Category: Lễ hội Việt Nam

  • Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Sau mỗi dịp Tết Nguyên đán, các lễ hội mùa xuân trên khắp đất nước bắt đầu được khai hội. Lễ hội mùa xuân ở Việt Nam là một trong những nét đẹp văn hóa và tâm linh đậm đà bản sắc dân tộc. Các lễ hội mỗi vùng miền có đặc trưng riêng luôn thu hút được đông đảo du khách trong và ngoài nước đến chiêm bái, tham quan.

    Mùa xuân ở Việt Nam thường bắt đầu từ khoảng tháng 2 cho đến tháng 4 và là thời gian diễn ra nhiều lễ hội nhất. Thời tiết thường xuất hiện những cơn mưa phùn, mưa nhỏ nhiều ngày, độ ẩm trong không khí tăng cao nên gây ra thời tiết nồm ẩm. Đây là khoảng thời gian ấm áp nhất trong năm, với thời gian ban ngày rất dài.  Xem bài viết:  Tết 3 miền Bắc – Trung – Nam

    Lễ hội mùa xuân nổi tiếng ở miền Bắc

     

    Lễ hội chùa Hương

    Lễ hội Chùa Hương hay trẩy hội Chùa Hương là lễ hội lớn nhất và kéo dài nhất ở Việt Nam. Lễ hội chùa Hương được tổ chức tại khu thắng cảnh Hương Sơn nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.

    Lễ hội Chùa Hương kéo dài từ ngày mùng 6 Tết cho tới hết tháng 3 Âm lịch. Đây là một lễ hội lớn được tổ chức hằng năm, thu hút số lượng đông đảo các Phật tử trên cả nước tham gia hành hương.

    Lễ hội gò Đống Đa

    Lễ hội gò Đống Đa hay còn gọi là lễ hội chiến thắng là một trong những lễ hội lớn diễn ra tại quận Đống Đa, Hà Nội. Lễ hội được diễn ra vào ngày mùng 5 Tết.

    Lễ hội gò Đống Đa được tổ chức để tưởng nhớ đến những chiến công chống giặc ngoại xâm cứu nước của vua Quang Trung. Lễ hội mang những nghi lễ truyền thống, cờ hoa rực rỡ cùng tiếng trống chiêng thôi thúc chiến đấu, làm sống dậy những trang sử vẻ vang của dân tộc.

    Lễ hội Khai ấn đền Trần

    Lễ khai ấn đền Trần diễn ra giữa đêm 14 và mở đầu cho ngày 15 tháng Giêng, tại Khu di tích đền Trần, phường Lộc Vương, TP Nam Định. Đây là lễ hội mùa xuân nổi tiếng Việt Nam để tri ân công đức của các vị vua Trần. Hội sẽ được bắt đầu với lễ khai ấn, diễn ra vào giờ Tý và ấn được phát tại 3 nhà: nhà trưng bày đền Trùng Hoa, nhà Giải Vũ và một điểm trong khu vực vườn cây thuộc đền Trần.

    Lễ hội mùa xuân đền Trần những năm gần đây thu hút rất nhiều du khách thập phương với mong muốn một năm mới phát tài, thành đạt.

    Lễ hội Yên Tử

    Yên Tử không chỉ nổi tiếng với cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ mà còn là nơi tín ngưỡng tâm linh của rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Yên Tử chính là nơi bắt nguồn của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và cũng là trung tâm Phật Giáo Việt Nam.

    Lễ hội Yên Tử (Quảng Ninh) sẽ bắt đầu từ ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm và kéo dài đến tận tháng 3 Âm lịch. Du khách có thể tới Yên Tử để tham quan ngôi chùa bằng đồng ấn tượng nằm trên đỉnh núi, du xuân vãn cảnh, thưởng ngoạn tiết trời xuân. Nơi đây du khách cầu bình an, may mắn cho cả năm thuận buồm xuôi gió.

    Yên Tử được xem như một điểm hấp dẫn du lịch tôn giáo, lịch sự, văn hóa và sinh thái. Bất kỳ ai đến với lễ hội Yên Tử, nhất là đến được chùa Ðồng đều cảm thấy choáng ngợp bởi sự kỳ vĩ của thiên nhiên. Những giá trị tinh thần, văn hoá của tổ tiên; sự dâng hiến tinh khiết, trong hoa lá…

    Lễ hội chợ Viềng

    Phiên chợ Viềng tại Nam Định nổi tiếng trong các lễ hội mùa xuân tại Việt Nam. Đi chợ Viềng người dân mong muốn “mua may bán rủi”. Dù không mang nhiều tính thương mại nhưng lại có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, cầu may theo quan niệm truyền thống.

    Lễ hội diễn ra vào đêm mùng 7, rạng sáng mùng 8 tháng Giêng Âm lịch. Lễ hội thu hút rất đông người dân, khách du lịch tới tham gia. Các mặt hàng tại chợ Viềng hết sức đa dạng, từ đồ ăn cho tới các vật dụng thôn quê quen thuộc như: thúng, đơm, giỏ, đó, đòn gánh, cuốc xẻng… mỗi du khách có thể lựa chọn mua một thứ đồ yêu thích để lấy “may”.

    Lễ hội Đền Hùng – Giỗ Tổ Hùng Vương

    Lễ hội Đền Hùng là một trong những lễ hội mùa xuân lớn nhất cả nước nhằm tưởng nhớ công ơn của các vị vua Hùng đã có công dựng nước và giữ nước. Lễ hội được tổ chức trong vòng 6 ngày từ mùng 5 đến ngày 10 tháng 3 Âm lịch.

    Đến lễ hội, du khách sẽ được chứng kiến màn rước kiệu vua và lễ dâng hương. Ngoài ra còn rất nhiều hoạt động văn hóa và trò chơi dân gian hấp dẫn như: Hát xoan, đấu vật, kéo co, bơi…

    Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Lễ hội Chùa Hương là lễ hội lớn nhất và kéo dài nhất ở Việt Nam. Ảnh: TL

    Lễ hội mùa xuân miền Trung

     

    Lễ hội Đền vua Mai

    Lễ hội Đền vua Mai diễn ra từ ngày mùng 3 đến mùng 5 Tết. Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ đến vua Mai Hắc Đế, tên thật là Mai Thúc Loan. Vị vua này được sinh ra và lớn lên lại xã Đông Liệt (nay đã được đổi tên thành xã Nam Thái, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

    Lễ hội vật làng Sình

    Lễ hội vật truyền thống làng Sình mang đậm những nét văn hóa đặc sắc của cố đô Huế. Lễ hội diễn ra vào ngày mùng 10 tháng Giêng Âm lịch hàng năm.

    Lễ hội mang đến những trải nghiệm tuyệt vời, kích thích việc rèn luyện sức khỏe, sự tự tin, lòng dũng cảm đối với thế hệ thanh niên.

    Lễ hội Cầu Ngư

    Lễ hội Cầu Ngư còn có tên gọi khác là Lễ hội Cá Ông. Lễ hội được xem là một trong những lễ hội văn hóa đặc trưng của các ngư dân làng chài ven biển Nam Trung Bộ.

    Tham dự lễ hội, du khách có thể để ngắm nhìn những bộ trang phục truyền thống cùng phong tục thờ cúng Cá Ông theo truyền thuyết dân gian. Lễ hội sẽ được tổ chức vào tháng Giêng hàng năm với mong muốn cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy khoang.

     

    Lễ hội mùa xuân ở miền Nam

     

    Lễ hội núi Bà Đen

    Lễ hội núi Bà Đen (Tây Ninh) là một trong những lễ hội lớn nhất miền Nam. Lễ hội bắt đầu diễn ra từ mùng 4 Tết và kéo dài suốt tháng Giêng. Tuy nhiên, bắt đầu từ chiều 30 Tết cho đến hết tháng Giêng Âm lịch du khách thập phương đã đổ về đây dâng hương, cầu bình an, may mắn cho bản thân, gia đình. Ngoài ra, du khách có thể ngắm phong cảnh hùng vĩ, tận hưởng không khí nơi đền chùa thiêng liêng.

    Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu

    Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu (hội chùa Bà – Bình Dương) bắt đầu từ ngày 13 tháng Giêng và diễn ra trong 3 ngày. Lễ hội mang đậm nét văn hóa độc đáo của vùng Đông Nam Bộ.

    Ở lễ hội chùa Bà Thiên Hậu, người dân thường bày bàn cúng trước cửa vào đêm 13 tháng Giêng để chuẩn bị rước Bà vào sáng hôm sau. Dân chúng khắp nơi đổ về thắp hương và cầu mong phúc lộc, bình an.

    Lễ hội đền Đức Thánh Trần

    Lễ hội đền Đức Thánh Trần là một trong những lễ hội tâm linh lớn nhất của TP Hồ Chí Minh. Lễ hội được diễn ra từ ngày mùng 8 đến ngày 10 tháng Giêng Âm lịch hàng năm.

    Lễ hội diễn ra nhằm tri ân công đức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Đồng thời là dịp để giáo dục truyền thống, lịch sử cho thế hệ thanh niên kế cận tiếp bước.

    Mùa Xuân nước ta có những lễ hội gì?

    Lễ hội mùa xuân ở Việt Nam là một trong những nét đẹp văn hóa và tâm linh đậm đà bản sắc dân tộc. Ảnh: TL

    Những lưu ý người tham gia lễ hội mùa xuân cần phải biết để không phạm luật

    Tại Khoản 2, Điều 6, Nghị định 110/2018/NĐ-CP về quản lý và tổ chức lễ hội có những quy định mà người tham gia lễ hội cần phải biết để không phạm luật như sau:

    – Chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật; nội quy thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội;

    – Ứng xử có văn hóa trong hoạt động lễ hội; trang phục lịch sự, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam; không nói tục, chửi thề xúc phạm tâm linh, gây ảnh hưởng xấu tới không khí trang nghiêm của lễ hội;

    – Thắp hương, đốt vàng mã đúng nơi quy định; không chen lấn, xô đẩy gây mất trật tự an ninh; giữ gìn vệ sinh môi trường;

    – Không tổ chức hoặc tham gia các hoạt động mê tín, dị đoan, cờ bạc và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

    – Không thực hiện việc đổi tiền có chênh lệch giá trong khu vực di tích, lễ hội;

    – Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngoài việc chấp hành nghiêm quy định trên còn phải thực hiện các quy định sau:

    Không đi lễ hội trong giờ hành chính;

    Không dùng xe công và các phương tiện công (hoặc thuê khoán phương tiện) tham gia lễ hội (trừ trường hợp thuộc thành phần tham gia tổ chức lễ hội hoặc được giao thực thi nhiệm vụ).

  • Nghi lễ đón Tết trong cung đình nhà Nguyễn

    Tết trong cung vua, phủ chúa bao giờ cũng gây tò mò với nhiều người. Ngoại trừ những người từng được kề cận, ai cũng muốn biết lễ tết trong hoàng cung diễn ra thế nào?

    Nghi lễ đón Tết trong cung đình nhà Nguyễn

    Nghi lễ đón tết trong cung Nguyễn. (Ảnh: Nhà nghiên cứu Võ Tòng Xuân).

    Nhà Nguyễn – chế độ phong kiến cuối cùng ở Việt Nam – đã cáo chung hơn nửa thế kỷ. Tuy nhiên, nhiều dấu ấn triều đại này tạo ra vẫn tồn tại, trong đó có không ít di tích được công nhận là di sản văn hóa của UNESCO, bao gồm cả những phong tục, lễ lượt của nhà vua trong dịp Tết.

    Lễ Ban sóc
    Theo sách Lễ Tết ăn chơi trong cung Nguyễn, hàng năm, triều Nguyễn mở đầu việc đón năm mới bằng lễ Ban sóc diễn ra vào ngày mùng một tháng 12 tại lầu Ngọ Môn.

    Ban sóc nghĩa là cơ quan Khâm Thiên Giám làm lịch cho năm mới xong, phân phát lịch của nhà vua cho bá quan và hoàng thân, quốc thích. Những người được ban lịch mặc lễ phục quay đầu về phía ngai vàng đặt trong điện Thái Hòa lạy 5 lạy để tạ ơn vua.

    Tiếp sau lễ Ban sóc là lễ Phất thức, nghĩa là quét dọn, lau chùi các ấn ngọc, ấn vàng, kim sách, ngân sách. Lễ này được tiến hành tại điện Cần Chánh – nơi tàng trữ những tráp đựng của báu quốc gia.

    Sau khi lau chùi xong, người ta căn cứ biên bản của năm trước kiểm kê lại toàn bộ vật báu trước khi bỏ vào tráp khóa chặt. Sau lễ Phất thức, các cơ quan nghỉ việc chuẩn bị đón Tết.

    Đến ngày 30 Tết, Khâm Thiên Giám chọn giờ lành để cho Bộ Lễ dựng cây nêu. Cây nêu của kinh thành, các địa phương, chùa chiền, gia đình cũng dựng theo. Đó là thời khắc báo hiệu toàn dân cùng đón Tết. Cây nêu báo hiệu ngày toàn dân nghỉ việc để ăn Tết.

    Tết Nguyên đán diễn ra đúng ngày mùng một đầu năm. Hôm ấy, quân lính mang khí giới, cờ lọng, voi ngựa trang sức rực rỡ cùng các loại xe nhà vua thường dùng… sắp hàng trước sân điện Thái Hòa ra đến cửa Ngọ Môn.

    Vua mặc đại triều, từ điện Cần Chánh ra điện Thái Hòa rồi ngự trên ngai vàng để bá quan và hoàng thân quốc thích lạy mừng. Trong lúc vua ngự, lầu Ngọ Môn rung chuông, trống đánh liên hồi, hết sức uy nghiêm.

    Các bà vợ vua vẫn ở trong thành. Người trong Tam Cung và có chức sắc, Tết Nguyên đán được mặc lễ phục, đứng bên đường làm hai hàng rào danh dự từ điện Càn Thành ra điện Cần Chánh để chào vua đi qua.

    Từ ngày 30 đến mùng 3 Tết, cỗ bàn được đặt cúng ở các miếu và điện Phụng Tiên, hương khói nghi ngút. Mỗi lần cúng 32 món ăn riêng như nem, chả, gà hầm, thịt quay, thịt dê… Buổi sáng cúng các vua, buổi chiều cúng công thần. Đồ cúng do cung vua nấu hoặc các địa phương dâng về kinh thành.

    Lễ cày Tịch điền
    Ngoài các lễ lượt trong hoàng cung, ngày Tết còn có lễ Tịch điền hết sức quan trọng, nhằm mục đích khuyến khích phát triển nông nghiệp. Ngày này, vua và hoàng thân quốc thích sẽ xuống ruộng cày mấy đường để khuyến khích dân chúng phát triển nông gia.

    Vua mặc áo chẻn, bịt khăn đường cân, mang hia, một tay cầm roi, một tay cầm chiếc cày sơn vàng, do hai con bò phủ lụa vàng kéo. Theo hầu vua có quan Phủ doãn Thừa Thiên và một viên ấn quan của Bộ Hộ, người mang thúng giống, kẻ vải giống.

    Sau khi cày xong, vua ngồi lên Đài quan canh để xem hoàng thân và các đại thần cày tiếp. Đây chỉ là hoạt động tương trợ. Sau khi lễ Tịch điền kết thúc, khoảnh ruộng này sẽ được giao lại cho người chuyên trách, có nghĩa vụ trồng để lấy thóc cúng đàn Nam Giao, tế các thần và các lăng, miếu.

    Những lễ lượt trong Đại Nội và cày ruộng tịch điền được tổ chức trong vòng hoàng gia, chỉ một số đại thần và một số ít vị chức sắc, còn dân chúng không được tham dự.

    Ban “lửa tình” cho các cung phi
    Dịp Tết, không vợ và con nào được ngồi ăn cùng vua cả. Vì thế, có nhiều bà mang tiếng là vợ vua mà quanh năm không được thấy mặt chồng, dù họ chỉ ở cách nơi ở của vua có vài chục mét.

