Category: Văn hóa Việt

  • Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Sau mỗi dịp Tết Nguyên đán, các lễ hội mùa xuân trên khắp đất nước bắt đầu được khai hội. Lễ hội mùa xuân ở Việt Nam là một trong những nét đẹp văn hóa và tâm linh đậm đà bản sắc dân tộc. Các lễ hội mỗi vùng miền có đặc trưng riêng luôn thu hút được đông đảo du khách trong và ngoài nước đến chiêm bái, tham quan.

    Mùa xuân ở Việt Nam thường bắt đầu từ khoảng tháng 2 cho đến tháng 4 và là thời gian diễn ra nhiều lễ hội nhất. Thời tiết thường xuất hiện những cơn mưa phùn, mưa nhỏ nhiều ngày, độ ẩm trong không khí tăng cao nên gây ra thời tiết nồm ẩm. Đây là khoảng thời gian ấm áp nhất trong năm, với thời gian ban ngày rất dài.  Xem bài viết:  Tết 3 miền Bắc – Trung – Nam

    Lễ hội mùa xuân nổi tiếng ở miền Bắc

     

    Lễ hội chùa Hương

    Lễ hội Chùa Hương hay trẩy hội Chùa Hương là lễ hội lớn nhất và kéo dài nhất ở Việt Nam. Lễ hội chùa Hương được tổ chức tại khu thắng cảnh Hương Sơn nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.

    Lễ hội Chùa Hương kéo dài từ ngày mùng 6 Tết cho tới hết tháng 3 Âm lịch. Đây là một lễ hội lớn được tổ chức hằng năm, thu hút số lượng đông đảo các Phật tử trên cả nước tham gia hành hương.

    Lễ hội gò Đống Đa

    Lễ hội gò Đống Đa hay còn gọi là lễ hội chiến thắng là một trong những lễ hội lớn diễn ra tại quận Đống Đa, Hà Nội. Lễ hội được diễn ra vào ngày mùng 5 Tết.

    Lễ hội gò Đống Đa được tổ chức để tưởng nhớ đến những chiến công chống giặc ngoại xâm cứu nước của vua Quang Trung. Lễ hội mang những nghi lễ truyền thống, cờ hoa rực rỡ cùng tiếng trống chiêng thôi thúc chiến đấu, làm sống dậy những trang sử vẻ vang của dân tộc.

    Lễ hội Khai ấn đền Trần

    Lễ khai ấn đền Trần diễn ra giữa đêm 14 và mở đầu cho ngày 15 tháng Giêng, tại Khu di tích đền Trần, phường Lộc Vương, TP Nam Định. Đây là lễ hội mùa xuân nổi tiếng Việt Nam để tri ân công đức của các vị vua Trần. Hội sẽ được bắt đầu với lễ khai ấn, diễn ra vào giờ Tý và ấn được phát tại 3 nhà: nhà trưng bày đền Trùng Hoa, nhà Giải Vũ và một điểm trong khu vực vườn cây thuộc đền Trần.

    Lễ hội mùa xuân đền Trần những năm gần đây thu hút rất nhiều du khách thập phương với mong muốn một năm mới phát tài, thành đạt.

    Lễ hội Yên Tử

    Yên Tử không chỉ nổi tiếng với cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ mà còn là nơi tín ngưỡng tâm linh của rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Yên Tử chính là nơi bắt nguồn của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và cũng là trung tâm Phật Giáo Việt Nam.

    Lễ hội Yên Tử (Quảng Ninh) sẽ bắt đầu từ ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm và kéo dài đến tận tháng 3 Âm lịch. Du khách có thể tới Yên Tử để tham quan ngôi chùa bằng đồng ấn tượng nằm trên đỉnh núi, du xuân vãn cảnh, thưởng ngoạn tiết trời xuân. Nơi đây du khách cầu bình an, may mắn cho cả năm thuận buồm xuôi gió.

    Yên Tử được xem như một điểm hấp dẫn du lịch tôn giáo, lịch sự, văn hóa và sinh thái. Bất kỳ ai đến với lễ hội Yên Tử, nhất là đến được chùa Ðồng đều cảm thấy choáng ngợp bởi sự kỳ vĩ của thiên nhiên. Những giá trị tinh thần, văn hoá của tổ tiên; sự dâng hiến tinh khiết, trong hoa lá…

    Lễ hội chợ Viềng

    Phiên chợ Viềng tại Nam Định nổi tiếng trong các lễ hội mùa xuân tại Việt Nam. Đi chợ Viềng người dân mong muốn “mua may bán rủi”. Dù không mang nhiều tính thương mại nhưng lại có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, cầu may theo quan niệm truyền thống.

    Lễ hội diễn ra vào đêm mùng 7, rạng sáng mùng 8 tháng Giêng Âm lịch. Lễ hội thu hút rất đông người dân, khách du lịch tới tham gia. Các mặt hàng tại chợ Viềng hết sức đa dạng, từ đồ ăn cho tới các vật dụng thôn quê quen thuộc như: thúng, đơm, giỏ, đó, đòn gánh, cuốc xẻng… mỗi du khách có thể lựa chọn mua một thứ đồ yêu thích để lấy “may”.

    Lễ hội Đền Hùng – Giỗ Tổ Hùng Vương

    Lễ hội Đền Hùng là một trong những lễ hội mùa xuân lớn nhất cả nước nhằm tưởng nhớ công ơn của các vị vua Hùng đã có công dựng nước và giữ nước. Lễ hội được tổ chức trong vòng 6 ngày từ mùng 5 đến ngày 10 tháng 3 Âm lịch.

    Đến lễ hội, du khách sẽ được chứng kiến màn rước kiệu vua và lễ dâng hương. Ngoài ra còn rất nhiều hoạt động văn hóa và trò chơi dân gian hấp dẫn như: Hát xoan, đấu vật, kéo co, bơi…

    Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Lễ hội Chùa Hương là lễ hội lớn nhất và kéo dài nhất ở Việt Nam. Ảnh: TL

    Lễ hội mùa xuân miền Trung

     

    Lễ hội Đền vua Mai

    Lễ hội Đền vua Mai diễn ra từ ngày mùng 3 đến mùng 5 Tết. Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ đến vua Mai Hắc Đế, tên thật là Mai Thúc Loan. Vị vua này được sinh ra và lớn lên lại xã Đông Liệt (nay đã được đổi tên thành xã Nam Thái, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

    Lễ hội vật làng Sình

    Lễ hội vật truyền thống làng Sình mang đậm những nét văn hóa đặc sắc của cố đô Huế. Lễ hội diễn ra vào ngày mùng 10 tháng Giêng Âm lịch hàng năm.

    Lễ hội mang đến những trải nghiệm tuyệt vời, kích thích việc rèn luyện sức khỏe, sự tự tin, lòng dũng cảm đối với thế hệ thanh niên.

    Lễ hội Cầu Ngư

    Lễ hội Cầu Ngư còn có tên gọi khác là Lễ hội Cá Ông. Lễ hội được xem là một trong những lễ hội văn hóa đặc trưng của các ngư dân làng chài ven biển Nam Trung Bộ.

    Tham dự lễ hội, du khách có thể để ngắm nhìn những bộ trang phục truyền thống cùng phong tục thờ cúng Cá Ông theo truyền thuyết dân gian. Lễ hội sẽ được tổ chức vào tháng Giêng hàng năm với mong muốn cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy khoang.

     

    Lễ hội mùa xuân ở miền Nam

     

    Lễ hội núi Bà Đen

    Lễ hội núi Bà Đen (Tây Ninh) là một trong những lễ hội lớn nhất miền Nam. Lễ hội bắt đầu diễn ra từ mùng 4 Tết và kéo dài suốt tháng Giêng. Tuy nhiên, bắt đầu từ chiều 30 Tết cho đến hết tháng Giêng Âm lịch du khách thập phương đã đổ về đây dâng hương, cầu bình an, may mắn cho bản thân, gia đình. Ngoài ra, du khách có thể ngắm phong cảnh hùng vĩ, tận hưởng không khí nơi đền chùa thiêng liêng.

    Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu

    Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu (hội chùa Bà – Bình Dương) bắt đầu từ ngày 13 tháng Giêng và diễn ra trong 3 ngày. Lễ hội mang đậm nét văn hóa độc đáo của vùng Đông Nam Bộ.

    Ở lễ hội chùa Bà Thiên Hậu, người dân thường bày bàn cúng trước cửa vào đêm 13 tháng Giêng để chuẩn bị rước Bà vào sáng hôm sau. Dân chúng khắp nơi đổ về thắp hương và cầu mong phúc lộc, bình an.

    Lễ hội đền Đức Thánh Trần

    Lễ hội đền Đức Thánh Trần là một trong những lễ hội tâm linh lớn nhất của TP Hồ Chí Minh. Lễ hội được diễn ra từ ngày mùng 8 đến ngày 10 tháng Giêng Âm lịch hàng năm.

    Lễ hội diễn ra nhằm tri ân công đức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Đồng thời là dịp để giáo dục truyền thống, lịch sử cho thế hệ thanh niên kế cận tiếp bước.

    Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Lễ hội mùa xuân ở Việt Nam là một trong những nét đẹp văn hóa và tâm linh đậm đà bản sắc dân tộc. Ảnh: TL

    Những lưu ý người tham gia lễ hội mùa xuân cần phải biết để không phạm luật

    Tại Khoản 2, Điều 6, Nghị định 110/2018/NĐ-CP về quản lý và tổ chức lễ hội có những quy định mà người tham gia lễ hội cần phải biết để không phạm luật như sau:

    – Chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật; nội quy thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội;

    – Ứng xử có văn hóa trong hoạt động lễ hội; trang phục lịch sự, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam; không nói tục, chửi thề xúc phạm tâm linh, gây ảnh hưởng xấu tới không khí trang nghiêm của lễ hội;

    – Thắp hương, đốt vàng mã đúng nơi quy định; không chen lấn, xô đẩy gây mất trật tự an ninh; giữ gìn vệ sinh môi trường;

    – Không tổ chức hoặc tham gia các hoạt động mê tín, dị đoan, cờ bạc và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

    – Không thực hiện việc đổi tiền có chênh lệch giá trong khu vực di tích, lễ hội;

    – Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngoài việc chấp hành nghiêm quy định trên còn phải thực hiện các quy định sau:

    Không đi lễ hội trong giờ hành chính;

    Không dùng xe công và các phương tiện công (hoặc thuê khoán phương tiện) tham gia lễ hội (trừ trường hợp thuộc thành phần tham gia tổ chức lễ hội hoặc được giao thực thi nhiệm vụ).

  • Nguồn gốc của nước mắm Việt

    Nước mắm là đặc sản của Việt Nam (hiện nay gọi là nước mắm truyền thống), trải qua chiều dài lịch sử có thể đã tồn tại từ trước thời Chúa Nguyễn. Lịch sử đó thế nào, xin nhường lại cho những nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực. 

    Sử ghi, đời Tiền Lê cách nay hơn ngàn năm đã phải cống nạp nước mắm cho nhà Tống. Thời đó Đại Cồ Việt chỉ kiểm soát tới châu Hoan, châu Ái (Thanh – Nghệ). Mắm có thể đã xuất hiện lúc đấy, nhưng mắm là chính, nước mắm là sản phẩm phụ, là thứ nước tươm ra từ làm mắm (cái). Nước mắm được gọi là gì vào thời đó, “lệ ngư” chăng? Với tôi vẫn còn là dấu hỏi.

    Nước mắm Phan Thiết 1935. Tranh của học sinh Trường Vẽ Gia Định, Monographie dessinée de l’Indochine, NXB Paul Geuthner
    Nước mắm Phan Thiết 1935. Tranh của học sinh Trường Vẽ Gia Định, Monographie dessinée de l’Indochine, NXB Paul Geuthner

     

    Gần đây một số bài báo cho rằng, ông Bát Xì Trần Gia Hòa ở Phan Thiết là ông tổ của nước mắm Việt Nam. Nói thế là lộng ngôn.

    Đầu thế kỷ 17, thừa sai người Ý, Cristoforo Borri, được phái đến An Nam truyền giáo và lưu lại xứ này sáu, bảy năm. Ông mô tả về nước mắm trong quyển “Xứ Đàng Trong năm 1621” (1) như sau:

     Thực ra người Đàng Trong ăn cá nhiều hơn ăn thịt. Họ chuyên chú đánh cá chủ yếu là vì họ rất ham thứ nước “sốt” gọi là balaciam làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão ra trong nước. Đây là một thứ nước cốt cay cay tựa như mù tạt (moutarde) của ta, nhà nào cũng dự trữ một lượng lớn đựng đầy trong chum, vại như tại nhiều nơi ở châu Âu, người ta dự trữ rượu. Thứ nước cá này dùng một mình thì không nuốt được, nhưng được dùng để gợi nên hương vị, kích thích tì vị để ăn cơm vốn nhạt nhẽo và không có mùi vị nếu không có thứ nước đó…

    Giữa thế kỷ 18, khi Đàng Ngoài “lấn đất” Đàng Trong, Lê Quý Đôn được cử làm Hiệp trấn xứ Thuận Hóa (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Năm 1776 ông ghi trong  “Phủ biên Tạp lục” rằng, nơi đây đã thu thuế nước mắm thay cho thuế thân.

    Rất tiếc cả hai ông Cristoforo Borri và Lê Quý Đôn đều không nói dân Đàng Trong thời ấy làm nước mắm thế nào. Tuy nhiên, chi tiết “thu thuế dân làm nước mắm” cho thấy, thời đó nước mắm được dùng khá phổ biến, dù chỉ sản xuất ở quy mô gia đình, chứ không phải là hàng tinh túy, quý hiếm đựng trong các bình sang trọng như ở La Mã, Hy Lạp…

    Năm 1931, J. Guillerm trong bài báo Kỹ nghệ nước mắm ở Đông Dương đăng trên tạp chí Các  Viện Pasteur Đông Dương đã điểm sơ qua về lịch sử nước mắm, nói khá kỹ về kỹ nghệ làm nước mắm dưới góc độ khoa học, kể cả việc buôn bán nước mắm ở Đông Dương, các trò gian lận, và biện pháp của chính quyền thuộc địa nhằm ngăn chặn nạn nước mắm giả.

    Ông Bát Xì khởi nghiệp nghề nước mắm ở Phan Thiết đầu thế kỷ 20. Nói ông có công giúp phát triển nghề nước mắm ở Phan Thiết thì được, nhưng nói Bát Xì là ông tổ nghề nước mắm, không phải lộng ngôn thì là gì?

    Các chúa Nguyễn hùng cứ phương Nam từ thế kỷ 17, như vậy nước mắm – hiểu theo nghĩa, cách làm và hương vị gần giống như nước mắm ngày nay, muộn nhất đã có từ thời Chúa Nguyễn, và ắt hẳn xuất xứ từ vùng Nam Trung Bộ (Bình Thuận – Quảng Trị), với nước mắm Mỹ Thủy (Quảng Trị), Cửa Đại, Cửa Khe (Quảng – Đà), xuống đến tận Phan Thiết. Nơi nào mới là nguồn cội của nước mắm ngày nay?

