Kiếm (劍) thuộc về Binh-Khí Sắc Bén mà con người lưu-tâm nghiên-cứu nhiều nhất về việc đúc rèn. Và cũng là binh-khí lừng-danh của Ngô-Việt từ Thời-Đại Xuân-Thu (722-481 trước CN).
Trong sách Khảo Công Ký (考 工 記) có ghi rằng : « Ngô-Việt chi Kiếm, biến hồ kỳ địa, nhi phi năng lương» (Kiếm của Ngô Việt, đất nào cũng có, vừa đẹp lại tốt).
Kiếm Việt Nam
Ngoài việc sử-dụng trong Chiến-tranh, Kiếm còn được sử-dụng về Biểu-tượng như :
1) – Biểu-tượng Quyền-hành trong Quốc-gia ; đó là Phương Thượng Bảo Kiếm ( 芳 上 寶 劍 ) mà Vua ban cho Quan Đại-Thần được phép « Tiền Trảm Hậu Tấu ».
2) – Biểu-tượng Tước-vị trong Triều-đình ; đó là tùy theo Phẩm-bậc, mà Kiếm và Võ Kiếm đuợc cẩn nạm khác nhau về đá quí và bạc vàng.
3) – Biểu-tượng Giai-cấp trong Xả-hội ; đó là Kiếm của thế-gia Hoc-sĩ.
4) – Biểu-tượng Huyền-năng trong Pháp-thuật ; đó là những thanh Kiếm của Đạo-Gia có khả năng trừ Ma giết Quỉ, tàng-hình, cách-không trảm-thủ.
Đến thời Nhà HẬU-LÊ(1428~1527) bên Đại-Việt và thời Nhà MINH (MING 1368~1644) bên Trung-Hoa, thì Kiếm gồm có hai loại là 1. Loại Kiếm Thẳng và 2. Loại Kiếm Cong (gọi là Gươm) :
1. – Loại Kiếm Thẳng được chia làm hai thứ tùy theo Cạnh Bén : A – Loại Kiếm Thẳng hai cạnh bén, cũng được chia ra làm hai thứ tùy theo hình-dáng của Mũi Kiếm, gọi là Kiếm-Phong : a) Văn Kiếm-Phong Kiếm : Mũi Kiếm hình bầu-dục ; b) Võ Kiếm-Phong Kiếm : Mũi Kiếm hình Tam-Giác.
Ngoài ra, loại Kiếm Thẳng hai cạnh bén còn dược chia ra làm hai thứ tùy theo chiều dài của Tuệ Kiếm (彗 劍) gắn sau đốc chuôi Kiếm : a) Đoản-Tuệ Kiếm ; b) Trường-Tuệ Kiếm. B – Loại Kiếm Thẳng một cạnh bén, cũng được chia ra làm hai thứ tùy theo hình-dáng của Mũi Kiếm, gọi là Kiếm-Phong : a) Kiếm-Phong Thẳng ; b) Kiếm-Phong Vếch lên (Người Nhật gọi là Ikari no KIssaki). Đây là loại Kiếm đặc-thù của Đại-Việt.
2. – Loại Kiếm Cong (gọi là Gươm) được chia làm hai thứ tùy theo phần cong của lưỡi Kiếm : A – Loại Kiếm Cong từ Giữa Thân Kiếm tới Mũi Kiếm ; đây là loại Kiếm Cong của đại đa-số các nước ; B – Loại Kiếm Cong từ Giữa Thân Kiếm tới Chắn Kiếm ; đây là loại Kiếm Cong đặc-thù của Nhật-Bản, gọi là « Katana ».
Thanh Gươm « Talwar » nổi tiếng của Ấn-Độ.
(Loại Gươm Cong từ Giữa Thân Gươm tới Mũi Gươm)
(Tín-dụng Ảnh : India Netzone)
Thanh Gươm « Katana » lừng danh của Nhật-Bản.
(Loại Gươm Cong từ Giữa Thân Gươm tới Chắn Gươm)
Khái-Quát Tiến-Trình của Loại Kiếm Thẳng :
Loại Kiếm Thẳng là loại xuất-hiện đầu tiên từ thời Đông-Châu – 東周 (771~246 TCL), dùng làm binh-khí tùy-thân và để cận-chiến trên chiến-xa, phôi-thai từ lưỡi Mâu bằng đồng và Dao ngắn bằng đồng .
« Mâu Đồng » thời cổ xưa
« Dao Đồng » thời cổ xưa
Thời ĐÔNG-CHÂU – 東周 (771~246 TCL) là giai-đoạn về Kiếm đúc bằng đồng, lưỡi thẳng có hai bề bén và chiều dài chỉ khoảng 40 cm.
Kiếm đồng hai bề bén thời Nhà ĐÔNG-CHÂU (771~246 TCL)
Đến « Xuân-Thu Thời-Đại – 春 秋 時 代 » (722-481 trước CN) thì Kiếm được đúc bằng Đồng phức-hợp, lưỡi thẳng, bản rộng có hai bề bén và dài gần 60 cm, chủ yếu dùng để chém nhiều hơn đâm. Đây là giai-đoạn xuất-hiện những thanh Bảo-Kiếm đầu tiên trong Lịch-Sử Viễn-Đông, do Âu-Dã-Tử ( 歐 冶 子 Ouye Zu) và Can-Tương (干 將 Ganjiang), người đất NGÔ-VIỆT đúc rèn.
« Kiếm Đồng thời Xuân-Thu »
(722-481 trước CN)
« Kiếm Đồng thời Xuân-Thu »
của Việt-Vương Câu-Tiễn
(722-481 trước CN)
Kiếm Đồng (dài 0,60 m) với hai cạnh bén, khai-quật tại Đông-Sơn (Thanh-Hóa – Việt-Nam)
Định-thì bởi Karlgren : 450~230 Av. J.C.
(A et A’ : Cán Kiếm và của hai mặt của Chắn Kiếm ; B : Tiết-diện của lưỡi Kiếm ; C : Chuôi ; D : Trắc-diện của Chắn Kiếm)
– Hình vẻ của Louis Pageot, 1924. Manuel d’Archéologie d’Extrême-Orient, L. Bezacier-
Sang đến Thời Chiến-Quốc, đời Nhà TẦN (221~206 TCL) thì Kiếm được đúc theo dạng Trường-Kiếm, lưỡi thẳng có hai bề bén, nhưng bản Kiếm hẹp hơn bản KIếm thời Xuân-Thu, tiện-lợi để chém cũng như để đâm. Thân Kiếm có tiết-diện hình quả trám có tám cạnh, rồi bớt còn Sáu cạnh, và dài đến 1,40 m. Đây là một giai-đoạn lịch-sử của loại Trường-Kếm sử-dụng bằng hai tay, gọi là «Song-Thủ Kiếm ».
Giản-đồ « Trường-Kiếm với tiết-diện Bát-Giác » có hai cạnh bén.
Thời Nhà HÁN (206 TCL~220 CL)
« Trường-Kiếm » hai cạnh bén rèn đúc bằng hợp-chất Đồng pha Kẽm và Crom. Thời Nhà TẦN (221~206 tr CL)
Giai-thoại TẦN-Thủy Hoàng-Đế đã phải nhờ có người chỉ cho cách xoay bao Kiếm ra sau lưng mới rút được Kiếm để chém Tráng-Sĩ Kinh-Kha, chính là vì lý-do chiều dài của thanh Kiếm này.
Qua thời Nhà Tiền-HÁN còn được gọi là Nhà Tây-HÁN (206~9 tr. CL), người ta bắt đầu cải-tiến nghệ-thuật đúc Kiếm Hai Cạnh Bén bằng Hợp-Kim Đồng pha Kẽm và Crom thời Nhà TẦN, và cùng sáng chế loại Kiếm Một Cạnh Bén có Chuôi Hình Khoen.
Kiếm bằng Hợp-Kim Đồng-Thiếc-Crom, một cạnh bén, có Chuôi hình Khoen,
Thời Nhà Tiền-HÁN (206 tr.CL~9 tr.CL),
thủy-tổ đầu tiên của Trường Kiếm ĐẠI-VIỆT, lưỡi thẳng, một cạnh bén
và của Cổ-Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Hira Zukuri Chokuto x ».
Đến thời Nhà Hậu-HÁN còn được gọi là Nhà Đông-HÁN (23~220 CL), người ta bắt đầu đúc Kiếm bằng Sắt Thép, thân Kiếm có tiết-diện hình quả trám có Tám cạnh, rồi bớt còn Sáu cạnh, xong đến tiết-diện hình quả trám có Bốn Cạnh : hai cạnh bén gọi là Nhận (刃) và hai sống hai bên gọi là Tích (脊), người Nhật gọi nó là Shinogi.
« Trường-Kiếm » hai bề bén bằng Sắt Thép
Thời Nhà Hậu-HÁN (23~220 CL)
Vào thời Nhà TÙY (SUY 581~618 CL), thì nghệ-thuật rèn đúc Kiếm bằng Thép Quán-Cương của Trung-Hoa đã bắt đầu lên đến tuyệt-đỉnh, chỉ thua nghệ thuật đúc Kiếm của thời Nhà Mérovingiens (500~751 CL) bên Tây-phương mà thôi.
« Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, hai Cạnh Bén
của thời Triều-Đại Nhà MEROVINGIENS (500~751 CL) bên Pfasp-Quốc
(Phục-dựng bởi Gaël Fabre theo tài-liệu lịch-sử của Thư-Viện Quốc-Gia Pháp)
Đặc-điểm thanh Kiếm thời Nhà TÙY là thân Kiếm thẳng có một bề bén với hai sống dọc ngang (một sống mỗi bên) gọi là Tích ((脊) – tiếng Nhật gọi là Shinogi – nằm gần phía cạnh bén, nghĩa là nằm xa phía sống lưng Kiếm (người Nhật gọi đó là “KihiraZukuri“) ; cho nên loại Kiếm Nhà TÙY này rất nặng.
« Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, một Cạnh Bén,
rèn đúc năm 616 CL, thời Nhà TÙY (SUY 581~618 CL),
thủy-tổ của Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Kihira Zukuri Chokuto ».
(bão-tồn tại Đền Shitenno, tại Quận Osaka, Japan)
Đến thời Nhà ĐƯỜNG (TANG 618~907 CL), nghệ-thuật rèn đúc Kiếm đã đến mức vô-tiền khoáng-hậu ở Đông-phương và tỏa rộng sự chi-phối đến tất-cả những nước lân-cận đồng văn-hóa, nghĩa là Nhật-Bản, Việt-Nam, Đại-Hàn và Tây-Tạng.
Phải chờ đến thời-đại YOSHINO (thế-kỷ 14) bên Nhật-Bản, người ta mới đúc lại được những thanh Bảo-Kiếm tương-đương nhưng thuộc về loại Kiếm Cong, tức là Gươm, dễ rèn trui hơn loại Kiếm Thẳng một bề bén.
Đặc-điểm thanh Kiếm thời Nhà ĐƯỜNG là thân Kiếm thẳng có một bề bén với hai sống dọc ngang (một sống mỗi bên) gọi là Tích ((脊), nằm xa phía cạnh bén, nghĩa là nằm gần phía sống lưng Kiếm (người Nhật gọi đó là “ShinogiZukuri“) ; cho nên loại Kiếm thời Nhà ĐƯỜNG này không nặng bằng loại Kiếm thời Nhà TÙY và trở nên dễ-dàng huy-động hơn.
« Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, một Cạnh Bén,
thời Nhà ĐƯỜNG » (618~907 CL),
thủy-tổ của Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Shinogi Zukuri Tachi »
và « Trường Kiếm ĐẠI-VIỆT », một bề bén, mũi vếch (Ikari o Kissaki Tsurugi).
Về sau, thời Nhà ĐƯỜNG còn sáng chế thêm một loại Kiếm thẳng có hai cạnh bén, một cạnh bén dài nằm về phía lưỡi Kiếm gọi là Hạ-nhận (下 刃) và một cạnh bén ngắn đằng mũi Kiếm, về phía sống lưng Kiếm, gọi là Thượng-nhận (上 刃).
« Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, hai cạnh bén (Hạ-Nhận và Thượng-Nhận),
Thời Nhà ĐƯỜNG (618~907 CL),
thủy-tổ của hai loại Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Moroha Zukuri Tsurugi »
và « Kissaki Moroha Zukuri Tachi – “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” ».
« Trường Kiếm Song-Thủ và Đơn-Thủ của ĐẠI-VIỆT » gắn Lưỡi bằng Thép có Cán bằng Đồng đúc liền với Chắn kiếm và Chuôi kiếm chạm-trổ.
(Thế-Kỷ 13)
(Tín-dụng ảnh : Nguyễn Ngọc Phương Đông)
« Trường Kiếm ĐẠI-VIỆT » một cạnh bén, mũi vếch
(Thế-Kỷ 15~19).
(Phục-dựng bởi Michel Souquet theo tài-liệu lịch-sử của Thư-Viện Quốc-Gia Pháp)
« Bảo-Kiếm MÃN-THANH » hai cạnh bén của Hoàng-Đế Càn-Long (1735-1796)
Triều Nhà THANH (QING 1644–1911).
« Kiếm ĐẠI-VIỆT » hai cạnh bén
(Thế-Kỷ 18~19).
Khái-Quát Tiến-Trình của Loại Kiếm Cong :
Loại Kiếm Cong (gọi là Gươm hoặc Đao), có một cạnh bén là loại xuất-hiện sau loại Kiếm Thẳng.
Thanh Kiếm Lưỡi Cong « Kissaki Moroha Zukuri Tachi – “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” » của Nhật-Bản với một cạnh bén dài nằm về phía lưỡi Kiếm gọi là Hạ-nhận (下 刃) và một cạnh bén ngắn đằng mũi Kiếm, về phía sống lưng Kiếm, gọi là Thượng-nhận (上 刃) là một chứng-cớ hùng-hồn sự thọ-hưởng chi-phối của loại Kiếm Thẳng hai cạnh bén từ thời Nhà ĐƯỜNG(TANG 618~907 CL).
Giản-đồ Lưỡi Kiếm Cong Nhật-Bản « Kissaki Moroha Zukuri Tachi »
– mang biệt-danh “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” –
(Thanh Gươm này đã từng là sỡ-hữu của Hoàng-Đế Kammu 781~ 806 JC).
Kiếm Lưỡi Cong Nhật-Bản « Kissaki Moroha Zukuri Tachi »
– mang biệt-danh “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” – (Phục-dựng bởi Yao Yilin theo tài-liệu lịch-sử của Hoàng-Gia Nhật-Bản ).
Về sau, Loại Kiếm Cong tiến-hóa thành Loại Gươm–Đao, có một cạnh bén. Nó dẫn-chứng hiển-nhiên sự thọ-hưởng chi-phối của loại Kiếm Thẳng một cạnh bén từ thời Nhà ĐƯỜNG(TANG 618~907 CL), và gồm có hai thứ, một thứ dùng theo Song-Thủ Kiếm và một thứ dùng theo Đơn-Thủ Kiếm :
1) Thứ Gươm dùng theo « Song-Thủ Kiếm » :
Đây là loại Kiếm Cong đã được người Nhật-Bản đưa lên mức tuyệt-đỉnh của nghệ thuật đúc rèn Kiếm, tương-đương với thời Nhà ĐƯỜNG (TANG 618~907 CL).
« Gươm-Katana » của NHẬT-BẢN dùng theo Song-Thủ Kiếm
Thời-Đại YOSHINO – Thế Kỷ 14
Chi-tiết Kiếm-Phong của « Gươm-Katana » NHẬT-BẢN dùng theo Song-Thủ Kiếm.
Thời-Đại YOSHINO – Thế Kỷ 14
« Trường-Đao TRUNG-HOA », thường gọi là Miêu-Đao (Miao-Dao) một cạnh bén, mũi vếch, dùng theo Song-Thủ-Kiếm
do Tướng Thích-Kế-Quang (1528-1587) sáng-chế cùng với Kiếm-Phổ « Tri Tân Dậu Đao-Pháp Thập-Ngũ Thức »
đặng khắc-phục Quân Mông-Cổ và Giặc Biển Đông (Ronin Nhật). Triều Nhà MINH (1364~1644)
.
« Gươm Đồng » một cạnh bén, dùng theo Song-Thủ Kiếm, của Đất GIAO-CHÂU.
(Tín-dụng ảnh : Nguyễn Ngọc Phương Đông)
« Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Song-Thủ Kiếm
Thế-Kỷ 18~19.
(Tín-dụng Ảnh : Nguyễn Ngọc Phưong-Đông)
« Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Song-Thủ Kiếm
Thế-Kỷ 18~19.
Ngự-Lâm Quân cầm Trường Gươm (dùng theo Song-Thủ Kiếm)
Triều Nhà NGUYỄN (1802-1945)
Trường Gươm (dùng theo Song-Thủ Kiếm) trong ngày Lễ Hội
hàng năm vào ngày mồng 10 tháng 03 ở Đền Đỏ
(Đền thờ Thánh-Mẫu Đạm Đồng Lương)
Thôn Sơn-Thọ, Xả Thái-Dương, Huyện Thái-Thụy, Tỉnh Nghệ-An.
2) Thứ Gươm dùng theo « Đơn-Thủ Kiếm » :
Đây là loại Kiếm Cong được thông-dụng nhất trên thế-giới. Loại Gươm này còn được gọi là «Đao » bên Trung-Hoa và được gọi là «Sabre » bên Âu-châu.
« Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Đơn-Thủ Kiếm Đại-Việt – Thế-Kỷ 18~19.
« Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Đơn-Thủ Kiếm
với một cạnh bén dài nằm về phía lưỡi Kiếm gọi là Hạ-nhận (下 刃)
và một cạnh bén ngắn đằng mũi Kiếm, về phía sống lưng Kiếm, gọi là Thượng-nhận (上 刃). Đại-Việt – Thế-Kỷ 18~19.
Thanh Bảo Kiếm
Gươm thiêng mài sắc tự bao giờ :
Ngắm lại lòng càng thấy ngẫn-ngơ !
Lưỡi Kiếm vẫn ngời màu nước biếc ;
Chuôi Gươm còn đượm nét bài Thơ.
Bao năm Kiếm báu hờn thư-án ;
Mấy thủa Gươm thiêng hận đợi chờ.
Ánh thép lung-linh như vẻ đón
Bóng người Kiếm-Khách thủa nào xưa…
Xe đạp ra đời từ giữa thế kỷ 19 nhưng chiếc xe đạp có hai bánh bằng có đường kính bằng nhau như ta thấy hiện nay mới chính thức ra đời ở Pháp vào năm 1885.
Bức tranh được họa vào những năm 1895 -1897 cho thấy Hoàng đế An Nam, tức vua Thành Thái bấy giờ (1887- 1907) là người Việt Nam đầu tiên sở hữu xe đạp.
Sự kiện trên được báo L’Illustration đương thời đã đăng bài kèm theo bức họa.
Vua Thành Thái sử dụng xe đạp chỉ để đi dạo trong hoàng thành trong lúc rãnh rỗi.
Quan sát xe đạp lúc nầy chưa có “gạc đờ bu” (chắn bùn), xe không sử dụng xích kéo mà dùng hai cây ” lắp” để truyền lực. Đèn xe lúc ấy chưa có dynamo và dường như được thắp sáng bằng dầu …mù u !
Theo Blogger Ngô Bá Dũng
Tuy vậy, vua Thành Thái không phải người Việt đầu tiên …đi xe đạp
Ai là người Việt Nam đi xe đạp đầu tiên? Cái này chưa ai biết chính xác!
Tấm hình xưa nhứt chụp vua Thành Thái đi xe đạp
Thành Thái không phải là người đi xe đạp đầu tiên, vì lúc đó ông ở Huế, mà chiếc xe đạp đầu tiên là nhập vô Sài Gòn và dân Sài Gòn đạp xe đạp đầu tiên.
Nam Kỳ đạp xe
Chiếc xe mà Pháp kêu là Bicyclette, Anh kêu là Bicycle,Tàu kêu自行车 Tư hành xa. Dân Nam Kỳ hay lấy hành động đặt tên: thấy ngồi đạp bằng hai cái chân nên đặt là “xe đạp”.
Những bộ phận của chiếc xe đạp được dân Nam Kỳ Vệt hóa hết. Đàng trước có cái tay lái kêu là guy-đông (guidon), dưới chân có bàn đạp pê-đan (pedale), ngồi trên yên là selle de vélo…
Rồi có cái vỏ xe les pneumatiques bằng cao su, ruột xe les chambres a air , phía sau có cái yên để chở người kêu là pọc-ba-ga (porte-bagages). Lại có sợi dây sên -gạc-đờ-sên (garde-chaine), hai cái vè chắn bùn bánh xe kêu là gạc-đờ-bu (garde-boue), căm xe là les rayons, líp xe (roue libre), rồi thắng xe là frein (phanh)….
Xe đạp xưa nhập nguyên chiếc từ Pháp qua ,nhãn của các hãng Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling…,mỗi xe đều có một cái ống bơm tay (pompe), một cái dynamo quay điện để sáng đèn đi ban đêm.
Xe đạp sau đó ra Bắc Kỳ
Nói xe đạp phải nhắc tới ông Nguyễn An Ninh hồi những năm 1926 làm báo La Cloche fêlée (Cái chuông rè). Ông thường mặc áo trắng, đi xe đạp, tay ôm mớ nhật trình, miệng rao bán khắp Sài Gòn.
Sau khi Pháp đóng cửa tờ báo, ông đạp xe đi bán dầu cù là, vừa bán vừa tuyên truyền chánh trị.
Đô thành Sài Gòn (tên gọi Sài Gòn thời trước năm 1975) mỗi sáng sớm có nhiều công chức đi làm bằng xe đạp, học trò đạp tới trường, tà áo dài trắng và chiếc xe đạp thành biểu tượng của học trò thời bấy giờ.
Xin đọc lại một đoạn văn của ông Hồ Biểu Chánh tả đô thành Sài Gòn hồi năm 1954 trong “Bức thơ hối hận”:
“ Buổi sớm mai, trong thủ đô Sài Gòn, cũng như trong vùng ngoại ô Bà Chiểu Ngã Năm, sự hoạt động của dân cư tạo thành một quang cảnh náo nhiệt cực điểm.
Quan Tượng Đài – đài thiên văn của triều Nguyễn – là một điểm tham quan thú vị dành cho những người muốn khám phá kiến trúc, lịch sử của kinh thành Huế xưa.
Vào năm 1827, dưới triều vua Minh Mạng, Quan Tượng Đài đã được xây dựng ở kinh thành Huế để làm nơi quan sát thiên văn, khí tượng, khí hậu, thời tiết của triều đình nhà Nguyễn.
Đài thiên văn này thuộc sự quản lý của Khâm Thiên Giám, là cơ quan có chức năng xem thiên văn, dự báo khí hậu thời tiết, làm lịch, coi đất, chọn ngày tốt… cho các hoạt động của triều đình cũng như dân chúng.
Vị trí của Quan Tượng Đài nằm ở thượng thành (mặt trên thành) góc Tây Nam Hoàng thành, thuộc phạm vi pháo đài Nam Minh (hiện thuộc địa phận phường Thuận Hoà, thành phố Huế).
Công trình có hai phần chính: phần nền đài và kiến trúc bên trên có tên là đình Bát Phong.
Nền đài gồm hai phần, phần trước là khối kiến trúc hình tứ giác có dạng tương tự như một pháo đài, phần sau là dãy bậc cấp thoai thoải dẫn lên trên mặt nền.
Đình Bát Phong nằm trên nền đài, là một tòa đình có 8 cạnh, hai tầng mái, được chống đỡ bằng 12 cột gỗ.
Từ nơi đây, các nhà chiêm tinh của cơ quan Khâm Thiên Giám sẽ dùng kính thiên văn để quan sát mặt trời, trăng và các tinh tú.
Các hiện tượng thời tiết thông thường như mưa, nắng, gió và bất thường như hạn hán, lũ lụt cũng được ghi nhận từ đây rồi báo cáo về cho vua nhằm có kế hoạch ứng phó trong triều đình và dân chúng.
Quan Tượng Đài là công trình dạng đài thiên văn thứ hai được ghi nhận trong lịch sử phong kiến Việt Nam, và là công trình duy nhất còn lại dấu tích.
Trước đó, vào thời Hậu Lê, ở Kinh đô Thăng Long đã có một đài thiên văn và cơ quan Khâm Thiên Giám, nhưng đã mất hoàn toàn dấu vết. Những gì còn lưu lại chỉ là một tên phố Khâm Thiên.
Cho tới những năm 1960, Quan Tượng Đài ở Huế vẫn còn tương đối nguyên vẹn. Sau đó, vì bị bỏ hoang và chịu tác động từ chiến tranh, công trình đã xuống cấp, hư hại nặng nề.
Từ tháng 10/2012 – 9/2013, Quan Tượng Đài đã được tu bổ phục hồi, trong đó, đình Bát Phong được phục dựng mới hoàn toàn theo kiến trúc cũ.
Ngày nay, nơi đây là một điểm tham quan thú vị dành cho những người muốn khám phá kiến trúc, lịch sử của kinh thành Huế xưa.
Có thể nói trống đồng Ngọc Lũ I là một kiệt tác được sáng tạo trong thời kỳ cực thịnh của văn hóa Đông Sơn.
Được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam ở Hà Nội, trống đồng Ngọc Lũ I được đánh giá là chiếc trống đồng đẹp nhất của văn hóa Đông Sơn từng được tìm thấy từ trước đến nay.
Trống còn khá nguyên vẹn, có hình dáng cân đối, đường kính 79 cm, cao 63 cm. Trống được chia làm 3 phần: Tang trống nở phình, thân trống hình trụ đứng, chân trống hình nón cụt hơi choãi.
Nét đặc sắc nhất của trống đồng Ngọc Lũ I là hệ thống hoa văn hết sức phong phú, được chia làm hai loại là hoa văn hình học và hoa văn người, động vật và đồ vật.
Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao nổi 14 cánh. Xen giữa các cánh sao là những họa tiết hình tam giác.
Có ý kiến cho rằng, họa tiết trang trí giữa các cánh sao thể hiện hình tượng sinh thực khí nữ theo quan niệm phồn thực của người Việt cổ.
Từ trong ra ngoài mặt trống có tất cả 16 vành hoa văn đồng tâm bao bọc lấy nhau. Các vành 1, 5, 11 và 16 là những hàng chấm nhỏ. Các vành 2, 4, 7, 9, 13 và 14 là những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành 3 là những hình học gãy khúc nối tiếp. Vành 12 và 16 là văn răng cưa. Vành 6, 8 và 10 là vành có hình người, động vật được xếp xung quanh ngôi sao và ngược chiều kim đồng hồ.
Hình người trên mặt trống thể hiện ở dạng mặc váy dài, có hai vạt tỏa ra hai phía, vừa đi vừa múa, có người tay cầm rìu, có người thổi kèn, có người cầm giáo, cán giáo có trang trí lông chim. Hoặc có thể người đang quay mặt về phía nhà cầu mùa, xõa tóc, mặc váy hay có đôi trai gái đang cầm chày giã vào một chiếc cối, đầu chày có trang trí lông chim.
Hình nhà: Có hai dạng, thứ nhất là hình nhà liên quan đến nghi lễ tôn giáo, có mái hình cung, hai đầu là hai trụ đứng để chắn phên.
Thứ hai là nhà hình thang nóc cong lên như hình thuyền, hai đầu có hình chim mắt to, hai bên có cột chống đỡ. Nóc nhà có hai con chim đậu, một con trong giống hình chim công, một con trông giống hình gà trống…
Về hình tượng động vật, vành 8 gồm hai nhóm, mỗi nhóm có 10 con hươu cách nhau bằng hai tốp chim bay, một tốp 6 con và một tốp 8 con. Cứ một con hươu đực thì đến một con hươu cái.
Vành 10 gồm 36 con chim, 18 con chim đậu và 18 con chim đang bay. Chim bay là loại chim mỏ dài, có mào, đuôi và chân dài, mình gầy thuộc loại cò, sếu hoặc vạc, thường gọi là chim lạc. Chim đậu có nhiều loại. Con thì mỏ ngắn vênh lên, con thì mỏ dài chúc xuống, phần đông là chim ngậm mồi. Các con chim đậu đều có đuôi ngắn.
Tang trống chính là chiếc hộp cộng hưởng khuếch đại âm thanh. Phần trên có 6 vành hoa văn hình học. Vành 1 và 6: Những đường chấm nhỏ thẳng hàng. Vành 2 và 5: Văn răng cưa. Vành 3 và 4: Hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối với nhau bằng những tiếp tuyến song song.
Phần dưới tang trống là 6 chiếc thuyền chuyển động từ trái sang phải, chở chiến binh tay cầm vũ khí và tù binh, xen giữa là những hình chim cò ngậm cá, chó săn được thể hiện theo lối cách điệu.
Có bốn chiếc quai chia làm hai cặp gắn vào tang và phần thân trống, được trang trí hình bện thừng / bông lúa.
Phần giữa của thân có những hoa văn hình học chạy song song cắt nhau tạo thành 6 ô hình chữ nhật.
Trong ô là các võ sĩ đầu đội mũ lông chim, tay cầm vũ khí vừa đi vừa múa.
Phần dưới của thân là ba vành hoa văn hình học, giữa là vành văn vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Hai bên là hai đường chấm nhỏ. Ngoài cùng là hai đường chỉ trơn. Chân trống không có trang trí.
Trống đồng Ngọc Lũ I được phát hiện vào khoảng năm 1893 – 1894 dưới độ sâu 2 mét của bãi cát bồi khi các ông Nguyễn Văn Y, Nguyễn Văn Túc và một số người khác đắp đê Trần Thủy ở xã Như Trác, huyện Nam Xang (phủ Lý Nhân, Hà Nam). Các ông đem về cúng vào đình làng Ngọc Lũ, để khi có đình đám cúng tế thì dùng.
Năm 1902 nhân cuộc đấu xảo ở Hà Nội, trống được đem ra trưng bày. Viện Viễn Đông Bác cổ bèn xuất 550 đồng bạc Đông Dương mua lại và lưu trữ ở Hà Nội.
Các nhà nghiên cứu xác định Trống đồng Ngọc Lũ I có niên đại 2.500 năm trước, được xếp vào loại H1 – Heger (theo sự phân loại dựa trên 165 chiếc trống đồng được biết đến thời điểm ấy của học giả F.Héger – người Áo – vào năm 1902).
H1 là loại trống đồng “cổ nhất, cơ bản nhất và từ loại này mà các loại khác ra đời”. Ngọc Lũ là một trong số không nhiều trống đồng giữ vai trò ấy.
Trong văn hóa Đông Sơn, trống đồng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong sinh hoạt xã hội của người Việt cổ. Về cơ bản thì trống là một nhạc khí dùng trong những lễ tiết lớn của cả cộng đồng. Trống đồng còn được dùng trong lễ mai táng chôn theo người chết, trong lễ hội cầu mùa và là biểu tượng quyền lực của tầng lớp thống trị thời kỳ Hùng Vương dựng nước.
Có thể nói trống đồng Ngọc Lũ I là một kiệt tác được sáng tạo trong thời kỳ cực thịnh của văn hóa Đông Sơn. Hiện vật lịch sử mang tính biểu tượng của văn hóa dân tộc này đã được công nhận là bảo vật quốc gia của Việt Nam.
Các tư liệu lịch sử của nước Pháp đã ghi nhận rất nhiều vụ đắm tàu dọc theo bờ biển của Việt Nam thời thuộc địa. Hầu hết các vụ việc này đều không được chú ý vì hiếm khi có người Pháp gặp nạn, và đây là chuyện thường xảy ra ở vùng biển nhiều bão tố của Việt Nam.
Nhưng thảm họa của tàu con hơi nước mang tên “Hải Phòng” năm 1924 lại là một ngoại lệ đặc biệt vì mức độ thảm khốc của nó.
Tàu “Hải Phòng” được đóng vào năm 1885 ở xưởng La Ciotat với chiều dài 89 mét dài, tốc độ di chuyển đạt 15 hải lý (28 km một giờ). Sau 38 năm chuyên chở hành khách và hàng hóa ở Đông Dương, nó đã trở nên xuống cấp và được đưa vào danh sách loại bỏ.
Tàu “Hải Phòng”.
Tuy vậy, sự thiếu hụt của tàu thuyền tại Đông Dương thời điểm này đã khiến con tàu cũ kỹ lọt vào mắt xanh của một công ty Trung Quốc có tên Bay A. Con tàu được công ty này mua lại với ý định tiếp tục khai thác.
Nhưng người chủ tàu đã gặp phải trở ngại khi con tàu hai lần bị văn phòng kiểm định tại địa phương từ chối cấp phép hoạt động. Cuối cùng, nó cũng được cấp phép từ một văn phòng khác.
Với thủy thủ đoàn chủ yếu là người Hoa, con tàu rời Sài Gòn 27/11/1904 và khó nhọc cập bến Qui Nhơn sau 6 ngày hành trình, thay vì 2 ngày như những con tàu khác. Tình trạng của nó thật sự tồi tệ, bánh lái bị méo, nhiều cánh quạt trong buồng máy bị mất, hàng hóa sắp xếp tràn lan, xăng dầu rò rỉ tỏa ra mùi vô cùng khó chịu đối với hành khách. Một sự thật khủng khiếp là 170 tấn xăng dầu đã được chứa trong chiếc bồn bị thủng và chắp vá bằng xi măng.
Không nhận được bất cứ một sự sửa chữa nào, con tàu tiếp tục khởi hành đến Đà Nẵng ngày hôm sau. Và đó là thông tin cuối cùng mà người ta biết được về nó.
Trên con tàu “Hải Phòng” hoàn toàn không có các thiết bị thông tin liên lạc và cứu hộ. Nó đã mất tích trên quãng đường từ Quy Nhơn về Đà Nẵng.
Con tàu đã bị nhấn chìm bởi một cơn bão? Hay xăng dầu rò rỉ đã bốc cháy và thiêu rụi nó? Nguyên nhân của vụ tai nạn đến bây giờ vẫn là ẩn số. Nhưng hậu quả của nó thì vô cùng khủng khiếp: 140 người đã chết, gồm 128 người Việt và Hoa, 12 người Pháp. Không có một ai trên con tàu được xác nhận là còn sống sót.
Thảm họa này đã làm chấn động dư luận Pháp và Đông Dương, dẫn đến việc Bộ trưởng Bộ thuộc địa của Pháp ở Đông Dương bị bắt hai tháng sau đó. Vụ việc cũng buộc chính quyền Pháp phải đặt ra các quy định gắt gao trong việc kiểm định và cấp phép cho những con tàu chở khách để tránh những thảm họa tương tự xảy ra trong tương lai.
Trong suốt chiều dài lịch sử, hàng loạt các loại phương tiện giao thông, cá nhân cũng như công cộng, lần lượt xuất hiện tại Việt Nam. Theo luật đào thải tất nhiên của cuộc sống, chúng cũng lần lượt được thay thế bằng những phương tiện mới hơn nhằm phục vụ cuộc sống tốt hơn. Loạt bài viết này sẽ điểm qua những phương cách di chuyển xưa của người Việt mà cho đến ngày nay đã trở thành quá khứ.
