm Thúy Hằng
    Cho đến nay, chưa một diễn viên nào của Việt Nam được gọi là “minh tinh màn bạc” như Thẩm Thúy Hằng. Bà là nữ diễn viên thành công nhất của nền điện ảnh thương mại Sài Gòn trước năm 1975 với tên tuổi phủ sóng toàn châu Á. Sở dĩ gọi Thẩm Thúy Hằng là minh tinh màn bạc là bởi vì: bất kỳ khi đến nước nào, dù Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ hay Thái Lan, Indonesia, bà cũng được chào đón như một ngôi sao.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Thẩm Thúy Hằng xuất thân gốc Bắc, sinh năm 1940 tại Hải Phòng với tên thật là Nguyễn Kim Phụng. Theo gia đình di cư vào Nam, bà lớn lên tại An Giang và theo học bậc trung học tại Sài Gòn. Năm 16 tuổi, bà giấu gia đình tham gia cuộc thi tuyển diễn viên của hãng phim Mỹ Vân và vượt qua hơn 2000 thí sinh để giành giải nhất. Ông bà chủ của hãng phim đã đặt cho bà nghệ danh Thẩm Thúy Hằng.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Vai diễn đầu tiên của Thẩm Thúy Hằng là nàng Tam Nương trong bộ phim Người đẹp Bình Dương (1958). Bộ phim này đã một bước đưa bà thành ngôi sao đình đám nhất của Sài Gòn và sau đó là ngôi sao đình đám nhất của Đông Á. Bà lập kỷ lục là người đóng nhiều phim nhất trong thập niên 60 và nửa đầu thập niên 70. Sắc đẹp của Thẩm Thúy Hằng làm lu mờ tất cả những gì xung quanh, thậm chí khiến người ta bỏ qua cả tài năng diễn xuất không quá đặc biệt của bà.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Hào quang điện ảnh rực rỡ bao nhiêu thì chuyện riêng tư của Thẩm Thúy Hằng bí ẩn bấy nhiêu. Có tin đồn rằng năm 1958, khi vừa bước vào ánh hào quang của Người đẹp Bình Dương thì bà cũng mang thai một đứa bé. Sợ ảnh hưởng đến danh tiếng và sự nghiệp, Thẩm Thúy Hằng đã mang cho đi đứa con gái đầu lòng của mình. Để rồi sau này bà cất công lặn lội đi tìm con trong ân hận nhưng cô gái mãi mãi không muốn nhận mẹ mình. Thực hư câu chuyện không rõ, chỉ biết Thẩm Thúy Hằng có cuộc hôn nhân hạnh phúc đúng kiểu mẫu “chân dài – đại gia” với Tony Nguyễn Xuân Oánh – một tiến sĩ kinh tế hơn bà 19 tuổi, từng làm việc như một chuyên gia cao cấp của Ngân hàng thế giới, sau là Thống đốc ngân hàng và Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Sau 1975, ông Nguyễn Xuân Oánh còn làm chuyên gia tư vấn cho TBT Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Bà sinh cho chồng 4 người con và sống hạnh phúc đến tận khi chồng mất vào năm 2003.Vì cuộc hôn nhân bền chặt này, sau 1975, bà không di cư mà ở lại Sài Gòn, tiếp tục hợp tác với điện ảnh cách mạng trong nhiều bộ phim nhưHồ sơ một đám cưới, Nơi gặp gỡ của tình yêu, Cho cả ngày mai... Năm 1981, minh tinh Thẩm Thúy Hằng biến mất khỏi làng nghệ thuật mà không để lại một lời nhắn cho người hâm mộ.Chỉ đến thời gian gần đây, bất ngờ tấm hình Thẩm Thúy Hằng với khuôn mặt biến dạng bị tung lên mạng, người hâm mộ năm xưa mới bàng hoàng xa xót. Chỉ vì khao khát giữ mãi vẻ thanh xuân đã làm hàng triệu khán giả mến mộ, Thẩm Thúy Hằng đã lạm dụng phẫu thuật thẩm mỹ tới mức bị biến dạng hoàn toàn gương mặt xinh đẹp năm nào. Sau gần 30 năm tránh né, nhờ sự cứu rỗi của đạo Phật, Thẩm Thúy Hằng đã tự tin xuất hiện công khai với ngoại hình bị phẫu thuật thẩm mỹ tàn phá nhưng vẫn giữ phong thái kiêu hãnh của một minh tinh màn bạc năm nào.