    Để tạo cơ hội cho các bà phi, tần, mỹ nữ trong chín bậc được trông thấy mặt vua những ngày đón xuân, các vua Nguyễn nghĩ ra một cách gặp mặt rất độc đáo.

    Theo đó, đến ngày đông chí hàng năm, tất cả lửa trong cấm thành đều phải tắt hết. Cung điện Càn Thanh nhóm một lò lửa thật lớn. Đúng vào lúc nửa đêm, các bà trong cung lục viện được phép mang lồng ấp đến điện Càn Thanh để vua ban cho ít lửa, ngụ ý ban hơi ấm cho mọi người. Chút “lửa tình” này sẽ được các bà giữ cẩn thận quanh năm.

    Theo quan niệm ngày xưa, vua là “thiên tử”, nắm trong tay mọi quyền hành. Ngày Tết với các bậc thiên tử không chỉ là thời gian nghỉ việc triều chính để chơi, mà còn để kiểm kê của báu (lễ Phất thức), chuẩn bị cho công việc của năm sau, tưởng nhớ đến tổ tiên, khuyến khích dân chúng siêng năm sản xuất (lễ Tịch điền).

    Nhà Nguyễn đã không còn nữa, nhưng tất cả những sinh hoạt Tết ấy vẫn được tìm thấy trong sử sách và có những ý nghĩa nhất định. Đó cũng là một phần trong di sản phi vật chất của chúng ta hôm nay.
    Nguồn: KH

  • Tết 3 miền Bắc – Trung – Nam

    Tết 3 miền Bắc – Trung – Nam

    Tết Nguyên Đán là ngày tết cổ truyền của Việt Nam, song ở mỗi vùng miền đều có những hình thức ăn tết khác nhau, Giữa miền Bắc, Trung và miền Nam từ lâu đã có những nét đặc trưng riêng… Bản sắc vùng miền hiện lên rất rõ trong từng cung cách ăn mặc hay vui chơi.

    Miền Bắc
    – Bánh chưng:
    Nhắc tới Tết miền Bắc, đầu tiên là món bánh chưng, bánh giầy. Bánh chưng thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông, đất trời xứ sở và là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại. Gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt, đặc biệt phía Bắc, mỗi dịp Tết đến xuân về. Bên cạnh bánh chưng là bánh giầy, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamNgười Bắc có câu: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh... Không có thịt mỡ, không có dưa hành, không có bánh chưng là không phải ngày Tết. Điều đó làm nên nét đặc trưng của món ăn ngày Tết. Bánh chưng ăn dễ ngán nên cần có thêm đĩa dưa hành muối. Trên mâm cỗ cổ truyền của người Hà Nội không thể thiếu món giò lụa và thịt gà có mấy sợi lá chanh ở trên. Ngoài ra, người miền Bắc còn có món thịt đông ăn trong ba ngày Tết, đây là món ăn dễ làm lại rất phù hợp với khí hậu lạnh…

    – Hoa đào:
    Nếu như ở mảnh đất phương Nam xa xôi hoa mai kiêu hãnh khoe mình trong nắng, gió thì trong tiết trời se lạnh của miền Bắc hoa đào góp phần làm xua tan cái giá rét của mùa đông
    Theo truyền thuyết, có một cây hoa đào đã mọc từ rất lâu trên vùng núi cao phía bắc. Trên cây đào bỗng xuất hiện hai vị thần tài giỏi có nhiệm vụ bảo vệ và che chở cho dân làng trong vùng. Do đó, ma quỷ rất sợ hai vị thần này và sợ luôn cả hoa đào. Cứ thấy cành đào là chúng bỏ chạy thật xa.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamHàng năm, gần đến Tết, hai vị thần này lại phải lên trời gặp Ngọc Hoàng nên không có người bảo vệ nên dân trong làng rủ nhau lên rừng chặt đào mang về cắm trong nhà để phòng ma quỷ.
    Cây đào chỉ trồng được ở miền Bắc, là loại hoa đặc biệt của Tết Nguyên đán. Nhiều người chuộng chơi hoa đào tết vì hoa đào có màu đỏ sẽ mang lại sự may mắn trong năm.

    Việc miền Bắc chơi đào, trong khi miền Nam chơi mai trong dịp Tết được giải thích là sau khi mở rộng bờ cõi về phương Nam vốn có khí hậu nóng hơn không thích hợp với việc trồng đào, mỗi khi Tết đến, những người đi mở đất nhớ đến cành đào ngoài Bắc nhưng không thể có được đã chọn mai (một cây hoa rất phổ biến ở trong Nam, đẹp, nhiều hoa lại nở đúng mùa Tết) để thay thế. Nếu ngày Tết mà thiếu hoa đào thì thiếu hẳn hương sắc mùa xuân. Mỗi dịp Tết đến xuân về, đào nở rộ như nhắc chúng ta nghĩ về gia đình, về một năm cũ đã qua…

    – Ngũ quả:
    Mỗi năm, cứ vào dịp Tết Nguyên đán, trên bàn thờ mọi gia đình người Việt đều bày mâm ngũ quả. Với màu sắc rực rỡ, hình dáng độc đáo cùng những ý nghĩa sâu xa, mâm ngũ quả làm cho ngày Tết sinh động hơn, thiêng liêng hơn…

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamMâm ngũ quả ở miền Bắc nhìn chung nhỏ hơn mâm ngũ quả ở miền Nam và không thể thiếu 3 loại quả: chuối, bưởi, quýt (hoặc cam). Mâm ngũ quả miền Nam thì khó có thể thiếu cặp dưa hấu và 4 loại quả: mãng cầu (na), dừa, đu đủ, xoài, bởi vì cầu – dừa – đủ – xoài theo tiếng người miền Nam có nghĩa là “cầu vừa đủ xài” – mong ước phổ biến nhất của họ trong năm mới. Một số nhà lại bày thêm trên mâm ngũ quả bình thường một chùm sung và quả đu đủ với ngụ ý cầu mong cuộc sống gia đình sẽ luôn “đầy đủ, sung túc”.

    Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cúng thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hoà với màu xanh mát của dưa hấu, đỏ rực của hồng, nâu mịn của hồng xiêm, vàng tươi của bưởi, cam, dứa… Nó thể hiện sinh động ý nghĩa triết học – tín ngưỡng – thẩm mỹ ngày Tết cùng những ước vọng lạc quan mà mỗi gia đình mang theo khi bước vào năm mới.

    – Mâm cỗ

    Cỗ tết truyền thống của người Việt trên khắp mọi miền đất nước đều có những món truyền thống như bánh chưng, gà luộc, giò lụa… Nhưng tùy vào tập quán, tính cách và khí hậu của mỗi vùng miền mà mâm cỗ tết cũng khác đi.

    Mâm cỗ tết của người Hà Nội thể hiện sự tinh tế, đặc sắc riêng của văn hóa ẩm thực nơi đây. Cỗ tết Hà Nội không có món bánh răng bừa, món gỏi như ở Huế, cũng không có xôi kèm lợn quay, bánh tét hay bánh măng, bánh dừa mận như ở miền Nam… mà có nhiều thức riêng phù hợp để thưởng thức trong không khí ngày tết rét lạnh miền Bắc.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamThông thường, các bát trên mâm cỗ gồm một bát bóng nấu với chân tẩy và nước dùng gà (chân tẩy gồm có su hào, cà rốt, củ đậu được thái mỏng theo những hình hoa đẹp đẽ). Một bát khoai tây hầm đầu, cổ, cánh gà. Một bát miến nấu lòng gà. Và một bát măng khô ninh chân giò. Các đĩa thì có đĩa gà luộc, đĩa thịt đông, đĩa giò xào, giò lụa, đĩa cá kho riềng hoặc bò kho khô, đĩa nộm.

