Category: Nghệ Thuật

  • Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”

    Tôi đã nhiều lần đến Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam chỉ để ngắm tuyệt tác ‘Em Thúy” của danh họa Trần Văn Cẩn. 75 năm đã trôi qua kể từ ngày bước chân vào thế giới hội họa, mọi vật đều thay đổi nhưng “em Thúy” vẫn ngồi đó, mãi hồn nhiên, tươi trẻ, như dòng suối tinh khiết trong đời sống quá nhiều trần tục. Một vẻ đẹp Hà thành thật bình yên.

    Bảo vật quốc gia

    “Em Thúy” là tên bức sơn dầu (60x45cm) của họa sĩ Trần Văn Cẩn (1910-1994) sáng tác năm 1943 vẽ cô cháu gái Nguyễn Minh Thúy lên 8 của ông.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    “Em Thúy” của họa sĩ Trần Văn Cẩn
    Từng tốt nghiệp thủ khoa Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1937, từng được đồng nghiệp ngưỡng mộ suy tôn trong “bộ tứ họa sĩ” lừng danh thời ấy là “nhất Trí, nhì Lân, tam Vân, tứ Cẩn”, dù có nhiều tác phẩm nổi tiếng, song “Em Thúy” vẫn được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của danh họa Trần Văn Cẩn. Không chỉ vậy, “Em Thúy” còn được coi là một trong những tác phẩm tranh chân dung thành công nhất của mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2014.Trong tranh, em Thúy với mái tóc ngắn, nét mặt thơ ngây, đáng yêu ngồi khép nép trên chiếc ghế mây, đôi vai gầy nhỏ bé, gương mặt hướng về phía trước bằng đôi mắt mở to tròn. Bức tranh gây xúc động bởi chính thông điệp giản dị về sự trong sáng, thánh thiện. Xem tranh ta như thấy được yên ả, thanh bình, như thấy được yêu thương… những tình cảm giúp con người muốn xa lánh, trút bỏ những điều ác để hướng về cái thiện.

    Năm 2003, nhạc sĩ người Anh Paul Zetter đã viết bản “Little Thúy Minuet” (Điệu minuet cho em Thúy) khi ông ngắm nhìn bức tranh. Bản nhạc là cảm xúc mãnh liệt mà như ông chia sẻ: Ánh mắt của “em Thúy” đã chạm vào và tạo nên những xáo động nội tâm để mỗi người như được gặp lại tuổi thơ của chính mình…

    Quá khứ chưa xa

    Năm nay đã bước vào tuổi 83 nhưng bà Nguyễn Minh Thúy – nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy” vẫn giữ được hồn cốt của bé gái năm xưa, một vẻ đẹp trong sáng, thanh lịch của một người Hà Nội, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Có khác chăng chỉ là dấu vết của thời gian đã hằn lên làn da và mái tóc trắng màu mây.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    “Em Thúy” ngày nay. Ảnh VIỆT VĂN
    Nói về bức tranh, ánh mắt bà Thúy ánh lên niềm vui. Cuộc đời bà thật hạnh phúc khi có được một cái “duyên” đặc biệt với hội họa. Nhờ “bác Cẩn”, bà đã bước vào một thế giới đẹp như mộng và tràn đầy cảm xúc. Chính người bác tài năng đã mở ra những cảm nhận đặc biệt trong tâm hồn bà về nghệ thuật.Ngày ấy, khi ngồi làm mẫu cho bác Cẩn vẽ tranh, bé Thúy mới lên 8 (1943), đang theo học trường nữ sinh tiểu học Ecole Brieux (nay là trường THCS Thanh Quan) ở 29 Hàng Cót. Việc hằng ngày đi học về phải ngồi làm mẫu cho bác Cẩn vẽ một đến hai tiếng đồng hồ đối với bé Thúy thật là khó khăn. Vì thế mà bác Cẩn cứ phải dỗ dành, đôi lúc lại mắng yêu: “Sao cứ chạy lăng xăng thế!”. Phải mất đến mấy tháng, bác Cẩn mới hoàn thành bức họa và đặt cho nó cái tên giản dị “Em Thúy”. Khi ấy, chẳng ai trong gia đình ý thức được giá trị nghệ thuật của bức tranh. Chỉ nhớ là tại cuộc triển lãm mỹ thuật ở Hội Khai Trí Tiến Đức năm đó, bác Cẩn được nhận giải Nhất với hai tác phẩm “Em Thúy” (sơn dầu) và “Gội đầu” (điêu khắc).

    Khi người Pháp quay lại Hà Nội, gia đình bé Thúy đi tản cư mà không mang theo bức tranh. Tới khi quay về thì tranh đã bị lấy trộm, phải bỏ tiền chuộc lại từ một người buôn tranh. Bức tranh được treo lại trang trọng trong ngôi nhà 23 Hàng Cót cho đến khi bác Cẩn tặng cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Đó cũng là bức duy nhất, độc bản.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    “Em Thúy” năm 24 tuổi – tranh Trần Văn Cẩn.
    Ngoài bức chân dung “Em Thúy”, họa sĩ Trần Văn Cẩn còn có một bức tranh khác vẽ cô thiếu nữ Minh Thúy năm 24 tuổi (1959). Khác với nét hồn nhiên trong trẻo của bức Thúy 8 tuổi, bức Thúy 24 tuổi phảng phất nỗi buồn thiếu nữ. Bà Thúy nói bức này ông Cẩn vẽ rất nhanh, chỉ một ngày là xong.Giai nhân phố cổ Hà thành

    Bà Minh Thúy chưa bao giờ cho rằng mình là một người đàn bà đẹp, vì thế bà cũng không ý thức quá về cái đẹp của mình, dù bất cứ ai, khi gặp bà cũng nhận ra gương mặt của một nhan sắc Hà thành thuần khiết, tự nhiên. Bước vào tuổi xưa nay hiếm nhưng bà vẫn giữ cốt cách thanh tao, lịch thiệp, nhẹ nhàng của người phụ nữ sinh trưởng trong những gia đình nền nếp của Hà Nội xưa.

    Là chị gái cả trong một gia đình công chức có 4 chị em ở 23 phố Hàng Cót, Hà Nội, cũng như những thiếu nữ Hà thành thời đó, cô bé Minh Thúy được nuôi dưỡng trong môi trường nền nếp. Nhắc về những nét đẹp xưa cũ, bà Thúy nói: “Người Hà Nội xưa chu đáo lắm, nền nã lắm. Trong gia đình thì bố mẹ dạy con cái rất nghiêm. Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn được mẹ chú ý sửa cách ngồi, cách cầm bát, cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn… Hà Nội xưa cũng yên bình lắm, không ồn ào náo nhiệt như bây giờ đâu”.

    Rời trường Ecole Brieux, Minh Thúy trở thành cô nữ sinh Trưng Vương hằng ngày mặc áo dài, đi guốc cao gót, cùng vú em đến trường. Nếp sống bình lặng và đều đặn đó, tạo nên tính cách bình yên của người con gái Hà Nội.

    Theo nền nếp gia đình, Minh Thúy học sư phạm và trở thành nhà giáo. Bà đã trải qua một cuộc đời dạy học khá êm đềm nhưng cũng không ít khó khăn vì đất nước những năm tháng đó đang có chiến tranh, ai ai cũng phải thắt lưng buộc bụng, chồng bà hay phải đi công tác xa, 3 con thì nhỏ dại. Cô giáo Thúy lúc dạy ở trường ngoại thành lúc chuyển về dạy ở nội thành. Hết dạy môn văn – sử – địa ở trường phổ thông, cô lại dạy nữ công gia chánh ở trường sư phạm, môn học vốn là sở trường của những người phụ nữ Hà thành khéo tay, tinh tế. Những năm đi sơ tán theo chồng trong những ngày cả đất nước chiến tranh, khốn khó, cô Thúy đã gánh trên vai gánh nặng của một người vợ hiền đảm đang, quên mình vì chồng vì con.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    Bà Minh Thúy vẫn giữ cốt cách thanh tao, lịch thiệp, nhẹ nhàng của người Tràng An xưa.
    Ảnh VIỆT VĂN
    Với bà Minh Thúy, thành quả lớn nhất mà bà nhận được cho đến giờ phút này có lẽ chính là cuộc sống yên bình, thảnh thơi bên con cháu lúc tuổi già. Ngẫm lại, sống cuộc đời lặng lẽ, ẩn danh cũng là một cách bà Minh Thúy chọn cho mình sự bình an và không phủ nhận mối lương duyên kỳ lạ với nghệ thuật đã đem đến cho cuộc đời bà những gam nóng của hạnh phúc. Nhiều nhà báo đã đi tìm cô gái nhỏ trong tranh của danh họa năm nào.Bà Thúy lưu giữ tất cả những bài báo nói về mình và mỗi khi được ôn lại kỷ niệm về “bác Cẩn” yêu quý là một lần bà trở về với những ngày tháng tuyệt vời nhất của tuổi thơ.

    Theo Nhipsonghanoi.vn
  • Quy trình làm tranh Đông Hồ

    Quy trình làm tranh Đông Hồ

    Auto Draft

    Gà thư hùng

    Những bức tranh Gà, Lợn, Hứng dừa, Đánh ghen… mộc mạc, dân dã mà cuốn hút, níu kéo, đã tạo thi hứng cho nhà thơ Hoàng Cầm viết câu thơ nổi tiếng : «Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong. Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp… ». Đã từ lâu, câu hỏi : « Các nghệ nhân Đông Hồ đã làm tờ tranh điệp như thế nào » luôn trăn trở với người yêu tranh. Dưới đây là những  chia sẻ cùng bạn đọc qui trình làm tranh Đông Hồ với các công đoạn: ra mẫu, cắt ván, chuẩn bị nguyên vật liệu và in tranh.

    1. Ra mẫu

    Đây là công việc của nghệ  nhân sáng tác. Từ xưa đến nay, bao giờ cũng vậy, trong làng chỉ có một vài nghệ nhân ra mẫu. Nghề làm tranh là nghề của cả làng, ông thợ cày, bà thợ cấy, các em thiếu nhi, các cụ già – đều biết làm tranh, nhưng là làm những việc như in, quét điệp, hay nhặt nhạnh, phơi phóng – chứ không thể sáng tác. Một điều cần nhấn mạnh là cùng được gọi là Nghệ nhân, nhưng nghệ  nhân sáng tác thì khác xa nghệ nhân cắt ván và lại càng xa hơn nghệ nhân chỉ biết in tranh (cũng có những nghệ nhân làm được tất cả các việc). Các nghệ nhân sáng tác thường là những nhà nho có học, am hiểu văn hoá, lịch sử, xã hội, có tài quan sát, có khiếu thẩm mỹ… Chính vì thế, tranh Đông Hồ có nội dung rất phong phú, không chỉ thể hiện cảnh sinh hoạt ở nông thôn  hiện tại  mà  còn có nhiều tranh về lịch sử, về tôn giáo và có nhiều tranh mang tính triết lý sâu sắc. Trên tranh  thường có chữ Hán, chữ Nôm, sau này có cả chữ quốc ngữ. Giống với các loại hình văn hoá dân gian khác, tranh Đông Hồ cũng do các nghệ nhân không được đào tạo qua trường lớp sáng tạo nên. Lúc đầu mỗi bức tranh  chỉ do một nghệ nhân vẽ mẫu, sau khi vẽ, nghệ nhân có thể treo tranh lên vách để mọi người cùng xem và góp ý, cho dù nghệ nhân có sửa tranh theo sự góp ý nào đó – thì cũng không thể coi bức tranh đó là sáng tác tập thể được. Thực tế thì tác giả đã nghiền ngẫm rất kỹ, nếu có thay đổi chút ít thì thường cũng từ ý kiến của một ông bạn nhà nho tâm đắc. Thế nhưng, thời xưa ở ta chưa có khái niệm bản quyền, những tranh mới  mà bán chạy, lập tức nhà khác “xin “ mẫu ngay. Khi cắt ván, nghệ nhân điêu khắc  có thể làm thay đổi chút ít – làm tranh khác với nguyên mẫu. Hoặc thời gian trôi qua, các thế hệ sau thêm chữ (hay bớt chữ), hay thay chữ nho bằng chữ quốc ngữ (hoặc ngược lại), vì những lẽ đó  ta thường bắt gặp cùng một tranh có nhiều dị bản.