    Nước mắm là đặc sản của Việt Nam (hiện nay gọi là nước mắm truyền thống), trải qua chiều dài lịch sử có thể đã tồn tại từ trước thời Chúa Nguyễn. Lịch sử đó thế nào, xin nhường lại cho những nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực. Chỉ xin lưu ý giùm: Garum có thể là “fish sauce”, nhưng không phải là nước mắm.

    Chú thích:

    (1) “Xứ Đàng Trong năm 1621”, bản dịnh của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị.

    (2) L’ Industrie du Nuoc Mam en Indochine của J. Guillerm, tạp chí Các Viện Pasteur Đông Dương năm 1931, bản dịch của Công Khanh.

    Vũ Thế Thành (trích “Chuyện đời nước nắm”, tái bản 2021)

  • Luận bàn chuyện the phòng trong Truyện Kiều

    Chuyện xưa chuyện nay, luận bàn chuyện the phòng trong Truyện Kiều, giải thích một số từ khoá “bí kíp” phòng the của dân “chơi. Tâm lý, và đặc biệt là sinh lý, là một đề tài được coi là nhạy cảm ở Việt Nam. Việc thiếu những bài viết, cũng như những nghiên cứu về nó chính là một thiệt thòi cũng như khiếm khuyết rất lớn trong nền tri thức Việt.

    Luận bàn chuyện the phòng trong Truyện Kiều
    Chỉ một đoạn thơ cũng đủ để mình thấy tại sao Truyện Kiều lại được xem là đỉnh cao văn học Việt… bởi vì đọc là vậy chứ chưa chắc đã hiểu cái “vậy” nghĩa là gì.

    Trong tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du, đoạn thuật cảnh nàng Kiều sa vào lầu xanh, mụ Tú Bà thong dong dặn dò Kiều cách tiếp đãi khách làng chơi, có những câu:
    “Nghề chơi cũng lắm công phu
    Làng chơi ta phải biết cho đủ điều”
    và:
    “… ai cũng như ai,
    Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
    Ở trong còn lắm điều hay,
    Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
    Này con thuộc lấy nằm lòng,
    Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.”
    Ở đây :
    “Vành ngoài” là bề ngoài, cách đối đãi bề ngoài với khách.
    “Bảy chữ” là bảy việc ghi bằng bảy chữ để dễ nhớ. Bảy việc này là bảy việc làm ở ngoài để khách say mê.
    *

    Vành ngoài bảy chữ : (khốc, tiễn, thích, thiên, giá, tẩu, tử)

    1. Khốc: Có nghĩa là khóc, dùng nước mắt để tranh thủ lòng thương cảm của khách làng chơi. Phải khóc lóc như thật để chứng tỏ mình thành tâm, thiệt ý. Tú bà đã dạy Kiều dùng nước gừng non sống tẩm vào khăn tay để lau nước mắt thì nước mắt sẽ không khô mà còn tuôn ra như suối. Hay ở chỗ là sau khi khóc nhiều cũng sẽ ít làm đỏ mắt, nhức mắt, hay sưng mắt. Nước gừng nếu pha thêm vài vị thuốc nam lành tính thì sẽ giúp đạt được hiệu quả tối ưu nhất.

    “Mỹ nhân lệ, quân tử hàng.”
    Chuyện về nước mắt mỹ nhân nhiều không sao kể hết được, mỗi thời mỗi có, chỉ có thể đặc sắc hơn chứ không thể ít hơn. Nếu mà buộc phải kể ra thì không thể không nói đến một trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa xưa, chính là nàng Điêu Thuyền. Xin mượn đôi lời của người xưa mà ghi chép lại.
    “Mười tám lộ quân chư hầu không giết nổi Đổng Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Điêu Thuyền lại giết nổi Trác. Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không thắng nổi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Điêu Thuyền thắng nổi. Ôi, lấy chăn chiếu làm chiến trường, lấy son phấn làm khôi giáp, lấy mày ngài làm cung nỏ, lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn, lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến lược mưu cơ. Xem thế thì cái bản lãnh của “nữ tướng quân” quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!”

    Xin đừng ai coi thường nước mắt của nữ nhân, thứ vũ khí đó không phải dễ chống lại được đâu. Chính tôi đây lỡ có gặp thì buộc lòng phải bỏ chạy. Bởi nếu không chạy thì chính là sẽ xiêu lòng, rồi sai lòng.
    *
    2. Tiễn: Có nghĩa là cắt. Rủ khách cùng mình mỗi người cùng cắt một mớ tóc, kết thành một sợi rồi chia cho nhau buộc vào hai cánh tay, làm lễ “kết tóc” biểu tỏ thủy chung bền chặt, khách sẽ tưởng là mình chân thành mà không nỡ bỏ. Tốt nhất làm lễ xong thì cho vào túi gấm hoặc túi thơm, bên ngoài thêu tên hai người, hiệu quả tâm lý sẽ càng tăng.

    Nguồn gốc sâu xa của việc này là xuất phát từ hai tục lệ khi xưa, một khi động phòng và một khi hạ táng.
    Động phòng : Trong đám cưới của người Trung Hoa xưa, vào đêm tân hôn hay còn gọi là đêm động phòng hoa trúc, tân lang và tân nương sẽ thực hiện một nghi thức gọi là: “Giao ti kết long phượng, lũ thải kết vân hà, nhất thốn đồng tâm lũ, bách niên trường mệnh hoa”, nghĩa là: Tân lang và tân nương sẽ cùng ngồi trên giường, người con trai ngồi bên trái người con gái ngồi bên phải, mỗi người tự cắt một nhúm tóc của mình. Sau đó dùng sợi tóc dài nhất kết thắt lại bó buộc chặt với nhau, để biểu hiện vợ chồng kết tóc đồng tâm, mãi mãi yêu thương, sống chết có nhau mãi mãi không chia lìa. Luôn yêu thương ân ái tôn trọng lẫn nhau, tin tưởng không nghi ngờ lẫn nhau.

    Hạ táng: Vào thời nhà Hán người Trung Quốc xưa còn có một phong tục khi tổ chức tang lễ cũng có liên quan như sau. Nếu như người vợ không may mắc bệnh qua đời, người chồng sẽ phải bẻ chiếc lược hai vợ chồng dùng hằng ngày làm đôi. Một nửa còn vương những sợi tóc của người vợ lưu lại bên mình, còn một nửa bỏ vào quan tài trôn theo người chết để biểu hiện mãi mãi không quên người vợ đã kết tóc se tơ với mình, mãi mãi ghi nhớ tình cảm vợ chồng ân ái sâu đậm.

    Cơ bản là trong quan niệm của người xưa, “răng, tóc, máu, xương” là những vật có tính linh, có ý nghĩa và có giá trị khi kết nối, tương giao, hoặc dùng làm bùa ngải. Ví dụ như bùa se duyên chẳng hạn. Chính là dùng đến tâm lý hy sinh – ràng buộc.
    *
    3. Thích: Có nghĩa là đâm, chích. Lấy cây trâm chích vào cổ tay hay trên bắp đùi mấy chữ “Thân phu mỗ nhân” (người chồng thân yêu tên là mỗ), khách thấy vậy càng thêm yêu quý, tin tưởng ta. Cứ chích trước một lần, rồi dùng kem che lại, sau này chích lại nhẹ thôi, chính là khơi lớp kem thì chữ sẽ hiện ra. Như vậy sẽ lâu dài và ít đau.
    Cái này thì thời nay cũng có, mấy anh chị cô cậu yêu nhau thỉnh thoảng cũng có lúc bốc đồng, xăm tên của người yêu trên người rồi chụp hình khoe các kiểu. Sau thì xóa hoặc kiếm hình khác xăm đè lên. Mực xóa được, da tẩy được, vậy nên đừng dùng nó để minh chứng cho cái gì cả, tôi chỉ muốn nói vậy thôi. Còn muốn bốc đồng thì cứ cắn nhau hay mút nhau là được rồi, tác dụng cũng không kém đâu.
    *
    4. Thiên: Có nghĩa là đốt, dùng hương đốt vào sáu huyệt của chàng và nàng. Sau khi thề thốt, cả hai áp người vào nhau cùng đốt các huyệt trên bụng, trên cánh tay, cổ tay. Mánh khóe này thuộc phạm vi “khổ nhục kế”. Là dùng trầm hương để đốt, có thể coi như một cách châm huyệt bằng nhiệt độ.

    Cách này khó, phải học kỹ mới làm đúng được, sáu huyệt kia tương truyền là “lục tiệt dục huyệt”, có tác dụng kích thích dục tính, chủ yếu là ở nam nhân. Cách này còn có một cách luận khác, đó là sau khi bị đốt sáu huyệt, thì vị khách kia sẽ vô cùng bị kích thích, dồn hết dương khí vào việc giao hoan ngay sau đó. Khiến cho khi về nhà gặp vợ, thì dù có muốn cũng bất lực (sài hết rồi). Khiến khách nhân lệ thuộc vào phương pháp đốt huyệt đó, chỉ khi đến lầu xanh thì mới được thỏa mãn, lâu dài thì chính là hại nhiều hơn lợi. Chính là ý nghĩa của chữ “tiệt” trong cách gọi tên sáu huyệt đó.

    Còn với nữ nhân, mà ở đây là nói đến những người trong lầu xanh, trộn một chút mỡ lợn với sáp ong bôi vào trước, rồi lấy phấn đánh cho mờ đi. Thì khi đốt sẽ cháy khói và lưu sẹo bỏng y như thật, xong xuôi thì chỉ cần rửa nước là sạch. Có thể dùng cách này để vờ tự đốt mình trước, rồi mới dẫn dụ khách đốt sau. Là tuyệt chiêu trong tuyệt chiêu, là ém khách quen khiến họ không thể rời.
    *
    5. Giá: Có nghĩa là cưới hỏi làm vợ chồng. Sau khi điều tra biết khách là kẻ giàu có thì thủ thỉ, rủ rê, bàn chuyện cưới nhau. Tất nhiên khách muốn cưới thì phải bỏ ra một số tiền lớn để chuộc mình ra. Khi đã xài hết tiền thì tìm cách lật lọng để đuổi khéo khách đi. Cũng có thể dùng tú bà làm rào chắn, nói là giá cả tăng lên, mặt dày thì nói là tiền bị trộm mất, cần chuộc lại từ đầu.
    Cái này thì..
    Bắt thang mà hỏi ông trời,
    Đem tiền cho gái có đòi được không ?
    Không bàn thêm hướng đó nữa.
    Mà nói thật, chốn bụi hồng cay đắng ân tình ấm lạnh, chuyện gì họ cũng trải qua hết rồi. Cho dù ngay lúc đó là vị khách kia có thật lòng thì sao ? Có ai trai tơ mà đi lấy gái lầu xanh hay không, còn gia đình dòng họ nữa chứ, rước được về thì rồi liệu sống có được yên?

    Còn mấy lão gia, mấy ông chủ kia, ai mà không vợ con đề huề, họ phụ bạc người chung thân cả đời của họ được, thì họ cũng phụ bạc mình được. Trẻ đẹp thì đã sao, trẻ đẹp mãi được à, cái gì mua bằng tiền thì cũng đều có hạn sử dụng hết. Tới lúc hết hạn rồi thì liệu có còn đủ sức để quay về lầu xanh kiếm ăn hay không ? Còn chưa nói tới việc cái quá khứ phấn son kia nó đeo bám. Chữ “nghiệp” khó thấy, nhưng không phải là không có.

    Tốt nhất là cứ kiếm tiền, vì tiền cái đã, rồi khi đã hết thời thì hãy tính đến chuyện đi phương trời khác mà mưu sinh, sống bình yên hoặc làm lại từ đầu, sao cũng được. Dù là xưa hay nay, thì phụ nữ thông minh đừng đặt tương lai hay hạnh phúc của mình vào tay đàn ông, đặc biệt là thứ đàn ông mò tới lầu xanh. Đặt vào tiền đáng tin hơn. (khá gần với chân lý)
    *
    6. Tẩu: Có nghĩa là chạy. Đây là kế “đà đao”. Nếu thấy dan díu đã lâu, khách đã hết tiền, muốn chuộc không có tiền mà muốn chơi cũng không còn tiền đâu chơi tiếp thì chỉ còn cách tống khứ khách đi cho rảnh. Lúc ấy phải giả vờ rủ khách đi trốn, hẹn giờ hẹn chỗ nhưng không đến, đánh tiếng cho lính đi bắt kẻ bỏ trốn, thế tất khách phải sợ mà trốn thật. Nếu cần thì thuê họa sư vẽ giấy truy nã, rồi dán gần cổng lầu xanh, hiệu quả chắc chắn tốt.

    Cách này phải cao thủ mới vận dụng tốt được, đã từng nghe thấy chuyện vợ bé cố tình thông báo để vợ lớn tới đánh ghen chưa ? Chỉ cần tự sắp xếp thủ thân sao cho tốt là được, còn lý do là vì mấy ông có vợ bé lại hay ghen ghê lắm. Bản thân thì không thể rước người ta đường đường chính chính về ở với mình được, mà cứ một hai bắt người ta phải chung tình. Bắt đầu bằng cái gì thì kết thúc bằng cái đó, hết tiền thì hết tình thôi, quá đơn giản và dễ hiểu.
    Vợ bé kia còn phải tính đường tìm nguồn tiền khác nữa chứ, thử hỏi có ai đi làm vợ bé mà lại chịu cày cuốc vất vả trong công xưởng hay trên đồng ruộng hay không ? Vợ bé là phải cày trên giường, và tiền là phải bay ra từ cái giường đó, không tiền thì không cho cày, vậy thôi.
    *

    7. Tử: Có nghĩa là chết. Chết giả chứ không phải chết thật. Thề thốt cho họ tin là mình yêu họ, chỉ biết có họ thôi, nếu không tin thì chết ngay tại chỗ, trước mắt cho chàng thấy. Nếu biết y có thê thiếp rồi, không thể lấy mình được thì càng làm già đến độ rủ y “cả hai cùng chết hơn là chẳng lấy được nhau!”. Lúc đó, có tán gia bại sản, đem hết bạc tiền ra dâng cho mình, y cũng không tiếc. Là tới cái mạng thiếp còn không tiếc trao cho chàng, không lẽ chàng lại tiếc tiền với thiếp.

    Cái này thì thôi không bàn, hồi giờ không có quen viết mấy chuyện chết chóc, chết giả cũng không muốn viết. Cơ bản là có anh nào đang yên đang lành mà nhận được tin nhắn của ‘tiểu hồ ly’: “anh mà không…thì tôi chết cho anh xem.”
    Cứ bình tĩnh, chính là họ đang đợi mình tới xem rồi họ mới bắt đầu đi chết. Không vội, ghé cây ATM thì sẽ giải quyết vấn đề đó được tốt hơn.