    Cỗ tết Hà Nội hay bất cứ ở đâu trên cả nước đều không thể thiếu các món truyền thống là dưa hành và bánh chưng xanh. Nhưng miền Bắc nổi tiếng cả nước với cái rét lạnh mùa đông. Cỗ tết do đó cũng đặc biệt hơn bởi những món được làm từ không khí rét mướt ấy như giò xào hay thịt nấu đông…

    Thức ăn ngày tết bao giờ cũng được gia đình coi trọng. Thịt gà được dùng trong ngày năm mới phải là thịt gà trống thiến và được làm sẵn từ chiều 30 (vì người Việt ta kiêng sát sinh vào ngày mồng 1 và năm mới). Thịt lợn là thịt nạc mông hay thịt chân giò ngon, còn thịt mỡ sẽ dùng để chế biến món giò xào cho dễ ăn…

    Phong tục truyền thống:

    23 tháng Chạp tiễn ông Táo về trời, ngoài lễ vật người Bắc còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ được “phóng sinh” (thả ra ao hồ hay ra sông) sau khi cúng.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamTrước khi chia tay năm cũ để chào đón năm mới thì bao giờ cũng sẽ bắt đầu từ những bữa cơm tất niên bên gia đình ngày hội ngộ. Mâm cơm Tết lúc nào cũng đầy đủ đồ ăn thức uống, vừa để dâng lên tổ tiên vừa là nơi để cả nhà quây quần. Dường Tết luôn là “cái cớ hợp lý nhất để người Việt nhích lại gần nhau hơn”.

    Giao thừa luôn là khoảnh khắc thiêng liêng và ý nghĩa nhất, mọi người trong gia đình sẽ tề tựu bên nhau, cùng nhau đi hái lộc đầu năm. Lễ vật cúng giao thừa ngoài hương hoa quả phẩm còn có thêm mâm xôi đậu xanh, con gà luộc hoặc đầu heo, bánh chưng, cau trầu rượu. Ngày xưa cúng giao thừa xong, người miền Bắc còn có cổ tục đeo xâu bủa nêu ở trước cửa nhà.

    Người Bắc thường coi trọng tục lệ xông nhà nên buổi sáng mùng Một sẽ ra đường chơi hoặc ở nhà ăn Tết sáng mà không vào nhà ai cả. Kiêng kị như thế là vì có những người “nặng vía” sẽ làm cho gia chủ năm đó làm ăn thất bát, xảy ra cơ sự… Vì thế, có những gia đình sẽ mời người “nhẹ vía” hoặc hợp tuổi với gia chủ để xông đất. Trước Tết hay trong Tết, người ta cũng chúc nhau năm mới may mắn, bình an. Cả 3 miền đều thế, người trong gia đình sẽ lì xì cho nhau chúc nhau khỏe mạnh, may mắn.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – Nam

    Miền Trung
    Bánh tét:
    Ở miền Trung và miền Nam, ngày Tết gói bánh tét. Bánh tét được gói bằng lá chuối với các nguyên liệu giống như bánh chưng, chỉ khác là gói thành hình trụ dài chứ không phải hình vuông như bánh chưng. Khi ăn cắt thành từng khoanh, ở giữa nhân đậu xanh và thịt mỡ nổi lên như nhụy hoa. Bánh tét được coi là dạng nguyên thủy của bánh chưng. Là biểu tượng cho tín ngưỡng phồn thực của người Việt xưa.
    Trong không khí rộn ràng của xuân mới, người miền Trung náo nức chào xuân với hương thơm của bánh tét, của dưa món, của nem chua, của tré, của thịt giầm bên cành mai vàng sắc nắng. Lát bánh tét dẻo mềm, được ăn kèm với những lát dưa món giòn giòn, đậm đà đem đến cho người ăn cảm giác ngon miệng rất khó quên, khiến bao người con xa xứ nhớ nhung mỗi độ xuân về.

    Nhà ai cũng thế, dù mâm cao cỗ đầy, cao lương mỹ vị thì vẫn không thể thiều những món ăn truyền thống, dân dã của quê hương này. Đó đã trở thành một hương vị rất riêng, rất Trung mà chẳng đâu có được. Bên cạnh đĩa bánh tét, dưa món, nắm tré, bò ngâm màu trầm, thường có chén (bát nhỏ) tôm chua, xinh như một bông hoa, chói chang đỏ như vầng mặt trời mùa xuân ấm áp.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamTết 3 miền Bắc – Trung – NamĐĩa bánh tét dẻo thơm, thịt giầm đậm đà hương vị quê hương… trên bàn thờ gia tổ hay trong mâm cỗ đầu xuân bày tỏ hồn quê, là nhịp cầu gắn kết con cháu với tổ tiên, là sợi tình kéo người với người thêm bền chặt. Chính vì lẽ đó mà người dân quen tằn tiện nơi mưa lắm, nắng nhiều ít tìm đến sự no nê khi ăn Tết; chỉ để cảm nhận cái hồn dân tộc. Dù nghèo nhưng vẫn gắng ra chợ mua lạng thịt, cân gạo, ít củ quả, lo cho được mấy món truyền thống; trước để dâng cúng tổ tiên, sau để đàn con líu ríu, quây quần quanh mâm cơm tràn đầy hương Tết.

    – Mâm cỗ:
    Mâm cỗ cúng tết của người Trung nấu rất khéo, ở đó chúng ta có thể nhìn thấy cả sự chắt chiu, san sẻ. Những món chính như: Rau sống, chả ram, canh bún, cơm trắng, đồ xào, thịt kho và đôi khi có cả cá kho hoặc thêm cà ri, con gà luộc… được cho vào từng đĩa nhỏ không dồn vào một đĩa lớn. Tuyệt nhiên, người Trung sẽ không nếm mà dựa vào kinh nghiệm của mình để nêm thức ăn. Người Trung cũng không để bàn thờ ông bà thiếu hương khói trong thời gian lễ Tết, và đặc biệt ngày mồng một nhất định phải cúng chay. Ngoài các món dành để cúng, những món còn lại sẽ dùng đãi khách và ăn trong suốt dịp Tết. Vì ở Trung thời tiết khắc nghiệt, có năm nắng nóng có năm lại lạnh nên các món ăn chủ yếu là chịu thời tiết.

    Cũng như những vùng miền khác, món ăn tết ở miền Trung cũng có các món thịt bò kho, cá kho, một nồi thịt nấu đông và vài cây giò thủ và kèm thêm một nồi canh măng nấu với xương và hũ hành, cà rốt, su hào muối sẵn. Tuy nhiên, các món ăn được chế biến có phần mặn, đặc biệt là rất cay. Nếu có khách phương xa đến không quen với khẩu vị ăn, ngay cả sáng mùng hai Tết thì cũng có thể mua được món mới, thậm chí mua được cả rau xanh để chế một nồi lẩu nóng hổi vì bây giờ, chợ miền Trung họp rất sớm.

    Mâm ngũ quả:

    Khúc ruột miền Trung quanh năm bão lũ, hạn hán, đất đai vốn cằn cỗi, ít hoa trái, thêm vào đó Tết thường rơi vào mùa đông khắc nghiệt, và cả những hậu quả mà thiên tai để lại trước đó chưa dứt thế nên cây trái đặc sản địa phương rất hiếm. Người dân quê một nắng hai sương chất phát vì thế mà cũng không quá câu nệ hình thức ý nghĩa của mâm ngũ quả, chủ yếu là có gì cúng nấy, thành tâm dâng kính tổ tiên. Ngoài ra, vì ảnh hưởng của sự giao thoa văn hóa 2 miền Bắc – Nam nên mâm ngũ quả vẫn bày biện đủ: chuối, mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài…

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamNgười Trung không hay dùng các loại chuối, trái cây có vị đắng, cay, mà chỉ chọn loại có vị ngọt, tròn, thơm và lâu hư úng để chưng mâm ngũ quả cho đẹp mắt, độc đáo, mong cầu an vui, hạnh phúc cho gia đình trong năm mới. Thường thì người Trung cũng không chưng trái cam, trái quýt vì theo quan niệm của người dân nơi đây rằng “cam đành quýt đoạn”.