KIỆU
Bắt đầu từ thời phong kiến triều Nguyễn (1802-1945) vua chúa mỗi lần xuất cung đều dùng kiệu để đi lại. Sách Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ, do Nội các triều Nguyễn biên soạn, đã dành hẳn chương Nghi vệ (quyển 79) để miêu tả các loại kiệu dùng cho vua quan triều Nguyễn, với những quy định rất cụ thể về tên gọi, số lượng kiệu cùng các nghi trượng đi kèm, tùy thuộc vào thời thế, địa vị và thứ bậc của người sử dụng.
Dưới triều vua Gia Long (1802 – 1820), xe kiệu của vua có 4 chiếc, gồm 1 chiếc Ngọc lộ, 1 chiếc Kim lộ và 2 chiếc Kim bảo dư. Sang triều Minh Mạng (1820 – 1841), vua có 5 chiếc, được đặt tên là Cách lộ, Kim lộ, Ngọc lộ, Tượng lộ và Mộc lộ. Tùy mục đích chuyến đi, nhà vua quyết định dùng loại “xe” nào.
Sách cũng cho biết khi vua đi chơi thì không thực hiện đầy đủ nghi thức như khi vua đi cúng tế ở các đàn miếu. Lúc này nhà vua chỉ sử dụng 1 chiếc lọng vàng thêu hình rồng để che mưa nắng, có đội quân tiền đạo và hậu hổ đi theo hộ tống. Dưới triều Minh Mạng, nhà vua quy định: ngự giá đi trong phạm vi Hoàng Thành thì phải giảm bớt một nửa số cờ quạt và không cần voi ngựa hộ tống để tránh… “kẹt đường”.
Kiệu hoàng gia triều Nguyễn
Kiệu của hoàng thái hậu, gọi là Từ giá, cũng hoành tráng không kém, gồm 1 Phượng dư và 1 Phượng liễn. Lỗ bộ tháp tùng Từ giá có 2 lá cờ rồng, 2 lá cờ phượng, 2 lá cờ thanh đạo, 8 lá cờ phướn, 2 quạt thêu hình rồng phượng màu vàng, 4 quạt thêu hình rồng phượng màu đỏ, 4 quạt thêu hình loan phượng màu xanh và thêm 20 thứ binh khí hộ vệ.
Kiệu của thái tử chỉ có 1 chiếc, gọi là xe Bộ liễn. Lỗ bộ tháp tùng xe này chỉ có 1 cờ lệnh, 2 cờ xanh, 2 cờ đỏ, 2 cờ vàng, 2 cờ trắng, 2 cờ đen, 8 lá cờ phướn, 1 chiếc tán hình tròn thêu hình 7 con rồng, 4 chiếc tán hình vuông, 4 chiếc lọng màu đỏ, 6 lọng màu xanh vẽ rồng mây…
Kiệu Vua Duy Tân (ngày 5/9/1907)
Sang triều Khải Định (1916-1925), nhà vua được người Pháp tặng cho một chiếc xe hơi nhân lễ Tứ tuần Đại khánh (mừng thọ vua 40 tuổi). Từ đó, ngoài việc dùng ngự giá truyền thống trong các dịp tế lễ, đôi khi vua Khải Định còn dùng xe hơi để du ngoạn hay đi săn bắn ở bên ngoài Hoàng Thành.
Cựu hoàng Hàm Nghi trên chiếc xe ngựa với ý trung nhân, Bà Laloe
Trước đó, triều đình có cho dựng ở phía trước Ngọ Môn 2 tấm bia đá, trên bia có ghi 4 chữ Hán: Khuynh cái hạ mã, nghĩa là khi đi ngang qua đây thì mọi người phải nghiêng lọng và xuống ngựa. Kể từ khi vua Khải Định dùng xe hơi, thì 2 tấm bia này không còn thích hợp nữa. Vì thế, triều đình đã cho nhổ 2 tấm bia này đưa vào cất giữ trong kho của Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế).
Đây cũng là nơi đang trưng bày chiếc kiệu sơn son thếp vàng của vua Bảo Đại, dùng để đi lại trong phạm vi Hoàng Thành Huế. Ngoài ra, trong kho của Bảo tàng này đang lưu giữ chiếc kiệu mà vua Bảo Đại đã từng dùng khi đi tế Nam Giao vào năm 1935.
Chiếc kiệu chạm rồng, sơn son thếp vàng của vua Bảo Đại, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế.
Sang đến thời kỳ Pháp thuộc, kiệu vẫn được sử dụng nhưng đối tượng dùng kiệu được mở rộng. Vào thời này, kiệu còn dành cho các quan thuộc địa người Pháp cùng gia đình và những chức sắc người bản xứ trong việc đi kinh lý hoặc ngoạn cảnh. Trong những bức hình du ngoạn bãi biển Đồ Sơn dưới đây, người khiêng kiệu đều là phụ nữ bản xứ, họ gánh kiệu trên 2 thanh gỗ ngang và kiệu được đặt trên 2 thanh dọc dài hơn.
Kiệu dành cho người Pháp du lịch bãi biển Đồ SơnKiệu dành cho… “Ông Tây, Bà Đầm”Phu kiệu toàn là phụ nữ người bản xứKiệu dành cho gia đình quan chức người bản xứPhu kiệu nghỉ ngơi
Trong phim Indochine do đạo diễn Régis Wargnier thực hiện vào tháng 4/1992 với các diễn viên Catherine Deneuve (trong vai Eliane), Vincent Perez (John the Baptist), Linh Dan Pham (Camille), Jean Yanne (Guy Asselin), khán giả được thấy cảnh ngồi kiệu của diễn viên đóng vai John the Baptist. Indochine là một phim hoành tráng mô tả cuộc sống của người Pháp thời đi mở thuộc địa tại Đông Dương. Phim sử dụng tới 1800 bộ y phục của cả người Âu lẫn người bản xứ.
Kiệu trong phim “Indochine” của Régis Wargnier
Vào thời phong kiến, quan lại triều Nguyễn không được phép dùng kiệu mà chỉ ngồi võng có mui che, được khiêng bởi 4 người lính. Đòn ngang của võng sơn son thếp vàng, khắc hình con giao long, đòn dọc của võng khắc hình con thú ứng với phẩm trật của vị quan ngồi trên võng.
Tranh xưa vẽ cảnh đi võng
Võng bằng lụa màu hồng. Mui che võng được quang dầu màu xanh để che mưa nắng. Quan lại trên hàng nhất phẩm thì có 4 người lính vác 4 chiếc lọng theo hầu, quan nhất phẩm chỉ có 3 lọng, quan nhị phẩm chỉ có 2 lọng và quan từ tam phẩm xuống đến cửu phẩm chỉ có 1 người vác lọng theo hầu.
Võng được dùng để phục vụ các quan lại trong triều
Ngoài ra, những tân khoa thi đỗ đều được dùng võng để về làng “Vinh quy, Bái tổ”. Trong ca dao xưa có câu “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” để mô tả sự vinh quang của người học trò thành đạt.
Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau
Tin người đỗ đạt được đưa về làng, hương chức, dân làng họp ở đình, cắt cử người ra gập Tân khoa để ấn định ngày vinh quy, rước về nguyên quán. Thường thì đỗ Tú tài chỉ làng xã rước, đỗ Cử nhân hàng huyện phải rước, đỗ Tiến sĩ thì hương lý, trai tráng hàng tổng đem đủ nghi lễ, cờ quạt đón từ tỉnh rước về làng. Tuy nhiên, những người trong họ quan Tân khoa được miễn làm phu phen đi rước.
Xe kéo
Tìm hiểu về lịch sử của chiếc xe kéo, người ta cho rằng loại xe này đã ra đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị tại Nhật Bản, vào khoảng năm 1869. Hồi đó, những gia đình khá giả có thể tậu một chiếc xe do người làm kéo đi những lúc cần di chuyển, thay vì phải đi bộ.
Theo Wikipedia, xe kéo – tiếng Anh là Rickshaw, tiếng Pháp là Pousse-Pousse – bắt nguồn từ tiếng Nhật “Jinrikisha” trong đó ghép bởi “jin” (con người, nhân), “riki” (sức lực) và “sha” (xe). Như vậy, “Jinrikisha” là loại xe chạy bằng sức kéo của con người.
Xe kéo xưa trên bưu ảnh của Nhật Bản
Bắt đầu từ năm 1870, chính quyền thành phố Tokyo cấp giấy phép sản xuất và bán xe kéo cho 3 người được coi là nhà sáng tạo phương tiện vận chuyển “tân kỳ” này: Izumi Yosuke, Takayama Kosuke và Suzuki Tokujiro. Để được phép hoạt động tại Tokyo, xe kéo phải được đóng dấu cho phép của 3 nhà phát minh này.
Xe kéo tại Nhật năm 1897
Xe kéo lần lượt xuất hiện tại các thành phố châu Á như Trung Hoa (1873), Singapore (1880), Việt Nam (1883) và vào cuối thế kỷ thứ 19 tại Ấn Độ, Nepal, Bangladesh, Indonesia, Hồng Kông, Triều Tiên… Nói chung, xe kéo có mặt khắp lục địa Á Châu là nơi có dân số đông nhất thế giới và cũng là nơi có trình độ phát triển kém hơn châu Âu, châu Mỹ.
Xe kéo tại Ấn Độ
Năm 1883, chiếc xe kéo, hay còn gọi là xe tay tại miền Bắc, xuất hiện lần đầu tiên tại Hà Nội do Thống sứ người Pháp, Jean Thomas Raoul Bonnal, cho đem từ bên Nhật qua. Xe kéo Hà Nội xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi đầu tiên tại Âu Châu và một năm trước xe tramway, một loại xe do ngựa kéo. Gần 15 năm sau, Sài Gòn mới biết tới loại xe này.
Hình ảnh xe kéo là một trong những sắc thái đặc thù của Đông Dương được họa sĩ Adrien Marie vẽ trong một bức tranh cổ động cuộc đấu xảo năm 1889 tại Pháp
Lịch sử phát triển xe kéo tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1884 khi một nhà thầu người Pháp cho sản xuất khoảng 50 chiếc xe cung cấp cho cả miền Bắc, khi đó còn gọi là Tonkin. Từ đó, chiếc xe kéo dần dần trở nên quen thuộc tại Hà Nội và chỉ dành cho những người có chức, có tiền sử dụng làm phương tiện di chuyển trong khi đi bộ vẫn là phương tiện chính của đại đa số dân chúng.
Ngồi trên xe kéo nói lên cho sự giàu có và uy quyền của người Pháp và các gia đình quyền quý người bản xứ nhưng trước đó các tiểu thư khuê các Hà Thành thường ít khi dùng đến xe kéo vì sợ hiểu lầm là… Me Tây. Thời đó, phụ nữ người bản xứ khi lấy người Pháp tại thuộc địa thường bị mỉa mai là “Me Tây” cũng như sau này ở Sài Gòn có một số người bị gán cho “danh hiệu”… “Me Mỹ” khi họ kết hôn với người Mỹ.
Xe kéo trước khách sạn Metropole (đường Henri Rivière), Hà Nội
Một hãng cho thuê xe kéo sau đó được thành lập tại Hà Nội. Những chiếc xe kéo đầu tiên có bánh xe bằng sắt, chạy không êm nhưng hành khách phải giữ chỗ trước một ngày nếu muốn được thuê. Dần dà, bánh xe kéo được bọc cao su nên khi chạy êm hơn và loại xe bánh sắt chuyển ra các vùng ngoại ô.
Cuộc cách mạng “bánh xe” đã phân chia thành hai loại khách sử dụng: loại bánh cao su được dành cho giới quan chức thuộc địa và gia đình trong khi loại bánh sắt dành cho giới trung lưu người bản xứ.
Xe kéo Hà Nội (1900)
Ngay cả những xe kéo với bánh cao su cũng chia ra làm hai loại, loại bình thường và loại của hãng OMIC. Loại nầy có chổ ngồi bằng nhôm trắng bóng và có nệm lò xo cũng được bọc vải trắng, dĩ nhiên đi xe loại nầy thì mắc tiền hơn là đi xe loại thường.
Hình ảnh về các quan lại, binh lính, chức dịch… thời đại phong kiến dưới triều đại phong kiến qua góc nhìn của các nhiếp ảnh gia người Pháp khi họ đến Đông Dương trong đó có Việt Nam cho thấy một cái nhìn đầy đủ về một thời kỳ đã kéo dài ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Hãng xe kéo Hà Nội
Chiếc xe kéo được coi là biểu tượng của sự phân biệt giai cấp giữa người lao động phải dùng sức mình để kiếm miếng cơm manh áo và hành khách ngồi phía sau là giới quyền quý, giàu sang. Truyện ngắn Người ngựa – ngựa người của Nguyễn Công Hoan đã nói lên cuộc đời cơ cực của người kéo xe, còn được gọi bằng “cu-li”, giữa khung cảnh đêm 30 Tết.
Truyện kể anh phu xe đói khách trong đêm giao thừa gặp phải một cô khách tân thời tưởng lắm tiền ai ngờ lại quá keo kiệt, chỉ trả hai hào cho một giờ bao xe. Anh kéo xe giờ cho nên cũng chỉ chạy tà tà, theo cách Nguyễn Công Hoan mô tả: “đít nhổm mạnh, mà bước ngắn”.
Truyện chỉ có 2 nhân vật và người đọc thoạt đầu cứ tưởng như thuộc hai giai cấp khác nhau nhưng cuối cùng cũng nhận ra họ chỉ là “người ngựa” kéo phía sau là “ngựa người”, một “bà” khách lại là một cô gái “ăn sương” thuê xe kéo để đi kiếm khách trong đêm giao thừa. Đã không có tiền trả anh xe kéo, “bà” khách lại còn mượn anh hai hào để mua gói thuốc lá, bao diêm và cả hạt dưa để cắn!
Anh phu xe thì hí hửng khi giờ khắc giao thừa đến gần: “Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay từ lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng mười bằng trăm năm nay”.
Xe kéo Hà Nội
Nguyễn Công Hoan dẫn người đọc đến một đoạn thật hấp dẫn sau khi anh phu xe đã kéo “bà” khách đi khắp phố phường Hà Nội gần 2 giờ đồng hồ trong đêm giao thừa:
– Này, anh đỗ xuống tôi bảo. Tôi nói thực với anh nhé. Bây giờ đã về sáng rồi, chắc anh kéo tôi mãi cũng đến thế mà thôi. Tôi thì thực không có tiền giả anh đâu. Tôi gán cho anh khăn, áo, đồng hồ mà anh không lấy, thì tôi chả biết nghĩ thế nào cho phải cả. Thôi thì anh kéo tôi ra chỗ kín, vắng, anh muốn bắt tôi gì tôi xin chịu.
– Tôi bắt gì cô mà tôi bắt!
Cô ả nắm lấy tay, vỗ vào vai anh xe, nhăn nhở cười:
– Anh này thực thà quá, nghĩa là chỉ có anh với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn làm gì tôi cũng bằng lòng.
– Ối thôi! Tôi lạy cô. Nhỡ cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi.
– Không sợ, tôi mới khám bệnh hôm qua.
– Thôi, tôi chắp tay tôi van cô, cô có thương tôi thì mời cô xuống xe cho tôi về, và xin cô tiền xe!
– Thế thì anh cứ kéo tôi về nhà tôi, xem có đồ đạc gì đáng giá, thì anh cứ việc lấy.
Xe kéo trên đường Paul Bert, ngày nay là phố Tràng Tiền, Hà Nội (1915)
Đến cửa một nhà săm, cô ả bảo anh xe kéo ghé vào để hỏi vay tiền. Mệt lử nên trong khi chờ khách vay tiền anh phu xe ngủ gật. Khi pháo giao thừa nổ vang anh mới tỉnh dậy. Vào hỏi thăm anh bồi “săm” mới biết là cô gái đã chuồn mất bằng cổng sau. Và đây là đoạn kết:
“Anh xe nghiến răng, cau mặt, lủi thủi ra hè, cầm cái đệm quật mạnh vào hòm đánh thình một cái! Anh móc túi lấy bao diêm đốt vía, rồi khoèo bàn chân, co cái càng lên, đưa tay ra đỡ, thủng thẳng dắt xe đi… Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch toạch”.
Phu xe “đói” khách
Như đã nói ở phần trên, Sài Gòn xưa vào năm 1898 mới làm quen với xe kéo, khoảng gần 15 năm sau Hà Nội. Lý do cũng dễ hiểu là xứ thuộc địa chính thức của người Pháp có phương tiện di chuyển duy nhất là những chiếc xe do ngựa kéo mà người Pháp gọi là “Malabar” hay “Boîte d’allumettes” (vì xe có dáng dấp như một hộp diêm).
Một đặc điểm của xe kéo Sài Gòn vào đầu thập niên 1920 là mỗi chiếc đều được cấp phát số xe gồm 4 chữ số để dễ kiểm soát khi lưu thông, trong khi đó, xe kéo Hà Nội không có. Dưới đây là một số hình ảnh về xe kéo tại miền Nam:
Xe kéo và xe ngựa trước chợ Bến Thành đầu thập niên 1920Xe kéo và xe hơi trước “Hôtel de Ville”Xe kéo trước Nhà hát Thành phốXe kéo trước Nhà thờ Đức bàXe kéo trên đường Catinat (ngày nay là Đồng Khởi)Xe kéo trong Chợ Lớn
Xe ngựa
Thời cổ, giới quyền quý Trung Hoa dùng xe do ngựa kéo mỗi khi di chuyển. Thời trung cổ, tại Pháp và một số nước châu Âu giới quý tộc thường đi loại xe do hai ngựa kéo, xe song mã thể hiện đẳng cấp của những người thuộc gia đình quyền quý. Ngày nay các loại xe song mã chỉ còn được dùng trong việc đưa khách du lịch đi ngoạn cảnh.