    Kiều Chinh
    Lớn lên và thành danh tại Sài Gòn, nhưng Kiều Chinh cũng là một cô gái Bắc. Bà sinh năm 1937 trong một gia đình thượng lưu tại phố cổ Hà Nội. Mẹ mất sớm vì bom đạn Nhật năm 1945, cô bé Nguyễn Thị Chinh được cha hết mực cưng chiều vì là con gái út. Mối quan hệ rộng rãi của cha với các văn nghệ sĩ Hà Nội trước cách mạng đã tạo một nền tảng nghệ thuật vững chắc cho bà ngay từ thời thơ ấu. Năm 1954, do biến cố lịch sử, gia đình bà chuẩn bị lên đường vào Nam thì anh trai bất ngờ bỏ trốn đi theo kháng chiến. Lúc này chị gái bà đã theo chồng sang Pháp định cư. Tại phi trường Bạch Mai, người cha chờ đợi mãi không thấy con trai đã đẩy vội cô lên phi cơ với lời nhắn nhủ vội vàng: “Tìm được anh trai con ba sẽ vào sau”.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    17 tuổi, một thân một mình bơ vơ nơi đất khách, Kiều Chinh đã được gia đình người bạn của cha cưu mang. Cô đã kết hôn với con trai của người ân nhân là nhạc sĩ Nguyễn Năng Tế. Hai người sống với nhau đến năm 1981 thì chia tay.Duyên điện ảnh của Kiều Chinh bắt đầu tại một bữa tiệc ở nhà hàng Continental. Ở tuổi 18 và vừa sinh con đầu lòng, Kiều Chinh đẹp lộng lẫy với thần thái thương lưu cao quý, sang trọng hiếm có. Bà đã lọt vào mắt xanh đạo diễn phim Hồi chuông Thiên Mụ và chính thức bước vào con đường nghệ thuật rực rỡ.Nếu như Thẩm Thúy Hằng là ngôi sao phim thương mại thì Kiều Chinh là ngôi sao của dòng phim nghệ thuật. Những bộ phim bà đóng nếu như không phải dự án điện ảnh lớn nhất Sài Gòn thì sẽ là dự án điện ảnh lớn của Hollywood. Lối diễn xuất mộc mạc, tự nhiên cùng lợi thế ngoại ngữ đã khiến cái tên Kiều Chinh luôn là lựa chọn hàng đầu của các nhà làm phim Hoa Kỳ. Thậm chí, khi cần vai diễn công chúa Ấn Độ, chính Kiều Chinh chứ không phải người Ấn Độ được chọn.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Năm 1975, khi Kiều Chinh đang quay bộ phim Full House tại Singapore thì Sài Gòn giải phóng. Bà vội vàng di tản sang Canada để hội tụ với ba người con trai đang du học tại đây. Ít lâu sau, chồng bà cũng tìm cách để sang Canada. Tại đất nước Bắc Mỹ xa lạ, Kiều Chinh từ bỏ hoàn toàn ánh hào quang của ngôi sao để trở thành một người lao động bình thường trong một trại gà kiếm 2 đô la Canada cho mỗi giờ làm việc. Không cam tâm, bà tìm mọi cách liên lạc với các minh tinh Hollywood đã từng hợp tác trong các bộ phim và may mắn được một nữ minh tinh bão lãnh cả gia đình sang Mỹ. Ngay lập tức, bà tìm cơ hội trở lại với điện ảnh.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Cho đến nay, chưa một diễn viên Việt Nam nào gây dựng được tên tuổi vững chắc tại kinh đô điện ảnh Hollywood như Kiều Chinh. Bà tham gia hơn 100 bộ phim truyền hình, điển hình như The Children of An Lac (1980), The Letter (1982), The Girl Who Spelled Freedom (1986), cùng hàng loạt phim điện ảnh nhưHamburger Hill (1987), Gleaming the Cube (1988), Catfish in Black Bean Sauce (1999), What’s Cooking (2000), Face (2002), Returning Lyly (2002). Kiều Chinh đã ghi tên vào danh sách 50 vai diễn khiến khán giả khóc nhiều nhất thế kỷ XX với vai bà mẹ Trung Hoa trong phim The Joy Luck Club của đạo diễn Wayne Wang.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Ở tuổi 77, Kiều Chinh vẫn đang miệt mài với các dự án thiện nguyện tại Việt Nam. Dự án điện ảnh gần đây nhất của bà là phim ngắn Ngọc Viễn Đông của đạo diễn Cường Ngô.

