Category: Sự kiện lịch sử

  • Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Từ thời vua Gia Long tuy có mối giao hảo tốt với phương Tây đặc biệt là Pháp, nhưng vua Gia Long vẫn thấy nguy cơ về mất chủ quyền mỗi khi cơ hội đến với phương Tây thông qua con đường bảo vệ đạo Thiên chúa nên ông căn dặn người kế vị (Minh Mạng) không nên đối xử phân biệt giữa các đạo Nho, Phật, Thiên chúa giáo. Việc khủng bố tôn giáo sẽ là nguyên nhân dẫn đến các biến động xã hội và gây ra thù oán trong nhân dân; đôi khi làm sụp đổ cả ngôi vua.

    Đối với người Công Giáo, thì trong lịch sử bắt đạo ở Việt Nam, cuộc bắt đạo dưới thời vua Minh Mệnh là nổi bật về thái độ thù ghét đạo Công Giáo hơn cả và là cuộc bắt đạo tàn bạo và rất khoa học

    Trước thái độ suy tôn một Thiên Chúa của người Công Giáo và coi Vua chỉ ở bậc thứ nhì. Vua Minh Mệnh coi đạo Công Giáo do ngoại nhân đem vào là một xỉ nhục cho quốc gia, một tai họa cho dân chúng. Với vua Minh Mệnh, trong nước không thể có hai vua cũng như không thể có hai tôn giáo, đã có Nho Giáo rồi thì không thể có đạo Thiên Chúa thờ Chúa trời đất.

    Dưới thời vua Minh Mạng ông cho xử tử rất nhiều giáo sĩ. Việc bắt và xử tử giáo sĩ đến thời vua Thiệu Trị có phần ít hơn, cho lãnh án “trảm giam hậu” (tội chết nhưng giam đợi xét), rồi cuối cùng cũng được trả tự do. Nhưng tới thời vua Tự Đức giáo sĩ lại bị xử tử bắt giam rất nhiều, nhất là trong giao đoạn Chiến tranh Pháp-Đại Nam.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Bản đồ truyền giáo vùng Thượng du Bắc Kỳ thuộc Giáo phận Tây Đàng Ngoài.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Đền thờ các Thánh tử đạo ở Sơn Tây.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Toàn cảnh thị trấn Hưng Hóa, thủ phủ của hội Truyền giáo vùng Thượng du Bắc Kỳ

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Pierre Lê Tùy tại Nghệ An ngày 11/10/1833.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Marchand Du tại Huế ngày 30/11/1835.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Marchand Du tại Huế ngày 30/11/1835.
    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn
    Cuộc tử vì đạo của cha Jean-Charles Cornay Tân tại xứ Đoài (tức Sơn Tây) ngày 20/09/1837

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Jean-Charles Cornay Tân tại xứ Đoài (tức Sơn Tây) ngày 20/09/1837.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn
    Cuộc tử vì đạo của cha François Xavier Nguyễn Cần ở Kẻ Chợ (tức Hà Nội) ngày 26/11/1837

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc bắt bớ và giải thầy Pierre Nguyễn Khắc Tự, cha Vincent Nguyễn Thế Điểm và giám mục Pierre Dumoulin Borie Cao tới Quảng Bình ngày 27/07 và 31/07/1838.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của các ông Michel Nguyễn Huy Mĩ, Antoine Nguyễn Đích và cha Jacques Đỗ Mai Năm tại Nam Định ngày 12/08/1838.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc bắt bớ và giải thầy Jean-Baptiste Đinh Văn Thanh, thầy Pierre Nguyễn Văn Hiếu và cha Pierre Phạm Khắc Khoan tới Ninh Bình ngày 24/08/1838.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của giám mục Pierre Dumoulin-Borie Cao ngày 24/11/1838 tại Đồng Hới.
    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn
    Cuộc tử vì đạo của giám mục Pierre Dumoulin-Borie Cao ngày 24/11/1838 tại Đồng Hới.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Pierre Dumoulin-Borie Cao (1808 – 1838)

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Chiếc gông cùm thánh Pierre Dumоulin-Borie Cao, bị hành quyết tại Đồng Hới năm 1838, bày trong Phòng tưởng niệm những người tử vì đạo tại Hội Thừa sai Paris