    Có một điều đặc biệt là vào thời kì chưa xa lắm, trong số các nghệ nhân sáng tác nổi tiếng, còn được lưu danh đến ngày nay, không có ai là nông dân theo đúng với nghĩa của từ này. Họ ở nông thôn nhưng không biết cầy cấy, lúc nhỏ tuổi thì đi học, học qua tuổi thanh niên, không đi thi, hay thi không đỗ về nhà dạy học, vẽ tranh, sau này thì vẽ thêm hàng mã. Đó là các nghệ nhân: Nguyễn Thể Thức (1882 – 1943), Vương Chí Long (1887 – 1944 – còn gọi là cụ đồ Long),  Nguyễn Thể Lãm (1910 – 1978), Phùng Đình Năng (1912 – 1993), Vương Chí Lương (1916 – 1946).

    Xưa các cụ sáng tác tranh thường có đôi – như đôi câu đối. Có bốn kiểu đôi tranh: Kiểu thứ nhất: Hai tranh hoàn toàn đối xứng nhau (đối xứng trục), chẳng hạn hai con lợn châu đầu vào nhau. Kiểu thứ hai: Hai tranh cũng đối xứng trục nhưng trên mỗi tranh có chữ khác nhau. Chẳng hạn tranh “Tiến tài”  – có đôi của nó là “Tiến lộc”. (Hai vị thần đối xứng nhau nhưng chữ trên mỗi tranh khác nhau). Kiểu thứ ba: Sự đối xứng không còn thực hiện nghiêm ngặt nữa, đối ý là chính. Chẳng hạn, em bé ôm gà và em bé ôm vịt (phú quí, vinh hoa), hay em bé cầm quả đào và em bé cầm quả phật thủ. Kiểu thứ tư: Chỉ đối ý, loại này nhiều tranh nhất: Hứng dừa – đánh ghen, Đu đôi – bắt trạch, Trưng Vương khởi nghĩa – Triệu Ẩu xuất quân, Trai tứ khoái – gái bảy nghề v.v… Đôi khi hai tranh đối xứng được vẽ thành một – như “Phúc lộc song toàn” hay “Lý ngư  vọng nguyệt”.

    Lúc ra mẫu, đầu tiên các nghệ nhân vẽ phác  lên  giấy dày, sửa chữa đến khi ưng ý thì can lên một tờ giấy dó loại rất mỏng. Có một số tranh  tác giả lật mặt sau lên, tô lại,  được một đôi tranh đối xứng nhau. Nếu thi hứng dâng trào thì tác giả lại viết  thêm chữ hoặc câu đối lên tranh. Nghệ nhân vẽ mẫu thường cũng hay vẽ tranh chơi (vẽ trực tiếp, không phải in). Tranh mẫu để cắt ván khác hẳn tranh vẽ chơi ở chỗ: đường nét đơn giản, rõ ràng, không quá nhiều chi tiết gây rối và khó cắt ván, tranh in ra không đẹp.

    2. Cắt ván  (đúng nghĩa là « khắc ván » nhưng người Đông Hồ quen gọi là « cắt ván »)

    Số nghệ nhân cắt ván không nhiều lắm nhưng đông hơn số nghệ nhân sáng tác. Trước  hết họ làm một tấm gỗ thật phẳng. Gỗ thị, gỗ mực thường làm ván nét (nét đanh, bền lâu), gỗ vàng tâm làm ván màu (mảng to hơn, không cần phải “đanh” lắm, mà gỗ vàng tâm mềm hơn, dễ khắc). Sau đó quét hồ lên, dán úp tờ mẫu vào, quét lại  một lượt bằng “thét” (một loại chổi thông sẽ nói ở phần sau) không có hồ, toàn bộ mẫu tranh đã hiện lên mặt sau tờ tranh. Khắc xong, khi in ra tranh sẽ giống như tờ mẫu, (nếu dán ngửa tờ mẫu vào rồi khắc, tranh in ra sẽ ngược với mẫu, chữ không đọc được). Nghệ nhân cắt ván có bộ đồ nghề như của thợ mộc, nhưng nhỏ hơn, sắc bén hơn. Họ đục nét  trước rồi “dãy” mảng sau, cứ như vậy cho đến khi hoàn thành bản đầu tiên gọi là ván nét. Nét khắc trên ván này thường to đậm, sâu và đứng thành.

    Tiếp đến  là việc phân màu, công đoạn này nghệ nhân cắt ván  kết hợp với nghệ nhân ra mẫu cùng làm. Họ in ra một bản nét, dùng bút lông tô màu từng mảng – thường mỗi tờ tranh có từ ba đến bốn màu và đường viền (contour)  màu đen, sau đó lấy tờ giấy dó mỏng đặt lên trên, tô lại mỗi mảng màu đó một bản, rồi lại làm như với ván nét – được các ván màu. Để các ván này in ra khớp với nhau, người ta để lại ở mỗi ván hai chấm ở  bên trái, sát mép gỗ – gọi là “cữ”.

    Đến thời kỳ tranh bộ, mỗi bộ có bốn tờ dài, mỗi tờ có khi phải làm ba, bốn ván in như vậy mỗi bộ tranh có thể có 16 ván. Còn có một loại gọi là tranh chủ (vẽ các đồ thờ cúng – dùng để dán lên bàn thờ), gồm một tờ to, kích thước khoảng 80 x 120 cm và bốn tờ nhỏ 20 x 120 cm. Bộ ván in tranh này có thể tới 24 tấm ván in.

    Đầu thế kỷ XX có các nghệ nhân cắt ván giỏi còn lưu danh như: Nguyễn Đăng Tuỵ, Nguyễn Đăng Mưu, Nguyễn Thế Bân, Hà Văn Tư…

    3.Chuẩn b nguyên vật liệu

    • Giấy dó
      Auto Draft

    Đây là loại giấy được sản xuất bằng phương pháp thủ công từ cây dó. Nghiên cứu tại các cơ sở sản xuất giấy dó ở Việt Nam cho thấy, về cơ bản, giấy dó sản xuất thủ công, không có tác động hoá chất tạo a-xít trong giấy. Vỏ cây dó được nấu và ngâm trong nước vôi với thời gian ba tháng, bóc bỏ lần vỏ đen đi, giã bằng cối và chày rồi dùng chất nhầy từ cây mò (chi Clerodendrum) tạo hỗn hợp kết dính. Hỗn hợp này gọi là “huyền phù” mà người thợ sẽ pha với nước độ lỏng hay đặc tùy theo loại giấy. Khi seo giấy, người thợ dùng “liềm seo” (khuôn có mành trúc, nứa hay dây đồng ken dày) chao đi chao lại trong bể bột dó. Lớp bột dó trên liềm chính là tờ giấy dó sau khi kết thúc công đoạn ép, phơi, sấy, nén hay cán phẳng. Xơ dó kết lại với nhau, như cái mạng nhện nhiều lớp, tạo nên tờ giấy dó. Sự kết mạng như vậy đã làm cho tờ giấy xốp, nhẹ. Sau cùng là phơi hoặc sấy. Các công cụ sản xuất hầu như bằng tre, gỗ và dùng ánh sáng tự nhiên để làm khô giấy. Giấy dó được sản xuất theo quy trình này không có độ a-xít dẫn đến tuổi thọ cao. Một số tài liệu cho rằng giấy dó có độ tuổi thọ tới 500 năm.

    Giấy dó có nhiều loại từ rất mỏng đến rất dầy, gọi là bóc một, bóc đôi, bóc ba v.v… Đông Hồ không làm giấy này mà mua ở Đống Cao – huyện Yên Phong cùng tỉnh hoặc làng Hồ Khẩu- ven Hồ Tây Hà Nội. Giấy để in tranh thường người ta chọn loại bóc ba hoặc bóc tư – không dầy quá, cũng không mỏng quá. Thời xưa giấy dó thường có khổ khoảng 25 x 70 cm, các nghệ nhân Đông Hồ  chia tranh thành ba loại theo khổ giấy:

    – Tranh phá đôi: Tờ giấy dó pha đôi, kích thước khoảng 25 x 35 cm.

    – Tranh phá ba: Tờ giấy dó pha ba, kích thước khoảng 25 x 23 cm – còn gọi là tranh vuông.

    – Tranh phá tư: Tờ giấy dó pha tư, kích thước khoảng 25 x 17 cm – còn gọi là tranh lá mít.

    Việc rọc giấy được thực hiện bằng thanh nứa hoặc dao cùn làm các mép giấy xơ ra cho thêm phần dân dã.

    • Điệp

    Ở vùng biển Quảng Ninh  có một loài nhuyễn thể, màu trắng gọi là con điệp. Người Đông Hồ mua vỏ điệp – đã vôi hoá qua thời gian, đổ từng đống lớn ở sân, lấy bùn trát ra ngoài, ủ độ một hai năm thì lấy ra cho vào cối giã nhỏ, dần kỹ, loại bỏ những mảnh to, cứng rồi cho vào bể ngâm vài ngày, lọc một lần nữa rồi bỏ ra đạp bằng chân  hoặc cho vào cối lấy chày xoáy – chứ không giã, gọi là “lèn điệp”. Đến khi điệp quánh lại  thì nắm thành từng nắm to bằng vốc tay, phơi thật khô rồi cất đi dùng dần. Khi làm người ta tán nhỏ ra, trộn với hồ nếp và màu, quét lên giấy dó, được một màu nền lấp lánh vảy điệp.

    • Những màu thiên nhiênAuto Draft

    – Màu xanh: Vùng đồng bào dân tộc Tày, Nùng có cây Chàm vẫn để nhuộm vải, người Đông Hồ mua về, bỏ vào chum, vại ngâm từ vài tháng đến một năm, lọc bỏ cặn, được thứ bột  dẻo quánh màu xanh lá cây già. Đó chính là cây chàm mèo hoặc chàm lá to có tên khoa học là Strobilanthes Cusia. Đây là loài cây nhỏ lưu niên, hoa mọc so le hay mọc đối, tràng hoa màu lam đến tím. Không chỉ có công dụng nhuộm vải, cây chàm còn là một cây thuốc quý dùng trong nhiều bài thuốc Đông y. Khi cây chàm đã lên xanh tốt, lá được hái, bỏ vào thùng nước, ngâm cho đến khi mục rữa. Sau đó xương lá chàm được vớt ra, nước trong thùng được quấy lên đến khi sóng sánh màu xanh rồi chờ tinh bột lắng xuống thì gạn ra đem phơi khô và cắt thành miếng cho tiện dùng. Khi nhuộm chàm, thợ nhuộm lấy tinh bột chàm (đã phơi khô) hoà với nước. Tạp chất này tạo ra một loại vi khuẩn tựa như dấm thanh, để tinh bột chàm “cắn” vào vải làm nên màu bền lâu phai.

    – Màu đỏ đất:  được lấy từ  đất đỏ (dạng đá ong non) ở vùng trung du Gia Lương, Quế Võ. Loại này phải ngâm kỹ hơn, có khi tới vài năm, màu đỏ ngả nâu.

    – Màu đỏ vang: Gỗ vang được trẻ nhỏ, đun kỹ, gạn lấy nước đặc được màu đỏ tươi hơn đỏ đất. Tô mộc, còn có các tên gọi khác là vang, tô phượng, vang nhuộm, co vang, mạy vang (tên khoa học: Caesalpinia sappan), là một loài thực vật thân gỗ nhỏ, cao khoảng 5-10 mét, cho gỗ rất rắn, có màu đỏ nâu ở phần lõi và trắng ở phần ngoài, được tìm thấy ở khu vực Đông Nam Á. Gỗ này trong tiếng Anh gọi là Brezel wood. Gỗ tô mộc đã từng là một trong các mặt hàng chủ yếu trong buôn bán giữa người Nhật Bản và người khu vực Đông Nam Á (đặc biệt là Thái Lan) trong thế kỷ XVII trên các “chu ấn thuyền”. Nó cũng là nguồn có giá trị để sản xuất một loại thuốc nhuộm có màu đỏ, được dùng để nhuộm các sản phẩm từ sợi bông. Tại Việt Nam, gỗ tô mộc còn là một trong những thành phần dùng để nấu nước rửa hài cốt khi cải táng. Phần lõi gỗ rắn, gần như không bị nứt nẻ và được sử dụng để chạm khắc đồ mỹ nghệ.

    Thân cây vang cong queo như như con cò quăm, người làng vẫn truyền nhau câu ca về việc nấu gỗ vang:

    Cò quăm mà ở trên rừng

    Đem về nấu nướng tưng bừng suốt đêm

    Hết nước thì lại đổ thêm

    Một trăm gánh nước không mềm cò quăm.

    Màu vàng  được chế từ  hoa hoè. Đó là một loại hoa nhỏ li ti như hạt gạo, đông y vẫn dùng làm nước giải nhiệt. Hoa hoè được cho vào chảo rang  đến màu vàng nâu thì cho vào nồi nước đun thật kỹ ta có  màu vàng. Sau này người ta còn dùng thêm củ nghệ và  hoa giành giành làm màu vàng.