    Thanh Nga
    Thanh Nga là một nghệ sĩ cải lương tài sắc nổi tiếng nhất của Việt Nam. Bà được mệnh danh là “nữ hoàng sân khấu” của Sài Gòn trước 1975 và mãi mãi là của biểu tưởng của sân khấu Việt Nam cho đến hôm nay.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Bà tên thật Juliette Nguyễn Thị Nga, sinh năm 1942, quê quán Tây Ninh. Cha của bà là Nguyễn Văn Lợi, mẹ của bà là Nguyễn Thị Thơ, tức bà bầu Thơ, trưởng đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga nổi tiếng một thời. Với gen nghệ thuật, năm 16 tuổi, Thanh Nga đã xuất sắc dành giải Thanh Tâm triển vọng với vai sơn nữ Phà Ca trong vở Người vợ không bao giờ cười. Nhan sắc và tài năng của bà bắt đầu nở rộ từ đây.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Khó có thể liệt kê cho đủ những vai diễn xuất sắc của Thanh Nga trong 20 năm làm nghề ngắn ngủi. Bà luôn được giao những vai diễn các anh hùng nữ tướng, nếu không cũng phải là những mỹ nhân tuyệt sắc. Đó là Bàng Quý Phi (vở Xử án Bàng Quý Phi), Bà mẹ cách mạng (vở Sau ngày cưới), Điêu Thuyền (vở Phụng Nghi Đình), Dương Thái Chân (vở Chuyện tình An Lộc Sơn), Diệu Thiện (vở Ni cô Diệu Thiện), Dương Vân Nga (vở Thái hậu Dương Vân Nga), Trưng Trắc (vởTiếng trống Mê Linh).

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Cuộc đời của Thanh Nga lận đận chuyện duyên tình với hai cuộc tình tan vỡ, một với người chiến sĩ cách mạch và một với nghệ sĩ cải lương Thành Được – bạn diễn của bà. Thanh Nga kết hôn hai lần. Lần đầu với một sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa để trả thù Thành Được. Và lần hai với luật sư Phạm Duy Lân. Cuộc hôn nhân lần hai mang đến cho Thanh Nga hạnh phục trọn vẹn với 1 cậu con trai tên Phạm Duy Hà Linh. Nhưng bất hạnh đã giáng xuống chấm dứt số phận hồng nhan. Thanh Nga bị sát hại cùng chồng ngày 26 tháng 11 năm 1978 ngay trước cửa nhà ở đường Ngô Tùng Châu (nay là đường Lê Thị Riêng) TP. Hồ Chí Minh. Sau đó vài năm, dù người ta tuyên bố đã tìm thấy hai kẻ giết người và kết án tử hình, nhưng nhiều năm qua sự thực về cái chết của bà vẫn là một bí ẩn. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 1984.

    Kim Cương
    Kim Cương là người đầu tiên được mệnh danh là “Kỳ nữ”. Nhan sắc không sánh được với Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng hay Kiều Chinh, nhưng tài năng của Kim Cương trong cả hai lĩnh vực sân khấu và điện ảnh, cả diễn xuất lẫn viết kịch đều không có ai sánh bằng.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    NSND Kim Cương có tên họ đầy đủ là Nguyễn Thị Kim Cương. Bà sinh năm 1937 tại Sài Gòn trong một gia đình dòng dõi quý tộc Huế. Thân phụ của bà là ông Nguyễn Ngọc Cương, con trai ruột của vua Thành Thái – vị vua yêu nước bị Thực dân Pháp đày đi biệt xứ. Mẹ bà là nghệ sĩ hát bội danh giá Bảy Nam. Vai diễn đầu tiên của bà là vào năm “10 ngày tuổi” – vai con Thị Màu trong vở của Quan Âm Thị Kính. Với “vai diễn” đầu đời này, bà được vinh hạnh “diễn” trong dịp mừng thọ Thái hậu Từ Cung với “đạo cụ” là một bình sữa.Sự nghiệp diễn xuất đến sớm, bà nhanh chóng trở thành đào non trong đoàn Đại Phước Cương, cùng cha mẹ và các thành viên trong đoàn đi lưu diễn khắp nơi. Vai diễn chính thức đầu tiên của bà là vai Na Tra trong vở Na Tra lóc thịt do chính mẹ bà viết kịch bản. Bà nổi tiếng trong những vai kịch buồn rơi nước mắt hay những vai dí dỏm. Đến nay vai Diệu trong vở Lá sầu riêng của Kim Cương vẫn là một mẫu mực của sân khấu cải lương mà chưa có ai vượt qua được.

    Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn xưa gồm những ai?

    Bên cạnh diễn xuất, bà từng soạn nhiều kịch bản kịch nói với bút danh Hoàng Dũng và giữ kỷ lục là người viết kịch bản kịch nói nhiều nhất Việt Nam hiện nay đồng thời là người mở đường cho kịch nói Sài Gòn sau năm 1975.Kim Cương có một cuộc hôn nhân ngắn ngủi vì chồng mất sớm, bà ở vậy nuôi con cho đến lúc về già. Đến nay, bà đã từ bỏ ánh đèn sân khấu để chăm lo cho công tác thiện nguyện với trẻ em thiệt thòi.Thời trẻ, Kim Cương không phải chịu cảnh hồng nhan đa truân như các nữ nghệ sĩ khác bởi tính cách mạnh mẽ, cương quyết và lúc nào cũng đứng mũi chịu sào. Sự kiện ồn ào nhất và cũng tươi đẹp nhất của Kim Cương có lẽ là mối tình đơn phương mà thi sĩ Bùi Giáng dành cho bà suốt 40 năm. Nhà thơ “điên” đã viết ra những áng thơ tuyệt tác nhất để dành cho mối tình trong mộng của mình là Kim Cương, từ lúc còn thanh niên cho đến tận khi qua đời.