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của các cha Paul Nguyễn Văn Mĩ, Pierre Trương Văn Đường, và Pierre Vũ Văn Truật tại Sơn Tây ngày 18/10/1838

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của các cha Paul Nguyễn Văn Mĩ, Pierre Trương Văn Đường, và Pierre Vũ Văn Truật tại Sơn Tây ngày 18/10/1838

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của các cha Paul Phạm Khắc Khoan, Pierre Nguyễn Văn Hiếu và Jean-Baptiste Đinh Văn Thanh tại Vân Sàng – Ninh Bình ngày 28/04/1840
    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn
    Cuộc tử vì đạo của ông Antoine Nguyễn Hữu Quỳnh và thầy Pierre Nguyễn Khắc Tự tại Quảng Bình ngày 10/07/1840
    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn
    Cuộc tử vì đạo của cha Pierre Phạm Khanh tại Hà Tĩnh ngày 12/07/1842

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Augustin Schoeffler Đông tại Sơn Tây ngày 1/05/1851

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Jean-Louis Bonnard Hương tại Vĩnh Trị ngày 1/05/1852.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Thánh Gioan Hương (Jean Louis Bonnard) sinh năm 1824 tại Saint Christo en Jarez, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài. Bị xử trảm ngày 1/05/1852 tại Nam Ðịnh (khi 28 tuổi) dưới đời vua Tự Ðức. Được Giáo hoàng Lêô XIII phong Chân Phước ngày 27/05/1900 và được tuyên phong Hiển Thánh ngày 19/6/1988 bởi Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Lễ kính vào ngày 1/05.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

     Thánh Gioan Ven (Jean Théophane Vénard) sinh năm 1829 tại St. Loup-sur-Thouet, Pháp; linh mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài. Bị xử trảm ngày 2/02/1861 tại Ô Cầu Giấy (khi 32 tuổi) dưới đời vua Tự Ðức. Được Giáo hoàng Piô X phong Chân Phước ngày 2/05/1909 và được tuyên phong thánh ngày 19/6/1988 bởi Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Lễ kính vào ngày 2/02.

     

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Ngôi nhà tại St Loup-sur-Thouet, nước Pháp, nơi thánh Théophane Vénard ra đời.

    Theo hinhanhlichsu.blogspot.com/

  • Chiến dịch Babylift – cuộc di tản trẻ em quy mô lớn năm 1975

    Chiến dịch Babylift – cuộc di tản trẻ em quy mô lớn năm 1975

    Chiến dịch Babylift là tên gọi một chiến dịch nhân đạo di tản quy mô lớn của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam diễn ra từ 3-26/4/1975, ngay trước khi Sài Gòn thất thủ.

    Chiến dịch này nhằm mục tiêu đưa trẻ em từ Nam Việt Nam sang Hoa Kỳ và các quốc gia khác, trong đó bao gồm Pháp, Úc,Canada.

    Tính đến khi chuyến bay cuối cùng rời khỏi Nam Việt Nam, đã có trên 3.300 trẻ sơ sinh và trẻ em được di tản, mặc dù con số báo cáo thực tế rất khác biệt. Hàng ngàn đứa trẻ đã rời khỏi Việt Nam bằng đường hàng không và được nhận nuôi bởi các gia đình trên khắp thế giới.

    Chiến dịch Babylift – cuộc di tản trẻ em quy mô lớn năm 1975
    Trẻ sơ sinh trong chiến dịch

    Mục đích chính của Chiến dịch Babylift là giúp đỡ trẻ mồ côi; nhưng thực tế nó đã bị lợi dụng để di tản trẻ em trước, bố mẹ chúng đã bỏ con lại với hy vọng chúng được an toàn, còn họ sẽ tìm cách di tản đường khác và hội tụ ở Mỹ.

    Ngày 4/4/1975, chuyến bay đầu tiên của chiến dịch Babylift đã diễn ra – nhưng trẻ em cũng không phải là mục đích chính. Bởi sân bay bị bắn phá, máy bay thương mại không thể cất cánh, chỉ còn máy bay quân sự cũng đang di tản cả Sài Gòn. Trẻ em được đưa lên những chiếc máy bay quân sự C-5 Galaxy và C-141 chở hàng hóa.