Xe song mã phục vụ khách du lịch tại Melbourne, Úc châu
Tại miền Nam vào những năm 1880 của thế kỷ 18, xe ngựa là phương tiện đi lại bình dân và phổ biến ở vùng Sài Gòn-Gia Định. Đây là loại xe do một ngựa kéo được bắt nguồn từ kiểu cỗ xe song mã sang trọng của Pháp được người dân miền Nam chế tác cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và địa hình của Việt Nam.
Trước đó, người Pháp đã đưa xe ngựa vào Đông Dương làm phương tiện vận chuyển hành khách cũng như hàng hóa. Người Pháp gọi xe ngựa ở thuộc địa là “Malabar” và sau này còn có tên “Boîte d’allumettes” vì hình dáng giống như một hộp diêm quẹt.
Một trong những hình ảnh được coi là xưa nhất của xe ngựa tại Sài Gòn là chiếc xe của Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện (Manufacture d’Opium) được chụp vào khoảng đầu thập niên 1980.
Có thể thấy dòng chữ bằng tiếng Pháp trên thành xe ghi rõ là xe của nhà máy. Phía bên trái là hình của một người phu xe kéo đứng nhìn chiếc xe ngựa, hình như anh rất ngạc nhiên với hình ảnh một chiếc xe do ngựa kéo được người Pháp đưa vào Đông Dương.
Xe ngựa trước Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện tại Sài Gòn
Xe ngựa dưới dạng xe “cải tiến” đơn giản còn được dùng trong hoạt động của quân đội viễn chinh Pháp tại thuộc địa Đông Dương. Loại xe này dùng để chuyên chở quân trang, quân dụng trong lực lượng võ trang của quân đội thuộc địa.
Xe ngựa dùng trong quân đội thuộc địa
Loại xe ngựa cầu kỳ hơn được dùng để chuyên chở hành khách là những viên chức thuộc địa và gia đình. Những chiếc xe này mang dáng dấp của loại xe song mã thường thấy tại Âu châu với “xà ích” là người bản xứ.
Như vậy, ngay trong giới lái xe người bản xứ cũng phân chia nhiều đẳng cấp tùy theo mức độ sang trọng của phương tiện: thấp nhất là phu xe kéo (còn được gọi là cu-li), kế đến là “xà ích” (người điều khiển xe ngựa) và cao nhất là tài xế xe hơi (chaffeur).
Hình ảnh các phương tiện giao thông trước Nhà thờ Đức Bà vào những năm 1920s
Đặc điểm của thời kỳ xe ngựa mới du nhập vào Đông Dương là loại song mã hoặc chỉ có một ngựa kéo. Riêng phần thân xe được đặt trên 4 bánh, hai bánh sau có đường kính lớn hơn hai bánh trước để giữ đối trọng với ngựa chạy phía trước, khác hẳn với xe ngựa do người Việt chế tạo sau này chỉ với hai bánh.
Xe ngựa tại chợ Bến ThànhXe ngựa bên Nhà thờ Đức BàXe ngựa Sài Gòn khoảng 1930Xe ngựa Chợ LớnChiếc Malabar một ngựaXe song mã tại Hải Phòng
Tại miền Bắc, khi đó còn được gọi là Tonkin, người Pháp cũng sử dụng xe ngựa cho các quan chức thuộc địa nhưng số lượng không đáng kể so với miền Nam, còn có tên là Cochinchine.
Trước những loại xe ngựa sang trọng của Pháp, người Việt đã mày mò sáng tạo ra loại xe một ngựa đơn giản và bình dân hơn để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa. Loại xe một ngựa này còn có một cái tên khác là xe thổ mộ.
Xe thổ mộ chuyên chở hàng hóa giữa Sài Gòn
Có rất nhiều cách giải thích về xuất xứ về tên gọi xe thổ mộ tại miền Nam. Có người nói thổ mộ vốn có mái che khum khum giống hình ngôi mộ nên người bình dân gọi là… “thổ mộ”. Giải thích mang tính cách ngôn ngữ học cho rằng “thổ mộ” là chữ đọc trại từ “thảo mã” hay “thụ mã” theo tiếng của người Quảng Đông vốn là số đông người Hoa sinh sống tại miền Nam.
Lại có ý kiến cho rằng “thổ mộ” chính là chữ đọc trại từ Thủ Dầu Một, thuộc tỉnh Bình Dương, nơi được coi là “cái nôi” của của xe thổ mộ. Để dẫn chứng giả thuyết này, người ta dẫn chứng một bài vè cổ về 47 chợ tại miền Nam:
… Khô như bánh tráng là chợ Phan Rang,
Xe thổ mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một
Chẳng lo ngập lụt là chợ Bưng Cầu…
Vào những thập niên 40 và 50 là giai đọan phát triển của xe thổ mộ. Tại chợ Thủ Dầu Một có đến 3 bến xe thổ mộ hoạt động nhộn nhịp, có khi lên đến trên 50 chiếc. Không chỉ vậy, Thủ Dầu Một còn có nhiều trại mộc đóng xe thổ mộ có tiếng với thùng xe đẹp, trang nhã, bánh xe bền chắc. Xe sản xuất tại Thủ Dầu Một còn được gọi là xe “Thùng Thủ” để phân biệt với các nơi sản xuất khác và cũng để khẳng định “đẳng cấp” của mình.
Xe thổ mộ nhìn từ phía sau
Để làm một chiếc xe thổ mộ đòi hỏi nhiều yêu cầu khắt khe chứ không đơn giản như người ta tưởng. Kích thước về chiều dài, chiều rộng, chiều cao của thùng xe phải cân bằng khi di chuyển trên mọi địa thế. Thùng xe được đặt trên hai thanh nhíp gồm 4 lá thép để giảm độ sóc khi xe chạy trên đường. Nói chung, từng chi tiết của xe phải chính xác để tạo sự an toàn khi chuyển động.
Gỗ làm xe thổ mộ phải là loại tốt như Giáng Hương, Căm Xe, gỗ mít… không bị mối mọt. Quan trọng nhất là cặp bánh xe vì là phần chịu tải chính nên được làm rất cẩn thận, trục ngang của xe bằng ống thép chịu lực cho thùng xe nhưng lại không dùng bạc đạn mà chỉ có ổ trục.
Mỗi bánh xe được ghép từ sáu mảnh gỗ gắn với 12 chiếc căm cắm vào trục bánh xe. Sau đó, một vòng sắt quấn quanh bánh xe để bảo vệ phần gỗ và cuối cùng một lớp nệm cao su được nịt chặt ở vòng ngoài.
Xe thổ mộ trên đường phố
Thùng xe được thiết kế thoáng mát, tạo sự thoải mái cho hành khách nhưng có vẻ hơi cao so với mặt đường trong khi chỉ có một miếng sắt để khách lên xuống xe. Đây cũng là điểm yếu của xe thổ mộ nhưng một số người lại thích ngồi vắt vẻo trên xe với hai chân đong đưa để ngắm nhìn đường phố.
Bên trong thùng xe, khách ngồi trên chiếu đâu mặt nhau, guốc dép máng ở hai cọc sắt phía sau hai góc thùng. Nếu vắng thì khách ngồi thòng chân ở phía có bàn đạp lên, xuống. Hai vè bên thùng xe uốn gợn sóng có thể dùng để gác hàng hóa. Và trên cùng là cái mui uốn cong, lợp thiếc, nhô ra tới nửa mình ngựa, khum lại giống như mui chiếc ghe bầu nhưng cũng trông tựa một cái… mả nên nới gọi là thổ mộ (?).
Ngựa, xà ích và hành khách
Âm thanh của chiếc thổ mộ với những tiếng kêu “lóc cóc, lọc cọc” phát ra từ móng ngựa được bọc sắt tiếp xúc với mặt đường nhựa cũng trở nên quen thuộc với nhiều thế hệ người miền Nam. Có nhiều xe còn gắn lục lạc cho ngựa nên khi chạy trên đường tiếng lục lạc hòa lẫn tiếng lọc cọc, cộng với tiếng “họ, họ” điều khiển ngựa của người xà ích tạo thành một bản nhạc đặc thù của xe ngựa Sài Gòn xưa.
Về sau, có dòng xe thổ mộ “văn minh” hơn, được cải tiến từ bánh xe gỗ sang bánh xe bằng cao su bơm hơi với đường kính nhỏ hơn và do đó thùng xe cũng thấp hơn. Loại xe này giúp hành khách lên xuống thoải mái, an toàn. Khi chạy trên đường, lốp xe cao su êm hơn nhưng ngược lại, “tiếng nhạc” thổ mộ vốn có mất dần đi khiến những người “hoài cổ” không tìm lại được cái thú của ngày nào.
Dòng xe thổ mộ có bánh xe cao su
Ngựa kéo xe thổ mộ thường là những con ngựa đua đã có tuổi, không còn đủ sức vẫy vùng trên đường đua nhưng vẫn còn có thể di chuyển giữa lòng đường phố nhộn nhịp xe cộ. Bộ yên lưng bằng da có hai quai lồng vào hai càng xe đặt hai bên vai ngựa. Sợi yên lưng còn lồng vào đuôi ngựa để khi xuống dốc có tác dụng kềm ngựa. Lại còn có dây bụng nâng ngực ngựa khi xe chạy. Người xà ích đôi khi xếp khách ngồi dịch lên hoặc lùi xuống là để cho ngựa không bị sức nặng đè vai hoặc bó chặt ngực khó chạy.
XÍCH LÔ
“Xích-lô”, suất xứ từ tiếng Pháp “cyclo”, là một phương tiện giao thông sử dụng sức người, di chuyển trên 3 bánh dùng để chở khách hoặc hàng hóa. Người lái xe cũng vận hành cyclo như một chiếc xe đạp nên còn được gọi là “xích-lô đạp” và sau này được cải tiến với động cơ xe gắn máy để thành “xích-lô máy”.
Cũng áp dụng cách vận hành tương tự như cyclo, còn có xe ba gác với thùng xe đặt ở phía trước để chở đồ đạc cồng kềnh và sau này xe ba gác lại được cải tiến thành xe ba gác máy với động cơ của xe gắn náy.
Ngược lại với cyclo, ở miền Tây, hay còn gọi là Lục Tỉnh, có loại xe đạp kéo thùng chở khách đằng sau được gọi là xe lôi, rất phổ biến ở các tỉnh miền đồng bằng sông Cửu Long. Dần dà người ta lại dùng xe máy để kéo, cũng tương tự như người anh em là chiếc cyclo máy.
Xe lôi miền Tây
Chiếc cyclo đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn năm 1938 nhưng mẫu thiết kế lại không do người Việt vẽ kiểu mà lại là “tác phẩm” của một người Pháp. Lịch sử chiếc cyclo lại còn ly kỳ hơn, chiếc cyclo đầu tiên chính thức được nhà cầm quyền bảo hộ cấp phép lưu hành không phải là ở Sài Gòn mà là Phnom Penh, thủ đô của xứ Chùa Tháp trong Đông Dương thuộc Pháp gồm Việt Nam, Cao Miên và Lào.
Cyclo Phnom Penh năm 1938
Xích lô xuất hiện vào khoảng năm 1938 tại Phnom Penh. Chiếc đầu tiên do một người Pháp, dân miền Charente tên là Coupeaud, một người đam mê thể thao vẽ kiểu. Phải vất vả lắm Coupeaud mới vận động Bộ Công chánh công nhận sáng chế và cấp phép lưu hành, sau khi đã tham khảo ý kiến của hai nhà vô địch Tour de France là Georges Speicher và Le Grèves.
Để “tiếp thị” chiếc xe chở khách chạy bằng 3 bánh và người lái ngồi phía sau xe, Coupeaud đã tổ chức một cuộc hành trình “giới thiệu sản phẩm” dài gần 200km từ Phnom Penh đến Sài Gòn do hai người thay phiên nhau đạp xe trong thời gian 17 giờ 23 phút!
Và cyclo đã chinh phục Sài Gòn xưa với 40 chiếc vào năm 1939, nhưng chỉ một năm sau, năm 1940, Sài Gòn đã có khoảng 200 chiếc cyclo chạy trên đường phố.
Cyclo Saigon 1950
Nhìn khái quát, cyclo là sự kết hợp và gắn nối của các ống sắt đủ loại, đủ kích cỡ, từ thanh bảo vệ hành khách ở phía trước đến phần ngồi của người điều khiển phía sau. Hai phần này được nối với nhau bằng một trục nằm dưới gầm xe, phía dưới chỗ ngồi của khách, có tác dụng giúp người lái xe có thể quẹo phải, trái hay đi thẳng về phía trước.
Phần yên xe của người điều khiển cũng là một kết cấu đơn giản với thắng tay nằm ngay phía dưới qua hình thức một chiếc vòng sắt hoặc một thanh ngang để người lái có thể kéo lên mỗi khi muốn giảm tốc độ hoặc dừng xe.
Thắng tay nằm ở ngay dưới chỗ ngồi của người điều khiến
Lái cyclo không phải dễ như mọi người tưởng. Yên xe rất cao nên những người “thiếu thước tấc” rất khó “leo” lên, đó là chưa kể khi leo được lên yên chưa chắc đã đạp được hết vòng nếu chân quá ngắn.
Phần sau của xe được nối với thùng xe bằng một trục thẳng đứng nên khi cua ngặt sẽ khiến xe mất thăng bằng, dễ bị lật. Tuy nhiên, tôi đã có lần được chứng kiến “cao thủ” cyclo biểu diễn chạy xe bằng… 2 bánh. Có nghĩa là nghiêng hẳn một bên xe, và dĩ nhiên là trên xe không có khách.
Cyclo trước Tòa Đô Chánh (Hình do R. Cauchetier chụp năm 1955)
Khi khách bước lên hoặc xuống xe, người điều khiển phải kềm phần sau vì nếu khách thuộc loại “nặng ký” sẽ khiến đuôi xe chống ngược. Lại nữa, người lái cyclo phải là tay giỏi… “thương lượng” vì khách trước khi lên xe bao giờ cũng kỳ kèo mặc cả. Tùy hoàn cảnh, người lái xe có thể chấp nhận cái giá mà khách trả hay xách xe không kiếm mối khác!
Chân dung người đạp xích lô cũng muôn hình vạn trạng. Đó có thể là người trên đầu đội chiếc nón lá, quần ống thấp ống cao, lep kẹp đôi dép lộ rõ mười ngón chân cáu bẩn. Buổi trưa nắng gắt bác cyclo tìm một chỗ dưới gốc cây, đánh một giấc ngay trên xe để lấy sức tiếp tục rong ruổi trên đường phố kiếm cơm.
Giấc ngủ trưa của người đạp cyclo
Có sự phân biệt rõ ràng giữa cyclo Sài Gòn và cyclo Hà Nội. Trong khi cyclo Sài Gòn chỉ ngồi được một người (nếu cần có thể “nhét” thêm một khách nữa) thì cyclo Hà Nội có thể chở được hai người ngồi một cách thoải mái.
Cyclo Sài Gòn là phương tiện chuyên chở bình dân nên trông cũ kỹ với mui xe, hai bên hông và phía trước được che bằng vải bạt khi trời mưa… trong khi cyclo Hà Nội sinh sau đẻ muộn nên được o bế một cách diêm dúa, mui xe làm như cái lọng của vua chúa… thường được dùng để phục vụ khách du lịch
Cyclo Hà Nội
Theo sự tiến bộ của khoa học, chiếc cyclo máy được ra đời vào đầu thập niên 1960. Những người đến Sài Gòn lần đầu tiên đều rất thích thú được ngồi trên phương tiện chuyên chở độc đáo này để ngắm nhìn đường phố. Cyclo máy chạy nhanh hơn cyclo đạp và người điều khiển thường là những thanh niên khỏe mạnh trong khi cyclo đạp thường do những người nhiều tuổi hơn điều khiển.
Cyclo máy được lắp ráp ngay tại miền Nam, với những phụ tùng, linh kiện nhập cảng từ Pháp: động cơ cuả hãng xe mô tô Peugeot, loại 125 phân khối, dùng xăng pha nhớt. Đây là loại động cơ 2 thì nên khi nổ máy khói phun mịt mù, tiếng máy của xe cũng thuộc loại gây “ô nhiễm tiếng ồn”.
Cyclo máy Sài Gòn
Cyclo máy ra đời vào thời kỳ chiến tranh leo thang với sự xuất hiện của quân đội đồng minh, nhất là lính Mỹ rất thích phương tiện chuyên chở này. Có người nước ngoài còn nói đi cyclo máy Sài Gòn còn thú vị hơn ngồi xe hơi mui trần “convertible”.
Một anh lính Mỹ viết thư về nhà mô tả chiếc cyclo máy, đại khái như “một con quái vật há mồm, hùng hổ trên đường”… “ngồi cyclo máy tựa như phi thuyền phóng lên mặt trăng”… Tuy nhiên, họ cũng nhìn thấy sự nguy hiểm rình rập khi ngồi trên chiếc cyclo máy chạy nhanh, nếu tai nạn xảy ra, hành khách là người bị nặng nhất còn người lái xe ngồi ở mãi phía sau.