    Theo phunutoday

  • Nam Phương Hoàng Hậu

    NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT DUY NHẤT MẶC ÁO VÀNG TRONG TRIỀU ĐÌNH

    Năm 1932 vua Bảo Đại về nước sau mười năm học tập ở Pháp. Bảo Đại (sinh 1913) là một ông vua đẹp trai, có Tây học, ham thích thể thao, săn bắn và âm nhạc, là hình ảnh lý tưởng của con gái Việt Nam, đặc biệt là con gái Huế thời bấy giờ và mãi nhiều năm về sau. Nhiều nhà quyền quý, có con gái đều nhắm đến vị Hoàng đế trẻ tuổi này.

    Sau ngày Bảo Đại về nước, bà Từ Cung – mẹ đẻ của vua Bảo Đại, đã chọn cô Bạch Yến con ông Phó bảng Nguyễn Đình Tiến quê ở làng Chí Long (Phong Điền, Thừa Thiên) để chuẩn bị tiến cung. Cô Bạch Yến được dạy đàn ca, thơ phú, dạy ăn nói, đi lại cho đúng với lễ nghi trong cung cấm. Hằng ngày cô được tắm gội bằng sữa dê để giữ làn da đẹp. Nhưng rồi thật bẽ bàng, cuối cùng cô Bạch Yến đã không được Bảo Đại lưu ý.

    Bởi vì Bảo Đại đã yêu cô Nguyễn Hữu Thị Lan (sinh 1914), con một nhà hào phú Nam bộ là ông Nguyễn Hữu Hào (gốc Gò Công). Bà còn là cháu ngoại ông Lê Phát Đạt, tức Huyện Sỹ – người giàu nhất Nam bộ đầu thế kỷ XX, Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh đẹp, từng ba năm liền đạt giải hoa hậu Đông Dương.
    Tuy nhiên, với quyết định này của nhà vua, đã khiến Thái Hậu Từ Cung vô cùng phiền lòng, còn triều đình như phải đối mặt với một cơn sóng dữ.
    Bà Từ Cung bày tỏ không đồng tình việc Bảo Đại đòi lấy cô Nguyễn Hữu Thị Lan, vì tuy là con nhà giàu nhưng cha mẹ không có chức tước gì trong triều đình. Huống chi lại theo đạo Công giáo!.

    Nam Phương hoàng hậu trong triều phục năm 1934
    Nam Phương hoàng hậu trong triều phục năm 1934


    Bảo Đại còn cứng rắn thưa với mẹ rằng, nếu không lấy được Nguyễn Hữu Thị Lan thì thà ở vậy suốt đời. Vua cũng cam kết Hoàng hậu sẽ thắp nhang cúng vái tổ tiên theo đúng phong tục tập quán của người Việt.

    Người đứng đầu Tôn Nhân Phủ là Tôn Thất Hân lại càng phản đối kịch liệt. Tôn Thất Hân nêu lý do: “Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì không thể chấp nhận được”.
    Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu”.

    Tôn Thất Đàn, cựu thượng thư bộ Hình định thảo một kiến nghị có chữ ký của các đại thần đứng đầu các Bộ và các nha phủ quan trọng trong triều yêu cầu Nhà vua nên từ hôn với Nam Phương. Bản thân ông và bạn bè còn nghĩ đến buộc Nam Phương bỏ Công giáo theo đạo Phật pha trộn với đạo Lão đang thịnh hành ở Việt Nam nếu cứ lấy Bảo Đại. Vị cựu thượng thư còn nói thêm có một vài vị quan quyền cao đức trọng tỏ ý thà chết còn hơn được thấy việc hôn nhân này vi phạm những nguyên tắc của nhà nước quân chủ.

    Nhưng cuối cùng do sự quả quyết của Bảo Đại, bà Từ Cung và các quan đình đành phải nghe theo vua.

    Ngày 20/3/1934, hôn lễ được tổ chức tại Huế. Khi đó, Bảo Đại 21 tuổi, Nguyễn Hữu Thị Lan 19. Bốn ngày sau, lễ Tấn Phong Hoàng Hậu rất trọng thể ở Điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Lan tước Nam Phương Hoàng Hậu.

    Việc phong hoàng hậu này cũng lại là một biệt lệ, vì bà cùng với Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, chính thất của Nguyễn Thế Tổ Gia Long hoàng đế, là 2 vị Hoàng hậu duy nhất trong hoàng tộc nhà Nguyễn mang tước vị Hoàng hậu khi còn sống.