    – Màu đen: Mùa lá tre rụng, các cụ già, trẻ em quét vườn quanh năm, đổ ở sân đống lá tre to như đống rơm. Người ta đốt lá tre – và cũng có khi đốt rơm nếp – đủ độ thành than (nếu quá một tí sẽ thành tro không có màu), được đến đâu vẩy nước đến đấy, rồi cho vào chum nước ngâm đến tận tháng bảy năm sau mới dùng được.

    Từ các màu kể trên pha với điệp và pha lẫn nhau (theo tỉ lệ hoàn toàn do kinh nghiệm của nghệ nhân) được một bảng màu đa dạng mà mộc mạc, dân dã được gọi là Thuốc cái.

    Theo nghệ nhân Trần Nhật Tấn, một số màu khác được tạo ra như sau:

    – Màu đỏ vang pha thêm phèn chua tạo ra đỏ tía, nếu thêm hòe thì thành màu da cam, thêm điệp thì thành màu cánh sen nhạt (không thẫm như phẩm cánh sen) còn thêm chàm thì tạo ra màu nhiễu tím.

    – Màu xanh chàm thêm nhựa thông tạo ra màu cẩm thạch, thêm vàng hòe tạo ra màu hoa lý.

    – Màu da người được pha từ Hoàng đan (một vị thuốc bắc) và điệp.

    Lý thuyết thì như vậy, thực tế thì không phải ai cũng áp dụng được, màu đẹp hay không còn do “bàn tay vàng” của người nghệ nhân.

    Tất cả các màu khi dùng làm tranh đều phải pha với hồ nếp – thứ hồ xay từ gạo nếp, ngâm vài ngày, mỗi ngày thay nước một lần, không để hồ lên men. Pha màu với hồ phải do người có kinh nghiệm làm, không có công thức nào cố định, tuỳ theo thời tiết mà gia giảm, vừa độ thì in sẽ bắt ván, đặc quá hay loãng quá đều bị bong điệp.

    Thời kỳ làm tranh tô màu, Đông Hồ dùng phẩm với bảng màu như sau:

    – Màu đỏ có: son, điều, cánh quế (sắc độ thẫm dần) và cánh sen.

    – Màu vàng có: Vàng đất, vàng chanh.

    – Màu xanh có: xanh lục, xanh lam, hồ thuỷ (da trời).

    – Màu hoa hiên.

    – Màu tím.

    – Màu đen được chế từ muội cao su (người làng thường gọi là “loa”, gốc tiếng Pháp noir  nghĩa là đen).

    Ngoài ra các nghệ nhân còn pha xanh lục với vàng được màu hoa lý. Khi vẽ tranh thờ thì dùng thêm kim nhũ và ngân nhũ.

    • Các dụng cụ in tranh

    – Thét: Đó là một loại chổi làm bằng lá thông phơi héo vừa phải, một đầu buộc túm lại, ở giữa được nẹp bằng hai thanh tre cho đầu kia tòe ra. Thét dùng để quét điệp làm nền, phết màu khi in, nó thay cho bút bẹt và cũng có đủ các cỡ  từ  5cm đến 25cm. Thét đựơc  làm ở làng Đạo Tú (cùng xã Song Hồ) là chính. Khi mua về người ta phải luộc thét bằng nước pha muối, rồi lấy dùi đục đập phần đầu cho mềm ra – nhưng cũng không quá lướt sao cho  khi quét nền còn để lại vết  trên điệp và những vẩy điệp lấp lánh – đó là nét đặc sắc của tranh Đông Hồ.

    – Bìa: Đây là một cái hộp bằng gỗ, không có nắp, kích thước khoảng 40 x 60 x 15 cm, bên trong nhồi rơm, phía trên căng tấm vải bố. Khi in tranh người ta dùng thét  phết màu lên bìa, rập ván in vào rồi in ra giấy.

    Ngoài ra còn các dụng cụ khác như chậu sành đựng phẩm, xơ mướp để xoa vào lưng tranh khi in, sào tre, nứa để phơi tranh…

    4. In tranh

    • Tranh ĐiệpAuto Draft

    Sau khi có đầy đủ nguyên vật liệu, ông chủ – thường là người có nhiều kinh nghiệm nhất trong nghề – bắt đầu pha màu.  Nếu trong nhà có nhiều người làm được thì có thể pha vài màu cho vài người in cùng một lúc. Người in để một đống giấy đã quét nền, xếp ngay ngắn trước mặt là bìa, chậu màu, thét, còn ván in thì xếp bên phải tay. Trước tiên dùng thét quét màu lên bìa, sau đó rập ván in lên bìa vài lần (ván in đã được đóng “tay cầm” chắc chắn), đặt ván in lên giấy theo cữ, tay trái luồn xuống dưới  tờ giấy lật cả giấy lẫn ván lên  rồi dùng xơ mướp xoa lên phía sau tờ giấy để màu bắt đều nét, cuối cùng bóc tờ tranh ra bỏ sang bên trái, các tờ in sau để so le với tờ trước. Cứ như vậy cho đến đủ các màu, màu đen – tức là ván nét được in cuối cùng và do người khéo tay nhất thực hiện.  Yêu cầu màu vừa đủ, đặt ván chính xác, xoa đều tay. Nếu màu khanquá  hoặc xoa ẩu sẽ mất nét, nếu  màu nhiều quá (các cụ nói là bị sặc màu) hoặc đặt không đúng cữ, thì tranh  sẽ bị nhòe nhoẹt – cả hai trường hợp tranh đều xấu. Cùng một mẫu tranh do một nghệ nhân sáng tác, khi cắt ván – nhiều nhà cùng cắt – đã có thể tạo ra những tranh khác nhau. Khi in, mỗi nhà lại phân màu khác nhau, cộng với tay  nghề khác nhau nên có thể tạo ra những bức tranh khác nhau. Cùng tranh một con gà có khi rất đẹp mà cũng có khi lem nhem xấu xí. Kỹ thuật in như trên rất giống kỹ thuật in tranh khắc gỗ màu Nhật Bản. ở Nhật Bản gọi các bản in màu là bản vỗ, phương pháp in được gọi là so dấu – cũng đánh dấu như “cữ” của tranh Đông Hồ. Các bản vỗ được lăn mực chứ không dập lên bìa như Đông Hồ. Sau khi lật ngửa ván in lên người Nhật dùng xơ gai dầu để chà xát lên lưng tranh.

    • Tranh tô màu

    Loại này chỉ phải in một lần màu đen. Với những tranh khổ lớn, ván in to, dài (như tranh Tứ phủ chẳng hạn), thì không dập ván lên bìa như trên (màu không thể bắt đều vào ván – tranh sẽ mất nét) mà phải dùng thét quét mực lên ván in, rồi cũng làm như  với tranh nhỏ. Khi tranh khô và đã nén phẳng sẽ được chia cho cả nhà tô màu, trẻ con hoặc các cụ bà thì tô màu vàng – (có lấn sang mảng khác còn sửa được), những người khác tô các màu còn lại. Các kỹ thuật: vờn, điểm mắt (tô màu xong, vẽ lại mắt cho đẹp) rất tỉ mỉ. Vẽ kim nhũ, ngân nhũ (với tranh thờ), phải do người có tay nghề giỏi nhất thực hiện. Tranh bộ và tranh thờ được dán thêm hai que bằng tre, hoặc nứa vào đầu trên, đầu dưới gọi là trục – để tờ tranh cứng cáp hơn.  Tranh tô màu tận dụng nguồn lao động của cả gia đình. Màu sắc in tranh được quy định nghiêm ngặt, trẻ em khi làm thường sơ ý nên vị trí in màu bị thay đổi, nhà nào không có người chủ giỏi lại không theo dõi sát sao  thì tranh không thể đẹp được.

    Bốn bước in tranh Gà dạ xướng:

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

     

  • Bộ trang sức của một Vương Phi thời nhà Nguyễn

    Nhà sưu tầm cổ vật Vũ Kim Lộc ở Sài Gòn vốn xuất thân từ nghề kim hoàn. Vì thế, những món đồ cổ bằng vàng, bạc và đá quý… luôn được anh quan tâm sưu tầm và nghiên cứu. Anh đã từng sưu tập được những cổ vật Champa, cổ vật Óc Eo hay cổ vật triều Nguyễn… bằng vàng, xứng đáng liệt hạng quốc bảo. Nhưng có lần anh nói với tôi: “Cổ vật bằng quý kim của Champa, Óc Eo hay của các triều đại phong kiến Việt Nam tôi gặp khá nhiều, nhưng tôi chưa bao giờ được cầm trên tay một món đồ vàng thời chúa Nguyễn. Trong khi, nghề kim hoàn lại là một thành tựu nổi bật của nền thủ công truyền thống thời chúa Nguyễn”.

    * Vàng và nghề kim hoàn thời chúa Nguyễn

    Đàng Trong vốn là “vùng đất của vàng”, nơi mà các tiền nhân Champa, Óc Eo… đã tạo nên biết bao kiệt tác nghệ thuật bằng quý kim vẫn còn lưu truyền cho đến đời nay. Vì thế, các chúa Nguyễn đã thực thi những chính sách để phát triển nghề khai thác vàng và nghề kim hoàn. Theo sách Phủ biên tạp lục do Lê Quý Đôn biên soạn vào năm 1776, thì các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã cấp phát lương thực, tiền công cho người dân để khuyến khích họ đi tìm vàng, khai thác vàng cho nhà nước. Các chúa cũng không hạn chế người dân buôn vàng và tự túc khai thác vàng, mà chỉ thu thuế và tạo điều kiện cho họ được kinh doanh và khai thác. Nhà nước cũng lập các đội tìm vàng chuyên nghiệp, giao cho các tướng lĩnh phụ trách. Không chỉ tìm vàng ở các vùng mỏ trong đất liền, các chúa Nguyễn còn lập đội Hoàng Sa, phái người đi đến các vùng biển đảo như Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa để thu nhặt vàng bạc, hàng hóa từ các tàu thuyền của nước ngoài bị đắm trong các vùng biển này. Triều đình nhà chúa còn lập 3 cơ quan gồm: Nội lệnh sử ty chuyên đi thâu nhận vàng, Ngân tượng ty chuyên việc tinh luyện vàng bạc và Nội kim tượng cục chuyên chế tác vàng thành phẩm và làm đồ trang sức để phục vụ cho nội cung và xuất khẩu. Theo các nguồn sử liệu viết về thời kỳ này, thì vào năm 1634, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho xuất khẩu sang Nhật Bản 50 cái bát và 50 cái đĩa, một nửa làm bằng vàng và một nửa làm bằng bạc. Cuốn hồi ký Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, một nhà sư người Trung Hoa có mặt ở Đàng Trong dưới triều chúa Nguyễn Phúc Chu, chép rằng các chúa Nguyễn dùng toàn đồ làm bằng vàng và bạc, chế tác rất công phu, còn các hạng người sang trọng thì mũ mão và yên cương ngựa của họ đều được trang sức bằng vàng bạc. Đàn bà con gái đều mặc hàng tơ lụa, cổ áo thêu hoa, coi vàng bạc như cát, lúa thóc như bùn.

    * Bộ trang sức của một vương phi thời chúa Nguyễn

    Một ngày, tôi vào Sài Gòn, ghé nhà Vũ Kim Lộc, anh khoe với tôi bộ ảnh chụp những món trang sức bằng vàng và bảo: “Đây là những cổ vật bằng vàng đầu tiên của thời chúa Nguyễn mà tôi tận mắt chứng kiến. Theo tôi, đây là trang sức của một bà phi đời chúa Nguyễn Phúc Khoát”.

    Bộ trang sức gồm một cái bác sơn bằng vàng để gắn trên chiếc mũ của các bậc vua chúa; 12 chiếc trâm hoa; 1 chiếc trâm phượng và 2 chiếc vòng tay, đều làm bằng vàng, gắn đá quý. Tất cả đều rất tinh xảo và sang trọng.

    Bác sơn là một dải trang sức, thường làm bằng quý kim, được chạm trổ công phu, trang trí cầu kỳ, để gắn lên mũ của vua, hoàng hậu, quan lại, quý tộc thời xưa. Chiếc bác sơn này dài 18,5 cm, nặng 42 g, được làm từ một miếng vàng mỏng, chạm lộng hình tản vân và văn thủy ba, làm nền cho các đồ án trang trí đính kèm gồm 3 hình chim phượng và 3 cụm hoa lá. Nhìn vào bố cục trang trí của các đồ án đính kèm, có thể nhận thấy số cụm hoa lá lẽ ra phải là 4, nhưng có lẽ cụm hoa lá ở ngoài cùng bên phải bác sơn đã bị thất lạc. Trên bác sơn còn có một hàng lỗ nhỏ, là nơi đã từng gắn các viên đá quý hoặc trân châu nhưng đã bị mất. Vì đồ án trang trí chủ đạo trên bác sơn là hình chim phượng, nên theo điển chế ngày xưa, thì đây là bác sơn trên chiếc mũ của hoàng hậu, vương phi.