    – Phong tục truyền thống:

    Những ngày áp tết, từ khoảng 20 tháng Chạp Âm lịch, đường phố, làng xóm bắt đầu rực rỡ sắc màu với hoa cúc, hoa vạn thọ, hoa giấy, nhà nhà chuẩn bị lau dọn bàn thờ tổ tiên, thay bình cát trắng để đón ông bà tổ tiên về sum họp gia đình. Nhà nào có đồ đồng sắt thì mang đến thợ đánh bóng cho sạch đẹp. Các mẹ, các cô đi chợ mua dần các vật dụng dùng trong ba ngày Tết. Dưa món, dưa kiệu, dưa hành, các loại mứt Tết đựng đầy hũ to hũ nhỏ trong bếp.

    30 tháng Chạp được xem là ngày đoàn tụ gia đình, con cái dù ở xa đến mấy cũng về thăm ông bà, cha mẹ. Sau khi cúng Tất niên, cả gia đình thường quây quần bên nhau trong không khí ấm ấp, rộn ràng bên nồi bánh chưng, bánh tét. Sáng 30 Tết, đàn ông trụ cột của gia đình đi mộ thắp hương cho ông bà tổ tiên, mời ông bà cùng về ăn Tết với con cháu. Các mẹ, các gì đi sắm sửa vật dụng cuối năm, nấu nướng chuẩn cúng Tất niên. Nếu ai còn nợ nần gì cũng lo trả hết hoặc phải khất nợ cho rõ ràng, nếu không chủ nợ đòi lúc đầu năm thì xem như mắc nợ cả năm.

    Ở miền Trung cũng có tục “xông đất “ như người Bắc vào sáng mồng một. Thường gia đình sẽ nhờ người lớn tuổi, còn mạnh khỏe, có vai vế và uy tín trong xã hội hoặc những đứa trẻ thông minh, hoạt bát, vui vẻ đến “xông đất” đầu năm. Sáng mùng một, cả nhà phải dậy sớm dọn dẹp, bày biện bánh kẹo để đón người xông đất. Ngày đầu tiên của năm mới, mọi người thường đến thăm và chúc Tết bà con họ hàng. Từ đó, hàng xóm, láng giềng khắp nơi sẽ đến chúc Tết nhà mình. Nếu không bận chủ nhà tiếp tục hòa vào toán bạn bè đó; đến nhà nào cũng nhấp một vài chén rượu, ăn cái kẹo, miếng bánh.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamNgày mồng một Tết, Trung còn đi thăm mộ, lên chùa khấn vái, cầu nguyện ông bà hoặc các vị thần linh phù hộ cho mọi thành viên trong gia tộc. Sang mồng 2, mồng 3 Tết, mới bắt đầu đi thăm láng giềng, bà con xa hoặc bạn bè thân cận.

    Miền Nam:
    Hoa mai – đặc trưng tết miền Nam

    Trong bộ tranh Tứ Thời thường được các gia đình ưa chuộng treo để trang trí nhà cửa, thì hình ảnh Hoa Mai được xếp đầu tiên rồi mới đến Lan – Cúc –Trúc. Năm cánh hoa mai là hình ảnh của 5 vị thần may mắn, của ngũ phúc (phước, lộc, thọ, khang, ninh). Mai cũng như đào biểu tượng cho sự trường thọ. Người ta diễn tả đặc trưng này bằng những đóa hoa rực rỡ trên một thân cây trụi lá và gân guốc; vững chãi như sức công phá của thời gian chẳng làm gì được nó.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamTrong truyền thuyết dân gian, hoa mai liên quan đến hình ảnh của một cô gái xinh đẹp, hết lòng thương yêu cha mẹ, gia đình và làng xóm. Với tài trí của mình, cô gái nhỏ nhắn đã hy sinh sau khi giao đấu, diệt trừ yêu quái để cứu dân. Không ai biết cô đã chết, vì hàng năm vào chiều 29 tết, nàng quay lại với chiếc áo vàng mẹ nhuộm cho trước lúc ra đi, cùng ăn tết với gia đình, cho đến lúc cúng đưa ông bà, mới chịu ra đi. Mãi cho đến khi cha mẹ mất, người ta không thấy cô gái áo vàng trở lại nữa; vào những ngày cuối năm trong khu vườn quen thuộc nơi cô ở, xuất hiện một con chim lông vàng óng ả cất tiếng hót líu lo. Xóm làng thương nhớ và tri ân cô bằng cách lập một miếu thờ, hàng ngày hương khói. Từ lúc ấy, trước ngôi miếu mọc lên một loại cây lá xanh um, nhưng cứ vào những ngày giáp tết, lá lại rụng trơ cành và như một phép lạ, toàn thân xuất hiện những nụ bông vàng năm cánh rực rỡ.

    Cây mai từ đó được người dân nhân giống và trồng trong nhà mình, như một cách tưởng nhớ đến cô gái, cũng như răn đe loài quỷ dữ sợ oai phong của cô mà không dám quấy động đời sống yên lành của mọi người.

    Cũng như hoa đào, truyền thuyết về cô gái áo vàng cũng nhạt dần để thay vào đó hoa mai được đón chào trong ngày xuân như một cảm nhận mang tính nghệ thuật. Cành mai được chọn trên những tiêu chí không khác mấy vơi hoa đào, nhưng tinh thần của một cành mai được ngưỡng mộ không chỉ đẹp ở hoa với sắc thắm, cánh phân bố đều , nhụy thắm, mà còn ở sự gân guốc của cành, với những khoảng gập khúc của dáng cành theo hình chữ nữ. Thần thái ấy mang hình ảnh của một ẩn sĩ nơi thâm sơn, kiêu hãnh nhưng thanh thoát, vững chãi trước nắng gió và thời gian.

    – Mâm ngũ quả:
    Nếu như ở miền Bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày lên bàn thờ, kể cả quả ớt mang vị cay đắng, miễn sao mâm ngũ quả trông đẹp mắt là được; thì người miền Nam lại có sự kiêng cữ. Mâm ngũ quả của người miền Nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi” thể hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu.”

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamDo trái cây ngày càng nhiều, loại nào cũng ngon, bổ nên để thể hiện cao nhất lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, đồng thời cũng nhằm thể hiển tính trình bày mỹ thuật trong con mắt thẩm mỹ độc đáo của nhân dân, nên mâm ngũ quả ngày càng phong phú hơn, và người ta cũng không câu kệ cứng nhắc “ngũ quả” nữa mà có thể là bát, cửu, thập quả. Nhiều hơn, nhưng người ta vẫn gọi là “mâm ngũ quả” và, dù đựng trong đĩa cũng vẫn gọi theo xưa là “mâm.” Bởi đó là một “sản phẩm văn hóa” đã xác lập trong quá trình lịch sử lâu dài, được khuôn đúc theo quan niệm về “bộ ngũ hoàn hảo.”

    Chưng bày mâm ngũ quả trên bàn thờ của gia đình trong những ngày Tết mang ý nghĩa giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân Việt. Chính vì vậy, người dân Việt dù ở phương trời nào, đến ngày Tết cổ truyền vẫn không bỏ qua tục lệ này, như một sự nhắc nhở, cho bản thân và cho con cháu, về cội nguồn của mình.

    Mâm cỗ ngày xuân:

    Mâm cỗ Tết của miền Nam thường có nhiều đồ nguội do thời tiết nắng nóng. Hầu như nhà nào cũng có ba món cơ bản là bánh tét, bánh tráng và nồi thịt kho tàu trong mấy ngày tết. Trong suy nghĩ của người phương Nam, bánh tét tượng trưng cho sự ấm no từ đời này qua đời khác.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamĐặc trưng của Nam bộ đó là món bánh tét lá cẩm tím vừa thơm ngon lại vừa thẩm mỹ vì chỉ dành riêng cho những dịp lễ quan trọng của năm mà không nơi nào có được.
    Bốn món cúng cũng món ăn ngày Tết.