    Bảo Đại giải thích hai chữ Nam Phương như sau: “Tôi đã chọn tên trị vì của hoàng hậu mới là Nam Phương, có nghĩa là “Hương thơm của miền Nam” và tôi đã ra một chỉ dụ, đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng, là màu dành riêng cho Hoàng đế”.

    Với tư cách hoàng hậu, Nam Phương đã giúp cho vua Bảo Đại trong các hoạt động ngoại giao, đón tiếp các quốc khách, giao thiệp với Pháp. Nam Phương là vị Đệ nhất phu nhân Việt Nam đầu tiên được giao phụ trách các công việc xã hội, làm khuyến học, khen thưởng học sinh giỏi, giúp đỡ người nghèo, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội.
    Hoàng hậu Nam Phương có với Bảo Đại 5 người con. Hai hoàng tử và ba công chúa.

    Nam Phương Hoàng hậu rời Việt Nam năm 1947. Những năm cuối đời, bà sống lặng lẽ cùng các con tại Perche, một làng cổ ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Limousin nước Pháp. Bà mất ngày 14 tháng 9 năm 1963, đám tang được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ, thưa thớt, vắng vẻ. Bên ngôi mộ đơn sơ có tấm bia khắc chữ Pháp:

    CI REPOSE L’IMPÉRATRICE D’ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN
    (Đây là nơi an nghỉ của Hoàng hậu nước An Nam, nhũ danh Maria Têrêsa Nguyễn Hữu Thị Lan)

    Loạt Ảnh Nam Phương Hoàng Hậu ở cuối bài viết này!
    Vatican (July 20, 1939) – Hoàng hậu Nam Phương
    Vatican (July 20, 1939) – Hoàng hậu Nam Phương
    VATICAN – The Empress of Annam received at Vatican – July 20, 1939
    VATICAN – The Empress of Annam received at Vatican – July 20, 1939
    Tràng An báo, Số 226, 4 Tháng Sáu 1937 — Yết kiến Nam Phương Hoàng hậu
    Tràng An báo, Số 226, 4 Tháng Sáu 1937 — Yết kiến Nam Phương Hoàng hậu
    Tem Nam Phương Hoàng Hậu
    Tem Nam Phương Hoàng Hậu
    Souverains et notabilites d’Indochine (8) – THÁI TỬ BẢO LONG
    Souverains et notabilites d’Indochine (8) – THÁI TỬ BẢO LONG
    Souverains et notabilites d’Indochine (5) NAM-PHƯƠNG HOÀNG-HẬU
    Souverains et notabilites d’Indochine (5) NAM-PHƯƠNG HOÀNG-HẬU
    Sa Majesté Nam Phuong impératrice d´Annam (Photographe_ Tang Vinh à Hué)
    Sa Majesté Nam Phuong impératrice d´Annam (Photographe_ Tang Vinh à Hué)
    S.M. Nam-Phương Impératrice d’Annam
    S.M. Nam-Phương Impératrice d’Annam

    Souverains et notabilites d’Indochine (2)Portraits de Nam Phuong, impératrice d’Annam

    Pope Pius XII, Bao Dai king of Annam, his wife and his retinue on September 9, 1950 in the Vatican
    Pope Pius XII, Bao Dai king of Annam, his wife and his retinue on September 9, 1950 in the Vatican.
    September 09, 1950| Credit: Keystone-France
    Pope Pius XII
    https://en.wikipedia.org/wiki/Pope_Pius_XII
    Paris, France Ca. 1933 – Nam Phương Hoàng Hậu cùng các con viếng thăm trường Couvent des Oiseaux nơi bà từng theo học
    Nam Phuong HH cùng các con vi?ng tham tru?ng Couvent des Oiseaux noi bà t?ng theo h?c
    FRANCE – CIRCA 1933: Nam Phuong, empress of Annam, wife of Bao Dai with her children at the “couvent des Oiseaux”. 62, Ponthieu’s street where she was educated. (Photo by Roger Viollet Collection/Getty Images)
    Emperor Bao Dai And Wife Of South Vietna
    Paris, France — 10/23/1955-Paris, France: Emperor Bao Dai of South Vietnam and his wife appear before newsmen for an interview in their Paris apartment the day before the election in his country deciding between him and premier Ngo Dinnh Diem. Voters in South Vietnam were apparently voting overwhelmingly voting in favor of the primier Oct. 23. The Primier was United States supported, and the emperor Payboy hasn’t been in his native land form two years. — Image by © Bettmann/CORBIS
    Nam Phương Hoàng hậu với Thái tử Bảo Long và công chúa Phương Liên dạo chơi trong công viên
    Nam Phương Hoàng hậu với Thái tử Bảo Long và công chúa Phương Liên dạo chơi trong công viên
    Nam Phương Hoàng Hậu viếng thăm La Mã 21-7
    Nam Phương Hoàng Hậu viếng thăm La Mã 21-7
    Nam Phương và hoàng tử Bảo Thắng
    Nam Phương và hoàng tử Bảo Thắng
    Nam Phương ngày Lễ tấn phong Hoàng hậu
    Nam Phương ngày Lễ tấn phong Hoàng hậu
    Nam Phương Hoàng Hậu và Vua Bảo Đại chụp tại Hôtel Westminster ở Le Touquet France năm 1938
    Nam Phương Hoàng Hậu và Vua Bảo Đại chụp tại Hôtel Westminster ở Le Touquet France năm 1938
    Nam Phương Hoàng hậu thời còn là nữ sinh du học tại Pháp
    Nam Phương Hoàng hậu thời còn là nữ sinh du học tại Pháp