    Bác sơn bằng vàng trang trí trên mũ vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
    Hình chim phượng bằng vàng gắn trên bác sơn. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Bộ trâm hoa gồm 12 chiếc, dài từ 9,4 cm đến 12 cm, tạo dáng như những cánh hoa. Phần đầu của những chiếc trâm là những cụm hoa lá bằng vàng, được tô điểm bởi những viên đá quý màu ngọc bích. Có 4 loài hoa được thể hiện trên bộ trâm, trong đó có hai loài hoa được nhận diện là hoa mai và hoa cúc. Phần chuôi để cài vào mái tóc của 12 chiếc trâm hoa này được làm bằng bạc.

    Chiếc trâm hoa mai của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Chiếc trâm hoa cúc của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Chiếc trâm phượng hoàn toàn làm bằng vàng, dài 14,25 cm, nặng 15 g. Phần đầu trâm thể hiện hình chim phượng đang ngậm chiếc lồng đèn rất tinh xảo. Thân chiếc trâm cũng chính là thân và đuôi của chim phượng, được tạo thành hai nhánh và hơi cong xuống ở phần đuôi. Đầu chim phượng được thể hiện rất sắc sảo, với mỏ quặp, mắt và đuôi mắt dài, có bờm ở trên đầu, dưới cằm và sau cổ. Mỏ chim phượng ngậm chiếc lồng đèn có tán che bên trên, khánh treo bên dưới và những chùm hoa văn treo xung quanh.

    Chiếc trâm phượng bằng vàng của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Bộ vòng tay gồm 2 chiếc, một chiếc có đường kính 6,18 cm, nặng 20,17 g, chiếc kia có đường kính 6,41 cm, nặng 20,36 g. Tất cả đều làm bằng vàng. Thân vòng đúc rỗng, mặt ngoài có 16 lỗ tròn, nổi trên nền hoa văn hình cánh hoa liên hoàn. Những lỗ tròn này là nơi gắn các viên đá quý nhằm tăng thêm giá trị của chiếc vòng. Phần khóa của chiếc vòng là một đồ án trang trí hình hai con rồng chầu một hạt châu (hay hạt đá quý) nay đã bị thất lạc.

    Vòng tay bằng vàng của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Đồ án lưỡng long trên vòng tay vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Hạt pha lê khảm trên vòng tay vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Bộ trang sức này được tạo tác một cách công phu với kỹ thuật điêu luyện chứng tỏ trình độ tay nghề của nghệ nhân chế tác món đồ này thuộc vào hạng thượng thừa. Đối chiếu các kiểu thức trang trí có trên bộ trang sức này với những miêu tả trong các nguồn sử liệu viết về mỹ thuật và thủ công mỹ nghệ thời chúa Nguyễn, đồng thời so sánh với những kiểu thức trang trí trên Đại hồng chung chùa Thiên Mụ (do chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc năm 1715), trên trán bia mộ của bà Chiêu phi họ Nguyễn (một vương phi thời chúa Nguyễn) ở Quảng Trị) và trên trán bia mộ bà Chiêu Nghi Trần Thị Xạ (vợ chúa Nguyễn Phúc Khoát) ở Huế, tôi đồng tình với ý kiến của Vũ Kim Lộc rằng đây là bộ trang sức của một vương phi thời chúa Nguyễn.

    Đồ án chim phượng trang trí trên Đại hồng chung chùa Thiên Mụ, đúc năm 1715. Ảnh. Trần Đức Anh Sơn.

    Đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia Nguyễn Chiêu phi. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.

    Bản dập đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia mộ Nguyễn Chiêu phi. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.

    Đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia mộ Chiêu Nghi Trần Thị Xạ. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.

    Và đây cũng là bộ bảo vật đầy đủ nhất và quý hiếm nhất của thời chúa Nguyễn mà giới nghiên cứu và sưu tầm cổ vật Việt Nam từng biết đến từ trước tới nay.

    Nguồn :Trần Đức Anh Sơn’s Blog

  • Nghệ thuật trang trí trống đồng – Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Nghệ thuật trang trí trống đồng – Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Văn hoá Đông Sơn là nền văn hoá tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, phản ánh một thời kỳ phát triển văn hoá rực rỡ mà chủ nhân là những người Việt cổ. Nói đến Văn hoá Đông Sơn là nói đến trống đồng, bởi ở đó tập trung cao nhất những ý niệm về vũ trụ, những quan niệm nhân sinh.

    Đông Sơn là tên một làng nằm ở bờ sông Mã, cách cầu Hàm Rồng khoảng 1km về phía thượng nguồn (thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá). Năm 1924, người nông dân tên gọi Nguyễn Văn Lắm ở làng Đông Sơn khi ra bờ sông Mã câu cá đã tìm thấy một số đồ đồng ở nơi bờ sông sạt lở.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Văn hóa Đông Sơn đã làm chủ hoàn toàn nguyên liệu và chế tác ra nhiều loại hình công cụ, vũ khí, trang sức bằng đồng tinh xảo nhất còn lại cho đến ngày nay…Tuy nhiên, niềm tự hào chính đáng của chúng ta trong nền văn hóa Đông Sơn chính là bộ sưu tập trống đồng hết sức phong phú. Trống đồng của tổ tiên ta không giống hẳn các trống đồng tìm được tại các quốc gia khác ở vùng Đông Nam Á, mà lại khá nhiều về số lượng, dày đặc về mật độ phân bố, trau chuốt về đường nét và tinh tế về thẩm mỹ cũng như kỹ thuật chế tác, chứng minh rằng nền văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ đã phát sinh trưởng thành ngay tại bản địa.

    Những trống đồng Đông Sơn dù to nhỏ khác nhau, thời gian đúc sớm muộn khác nhau nhưng đều thống nhất về kiểu dáng gồm 3 khối hình học cơ bản chồng lên nhau:

    – Đế trống hình chóp cụt.

    – Thân giữa là khối trụ

    –  Phần tang ở trên là một phần của khối chóp cầu bị cắt lát để ngửa.

    Ba khối hình học trên khác nhau nhưng lại kết hợp hài hòa làm cho trống có các phần cân đối, vững chãi, sinh động.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Trống đồng Đông Sơn đã đẹp về tạo dáng lại càng đặc sắc hơn về lối tạo hình trong trang trí mang tính biểu tượng về những ý niệm vũ trụ, phong tục tập quán của đời sống con người. Tất cả vũ trụ , trời đất, sông núi, muôn loài…chỉ có thể xác nhận bằng trí tuệ con người và thống nhất một chủ đề là cuộc sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thời đại các vua Hùng. Trong các trống đồng tìm thấy, tiêu biểu là trống đồng Ngọc Lũ ( Nam Hà); trống đồng Hoàng Hạ (Hà Tây); trống đồngCổ Loa ( Đông Anh ); trống đồng đền Hùng( Phú Thọ) và trống đồng Đa Bút ( Vĩnh Thịnh, Quảng Xương TH).

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Bố cục mặt trống là những vòng tròn đồng tâm, bao lấy mặt trời hình ngôi sao nhiều cánh: 8- 12 – 14- 16cánh… tượng trưng cho mặt trời là dương, các vòng tròn tỏa rộng tượng trưng cho mặt trăng là âm. Đường đi của các họa tiết được trang trí trên mặt trống theo chiều ngược kim đồng hồ cũng là quan niệm lấy âm lịch làm trục thời gian trong sự vận hành chuyển hóa vũ trụ. Các họa tiết trang trí trên trống đồng là sự kết nối phong phú đa dạng vừa thể hiện triết lý phương Đông vừa thể hiện tư duy nông nghiệp đầy chất sáng tạo mang tính biểu tượng cao.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Họa tiết mặt trời là mảng lớn đặt chính giữa bề mặt trống được mô phỏng bằng các nét thẳng, tạo góc nhọn hình tia đều nhau làm người xem liên tưởng tới tia chiếu của ánh hào quang từ mặt trời. Mặt khác, nó là sự tượng trưng cho sự khuyếch đại của âm thanh, sự giãn truyền của sóng tưởng chừng không giới  hạn.

    Trong những hình trang trí trống đồng Đông Sơn, nổi trội lên là những hình sinh hoạt của con người, hầu hết là những hoạt động tập thể. Đó là những họa tiết hình người khoác áo lông chim, đội mũ cắm lông chim, là những chiến binh cầm mộc, cầm rìu hay đang chèo thuyền trong lễ hội. Hoạt động ít người là hình đang giã gạo với đường nét đơn giản được chắt lọc từ hiện thực đời sống. Tính chủ đạo cho ta thấy con người hòa với thiên nhiên lao động sản xuất, đánh bắt cá, săn bắn thú rừng, nhảy múa và thổi kèn. Con người cầm vũ khí bảo vệ đất đai và tưng bừng nhảy múa mừng chiến công hay cảm tạ thần linh đều biểu cảm bằng con mắt tròn to gần kín khuôn mặt nghiêng, thân người nhìn thẳng trùng hợp với phong cách của nghệ thuật cổ Ai Cập.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Với đặc điểm là cư trú vùng hạ lưu của các con sông lớn, người xưa coi thuyền là nhà của mình, đi lại bằng thuyền, ở trong thuyền … Hoàng Nam Tử đã viết: “Người Hồ thạo đi ngựa, người Việt thạo đi thuyền”. Văn hóa “thuyền” đã là dấu ấn in đậm trên họa tiết trang trí trống đồng. Nhìn về góc độ nghệ thuật thì họa tiết hình thuyền hầu như chiếm vị trí duy nhất trên bộ phận tang trống. Những chiếc thuyền to đẹp, đường nét mềm mại hình cánh cung, hai đầu cong vút được cắm lông chim, giữ thuyền có “lầu” với những hình mái chèo, hình người được sắp xếp đứng ngồi tạo sự thay đổi về nhịp điệu, phóng khoáng về đường nét.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Tư duy của người Việt cổ còn mang đậm hình ảnh “ con cò bay lả bay la”; những cánh chim Lạc, chim Hồng là sự hóa thân vào con chim Hạc được cách điệu cao và phân bố dày đặc trên mặt trống: chim bay, chim đậu, chim đứng chầu mỏ vào nhau … xen kẽ với hình hươu và thuyền.

    Một dạng họa tiết khác góp phần không nhỏ tạo nên giá trị nghệ thuật của trống đồng là các họa tiết hình học cơ bản: hình rẻ quạt được xen kẽ giữa các cánh sao như những tia sáng, là nét đệm chuyển tiếp làm nền cho họa tiết chính. Họa tiết răng cưa là một cách thể hiện khác của họa tiết rẻ quạt, đó là sự tỏa ra của vầng hào quang mà chủ là mặt trời. Các vòng ròn nối nhau có điểm chấm ở giữa có thể hiểu là sóng nước, là hình trang trí điểm xuyết cho diềm trống. Họa tiết chữ S biểu thị cho chớp. Đó chính là tính ước lệ cho nghệ thuật trang trí trống đồng Đông Sơn.

    Theo dòng chảy lịch sử, văn hóa Đông Sơn với đỉnh cao là nghệ thuật trang trí trống đồng đã lùi xa cách thời gian của chúng ta ngót trên 2000 năm nhưng hình bóng của một nền văn hóa văn minh dân tộc vẫn còn tiềm ẩn đến ngày nay trong đời sống của các dân tộc Việt Nam, là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Giữa 54 dân tộc anh em với nhau  trên dải đất Việt để vang vọng mãi hai tiếng “đồng bào”.

    Họa tiết hình “con thuyền- ngôi nhà” trên trống đồng Đông Sơn chính là hình ngôi nhà của người Kinh- Mường- Thái phía bắc, hình “tuyền” trên trống đồng còn hóa thân vào mái ngôi nhà Rông của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Hình chim Hạc trên trống đồng Đông Sơn được tạc bằng gỗ đặt ở đàu hồi nhà sàn người Thái, trên hoa văn thổ cẩm người Thái Mường phía bắc…v.v…

    Tự hào biết bao nghệ thuật trống đồng Đông Sơn- văn hóa Đông Sơn; càng tự hào hơn khi trống đồng Đông Sơn còn trong tư cách trống trận trong lịch sử  mà tướng giặc khi nghe tiếng trống của người Việt đã sợ bạc cả tóc:

                  Bỗng lòe gươm sắt lòng thêm đắng
                                   Rộn tiếng trống đồng tóc đốm hoa

    (Trần Phu)

    Theo sentichmich89 blogspot

  • Nghệ thuật ” khiêu dâm” ở Việt Nam thời cổ

    Thật bất ngờ là Việt Nam ngày xưa cũng có nghệ thuật nhạy cảm này, trái ngược với suy nghĩ cho rằng “các cụ” thời xưa rất kín kẽ về chuyện tình dục. Thực ra chỉ “các cụ” tầng lớp quý tộc, quan lại mới kín kẽ thôi, chứ “các cụ” ở tầng lớp bình dân thì thoải mái, phóng khoáng, vô tư về vấn đề này vô cùng.