Lính Mỹ trên chiếc cyclo máy“Siêu” cyclo
Xe Lam
Sang đến thời kỳ “văn minh xe máy”, ban đầu Sài Gòn xuất hiện cyclo máy với 2 bánh phía trước và một bánh phía sau rồi dần dà chuyển sang loại xe ba bánh ngược lại với cyclo và cyclo máy, một bánh trước và hai bánh sau, được gọi là xe lam.
Xe lam là loại xe chuyên chở công cộng phổ biến được du nhập Sài Gòn và các tỉnh miền Nam vào thập niên 1960 để đáp ứng nhu cầu đi lại của giới bình dân. Đây là loại xe có cấu trúc tương tự như xe “tuktuk” hiện còn đang được sử dụng tại các nước như Thái Lan, Ấn Độ, Bangladesh… Người ta giải thích cái tên “tuktuk” là do tiếng nổ của động cơ khi chạy trên đường.
Xe Tuktuk tại Thái Lan
Tại miền Nam, thuật ngữ “xe lam” có xuất xứ từ Lambretta và Lambro là nhãn hiệu xe của nhà sản xuất “Innocenti do Ferdinando Innocenti” sáng lập tại Ý từ năm 1920. Ngoài xe hơi, Innocenti còn sản xuất loại xe hai bánh mang nhãn hiệu Lambretta trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1971. Năm 1996 Innocenti nhập vào hãng xe Fiat và chấm dứt các dòng sản phẩm riêng.
Lambretta và Vespa trên đường phố Sài Gòn
Ngoài xe 2 bánh Lambretta, Innocenti còn sản xuất động cơ cho loại xe 3 bánh như ta thấy xuất hiện trên đường phố Sài Gòn xưa. Đó là các dòng xe Lambretta FD với dung tích xy lanh 123 hoặc 150 cc và FLI cải tiến với 175 cc, sau đó là Lambro 200, Lambro 550 đều có dung tích 198 cc.
Bến xe lam tại Quảng Lợi, Bình LongXe Lambro 550 tại chợ Bến Thành
Hãng Vespa cũng sản xuất loại xe 3 bánh và Sài Gòn đã nhập một số xe Vespa 3 bánh có hình dáng và cấu trúc giống Lambretta và Lambro. Với số lượng ít ỏi hơn, Vespa 3 bánh cũng được gọi chung là xe lam. Chúng tôi sưu tầm được một tấm hình xe Vespa 3 bánh thuộc loại “cổ lỗ sĩ” nằm trong một tiệm chuyên sửa và sơn xe… Lambretta:
Xe Vespa 3 bánh
Vespa là thương hiệu nổi tiếng của hãng Piaggio, Ý, được ra đời từ sau Thế chiến thứ hai với của dòng sản phẩm xe gắn máy yên thấp, bánh nhỏ còn gọi là xe scooter. Rinaldo Piaggio (1864-1938) thành lập Công ty Piaggio tại Genoa năm 1884 với chức năng ban đầu chuyên sản xuất các trang thiết bị cho tàu thuỷ, tàu hỏa và máy bay.
Đến năm 1946, những chiếc xe scooter đầu tiên mang nhãn hiệu Vespa được thiết kế bởi kỹ sư Corradino D’Ascanio, ông tạo kiểu dáng khung xe vuốt tròn và tiếng máy nổ khác biệt: “Sembra una vespa!” (Nó cứ như con ong ấy). Vespa tiếng Ý là con ong và thương hiệu Vespa ra đời từ đó.
Vespa ba bánh sử dụng động cơ của xe scooter Vespa có dung tích lớn hơn và Sài Gòn có thêm xe lam mang nhãn hiệu Vespa bên cạnh xe Lambretta và Lambro.
Vespa 3 bánh thời hoàng kim
Các dòng xe lam lần lượt được nhập vào miền Nam để thay thế xe thổ mộ, hay còn gọi là xe ngựa. Đặc biệt loại xe lam khi nhập không ở dạng “đóng thùng”, việc đóng thùng xe được thực hiện tại Sài Gòn. Theo thống kê, trong số gần 35.000 chiếc Lambro 550 xuất xưởng thì có gần một nửa (khoảng 17.000 chiếc) được xuất sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam.
Khoảng những năm 1966-1967, chính phủ VNCH đã tiến hành một chương trình mang tên “Hữu sản hoá” nhằm cung cấp phương tiện hành nghề chuyên chở công cộng cho những lao động cần việc làm và cũng để cải thiện đời sống giới thợ thuyền, phát triển hạ tầng cơ sở vận tải … Và đó là cơ hội để xe lam thâm nhập vào thị trường miền Nam.
Ngoài việc “hữu sản hóa” xe taxi sơn màu vàng trên mui và xanh dưới thân, một số người thuộc giới tài xế xe lam cũng là những đối tượng của chương trình hữu sản hóa, trong số đó có không ít người từ xà ích xe ngựa trở thành tài xế xe lam. Họ ký kết những hợp đồng trả góp để có thể làm chủ một chiếc xe lam ngày ngày chạy trên đường phố kiếm cơm.
Xe lam và xe taxi trên đường phố Sài Gòn
Giá chiếc xe lam vào thập niên 60 khoảng 30 cây vàng nhưng vàng hồi đó còn rẻ chứ không “leo thang” như ngày nay. Có tài xế xe lam còn khoe: “Chạy một ngày, ăn cả tháng chưa hết”. Nói vậy có lẽ hơi quá, nghề nào cũng có những gian nan, khổ cực của nó, nhưng câu nói đó cho thấy nghề tài xe lam thời hoàng kim là một trong những nghề “hot”…
Đặc điểm của xe lam là tính “cơ động”, hành khách có thể lên xuống xe tại bất cứ chỗ nào dọc theo tuyến mà không cần trạm lên xuống như xe buýt. Miền Nam trong thời kỳ chiến tranh leo thang, xe lam cũng là phương tiện “chạy giặc” hữu hiệu vì gọn nhẹ lại chở được nhiều đồ đạc như bức hình dưới đây:
Xe lam “chạy giặc”
Sau biến cố 30/4/1975 xe lam vẫn tiếp tục tồn tại trong khi taxi phải mất nhiều năm mới khôi phục vào thời kỳ Đổi Mới với những chiếc taxi sơn màu vàng mang thương hiệu Vinataxi, một liên doanh với Hồng Kông. Xe lam trong thời kỳ này được dùng làm phương tiện đi lại phổ biến, rẻ tiền và dĩ nhiên vẫn giữ được “thời vàng son” của nó.
Lúc đó, chỉ riêng thị xã Biên Hòa, có 6 hợp tác xã xe lam với khoảng 1.000 đầu xe đăng ký chở khách chính thức, với hàng triệu lượt khách mỗi năm. Cũng vì thế mà có thời Biên Hòa được ví như là “thủ phủ xe lam”. Sau này, những chiếc xe lam đã “có tuổi” nhưng vẫn được đem ra miền Bắc để giải bài toán giao thông ngày càng phức tạp tại các đô thị lớn.
Xe Lam đậu cạnh “người anh em” Lambretta sau năm 1975
Xe lam là loại xe có một cabin phía trước dành cho tài xế và một thùng xe có thể chở hành khách và hàng hóa. Khách ngồi trên băng ghế dài, dọc theo hai bên thùng xe với sức chứa trên 10 người, đó là chưa kể trường hợp đặc biệt, 2 người khách nữa có thể ngồi 2 bên tài xế trong khoang lái!
Động cơ xe nằm ngay dưới yên dành cho tài xế. Khi xe chết máy, bác tài phải nhảy xuống đường, giở yên xe lên, chùi lại bu-gi, dùng một sợi dây thừng kéo cho máy nổ hoặc dùng bàn đạp khởi động lại máy xe.
Gặp khi đông khách, bác tài cũng sẵn sàng ngồi thu gọn lại ngay giữa yên để có thêm chỗ cho hai khách ngồi ké vào hai bên. Chuyện kể một chuyến xe đang chạy ngon trớn bỗng động cơ xe ngừng hoạt động. Bác tài nói với 2 bà ngồi hai bên: “Hai bà làm ơn xuống xe cho tôi đạp máy”.
Vốn là người miền Nam nên bác tài phát âm “đạp máy” nghe như “đạp mái” khiến một bà lên tiếng: “Cái ông này ‘dê đạo lộ’. Xe chết máy không lo sửa mà lại còn đòi… đạp mái. Vô duyên!”
Chuyến xe… bão táp
Bên trong xe lam là cả một kho truyện tình cảm “lâm li bi đát” nhưng cũng có khi là những chuyện “trời ơi đất hỡi” đáng ghi nhớ. Những chuyến xe đông người có thể trà trộn khách thuộc loại có “bàn tay nhám” hay “diệu thủ thơ sinh” chuyên nghề móc túi. Lại còn có những “bóng hồng” hành nghề “bỏ bùa mê” để trộm cắp tài sản của khách trên xe.
Hành khách ngồi “chen vai thích cánh” trên xe cũng dễ nảy sinh tình cảm bất ngờ nhưng lại cũng dễ xảy ra.. tai họa. Có trường hợp chàng trai bị cô gái “hớp hồn” trên xe lam nhưng khi xuống xe cái bóp đã… “không cánh mà bay”.
Cũng có thể là một chuyện tình lãng mạn của đôi trai gái đi chung một chuyến xe lam như nhà thơ Trần Thanh kể lại trong bài Trên chuyến xe lam:
“Tôi vẫn nhớ mùa thu năm ấy
Tôi quen nàng trên chuyến xe lam
Nàng nhìn tôi đôi mắt mơ màng
Tôi bẽn lẽn nhìn sang không nói…
“Ông vua nhạc sến” Vinh Sử có bài Chuyến xe lam chiều (*) với những ca từ rất bình dân kể lại một mối tình của đôi trai gái quen nhau trên một chuyến xe lam. Mối tình sau này tan vỡ không phải vì nàng bỏ đi lấy chồng mà là chàng “tham phú phụ bần” lấy con gái nhà giàu:
“Trên chuyến xe lam đông người chiều nao
Xui mình không quen mà ngồi bên nhau
Trời mang nhiều trớ trêu chi
Người chưa hề biết quen gì
Sao ngồi gần như tình nhân si…
….
Ngờ đâu yêu đương như đám lục bình
Trôi theo con nước vô tình
Anh lấy vợ người ta giàu có
Tình em như cát dã tràng biển đông
Em muốn tìm chồng cho xong
Nhưng ngại thêm gặp kẻ bạc lòng…
Xe lam chở nữ sinh
Một thời đã qua kéo theo nhiều kỷ niệm từ các phương tiện di chuyển công cộng tại Sài Gòn xưa. Loạt bài viết này chỉ mới ghi lại một phần nhỏ trong những sinh hoạt hàng ngày khi đi lại. Có lẽ những thế hệ trẻ ngày nay không ngờ lớp cha, ông đã trải qua nhiều thời kỳ lý thú đến như vậy. Biết đâu chừng con cháu lại thấy cha ông mình sao… khổ quá!
(*) Video clip Chuyến xe Lam chiều, Nhạc Vinh Sử, Ca sĩ Phi Nhung:
Trực thăng CH-47 “Chinook” của Mỹ có khả năng chở 7,6m3 nước một lúc.Đây vốn là loại máy bay trực thăng vận tải quân sự hạng nặng được chuyển đổi thành trực thăng cứu hỏa.Trực thăng CH-47 là phương tiện cứu hỏa tối tân nhất thế giới thời điểm đó. Phải thực hiện nhiều chuyến “múc nước”, chiếc trực thăng mới khống chế được đám cháy.
Ngày 24/10/1971, thành phố Sài Gòn náo động vì chợ Cầu Ông Lãnh bốc cháy ngùn ngụt. Ảnh: Manhhai Flickr.
Một chiếc trực thăng cứu hỏa CH-47 “Chinook” của Mỹ đã nhận lệnh bay đi múc nước ở kênh Bến Nghé gần đó để chữa cháy.
Chiếc trực thăng bay sát mặt nước để thả hai chiếc “xô” khổng lồ xuống nước…
…Rồi bay lên sau khi đã lấy được nước.
Nhanh chóng bay tới hiện trường đám cháy.
Người dân Sài Gòn tập trung rất đông trên các con đường gần đó để xem chữa cháy.
Chiếc máy bay tiếp cận vị trí đám cháy và xả nước.
Một “thác nước” tuôn xối xả xuống đám cháy.
Trực thăng CH-47 “Chinook” của Mỹ có khả năng chở 7,6m3 nước một lúc.
Đây vốn là loại máy bay trực thăng vận tải quân sự hạng nặng được chuyển đổi thành trực thăng cứu hỏa.
Trực thăng CH-47 là phương tiện cứu hỏa tối tân nhất thế giới thời điểm đó.
Phải thực hiện nhiều chuyến “múc nước”, chiếc trực thăng mới khống chế được đám cháy.
Bài viết này được thực hiện dựa trên tư liệu của cuốn sách ” Quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm” ( tác giả: Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng). Tất cả tư liệu hình ảnh trong bài viết này đều lấy từ blog của bác sĩ Nguyễn Xuân Quang: https://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com/
1. Thuyền cơ bản:
NGUỒN:
Do cưa chỉ trở nên thông dụng từ thời đại đồ sắt, những chiếc thuyền thời Đông Sơn có thể đều là thuyền độc mộc.
Đây là loại thuyền đơn giản nhất: Một “ cái máng” để người ta ngồi vào mà chèo qua sông. Ngoại trừ việc thân, đuôi và mũi thuyền thường được chạm trổ, trang trí cầu kỳ thì bản thân chiếc thuyền không được trang bị thêm bất kì phụ kiện nào cả ( mái chèo, buồm,… hoàn toàn trống trải).
Về mẫu mã, bản thân thuyền cơ bản chia ra 2 loại thuyền chính: thuyền ngắn và thuyền dài. Trong đó:
– thuyền ngắn thường được chạm trổ cầu kỳ, nhưng chỉ đủ chỗ cho 3 người ngồi. Điểm đặc biệt ở thuyền này là phần mũi thuyền có 1 mũi phụ cong vút vươn dài ra phía trước.
hình khắc trên trống Làng Vạc
– Thuyền dài chạm trổ ít cầu kỳ hơn, thường đủ chổ cho 4 – 8 người
hình khắc trên trống Làng Vạc
Hình khắc trên trống Đồi Ro
PHỤC DỰNG:
Căn cứ vào các tư liệu có được, tôi phục dựng lại 2 mẫu thuyền loại cơ bản như sau:
tranh phục dựng do Mitteam thực hiện
Theo sách ” Quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm”, khi đo tương quan giữa thuyền và người chèo ở các hình khắc trên trống đồng, thuyền loại này dài trung bình 4 – 6 met. Chiếc ngắn dài chỉ khoảng 3 met, còn chiếc dài nhất có khi hơn 10 met.
2.Thuyền có mái chèo:
NGUỒN:
Theo các hình khắc trên trống, đây có khả năng cũng là một loại thuyền độc mộc.
So với thuyền cơ bản, loại thuyền này được cải tiến bằng việc lắp thêm một mái chèo ở đuôi. Và chỉ có thế.
Về mẫu mã, bản thân thuyền có mái chèo chia ra 2 loại thuyền chính: thuyền ngắn và thuyền dài. Trong đó:
– thuyền ngắn có mái chèo: chính là phiên bản thuyền ngắn của mục “ 1. thuyền cơ bản” nhưng có thêm hai cải tiến. Đó là được lắp thêm mái chèo ở đuôi, và phần mũi thuyền phụ lớn đủ để cho một người nữa đứng trên đó làm quân tiên phong khi giao chiến .
hình khắc trên trống Miếu Môn
hình khắc trên trống Miếu Môn
– Thuyền dài có mái chèo: chính là phiên bản nâng cấp của thuyền dài trong mục “ 1. thuyền cơ bản”. Thuyền dài này được lắp thêm mái chèo ở đuôi và trống ở giữa thuyền.
hình khắc trên trống Sông Đà
PHỤC DỰNG:
Căn cứ vào các tư liệu có được, tôi phục dựng lại 2 mẫu có mái chèo như sau:
tranh phục dựng do Mitteam thực hiện
Theo sách ” Quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm”, khi đo tương quan giữa thuyền và người chèo ở các hình khắc trên trống đồng, thuyền loại này dài khoảng từ 10 – 15 met.
3.Thuyền có lầu:
NGUỒN:
Được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ. Đây là loại thuyền chiến chuyên nghiệp, được trang bị kỹ lưỡng nhất trong các loại thuyền được khắc trên trống đồng. Nó có mái chèo ở đuôi, trống trận ở giữa thuyền. Đặc biệt, thuyền còn được trang bị thêm một cái lầu ở gần đuôi thuyền, làm nơi cho cung thủ sử dụng. Ở ngay dưới lầu là phòng đặt vật dụng ( vd: trống đồng). Binh lính được trang bị rất đa dạng,
Làm sao có thể có lầu trên một chiếc thuyền độc mộc. Có 2 giả thuyết được đưa ra:
1/ Đây không phải là thuyền độc mộc nữa mà có lẽ là một loại thuyền đóng ván. Sự thật, đã có xuất hiện cưa ở một số nơi trên thế giới thời đồ đồng, nhưng việc sử dụng cưa đồng rất tốn kém vì mau mòn. Vậy, người Đông Sơn đã từng sử dụng cưa đồng để đóng thuyền?