    Món thịt kho tàu là thịt ba rọi (ba chỉ) thái to khoảng trên bốn phân nấu chung với một trái dừa xiêm để thịt kho lạt đi, ăn được to miếng. Thịt hầm từ bắp đùi hầm nhừ với vài vị thuốc Bắc. Món này chỉ để ăn chơi chứ không ăn với cơm. Khổ qua dồn thịt heo rồi hầm như hầm thịt. Món cuối cùng là nem và bì, rau ăn kèm chỉ độc nhất một loại là dưa giá. Dù là bất kỳ món ăn nào trong bốn món trên cũng phải ăn kèm với dưa gi. Các món truyền thống này chỉ cúng và ăn tới chiều mồng hai, sang ngày mồng ba sẽ cũng và ăn món khác phải như gà, cá.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamĐể thay đổi khẩu vị và đỡ ngấy, nhà nào ở Nam Bộ cũng nấu cháo cá ám, ăn với rau ghém, chuối cây xắt mỏng và các loại rau thơm, rau mùi, một con cá lóc nướng ăn với lá bông súng non hay đọt vừng. Người phương Nam đặc biệt chăm chút cho bàn tiệc ngày xuân, nó chứa đựng lòng thành kính với tổ tiên ông bà và thưởng thức trọn vẹn vị mặn, ngọt, chua, cay, đắng trong từng món ăn bên mâm cơm sum vầy gia đình ngày đầu năm thêm ấm áp, an khang.

    Lễ nghi truyền thống:

    Ở miền Nam không có bánh chưng vuông như miền Bắc mà là những bánh chưng dài hay còn gọi là bánh tét. Bánh tét có nhiều loại: bánh tét chay, bánh tét mặn, bánh tét ngọt. Bánh tét chay không nhân. Bánh tét mặn được xắt miếng và thường ăn kèm với đĩa củ cải ngâm nước mắm.

    Giữa khung cảnh làng quê Nam bộ thanh bình, cả gia đình ngồi quây quần bên những chiếc nong, nia đựng đầy gạo, thịt và lá chuối xanh cùng làn khói bếp từ nồi bánh tét bốc lên mang theo cả tâm trạng nao nao với hình ảnh báo hiệu Tết đã về rất gần.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamGiáp tết, các gia đình sẽ tổ chức đi chạp mộ để tỏ lòng “uống nước nhớ nguồn” với những người đã khuất. Chiều 23 tháng chạp đưa ông Táo về trời. Ngày 30 làm một mâm cơm cúng tổ tiên, gọi là lễ “rước ông bà”. Cho đến khi hết Tết khói hương trên bàn thờ gia tiên luôn nghi ngút và sau đó đến ngày mồng 3 tháng Giêng thì làm lễ “đưa ông bà”. Trước giao thừa, các gia đình thắp hương mời hương linh ông bà và tổ tiên và những người thân đã qua đời về ăn cơm, vui Tết với con cháu (cúng gia tiên). Lễ vật cúng giao thừa ngoài hương hoa quả phẩm còn có thêm quả dừa, bánh phồng, bánh tráng con gà trống luộc.

    Mâm cơm cúng tất niên chiều 30 tết, thường quy tụ đủ mặt mọi người thân trong gia đình. Theo quan niệm của người Nam Bộ mỗi năm có một ông Hành Khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao cho thần kia, nên cúng tế, đốt pháo là để tiễn đưa ông cũ và đón ông mới. Đêm 29-30 là lúc vui nhất, mọi người thức đón giao thừa, chơi tú, ăn uống… rất huyên náo. Ba ngày tết là ba ngày vui chơi, ăn uống, thăm viếng, chúc mừng nhau những điều mới mẻ, tốt lành. Một tập quán phổ biến là trong những ngày đầu năm, mọi người đều chỉ nói ra những lời hay, ý đẹp, gặp nhau chào mừng, hy vọng mọi điều như ý. Bao điều không vui, không vừa lòng năm trước đều bỏ đi.

    Trẻ con ở các vùng quê cũng được dịp vui chơi hết mình với những trò chơi đặc biệt như đá gà, đá cá lia thia, thi cây kiểng, đu tiên, đua ghe, đánh bài, đánh me và xóc điã.

    Theo VNE

  • Ý nghĩa của ấn đền Trần – Nam Định

    Ý nghĩa của ấn đền Trần – Nam Định

    Ý NGHĨA CỦA ẤN ĐỀN TRẦN – NAM ĐỊNH
    ẤN ĐỀN TRẦN

    Lễ khai ấn Đền Trần là một tập tục có từ thế kỷ XIII, chính xác là vào năm 1239 của triều đại nhà Trần. Tại phủ Thiên Trường, vua Trần mở tiệc chiêu đãi và phong chức cho những quan quân có công. Những năm kháng chiến chống Nguyên Mông sau đó, Lễ khai ấn bị gián đoạn cho tới năm 1262 thì được Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mở lại.
    Trải bao thế kỷ, ấn cũ không còn. Năm 1822, vua Minh Mạng qua Ninh Bình có ghé lại đây và cho khắc lại. Ấn cũ khắc là “Trần triều chi bảo”, ấn mới khắc là “Trần triều điển cố” để nhắc lại tích cũ. Dưới đó có thêm câu “Tích phúc vô cương”. Lễ khai ấn là một tập tục văn hóa mang tính nhân văn để nhà vua tế lễ Trời, Đất, tiên tổ, thể hiện lòng thành kính biết ơn non sông, cha ông.

     

    Lễ khai ấn đền Trần là một tập tục của triều đại nhà Trần – triều đại phong kiến kéo dài và hùng mạnh nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với chiến công hiển hách ba lần đánh tan quân Nguyên Mông – đạo quân xâm lược; được mệnh danh là “bách chiến bách thắng”.
    Sau khi đánh thắng quân Nguyên Mông lần thứ nhất, ngày 14 tháng Giêng, tại phủ Thiên Trường (nơi phát tích của nhà Trần), vua Trần Thái Tông đã mở tiệc chiêu đãi và thưởng công, phong tước cho các quan, quân có công trong việc đánh giặc. Kể từ đó, cứ vào ngày này, các vua Trần lại tổ chức nghi thức khai ấn để tế lễ trời đất, Tổ tiên; phong chức tước cho những người có công, đồng thời mở đầu cho một năm làm việc mới của bộ máy chính quyền nhà Trần.
    Sau này trên nền phủ Thiên Trường, nhân dân đã xây dựng khu di tích đền Trần ĐỂ THỜ 14 VỊ VUA TRẦN, Trần Hưng Đạo cùng các quan văn, võ, đồng thời duy trì nghi thức khai ấn để tưởng nhớ công đức của các vua Trần, giáo dục con cháu truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, bảo vệ non sông xã tắc.
    Nghi lễ khai ấn với ý nghĩa nhân văn lớn lao là cầu mong cho thiên hạ thái bình, thịnh trị, mọi nhà chung hưởng lộc ấn đền Trần “Tích phúc vô cương”; cầu mong mọi người bước sang năm mới mạnh khoẻ, lao động, sản xuất hăng say, học tập, công tác tốt. Trải qua nhiều năm, lễ khai ấn vẫn được người dân duy trì và phát triển và trở thành một trong những tập tục đẹp, một nét văn hóa đẹp trong những ngày đầu năm mới của người Việt được gìn giữ lâu đời.
    Trước khi lễ khai ấn được tổ chức, vào ngày mùng 2 tháng Giêng, Ban quản lý Khu di tích đền Trần thực hiện nghi lễ xin mở ấn để in các lá ấn phục vụ lễ khai ấn. Nội dung lá ấn bao gồm các chữ: “Trần triều điển cố – tích phúc vô cương”’. Đến 22h ngày 14 tháng Giêng, lễ khai ấn được bắt đầu với nghi thức rước hòm ấn từ nội cung đền Cố Trạch sang đền Thiên Trường. Sau khi lễ khai ấn được thực hiện bởi 14 cụ cao niên thôn Tức Mặc (phường Lộc Vượng) kết thúc, khách thập phương vào đền Thiên Trường để tế lễ, xin lá ấn với mong muốn một năm mới thành đạt và phát tài.