    Mà nói thật, đàn ông một hai lần đầu có thể lú, có thể ngu, chứ nhiều thì sẽ bớt đó. Nên về lâu dài thì cách này sài không ổn đâu, nên để dành làm quân bài cuối, dùng để hốt cú chót thì tốt nhất. Bởi thường nếu buộc phải dùng đến cách này thì giai đoạn yêu đương có lẽ đã qua giai đoạn mặn nồng nhất. Chốt hạ được rồi, làm sao cho đẹp với cho đầy là được.

    Cơ bản là đời bạc, người bạc, ta bạc, tình bạc, và cuối cùng là vì tiền bạc. Bảy chữ kia là che lấp chữ bạc đó mà thôi, người vui ta vui là được. Đàn ông thôi không muốn nói, còn phụ nữ mà có cái quan điểm “ăn bánh trả tiền” thì là rất ngu, rất hạ giá của mình. Chữ “tình” lúc nào cũng đứng trước và đắc giá hơn chữ “dục”, tình giả tiền thật mới là thông minh nhất.

    Bán thân vất vả tính theo lần
    Bán tâm thong thả tiền tự trao.
    ***

    Bảy chữ vành ngoài chủ yếu là về tâm lý, là các cách chiêu dụ lừa gạt khách làng chơi, trong thực tế hiện tại thì mọi người cũng có thể đôi chút sử dụng để hâm nóng lại chuyện tình cảm. Chỉ cần đừng quá mức hoặc quá lạm dụng là được.
    Cái gì là kinh nghiệm, là kiến thức, là bản lĩnh trong yêu đương, giường chiếu ? Bảy chữ kia nó chiếm 1/3 rồi đó.
    *

    “tám chữ vành trong”

    Còn về “tám chữ vành trong” thì “ghê” lắm, nó thuộc về sinh lý, cũng như các kỹ năng và biến thể của kỹ thuật the phòng, cũng như là làm biến đổi, biến dạng một số điểm trên bộ phận cơ thể, là chỉnh sửa, tập luyện, và rèn luyện. Nếu như bảy chữ vành ngoài là để câu dẫn chiêu dụ, thì tám chữ vành trong là để hút hồn, mê hồn theo đúng nghĩa đen. Nếu biết cách áp dụng chính xác thì gọi là ‘bùa mê thuốc lú’ cũng không quá đáng, giúp một phụ nữ ngũ tuần, lục tuần làm mê mệt chết lên chết xuống năm bảy anh thanh niên trai tráng là chuyện bình thường, chưa chắc đám gái xuân mơn mởn có thể so sánh được. (Ví dụ như cách để “cưỡng tinh”, tức là khiến thời gian cực khoái khi xuất tinh của nam nhân kéo dài ra. Nó hoàn toàn là một phương pháp khoa học.)

    Sau này tôi sẽ biên soạn tám chữ đó thành một bài viết hoàn toàn mang tính khoa học, sinh học và tâm lý học. Với các thuật ngữ và danh từ chính xác cụ thể, cùng các phương pháp và bước thực hiện rõ ràng, không chút thô tục hay thô thiển, có đầy đủ giá trị để nghiên cứu và học hỏi.

    Chính là kế thừa kinh nghiệm the phòng mấy ngàn năm của phương Đông, và kết hợp với khoa học thực nghiệm phương Tây, để đưa ra kết quả không hẳn là tuyệt đối chính xác, nhưng chắc chắn là đã tốt nhất có thể.
    *
    Biên soạn: Trương Lang Vương.
    Trích lục từ bài viết của thầy giáo, bác sĩ, nhà sử học, Huế học, tác giả Hồ Đắc Duy. (1944 – 2018)
    Via: Nhân Văn Giai Phẩm

  • Nghi lễ đón Tết trong cung đình nhà Nguyễn

    Tết trong cung vua, phủ chúa bao giờ cũng gây tò mò với nhiều người. Ngoại trừ những người từng được kề cận, ai cũng muốn biết lễ tết trong hoàng cung diễn ra thế nào?

    Nghi lễ đón Tết trong cung đình nhà Nguyễn

    Nghi lễ đón tết trong cung Nguyễn. (Ảnh: Nhà nghiên cứu Võ Tòng Xuân).

    Nhà Nguyễn – chế độ phong kiến cuối cùng ở Việt Nam – đã cáo chung hơn nửa thế kỷ. Tuy nhiên, nhiều dấu ấn triều đại này tạo ra vẫn tồn tại, trong đó có không ít di tích được công nhận là di sản văn hóa của UNESCO, bao gồm cả những phong tục, lễ lượt của nhà vua trong dịp Tết.

    Lễ Ban sóc
    Theo sách Lễ Tết ăn chơi trong cung Nguyễn, hàng năm, triều Nguyễn mở đầu việc đón năm mới bằng lễ Ban sóc diễn ra vào ngày mùng một tháng 12 tại lầu Ngọ Môn.

    Ban sóc nghĩa là cơ quan Khâm Thiên Giám làm lịch cho năm mới xong, phân phát lịch của nhà vua cho bá quan và hoàng thân, quốc thích. Những người được ban lịch mặc lễ phục quay đầu về phía ngai vàng đặt trong điện Thái Hòa lạy 5 lạy để tạ ơn vua.

    Tiếp sau lễ Ban sóc là lễ Phất thức, nghĩa là quét dọn, lau chùi các ấn ngọc, ấn vàng, kim sách, ngân sách. Lễ này được tiến hành tại điện Cần Chánh – nơi tàng trữ những tráp đựng của báu quốc gia.

    Sau khi lau chùi xong, người ta căn cứ biên bản của năm trước kiểm kê lại toàn bộ vật báu trước khi bỏ vào tráp khóa chặt. Sau lễ Phất thức, các cơ quan nghỉ việc chuẩn bị đón Tết.

    Đến ngày 30 Tết, Khâm Thiên Giám chọn giờ lành để cho Bộ Lễ dựng cây nêu. Cây nêu của kinh thành, các địa phương, chùa chiền, gia đình cũng dựng theo. Đó là thời khắc báo hiệu toàn dân cùng đón Tết. Cây nêu báo hiệu ngày toàn dân nghỉ việc để ăn Tết.

    Tết Nguyên đán diễn ra đúng ngày mùng một đầu năm. Hôm ấy, quân lính mang khí giới, cờ lọng, voi ngựa trang sức rực rỡ cùng các loại xe nhà vua thường dùng… sắp hàng trước sân điện Thái Hòa ra đến cửa Ngọ Môn.

    Vua mặc đại triều, từ điện Cần Chánh ra điện Thái Hòa rồi ngự trên ngai vàng để bá quan và hoàng thân quốc thích lạy mừng. Trong lúc vua ngự, lầu Ngọ Môn rung chuông, trống đánh liên hồi, hết sức uy nghiêm.

    Các bà vợ vua vẫn ở trong thành. Người trong Tam Cung và có chức sắc, Tết Nguyên đán được mặc lễ phục, đứng bên đường làm hai hàng rào danh dự từ điện Càn Thành ra điện Cần Chánh để chào vua đi qua.

    Từ ngày 30 đến mùng 3 Tết, cỗ bàn được đặt cúng ở các miếu và điện Phụng Tiên, hương khói nghi ngút. Mỗi lần cúng 32 món ăn riêng như nem, chả, gà hầm, thịt quay, thịt dê… Buổi sáng cúng các vua, buổi chiều cúng công thần. Đồ cúng do cung vua nấu hoặc các địa phương dâng về kinh thành.

    Lễ cày Tịch điền
    Ngoài các lễ lượt trong hoàng cung, ngày Tết còn có lễ Tịch điền hết sức quan trọng, nhằm mục đích khuyến khích phát triển nông nghiệp. Ngày này, vua và hoàng thân quốc thích sẽ xuống ruộng cày mấy đường để khuyến khích dân chúng phát triển nông gia.

    Vua mặc áo chẻn, bịt khăn đường cân, mang hia, một tay cầm roi, một tay cầm chiếc cày sơn vàng, do hai con bò phủ lụa vàng kéo. Theo hầu vua có quan Phủ doãn Thừa Thiên và một viên ấn quan của Bộ Hộ, người mang thúng giống, kẻ vải giống.

    Sau khi cày xong, vua ngồi lên Đài quan canh để xem hoàng thân và các đại thần cày tiếp. Đây chỉ là hoạt động tương trợ. Sau khi lễ Tịch điền kết thúc, khoảnh ruộng này sẽ được giao lại cho người chuyên trách, có nghĩa vụ trồng để lấy thóc cúng đàn Nam Giao, tế các thần và các lăng, miếu.

    Những lễ lượt trong Đại Nội và cày ruộng tịch điền được tổ chức trong vòng hoàng gia, chỉ một số đại thần và một số ít vị chức sắc, còn dân chúng không được tham dự.

    Ban “lửa tình” cho các cung phi
    Dịp Tết, không vợ và con nào được ngồi ăn cùng vua cả. Vì thế, có nhiều bà mang tiếng là vợ vua mà quanh năm không được thấy mặt chồng, dù họ chỉ ở cách nơi ở của vua có vài chục mét.

    Để tạo cơ hội cho các bà phi, tần, mỹ nữ trong chín bậc được trông thấy mặt vua những ngày đón xuân, các vua Nguyễn nghĩ ra một cách gặp mặt rất độc đáo.

    Theo đó, đến ngày đông chí hàng năm, tất cả lửa trong cấm thành đều phải tắt hết. Cung điện Càn Thanh nhóm một lò lửa thật lớn. Đúng vào lúc nửa đêm, các bà trong cung lục viện được phép mang lồng ấp đến điện Càn Thanh để vua ban cho ít lửa, ngụ ý ban hơi ấm cho mọi người. Chút “lửa tình” này sẽ được các bà giữ cẩn thận quanh năm.

    Theo quan niệm ngày xưa, vua là “thiên tử”, nắm trong tay mọi quyền hành. Ngày Tết với các bậc thiên tử không chỉ là thời gian nghỉ việc triều chính để chơi, mà còn để kiểm kê của báu (lễ Phất thức), chuẩn bị cho công việc của năm sau, tưởng nhớ đến tổ tiên, khuyến khích dân chúng siêng năm sản xuất (lễ Tịch điền).

    Nhà Nguyễn đã không còn nữa, nhưng tất cả những sinh hoạt Tết ấy vẫn được tìm thấy trong sử sách và có những ý nghĩa nhất định. Đó cũng là một phần trong di sản phi vật chất của chúng ta hôm nay.
    Nguồn: KH

  • Nghi lễ Tết của Hoàng tử, Công chúa triều Nguyễn

    Nghi lễ Tết của Hoàng tử, Công chúa triều Nguyễn

    Theo các tư liệu lịch sử còn lưu lại, hoàng tử, công chúa ngày xưa thường có nhiều hoạt động đón Tết, chơi xuân.

    Nghi lễ Tết của Hoàng tử, Công chúa triều Nguyễn

    Nghi lễ đón Tết trong cung triều Nguyễn. (Ảnh: Nhà nghiên cứu Võ Tòng Xuân).

    Theo sách “Đời sống trong cung đình triều Nguyễn”, hoàng tử, công chúa nhà Nguyễn lập gia đình đều được xây dựng phủ đệ riêng ở ngoài kinh thành. Cuộc sống của họ xem như tách biệt hoàn toàn với hoàng cung.

    Nghi lễ Tết của hoàng tử, công chúa
    Dịp gần Tết, nhịp sống ở phủ đệ rộn ràng hơn ngày thường. Số quan lại, binh lính, người hầu trong phủ đệ giảm khi một số xin phép về nhà ở quê lo Tết cho gia đình. Số còn lại ở phủ đệ được phân công canh gác, tập trung dọn dẹp, chuẩn bị phẩm vật sinh hoạt trong những ngày Tết.

    Theo quy định của triều Nguyễn, lễ Thướng tiêu (dựng cây nêu) là khởi đầu của nghỉ Tết. Khi Thướng tiêu ở Đại Nội thực hiện xong, các ông hoàng, bà chúa mới làm lễ này tại phủ đệ của mình.

    Sau lễ lễ Thướng tiêu, triều đình tiến hành lễ tế cuối năm tại các miếu để mời bậc tiên đế về ăn Tết, tổ chức ngày 30 tháng Chạp. Vua làm chủ tế lễ, thân công, hoàng tử, đại thần cùng đi theo. Đêm giao thừa, các phủ đệ đều đốt pháo với ngụ ý xua đuổi tà ma, điều xui xẻo, đưa tiễn cái cũ, đón điều mới, may mắn, tốt tươi.

    Sáng mùng một Tết, vua ngự ở điện Thái Hòa, tiến hành đại lễ chào đón năm mới. Các hoàng đệ, hoàng tử, công chúa đến mừng vua 5 lạy. Sau lễ mừng, vua truyền chỉ ban tiền thưởng xuân và yến tiệc. Các hoàng thân, hoàng tử mỗi người được ban trên dưới 20 lạng bạc. Tiếp đến, nhà vua đưa các hoàng tử đến cung Diên Thọ dâng biểu chúc mừng Hoàng Thái hậu và làm lễ Khánh hạ.

    Sang mùng 2 Tết, các ông hoàng, bà chúa làm lễ tại phủ đệ. Sau đó, họ vào Đại Nội xin phép vua rước mẹ mình về phủ để con cháu có dịp mừng tuổi, chúc phúc và báo hiếu.

    Dịp Tết về thăm con cháu tại phủ đệ, các bà hoàng đều chuẩn bị những món quà quý chỉ có ở chốn cung đình làm vật kỷ niệm và mừng tuổi. Trong hồi ký, tác giả Bửu Kế đã miêu tả sự kiện đón Tết tại phủ Lạc Biên quận công như sau:

    “Ngài tôi vào tâu xin hoàng đế cho phép bà tôi ra ngoài để con cháu dâng tuổi. Bà tôi đi một chiếc võng, hai bên có rèm bỏ xuống che kín cả người. Đòn võng sơn đỏ, hai đầu trở thành hình đầu phụng và đuôi phụng, khác hẳn đòn võng của ngài tôi trổ hình đầu rồng và đuôi rồng…

    Hai bà nữ quan hầu trầu thuốc và bưng tráp đã đứng khép nép sau lưng bà tôi. Ngài tôi, chị tôi và tôi lần lượt quỳ xuống dâng rượu thọ…Thăm con cháu đâu được một tiếng đồng hồ, bà tôi lại lên võng trở vào Đại Nội”.

    Ông hoàng, bà chúa chơi gì trong dịp Tết?
    Trong ba ngày Tết, các ông hoàng, bà chúa rất bận rộn, đi chúc Tết hoặc ở phủ đệ tiếp khách. Con cháu trong các phủ phòng khác, các vị tôn tước, quan lại trong triều thường đến phủ đệ chúc Tết.