2/ Đây kỳ thực vẫn là thuyền độc mộc. Chiếc lầu trên thuyền kỳ thực chỉ là do một số thân tre và gỗ được cột lại rồi buộc chặt vào thuyền???
trống đồng Hoàng Hạ
trống đồng Hoàng Hạ
trống đồng Hoàng Hạ
trống đồng Hoàng Hạ
trống đồng Hoàng Hạ
trống đồng Hoàng Hạ
Điều đáng lưu ý nữa là theo các hình vẽ trên trống Hoàng Hạ, Ngọc Lũ, không hề thấy người chèo thuyền xuất hiện trên thuyền. Điều này có thể do một trong hai nguyên nhân dưới đây:
– đây là thuyền buồm, nên không cần tay chèo. Nhưng cánh buồm đã bị giản lược khỏi hình vẽ trên trống.
– đây vẫn là thuyền chèo, không có buồm. Những người lính trên thuyền đã kiêm luôn việc chèo thuyền, nhưng chi tiết này bị hình khắc trên trống giản lược
trống đồng Ngọc Lũ
PHỤC DỰNG:
Dựa vào các hình khắc và giả thuyết nêu trên, có 3 bản vẽ được phục dựng về loại thuyền này như sau:
Bản vẽ 1: giả thuyết thuyền độc mộc có lầu. Tranh do Mitteam thực hiện
Bản vẽ 2: giả thuyết thuyền đóng có lầu. Tranh do Mitteam thực hiện
Bản vẽ 3: giả thuyết thuyền có trang bị buồm ( bất kể độc mộc hay thuyền đóng). Tranh do Mitteam thực hiện
Theo sách ” Quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm”, khi đo tương quan giữa thuyền và người chèo ở các hình khắc trên trống đồng, thuyền loại này dài khoảng từ 20 – 30 met. Chiếc lầu trên thuyền cao khoảng 1,5 met.
Dưới đây là bảng danh sách những loại vũ khí, binh chủng có bằng chứng xác nhận là đã thật sự được sử dụng – hoặc ít nhất, được biết đến – vào đời Trần. Để tránh việc suy luận nhiều khi có thể dẫn đến sai lầm, bài viết này loại bỏ những thông tin về vũ khí được nhắc đến ở những triều đại Ngô – Đinh – Lý trước đó. Các thông tin đó sẽ được đề cập ở những bài viết khác, tương ứng với triều đại của nó. Bài viết cũng loại bỏ phần chiến thuyền, vì đây là một đề tài phức tạp, gắn liền với binh chủng thuỷ quân, cần có một bài riêng.
1/ Giáo + khiên:
– Trên chiếc thạp bằng sứ tráng men thời Trần, ta thấy vẽ hình các chiến binh cầm giáo và khiên đang tập luyện với nhau.
Thạp gốm đời Trần
= > Như vậy, vào đời Trần, có thể người ta thường sử dụng giáo kết hợp với khiên.
2/ Gậy:
– Sứ giả Nguyên là Trần Phu trong cuốn An Nam Tức Sự của mình miêu tả về dân binh đời Trần như sau:
“ Mỗi châu huyện có quan gọi là “tướng tưu”, coi việc tuần tra, kiêm lĩnh quân sĩ. Có biến động thì lệnh bọn tráng đinh đi đến, các đồ khí giới đều tự trang bị, không có cung tên, chỉ cầm phiêu thương, nỏ thuốc độc, cũng có người cầm cây gỗ trắng”
( Nguyên văn viết là: “ 无弓矢,惟持药弩标枪,亦有操白梃者 – vô cung thỉ, duy trì dược nỗ phiêu thương, dựu hữu thao bạch đĩnh giả”. Văn bản gốc miêu tả cây gậy dưới cái tên “ bạch đĩnh”.)
3/ Lao:
– Cũng Trần Phu ở trên đã xác nhận trong số các vũ khí của dân binh đời Trần, có một thứ mà ông gọi là phiêu thương-标枪. Phiêu thương là cách người Trung Quốc…hiện đại dùng để gọi cây lao. Đáng tiếc là ta không dám chắc người đời Nguyên có sử dụng cách gọi đó với cùng một nghĩa hay không.
hai loại mũi giáo đời Trần khai quật được. Hình từ sách Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh, tập 24. Có thể mũi lao cũng trông như thế này.
4/ Nỏ thuốc độc:
– Cũng Trần Phu ở trên đã xác nhận trong số các vũ khí của dân binh đời Trần, có một thứ mà ông gọi là dược nỗ-药弩, tức nỏ thuốc độc.
– Nguyên Sử cũng xác nhận tướng Nguyên là Lý Hằng đã bị tên độc bắn chết khi tham chiến ở ta trong cuộc xâm lăng lần thứ 2. Nhưng sách không thể xác nhận được mũi tên đó được bắn bằng cung hay nỏ.
– Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, năm 1305 viết rằng:
“ Bấy giờ có viên độc bạ là Trần Cụ tính khoan hậu, cẩn thận, thật thà, giỏi ngề đánh cá,bắn nỏ và chơi cầu. Vua sai dạy thái tử các nghề ấy.
…Người đời bắn nỏ, chân đứng cũng như bắn cung, tức là kiểu chữ “đinh” không thành, chữ “bát” không ngay. Cụ thì đứng ngay ngắn mà bắn và bảo mọi người:”Phàm bắn cung thì tay trái giơ ra phía trước nắm lấy thân cung, tay phải kéo dây cung về phía sau, mình đã nghiêng thì chân cũng phải lệch, còn bắn nỏ thì đưa cân bằng ra phía trước, cho nên khi cầm nỏ mà bắn, thân mình ngay ngắn, thì cớ gì chân lại phải đứng lệch?”.”
tranh đi săn tù binh trên thạp gốm đời Trần. Ở góc phải có xuất hiện một thứ không rõ là cung hay nỏ.
5/ Cung tên:
– Cũng chi tiết về Trần Cụ mà Toàn Thư chép ở trên, ta có thể thấy người đời Trần có hiểu biết về cung và thật sự biết bắn cung. Bằng chứng là Trần Cụ đã phân tích sự khác biệt giữa cách bắn cung và bắn nỏ như ta thấy. Như vậy, lời nói của Trần Phu không hẳn phủ nhận việc người Việt sử dụng cung tên, mà là xác nhận dân binh đời Trần không sử dụng loại vũ khí này.
– Trong Hịch tướng sĩ, Trần – Quốc Tuấn khuyên các tướng phải “huấn luyện quân sĩ,tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”.
– Nguyên Sử cũng xác nhận tướng Nguyên là Lý Hằng đã bị tên độc bắn chết khi tham chiến ở ta trong cuộc xâm lăng lần thứ 2. Nhưng sách không thể xác nhận được mũi tên đó được bắn bằng cung hay nỏ.
Điều khó khăn ở đây là ta không thể biết được cung tên thời Trần được chế tạo bằng loại chất liệu gì, để qua đó ước lượng lực bắn và tầm bắn của cung Việt thời đó.
6/ Khiên:
– Như trên đã nói, thạp sứ đời Trần có hình ảnh mô tả binh sỉ sử dụng khiên và giáo.
– Trong An Nam Tức Sự, sứ giả Trần Phu miêu tả về các vương hầu như sau:
“ Nắm việc nước có hai người, chú của vua là Thái sư Trần Quang Khải và em là Thái úy Trần Đức Diệp. Việc nước lớn nhỏ, Khải, Diệp đều nắm giữ. Hễ ngồi kiệu đến dưới cửa điện thì có hai người cầm hai cái mộc, tròn như cái gương, màu xanh, rộng sáu thước, trên mộc vẽ hình Mặt trăng, Mặt trời, sao Bắc đẩu, 28 ngôi sao, ý là để tự phòng vệ vậy.”
Một chiếc thạp đời Trần khác, miêu tả người chiến binh sử dụng khiên cùng một loại vũ khí lạ, trông như chày.
– Theo sách Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh, người ta đã khai quật được một cái khiên gỗ dài tới 1 met, có hình dạng như sau:
khiên bằng gỗ, cao 1 met
7/ Sóc:
là loại giáo dài khoảng 4,1 met.
– bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão: “Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu” ( cắp ngang ngọn sóc đã được mấy mùa thu rồi)
– Trần Quang Khải sau khi đánh thắng trận Chương Dương – Thăng Long đã làm thơ ca ngợi chiến công, trong đó có câu “Đoạt sáo Chương Dương độ” ( đoạt sóc ở Chương Dương)
= > Theo những bài thơ này thì sóc được cả quân ta lẫn quân Nguyên sử dụng.
8/ Kích:
phiên bản cao cấp hơn của giáo, cách sử dụng cũng khó hơn rất nhiều.
– Trong Bạch Đằng Giang Phú của Trương Hán Siêu có viết: “ chiết kích trầm giang”. Cụm từ này được sách giáo khoa dịch là “ sông chìm giáo gẫy”, nhưng kỳ thực ý nghĩa của nó là “ những ngọn kích gẫy trầm mình dưới đáy sông”.
Tuy vậy, bài phú này mang nhiều tính ước lệ. Ngoài việc xác nhận người đời Trần biết đến sự tồn tại của kích ra, ta không dám chắc nó có thật sự khẳng định binh sĩ hai bên sử dụng loại vũ khí này hay đây chỉ là một cách nói cường điệu trong văn vẻ mà thôi. Ngoài ra, ta cũng không có tư liệu hình ảnh gì về kích thời Trần.
Các mẫu kích trong đồ nghi trượng thời Nguyễn
Phương Thiên Họa Kích trong tranh đời Nguyễn, xuất hiện trong cuốn ” techique du people Annam”
9/Câu liêm:
loại vũ khí có cán dài, lưỡi quắm, dùng để móc hoặc cắt dây leo.
– Trong trận Bạch Đằng (1288), tướng Nguyên là Phàn Tiếp bị thương nhảy xuống nước, quân ta dùng câu liêm móc lên bắt sống.
– Theo sách Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh, người ta cũng đã khai quật được một lưỡi câu liêm đời Trần, hình dáng như sau ( có vẽ hai mũi câu liêm đã bị gãy):
10/ Đao kiếm:
Theo người Việt thường hình dung:
– Kiếm là thứ vũ khí cán ngắn, thân kiếm thanh mảnh, mũi nhọn, lưỡi có thể dài hoặc cong, thường dùng để đâm hoặc chém.
– Đao được xem là tương tự kiếm nhưng thân thường to bản và có lưỡi cong, chủ yếu dùng để chém.
Thật ra Trung Quốc và các nước Đông Á khác không phân loại như vậy. Thứ người Việt thường xem là “ đao” kia thực chất là mẫu đao kiểu Tống-Minh,có lưỡi cong và thân thường to bản. Thế nhưng, đó chỉ là một trong rất nhiều kiểu đao mà thôi.
Theo cách phân loại của Trung Quốc, được cả Hàn và Nhật đồng tình sử dụng:
– Kiếm: có 2 lưỡi, có thể dùng để đâm hoặc chém
– Đao: có 1 lưỡi, thiên về chém Nhưng vẫn có thể dùng để đâm ( nếu có mũi nhọn).
* Katana -刀, trong tiếng Nhật kỳ thực có nghĩa là đao, không phải là kiếm như người Việt thường gọi.
* Cần phải nói thêm rằng, trước khi đụng độ với quân Mông Cổ, đao kiếm các nước Đông Á như Trung Quốc, Hàn, Nhật đều thẳng tắp. Đao cong mà ta thấy sau này là do ảnh hưởng từ vũ khí của người Mông Cổ.
Như vậy, để tránh những rắc rối có thể xảy ra do việc phân loại, tôi gộp hết cả hai loại vào một nhóm.
Nhà Trần để lại một số tư liệu về đao kiếm như sau:
– Trong bài Bạch Đằng Giang Phú, Trương Hán Siêu mô tả quân nhà Trần trong trận Bạch Đằng như sau:
Từ “ nhẫn”-刃có thể dùng để ám chỉ vũ khí có mũi nhọn, lại cũng có thể dùng để ám chỉ vũ khí có lưỡi để chém ( VD: đao nhẫn – 刀刃 : lưỡi đao). Như vậy, từ này có thể dùng để cùng lúc ám chỉ cả giáo, đao, kiếm và tất cả các vũ khí dùng để đâm hoặc chém khác.
– Đao còn được nhắc đến gián tiếp ở các sự kiện như sau trong Toàn Thư:
+ “1285: Tháng 5, ngày mồng 3, hai vua đánh bại giặc ở phủ Trường Yên2, chém đầucắt tai giặc nhiều không kể xiết.”
+ “ 1285: Hôm đó, ta đánh bại giặc ở Tây Kết, giết và làm bị thương rất nhiều, chém đầu Nguyên Soái Toa Đô8”
+ Năm 1288, có người tên Đặng Long hàng giặc, “ hắn bị bắt, đem chém để răn bảo kẻ khác.”
+ Năm 1309: “ Tên Hân bị chém ở cầu Giang Khẩu”.
…
Còn rất nhiều dòng có nội dung tương tự thế. Vũ khí dùng để chém người ở đây tuy không được nói rõ, nhưng ta có thể dễ dàng nhận biết là đao hoặc kiếm ( dù thiên về đao hơn).
– tranh Trúc Lâm Đại Sĩ Xuất Sơn Đồ có lẽ là bằng chứng rõ ràng nhất về sự xuất hiện của đao kiếm đời Trần. Trong tranh có vẽ các thị vệ cầm đao đang đứng hầu. Cây đao trong tranh là loại đao cong, cho thấy nhà Trần đã rất nhanh chóng tiếp thu mẫu vũ khí này trong quá trình chiến đấu với người Mông Cổ.
quân hầu cầm đao cong trong tranh Trúc Lâm Đại Sĩ Xuất Sơn Đồ đời Trần.
11/ Kỵ binh:
– Được Toàn Thư nhắc đến trong trận Bình Lệ Nguyên năm 1258. Trận này miêu tả tướng Lê Tần “ một mình một ngựa ra vào trận giặc ( Mông Cổ), sắc mặt bình thản như không”.
Tuy thế, sử không miêu tả rõ hơn về trang bị giáp trụ lẫn vũ khí mà kỵ binh thời này sử dụng. Nó cũng không miêu tả quy mô kỵ binh đời Trần chi tiết như thế nào.
thạp gốm đời Trần, vẽ cảnh người cưỡi ngựa.
12/ Tượng binh:
– Toàn Thư có vài lần nhắc đến voi vào đời Trần như sau “ 1269: Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành dâng voi trắng.”. Thế nhưng, không thật sự có một dòng nào nhắc đến voi chiến vào đời Trần.
– Trong các sản phẩm thủ công nghiệp, chúng ta vẫn còn thấy hình ảnh voi trên các thạp gốm tráng men đời Trần.
voi trên thạp gốm đời Trần
– Ngoài ra, bảo tàng Lịch Sử Quốc Gia vẫn còn lưu lại một cái bình trà hình con voi có quản tượng ngồi trên nó.
Như vậy, dưới đời Trần, người Việt thật sự có tiến hành thuần hoá và sử dụng voi. Tuy nhiên, ta không có bằng chứng khẳng định việc họ dùng voi trong chiến trận. Ta chỉ có thể suy đoán rằng thời Trần vẫn có tượng binh, vì binh chủng này đã từng được sử dụng vào đời Lý trước đó ( Thân Cảnh Nguyên đánh quân Tống xâm lược ở ải Quyết Lý năm 1077) và đời Hồ sau đó ( nhà Hồ sử dụng voi chiến trong trận Đa Bang năm 1407).
13/ Máy bắn đá:
– Nguyên sử, phần An Nam truyện có chép việc sử dụng pháo của quân nhà Trần. Sự kiện đó diễn ra vào tháng 2-1285. Quân Nguyên lúc đó tiến đến gần Đông Bộ Đầu, đóng ở bên kia sông Nhị, chuẩn bị tiến công vào Kinh thành Thăng Long. Quân ta do vua Trần chỉ huy từ bên này sông đã “bắn pháo hô to, thách đánh” (nguyên văn của Nguyên sử là: Phát pháo đại hô cầu chiến.). Nguyên văn chữ Hán ghi chữ “ pháo” bằng bộ “ thạch” ( đá), ám chỉ máy bắn đá.
Ta không biết đời Trần sử dụng loại máy bắn đá cụ thể gì. Nhưng theo truyền thống các nước Á Đông như Trung Quốc, Nhật thì trong khu vực thịnh hành loại máy bắn đá giật tay thô sơ.
máy bắn đá giật tay, kiểu máy bắn đá rất phổ biến ở Á Đông.
14/ Hoả súng:
là phiên bản rất sơ khai của súng ống hiện đại. Kích cỡ của nó lúc đó có thể to như đại bác, nhưng thường là những ống đồng nhỏ, buộc lên đầu cán gỗ để người lính cầm tay khi bắn.
Loại vũ khí này bắt đầu xuất hiện vào cuối đời Trần. Nhưng hiện nay, ta không còn lưu lại được mẫu hoả súng nào của triều đại này nữa. Thông tin duy nhất còn lại về sự xuất hiện của nó là trong trận chiến cuối cùng với Chế Bồng Nga được Toàn Thư ghi chép:
“ Khát Chân liền ra lệnh các hoả súng nhất tề nhả đạn,bắn trúng thuyền Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền, Bồng Nga chết, người trong thuyền ồn ào kêu khóc”
Điều đáng lưu ý ở đây là sức mạnh đáng kể của hoả súng nhà Trần. Vào thế kỷ XIV, các hoả súng đương thời trên thế giới thường có lực bắn và tầm bắn yếu. Thế nhưng, hoả súng nhà Trần – dù không biết được bắn ở cự ly nào – đã xuyên thủng cả ván thuyền và giết chết vua Chiêm. Đây là một điều đặc biệt đáng ghi nhận.
mẫu hoả súng của nhà Nguyên- Mông thế kỷ XIV
cách sử dụng hand-cannon đương thời
15/ phủ:
một cây rìu có cán dài.