    Nam Phương Hoàng hậu

    Nam Phuong, the Bao Dai’s spouse, have just receiv
    UNSPECIFIED – CIRCA 1925: Nam Phuong, the Bao Dai’s spouse, have just received the cross of commander of the public health. (Photo by Harlingue/Roger Viollet/Getty Images)
    Nam Phuong, the Bao Dai’s spouse, in a Parisian pr
    FRANCE – CIRCA 1925: Nam Phuong, the Bao Dai’s spouse, in a Parisian private school. (Photo by Harlingue/Roger Viollet/Getty Images)

    Nam Phuong (1913), wife of Bao Dai, Annam’s empress. France, 1949 Nam Phuong (1913), wife of Bao Dai, Annam’s empress. France, 1949 (4) Nam Phuong (1913), wife of Bao Dai, Annam’s empress. France, 1949 (3) Nam Phuong (1913), wife of Bao Dai, Annam’s empress. France, 1949 (2)

    Lăng Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào (cha của Nam Phương hoàng hậu) tại Đà Lạt
    Lăng Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào (cha của Nam Phương hoàng hậu) tại Đà Lạt
    KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY MẤT CỦA NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU (1963)
    KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY MẤT CỦA NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU (1963)
    Indochine 1934 – LE MARIAGE DE L’EMPEREUR D’ANNAM
    Indochine 1934 – LE MARIAGE DE L’EMPEREUR D’ANNAM
    INDOCHINE (2 Jan 1941) – PRINCE ANNAM
    INDOCHINE (2 Jan 1941) – PRINCE ANNAM
    Indochine – Carte-Photo – Sa Majesté Nam Phuong impératrice d´Annam (Photographe_ Tang Vinh à Hué)
    Indochine – Carte-Photo – Sa Majesté Nam Phuong impératrice d´Annam (Photographe_ Tang Vinh à Hué)
    Huế 1936 – lễ giới thiệu Thái Tử Bảo Long, con trưởng nam vua Bảo Đại
    Huế 1936 – lễ giới thiệu Thái Tử Bảo Long, con trưởng nam vua Bảo Đại
    Hoàng hậu Nam Phương với Hoàng tử Bảo Long và Công chúa Phương Mai
    Hoàng hậu Nam Phương với Hoàng tử Bảo Long và Công chúa Phương Mai
    Hoàng hậu Nam Phương với 5 người con tại lâu đài Thorenc, TP Cannes, Pháp
    Hoàng hậu Nam Phương với 5 người con tại lâu đài Thorenc, TP Cannes, Pháp
    Hoàng hậu Nam Phương với 5 người con tại lâu đài Thorenc (thành phố Cannes, Pháp), khoảng 1950
    Hoàng hậu Nam Phương với 5 người con tại lâu đài Thorenc (thành phố Cannes, Pháp), khoảng 1950
    Hoàng hậu Nam Phương (1914) – hoàng hậu cuối cùng của chế độ quân chủ tại VN
    Hoàng hậu Nam Phương (1914) – hoàng hậu cuối cùng của chế độ quân chủ tại VN
    Hoàng gia Annam viếng thăm Điện Elysee trong thập niên 1930
    Hoàng gia Annam viếng thăm Điện Elysee trong thập niên 1930
    Gia đình vua Bảo Đại với Đức Từ Cung, mẹ của vua
    Gia đình vua Bảo Đại với Đức Từ Cung, mẹ của vua

    LA DERNIÈRE IMPÉRATRICE D’ANNAM – Nam Phuong la sacrifiée – Récit romancé de la première reine vietnamienne INDOCHINE – CIRCA 1943 – S.M. NAM-PHUONG, Impératrice d’Annam – Tem Nam Phương Hoàng Hậu do họa sĩ Bùi Trang Chước vẽ Impératrice d’Annam – Nam Phương Hoàng Hậu Hoàng hậu Nam Phương Hoàng hậu Nam Phương trước 1945 Hoàng hậu Nam Phương ngồi xe kéo đi trong Đại nội Hoàng hậu Nam Phương mặc âu phục, đầu những năm 1950 Hoàng hậu Nam Phương (2)