    XIN ẤN PHẢI HIỂU Ý NGHĨA

    Không phải ai về xin ấn đền Trần cũng hiểu được hết ý nghĩa của nghi lễ này. Bản chất của bốn chữ “Tích phúc vô cương” trên ấn là Nhà Trần ban cho con cháu cái phúc, dạy con cháu, bách gia trăm họ phải biết giữ gìn phẩm chất đạo đức, tích phúc thật tốt, phúc đức càng dầy thì được hưởng lộc càng bền vững. Đấy là ý nghĩa giáo dục sâu sắc nhất của việc ban ấn. Ý nghĩa của ấn chỉ đơn giản như vậy nhưng không phải ai cũng hiểu mà vẫn còn một số lầm tưởng rằng, xin ấn để cầu “thăng quan, tiến chức”. Vì vậy, những ai cầm ấn trong tay mà không hiểu bản chất ý nghĩa sâu sắc đó thì ấn cũng chẳng có giá trị gì.

    Hình ảnh Việt Nam.com sưu tầm

  • Phim hiếm: Lễ cưới của người Việt ở Miền Bắc thời Pháp thuộc

    https://www.youtube.com/watch?v=LSevb6vOaYU&feature=youtu.be

    Trong đời sống hôn nhân của người Việt Nam, khi trai gái lấy nhau, người Việt gọi là đám cưới, đám cưới là một trong bốn nghi lễ quan trọng (quan, hôn, tang, tế).

    Đúng ngày cưới, người ta chọn giờ “hoàng đạo” mới đi, thường là về chiều, có nơi đi vào chập tối. Dẫn đầu đám rước đàng trai là một người già nhiều tuổi.
    Tại nhà trai, người ta chờ đợi đám rước dâu về. Lễ tơ hồng được cử hành rất đơn giản. Bàn thờ thiết lập ngoài trời, bày lư hương và nến hay đèn, tế vật dùng xôi, gà, trầu, rượu…

    Nhà nước quân chủ Việt Nam cũng can thiệp vào việc giá thú của người dân bởi những điều lệ hay luật. Điều lệ hương đảng do vua Gia Long ban hành năm 1804, khoản về giá thú nêu rõ: “Hôn lễ là mối đầu của đạo người”, “Giá thú mà bàn của cải là thói quen mọi rợ” và quy định: “Đại phàm lấy vợ lấy chồng, chẳng qua cốt được cặp đôi mà thôi, còn lễ cưới thì nên châm chước trong sáu lễ, lượng tuỳ nhà có hay không, chứ không được viết khế cố ruộng. Hương trưởng thu tiền cheo trong lễ cưới thì người giàu 1 quan 2 tiền, người vừa 6 tiền, người nghèo 3 tiền, người làng khác thì gấp đôi…”.
    Năm 1864, vua Tự Đức cũng sai định rõ lại lễ cưới xin của dân gian: “Từ lúc vấn danh đến khi xin cưới, cho kỳ hạn là 6 tháng, đều theo tiết kiệm, không được quá xa xỉ”

     

  • Tìm hiểu sự tích và ý nghĩa của ngày Vu Lan

    Tìm hiểu sự tích và ý nghĩa của ngày Vu Lan

    Dân gian ta có câu “Tết cả năm không bằng rằm tháng bảy” – đây là Đại Lễ Báo Hiếu Ông Bà, Cha Mẹ, Tổ Tiên – một tập tục đáng quý của người Việt. Nhân dịp Đại Lễ này, các bạn hãy cùng HinhanhVietNam.com tìm hiểu về “Sự Tích Ngày Lễ Vu Lan” nhé!

    Tìm hiểu sự tích và ý nghĩa của ngày Vu Lan

    Sự Tích Ngày Lễ Vu Lan

    Hàng năm cứ vào ngày 15 tháng 7 Âm lịch, người dân Việt theo đạo Phật có một ngày lễ lớn gọi là ngày lễ Vu Lan hay còn có tên gọi khác là Tết Trung Nguyên. Lễ Vu Lan là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo vì vậy mà dân gian ta có câu “Tết cả năm không bằng rằm tháng bảy”. Đây là đại lễ báo hiếu ông bà, cha mẹ, tổ tiên – một tập tục đáng quý của người Việt, thể hiện truyền thống đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

    Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật.

    Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng huệ nhãn tìm kiếm. Thấy mẹ vì gây nhiều nghiệp ác nên rơi vào ngục A Tỳ làm quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên, do đói ăn lâu ngày nên mẹ của Mục Liên khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi, tránh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy thức ăn đã hóa thành lửa đỏ khi đưa lên miệng.

    Quá thương cảm, xót xa Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: “Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp. Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát”.

    Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh.

    Ngày lễ Vu Lan bởi thế không chỉ có ý nghĩa là ngày cúng lễ tưởng nhớ ông bà tổ tiên, cúng cho các vong hồn cô quạnh mà sâu xa hơn, nó nhắc nhở người ta biết trân trọng những gì mình đang có: cha mẹ, gia đình, người thân. Vào ngày lễ Vu Lan nếu ai còn mẹ thì được cài lên áo bông hồng màu đỏ, người đó sẽ thấy tự hào khi mình còn có mẹ. Những ai không còn mẹ thì được cài lên áo bông hoa màu trắng. Người được cài bông hoa màu trắng sẽ cảm thấy xót xa, nhớ thương người mẹ đã mất. Người được cài bông hồng màu đỏ thì sẽ thấy sung sướng, nhớ rằng mình còn có mẹ bên cạnh và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai mẹ không còn, dẫu có khóc than cũng chẳng còn kịp nữa.

    Ý nghĩa lễ Bông hồng cài áo

    “Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa”. (Theo tản văn Bông hồng cài áo của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)

    Tháng 7, mùa Vu Lan về cùng với ngày Rằm xá tội vong nhân mà người ta còn gọi là ngày tết Trung Nguyên. Theo sách nhà Phật, ngày này các vong vong nhân không có nơi nương tựa, không có thân thích trên cõi trần gian để thờ phụng hay những linh hồn vì một oan khiên nào đó vật vờ sẽ được xá tội. Ngày lễ Vu Lan hay Tết Trung Nguyên là ngày lễ hội truyền thống “ân tình, nghĩa cảm” của nhân dân ta. Một tấm lòng trong vạn tấm lòng bao dung – một nét đẹp trong văn hoá dân tộc Việt đã được gìn giữ bao đời nay.

     

    The Sri Vu Lan Day 

    Every year on July 15 of the lunar calendar, Buddhist Vietnamese people have a big feast called the Vu Lan holiday or also known as Tet Trung Nguyen. Vu Lan ceremony is one of the major Buddhist holidays so that people have the time, “not by the fifteenth annual festival in July”. This is the festival signaling grandparents, parents, ancestors – a precious tradition of Vietnamese people, expressing moral tradition “remember who planted fruit trees.” 

    Vu Lan ceremony derived from the integration of filial piety of Mr. Ma Ha A La Aging Characteristics, often referred to as the Great Moggallana, referred to as Section Union. Capital is a leading religious other, the following Section Lien refuge and became a great disciple of Buddha, achieved six magic and miracles listed in First class in every disciple of the Buddha. 

    Having attained Arhat, Section Contact remember and now his mother wants to know how to use search insight. Seeing mom as causing bad karma should fall into Avici Hell devil, starving tortured, he was brought down to the realm of demons rice offered to the mother. However, due to prolonged hunger of the mother should have used Section Lien eating a bowl of rice covered his hand away, avoiding her for another soul to scramble, so feed into flames when put to my lips . 

    Too pity, pity Section Lien returned to find a way to save the mother asked Buddha to Buddha taught that: “Despite his generosity to where miracles are not enough to save his mother anywhere. The only way thanks to the power of the monks around ten new desire to be rescued. On the full moon day in July is appropriate. Yes on the fifteenth day of July, the younger man up in prayer. Prior to real life, this position will follow the teachings of the Buddha that he would pray for the parents and grandparents of seven lifetime benefactor is transcendence. ” 

    Section Union did as the Buddha’s teachings. Indeed he was dying form of escape from the hungry ghost that lives in the realm of healthy living. Method of offering to pray that called legal Ullambana tub, ritual is called Vu Lan Tank Assembly, and the economic record of the above analysis, it is called economic Ullambana tub. 