    Chỉ có điều nghệ thuật nhạy cảm này ở Việt Nam không phát triển bằng nghệ thuật Xuân cung họa (Shunga) bên Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

    Nghệ thuật " khiêu dâm" ở Việt Nam thời cổ
    Nghệ thuật ” khiêu dâm” ở Việt Nam thời cổ

     

    Nguồn: ĐVCP hỏi đáp

  • Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

    Rồng trong văn hóa Việt Nam

    Rồng là một biểu tượng văn hóa có độ phổ biến vào loại cao nhất thế giới. Xét theo hình thức cấu tạo, rồng là linh vật tổng hợp từ nhiều loài vật khác nhau, song luôn có hình dáng gần nhất với một loài vật chính.

    Dân gian phương Đông dùng thuyết “tam đình cửu tự” (thân 3 khúc: đầu, thân, đuôi, kết hợp từ 9 nét khác nhau của 9 loài vật có thật gồm “cửu tự” là chín nét giống, gồm: sừng giống nai, đầu giống đà, mắt giống thỏ, thân giống rắn, bụng giống trai, vảy giống cá, ngón chân giống chim, chân giống hổ, tai giống bò) để nói lên đặc trưng tổng hợp ấy, và để lý giải vị trí bá chủ vạn vật của rồng.

    1. Nguồn gốc Bách Việt của rồng

    Nghiên cứu cho thấy rồng Đông Á mang nguồn gốc Bách Việt cổ (cộng đồng cư dân cổ thuộc ngữ hệ Austro-asiatic cư trú từ hạ lưu Dương Tử đến Bắc Đông Dương, trong đó có tổ tiên Lạc Việt) trên cơ sở của sự kết hợprắn, cá sấu và nhiều loại vật khác. Rồng mang một số đặc trưng quan trọng liên quan đến văn hóa Bách Việt như

    (1) nguyên mẫu chính từ rắn hoặc cá sấu, tức các loài động vật phổ biến của phương Nam (Rồng có các nguyên mẫu chính gồm rắn, cá sấu, cá, lợn, trâu, ngựa, hổ, chó, tia chớp, sinh thực khí nam – xem Nguyễn Ngọc Thơ: “Về vấn đề nguyên mẫu của Rồng Trung Hoa”, Tập san KHXH&NV, 2007),

    (2) tính cách thích nước và sinh sống ở môi trường sông nước; và

    (3) rồng là sản phẩm tổng hợp của tư duy âm dương phương Nam.

    Theo nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn (2000), tên gọi Rồng vốn xuất hiện trong tiếng Việt và một số ngôn ngữ thuộc tiểu chi Proto Việt-Chứt; từ Thìn trong thập nhị địa chi là tên gọi do người Hán vay mượn từ ngôn ngữ Bách Việt cổ. Người Bách Việt, mà cụ thể là Lạc Việt, với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, tự xem mình là “conRồng cháu Tiên”. Nhiều nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng đồng nhất quan điểm này. Tác giả Văn Nhất Đa trong chuyên khảo “Đoan ngọ khảo” (1993) gắn nguồn gốc xuất hiện của rồng với tết Đoan ngọ và tục đua thuyền rồng của cư dân Ngô Việt vùng hạ lưu Dương Tử. Ngày nay, các vùng đất Nam Trung Hoa, Việt Nam, Đài Loan, Okinawa vẫn còn tục đua thuyền rồng trong các dịp đón năm mới, tết Đoan ngọ hay lễ hội truyền thống (Trịnh Tiểu Lô 1997). Tác giả Trung Hoa Nghê Nông Thủy (2010) chứng minh nguồn gốc Bách Việt của tết Đoan ngọ cùng tục đua thuyền rồng, sau được người Trung Hoa tiếp nhận và gắn thêm chức năng cứu Khuất Nguyên để giáo dục cội nguồn. Nhà dân tộc học người Nga D.V. Deopik (1993) từng viết “Rồng là con vật đặc thù chung cho tất cả các dân tộc Việt và chính từ đây nó đã đi vào văn hóa Trung Hoa”. Còn nhà Việt Nam học người Nga N. I. Niculin cũng nhận xét: “Trong văn hoá truyền thống của người Việt, hình tượng con Rồng – một con vật tưởng tượng – trở thành biểu tượng quan trọng nhất… Chính người Việt từ ngàn xưa đã biết trồng lúa nước và đánh cá… Hoàn toàn có cơ sở để cho rằng hình tượng con rồng trong văn hoá Trung Hoa có nguồn gốc từ phương Nam, từ vùng Đông Nam Á, từ Việt Nam và các quốc gia láng giềng….” (Xem Xem Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Ngọc Thơ: “Nguồn gốc con rồng nhìn từ văn hóa học”,Tập san KHXH&NV, 2011).

    Từ chiếc nôi Bách Việt, rồng lan truyền ra xung quanh, tại mỗi địa phương rồng khoác lên sắc thái văn hóa của riêng địa phương mình. Chính vì vậy, rồng đã trở nên đa dạng về chủng loại và hình dáng, tạo nên một “Gia tộc họ rồng” cực kỳ đa dạng về hình thức lẫn chức năng.

     

    2. Gia tộc họ rồng

       Lấy giới tính làm tiêu chí phân loại thì có hai loại rồng đực đuôi có hạt châu hoặc chỉ có chiếc đuôi đơn thuần và rồng cái đuôi phân nhánh thành hoa văn hoa cỏ.

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

     

    Thứ hai là tiêu chí nguyên mẫu. Rồng hình thành từ sự kết hợp đa loài, dù vậy vẫn có thể nhận diện loài vật đặc trưng nhất. Tiêu biểu có rồng rắn, rồng cá sấu, rồng cá, rồng ngựa, rồng hổ, rồng chó, rồng chim, rồng thuồng luồng (giao long), rồng kỳ đà, rồng cáo…

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa ViệtNguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa ViệtNguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

     

    Còn nếu dựa vào tứ chi của rồng để phân thì có các loại rồng 5 móng, 4 móng, 3 móng; không chân và rồng có tứ chi là hoa văn cây cỏ. Rồng 5 móng là loại rồng chuẩn, từ đầu Công nguyên trở đi đã trở thành biểu tượng của vua chúa, thường xuyên bị hoàng gia lũng đoạn, dân gian bị cấm dùng. Quan lại chỉ được phép dùng rồng 4 móng, có thời kì bị bắt buộc dùng hình mãng xà (như thời Minh ở Trung Quốc). Rồng không chân thường được hiểu là thuồng luồng, xuất hiện nhiều trong truyền thuyết dân gian. Rồng có tứ chi phát triển thành hoa văn hoa cỏ thường được dùng nhiều trong nghệ thuật trang trí kiến trúc hay hội họa truyền thống.

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

                                                                           Quỳ long

     

    –    Trong truyền thuyết phương Đông, rồng có chín con với hình dáng và sở thích hoàn toàn khác nhau, bao gồmbị hí, xi vẫn, bồ lao, bệ ngạn, thao thiết, công phúc, nhai xế, toan ngê, tiêu đồ; bên cạnh là một số linh vật họ rồng khác nữa như tù ngưu, phụ hý, trào phong, tỳ hưu, hải trãi v.v. [Nguyễn Ngọc Thơ: Rồng Trung Hoa,Luận văn thạc sỹ, 2003].

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa ViệtNguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa ViệtNguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

     

    3. Rồng qua các thời kỳ

    Con rồng đã từng là một tô tem trong tín ngưỡng sơ khai của người Việt Nam. Dân Việt cổ có tục xăm mình, phổ biến trong số ấy là họa tiết rồng (giao long). Theo ghi chép trong Hoài Nam TửSơn Hải Kinh, rồng được người Việt xưa xăm lên đùi để khi xuống nước “tránh bị giao long làm hại”. Đến đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) mới chấm dứt tục xăm mình. Rồng là hình tượng của mưa thuận gió hòa, là linh vật đứng vào hàng bậc nhất trong tứ linh “long, lân, quy, phụng”. Hình tượng rồng thời đại Hùng Vương là một linh vật thân dài có vẩy như cá sấu được chạm trên các đồ đồng, đặc biệt là trên trống đồng.

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

    Qua thời kỳ Bắc thuộc, con rồng Việt Nam dần xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Thủ đô Thăng Long được đặt tên theo thế “rồng bay”. Rồng thời Lý là con vật mình dài như rắn, thường thân trơn, lưng có vây, thân uống cong nhiều vòng uyển chuyển theo hình sin mềm mại và thoải nhỏ dần về phía đuôi, tạo cảm giác dòng văn hóa dân gian mượt mà dài vô tận. Rồng có bốn chân, mỗi chân có ba móng cong nhọn. Đầu rồng ngẩng cao, há miệng rộng với hai hàm răng nhỏ đang vờn đớp viên ngọc quý. Từ mũi thoát ra mào lửa. Trên trán rồng có một hoa văn giống hình chữ “S”, tượng trưng cho sấm sét, mây mưa [Xem Mỹ thuật thời Lý, 1973]. Trên đại thể, rồng thời Lý là rồng văn, rồng Phật giáo.

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

    Hình tượng con rồng thời Trần có nhiều biến đổi so với thời Lý. Đây là thời kì người Việt Nam ba lần đánh bại quân thiện chiến Nguyên Mông, do vậy triều Trần được cho là triều đại trọng võ. Dấu ấn ấy có thể nhìn thấy rất rõ qua hình tượng rồng. Đầu rồng xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay, chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng võng hình yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi thì đuôi thẳng và nhọn, khi thì xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng, có khi là những nửa hình nụ hoa tròn, có khi chỉ là những nét cong thanh thoát [Xem Mỹ thuật thời Trần, 1977].

    Rồng thời Lê (thế kỷ XV) hoàn toàn khác biệt với rồng thời Lý-Trần. Thân rồng có xu hướng ngắn lại, tư thế đa dạng phong phú. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Thân rồng lượn hai khúc lớn, chân có năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê tượng trưng cho quyền uy phong kiến [Xem Mỹ thuật thời Lê Sơ, 1978].

    Rồng thời Lê Trung hưng nhìn chung ít thay đổi so với thời Lê Sơ, điểm nổi bật là hình tượng rồng dần dà đi vào đời sống thường dân, đặc biệt là các mô típ bầy rồng con quây quần bên rồng mẹ, rồng đuổi bắt mồi, rồng vui cảnh lứa đôi v.v..

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

    Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi vương quyền. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc rồng hàm thọ, lưỡng long triều nhật, lưỡng long chầu hoa cúc, lưỡng long chầu chữ thọ v.v.. Thân rồng không dài ngoằn, uốn lượn với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu có nhánh phụ cùng chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi giống mũi lân hoặc sư tử, miệng há to để lộ hàm răng răng nanh chắc khỏe. Vây trên lưng rồng có tia, thân cuộn hoa văn lửa hoặc mây, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua chân có năm móng mạnh mẽ, còn quan và tầng lớp quý tộc chỉ được pháp dùng rồng bốn hoặc ba móng, đuôi không có bờm lông, các chi tiết hoa văn lờ mờ hơn rồng cung đình. Rồng trên mái đình chùa miếu mạo thường cũng chỉ có bốn móng([1]).

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt
    Long ấn thời Nguyễn
        Kể từ khi triều Nguyễn kết thúc, tính phân tầng xã hội trong quy cách sử dụng mô típ rồng không còn nữa, chính vì vậy người ta có thể chạm khắc rồng với muôn hình vạn trạng, từ vân long, đoàn long, quỳ long, ứng long, li long, giao long, rồng 5 ngón, 5 ngón, 3 ngón v.v.. Hình tượng con rồng cũng không còn tính chất thiêng liêng, tối thượng như xưa, thay vào đó dân gian vẫn đưa vào trang trí cho các công trình kiến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ thuật với những ý nghĩa dân gian, bình dị.