    The Imperial Family Of A Nice Annam 1950
    FRANCE – JUNE 21: The Imperial Family Of A Nice Annam 1950 (Photo by Keystone-France/Gamma-Keystone via Getty Images)
    FRANCE 1939_ Nam Phuong, empress of Annam, wife of Bao Dai with her children at the _Couvent des Oiseaux_ where she was educated
    Nam Phuong HH cùng các con vi?ng tham tru?ng Couvent des Oiseaux noi bà t?ng theo h?c
    FRANCE – CIRCA 1933: Nam Phuong, empress of Annam, wife of Bao Dai with her children at the “couvent des Oiseaux”. 62, Ponthieu’s street where she was educated. (Photo by Roger Viollet Collection/Getty Images)
    En avion au-dessus de VERNEUIL sur SEINE – Le couvent des oiseaux, le parc noir
    En avion au-dessus de VERNEUIL sur SEINE – Le couvent des oiseaux, le parc noir
    EN AVION AU DESSUS DU COUVENT DES OISEAUX
    EN AVION AU DESSUS DU COUVENT DES OISEAUX
    Empress Nam Phuong, wife of Emperor Bao Dai of Vietnam, waiting to be received by the Pope during a visit to the Vatican, Italy, July 28th 1954
    Empress Nam Phuong, wife of Emperor Bao Dai of Vietnam, waiting to be received by the Pope during a visit to the Vatican, Italy, July 28th 1954. (Photo by Keystone/Hulton Archive/Getty Images)
    ĐÁM CƯỚI VUA BẢO ĐẠI 16_4_1934
    ĐÁM CƯỚI VUA BẢO ĐẠI 16_4_1934
    Nam Phuong, the Bao Dai’s spouse, in her father’s
    VIETNAM – CIRCA 1925: Nam Phuong, the Bao Dai’s spouse, in her father’s property, near Saigon. (Photo by Harlingue/Roger Viollet/Getty Images)
    Dalat – Le Tombeau du Duc Long-My – Lăng mộ Long Mỹ Quận công (thân phụ của Nam Phương Hoàng hậu)
    Dalat – Le Tombeau du Duc Long-My – Lăng mộ Long Mỹ Quận công (thân phụ của Nam Phương Hoàng hậu)
    Chân dung Hoàng hậu Nam Phương
    Chân dung Hoàng hậu Nam Phương
    Cha bề trên Eugène Larouche (1892) cùng Nam Phương Hoàng hậu và các con tại dòng Chúa Cứu Thế – Huế 1947
    Cha bề trên Eugène Larouche (1892) cùng Nam Phương Hoàng hậu và các con tại dòng Chúa Cứu Thế – Huế 1947
    Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương
    Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương
    Annam’s Empress and Children
    Annam’s Empress and Children — Image by © Bettmann/CORBIS
    Annam Emperor Bao Dai’s Marriage 1934
    Annam Emperor Bao Dai’s Marriage 1934
    Annam Dissatisfied With Young Emperor’s Fiance – The Lewiston Daily Sun – Mar 20, 1934
    Annam Dissatisfied With Young Emperor’s Fiance – The Lewiston Daily Sun – Mar 20, 1934
    ANNAM – TRUNG KỲ – Voi của vua – Hoàng hậu Annam trong lễ phục – Hoàng đế Annam Bảo Đại
    ANNAM – TRUNG KỲ – Voi của vua – Hoàng hậu Annam trong lễ phục – Hoàng đế Annam Bảo Đại
    ANNAM – S.M. BAO DAI, EMPEREUR D’ANNAM
    ANNAM – S.M. BAO DAI, EMPEREUR D’ANNAM

    ANNAM – L’ IMPÉRATRICE EN COSTUME DE CÉRÉMONIE – Hoàng hậu Annam trong lễ phục

    Tháng Tám 1933
    Ái tình và tôn giáo: Chung quanh chuyen cô Mariette Jeanne Nguyen- Huu-Hào làm Hoàng hâu nuoc Nam
    http://baochi.nlv.gov.vn/baochi/cgi-bin/baochi?a=d&d=HtCq19330817.2.4&e=——-vi-20–1–img-txIN——#
    1954 President Coty’s WIfe Talks with Empress Nam-Phuong – Press Photo
    1954 President Coty’s WIfe Talks with Empress Nam-Phuong – Press Photo