Nằm ở góc trái tấm hình dưới đây là cây phủ đầu rồng đời Trần được khai quật. Tuy vậy, không có bằng chứng gì phủ được nhà Trần sử dụng làm vũ khí, bởi vì nó vốn được các triều đại phong kiến dùng làm…đồ nghi trượng mà thôi.
16/ Nỏ nước:
Website này đề cập đến An Nam Tức Sự của sứ giả Trần Phu:
Theo đó, Trần Phu từng nhắc đến một thứ vũ khí gọi là nỏ nước:
“Nỏ nước, một tên khác là xá sa, người bắn dùng hơi để bắn xa được ba mươi bộ. Bắn trúng thì thấy có cái bóng màu hồng và ngứa thì liền lấy dao khoét bỏ mảnh thịt đó đi. Không thế thì ngứa cho đến chết “.
Thế nhưng, do thiếu bản chữ Hán, tôi không thể kiểm chứng được thông tin này. Ngoài ra, cách diễn tả của đoạn trích cũng quá khó hình dung loại vũ khí trên có hình thù và hoạt động như thế nào.
17/ Máy bắn nỏ:
Trong An Nam Chí Lược, Lê Trắc xác nhận quân đội nhà Trần sử dụng loại thuyền tiêu chuẩn có tên là Mông Đồng. Mỗi chiếc thuyền này có thể chở khoảng 50 người gồm một nửa là tay chèo, nửa kia là quân lính. Ngoài ra, mỗi thuyền còn được trang bị 2 máy bắn nỏ.
Tuy vậy, ta không có thông tin chi tiết về loại máy bắn nỏ được nhà Trần sử dụng.
Năm 1962, CLB mô tô Hà Nội được thành lập cùng các CLB thể thao khác như tàu lượn, bắn súng, nhảy dù, thông tin… nhằm mục đích lôi cuốn các tầng lớp thanh niên, sinh viên, công nhân viên chức… tham gia các hoạt động vui chơi lành mạnh, rèn luyện và nâng cao sức khỏe, tạo ra 1 lực lượng dự bị có trình độ và kinh nghiệm để sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
Với khẩu hiệu “Khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”, ngay từ những ngày mới thành lập, CLB mô tô HN đã được đông đảo thanh niên hưởng ứng và tham gia luyện tập dưới sự hướng dẫn, dạy bảo tận tình của các thầy Long Hưng, Lê Văn Lãm.
Với lòng hâm mộ môn thể thao mạo hiểm, các nam thanh nữ tú Hà Thành đã dần chinh phục được những “chú ngựa chiến bất kham” với những động tác mô tô nghệ thuật như “nhạn đơn, nhạn kép, nhạn ngũ”, bênh thuyền side car tháo bánh…. Qua nhiều đợt sàng lọc, CLB đã chọn được 1 đội ngũ vận động viên tiêu biểu cho Hà Nội đầy kinh nghiệm, nhiệt tình và hăng hái, mong muốn giới thiệu và quảng bá tới người hâm mộ môn thể thao mới lạ này.
Trong thời gian này, không chỉ thực hiện các hoạt động thể thao thuần túy, CLB còn đảm nhiệm công tác đào tạo các lớp huấn luyện sử dụng thành thạo xe phân khối lớn cho các lực lượng vũ trang như Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An, các lớp tự vệ TP Hà Nội. Mặt khác, CLB còn phối hợp sửa chữa và phục hồi hàng trăm xe 2 và 3 bánh, góp phần cùng bộ đội thông tin giữ vững và thông suốt liên lạc trong thời kỳ đế quốc Mỹ leo thang phá hoại miền Bắc.
Đặc biệt, CLB đã góp phần không nhỏ công sức để giữ vững đường dây thông tin giữa các lực lượng bảo vệ thủ đô Hà Nội trong chiến dịch lịch sử “Điện Biên Phủ trên không” lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu năm 1972. Họ thật xứng đáng với lời khen ngợi của đ/c chủ tịch UBND TP Hà Nội Trần Duy Hưng: “CLB mô tô HN là CLB của những người dũng cảm…”.
Hòa bình lập lại, CLB mô tô HN đã bước sang 1 nhiệm vụ mới với 1 tên gọi mới: CLB mô tô thể thao Hà Nội trực thuộc Liên đoàn xe đạp – mô tô thể thao Việt Nam.
Ít ai biết rằng những năm 60, 70 của thế kỷ trước, đã có một câu lạc bộ mô-tô rất được người dân miền Bắc ưa thích gồm các nam thanh, nữ tú yêu thích phiêu lưu mạo hiểm và đam mê xe.
Câu lạc bộ mô tô Hà Nội thời đó, được thành lập cùng các câu lạc bộ thể thao khác vào năm 1962, như tàu lượn, bắn súng, nhảy dù…nhằm lôi cuốn các tầng lớp tham gia vào hoạt động vui chơi lành mạnh, rèn luyện nâng cao sức khỏe, với khẩu hiệu “Khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Khẩu hiệu ấy, và tinh thần ấy của các nam thanh, nữ tú Hà Thành những năm đầu giải phóng miền bắc đã tạo nên một câu lạc bộ mô tô đầy nhiệt huyết và những màn biểu diễn máu lửa, phục vụ người xem miền Bắc.
Phụ trách Câu lạc bộ lúc bấy giờ là thầy Long Hưng và huấn luyện viên Lê Văn Lẫm, cán bộ của Sở Thể dục thể thao Hà Nội, người từng đứng thứ 4 trong cuộc thi mô tô của 12 nước xã hội chủ nghĩa.
Địa điểm tập luyện là Sân vận động Quần Ngựa với phương tiện chỉ là những chiếc xe mô tô IJ hay JAWA 350 phân khối do Liên Xô và Tiệp Khắc sản xuất.
Thời đó, mô tô còn rất xa lạ, việc điều khiển, rồi làm chủ đến thực hiện những màn biểu diễn nghệ thuật trên xe là điều không hề đơn giản.
Các nam, nữ thanh niên được tuyển chọn vào câu lạc bộ phải trải qua những vòng kiểm tra rất khắt khe về sức khỏe, và kiến thức.
Hàng trăm thanh niên hồ hởi tham gia tuyển chọn vào câu lạc bộ.
Trong số đó đáng chú ý là có cả những cô gái Hà Thành xinh đẹp, dịu dàng nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ.
Qua vòng tuyển chọn ban đầu và vào được câu lạc bộ, việc đầu tiên của những thành viên chưa từng biết tới xe phân khối lớn là phải làm quen với chiếc xe, tập… dắt xe, ngồi lên xe và tập lái.
Các thành viên hồi đó phải trải qua quá trình tập luyện vô cùng vất vả.
Khi tập lái xe, cứ một người ngồi trên xe thì 3 người còn lại sẽ đứng bên cạnh giữ thăng bằng và đẩy chiếc xe đi. Khi đã có thể nổ máy và đi xe một cách thành thạo mới tập những động tác khó như bỏ hai tay, đứng lên yên xe, vừa đi xe vừa biểu diễn các động tác đứng, quỳ, nằm bắn súng bằng hai tay, biểu diễn động tác con nhạn bay trên mô tô…
Sau thời gian khổ luyện đằng đằng, đoàn đã đưa những màn biểu diễn của mình phục vụ tại sân vận động Hàng Đẫy, Hà Nội…
…Rồi một loạt các tỉnh thành miền bắc Như Hải Phòng, Thái Bình, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hòa Bình, Nam Định…và đều được công chúng tán thưởng.
Phương tiện biểu diễn giản dị, với vài chiếc mô tô IJ hay JAWA 350 phân khối, tiền lương thưởng không có gì ngoài vài bộ quần áo, đôi giày, nhưng tinh thần luyện tập, biểu diễn say mê không ngại chấn thương, nguy hiểm của họ thất đáng ngưỡng mộ.
Tinh thần chơi xe, yêu xe và hết lòng vì nghệ thuật ấy của một “thế hệ vàng” trong lịch sử được lưu giữ lại trong nhiều bức hình đẹp mà mỗi chúng ta xem lại vừa khâm phục, vừa suy ngẫm.
Newton viết về thuỷ triều ở vùng Vịnh Hạ Long như thế nào?
Bộ sách Principia là bộ sách khoa học kinh điển nhất xuất bản từ cuối thế kỷ XVII sang đầu thế kỷ XVIII. Có thể nói trên toàn thế giới, những ai đã học qua Trung học cơ sở đều có học đến những định luật quan trọng của Newton rút từ trong bộ sách Principia. Nhưng không mấy ai được thấy và được đọc Principia nguyên bản tuy rằng từ bấy đến nay đã tái bản nhiều lần. Đối với người Việt Nam lại càng ít người được đọc vì bộ sách đó quá cổ, quá đồ sộ chỉ có ở các thư viện lớn ở Âu, Mỹ. Ít người biết là trong đó Newton có viết về thủy triều ở vịnh Bắc Bộ!
Newton dành một đoạn khá dài trong Principia để giải thích thủy triều qua lực hút của mặt trăng và mặt trời lên trái đất. Bình thường thủy triều lên xuống 2 lần một ngày, nhưng ở vịnh Bắc Bộ triều chỉ lên xuống một lần một ngày. Đây là đoạn đầu tiên trong chương về thủy triều trong Principia (bản tiếng Anh của University of California Press, 1934):
Ở đoạn trên, Newton viết rằng các kết quả ở các phần trước cho ta thấy thủy triều phải lên xuống 2 lần một ngày. Nhưng sau đó vài trang, Newton lại viết tiếp như sau:
Đoạn này Newton viết rằng có những nơi thủy triều chỉ có một lần một ngày. Một ví dụ là ở cảng Batshaw, ở vương quốc Tunquin. Vào thời Newton, Tunquin là từ dùng để chỉ xứ Đàng Ngoài (thường viết là Tonkin). Nhưng đố các bạn biết cảng Batshaw là ở đâu?
Newton đã viết về nghiên cứu thuỷ triều ở cảng Batshaw thuộc Vương quốc Tonquin ở vĩ độ 20050’ bắc. Vấn đề là những địa danh nêu trên chính xác là ở đâu? Vương quốc Tonquin chắc chắn là miền Bắc Việt Nam ngày nay. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì thời kỳ mà Newton hoàn thành bộ sách Principia là thời kỳ Vua Lê Chúa Trịnh, kinh đô thuộc vùng đất Hà Nội ngày nay, có tên là Đông Kinh. Đó cũng là trung tâm hành chính thương mại ở miền Bắc.
Người phương Tây phiên âm Đông Kinh ra thành Tunkin, Tonquin, Tongkin hoặc Tonkin, theo cách của người Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha, người Anh, người Pháp. Thời đó đã có Trịnh Nguyễn phân tranh, chúa Nguyễn chiếm cứ từ sông Gianh trở vào. Vì vậy có sự phân biệt Đàng Trong và Đàng Ngoài mà Đàng ngoài người phương Tây còn gọi là Vương quốc Đàng Ngoài hoặc Vương quốc Tonquin như Newton đã viết. Nơi có cảng, có thuỷ triểu lên xuống ở Đàng Ngoài, tức là ở Bắc Việt Nam ngày nay ứng với vĩ tuyến 20050’, là vùng nam thành phố Hạ Long, bắc đảo Cát Bà kéo dài sang phía gần các cửa sông bãi nhà Mạc, các huyện như An Hải (Đồ Sơn cũng gần đấy nhưng hơi lệch về phía nam, dưới vĩ tuyến 20045’).
Trong cả vùng đó chưa phát hiện ra nơi nào, di tích nào có tên gọi Batshaw cả. Một nhà hàng hải ở thế kỷ XVII là William Dampier có viết nhiều sách về du hành, đặc biệt về du hành đến Việt Nam thời đó có viết: Đi từ biển vào đầu tiên là qua Batsha, sau đó đến Domea rồi Hean rồi đến Cachao. Qua nghiên cứu của các nhà khảo cổ Việt Nam thì Cachao là Kẻ Chợ tức Thăng Long Hà Nội xưa, Hean là phố Hiến, một thương cảng sầm uất gần Hưng Yên xưa (thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến), còn Domea thì dự đoán là Đò Mè nằm ở vùng cửa sông Thái Bình, ở vị trí 20045’ vĩ độ Bắc, nay thuộc làng An Dụ xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Vậy là rõ hơn một chút, Batshaw hay Batsha là cảng đầu tiên có từ thế kỷ XVI, XVII trên đường biển rồi có thể từ đó theo sông Hồng lên đến kinh đô thời Lê Trịnh. Sau khi giáo sư Đàm Thanh Sơn đưa thông tin là Newton trong sách Principia có viết về thuỷ triều ở Batshaw một cảng biển ở Bắc Việt Nam nhiều người bình luận, thêm ý kiến về địa danh Batshaw. Có người cho đó là Bãi Cháy, có người cho là Đồ Sơn. Thậm chí Wikipedia tiếng Việt, nói về địa danh Đồ Sơn bài viết có cả một đoạn với đầu đề là Về nguồn gốc tên gọi Batsha (Batshaw), tác giả bài viết nói có tính chất khẳng định “Khi nhắc đến Đồ Sơn người ta nghĩ ngay đến một trong những khu du lịch của miền Bắc. Nhưng tiềm năng du lịch của Đồ Sơn mới bắt đầu được khai thác bởi người Pháp từ những năm đầu thế kỷ XX. Còn trước đó hơn 2 thế kỷ, trong các thể kỷ XVII,XVIII dù tên gọi Đồ Sơn chưa được nhắc tới như trong thư tịch và bản đồ cổ của những nhà hàng hải thương nhân châu Âu tới Đàng Ngoài (chủ yếu là người Hà Lan và người Anh) thì tên gọi Batsha hay Batshaw đã xuất hiện phổ biến. Ngày nay người ta đã xác định được vị trí của Batsha (Batshaw) ở các thế kỷ XVII, XVIII là một làng chài (hoặc xóm chài) nằm trên bán đảo Đồ Sơn.” Chưa thấy tài liệu nào nói rằng ngày nay người ta đã xác định được vị trí của Batsha (Batshaw) ở các thế kỷ XVII, XVIII là một làng chài nằm trên bán đảo Đồ Sơn. Tác giả bài viết về Đồ Sơn cũng không đưa ra dẫn chứng. Theo như Newton đã viết thì Batshaw là một cảng (the port of Batshaw) và ở vĩ độ 20050’ bắc, nên một làng chài ở dưới vĩ tuyến 20045’ bắc mà khẳng định đó là Batshaw thì chưa có cơ sở gì chắc chắn cả. Vấn đề thuỷ triều lên xuống là thuộc về cả một vùng sông biển lớn.
Trong khi chờ đợi những nhà khảo cổ tìm lại được dấu tích của cảng Batshaw nay có lẽ đã bị chôn vùi, có thể xem là Newton đã khảo sát về thuỷ triều ở một vùng rộng lớn thuộc Vịnh Hạ Long.
Đi tham quan một vùng nước sông hoà quyện với nước biển như Hạ Long – Hải Phòng ta cảm nhận rất rõ thuỷ triều lên xuống. Nghĩ về xa xưa, nắm được những quy luật về thuỷ triều này Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán, Lê Hoàn đã đuổi được giặc Tống và Trần Hưng Đạo đã đánh thắng quân Nguyên. Nay lại biết thêm nhà khoa học vĩ đại người Anh là Issac Newton, ở cách xa nửa vòng Trái Đất và hơn 300 năm, trong tác phẩm bất hủ Principia cũng đã viết về thuỷ triều ở vùng sông biển tuyệt đẹp này của Việt Nam!
Đât là loạt ảnh các binh khí ( kiếm, đao, dao, cung) của nhiều danh tướng Việt Nam thời Phong kiến. Ngoài ra, chúng tôi có bổ sung vài mẫu dao găm thường dùng trong chiến tranh chống Thực dân Pháp.
Nguồn ảnh lấy từ Fanpage dự án game Nam Binh Thần Khí.
Khải Định Niên Chế là thanh kiếm lệnh của vua Bảo Đại. . Khải Định Niên Chế là thanh kiếm được trao lại cho Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa bởi vua Bảo Đại vào ngày 30/8/1945 trong lễ thoái vị của ông. Việc trao gửi thanh Kiếm (cùng chiếc ấn vàng) đánh dấu sự chấm dứt của triều đại nhà Nguyễn cũng như chế độ Phong Kiến ở nước ta.(*)
https://www.youtube.com/watch?v=k1cKd4LB_Yo
Khảo luận về Kiếm
Kiếm (劍) thuộc về Binh-Khí Sắc Bén mà con người lưu-tâm nghiên-cứu nhiều nhất về việc đúc rèn. Và cũng là binh-khí lừng-danh của Ngô-Việt từ Thời-Đại Xuân-Thu (722-481 trước CN).
Trong sách Khảo Công Ký (考 工 記) có ghi rằng : « Ngô-Việt chi Kiếm, biến hồ kỳ địa, nhi phi năng lương »(Kiếm của Ngô Việt, đất nào cũng có, vừa đẹp lại tốt).
Kiếm Việt Nam
Ngoài việc sử-dụng trong Chiến-tranh, Kiếm còn được sử-dụng về Biểu-tượng như :
1) – Biểu-tượng Quyền-hành trong Quốc-gia ; đó là Phương Thượng Bảo Kiếm ( 芳 上 寶 劍 ) mà Vua ban cho Quan Đại-Thần được phép « Tiền Trảm Hậu Tấu ».