      4. Rồng trong tâm thức người Việt

           Như vậy, tổ tiên Bách Việt đã từng có tô tem rồng. Sau quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa với Trung Hoa, người Việt Nam tiếp nhận trở lại hình ảnh và ý nghĩa của mẫu rồng Á Đông đã hoàn thiện hóa từ người Trung Hoa. Từ đó trở đi, rồng ngự trị trong tâm thức người Việt như một linh vật đặc biệt, là “vạn vật chi đế”, là biểu tượng cộng gộp tất cả các ước vọng tốt đẹp nhất của cuộc sống nhân sinh.
          Trước nhất, rồng là linh vật tổng hợp từ nhiều loại vật có thật trong tự nhiên, do vậy rồng mang trong mình hết thảy các ưu thế vượt trội của các loài, trong đó sức mạnh và quyền năng thiên biến vạn hóa là hai đặc tính quan trọng. Rồng được cho là biểu trưng của sự mạnh mẽ, hùng tráng, là uy lực bất bại trước kẻ thù.
           Từ đặc tính tạo thành từ giới tự nhiên, rồng được người Việt Nam và Đông Á nói chung vay mượn để thực hành hoặc chuyển tải các thông điệp tâm lý – xã hội. Với tính năng siêu việt, rồng được tin là linh vật mang lại điềm lành, sự may mắn, thịnh vượng, sự thông thái; đồng thời còn là sứ giả để gửi gắm những ước vọng trong đời: cầu mưa, cầu phồn thực. Chính từ đó, trong dân gian xuất hiện các mô-típ rồng hút nước biển Đông để tưới vào đất liền, cá chép vượt vũ môn hóa rồng, rồng trừng trị kẻ ác để bảo vệ chúng dân; thế đất rồng trong phong thủy mang đến cuộc sống phồn vinh (long mạch, long hổ hội, Dinh Độc Lập = phủ đầu rồng); hiện tượng rồng “cù dậy” (cù lao); rồng là một trong 12 con vật đại diện trong dãy Thập nhị Địa chi; mượn tên gọi Long, Rồng để đặt tên đất (Thăng Long, Hạ Long, Cửu Long, Long Hải, Hàm Rồng v.v.), tên người, tên các loài động thực vật hay dụng cụ khác giống rồng (địa long = giun đất, cá mắt rồng;  long nhãn, rau long tu, cây long huyết, cỏ long đảm; đầu rồng = vòi nước v.v.); múa lân-sư-rồng v.v..
          Tương tự, rồng được khắc, họa trong nhiều công trình kiến trúc quan trọng từ kinh đô đến nhà dân, từ đình chùa miếu mạo đến các cơ quan công quyền (truyền thống) như một thể hiện sống động của rồng trong tâm thức người Việt. Lấy hoa văn trang trí trên đình chùa miếu mạo làm ví dụ, người Việt Nam có xu hướng quy tụ vào nhóm Tứ linh (long-lân-quy-phụng) hơn là xu hướng đa dạng hóa các mô típ trang trí của người Trung Hoa (rồng-phụng, bát vật, bát bảo, bát tiên quá hải, các nhân vật truyền thuyết-thần thoại, các linh vật họ rồng v.v.. – có thể xem ở miếu Thiên Hậu Tuệ Thành số 710 đường Nguyễn Trãi, Quận 5, Tp. Hồ Chí Minh). Các mô típ thường thấy nhất là “lưỡng long tranh châu”, “lưỡng long triều nhật”, “tứ linh hội tụ”, “dây lá hóa long” v.v.. Ở đất Nam Bộ, rồng còn gắn liền với cá chép, cả hai đều là loài vật thích nước, đều là vật biểu trưng của vùng đất phương Nam đầy sông nước, như ở Tổ đình chùa Giác Lâm (Tp. Hồ Chí Minh) chẳng hạn.
           Trong ca dao tục ngữ, phần đông rồng được dùng để chuyển tải ý nghĩa cao quý, thánh thiện, nhấn mạnh chức năng tâm lý:  
              – Một ngày dựa mạn thuyền rồng
                Còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài
            – Bao giờ cá chép hoá long
              Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa.
            – Thế gian được vợ hỏng chồng
    Có đâu như rồng mà được cả đôi.
           – Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng
             Trăm khôn nghìn khéo không chồng cũng hư
           – Trứng rồng lại nở ra rồng
             Liu điu lại nở ra dòng liu điu
          Đôi khi còn dùng rồng để chuyển tại thông điệp tình yêu:
           – Nhớ chàng như vợ nhớ chồng
             Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây
          – Tình cờ anh gặp mình đây
             Như cá gặp nước, như mây gặp rồng
          – Trăm năm ghi tạc chữ đồng
            Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai
          Có chồng thì phải theo chồng
            Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo..
        Hay kinh nghiệm sống:
          – Rồng đen lấy nước thì nắng;
            Rồng trắng lấy nước thì mưa   
          – Rồng đen lấy nước được mùa;
            Rồng trắng lấy nước thì vua đi cày..
       Dùng làm câu đố:
            Đầu rồng đuôi phụng le te,
            Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con
    (Cây cau – xem Phan Thuận An: cuasomoi.com)
        Hoặc dùng rồng như một thứ để giễu cợt, mỉa mai, trách móc:
            – Rồng nằm bể bắc phơi râu,
              Đến khi nước cạn hở đầu hở đuôi    
            – Ăn rồng cuốn, nói rồng leo, làm mèo mửa v.v..
    (Phùng Thành Chủng: newvietart.com)
         Với thuyết Hồng Bàng thị, người Việt Nam còn coi rồng là một biểu trưng của nguồn cội, của ý thức giống nòi và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Ý thức “Con rồng cháu tiên” sớm ngấm ngầm vào da thịt từng người con đất Việt từ thuở lọt lòng mẹ.
    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt
          Cũng ở chức năng này, rồng sớm bị các bậc đế vương phong kiến lũng đoạn, bắt đầu từ nhà Hán ở Trung Hoa([2]), sau ảnh hưởng đến Việt Nam và các quốc gia Đông Á khác. Từ đó rồng được phân loại mạnh mẽ: rồng 5 móng là rồng chuẩn mực, là biểu tượng của vua chúa, hoàng gia nên dần dà trở thành vật sở hữu của họ([3]). Dân gian từ thời Lê trở về sau bị hạn chế dùng rồng trong trang trí, nhất là rồng 5 móng. Trong tâm thức dân gian Nam Bộ, rồng là biểu hiện của văn hóa cung đình, do vậy ca dao có câu “Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai..”. Tại các đình chùa miếu mạo do dân gian xây dựng, mô típ rồng thường thấy là rồng 4 móng hoặc 3 móng, tức chưa là rồng chuẩn. Như một sự phản kháng, dân chúng đã tạo ra các kiểu rồng không mọc chân mà thay vào đó là các kiểu hoa văn hoa cỏ sinh động để thể hiện ước vọng thăng hoa của nội tâm, đặc biệt là chạm khắc trên các công trình kiến trúc (quỳ long, li long, cù long v.v..).
    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt
    Mô típ “Lưỡng long triều nhật” ở Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Tp.HCM)

    Ở chức năng tâm linh, rồng được hiểu là thần thánh, phần nhiều là thiện thần. Hai trong những nguyên do biến rồng thành thần gồm (1) linh vật tổng hợp từ sự vượt trội của nhiều loài; (2) rồng có thể thiên biến vạn hóa và thông thiên kết nối nhân gian và thế giới thần tiên. Chính vì vậy, người Việt sớm nhận thức rằng rồng là hiện thân của thần linh để trị ác cứu dân, là vật cưỡi của thần tiên (như mô típ tiên cưỡi rồng trong kiến trúc đình Bắc Bộ) hay chư Phật (trong kiến trúc chùa), là linh vật chầu phục Đức Thái Thượng Lão Quân trong Đạo giáo. Sự ngự trị tối cao của rồng so với các loài vật khác còn có thể thấy trong quần thể tòa thánh Cao Đài ở Nam Bộ (trần mái Cửu Trùng Đài, cột rồng v.v.). Ở chùa An Phước (Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh), người ta đúc thuyền hình rồng trên có năm thầy trò Đường Tăng đầu quay về Thiên Trúc với ý nghĩa rồng hộ tống, đưa Phật tử và chúng sinh thánh thiện về đất Phật.

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa ViệtNguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt
    Long ấn thời Nguyễn
        Tuy nhiên, chức năng tâm linh này của rồng thường được hiểu là gắn liền với chức năng ổn định tâm lý và giáo dục con người (tu tâm dưỡng tính, gửi gắm niềm mong mỏi một cuộc sống tốt đẹp hơn v.v.) là chính. Trong xã hội đương đại vẫn còn dấu vết của hiện tượng mê tín hóa biểu tượng rồng, chẳng hạn chuyện chọn năm Thìn để sinh con, hoặc chọn ngày giờ phù hợp sinh con để được quẻ Thuần Rồng (trong Tử vi); chuyện dùng nước “giếng rồng” để chữa bệnh; quan niệm ăn thịt rồng (thực chất là thịt rắn), trứng rồng (trứng đà điểu) để trường sinh bất lão; chuyện cúng tế “cù long” (rồng cù dậy) trong những ngôi nhà nền đất mặt sần sùi giống vảy rồng do đi lại lâu ngày tạo nên v.v..
         o0o
        Vậy đó, tổ tiên đã tạo ra biểu tượng rồng như là một biểu hiện của khát vọng vươn lên chinh phục tự nhiên và chinh phục chính mình. Cùng với thời gian, con người đã “thiên biến vạn hóa” biểu tượng rồng và sử dụng chúng theo những mục đích khác nhau, song chính những giá trị tốt đẹp của rồng trong tâm thức con người đã đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nó.

    [1] Xem B.A.V.H 1915: Những người bạn cố đô Huế (tập 2), Đặng Như Tùng dịch, NXB Thuận Hóa.
    [2] Hán Cao Tổ Lưu Bang sinh thời da vẻ sần sùi, tự xưng là giống rồng và ngụy tạo chuyện rồng cha truyền giống để lý giải quyền Thiên tử của mình. Tương truyền, mẹ là Lưu Ôn trong lần ra vườn Thượng uyển thấy bàn chân to trên đá, bá ướm thử, bỗng giông tố nổi lên, bà ngất xỉu. Trong lúc hôn mê, bà thấy một con rồng xanh từ trên trời bay xuống thụ tinh cho bà, bà có mang, sau sinh ra Lưu Bang.
    [3]Ở Trung Hoa, thời Minh Gia Khánh rồng bị lũng đoạn nghiêm trọng, chỉ có vua mới được dùng rồng, hoàng tử, quan lại chỉ dùng mãng xà, dân chỉ dùng rắn. Hoàng hậu đương triều trong một lần nhớ chồng mân mê chiếc long bào có hình rồng lập tức bị xử tội (xem Rồng Trung Hoa, luận văn thạc sỹ, 2003).

    Nguyễn Ngọc Thơ

             (Đã đăng trên Đặc san Khoa học Xã hội số 42, tháng 1 năm 2012) 

    Cổ vật tinh hoa ( Nguồn: vanhoahoc.vn)
  • Tổng hợp phim Việt Nam hay nhất mọi thời

    Tổng hợp phim Việt Nam hay nhất mọi thời

    Nền điện ảnh Việt ta vô cùng đặc sắc, phong phú. Vậy nên thay vì ngồi “cày cuốc” những phim bộ, phim lẻ nước ngoài. Bạn hãy thử dành ra “vài hôm” xem cho hết loạt phim dưới đây, được đánh giá là hay nhất từ trước tới nay. Đặc biệt, chúng gắn liền với những ký ức, những thế hệ 7x,8x…

    Hình ảnh Việt Nam xin được chia sẻ từ The Rétro Studio và có chỉnh sửa phần mô tả !

    PHIM : 7 NGÀY LÀM VỢ Phim này hài cực ;)) Kể về 1 chú đi làm lương cao,có vợ ở nhà làm nội trợ.Thương thay chị vợ suốt ngày bị ông chú này hạch sách.Thế là chị vợ than thở với bạn bè xem cách để xoay chuyển tình thế. Mấy bà tám liền bàn cách thách thức hoán đổi công việc vợ chồng cho nhau trong vòng 7 ngày..Thế là từ đó bao nhiêu rắc rối xảy ra,vui cực :)) Đây là 1 bộ phim đáng xem,rất hay
    PHIM : 7 NGÀY LÀM VỢ
    Phim này rất hài hước, nội dung kể về 1 chú đi làm lương cao, cô vợ thì  ở nhà làm nội trợ. Thương thay, chị vợ suốt ngày bị ông chú này hạch sách. Thế là chị vợ than thở với bạn bè xem cách để xoay chuyển tình thế.
    Mấy bà tám liền bàn cách thách thức hoán đổi công việc vợ chồng cho nhau trong vòng 7 ngày. Thế rồi bao nhiêu rắc rối xảy ra,…  Đây là 1 bộ phim đáng xem.