    Chiến dịch Babylift – cuộc di tản trẻ em quy mô lớn năm 1975
    Trẻ em trong chiến dịch

    Cuộc di tản đầu tiên với máy bay vận tải quân sự C5-Galaxy đã gặp tai nạn. Cách 64 km từ Sài Gòn, trên độ cao 7000 m, những chốt khóa cửa đưa hàng hóa ở đằng sau bị hư, làm cho cửa mở và văng mất. Máy bay do đó bị giảm áp, không còn điều khiển được nữa, và phải bay trở lại phi trường Tân Sơn Nhất. Khi phải đáp khẩn cấp xuống một cánh đồng cách phi trường 3 km, bụng dưới của máy bay bị xé nát, khiến 155 người đã chết. Đa số là trẻ em, ngoài ra còn có 5 trong số 17 phi hành đoàn. Những người sống sót đa số ngồi ở tầng trên của máy bay, trong khi những người ở tầng dưới hầu như đã chết hết.

    Tai nạn dẫn đến Chiến dịch trở thành đề tài cho công luận Mỹ. Các tờ báo trên khắp Hoa Kỳ đã chạy các tiêu đề cảm xúc về phương thức vận hành Babylift là tuyệt vọng và tàn nhẫn.

    Các luật sư, thành viên của Quốc hội, và các nhà báo đều tuyên bố rằng các cuộc di tản đã được lên kế hoạch tồi. Một số người tin rằng toàn bộ nỗ lực di tản chỉ là một phương tiện để có được sự thông cảm cho cuộc chiến tranh Việt Nam, không mang tính chất nhân đạo. Chiến dịch đã tách những em bé sơ sinh còn non nớt ra khỏi cha mẹ, quê hương và văn hóa của chính mình.

    Chiến dịch Babylift – cuộc di tản trẻ em quy mô lớn năm 1975
    Các gia đình nhận con nuôi

    Nhiều người ở Mỹ hoài nghi về các động cơ chính trị đằng sau hoạt động – tại sao chính phủ Hoa Kỳ lại tin rằng trẻ em Việt Nam sẽ tốt hơn ở một quốc gia mới, bị chia rẽ từ quê hương và cha mẹ của họ? Một trong những điểm tranh cãi lớn nhất là thực tế là rất nhiều trẻ em được đưa ra khỏi miền Nam không phải là trẻ mồ côi. Những người phản đối hoạt động này cảm thấy sai lầm về đạo đức khi đưa những đứa trẻ này đến nhà mới, với gia đình mới.

    Người ta cho rằng chính phủ Mỹ đã hành động vì sợ hãi; Bởi vì Tổng thống Ford và các cố vấn của ông sợ rằng trẻ em miền Nam Việt Nam sẽ bị Bắc Việt đối xử tàn nhẫn và rằng họ đang cố cứu mạng sống của những người vô tội này.

    Chuyến bay Chiến dịch Babylift cuối cùng đã kết thúc vào ngày 26/4/1975. Trong suốt 3 tuần lễ di tản, đã có hơn 3.300 trẻ sơ sinh và trẻ em được đưa ra khỏi nước.

    Khi đến nước ngoài, trẻ em được các gia đình mới nhận làm con nuôi nhưng nhiều người không bao giờ quên gốc rễ Việt Nam của mình khi lớn lên. Thực tế, họ đã tìm mọi cách để liên lạc với bố mẹ, những người đã thất lạc khắp mọi nơi và cuối cùng cũng vẫn tìm cách trở về thăm lại quê hương.

  • Trận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa học

    Trận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa học

    Trận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa học

    Trận thủy chiến ngày 09/04/1288 trên sông Bạch Ðằng giữa quân Mông Cổ và quân ta, dưới triều đại nhà Trần, đã được nhiều sách sử (1)(2) kể lại. Ðặc biệt là trong trận này, quân ta dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn đã dựa vào địa thế, địa hình để đánh trận mai phục, đóng cọc trong lòng sông để cản thuyền địch, và lợi dụng lúc thủy triều rút xuống để dòng chảy đẩy thuyền địch vào bãi cọc. Mấy chục năm sau trận chiến, nhà văn Trương Hán Siêu (? – 1354) đã thăm viếng trận địa này, gặp và hỏi ý các bô lão đã chứng kiến sự kiện, và viết bài « Bạch Ðằng Giang phú » nổi tiếng và còn được lưu truyền.

    Ngày nay chúng ta đã xác định được vị trí bãi cọc và tìm lại được một số cọc thời xưa.