    Đến mùng 3 Tết, những người nghèo khổ kéo nhau đến cổng ngõ phủ đệ của các ông hoàng, bà chúa xin tiền. Các ông hoàng, bà chúa sẵn lòng ban cho họ một ít tiền trong ngày đầu năm mới, thể hiện lối sống phong lưu, tấm lòng khoan dung, dẫu có lúc các ông hoàng, bà chúa cũng đang gặp khốn khó.

    Tết cũng là dịp để các ông hoàng, bà chúa gặp gỡ giới văn nghệ sĩ, cùng nhau sáng tác thi ca và ngâm vịnh thi phú tại phủ đệ. Những ông hoàng, bà chúa có khiếu thơ văn như: Tùng Thiện vương Miên Thẩm, Tuy Lý vương Miên Trinh, Tương An quận vương Miên Bửu, Công chúa Mai Am, Công chúa Huệ Phố… Họ đã để lại cho hậu thế một khối lượng tác phẩm văn chương đồ sộ, góp phần tạo ra hiện tượng văn chương tiêu biểu của giai đoạn này.

    Một số ông hoàng, bà chúa tổ chức diễn tuồng, ca Huế trong phủ đệ. Các vở tuồng được trình diễn vào những ngày Tết như: Ngự Văn Quân, Vạn bửu trình tường…, cầu chúc một năm mới gặp nhiều điều an lành.

    Những buổi biểu diễn tuồng vào dịp Tết không chỉ dành riêng cho các ông hoàng, bà chúa, tầng lớp quý tộc, quan lại, mà còn mở cửa cho dân chúng sống xung quanh phủ đệ đến xem.

    Phủ đệ cũng là nơi tổ chức nhiều trò chơi cung đình và dân gian như: Đổ xăm hường – trò chơi gieo các hột xúc xắc để dành những chiếc thẻ khắc chữ màu đỏ ghi các học vị trong hệ thống khoa cử thời xưa (tú tài, cử nhân, tiến sĩ, hội nguyên, thám hoa, bảng nhãn, trạng nguyên).

    Khi kết thúc ván chơi, người giữ trong tay những thẻ nào, có bao nhiêu điểm, tổng số điểm cộng lại sẽ giúp xác định kẻ thắng người thua.

    Tiếp đến là trò chơi Đầu hồ – ném mũi tên (phi tiêu) gõ vào “con cóc” (miếng gỗ dẹp đặt giữa bình và vị trí người chơi), sao cho khi bật lên sẽ rơi xuống lọt vào miệng bình. Đây là trò chơi thử thách sự khéo léo, tinh nhạy của người chơi.

    Ngoài ra, còn có chơi Bài vụ, Bài Chòi, trò chơi thu hút nhiều người tham gia nhất. Riêng các phi tần thời Nguyễn thích chơi bài, đặc biệt là bài tứ sắc và tổ tôm.

    Khi các ông hoàng, bà chúa lập phủ đệ ở bên ngoài kinh thành, dân chúng đã chịu ảnh hưởng của cuộc sống bình dân và văn hóa dân gian một cách sâu đậm. Như vậy, phủ đệ là nơi giao thoa, hòa quyện lối sống văn hóa cung đình và dân gian, từ đó góp phần hình thành tính cách con người xứ Huế.

    Cuộc vui chơi, du xuân kéo dài đến ngày mùng 7 tháng giêng, các ông hoàng, bà chúa tổ chức lễ hạ nêu tại phủ đệ, bắt đầu một năm làm việc mới. Phủ đệ trở về với không gian và nhịp sống kín đáo, thâm nghiêm như cũ.

    Nguồn: DV

  • So sánh trang phục xưa của Việt Nam và Triều Tiên

    So sánh trang phục xưa của Việt Nam và Triều Tiên

     

    Trang phục đại triều của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Khải Định)
    Trang phục đại triều của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Khải Định)
    Trang phục đại triều của quan Triều Tiên và Việt Nam (thời Nguyễn)
    Trang phục đại triều của quan Triều Tiên và Việt Nam
    Thường phục của nam nhân Triều Tiên và Việt Nam
    Thường phục của nam nhân Triều Tiên và Việt Nam
    Đại triều phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Đại triều phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Lễ phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Lễ phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Áo cưới cung đình của nữ quý tộc Triều Tiên và Việt Nam
    Áo cưới cung đình của nữ quý tộc Triều Tiên và Việt Nam
    Tế phục của vua Triều Tiên và Việt Nam
    Tế phục của vua Triều Tiên và Việt Nam
    Võ phục cung đình của Triều Tiên và Việt Nam
    Võ phục cung đình của Triều Tiên và Việt Nam
    thường phục của quan chức Triều Tiên và Nguyễn
    thường phục của quan chức Triều Tiên và Nguyễn
    trang phục của các quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    trang phục của các quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    trang phục nữ nhân Triều Tiên và Việt Nam
    trang phục nữ nhân Triều Tiên và Việt Nam
    Thường triều phục/ tế phục của quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    Thường triều phục/ tế phục của quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    Võ phục cách tân của vua Triều Tiên và Việt Nam ( vua Khải Định)
    Võ phục cách tân của vua Triều Tiên và Việt Nam ( vua Khải Định)
    Võ phục truyền thống của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Thành Thái)
    Võ phục truyền thống của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Thành Thái)

    Theo FB/MÀU ÁO HOA RỪNG

  • Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Nói lái là một hình thức vô cùng độc đáo của ngôn ngữ Việt. Ngay từ trong truyện dân gian, có có câu chuyện liên quan đến nói lái. Bạn có bao giờ nghe giai thoại giải thích đại phong là lọ tương?

    Đại khái là một người bán tương ghi tên nhãn hiệu là Đại Phong. Món này ăn với rau muống rất ngon. Nhưng người mua thắc mắc Đại Phong là gì thì được giải thích như sau:

    – Đại là lớn, phong là gió. Đại phong là gió lớn, gió lớn thì chùa đổ, chùa đổ thì tượng (Phật) lo, tượng lo là lọ tương.

    Một giai thoại khác, ở trong Nam. Lúc ấy, vào buổi tàn thời của nho học, người ta bỏ bút lông, giắt bút chì; một số chạy theo thực dân Pháp. Trong số ấy có Nguyễn Văn Tâm, một lòng cúc cung với mẫu quốc, được người Pháp cất nhắc làm quan lớn; trên dưới trong ngoài, ai cũng biết nhờ bợ đỡ quan thầy mà làm quan to.

    Tâm lấy làm tự đắc lắm. Phú quí sinh lễ nghĩa, quan lớn nhà ta cũng muốn tỏ ra mình phong lưu, muốn có những bức hoành, trướng để trang trí. Có người dâng lên quan bốn chữ đại tự Đại Điểm Quần Thần, viết chân phương, rất đẹp và giải thích Quần thần là người bề tôi, Đại điểm là điểm lớn, ý nói quan lớn là người bề tôi có vị trí to lớn, quan trọng trong triều.

    Quan lấy làm thích thú đem treo bức liễn trong phòng khách; ai đến thăm quan cũng đem khoe và giải thích như trên. Ít lâu sau có người đến ngắm bức liễn, rồi xin quan lớn dẹp đi. Quan ngạc nhiên hỏi, người ấy xin đừng bắt tội, đuổi hết tả hữu rồi giải thích: Người viết liễn đã cố ý bỡn quan lớn, mà quan không biết. Bốn chữ trên dịch từng chữ: Đại điểm là chấm to; Quần thần là bề tôi, nói theo kiểu trong Nam là bầy tôi. Đại Điểm Quần Thần là Chấm To Bầy Tôi nói lái lại là Chó Tâm Bồi Tây. Chẳng nghe chuyện kể nói quan có tìm tác giả bốn chữ nói trên để trị tội hay vì không muốn làm vỡ chuyện mà ỉm luôn.

    Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Trong đời sống hàng ngày, chẳng hiếm khi chúng ta gặp những câu nói lái, đôi khi chỉ để bỡn cợt, châm biếm hay tránh những tiếng thô tục.

    Ở Nam Bộ, có câu :

    Con cá đối nằm trên cối đá,
    Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
    anh mà đối được, dẫu nghèo em cũng ưng.

    Người Việt, đối với những người lớn tuổi hay trưởng thành ở Việt Nam chẳng có ai là không biết cách nói lái, tùy theo gốc gác hay sinh hoạt ở Bắc, Trung hay Nam mà cách nói lái có khác nhau; nhưng tựu chung, khi nói lái, người ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà người nghe, vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra như trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần kể trên.

    Đi sâu hơn vào chi tiết: một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chữ Chanh, chẳng hạn, gồm phụ âm Ch và âm anh. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ được phát âm khác nhau: Chanh, chánh, chành, chạnh… và tất nhiên có nghĩa khác nhau, và đây cũng là nét độc đáo của ngôn ngữ Việt, người nước ngoài bảo người Việt nói chuyện nghe giống như hát.

    Cũng có chữ không có phụ âm mà chỉ có âm, như trong ảnh ương hay ảo ảnh…

    Nói Lái theo cách ngoài Bắc.

    Trở lại câu chuyện đại phong là lọ tương nói trên. Tượng lo nói lái lại là lọ tương, người miền Bắc đổi chỗ cho hai chữ, đồng thời đổi luôn hai dấu (nghĩa là đổi âm sắc): lo đổi chỗ cho tượng, lấy dấu nặng thành lọ, tượng đổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành tương.

    Ta lấy vài thí dụ khác:

    Đấu tranh nói lái lại là tránh đâu: tranh đổi chỗ cho đấu, lấy dấu sắc của đấu thành tránh, đấu đổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh (không dấu) thành đâu.

    Hải phòng nói lái lại là phỏng hài: hải đổi chỗ cho phòng lấy dấu huyền của phòng thành hài, phòng đổi chỗ cho hải lấy dấu hỏi của hải thành phỏng

    Cứ theo cách ấy thì:

    Sầm Sơn là sờn sâm
    Thái Bình nói lái là bính thài
    Hà Nội là nồi hạ…

    Như vậy thì hai chữ có cùng dấu không nói lái được, như nhân dân, anh em, Sài Gòn, thánh thót, thực vật…. Cũng vậy, những tiếng láy như xanh xanh, hơ hớ, đo đỏ, lăng xăng… không thể nói lái được và nếu chúng ta cố tình theo qui luật trên thì cũng chỉ đổi vị trí cho nhau thôi.

    Nói lái theo kiểu trong Nam.

    Trong Nam người ta nói lái theo cách khác: cá đối nói lái lại thành cối đá.

    Ta nhận thấy theo cách nói lái trong nam, âm trong hai chữ đổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí, phụ âm c ghép với âm ối của đối thành cối, và phụ âm đ ghép với âm á thành đá. Như vậy:

    Sài gòn – sòn gài
    Cần thơ nói lái là cờ thân
    Cầy tơ là cờ tây
    Cửu long là cỏng lưu
    Thủ Đức thức đủ
    vv.. và vv..

    Bút hiệu Thế Lữ (trong Tự Lực Văn Đoàn) chính là chữ nói lái của tên thật của ông: Nguyễn Thứ Lễ. Ngày trước đã có vế đối:

    Ngày Tết, Thế Lữ đi hai thứ lễ: lê ta và lê tây

    Trong vài trường hợp người ta nói lái cho cả ba chữ, bằng cách giữ nguyên chữ giữa như trong trường hợp mèo đuôi cụt thành mút đuôi kèo (dấu nặng trong cụt biến thể thành dấu sắc trong mút), như vậy hà thủ ô nói lái thành hồ thủ a.

    Đôi khi người ta lại đổi chỗ hai phụ âm cho nhau (tuy ít thôi) để sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hơn, thí dụ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành biến chinh, do đó với hai chữ tranh đấu có người đã đùa mà nói rằng: tranh đấu thì tránh đâu khỏi bị trâu đánh thì thế nào cũng phải đấu tranh.

    Cũng như trong trường hợp trên, những chữ trùng âm như nhân dân, lù đù, lật đật… không nói lái được.

    Vài giai thoại – câu đối – câu đố

    Chúng ta đã thấy giai thoại về Đại điểm quần thần, Đại phong ở trên. Chúng ta cũng thường nghe nói đến câu tiếng lóng “hạ cờ tây” là “hạ cầy tơ” của dân nhậu trong Nam và “mộc tồn” (là “cây còn”, nói lái thành “con cầy”) ở ngoài Bắc, hay những lối nói lái rất quen thuộc: con chín bến đò (con chó bến đình), Hương bên đèo (heo bên đường), theo con Hương (thương con heo)…

    Trong Nam, mấy bạn nhậu thường hay nói chữ: “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu” cũng đừng vội tưởng họ sính nho, thật ra họ đùa “rượu gặp tri kỷ có trời mới biểu (bảo) thôi” (thiên = trời, bôi thiểu = biểu thôi)….

    Về câu đối, xin trở lại câu ca dao trên:

    Con cá đối nằm trên cối đá.
    Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.
    Anh mà đối đặng dẫu nghèo em cũng ưng.

    được đối là:

    Chim mỏ kiến(g) nằm trong miếng cỏ
    Chim vàng lông đáp đậu vồng lang
    Anh đà đối đặng hỏi nàng ưng chưa?

    Phải công nhận là câu đố và câu trả lời không chê vào đâu được, chắc gì chúng ta tìm được câu trả lời nào hay hơn cho cô gái tinh nghịch này.

    Một câu khác, nghe chừng như xuông miệng nói chơi, nhưng lại đối rất chỉnh, trong cả hai vế đều dùng cách nói lái:

    Kia mấy cây mía
    Có vài cái vò

    Một câu đối khác, nghe được sau 75, lúc người dân trong Nam không còn gì để sinh sống, đặc biệt là giới thầy cô thuộc chế độ cũ được lưu dụng. Dầu gì chăng nữa, trước đó họ là lớp người tuy sống nhờ đồng lương cố định, nhưng cũng có cơm ăn áo mặc đầy đủ. Người ta nghe thấy hai câu đối tết, nhại theo Tú Xương ngày trước, nhưng rất đặc sắc và chua xót:

    Chiều ba mươi, thày giáo tháo giày ra chợ bán
    Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang.

    Thực tế là giày không còn là một phần trong y phục của thày giáo, nhưng cháo đã là phần lương thực thường thấy trong bữa ăn hàng ngày.