     

     

    PHIM : CHUYỆN NHÀ MỘC Thấy đời sống của mình quá khổ cực, ông Mộc bằng mọi giá muốn cho con mình-Mai thi vào đại học,với hi vọng con gái mình nhờ vào mảnh bằng đó mà sau này khá hơn.Cho nên ông không thích Cường (Xuân Bắc) ve vãn con gái mình. Trong khi đó mẹ Mai thì nghĩ con gái không cần học thêm nữa mà chỉ muốn Mai sớm lấy chồng. Oái ăm là lúc Mai thi đỗ đại học,và chẳng bấy lâu....gửi tấm thiệp cưới về nhà cho bố mẹ.Từ đó bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười xảy ra
    PHIM : CHUYỆN NHÀ MỘC
    Thấy đời sống của mình quá khổ cực, ông Mộc bằng mọi giá muốn cho con mình -Mai- thi vào đại học, với hi vọng con gái mình nhờ vào mảnh bằng đó mà sau này khá hơn. Đồng thời, ông không thích Cường (Xuân Bắc) ve vãn con gái mình. Trong khi đó mẹ Mai thì nghĩ con gái không cần học thêm nữa mà chỉ muốn Mai sớm lấy chồng.
    Oái ăm là lúc Mai thi đỗ đại học, và chẳng bấy lâu….gửi tấm thiệp cưới về nhà cho bố mẹ. Từ đó bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười xảy ra

     

    PHIM : CẦU THANG NHÀ A26 Không còn bàn cãi gì độ hay của phim này.Nó được xếp vào dạng phim kinh điển của điện ảnh Việt Nam.Trong phim còn có sự góp mặt của cố diễn viên Trịnh Thịnh.Đây là một bộ phim đáng xem,dành vào những dịp quây quần cùng gia đình ^.^
    PHIM : CẦU THANG NHÀ A26
    Được xếp vào hàng kinh điển của điện ảnh Việt Nam.Phim còn có sự góp mặt của cố nghệ sỹ Trịnh Thịnh. Đây là một bộ phim đáng xem, dành vào những dịp quây quần cùng gia đình.

     

    PHIM : MẸ CON ĐẬU ĐŨA Link www.fb.com/theretrostudio/videos/977153679005663/ Nếu để nói về một phim Việt Nam cảm động và sâu sắc nhất về tình cha con thì có lẽ không thể bỏ qua Mẹ Con Đậu Đũa. Bộ phim là câu chuyện về cuộc sống của hai cha con Đậu Đũa tuy khó khăn, vất vả nhưng tràn ngập tình yêu thương. Mẹ Đậu Đũa mất từ khi em vẫn còn nhỏ, cha em một tay nuôi lớn em trong cảnh thiếu thốn và khổ ...
    PHIM : MẸ CON ĐẬU ĐŨA
    Nếu để nói về một phim Việt Nam nào có những cảnh cảm động và sâu sắc nhất về tình cha con thì có lẽ không thể bỏ qua Mẹ Con Đậu Đũa. Bộ phim là câu chuyện về cuộc sống của hai cha con Đậu Đũa tuy khó khăn, vất vả nhưng tràn ngập tình yêu thương.
    Mẹ của Đậu Đũa mất từ khi em vẫn còn nhỏ, cha em một tay nuôi lớn em trong cảnh thiếu thốn.

     

    PHIM : CỦA ĐỂ DÀNH Phim Của Để Dành đã sản xuất được hơn một thập kỷ. Tuy nhiên, vấn đề mà nó đề cập đến thì chưa bao giờ cũ. Những đứa con tất bật với cuộc sống riêng, không có thời gian chăm sóc cha mẹ, giao phó tất cả “chữ hiếu” cho người giúp việc là câu chuyện vẫn luôn hiện hữu ở thì hiện tại. Của Để Dành xoay quanh cuộc sống trong ngôi nhà cổ ở Hà Nội, nơi bà Vi và ba người con đã trưởng th...
    PHIM : CỦA ĐỂ DÀNH
    Phim Của Để Dành đã sản xuất được hơn một thập kỷ. Tuy nhiên, vấn đề mà nó đề cập đến thì chưa bao giờ cũ. Những đứa con tất bật với cuộc sống riêng, không có thời gian chăm sóc cha mẹ. Giao phó tất cả “chữ hiếu” cho người giúp việc là câu chuyện vẫn luôn hiện hữu ở thì hiện tại.
    Của Để Dành xoay quanh cuộc sống trong ngôi nhà cổ ở Hà Nội, nơi bà Vi và ba người con đã trưởng thành đang sống.

     

    PHIM: DÒNG SÔNG PHẲNG LẶNG Bộ phim dựa theo tác phẩm cùng tên của nhà văn Tô Nhuận Vỹ Nói về cuộc nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, được các nhà làm phim tái hiện một cách sinh động. Bối cảnh phim chủ yếu là cảnh ven đô và ngoại thành Huế, xoay quanh nhân vật trung tâm là các chiến sĩ biệt động thành như Cúc, Phi Hùng, Hồng, Hạnh (mẹ của Cúc)… Nội dung phim là cuộc chiến cân não giữa ta và địch, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, cuối cùng chiến thắng đã đến với người dân Việt Nam kiên trung, bất khuất. Tuy là một bộ phim về đề tài thời chiến,nhưng nó không bị khô khan,sa vào mô tả quá về chiến trường,mà trái lại-rất tình cảm và nhân văn.Người xem sẽ bị cuốn hút vào những câu chuyện tình cảm đep và đầy chất thơ. Đánh giá : Mình cá ai xem phim này 1 lần,chỉ 1 lần thôi,chắc chắn sẽ nhớ mãi ;))
    PHIM: DÒNG SÔNG PHẲNG LẶNG
    Bộ phim dựa theo tác phẩm cùng tên của nhà văn Tô Nhuận Vỹ
    Phim nói về cuộc nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, được các nhà làm phim tái hiện một cách sinh động. Bối cảnh phim chủ yếu là cảnh ven đô và ngoại thành Huế, xoay quanh nhân vật trung tâm là các chiến sĩ biệt động thành như Cúc, Phi Hùng, Hồng, Hạnh (mẹ của Cúc)…
    Nội dung phim là cuộc chiến cân não giữa 2 phe. Còn kết thúc thì như bạn đã biết!
    Tuy là một bộ phim về đề tài thời chiến, nhưng nó không bị khô khan, không sa vào mô tả quá về chiến trường, mà trái lại rất tình cảm và nhân văn. Người xem sẽ bị cuốn hút vào những câu chuyện tình cảm đẹp và đầy chất thơ.

     

    Film : MÙI ĐU ĐỦ XANH link : www.facebook.com/theretrostudio/videos/976160559104975/ Bộ phim nói về Mùi, một cô bé đi ở cho một gia đình buôn vải ở Sài Gòn khoảng những năm 1950. Trong gia đình này, người vợ là trụ cột chính, gánh vác công việc, còn ông chồng chỉ biết chơi bời. Ông bà chủ có 3 con trai, một người trưởng thành, tên là Trung. Hai con trai còn lại, một đang tuổi vị thành niên ít quan tâm tới Mùi. Đứa thứ hai khoảng tuổi Mùi thường xuyên trêu chọc cô. Khoảng 10 năm sau, Mùi đã lớn trở thành một thiếu nữ. Mùi rời nhà bà chủ đến giúp việc cho Khuyến-bạn của cậu Trung. Khuyến là một nghệ sĩ dương cầm và cũng là người mà Mùi có những cảm xúc đầu tiên lúc còn nhỏ. Ở nhà Khuyến, Mùi đã tìm được tình yêu và trở thành vợ của Khuyến.
    PHIM : MÙI ĐU ĐỦ XANH
    Bộ phim nói về Mùi, một cô bé đi ở cho một gia đình buôn vải ở Sài Gòn khoảng những năm 1950. Trong gia đình này, người vợ là trụ cột chính, gánh vác công việc, còn ông chồng chỉ biết chơi bời. Ông bà chủ có 3 con trai, một người trưởng thành, tên là Trung. Hai con trai còn lại, một đang tuổi vị thành niên ít quan tâm tới Mùi. Đứa thứ hai khoảng tuổi Mùi thường xuyên trêu chọc cô. Khoảng 10 năm sau, Mùi đã lớn trở thành một thiếu nữ. Mùi rời nhà bà chủ đến giúp việc cho Khuyến-bạn của cậu Trung. Khuyến là một nghệ sĩ dương cầm và cũng là người mà Mùi có những cảm xúc đầu tiên lúc còn nhỏ. Ở nhà Khuyến, Mùi đã tìm được tình yêu và trở thành vợ của Khuyến.
    Tuy bối cảnh là Sài Gòn thập niên 1950, nhưng Mùi đu đủ xanh được quay tại Paris, trường quay Bry - số 2 đại lộ Europe, Bry-sur-Marne, Val-de-Marne. Man San Lu vai Mùi khi nhỏ là người Pháp gốc Á. Nữ diễn viên Trần Nữ Yên Khê, vai Mùi lúc lớn, là một người Pháp gốc Việt, phát âm tiếng Việt không chuẩn => Theo đánh giá của ad,đây là 1 bộ film đẹp,từ từng cảnh quay cho đến màu sắc,nội dung rất nhân văn & "sạch".Điểm trừ nho nhỏ là giọng nói trong film không chuẩn lắm,tạo cảm giác giả.Tuy nhiên,ngoại trừ điểm trên thì mọi thứ rất tuyệt
    Tuy bối cảnh là Sài Gòn thập niên 1950, nhưng Mùi đu đủ xanh được quay tại Paris, trường quay Bry – số 2 đại lộ Europe, Bry-sur-Marne, Val-de-Marne. Man San Lu vai Mùi khi nhỏ là người Pháp gốc Á. Nữ diễn viên Trần Nữ Yên Khê, vai Mùi lúc lớn, là một người Pháp gốc Việt, phát âm tiếng Việt không chuẩn
    Theo đánh giá của ad, đây là 1 bộ film đẹp, từ từng cảnh quay cho đến màu sắc,nội dung rất nhân văn & “sạch”. Điểm trừ nho nhỏ là giọng nói trong film không chuẩn lắm, tạo cảm giác giả.Tuy nhiên, ngoại trừ điểm trên thì mọi thứ rất tuyệt!

     

    FILM : CHIẾC CHÌA KHÓA VÀNG Trong chiến tranh thời gian không chờ đợi ai, cần phải trân trọng những phút giây bên nhau. Đó là lời nhắn gửi mà bộ phim Chiếc chìa khóa vàng mang lại cho người xem. Phim xoay quanh một đôi trai gái, chàng trai tên Dũng (Ngọc Bảo) được gọi nhập ngũ lên đường đi chiến đấu, trong khi đó anh lại sắp cưới Nguyệt (Mỹ Duyên), cô gái mà anh yêu. Họ chỉ còn 1 ngày trước khi anh lên đường, trong thời kỳ khói lửa để tìm một phòng tân hôn là vô cùng khó. Dũng và Nguyệt đã vượt qua nhiều thử thách, bom đạn để tìm được Chiếc chìa khóa vàng cho căn phòng của họ. Tiếc thay, khi chiếc chìa khóa xuất hiện cũng là lúc Dũng phải lên đường....
    FILM : CHIẾC CHÌA KHÓA VÀNG
    Trong chiến tranh thời gian không chờ đợi ai, cần phải trân trọng những phút giây bên nhau. Đó là lời nhắn gửi mà bộ phim Chiếc chìa khóa vàng mang lại cho người xem. Phim xoay quanh một đôi trai gái, chàng trai tên Dũng (Ngọc Bảo) được gọi nhập ngũ lên đường đi chiến đấu, trong khi đó anh lại sắp cưới Nguyệt (Mỹ Duyên), cô gái mà anh yêu.
    Họ chỉ còn 1 ngày trước khi anh lên đường, trong thời kỳ khói lửa để tìm một phòng tân hôn là vô cùng khó. Dũng và Nguyệt đã vượt qua nhiều thử thách, bom đạn để tìm được Chiếc chìa khóa vàng cho căn phòng của họ. Tiếc thay, khi chiếc chìa khóa xuất hiện cũng là lúc Dũng phải lên đường….