    Năm 2000, tàu con thoi Endeavour đã dùng radar để đo cao độ trên phần lớn các lục địa trong chương trình SRTM (Shuttle Radar Topographic Mission) (4).

    Cao độ Z phần đất Việt Nam được đặt trên trang Web (5), cứ mỗi ô vuông kích thước (3 giây Kinh)* (3 giây Vĩ) địa cầu (khoảng 90m*90m trên mặt đất) có một trị Z.

    Tức là cho mỗi ô vuông địa cầu (1 độ Kinh) *(1 độ Vĩ) ta có 1200*1200 trị của Z.

    Trên trang Web (5) thì có mảng cao độ Z cho ô vuông (5 độ Kinh)*(5 độ Vĩ) : mỗi  mảng chứa 36 triệu trị Z.

    Tôi đã tải xuống những mảng (5 độ*5 độ) và trích ra thành những mảng nhỏ hơn (1 độ*1 độ), mỗi mảng chỉ có 1.44 triệu Z, và sắp xếp thành bảng (ma trận) 1200 hàng* 1200 cột. Toàn thể đất liền Việt Nam (và những đảo gần bờ) được chứa trong 57 ô vuông (1 độ Kinh*1 độ Vĩ).

    Tôi đã dùng MatLab để xử lý cao độ Z của vùng đất trận địa Bạch Ðằng và vẽ các hình 1, 2 và 3.

    Hình 1 cho thấy toàn thể trận địa trên vùng đất vuông khoảng (10 km*10 km) và hình 2 và 3 cho vùng đất (4 km*10 km) hai bên bờ sông Bạch Ðằng, khi ta đứng trên đỉnh núi Tràng Kênh nhìn về thượng lưu, nơi khúc sông quanh chuyển hướng 90° và nhìn về hạ lưu, nơi có bãi cọc và Ghềnh Cốc.

    Trận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa họcTrận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa họcTrận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa học

    Trên một vùng đất rộng như vậy, nếu ta có cùng tỉ lệ cho độ cao Z và độ ngang dọc X, Y, thì rất khó nhìn địa thế. Nên ở đây tôi đã nhân Z với 10, để ta thể hiện địa thế rõ ràng hơn.

    Tôi cũng tải xuống bản đồ hàng hải 93626 của NGA từ trang Web (6), để xác định vị trí của Ghềnh Cốc (Hình 4).

    Trận thủy chiến Bạch Đằng qua góc nhìn khoa học

    Trương Hán Siêu đã dùng thuyền nhỏ, xuôi dòng từ cửa Ðại Than (gần Hà Nội, nơi một phần nước sông Hồng chảy vào sông Ðuống) để đến sông Bạch Ðằng :

    Bèn giữa dòng chừ buông chèo,

    Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.

    Qua của Ðại Than, ngược bến Ðông Triều,

    Ðến sông Bạch Ðằng, nổi trôi mặc chèo.

    Lớp lớp sóng kình muôn dặm,

    Xanh xanh đuôi trĩ một màu.

    Nước trời một sắc : phong cảnh ba thu.

    (Nhng dòng viết nghiêng ly t bn dch Bch Ðng Giang phú, ngưi dch Ðông Châu Nguyn Hu Tiến và Bùi Văn Nguyên)

    Ðầu tháng 4 năm 1288, đoàn chiến thuyền Mông Cổ do Ô Mã Nhi thống lĩnh bắt đầu rút lui từ Vạn Kiếp cũng theo tuyến thủy này để ra biển. Ngày 09/04/1288, đoàn thuyền đến cuối sông Ðá Bạc, chỗ dòng chảy chuyển hướng đột ngột để đổ nước vào sông Bạch Ðằng (vị trí quân ta, quân địch, bãi cọc được lấy từ sơ đồ « Chiến thắng Bạch Ðằng ») (1).

    Trên hình 1, ta thấy khi còn trên sông Ðá Bạc và nhìn về phía sông Bạch Ðằng, thì sông Bạch Ðằng hoàn toàn bị che khuất bởi nhiều dãy đồi cao khoảng 100 m, chạy dài theo sông Ðá Bạc: quân địch chỉ có thể  phát hiện trận địa mai phục vào lúc cuối cùng ! Nhất là còn hăng say đuổi theo chiến thuyền ta giả thua rút chạy để nhử thuyền địch vào trận địa mai phục, (trải dài khoảng 4 km hai bên bờ sau khúc sông quanh.). Lúc đó thủy triều xuống, nước chảy xiết.