    Trong một đám cưới, chú rể người Hóc Môn, cô dâu ở Gò Công; có người rắn mắt đọc đùa câu đối:

    Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc – Gái Gò Công vừa gồng vừa co

    Trong văn chương bình dân Việt Nam, câu đố chiếm một vị trí tuy khiêm nhường nhưng có sức sống tương đối mạnh mẽ so với hò đối đáp chẳng hạn. Ngày nay ta vẫn thường nghe những câu đố trong khi không còn thấy hò đối đáp trong sinh hoạt hàng ngày của người bình dân. Trong các dạng câu đố, cách dùng nói lái để đánh lừa người khác là một trong những cách tuy dễ nhưng cũng làm khó cho người bị đố không ít. Sau đây là vài câu đố dùng nói lái, lời giải có ngay trong câu đố:

    -Tổ kiến, kiển tố, đố là chi? – (đáp: tổ kiến)

    -Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai. Bò la, bò liệt đố ai biết gì? – (đáp: khoai lang).

    Những chữ mũi, lái, khứ, lai chỉ cốt để đánh lừa người bị đố.

    – Con gì ở cạnh bờ sông,
    cái mui thì nát cái cong thì còn – (đáp: con còng – cong còn nói lái thành con còng)

    – Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng – (đáp: ngón chưn cái)

    – Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn – (đáp: con ngựa)

    – Miệng bà ký lớn, bà ký banh
    Tay ông cai dài, ông cai khoanh – (đáp: canh bí, canh khoai)

    Một vài người cũng câu nệ về nói lái, tránh đặt tên con những chữ có thể nói lái thành thô tục như Thái (dễ ghép với chữ có phụ âm d: thái dọt, thái dúi, thái dòng…). Lài (dễ ghép với chữ có âm ồn như lài dồn, lài cồn, lài mồn…). Côn, Tôn, Đôn (ghép với chữ có phụ âm l) v.v.. và v.v..

    Vài suy nghĩ

    Qua những phân tích trên, ai cũng công nhận nói lái quả là một đặc thù của tiếng Việt. Chúng ta dùng nói lái để châm biếm, để gài người khác trong các câu đố, câu đối, để tránh những thô tục khi cố ý ghép chữ dể hạ thấp người khác.

    Bỏ qua một bên những cái độc đáo, lắt léo của nói lái trong câu đố, câu đối; để chỉ chú ý đến phần đông các trường hợp chúng ta sử dụng nói lái như là một hình thức hạ thấp người khác. Trong phần trên chúng ta đã thấy nhà nho nào đó đã dùng sự uyên bác của mình để chửi một quan to mà quan chẳng những đã không biết mà còn hoan hỉ chấp nhận trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần.

    Chúng ta đã dùng nói lái như một thứ vũ khí của người muốn dùng tiểu xảo để chống đối, để chứng tỏ mình hơn người, như một thứ vũ khí của kẻ yếu, kẻ bị trịđể bôi bác, nhạo báng, ám chỉ… để hạ phẩm cách của kẻ mạnh, kẻ thống trị.

    Vấn đề nêu ra để chúng ta phải suy gẫm là tại sao chúng ta có những cách rất tiêu cực như vậy? Phải chăng vì hoàn cảnh dân tộc Việt Nam đã đắm chìm quá lâu trong cảnh bị trị, dù của ngoại bang hay của chính người đồng chủng. Người dân phải tìm cách tránh né, che đậy để sinh tồn trước sức mạnh của kẻ thống trị. Vấn đề đặt ra cho chúng ta cùng suy nghĩ là chúng ta có nên duy trì mãi những tiêu cực tương tự trong những sinh hoạt thường ngày của chúng ta không? Ai cũng thấy rõ một điều là sức sống của người Việt vô cùng to lớn, mãnh liệt, nhưng đồng thời cũng thể hiện những tiêu cực vô cùng tai hại. Chính vì chỉ muốn sống còn bằng bất cứ giá nào, người Việt đã mất đi những tích cực của tập thể cần phải có, điều này đã giúp cho kể thống trị tồn tại lâu trong vị trí và là một cách giải thích tại sao dân tộc chúng ta bị trị lâu đến như vậy.

    Dù vậy, nói lái vẫn là một hình thức vô cùng đặc sắc của ngôn nhữ Việt, với khả năng nhạy bén về tính trào phúng, tính châm chọc… (và chúng ta chỉ nên khai thác khía cạnh tích cực này), chúng ta tin rằng nói lái sẽ tồn tại với người Việt.

    Hòa Đa (Saigonxua)

  • Màu áo cô dâu Việt Nam

    Màu áo cô dâu Việt Nam

    Theo sách “Trang phục Việt Nam” của nhà nghiên cứu trang phục Đoàn Thị Tình, cô dâu miền Bắc (thời Nguyễn) vào ngày cưới tóc vấn đuôi gà, đầu khăn gài con bướm bạc, cổ đeo kiềng bạc, chuỗi hạt vàng, lưng đeo xà tích, váy sồi đen, mặc áo mớ ba, bên ngoài mặc áo the đen, trong là áo hồng và áo xanh. Cô dâu các miền khác cũng có lối ăn mặc tương tự, nhưng có một số tiểu tiết khác biệt. Cô dâu miền trung và miền Nam chải lật búi tóc, thay vì vấn đuôi gà. Cô dâu miền Trung có thể mặc lồng hai áo năm thân, bên trong là màu đỏ hoặc hồng điều, bên ngoài là áo vân màu xanh chàm (Cũng có thể mặc thêm áo the đen bên ngoài thành áo mớ ba), mặc quần trắng.

    Về cô dâu Nam Bộ, Sách “Trang phục Việt Nam” cũng cho biết cô dâu miền Nam mặc quần lĩnh đen, tuy nhiên không nói rõ áo màu gì. Còn heo sách “Nhà ở – Trang phục – Ăn uống của các dân tộc vùng ĐBSCL” của tác giả Phan Thị Yến Tuyết, xuất bản năm 1993, trang 66:

    “Vào lễ cưới, trang phục của cô dâu chú rể vùng Gia Định trước kia và vùng ĐBSCL hiện nay có những diễn biến theo phong tục và quan điểm thẩm mỹ, thời trang. Cho đến đầu thế kỷ XX… cô dâu mặc áo vân đen mỏng, quần đũi màu hồng sậm, cổ đeo xâu chuỗi hổ phách “hạt to bằng ngón tay cái”, hai tai xỏ đôi bông búp bạc. Dâu và rể đều khoác bên ngoài áo thụng rộng xanh, lót màu cánh sen, khi ra sân có cặp lọng che. Trong những gia đình theo tục cũ, trang phục của cô dâu và chú rể đều là áo cặp.

    cô dâu Đông Dương đầu thế kỉ XX, mặc áo cặp, trong đỏ ngoài xanh, đội nón cụ
    cô dâu Đông Dương đầu thế kỉ XX, mặc áo cặp, trong đỏ ngoài xanh, đội nón cụ

    Áo cặp ở Nam Bộ có thể là một dạng tàn dư, tồn tại biến dạng của “áo mớ” (áo mớ ba, mớ bảy) nơi tầng lớp mệnh phụ giàu có ở miền Trung. Vì khí hậu Nam Bộ nóng quanh năm, cư dân còn nghèo nên áo mớ không thể dung nạp, chỉ còn dừng lại ở dạng áo cặp trong nghi thức trang trọng như lễ cưới. Hoặc rõ rệt hơn, có thể “áo cặp” là phong tục chỉ sự “đủ đôi đủ cặp” trong lễ cưới, vì ngày trước ở vùng Gia Định có thời cô dâu, chú rể ngoài “áo cặp” còn mặc “quần cặp”. Áo cặp tức áo song khai, cô dâu dùng áo the lót gấm hồng, chú rể dùng hàng the lót gấm xanh có dệt chữ “thọ” nhỏ (chữ thọ lớn chỉ dùng cho người lớn tuổi).

    cô dâu miền Nam đầu thế kỷ XX, mặc áo xanh ngoài, áo hồng bên trong, đội nón cụ. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu miền Nam đầu thế kỷ XX, mặc áo xanh ngoài, áo hồng bên trong, đội nón cụ. Chú rể mặc áo lam

    Chiếc áo dài của cô dâu, chú rể mặc bên ngoài người ta gọi là áo thụng. Đó là chiếc áo dài và rộng so với áo dài mặc bên trong, tay áo thụng cũng rất dài và rộng, của tay áo có khi lên đến 30 cm. Áo thụng thường được may bằng vải gấm dày, màu lục sậm, xanh sậm hoặc xanh lam có dệt hoa văn. Ngày trước, cô dâu chú rể tầng lớp bình dân ở ĐBSCL có khi mặc áo cặp, đội nón, đội khăn nhưng đi chân đất, không mang giày dép ”

    Còn theo bài viết “Gam màu đặc trưng của phục trang xứ Huế” trên trang báo Nét Cố Đô thì cô dâu Huế mặc áo cặp điều lục, đồng thời giải thích điều là màu đỏ, lục là màu xanh.

    Như vậy có thể nói, kiểu mặc áo ngoài màu xanh, áo trong hồng hay đỏ (tức áo lục điều) là một kiểu phối màu phổ biến và nhất quán của cô dâu Việt thời Nguyễn, thậm chí có thể là trong những thời kỳ trước đó.

    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam

    Tuy nhiên, trong thực tế, ngoài màu xanh, trong một số đám cưới cô dâu có thể còn mặc nhiều màu khác nữa, tuỳ vào từng quan niệm, địa vị và hoàn cảnh. Áo đen, áo thâm là màu mang tính “bản sắc dân tộc”, được người Việt ưa chuộng trong lễ, tiết. Áo đỏ, áo vàng một phần là ảnh hưởng từ các dạng áo Nhật Bình trong cung. Áo đỏ cũng có thể do ảnh hưởng từ áo đỏ của cô dâu Trung Quốc, mang ý nghĩa đại cát, đại hỉ. Áo hồng, áo tím là màu đẹp, nhẹ nhàng, gợi cảm… Nếu có điều kiện, xin sẽ nói rõ hơn ở các bài sau về nguồn gốc và ý nghĩa các màu sắc trong đám cưới Việt xưa, đặc biệt là màu xanh đã nói đến ở trên.

    Theo Lê Phan – ĐVCP

  • Thời trang Miền Nam thập niên 30-40

    Thời trang Miền Nam thập niên 30-40

    Trong thời kỳ thuộc Pháp, trang phục truyền thống của người Việt từ Bắc chí Nam khá đa dạng, bao gồm tầng lớp quý tộc mang nặng những quy chế cung đình cho đến sự khác biệt trong trang phục dân gian. Những năm cuối nhà Nguyễn – triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam, trang phục của người Việt vẫn chịu ảnh hưởng của văn hiến áo mũ phong kiến. Tuy nhiên, bối cảnh chính trị phức tạp giai đoạn đầu thế kỷ XX, từ những năm 1920 đã thúc đẩy sự tân tiến mạnh mẽ về văn hóa, xã hội và tư duy.

    Nội dung bài viết này, phân tích chung những chuyển biến của trang phục, cũng như tính nhen nhóm của “thời trang” miền Nam Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XIX cho đến giai đoạn thập niên 30 – 50.

    Một số chi tiết tiếp biến trong cách ăn mặc truyền thống

    Theo Đất Lề Quê Thói của tác giả Nhất Thanh và nhắc lại trong Ngàn Năm Áo Mũ của nhà sử học Trần Quang Đức, phụ nữ mặc áo dài ngũ thân chủ yếu với quần lĩnh thâm, lam, đen hoặc nhiễu đỏ. Quần màu trắng kết hợp với áo dài xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, khoảng sau 1919 chỉ những ai theo Tây mới ăn vận như thế. Tuy nhiên đến những năm 1930, quần trắng được vận phổ biến với áo dài và áo bà ba. Bước chuyển biến này đã hình thành kiểu trang phục của các cô tiểu thư con nhà bá hộ Nam Kỳ ở các thập niên sau đó. Như ta vẫn thường thấy qua phim ảnh, bộ bà ba gấm lụa vận quần trắng lả lướt là loại trang phục ngày thường của đàn ông lẫn phụ nữ trong gia đình giàu có. (có thể tham khảo bộ phim truyền hình Lòng Dạ Đàn Bà của đạo diễn Hồ Ngọc Xum).

    NGƯỜI TRONG ẢNH ĐƯỢC CHO LÀ CÔ BA THIỆU XỨ TRÀ VINH, VỢ HOẶC CON CỦA QUAN THÔNG NGÔN NGUYỄN TRUNG CHÁNH. CHỤP BỞI PIERRE DIEULEFILS VÀO NHỮNG NĂM ĐẦU 1930S TẠI HÀ NỘI. LÚC NÀY THIẾU NỮ NAM KỲ TRUYỀN THỐNG SANG TRỌNG MẶC ÁO DÀI NGŨ THÂN, QUẦN NHIỄU ĐỎ, TÓC VẤN CAO, MANG HÀI THÊU,…
    NGƯỜI TRONG ẢNH ĐƯỢC CHO LÀ CÔ BA THIỆU XỨ TRÀ VINH, VỢ HOẶC CON CỦA QUAN THÔNG NGÔN NGUYỄN TRUNG CHÁNH. CHỤP BỞI PIERRE DIEULEFILS VÀO NHỮNG NĂM ĐẦU 1930S TẠI HÀ NỘI. LÚC NÀY THIẾU NỮ NAM KỲ TRUYỀN THỐNG SANG TRỌNG MẶC ÁO DÀI NGŨ THÂN, QUẦN NHIỄU ĐỎ, TÓC VẤN CAO, MANG HÀI THÊU,…
    ẢNH CHỤP GIA ĐÌNH NHÀ QUAN NGƯỜI VIỆT Ở HUẾ, KHOẢNG 1925 – 1930, BỞI M. RAYMOND CHAGNEAU. PHỤ NỮ VÀ CON GÁI ĐÃ PHỔ BIẾN VẬN ÁO DÀI VỚI QUẦN TRẮNG.

     

    Đầu thế kỷ XX, phụ nữ Nam Kỳ thường sử dụng trang sức là chiếc kiềng cổ bằng bạc. Đến những năm thập niên 30 – 50, chuỗi ngọc trai dần thịnh hành, cách phục sức cũng đa dạng hơn khi “phối” áo dài ngũ thân với các kiểu vòng tay, chuỗi hạt nhiều vòng, nhẫn hạt xoàn,… Ở giai đoạn này, “thời trang” giày dép không chỉ có guốc mộc, mà hết sức đa dạng với các kiểu guốc gỗ gót thon nhỏ, hài thêu, hài cong hoặc giày sandals tân thời. Từ thập niên 30 dần về sau, trang phục Âu hóa nhanh chóng tại các khu vực thành thị, ngoài áo bà ba và áo dài, giới bình dân bắt đầu mặc áo sơ mi cổ 2 ve, áo kiểu cổ cánh sen.