2) – Biểu-tượng Tước-vị trong Triều-đình ; đó là tùy theo Phẩm-bậc, mà Kiếm và Võ Kiếm đuợc cẩn nạm khác nhau về đá quí và bạc vàng.
3) – Biểu-tượng Giai-cấp trong Xả-hội ; đó là Kiếm của thế-gia Hoc-sĩ.
4) – Biểu-tượng Huyền-năng trong Pháp-thuật ; đó là những thanh Kiếm của Đạo-Gia có khả năng trừ Ma giết Quỉ, tàng-hình, cách-không trảm-thủ.
Đến thời Nhà HẬU-LÊ(1428~1527) bên Đại-Việt và thời Nhà MINH (MING 1368~1644) bên Trung-Hoa, thì Kiếm gồm có hai loại là 1. Loại Kiếm Thẳng và 2. Loại Kiếm Cong (gọi là Gươm) :
1. – Loại Kiếm Thẳng được chia làm hai thứ tùy theo Cạnh Bén : A – Loại Kiếm Thẳng hai cạnh bén, cũng được chia ra làm hai thứ tùy theo hình-dáng của Mũi Kiếm, gọi là Kiếm-Phong : a) Văn Kiếm-Phong Kiếm : Mũi Kiếm hình bầu-dục ; b) Võ Kiếm-Phong Kiếm : Mũi Kiếm hình Tam-Giác.
Ngoài ra, loại Kiếm Thẳng hai cạnh bén còn dược chia ra làm hai thứ tùy theo chiều dài của Tuệ Kiếm (彗 劍) gắn sau đốc chuôi Kiếm : a) Đoản-Tuệ Kiếm ; b) Trường-Tuệ Kiếm. B – Loại Kiếm Thẳng một cạnh bén, cũng được chia ra làm hai thứ tùy theo hình-dáng của Mũi Kiếm, gọi là Kiếm-Phong : a) Kiếm-Phong Thẳng ; b) Kiếm-Phong Vếch lên (Người Nhật gọi là Ikari no KIssaki). Đây là loại Kiếm đặc-thù của Đại-Việt.
2. – Loại Kiếm Cong (gọi là Gươm) được chia làm hai thứ tùy theo phần cong của lưỡi Kiếm : A – Loại Kiếm Cong từ Giữa Thân Kiếm tới Mũi Kiếm ; đây là loại Kiếm Cong của đại đa-số các nước ; B – Loại Kiếm Cong từ Giữa Thân Kiếm tới Chắn Kiếm ; đây là loại Kiếm Cong đặc-thù của Nhật-Bản, gọi là « Katana ».
Thanh Gươm « Talwar » nổi tiếng của Ấn-Độ.
(Loại Gươm Cong từ Giữa Thân Gươm tới Mũi Gươm)
(Tín-dụng Ảnh : India Netzone)
Thanh Gươm « Katana » lừng danh của Nhật-Bản.
(Loại Gươm Cong từ Giữa Thân Gươm tới Chắn Gươm)
Khái-Quát Tiến-Trình của Loại Kiếm Thẳng :
Loại Kiếm Thẳng là loại xuất-hiện đầu tiên từ thời Đông-Châu – 東周 (771~246 TCL), dùng làm binh-khí tùy-thân và để cận-chiến trên chiến-xa, phôi-thai từ lưỡi Mâu bằng đồng và Dao ngắn bằng đồng .
« Mâu Đồng » thời cổ xưa
« Dao Đồng » thời cổ xưa
Thời ĐÔNG-CHÂU – 東周 (771~246 TCL) là giai-đoạn về Kiếm đúc bằng đồng, lưỡi thẳng có hai bề bén và chiều dài chỉ khoảng 40 cm.
Kiếm đồng hai bề bén thời Nhà ĐÔNG-CHÂU (771~246 TCL)
Đến « Xuân-Thu Thời-Đại – 春 秋 時 代 » (722-481 trước CN) thì Kiếm được đúc bằng Đồng phức-hợp, lưỡi thẳng, bản rộng có hai bề bén và dài gần 60 cm, chủ yếu dùng để chém nhiều hơn đâm. Đây là giai-đoạn xuất-hiện những thanh Bảo-Kiếm đầu tiên trong Lịch-Sử Viễn-Đông, do Âu-Dã-Tử ( 歐 冶 子 Ouye Zu) và Can-Tương (干 將 Ganjiang), người đất NGÔ-VIỆT đúc rèn.
« Kiếm Đồng thời Xuân-Thu »
(722-481 trước CN)
« Kiếm Đồng thời Xuân-Thu »
của Việt-Vương Câu-Tiễn
(722-481 trước CN)
Kiếm Đồng (dài 0,60 m) với hai cạnh bén, khai-quật tại Đông-Sơn (Thanh-Hóa – Việt-Nam)
Định-thì bởi Karlgren : 450~230 Av. J.C.
(A et A’ : Cán Kiếm và của hai mặt của Chắn Kiếm ; B : Tiết-diện của lưỡi Kiếm ; C : Chuôi ; D : Trắc-diện của Chắn Kiếm)
– Hình vẻ của Louis Pageot, 1924. Manuel d’Archéologie d’Extrême-Orient, L. Bezacier-
Sang đến Thời Chiến-Quốc, đời Nhà TẦN (221~206 TCL) thì Kiếm được đúc theo dạng Trường-Kiếm, lưỡi thẳng có hai bề bén, nhưng bản Kiếm hẹp hơn bản KIếm thời Xuân-Thu, tiện-lợi để chém cũng như để đâm. Thân Kiếm có tiết-diện hình quả trám có tám cạnh, rồi bớt còn Sáu cạnh, và dài đến 1,40 m. Đây là một giai-đoạn lịch-sử của loại Trường-Kếm sử-dụng bằng hai tay, gọi là «Song-Thủ Kiếm ».
Giản-đồ « Trường-Kiếm với tiết-diện Bát-Giác » có hai cạnh bén.
Thời Nhà HÁN (206 TCL~220 CL)
« Trường-Kiếm » hai cạnh bén rèn đúc bằng hợp-chất Đồng pha Kẽm và Crom. Thời Nhà TẦN (221~206 tr CL)
Giai-thoại TẦN-Thủy Hoàng-Đế đã phải nhờ có người chỉ cho cách xoay bao Kiếm ra sau lưng mới rút được Kiếm để chém Tráng-Sĩ Kinh-Kha, chính là vì lý-do chiều dài của thanh Kiếm này.
Qua thời Nhà Tiền-HÁN còn được gọi là Nhà Tây-HÁN (206~9 tr. CL), người ta bắt đầu cải-tiến nghệ-thuật đúc Kiếm Hai Cạnh Bén bằng Hợp-Kim Đồng pha Kẽm và Crom thời Nhà TẦN, và cùng sáng chế loạiKiếm Một Cạnh Bén có Chuôi Hình Khoen.
Kiếm bằng Hợp-Kim Đồng-Thiếc-Crom, một cạnh bén, có Chuôi hình Khoen,
Thời Nhà Tiền-HÁN (206 tr.CL~9 tr.CL),
thủy-tổ đầu tiên của Trường Kiếm ĐẠI-VIỆT, lưỡi thẳng, một cạnh bén
và của Cổ-Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Hira Zukuri Chokuto x ».
Đến thời Nhà Hậu-HÁN còn được gọi là Nhà Đông-HÁN (23~220 CL), người ta bắt đầu đúc Kiếm bằng Sắt Thép, thân Kiếm có tiết-diện hình quả trám có Tám cạnh, rồi bớt còn Sáu cạnh, xong đến tiết-diện hình quả trám có Bốn Cạnh : hai cạnh bén gọi là Nhận (刃) và hai sống hai bên gọi là Tích (脊), người Nhật gọi nó là Shinogi.
« Trường-Kiếm » hai bề bén bằng Sắt Thép
Thời Nhà Hậu-HÁN (23~220 CL)
Vào thời Nhà TÙY (SUY 581~618 CL), thì nghệ-thuật rèn đúc Kiếm bằng Thép Quán-Cương của Trung-Hoa đã bắt đầu lên đến tuyệt-đỉnh, chỉ thua nghệ thuật đúc Kiếm của thời Nhà Mérovingiens (500~751 CL) bên Tây-phương mà thôi.
« Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, hai Cạnh Bén
của thời Triều-Đại Nhà MEROVINGIENS (500~751 CL) bên Pfasp-Quốc
(Phục-dựng bởi Gaël Fabre theo tài-liệu lịch-sử của Thư-Viện Quốc-Gia Pháp)
Đặc-điểm thanh Kiếm thời Nhà TÙY là thân Kiếm thẳng có một bề bén với hai sống dọc ngang (một sống mỗi bên) gọi là Tích ((脊) – tiếng Nhật gọi là Shinogi – nằm gần phía cạnh bén, nghĩa là nằm xa phía sống lưng Kiếm (người Nhật gọi đó là “KihiraZukuri“) ; cho nên loại Kiếm Nhà TÙY này rất nặng.
« Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, một Cạnh Bén,
rèn đúc năm 616 CL, thời Nhà TÙY (SUY 581~618 CL),
thủy-tổ của Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Kihira Zukuri Chokuto ».
(bão-tồn tại Đền Shitenno, tại Quận Osaka, Japan)
Đến thời Nhà ĐƯỜNG (TANG 618~907 CL), nghệ-thuật rèn đúc Kiếm đã đến mức vô-tiền khoáng-hậu ở Đông-phương và tỏa rộng sự chi-phối đến tất-cả những nước lân-cận đồng văn-hóa, nghĩa là Nhật-Bản, Việt-Nam, Đại-Hàn và Tây-Tạng.
Phải chờ đến thời-đại YOSHINO (thế-kỷ 14) bên Nhật-Bản, người ta mới đúc lại được những thanh Bảo-Kiếm tương-đương nhưng thuộc về loại Kiếm Cong, tức là Gươm, dễ rèn trui hơn loại Kiếm Thẳng một bề bén.
Đặc-điểm thanh Kiếm thời Nhà ĐƯỜNG là thân Kiếm thẳng có một bề bén với hai sống dọc ngang (một sống mỗi bên) gọi là Tích ((脊), nằm xa phía cạnh bén, nghĩa là nằm gần phía sống lưng Kiếm (người Nhật gọi đó là “ShinogiZukuri“) ; cho nên loại Kiếm thời Nhà ĐƯỜNG này không nặng bằng loại Kiếm thời Nhà TÙY và trở nên dễ-dàng huy-động hơn.
« Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, một Cạnh Bén,
thời Nhà ĐƯỜNG » (618~907 CL),
thủy-tổ của Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Shinogi Zukuri Tachi »
và « Trường Kiếm ĐẠI-VIỆT », một bề bén, mũi vếch (Ikari o Kissaki Tsurugi).
Về sau, thời Nhà ĐƯỜNG còn sáng chế thêm một loại Kiếm thẳng có hai cạnh bén, một cạnh bén dài nằm về phía lưỡi Kiếm gọi là Hạ-nhận (下 刃) và một cạnh bén ngắn đằng mũi Kiếm, về phía sống lưng Kiếm, gọi là Thượng-nhận (上 刃).
« Trường Kiếm » bằng Thép quán-cương, hai cạnh bén (Hạ-Nhận và Thượng-Nhận),
Thời Nhà ĐƯỜNG (618~907 CL),
thủy-tổ của hai loại Kiếm NHẬT-BẢN gọi là « Moroha Zukuri Tsurugi »
và « Kissaki Moroha Zukuri Tachi – “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” ».
« Trường Kiếm Song-Thủ và Đơn-Thủ của ĐẠI-VIỆT » gắn Lưỡi bằng Thép có Cán bằng Đồng đúc liền với Chắn kiếm và Chuôi kiếm chạm-trổ.
(Thế-Kỷ 13)
(Tín-dụng ảnh : Nguyễn Ngọc Phương Đông)
« Trường Kiếm ĐẠI-VIỆT » một cạnh bén, mũi vếch
(Thế-Kỷ 15~19).
(Phục-dựng bởi Michel Souquet theo tài-liệu lịch-sử của Thư-Viện Quốc-Gia Pháp)
« Bảo-Kiếm MÃN-THANH » hai cạnh bén của Hoàng-Đế Càn-Long (1735-1796)
Triều Nhà THANH (QING 1644–1911).
« Kiếm ĐẠI-VIỆT » hai cạnh bén
(Thế-Kỷ 18~19).
Khái-Quát Tiến-Trình của Loại Kiếm Cong :
Loại Kiếm Cong (gọi là Gươm hoặc Đao), có một cạnh bén là loại xuất-hiện sau loại Kiếm Thẳng.
Thanh Kiếm Lưỡi Cong « Kissaki Moroha Zukuri Tachi – “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” » của Nhật-Bản với một cạnh bén dài nằm về phía lưỡi Kiếm gọi là Hạ-nhận (下 刃) và một cạnh bén ngắn đằng mũi Kiếm, về phía sống lưng Kiếm, gọi là Thượng-nhận (上 刃) là một chứng-cớ hùng-hồn sự thọ-hưởng chi-phối của loại Kiếm Thẳng hai cạnh bén từ thời Nhà ĐƯỜNG(TANG 618~907 CL).
Giản-đồ Lưỡi Kiếm Cong Nhật-Bản « Kissaki Moroha Zukuri Tachi »
– mang biệt-danh “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” –
(Thanh Gươm này đã từng là sỡ-hữu của Hoàng-Đế Kammu 781~ 806 JC).
Kiếm Lưỡi Cong Nhật-Bản « Kissaki Moroha Zukuri Tachi »
– mang biệt-danh “Kogarasu Maru – 小烏丸 Tiểu Ô-Hoàn” – (Phục-dựng bởi Yao Yilin theo tài-liệu lịch-sử của Hoàng-Gia Nhật-Bản ).
Về sau, Loại Kiếm Cong tiến-hóa thành Loại Gươm–Đao, có một cạnh bén. Nó dẫn-chứng hiển-nhiên sự thọ-hưởng chi-phối của loại Kiếm Thẳng một cạnh bén từ thời Nhà ĐƯỜNG(TANG 618~907 CL),và gồm có hai thứ, một thứ dùng theo Song-Thủ Kiếm và một thứ dùng theo Đơn-Thủ Kiếm :
1) Thứ Gươm dùng theo « Song-Thủ Kiếm » :
Đây là loại Kiếm Cong đã được người Nhật-Bản đưa lên mức tuyệt-đỉnh của nghệ thuật đúc rèn Kiếm, tương-đương với thời Nhà ĐƯỜNG (TANG 618~907 CL).
« Gươm-Katana » của NHẬT-BẢN dùng theo Song-Thủ Kiếm
Thời-Đại YOSHINO – Thế Kỷ 14
Chi-tiết Kiếm-Phong của « Gươm-Katana » NHẬT-BẢN dùng theo Song-Thủ Kiếm.
Thời-Đại YOSHINO – Thế Kỷ 14
« Trường-Đao TRUNG-HOA », thường gọi là Miêu-Đao (Miao-Dao) một cạnh bén, mũi vếch, dùng theo Song-Thủ-Kiếm
do Tướng Thích-Kế-Quang (1528-1587) sáng-chế cùng với Kiếm-Phổ « Tri Tân Dậu Đao-Pháp Thập-Ngũ Thức »
đặng khắc-phục Quân Mông-Cổ và Giặc Biển Đông (Ronin Nhật). Triều Nhà MINH (1364~1644)
.
« Gươm Đồng » một cạnh bén, dùng theo Song-Thủ Kiếm, của Đất GIAO-CHÂU.
(Tín-dụng ảnh : Nguyễn Ngọc Phương Đông)
« Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Song-Thủ Kiếm
Thế-Kỷ 18~19.
(Tín-dụng Ảnh : Nguyễn Ngọc Phưong-Đông)
« Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Song-Thủ Kiếm
Thế-Kỷ 18~19.
Ngự-Lâm Quân cầm Trường Gươm (dùng theo Song-Thủ Kiếm)
Triều Nhà NGUYỄN (1802-1945)
Trường Gươm (dùng theo Song-Thủ Kiếm) trong ngày Lễ Hội
hàng năm vào ngày mồng 10 tháng 03 ở Đền Đỏ
(Đền thờ Thánh-Mẫu Đạm Đồng Lương)
Thôn Sơn-Thọ, Xả Thái-Dương, Huyện Thái-Thụy, Tỉnh Nghệ-An.
2) Thứ Gươm dùng theo « Đơn-Thủ Kiếm » :
Đây là loại Kiếm Cong được thông-dụng nhất trên thế-giới. Loại Gươm này còn được gọi là «Đao » bên Trung-Hoa và được gọi là «Sabre » bên Âu-châu.
« Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Đơn-Thủ Kiếm Đại-Việt – Thế-Kỷ 18~19.
« Gươm ĐẠI-VIỆT » dùng theo Đơn-Thủ Kiếm
với một cạnh bén dài nằm về phía lưỡi Kiếm gọi là Hạ-nhận (下 刃)
và một cạnh bén ngắn đằng mũi Kiếm, về phía sống lưng Kiếm, gọi là Thượng-nhận (上 刃). Đại-Việt – Thế-Kỷ 18~19.
Thanh Bảo Kiếm
Gươm thiêng mài sắc tự bao giờ :
Ngắm lại lòng càng thấy ngẫn-ngơ !
Lưỡi Kiếm vẫn ngời màu nước biếc ;
Chuôi Gươm còn đượm nét bài Thơ.
Bao năm Kiếm báu hờn thư-án ;
Mấy thủa Gươm thiêng hận đợi chờ.
Ánh thép lung-linh như vẻ đón
Bóng người Kiếm-Khách thủa nào xưa…