    Theo bản đồ cho địa hình đáy lòng sông Ðá  Bạc (hình 4), ta thấy hố nước sâu 5m – 7m nằm bên bờ trái khúc sông quanh (bờ lõm), khi đến giữa sông Bạch Ðằng thì chuyển sang bờ phải, và sâu tới 16m – 18m.

    Có nghĩa là dòng chảy chủ lưu khi thủy triều xuống đi từ bờ trái chuyển sang bờ phải để tránh Ghềnh Cốc và chảy ra cửa sông. Như vậy thuyền nhỏ của Trương Hán Siêu, « nổi trôi mặc chèo », cũng tự nhiên trôi ra biển, mà không vướng mắc Ghềnh Cốc.

    Trương Hán Siêu diễn tả hình ảnh đoàn chiến thuyền Mông Cổ hùng hổ đuổi theo chiến thuyền ta đang theo triều rút chạy vào sông Bạch Ðằng (Hình 2):

    « Ðương khi :

      Muôn đội thuyền bày, rừng cờ phấp phới,

      Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.

      Thắng bại chửa phân, Bắc Nam lũy đối.

      Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ :

      Bầu trời đất chừ sắp hoại. »

    Theo hình 4, nếu thuận xuôi theo dòng chủ lưu khi triều rút, thì chiến thuyền Mông Cổ sẽ dồn sang bờ phải và ra biển mà không mắc phải bãi cọc và Ghềnh Cốc. Nhưng bị quân mai phục đánh dạt sang bờ trái, thuyền trôi đến cửa sông Chanh thì vướng bãi cọc và xa hơn nữa thì vướng Ghềnh Cốc, nên bị lật nghiêng và chìm đắm.

    Ðại quân của vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông lại kịp thời đến tiếp ứng:

     « Bên sông các bô lão, hỏi ý ta sở cầu.

      Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.

      Vái ta mà thưa rằng :

      Ðây là chiến điạ buổi Trùng Hưng, Nhị Thánh bắt Ô Mã ;

      Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô Chúa phá Hoằng Thao. »

    Nên chỉ trong một ngày trời mà :

    « Muôn đội thuyền bay » (khoảng 400 chiến thuyền địch) đã bị xóa sổ. Thượng Hoàng sai dẫn hai tướng giặc bị bắt Ô Mã Nhi và Tích Lê Cơ lên thuyền ngự, cùng ngồi nói chuyện với chúng và uống rượu vui vẻ ! Ðứng từ đỉnh gần bờ của dãy núi Tràng Kênh, và nhìn về hạ lưu, nơi của sông Chanh (Hình 3), người hậu thế chỉ còn thấy :

    « Bờ lau xào xạc : bến lách đìu hiu.

      Sông chìm giáo gẫy : gò đầy xương khô.

      Buồn vì cảnh thảm : đứng lặng giờ lâu.

      Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

      Mà nay dấu vết luống còn lưu. »

    Ðể kết luận thì những lý do quân ta thắng trận là ở việc quân ta tập trung, lợi dụng nơi đất hiểm yếu để mai phục (dãy Tràng Kênh che khuất sông Bạch Ðằng, dòng nước chuyển hướng đột ngột khi chảy từ Ðá Bạc vào Bạch Ðằng, Ghềnh Cốc trở thành nông cạn khi triều xuống). Hơn nữa, quân ta đã tăng cường hiệu lực của Ghềnh Cốc bằng bãi cọc ở đầu sông Chanh, và lợi dụng dòng nước chảy xiết khi triều rút để thuyền địch trôi nhanh và khó điều khiển.

    Nhưng theo Trương Hán Siêu, không chỉ có những lý do nêu trên để giải thích thắng trận :

    « Anh minh hai vị Thánh quân,

      Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

      Giặc tan muôn thuở thăng bình,

      Tại đâu đất hiểm,

    ………………….. »

    ….và phiền quý bằng hữu tìm đọc Bạch Ðằng Giang Phú để biết kết luận của Trương Hán Siêu.

    Nguyễn Triệu Đồng 

    Nguồn: toasang-ugvf.org