    Cochinchine, 1935 – Bijoux – Parures de têteNotice : Monographie dessinée de l’Indochine – Ecole d’Art de Gia Dinh. (Voir AP2556). Cochinchine : Sites et gens. Traduction baccompagnant le dessin : « Peigne (Luoc) Cure-oreille (Moc Tai) »Mots Clefs : Cochinchine Dessin 1935 Femme Parure

    Đối với y phục nam giới, đặc biệt là giới trí thức, khoảng những năm 1920 – 1930, bắt đầu đón nhận sự “thực dụng” trong cách cải tiến trang phục truyền thống. Để nhanh và tiện dụng, những chiếc khăn được xếp cố định sẵn, tạo thành những chiếc khăn đóng như chúng ta biết đến ngày nay. Đồng thời, những chiếc mấn mà phụ nữ bây giờ mặc cùng áo dài trong lễ cưới, bắt nguồn từ khăn vành dây dành cho hoàng hậu, công chúa hay cung tần trong hoàng tộc. Như có thể thấy, cho đến thời Vua Bảo Đại, Nam Phương Hoàng Hậu vẫn thường vấn khăn vành gấp nếp hình chữ nhân, mặc với áo Nhật Bình và áo dài ngũ thân như một loại thường phục.

    Chịu ảnh hưởng từ những người Pháp sống trên đất Việt

    Nền văn hoá phương Tây ảnh hưởng đến Việt Nam sớm nhất tại Nam Kỳ theo bước chân của chế độ thuộc địa Pháp. Giai đoạn này, ở bờ Tây của thế giới, thời trang phát triển mạnh mẽ mà đế quốc Pháp – “kinh đô ánh sáng”, chính là nơi cho ra đời hàng loạt những thành tựu và phát kiến mới trong lịch sử thời trang. Khi người Pháp đến Việt Nam, cùng với gia đình vợ con mà từ đó, quý tộc phương Tây đã mang theo những khái niệm mới mẻ và táo bạo của cái gọi là “thời trang”. Trên vùng đất Nam Kỳ bắt đầu xuất hiện những ông Tây bà Đầm, với những chiếc đầm hở cổ, những chiếc “quần không đáy” xoè bồng bềnh, những bộ váy “cắt vải xéo” ôm nhẹ vào cơ thể, cùng những chiếc bóp đầm, giày cao gót, mỹ phẩm, nước hoa cũng như các quý ông lịch lãm trong bộ vestton, áo sơ mi, giày da, mũ phớt (homburg hat),…

     

     

    Du nhập bởi giới thượng lưu theo học ở phương Tây trở về

    Hai đại diện tiêu biểu nhất có thể kể đến Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương. Trên cùng một chuyến tàu năm 1932, tiểu thư Nguyễn Hữu Thị Lan (2 năm sau trở thành Hoàng Hậu Nam Phương) – vốn là cháu ngoại của một nhà hào phú bậc nhất Nam Kỳ; và Vua Bảo Đại trở về nước sau nhiều năm du học ở Pháp. Lúc này, cô tiểu thư xứ Gò Công vẫn thường ăn mặc theo lối sống lúc ở Pháp: kiểu đầm suông hoặc suit dress dài đến bắp chân có hình bóng chữ nhật (silhouette đặc trưng của các quý cô Châu Âu thập niên 20 – 30), dùng bóp đầm, mang giày t-strap kitten heels hoặc giày oxford, đội mũ chuông (cloche hat) và sử dụng trang sức ngọc trai, vòng ngọc thạch.

    VUA BẢO ĐẠI VÀ TIỂU THƯ NGUYỄN HỮU THỊ LAN LÚC CHƯA KẾT HÔN, TRƯỚC NĂM 1934.

    Thời kỳ hoàng kim ở giai đoạn nửa cuối của thập niên 20, thời trang phương Tây đạt được nhiều thành tựu lớn. Vua Bảo Đại thuộc tầng lớp quý tộc du học ở Pháp, y phục của ông mang phong cách đại diện của các quý ông phương Tây, ngoài những bộ suit kẻ, vest double breasted, phối sang trọng với pocket square, đồng hồ quả quýt, thắt cravat, mang giày tây và dùng gậy bằng gỗ quý; phong cách thể thao cũng rất phổ biến trong thường phục của Vua Bảo Đại với áo len ghile, áo thun cổ Polo.

    VUA BẢO ĐẠI TRONG THỜI GIAN ĐI HỌC, NGHỈ HÈ VỀ NƯỚC THƯỜNG ĂN MẶC GIẢN DỊ, KHỎE KHOẮN KHI CHƠI TENNIS

    HOÀNG TỬ BẢO ĐẠI TRONG TRANG PHỤC DẠ HỘI TẠI PHÁP NĂM 1932
    HOÀNG TỬ BẢO ĐẠI TRONG TRANG PHỤC DẠ HỘI TẠI PHÁP NĂM 1932
    ẢNH CHỤP VUA BẢO ĐẠI TẠI HỒNG KÔNG NĂM 1948

    Từ những năm cuối thế kỷ XIX, chính quyền thực dân buộc các gia đình bá hộ ở Nam Kỳ phải cho con cái đi học trường Pháp trên tỉnh, huyện…để thực hiện kế hoạch khai hóa. Từ bị ép buộc trở thành phong trào Tây học, các vị công tử con nhà giàu có được đi học ở Pháp, hoặc các trường công giáo ở các xứ thuộc địa lân cận. Hai nhân vật nổi tiếng trong rất nhiều giai thoại mà hầu như người miền Nam nào cũng biết đến, chính là “Bạch công tử” Giorgie Phước (1901 – 1950), một trong những “tay chơi” ở miền Nam những năm 1920 – 1930; và “Hắc công tử” Trần Trinh Huy (1900 – 1973), là con trai của một trong 4 gia đình đại điền chủ giàu có bậc nhất Nam Kỳ, ăn chơi nứt tiếng và nổi danh ở Sài Gòn những năm 1930 – 1940. Một số “cậu ấm cô chiêu” mặc dù chỉ theo học trường Tây ở Sài Gòn, nhưng cũng chịu ảnh hưởng phồn hoa đô hội và sớm tiếp thu lối sống vật chất du nhập từ phương Tây. “Thời trang” chính là từ đây đặt những bước “thôn tính” đầu tiên trên Việt Nam và “bành trướng” cho đến ngày nay.

    FAMILY GROUP 1930S. ẢNH: ROZIER-VIETNAM. VIETNAM MEMORIES
    FAMILY GROUP 1930S. ẢNH: ROZIER-VIETNAM. VIETNAM MEMORIES

    Nhìn chung, bối cảnh những năm 1930, trang phục trong dân gian vẫn có tính bảo thủ. Các ông bà điền chủ, bá hộ và hội đồng vẫn mang đậm “nề nếp” truyền thống, trang phục chủ yếu là áo dài cổ đứng cài khuy, bộ bà ba gấm lụa đắt tiền, mang guốc mộc hoặc hài thêu, tóc búi tó, phụ nữ thì đầu đội khăn vuông gấp tam giác, hoặc khoác trên vai. Tuy nhiên, dần sang đầu thập niên 40 đã có sự “lai tạp” khi các ông bá hộ bắt đầu tân thời, mặc áo dài mang giày hàm ếch, đội mũ phớt, lái xe Chevrolet, uống rượu tây, hút xì gà,..

    Cochinchine, 1935 – Costumes annamites (1)Notice : Monographie dessinée de l’Indochine – Ecole d’Art de Gia Dinh. (Voir AP2556). Cochinchine : Sites et gens.Mots Clefs : Cochinchine Dessin 1935 Costume Robe – Pantalon————Cochinchine, 1935 – Costumes annamites (2)Notice : Monographie dessinée de l’Indochine – Ecole d’Art de Gia Dinh. (Voir AP2556). Cochinchine : Sites et gens. Traduction accompagnant le dessin : « Robe (Ao Dai) Turbans (Khan Ong) Pantoufles (Giay Ham Ech) »Mots Clefs : Cochinchine Dessin 1935 Costume – Vêtement Parapluie

    Sự tiếp nhận của giới nghệ sỹ trong nước

    Có thể nói, giai đoạn 30 – 50 khởi đầu cho sự “tây hóa” táo bạo đối với áo dài, là giai đoạn tiếp nhận Âu phục cũng như khái niệm “thời trang” ở miền Nam Việt Nam. Áo dài cho đến những năm cuối thế kỷ XIX vẫn là kiểu ngũ thân cổ đứng, tay chẽn, cổ thấp, ống tay hẹp kiểu triều Nguyễn và không chít eo.

    CÔ NGUYỄN THỊ HẬU – NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẦU TIÊN MẶC ÁO DÀI MỚI KIỂU LEMUR (ẢNH BÁO PHONG HÓA)

    Phụ nữ miền Nam đón nhận các “xu hướng mới” khi áo dài Le Mur bắt đầu xuất hiện vào thập niên 1930. Họa sĩ Cát Tường ( 1912 – 1946) lúc theo học tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương đã cùng với nhóm Tự Lực Văn Đoàn, khởi xướng phong trào cách tân áo dài truyền thống. Những chiếc áo dài Le Mur lấy cảm hứng từ các kiểu đầm phương tây của thập niên 20 – 30. Áo dài được cắt may ôm nhẹ vào cơ thể, thay đổi thân con thành hò áo, biến tấu các chi tiết từ âu phục như đường nối vai, tay phồng, cổ tay loe, bèo dún hoặc cài măng-set; và ứng dụng các kiểu cổ tân thời như tạo dáng vuông góc, trái tim, thắt nơ, cắt răng cưa, viền đăng-ten,…. thay vì là kiểu cổ đứng 3 phân chuẩn mực truyền thống. Thời kỳ này, ngành dệt may phát triển, áo dài màu thâm, đen hoặc các sắc nhạt trơn, trở nên “hợp thời” hơn bằng những thứ vải sặc sỡ, in họa tiết, caro, chấm bi, hoa lá,…

    MỘT KIỂU ÁO DÀI LE MUR

    MỘT SỐ MẪU TAY ÁO CỦA ÁO DÀI LE MUR – VẼ BỞI HỌA SĨ CÁT TƯỜNG. (NGUỒN ẢNH: FACEBOOK CA DAO VÀ MẸ)
    MỘT SỐ MẪU TAY ÁO CỦA ÁO DÀI LE MUR – VẼ BỞI HỌA SĨ CÁT TƯỜNG. (NGUỒN ẢNH: FACEBOOK CA DAO VÀ MẸ)

    Đến năm 1934, “thời trang áo dài” của Nam Kỳ lại càng được “cải tiến”. Tại Hội Chợ Nữ Công Đà Nẵng, họa sĩ Lê Phổ giới thiệu những mẫu áo dài mới, dung hòa kiểu Le Mur với các mốt thời trang phương Tây và áo dài ngũ thân truyền thống. Áo dài Lê Phổ là phiên bản lược bỏ các chi tiết “cải cách lố lăng” cầu kỳ ở tay áo và cổ áo của Le Mur, giữ lại sự cải tiến về phom dáng, kéo dài tà áo đến gần chấm gót nhưng thu hẹp hơn, xây dựng hình ảnh mềm mại thướt tha như ta thấy được ở các kiểu áo dài hiện đại ngày nay.

    Kết

    Mặc dù trang phục áo dài của phụ nữ miền Nam nói riêng và cả miền Bắc, Trung nói chung đã có sự cách tân mạnh mẽ. Tuy nhiên, có thể nói y phục của phụ nữ Việt Nam giai đoạn 30 – 50 chỉ là sự “khai mạc” cho các thập niên tiếp theo. Bắt đầu từ thập niên 50, khái niệm “thời trang” ở miền Nam Việt Nam mới thực sự được “châm ngòi”, mở ra một giai đoạn mới trong cách ăn mặc của người Việt cận đại.

    Nguồn: style-republik.com

  • Phép lịch sự trên mâm cơm Việt

    Phép lịch sự trên mâm cơm Việt

    Vấn đề dùng đũa

    * Không và quá 3 lần khi đưa bát cơm lên miệng.
    * Không gắp thức ăn đưa thẳng vào miệng mà phải đặt vào bát riêng rồi mới ăn.
    * Không dùng thìa đũa cá nhân của mình quấy vào tô chung.
    * Không xới lộn đĩa thức ăn để chọn miếng ngon hơn.
    * Không cắm đũa dựng đứng vào bát cơm.
    * Không nhúng cả đầu đũa vào bát nước chấm.
    * Phải trở đầu đũa khi muốn tiếp thức ăn cho người khác.
    * Không được cắn răng vào đũa, thìa, miệng bát, không liếm đầu đũa
    * Không vừa cầm bát vừa cầm đũa chỉ 1 tay cũng như không được ngậm đũa để rảnh tay làm các việc khác chẳng hạn như múc canh, đôi đũa chưa dùng đến phải đặt vào mâm hoặc đĩa bàn nếu ăn trên bàn có dùng đĩa lót bát, hoặc đồ gác đũa.

    Phép lịch sự trên mâm cơm Việt

    Khi ngồi ăn

    – Ngồi ăn dù trên chiếu hay trên ghế đều không được rung đùi, rung đùi là tướng bần tiện của nam, dâm dục của nữ, và cực kỳ vô lễ.
    – Không ngồi quá sát mâm hay bàn ăn nhưng cũng không ngồi xa quá.
    – Ngồi trên ghế thì phải giữ thẳng lưng. Ngồi trên chiếu thì chuyển động lưng và tay nhưng không được nhấc mông.
    – Không để tay dưới bàn nhưng cũng không chống tay lên bàn mà bưng bát và cầm đũa, khi chưa bưng bát thì phần cổ tay đặt trên bàn nhẹ nhàng.
    – Không ngồi chống cằm trên bàn ăn.
    – Tuyệt đối tránh cơm đầy trong miệng mà nói.
    – Không chu mồm thổi thức ăn nóng mà múc chậm phần nguội hơn ở sát thành bát đĩa.
    – Muỗng kiểu múc canh phải đặt úp trong bát không được để ngửa.
    – khi chấm vào bát nước chấm, chỉ nhúng phần thức ăn, không nhúng đầu đũa vào bát chấm, miếng đã cắn dở không được chấm.
    – Khi nhai tối kỵ chép miệng.
    – Không tạo tiếng ồn khi ăn [ví dụ húp soàm soạp]
    – Không nói, không uống rượu, không húp canh khi miệng còn cơm.
    – Không gõ đũa bát thìa.