    nam phuong hoang hau

    1945 ĐẾ QUỐC VIỆT NAM – Hoàng đế Bảo Đại & Nam Phương Hoàng Hậu (mẫu tem in thử)
    1945 ĐẾ QUỐC VIỆT NAM – Hoàng đế Bảo Đại & Nam Phương Hoàng Hậu (mẫu tem in thử)
    1942 Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương đứng xem cuộc diễn hành của xứ Chùa Tháp chào mừng Hoàng gia Việt
    1942 Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương đứng xem cuộc diễn hành của xứ Chùa Tháp chào mừng Hoàng gia Việt
    The Empress Of Received At Vatican Annam 1939
    The Empress Of Received At Vatican Annam 1939
    1939 – Đức Từ Cung, Hoàng Đế Bảo Đại, Hoàng Hậu Nam Phương, Hoàng Tử Bảo Long và các quan chức Nam triều
    1939 – Đức Từ Cung, Hoàng Đế Bảo Đại, Hoàng Hậu Nam Phương, Hoàng Tử Bảo Long và các quan chức Nam triều
    1934 Arrivo di NAM PHUONG, Imperatrice consorte dell’ANNAM
    1934 Arrivo di NAM PHUONG, Imperatrice consorte dell’ANNAM
    22 luglio 1939 – Roma – S.M. L’IMPERATRICE DELL’ANNAM
    22 luglio 1939 – Roma – S.M. L’IMPERATRICE DELL’ANNAM
    12 Empire of Vietnam 1945 Unissued Empress Nam Phuong Stamp Set
    Bộ tem “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” hình Nam Phương Hoàng Hậu gồm 12 con tem, mẫu in thử năm 1945, chưa phát hành.

    Hình ảnh Việt Nam Tổng hợp

  • Ai xây chợ Bình Tây ?

    Ai xây chợ Bình Tây ?

    Quách Đàm (1863-1927) khởi nghiệp từ nghề mua bán ve chai, sau đó kèm thêm việc mua bán da trâu, vi cá và bong bóng cá. Khi đã có một số vốn, Quách Đàm bước vào nghề mua bán lúa gạo và trở nên giàu có. Ông luôn luôn làm việc bằng sức lao động chân chính, và ông đã tạo nên Thông Hiệp, một cơ sở kinh doanh danh tiếng ở khu vực Chợ Lớn ngày ấy. là một thương gia giàu có, và là người có công xây dựng nên chợ Bình Tây hay “Chợ Lớn Mới”, sau khi Chợ Cũ (ở vị trí nay là Bưu điện quận 5) bị thiêu tàn trong một vụ cháy. Chợ Bình Tây được khởi công từ năm 1928 và hoàn thành năm 1930.

    quach dam xay cho binh tay
    Nguyên thủy, đây là một vùng đất ruộng, được Quách Đàm mua lại, chuyển đất ruộng thành đất thổ trạch, rồi tự mình xuất tiền để xây dựng một khu chợ đồ sộ, được người dân quen gọi là chợ Quách Đàm.
    Chợ được xây cất bằng xi măng cốt thép theo kỹ thuật phương Tây, nhưng lại mang đậm nét kiến trúc Trung Quốc. Tháp giữa vươn cao có 4 mặt đồng hồ, có “lưỡng long chầu châu”, 4 góc có 4 chòi nhỏ, toàn bộ mái chợ lợp bằng ngói âm dương theo kiểu chồng lớp để tạo sự thông thoáng. Riêng mái ở các góc có nét uốn lượn theo kiểu chùa chiền phương Đông. Chính giữa chợ có khoảng sân trời rộng rãi, thoáng mát.
    Bên cạnh khu chợ, ông Quách Đàm cũng cho xây dựng khu phố nhà lầu theo kiểu phố buôn bán và vận động các quan chức cao cấp của Nam Kỳ, kể cả Thống đốc Cognac để dời Chợ Lớn về đây. Bên trong chợ, ông cũng cho đặt tượng đồng của mình nơi cửa chính. Tượng Đàm mặc triều phục Mãn Thanh, nón nhỏ, áo ngắn phủ trên một chiếc áo thụng, đầu để bím, tay cầm một bản đồ (ảnh đầu tiên) dưới bệ đá trắng có mấy con giao long bằng đồng phun vòi nước bạc.
    Tuy nhiên, thời kỳ đầu khi chợ mới được xây dựng, dù đồ sộ, nhưng xung quanh dân cư còn thưa thớt, hơn nữa, các thương gia người Hoa buôn bán tại Chợ Lớn Cũ vốn đã yên nơi yên chỗ cũng không muốn dời phố mới xa xôi thêm hao tốn, vì vậy Chợ Quách Đàm chưa sầm uất như bây giờ.
    1927 Quách Đàm chết, đám ma lớn không đám nào bằng. không thể đếm. Đủ thứ nhạc Tây, Tàu, Ta, Miên… Khách đi đường có việc, miễn nối gót theo đám ma vài bước là có người lễ phép đến dâng một ly nước dừa hay la ve và riêng tặng một quạt giấy có kèm một tấm giấy “ngẫu” (năm đồng bạc) đền ơn có lòng đưa đón.