    Vu Lan holiday therefore not only meaningful remembrance day for worship of ancestors, offerings to the lonely souls that deeper, it reminds us to appreciate what we have: parents , family and loved ones. On Vu Lan ceremony if one is set up, the mother also rose red shirt, he will see his proud mother also. The mother who is no longer installed on the shirt white flowers. The white flowers are set to aches, missed mother died. The red rose is set and you will find happiness, remember that you still have mom side and tries to please his mother, lest a future mother no longer, though there is no more weeping too late. 

    Meaning rose ceremony dress set 

    “If the mother is still alive, he would wear a red flower on the shirt, and his mother would be proud. But if he loses his mother, he will be set on a white flower dress. The white flowers suffer, do not forget to miss her mother, though dead. The commission will gladly remember that his mother and tries to please his mother, lest a mountain Those who wear she is no longer keep up. ” (According to Rose brooches prose of Thich Nhat Hanh) 

    July, along with the Buddhist celebration of the full moon day of death far but people called Tet Trung Nguyen. According to Buddhist books, this day of death without dying person helpless, like no body on earth or earth to worship the spirits as a shield falsely pretending that animals will be absolved. Vu Lan holiday, or Tet Trung Nguyen is the traditional festival “gift of love, the sense” of our people. A thousand hearts in big heart – a beauty of Vietnamese ethnic culture has been preserved for centuries.

    Nguồn: Trung Nguyên Googleplus

  • Tết Trung thu ngày xưa

    Tết Trung thu ngày xưa

    Nào ta cùng ngắm nhìn lại những hình ảnh về Tết Trung thu xưa để thấy được những phai nhạt đã loang dần theo năm tháng của những phong vị ngày xưa trong ngày tết truyền thống này.

    Ký ức mùa trăng
    Ký ức mùa trăng

    Tết Trung Thu có từ bao giờ, do ai là người đưa Tết này từ Trung Quốc vào nước ta vào khoảng thời gian nào thì chưa có tài liệu sử sách chính xác nào đề cập đến. Chỉ biết một điều rằng Tết Trung Thu đã có ở nước ta từ tự thuở đời nào rồi, và nó có sự biến đổi liên tục qua nhiều giai đoan thăng trầm của thời gian.

    Điều hấp dẫn đối với lũ trẻ là đứng nhìn những người thợ đóng bánh ngoài quầy tạo nên những âm thanh rộn ràng khi khuôn bánh gõ mạnh trên mặt bàn theo những nhịp điệu khoan nhặt rất đặc trưng trên đường phố. Những cửa tiệm quanh chợ bắt đầu trang trí, bày biện các mặt hàng để sửa soạn cho Tết trung thu. Đám con trẻ thời ấy háo hức lạ kỳ với Tết trung thu, chúng bị cuốn hút bởi các thú vui truyền thống, mộc mạc nhưng tinh tế của dịp lễ cổ truyền này.

    Tết Trung thu xưa qua ảnh
    Một cửa hàng bánh trung thu thời xưa, nay chỉ còn là dĩ vãng. Bánh Trung thu truyền thống, và đúng vị nhất, bao giờ cũng chỉ đơn giản là bánh nhân hạt sen một lòng trứng. Và bánh này luôn được tăng vị bằng trà ướp sen.
     Những cửa tiệm quanh chợ bắt đầu trang trí, bày biện các mặt hàng để sửa soạn cho Tết trung thu
    Những cửa tiệm quanh chợ bắt đầu trang trí, bày biện các mặt hàng để sửa soạn cho Tết trung thu

    Đèn lồng, đèn cá chép, đèn kéo quân luôn làm những đứa trẻ thèm thuồng. Những đầu lân, các đèn lồng nan tre phết giấy bóng kính, làm theo các hình con cá, ông sao, bánh ú. Ngoài ra còn đèn xếp, đèn quả bưởi, đèn kéo quân… Rồi những con giống, làm bằng bột cắm lông gà nhuộm màu sặc sỡ, cũng là nét đặc thù của Tết Trung Thu của người Việt.

    Tết Trung thu đầu thế kỉ 20
    Đèn lồng, đèn cá chép, đèn kéo quân luôn làm những đứa trẻ thèm thuồng
    Đèn xếp, đèn quả bưởi, đèn kéo quân…
    Đèn xếp, đèn quả bưởi, đèn kéo quân…
    Đèn hình con cua là ước ao của bọn trẻ cả tháng trời trước Tết trung thu. Đêm đến, chiếc đèn được thắp sáng lung linh bởi một chiếc nến nhỏ xinh bên trong, rạng ngời lên ánh mắt thích thú của trẻ nhỏ.
    Đèn hình con cua là ước ao của bọn trẻ cả tháng trời trước Tết trung thu. Đêm đến, chiếc đèn được thắp sáng lung linh bởi một chiếc nến nhỏ xinh bên trong, rạng ngời lên ánh mắt thích thú của trẻ nhỏ.

    Có người bảo rằng cái ông tiến sĩ bằng giấy có bộ mặt non choẹt nhưng đáng yêu ấy chính là hình ảnh ông Trạng trẻ Nguyễn Hiền có thật trong lịch sử. Rồi hợp với thời thượng là những chiếc ôtô, tàu bay bên cạnh cái xe kéo cũng mới có từ khi Tây sang. Xem kỹ ảnh thấy rất nhiều đồ chơi loại này, nào là Hai bà cưỡi voi, vinh quy bái tổ, con lân, con phượng , Tôn Ngộ Không và rất nhiều nhân vật làm hình nhân.

    Đủ các món đồ chơi được bày bán ở những khu chợ xưa: “ông tiến sĩ giấy”
    Đủ các món đồ chơi được bày bán ở những khu chợ xưa: “ông tiến sĩ giấy”, đồ chơi hình xe hơi
    Còn những lũ trẻ năng động nhất thì thích ở ngoài đường với cái đầu sư tử bồi bằng giấy. Chúng hợp thành những đoàn có trống, xèng xèng và thế nào cũng có một chú phỗng múa may làm vui. Chúng múa chơi đôi khi đòi những cửa hàng nơi chúng đến múa phải treo giải…
    Múa lân cũng là một trong những trò chơi thuở thơ ấu của bao thế hệ người Việt,..
    Đầu lân đủ cỡ, đủ loại, và hình dáng khác nhau. Múa cùng với lân là ông thổ địa bụng phệ phe phẩy cái quạt nan. Tiếng trống, tiếng hò reo, tiếng bước chân, và vũ điệu của sư tử, cứ rạo rực, cuốn hút không biết bao người. “Lòng vui sướng với đèn trong tay”, từng đoàn trẻ em đi theo chú lân, chú sư tử, tiếng trống rộn ràng để khi kết thúc đêm hội, ai cũng nuối tiếc và tự hỏi: “Bao giờ mới đến Trung Thu nữa nhỉ?”
    Đoàn múa lân thô sơ nhưng không kém phần xôm tụ, náo nhiệt của Hà Nội xưa.
    Đoàn múa lân thô sơ nhưng không kém phần xôm tụ, náo nhiệt của Hà Nội xưa.
    Mua lân Tết Trung thu đầu thế kỉ 20
    Mua lân Tết Trung thu đầu thế kỉ 20
    Cuối cùng là cái phút chờ đợi nhất, trong sự ấm cúng của gia đình xoay quanh nơi bày cỗ. Những món đồ ăn và đồ chơi được bày biện trong nhà hay ngoài trời phô bày sự chăm sóc của gia đình với con trẻ trong ngày Tết được chờ đợi nhất trong năm, lại vào lúc tiết trời đẹp nhất: gió mát trăng trong.
    Trung thu là Tết đoàn viên. Một gia đình nhiều thế hệ ở Hà Nội quây quần bên mâm cỗ đón Rằm tháng tám
    Trung thu là Tết đoàn viên. Một gia đình nhiều thế hệ ở Hà Nội quây quần bên mâm cỗ đón Rằm tháng tám
    Mâm cỗ trung thu xưa có đầy đủ các loại trái cây
    Mâm cỗ trung thu xưa có đầy đủ các loại trái cây