    an com ngay xua
    Cảnh một bữa ăn thời xưa ở một gia đình dư giả


    – Khi ăn món nước như canh, chè, xúp, cháo… nếu dọn bát nhỏ hay chén tiểu thì có thể bưng bát trên hai tay để uống nhưng không được kèm đũa thìa. Nếu dọn bát lớn hay đĩa sâu thì dùng thìa múc ăn, tới cạn thì có thể một tay hơi nghiêng bát đĩa sâu ra phía ngoài, một tay múc chứ không bưng tô to đĩa sâu lên húp như kiểu chén tiểu. Món canh có sợi rau nên dọn bát nhỏ, món gọn lòng thìa có thể dùng bát lớn, đĩa sâu.
    – Không ăn trước người lớn tuổi, chờ bề trên bưng bát lên mình mới được ăn. Nếu đi làm khách không gắp đồ ăn trước chủ nhà hay người chủ bữa cơm (trừ ra bạn được đề nghị gắp trước, trong một dịp nhất định).
    – Dù là trong khuôn khổ gia đình hay khi làm khách, tuyệt đối không chê khi món ăn chưa hợp khẩu vị mình. Điều này cực kỳ quan trọng vì không đơn thuần là phép lịch sự mà còn là một phần giáo dục nhân cách. Nếu không được dạy nghiêm túc, trẻ em từ chỗ phản ứng tự nhiên do khẩu vị sẽ tới chỗ tự cho mình quyền chê bai, phán xét, không trân trọng lao động của người khác. món không ngon với người này nhưng ngon với người khác và có được nhờ công sức của rất nhiều người.
    – Không gắp liên tục 1 món dù đó là món khoái khẩu của mình.
    – Phải ăn nếm trước rồi mới thêm muối, tiêu, ớt, chanh v.v…, tránh vừa ngồi vào ăn đã rắc đủ thứ gia vị phụ trội vào phần của mình.
    – Phải ăn hết thức ăn trong bát, không để sót hạt cơm nào.
    – Dọn mâm phải nhớ dọn âu nhỏ đựng xương, đầu tôm, hạt thóc hay sạn sót trong cơm…
    – Trẻ em quá nhỏ dọn mâm riêng và có người trông chừng để tránh gây lộn xộn bữa ăn của người già, tới 6 tuổi là ngồi cùng mâm với cả nhà được sau khi đã thành thục các quy tắc cơ bản.
    – Khi trẻ em muốn ăn món mà nó ở xa tầm gắp, phải nói người lớn lấy hộ chứ không được nhoài người trên mâm. Trong gia đình, khi trẻ em ngồi cùng mâm người lớn thì sắp cho bé một đĩa thức ăn nhỏ ngay bên cạnh với đồ ăn đã lóc xương và thái nhỏ. Với người cao tuổi cũng vậy, dọn riêng đĩa cá thịt đã lóc xương, thái nhỏ, hay ninh mềm hơn.
    – Không để các vật dụng cá nhân lên bàn ăn, trừ chiếc quạt giấy xếp có thể đặt dọc cạnh mép bàn. Ngày nay thì di động là vật bất lịch sự và mất vệ sinh.
    – Nhất thiết để phần người về muộn vào đĩa riêng, không khi nào để phần theo kiểu ăn dở còn lại trong đĩa.
    – Ăn từ tốn, không ăn hối hả, không vừa đi vừa nhai.
    – Khi ăn không được để thức ăn dính ra mép, ra tay hay vương vãi, đứng lên là khăn trải bàn vẫn sạch. Giặt thì giặt chứ dùng cả tuần khăn bàn vẫn trắng tinh không dính bẩn.
    – Nếu ăn gặp xương hoặc vật lạ trong thức ăn, cần từ từ lấy ra, không được nhè ra toàn bộ tại bàn.
    – Chỉ có người cao tuổi, 70 trở lên và trẻ nhỏ mà ợ khi ngồi ăn mới không bị coi là bất lịch sự.
    – Nếu bị cay thì xin phép ra ngoài hắt xỳ hơi, xỷ mũi.
    – Nhà có khách cần cẩn trọng khi nấu, chất cay để phụ trội bày thêm, tránh bất tiện cho khách khi họ không ăn được cay hay một vài gia vị đặc biệt.
    – Tránh va chạm tay với người cùng mâm, nếu thuận tay trái thì nói trước để chọn chỗ cho thuận tiện.
    – Phải chú ý tay áo khi gắp đồ ăn.
    – Nếu thấy thức ăn lớn nên xin cắt nhỏ để mọi người được thuận tiện
    – Khi đang ăn mà có việc riêng phải xin phép rồi mới rời mâm.
    – Nhất thiết nói cảm ơn sau bữa ăn dù là chỉ có hai vợ chồng nấu cho nhau. Đừng tiếc lời khen ngợi những món ngon.
    – Phong tục mời tùy theo gia đình, có gia đình thì người cao tuổi nhất nói đơn giản “các con ăn đi”, trẻ thì thưa “con xin phép”, nhưng có gia đình trẻ con phải mời hết lượt ông bà cha mẹ cô chú anh chị… Khi tới đâu thì quan sát gia chủ, không thể mang tập quán nhà mình vào bữa ăn nhà người ta.
    – Ăn xong cần tô son lại thì xin phép vào phòng vệ sinh, không tô son trên bàn ăn trước mặt người khác.
    – Ngồi đâu là theo sự xếp chỗ của chủ nhà, không tự ý ngồi vào bàn ăn khi chủ nhà chưa mời ngồi.
    – Ngày xưa, có lúc người giúp việc ăn cùng mâm với chủ nhà, khi gắp, chủ nhà để thế tay ngang nhưng người giúp việc thế tay úp. Nhìn là biết ngay.
    – Không được phép quá chén.
    – Nên thành thực nói trước về việc ăn kiêng, dị ứng [nếu có] khi được mời làm khách để tránh bất tiện cho chủ nhà.

  • Sự tích và Tục thờ Ông Địa – Thần tài ngày Tết

    Tục thờ Ông Địa – Thần tài, có lẽ nguồn gốc bắt đầu từ Trung Quốc rồi sau đó lan dần sang các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, người xưa quan niệm thờ cúng Ông Địa-Thần tài trong nhà để cầu mong cho gia đình êm ấm, làm ăn phát tài phát lộc.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Tín ngưỡng thờ thần là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt. Ngay từ buổi đầu hình thành nhà nước sơ khai, người ta đã biết thờ phụng các vị thần tự nhiên, siêu nhiên, như: thần Đất, thần Mây, thần Mưa, than Gió, thần Sấm… Tín ngưỡng thờ thần này bắt nguồn từ tâm lý e sợ các hiện tượng tự nhiên mà họ chưa lý giải được trong thời điểm lúc bấy giờ.
    Và đó cũng là tâm lý thể hiện sự tri ân đến các sự vật, hiện tượng tự nhiên xung quanh đã tạo cho họ có được môi trường sống, và làm cho cuộc sống của họ được giàu có, sung túc và bình an.

     

    Sự Tích Ông Địa

    Trong đời sống trước đây của dân tộc Việt thì phần lớn dựa vào nông nghiệp, mà nông nghiệp thì lại phụ thuộc rất nhiều các điều kiện tự nhiên như: đất đai, thời tiết, khí hậu… trong đó có thể nói, đất đai được xem là yếu tố cơ bản cấu tạo nên vạn vật, giúp cho người ta có được cuộc sống ấm no và sung túc. Vì vậy, thần Đất hay Thổ Thần là một trong những vị thần được cư dân nông nghiệp luôn để tâm đến trước nhất.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Tượng Ông Địa

    Như chúng ta đã biết, Nam Bộ là một vùng đất mới, ngay từ những bước chân đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này thì vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đầm lầy nê địa, rừng hoang cỏ rậm, thú dữ tràn đầy… Mọi thứ ở đây hoàn toàn lạ lẫm đối với họ, từ tiếng chim kêu, tiếng cá vẫy vùng… đến tiếp cọp rống, gió rít đều gây cho họ một cảm giác lo sợ.

    “Tới đây xứ sở lạ lùng,
    Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng ghê”

    Người dân lúc đó nghĩ vùng đất Nam Bộ này, từ khu rừng, con sông, vùng đất… đâu đâu cũng có các vị thần cai quản. Để được yên ổn làm ăn, họ phải khấn vái, cúng kiến cho các thần để các thần phù hộ cho họ có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình an. Vì lẽ đó mà Thổ Địa được họ sùng kính và tôn thờ. Họ xem Thổ Địa như là một vị thần bảo hộ cho một mảnh vườn, thửa ruộng của họ….

    Về hình tượng Ông Địa ở Nam Bộ thì tượng Ông Địa hay tranh vẽ thường là một người trung niên mập mạp, bụng bự, vú lớn, miệng cười hể hả, tay cầm quạt, tay cầm điếu thuốc lá… trông có vẻ phương phi, hào sảng và mang đầy chất phong thịnh. Và nó cũng mang chút hơi hướm của sự hài hước. Đây cũng là một đặc trưng trong tính cách của người Nam Bộ.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Tượng ông Địa

    Người Nam Bộ thường có tâm lý tin vào thần thánh nhưng đôi khi họ cũng không tuyệt đối hóa sự thờ phụng này. Khi họ tin vào Ông Địa, họ thờ cúng Ông Địa quanh năm nhưng đôi khi mùa màng thất bát, buôn bán lỗ lã họ van vái Ông Địa nhiều lần, nhưng cuộc sống vẫn không khá hơn, họ sẵn sàng đem Ông Địa bỏ ở gốc cây, kẹt đá, hoặc quăng xuống sông.

    Vì lẽ đó mà Ông Địa ở Nam Bộ dường như có khoảng cách rất ngắn với con người, ông như một vị thần dân dã luôn gần gũi với cuộc sống của con người. Chính điều này đã dẫn đến hàng loạt các giai thoại về Ông Địa do dân gian sáng tác, nhằm giải thích các đặc điểm về hình thể ông cũng như để giải thích một số sự việc, hiện tượng mà người ta không thể lý giải được trong cuộc sống của mình.

    Trong “Sự tích Ông Địa bụng bự” có kể rằng:

    “Ngày xưa, Ông Địa cũng có cái bụng bình thường như bụng của mọi người. Thuở đó, Ông Địa có kết thân với Hà Bá. Trong vùng có một mụ góa bụa, tính khí rất chua ngoa, nhưng mụ lại có cô con gái rất đẹp. Mụ mắc phải cái tật, hễ cất tiếng chửi con thì y như có mấy lời đầu lưỡi:

    – Má mày Hà Bá!

    Thấy vậy, Ông Địa mới tìm gặp Hà Bá, vừa thiệt, vừa giỡn, bảo rằng:

    – Nè Hà Bá, anh tốt phước quá! Ở đây, ngày nào cũng có người nói muốn hiến con gái cho anh đó. Mà lại con gái đẹp kia chớ.

    Hà Bá mừng quá liền hỏi:

    – Thiệt vậy không? Mà ai vậy? Nhờ anh làm mai dùm tôi liền đi nghe.

    Ông Địa bằng lòng và dẫn Hà Bá đi.

    Hôm sau, trời vừa sáng, Hà Bá theo Ông Địa đến cổng nhà mụ góa nọ. Còn sớm, cô con gái út ngủ chưa dậy, chỉ mới có bà mẹ dậy quét dọn sân nhà. Giữa sân có con chó cái, ý chừng phải thức canh nhà nên vẫn còn nằm lì ở đó, đuổi chẳng chịu đi. Đuổi hoài chẳng được, mụ ta nổi xung trở cán chổi đập con chó một cái, chửi:

    – Cái đồ Hà Bá!

    Thiệt nào ngờ? Hà Bá giận quá chừng liền đạp cho Ông Địa một đạp và chửi:

    – Đồ khốn! Dám lừa tao! Dẫn tao đi để gả cho con chó cái này hả?

    Ai ngờ mới có một đạp, Ông Địa đã rớt tỏm xuống kinh. Không tính tới sự oái oăm này, nên Ông Địa mắc cười quá, té xuống kinh mà vẫn cười ngất, thành thử ông uống phải nước kinh nhiều quá. Đến nỗi, cái bụng ông phình ra, rồi cứ lần lần bự dần, đến chang bang như bây giờ”.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Ông Địa

    Trong suốt chiều dài lịch sử, tín ngưỡng thờ Thần Đất nói chung, thờ Ông Địa nói riêng đã có nhiều thay đổi, nó không còn giữ nguyên sơ của dạng tín ngưỡng ban đầu. Trong tâm thức dân gian Nam Bộ, Ông Địa được xem là một vị phúc thần, không chỉ có vai trò bảo vệ đất đai, ruộng vườn mà còn có nhiệm vụ đưa rước Thần Tài đến nhà, nghĩa là làm cho gia chủ phát đạt giàu có, và kiêm luôn việc giúp cho gia chủ mau lành bịnh và tìm kiếm được những món đồ đã mất. Do đó mà sáng sớm khi mở cửa nhà, cữa tiệm thì Ông Địa lại thường được gia chủ tặng thưởng cho một ly cà phê đen bên cạnh, một điếu thuốc lá trên tay, có khi là cà phê sữa ngon và một gói thuốc ba số 555 hẳn hoi. Có lúc được thưởng cả bánh bao, thịt heo quay nữa….

    Theo tín ngưỡng dân gian cho rằng thờ ông Địa để Địa phù hộ buôn may bán đắc, thật ra theo các tôn giáo Á Đông ông Địa lại là vị thần cai quản các địa phương hoặc là thần bảo vệ của mỗi gia đình. Ở các cấp độ cao hơn thì ông Địa trở thành vị thần hộ trì cho những người lương thiện, những bậc tu hành được bình an trên đường giáo dân độ thế, hiểu theo nghĩa này thì ông Địa lại là một vị thần có sứ mạng về mặt tâm linh.

    Cũng có nhiều nơi theo ảnh hưởng của Trung Hoa còn gọi Ông Địa là ông Thần Tài (Mọi thứ đều sinh từ đất mà ra – Tấc đất là tất vàng).

    Vì Thổ Công là vị thần quan trọng nhất trong gia đình. Nếu đứng ở ngoài nhìn vào thì Bát hương thờ Thổ công ở giữa, bên trái là bát hương bà Cô Tổ, bên phải là bát hương Gia Tiên. Khi cúng lễ, đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về.

    Thông thường, mỗi khi làm việc gì có đụng chạm đến đất đai như đào ao, đào giếng, xây cất, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt… thì tất cả đều phải cúng vị thần này.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Ông Địa

    Việc cúng ông Địa Cũng là 1 vấn đè khá lý thú với người Việt Nam ta. Đối với người miền Nam và với những người Hoa Kiều mỗi khi cúng ông Địa thì họ thường bẻ ăn trước một miếng rồi mới mang cúng, vì theo 1 vài sự tích thì Ông Địa bị đầu độc nên chết, vì thế ông rất sợ bị chết, nên khi cúng kiến ông thì phải bẻ ăn một miếng trước thì ông mới dám ăn).
    Còn với người miền Bắc thì họ vẫn cúng như bình thường.

    Dù sao Ông Địa cũng gắn bó với cư dân Nam Bộ trong suốt chiều dài lịch sử, đồng hành cùng cư dân Nam Bộ khẩn hoang lập ấp ngót ba trăm năm nên Ông Địa tỏ ra rất gần gũi với cư dân Nam Bộ. Mặc dù họ vẫn tôn thờ ông như thuở nào nhưng trong thâm tâm họ, ông luôn gần gũi, hiền từ, ít trách cứ ai… nên họ mới tạc nên hình dáng ông như vậy và khi người ta làm việc gì hết mình, hoặc chơi hết mình người ta hay nói vui rằng: “Chơi mát trời ông Địa luôn”…!

    Thần Tài

    Thần Tài theo tín ngưỡng là một vị thần mang đến tài lộc, của cải, sung túc cho gia đình, mỗi khi làm việc gì, ta thường thấy gia chủ cầu khấn Thần Tài.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Thần Tài

    Một sự tích xưa về Thần Tài là “sự tích Âu Minh – Như Nguyên”

    Có một tên lái buôn tên là Âu Minh khi qua hồ Thành Thảo, Thủy thần cho một cô nô tỳ tên là Như Nguyện. Âu Minh đưa Như Nguyện về nuôi trong nhà làm ăn ngày càng trở nên phát đạt. Sau đó, vào một ngày tết, vì lý do nào đó, Âu Minh đánh Như Nguyện. Như Nguyện quá sợ hãi chui vào đống rác và biến mất. Kể từ đó, Âu Minh làm ăn luôn thua lỗ, sa sút, chẳng mấy chốc trở nên phá sản, nghèo xác nghèo xơ. Hóa ra Như Nguyện chính là hóa thân của Thần Tài. Từ đó người ta thưởng lập bàn thờ để thờ vị thần này.

    Lý do vì sao lại kiêng cử hốt rác hay quét rác trong 3 ngày đầu năm? Vì sự tích Âu Minh – Như Nguyên như trên mà người ta sợ hốt rác là sẽ hốt luôn cả Thần Tài trong đống rác đó thì việc làm ăn sẽ không suôn sẻ. Việc thờ Thần Tài ở nơi xó xỉnh cũng có nguồn gốc từ đây….

    Cũng có 1 sự tích khác về Thần Tài đó là “Sự Tích mùng 10 tháng giêng âm lịch”

    Chuyện kể rằng Thần Tài chỉ có trên trời, dưới trần gian không có, Thần Tài là vị Thần cai quản tiền bạc, tài lộc.

    Trong một lần đi chơi uống rượu, do say quá nên Thần Tài bị rơi xuống trần gian, không may đầu bị va vào đá nên nằm mê mệt không biết gì, sáng ra mọi người thấy một người ăn mặc giống như diễn tuồng cải lương thì lấy làm lạ và tưởng ngài bị điên.

    Mọi người thấy vậy liền lột sạch hết quần áo mũ nón của Thần Tài và đem đi bán, Thần Tài tỉnh dậy không có quần áo trên người và do bị va đầu vào đá nên không nhớ mình là ai.

    Do sống trên thiên đình quen rồi nên Thần Tài không biết làm việc dưới trần gian nên thường đi lang thang xin ăn khắp nơi. Thần Tài đi ăn xin thì gặp một nhà kia kinh doanh buôn bán gà, vịt, heo quay ế ẩm, thấy Thần Tài đến ăn xin thì được chủ nhà mời vào ăn.

    Thần Tài được chủ quán cho ăn nên ông ra sức ăn rất nhiều đặc biệt là ông rất thích thịt heo vịt quay, điều kỳ lạ lúc này là khi ông vào quán này ăn thì không biết từ đâu khách kéo đến nườm nượp, người chủ quán thấy lạ nên ngày nào cũng mời Thần Tài vào ăn.

    Sự tích và Tục thờ Ông Địa - Thần tài ngày Tết

    Khách hàng ở quán đối diện trước nay rất đông khách bỗng dưng từ hôm thần Tài đến ăn quán bên này thì khách bên đó lại chuyển hết qua quán bên này ăn.

    Sau một thời gian người bán hàng đắt khách và cảm thấy Thần Tài chẳng làm gì mà suốt ngày lại được ăn uống đồ ăn ngon, lại toàn dùng tay ăn bốc, người thì bốc mùi, lại hay thích lang thang không tắm giặt.

    Nghĩ Thần Tài sẽ làm khách sợ không dám đến ăn nữa và lại thấy hao phí đồ ăn cho một người ăn mày không đáng nên người chủ quán liền đuổi ông đi.

    Quán đối diện ngày xưa rất đông khách nay vắng hoe, thấy Thần Tài bị chủ quán bên kia đuổi thì liền mời Thần Tàivào ăn, cũng như lúc trước, mọi người lại ùn ùn kéo đến ăn quán này rất đông.

    Mọi người thấy vậy nên ai cũng ra sức tranh giành mời cho bằng được Thần Tài đến hàng quán của mình ăn để có thể kéo khách đến ăn đông, vậy nên mới có câu “Thần Tài gõ cửa”.

    Người dân khu vực đó thấy Thần Tài không có quần áo mặc nên dẫn ông đi mua lại quần áo, được mọi người dẫn đến cửa hàng nơi quần áo ông bị bán, sau khi mặc lại quần áo mũ nón vào thì Thần Tài sựt nhớ lại mọi chuyện trước kia và bay về trời.

    Mọi người coi Thần Tài như là báu vật và họ lập bàn thờ, tôn thờ ông từ đó, hóa thân Thần Tài là một người lang thang ăn xin quần áo rách rưới.

    Ngày Thần Tài bay về trời cũng chính là ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch….

    Theo gocphongthuy.net

  • Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn

    Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn

    Các nghi thức trang điểm theo lối cung đình Huế vẫn luôn là điều bí mật với nhiều người. Bí ẩn từ cách pha chế mỹ phẩm đến cung cách vẽ mặt sao cho các mệ trông giống như các bức tượng tiên thánh. Những phần khác chỉ còn là huyền thoại, cùng với sự ra đi của những bà hoàng, những công chúa, phi tần cuối cùng của vương triều nhà Nguyễn…

    Người cung nữ cuối cùng còn sống của Triều Nguyễn
    Người cung nữ cuối cùng còn sống của Triều Nguyễn

    Mỗi sáng sớm các viên lính giản khiêng loan ỷ Thánh Cung Hoàng thái hậu, đích mẫu của Vua Khải Định, từ trên lầu Tịnh Minh xuống chính sảnh Cung Diên Thọ để các Cô làm tốt. Đây là cách người Huế xưa gọi việc trang điểm. Phải mất công như thế vì bà bị thấp khớp rất nặng, đi đứng khó khăn. Theo lời yêu cầu của ông Quan Năm bác sỹ người Pháp, triều đình xây cái lầu này trên nhà Thông Minh Đường để Thái hậu nghỉ ngơi cho đỡ ẩm thấp. Dù đau đớn thế nào đi nữa, trong suốt thời gian làm tốt Lệnh bà cũng vẫn phải ngồi yên, lưng ngay, mặt nhìn thẳng theo đúng phép tắc cung đình. Sau khi việc điểm trang, áo xống đã xong, Thái hậu vẫn phải giữ vẻ trang nghiêm trên ngai, đến nỗi trông bà giống như các tượng tiên, thánh trong đền.

    Khoảng năm 1970 tôi có dịp được bà Điềm Tần, thứ thất của cố Hoàng đế Khải Định, cho tôi xem cách bà trang điểm để sửa soạn cho một dịp đại kỵ. Lúc ấy vì không hiểu nên tôi chỉ thấy buồn cười mà không dám nói. Bà dùng phấn nụ pha nước sền sệt đánh mặt trắng bệch như vôi, nhưng từ dưới cầm xuống cổ, và hai tai, lại để da trần. Cho dù da bà trắng, sự tương phản vẫn rõ nét, gần như do cố ý. Điều gây ấn tượng mạnh nhất đối với tôi lúc ấy là cặp mắt không trang điểm của bà hiện ra giữa mầu phấn trắng một cách siêu thực. Có khi đấy cũng là do cố ý? Bà bôi lên mỗi gò má một khoảnh tròn phấn hồng. Môi trên dưới đều đánh phấn trắng, nhưng sau đấy bà dùng ngón tay tô sáp lên môi trên, và chỉ một điểm sáp son vào chính giữa môi dưới. Như vậy để môi chum chím như một nụ hoa. Lông mày cũng được đánh che hết bằng phấn trắng, để rồi được tô lại bằng bút lông với muội than gỗ điên điển (có thể thay gỗ điên điển bằng nút bấc).

    Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn

    Bà Tần giải thích rằng khi một nữ nhân đã nhập nội (vào làm vợ vua) rồi thì ngoài chồng, tức là vua, không một người đàn ông nào khác được thấy mặt mình nữa, dù là cha ruột. Gặp những dịp các bà phải có mặt ngoài cung cấm, thì các bà phải đánh phấn trắng như vậy để “trăm Mệ như một”. Người ngoài chỉ được thấy cái mặt giả của các bà. Bà nói các kỹ nữ (geisha) bên Nhật cũng phải theo nguyên tắc này. Mặt thật của họ chỉ có chồng con được biết thôi.

    Theo lệ thời cuối Nguyễn Triều thì các hoàng thái hậu và các bà hậu, phi trong tam cung không phải đánh phấn trắng lối này. Các bà trong lục viện mới phải đánh mặt trắng. Ba viện trên được đánh sáp môi lên môi trên và một chấm sáp giữa môi dưới. Ba viện dưới đánh trắng môi trên với một chấm son giữa môi dưới…
    Bây giờ tôi chỉ ước được quay lại khung cảnh ấy để chiêm ngưỡng. Cô Lê Thị Dinh, người giữ phận sự trang điểm cho bà Từ Cung Hoàng thái hậu, sau này cho tôi biết rằng tôi rất may mắn. Vì trong tất cả các bà trong nội cung thời cuối Nguyễn, chỉ có bà Điềm Tần còn giữ các cung cách cổ.

    Phụ nữ trong cung thủa xưa dùng phấn nụ để trang điểm. Gọi là phấn nụ vì do cách sản xuất thời bấy giờ, mỗi viên phấn có hình dáng giống như một nụ hoa nho nhỏ. Các bà tự làm ra phấn nụ để dùng chứ ít khi họ tin tưởng vào phấn mua ngoài phố. Phấn nụ được làm từ chất cao lanh thượng hạng mua từ Trung Quốc và đem về chế biến.

    Khi đánh phấn, người ta nhón viên nụ phấn bằng các đầu ngón tay rồi miết với động tác xoay tròn lên mặt. Sau đó dùng các đầu ngón tay xoa cho đều. Lập lại nếu cần. Phấn cũng còn được pha sẵn với nước đựng trong hũ nhỏ để bôi lên mặt khi cần đánh lớp trắng, dầy trong các dịp đại kỵ.

    Người xưa đốt gỗ điên điển, và sau này là nút bấc, rồi dùng cọ lông viết chữ Nho quết than khô để vẽ lông mày. Sau khi đã vấn khăn hay búi tóc xong, các bà cũng dùng than này chấm lên che bớt tóc bạc, đường rẽ ngôi và các chỗ tóc bị sói.

    Lối đánh phấn trắng bệch với phấn hồng và môi điểm nụ chỉ được dùng trong các dịp đại kỵ trong cung ngày xưa. Vào các lễ lạc khác và ở đời thường, phấn nụ và sáp môi cũng chỉ được điểm trang như cách phụ nữ vẫn làm ngày nay mà thôi. Phấn nụ vẫn được làm thành từng thỏi lớn và bán tại các hàng xén trong chợ Đông Ba ở Huế. Nhưng các bà xưa vẫn thường tự mua cao lanh về làm phấn nụ để dùng riêng. Họ phải kỹ vì chất cao lanh loại thấp cấp dễ gây tổn hại cho da mặt.

    Phấn nụ loại tốt ngày xưa còn được xem là có công dụng dưỡng da. Phấn được bôi dầy lên mặt mỗi đêm, để trong khi ngủ da sẽ thẩm thấu phấn và trở nên mịn màng. Các phụ nữ nội cung còn sống ở Huế hiện nay vẫn chỉ dùng phấn nụ. Họ không hài lòng lắm với mỹ phẩm Tây phương.

    Phấn nụ và khăn vành dây bao giờ cũng đi đôi với nhau trong cung nội ở Huế. Người Việt cổ dùng vải nhiễu cát để bao tóc. Người Tây phương sau này cũng rất chuộng loại vải này và gọi nó là Crepe de Chine. Nhiễu cát do người Việt dệt ngày xưa chỉ mỏng bằng nửa loại Crepe de Chine ngoại nhập được dùng khá phổ biến trong cung ở thời cuối Nguyễn triều.

    Cách chít khăn trong cung ở Huế khác với cách vấn khăn của đàng ngoài. Khăn vấn Huế được chít với mép khăn hướng lên trên và dấu ở phía trong vành khăn. Vành khăn thứ hai được chít bao ra ngoài phía trước vành khăn một, chứ không luồn bên dưới vành một như ở Bắc bộ. Các mệnh phụ trong cung Huế thường vấn khăn vành dây ra ngoài khăn chít trong các dịp lễ. Khăn vành dây rộng 30cm. Khăn bằng Crepe de Chine ngoại quốc có độ dài trung bình là 15 mét. Khăn nhiễu cát Việt Nam mỏng nên có độ dài hơn.

    Từ độ rộng 30cm, khăn vành dây được xếp thành bề rộng 6cm với cạnh hở hướng lên trên, rồi quấn thành hình chữ Nhân, tức là chữ V ngược, che tóc, một phần tai và vòng khăn chít bên trong. Khi khăn đã bao giáp vòng, gấp khăn lại còn nửa chiều rộng, bắt đầu từ đằng sau gáy, vẫn để cạnh hở hướng về phía trên, rồi vấn tiếp. Khăn vành được bao chặt ra ngoài phần khăn chit, tạo thành một cái đĩa lớn. Vì nhiễu cát có độ co dãn và nhám cao nên khăn vành ít khi tuột. Phần cuối của khăn được vén khéo vào trong vành khăn phía sau, rồi dùng kim găm dấu cho khéo.
    Về sau khi tóc uốn trở nên thông dụng, người Huế tạo ra một vòng vải ống tròn nhồi bông chụp vừa lên đầu giả khăn vấn để lót cho khăn vành dây. Một trong những người đầu tiên xử dụng loại khăn vấn sẵn này là Hoàng hậu Nam Phương. Khi mới nhập cung, tóc Hoàng hậu vẫn còn uốn ngắn như hồi còn ở bên Pháp. Phải có cái ống khăn chít giả bên trong người ta mới vấn được khăn vành cho Hoàng hậu, để bà có thể mặc áo mệnh phụ khi làm triều lễ.

    Chỉ mãi sau này khi điển lệ đã bị phá bỏ người ta mới thấy một vài khăn vành dây mầu vàng trong cung. Còn ngoài ra, từ các hoàng thái hậu, hoàng hậu cho đến các công chúa, mệnh phụ thường cũng chỉ vấn khăn vành mầu lam đậm. Khăn vành dây bao giờ cũng được xem là niềm kiêu hãnh, cũng như nỗi khổ của các phi, hậu, mệnh phụ ngày xưa.

    TRỊNH BÁCH