     

    Bộ film như 1 bản khúc tình ca nhẹ nhàng trẩm bổng.Ad còn nhớ khoảnh khắc nhân vật Dũng & Nguyệt cầm tay nhau chạy giữa bom đạn ầm trời.Ngay lúc quân địch thả bom dữ dội vào lòng phố,đứng giữa sự sống & cái chết,Dũng đưa người yêu xuống hố nấp an toàn,còn thân anh chạy ra ngoài...Hay là những lúc đôi tình nhân bên nhau thắm thiết,đèo nhau qua những con phố để lựa chọn tấm thiệp cưới..Thực sự những cảnh phim đều rất lãng mạn & nghệ thuật
    Bộ film như 1 bản khúc tình ca nhẹ nhàng trẩm bổng. Ad còn nhớ khoảnh khắc nhân vật Dũng & Nguyệt cầm tay nhau chạy giữa bom đạn ầm trời. Ngay lúc quân địch thả bom dữ dội vào lòng phố, đứng giữa sự sống & cái chết, Dũng đưa người yêu xuống hố nấp an toàn còn thân anh chạy ra ngoài…Hay là những lúc đôi tình nhân bên nhau thắm thiết, đèo nhau qua những con phố để lựa chọn tấm thiệp cưới. Thực sự những cảnh phim đều rất lãng mạn & nghệ thuật.

     

    FILM : CHIẾN DỊCH TRÁI TIM BÊN PHẢI Biên kịch của Chiến dịch trái tim bên phải là nhà văn Hoàng Anh Tú – một cây bút gắn bó với các tạp chí dành cho thanh thiếu niên. Chính vì thế mà những câu chuyện trong phim rất thật, rất teen, khác hẳn với những tác phẩm làm về tuổi học trò đầy gượng ép. Không chỉ dành được sự yêu mến của những cô cậu học trò tuổi mới lớn mà các thầy cô giáo cũng đều rất mê bộ phim này.
    PHIM: CHIẾN DỊCH TRÁI TIM BÊN PHẢI
    Biên kịch của Chiến dịch trái tim bên phải là nhà văn Hoàng Anh Tú – một cây bút gắn bó với các tạp chí dành cho thanh thiếu niên. Chính vì thế mà những câu chuyện trong phim rất thật, rất teen, khác hẳn với những tác phẩm làm về tuổi học trò đầy gượng ép. Không chỉ dành được sự yêu mến của những cô cậu học trò tuổi mới lớn mà các thầy cô giáo cũng đều rất mê bộ phim này.
    Đây là 1 bộ phim rất đáng xem,mọi tình tiết đều nhẹ nhàng. Phim là một tổng thể những tình huống hài hước, quái quái của tuổi học trò, được chuyển vào phim sống động, chân thực khiến bộ phim như một miếng bánh kem ngọt ngào cho các bạn teen.
    Đây là 1 bộ phim rất đáng xem, mọi tình tiết đều nhẹ nhàng. Phim là một tổng thể những tình huống hài hước, quái quái của tuổi học trò, được chuyển vào phim sống động, chân thực khiến bộ phim như một miếng bánh kem ngọt ngào cho các bạn teen.

     

    FILM : PHÍA TRƯỚC LÀ BẦU TRỜI Phía trước là bầu trời" là bộ phim tâm lý xã hội của đạo diễn Đỗ Thanh Hải. Bộ phim đã nhận được nhiều sự đồng cảm ngày từ khi khởi chiếu. Những thước phim quay chậm về thời sinh viên nhiều khó khăn nhưng cũng lắm hoài bão của những cô cậu tỉnh lẻ lên Thủ đô học tập, sinh sống. Những hình ảnh của một xóm trọ nhỏ luôn đầy ắp tiếng cười với những trò tắm mưa, xin nước, xin đồ ăn… đến bây giờ vẫn còn khắc sâu trong mỗi người. Sự hồn nhiên, trong trắng của thời sinh viên rộn vang không âu lo được khắc họa một cách thành công qua từng vai diễn. Rồi những câu chuyện tình yêu thời sinh viên vui có, buồn có; những mâu thuẫn nảy sinh trong chính cuộc sống hằng ngày với nhiều mối quan hệ phức tạp trong xã hội cũng được nói tới. Những bộ hồ sơ xin việc cùng thời gian đợi chờ ở những nơi môi giới đã lấy đi của nhiều cô cậu sinh viên nét vô tư ngày đầu. Bộ phim còn khéo léo lồng ghép những "cảnh báo" cho thế hệ sinh viên: chuyện sống thử, bon chen… và đã rất thành công. Mỗi nhân vật trong phim lại khiến khán giả nhớ tới với những hình ảnh thực trong cuộc sống.
    PHIM : PHÍA TRƯỚC LÀ BẦU TRỜI
    Đây là bộ phim tâm lý xã hội của đạo diễn Đỗ Thanh Hải. Bộ phim đã nhận được nhiều sự đồng cảm ngày từ khi khởi chiếu. Những thước phim quay chậm về thời sinh viên nhiều khó khăn nhưng cũng lắm hoài bão của những cô cậu tỉnh lẻ lên Thủ đô học tập, sinh sống.
    Những hình ảnh của một xóm trọ nhỏ luôn đầy ắp tiếng cười với những trò tắm mưa, xin nước, xin đồ ăn… đến bây giờ vẫn còn khắc sâu trong mỗi người. Sự hồn nhiên, trong trắng của thời sinh viên rộn vang không âu lo được khắc họa một cách thành công qua từng vai diễn. Rồi những câu chuyện tình yêu thời sinh viên vui có, buồn có; những mâu thuẫn nảy sinh trong chính cuộc sống hằng ngày với nhiều mối quan hệ phức tạp trong xã hội cũng được nói tới. Những bộ hồ sơ xin việc cùng thời gian đợi chờ ở những nơi môi giới đã lấy đi của nhiều cô cậu sinh viên nét vô tư ngày đầu.
    Bộ phim còn khéo léo lồng ghép những “cảnh báo” cho thế hệ sinh viên: chuyện sống thử, bon chen… và đã rất thành công. Mỗi nhân vật trong phim lại khiến khán giả nhớ tới với những hình ảnh thực trong cuộc sống.

     

    FILM : HOA CỎ MAY Bộ phim "Hoa cỏ may" của đạo diễn Lưu Trọng Ninh được ra mắt công chúng vào năm 2001. Phim kể lại câu chuyện của một nhóm bạn trẻ lớn lên trong thời bao cấp. "Hoa cỏ may" gồm 2 phần: "Thời niên thiếu" gồm 4 tập và "Những ngày bình yên" gồm 8 tập. Phim không chỉ để lại cho người xem ấn tượng về nội dung đậm tính nhân văn mà còn đem đến cho khán giả nhiều cung bậc cảm xúc. Là sự hắt hủi của cô bé con lai của những người xung quanh; là nét hồn nhiên, dung dị của những cô cậu thân thiết với nhau từ thuở bé…
    PHIM : HOA CỎ MAY
    Bộ phim “Hoa cỏ may” của đạo diễn Lưu Trọng Ninh được ra mắt công chúng vào năm 2001. Phim kể lại câu chuyện của một nhóm bạn trẻ lớn lên trong thời bao cấp.
    “Hoa cỏ may” gồm 2 phần: “Thời niên thiếu” gồm 4 tập và “Những ngày bình yên” gồm 8 tập. Phim không chỉ để lại cho người xem ấn tượng về nội dung đậm tính nhân văn mà còn đem đến cho khán giả nhiều cung bậc cảm xúc. Là sự hắt hủi của cô bé con lai của những người xung quanh; là nét hồn nhiên, dung dị của những cô cậu thân thiết với nhau từ thuở bé…

     

    Ngoài những gương mặt diễn viên thân thuộc thời đó.Bộ phim còn có sự góp mặt của nữ hoàng giải trí Hồ Ngọc Hà “Gió heo may, tìm theo những bông cỏ may. Mùa thu đã qua cùng gió. Tìm trong ký ức ngọt ngào. Xót thương thu vàng, về nơi chốn cũ…”, những ca từ trong ca khúc này vẫn đủ sức đánh thức ký ức của nhiều người về những hình ảnh trong Hoa cỏ may. Hoa cỏ may đến giờ vẫn là phim truyền hình đáng nhớ của rất nhiều bạn trẻ — tại The Rétro Studio.
    Ngoài những gương mặt diễn viên thân thuộc thời đó. Bộ phim còn có sự góp mặt của nữ hoàng giải trí Hồ Ngọc Hà
    “Gió heo may, tìm theo những bông cỏ may. Mùa thu đã qua cùng gió. Tìm trong ký ức ngọt ngào. Xót thương thu vàng, về nơi chốn cũ…”, những ca từ trong ca khúc này vẫn đủ sức đánh thức ký ức của nhiều người về những hình ảnh trong 
    Hoa cỏ may đến giờ vẫn là phim truyền hình đáng nhớ của rất nhiều bạn trẻ.

     

    FILM : NHỮNG NGỌN NẾN TRONG ĐÊM Bộ phim kể về cuộc đời của Trúc (Mai Thu Huyền thủ vai) sống cùng mẹ và dượng. Trong một lần tình cờ, Trúc được thế chân người chị quen biết để trình diễn thời trang. Từ đó, niềm đam mê thiết kế thời trang trỗi dậy và cô quyết tâm theo đuổi đam mê của mình. Tuy nhiên, cuộc đời cô cũng gặp rất nhiều sóng gió. Người mà cô yêu thương, lấy làm chồng lại bị ma túy lôi kéo. Những trận đòn roi không lý do khiến Trúc trở nên cam chịu. Cuộc sống hậu trường của những chân dài cũng phần nào được tiết lộ qua bộ phim. "Những ngọn nến trong đêm" để lại được nhiều thiện cảm trong lòng khán giả, đến mức nhiều nhân vật chính trong phim được nhắc tới vẫn gắn liền với những cái tên, vai diễn năm nào. Đây là bộ phim tâm lý, tình cảm của đạo diễn Vũ Hồng Sơn, ra mắt khán giả năm 2002.
    PHIM : NHỮNG NGỌN NẾN TRONG ĐÊM
    Bộ phim kể về cuộc đời của Trúc (Mai Thu Huyền thủ vai) sống cùng mẹ và dượng. Trong một lần tình cờ, Trúc được thế chân người chị quen biết để trình diễn thời trang. Từ đó, niềm đam mê thiết kế thời trang trỗi dậy và cô quyết tâm theo đuổi đam mê của mình.
    Tuy nhiên, cuộc đời cô cũng gặp rất nhiều sóng gió. Người mà cô yêu thương, lấy làm chồng lại bị ma túy lôi kéo. Những trận đòn roi không lý do khiến Trúc trở nên cam chịu. Cuộc sống hậu trường của những chân dài cũng phần nào được tiết lộ qua bộ phim.
    “Những ngọn nến trong đêm” để lại được nhiều thiện cảm trong lòng khán giả, đến mức nhiều nhân vật chính trong phim được nhắc tới vẫn gắn liền với những cái tên, vai diễn năm nào. Đây là bộ phim tâm lý, tình cảm của đạo diễn Vũ Hồng Sơn, ra mắt khán giả năm 2002.
    Cho đến nay,tuy đã và đang chiếu "Những ngọn nến trong đêm" phần 2.Nhưng cá nhân ad vẫn yêu sự mộc mạc,chân chất của phần 1.Giờ thỉnh thoảng xem lại vẫn thấy thích
    Cho đến nay,tuy đã và đang chiếu “Những ngọn nến trong đêm” phần 2. Nhưng cá nhân ad vẫn yêu sự mộc mạc, chân chất của phần 1. Giờ thỉnh thoảng xem lại vẫn thấy thích!

     

    FILM : ĐỘI ĐẶC NHIỆM NHÀ C21 Không cần phải nói nhiều về bộ phim này đúng không ạ ^.^ Ngày xưa (và kể cả bây giờ),mình cứ vẫn thích xem. Tuổi thơ mỗi bạn trẻ 8x, 9x đời đầu hẳn không thể nào vắng bóng bộ phim truyền hình "Đội đặc nhiệm nhà C21" trong ký ức. Cái thời mà phim Hàn chưa đổ bộ, Internet chưa phổ biến, "Đội đặc nhiệm nhà C21" gần như trở thành bộ phim tiêu biểu dành cho khán giả nhí những năm cuối thập niên 90. Lên sóng vào năm 1998, "Đội đặc nhiệm nhà C21" dài 9 tập, kể về một nhóm thám tử nhí trong khu nhà C21 gồm: Sơn "sọ", Quang "sọt", Minh "tổ cú", Tùng quắt, Sáng béo. Cả 5 cậu nhóc học chung một lớp, lại có chung đam mê điều tra phá án, nên cùng nhau lập ra một nhóm mang tên "Đội đặc nhiệm nhà C21". Sau đó nhóm còn kết nạp thêm 2 cô bạn cùng trường là Tuyết "mèo con" và Hạnh "tăm tre".
    PHIM: ĐỘI ĐẶC NHIỆM NHÀ C21
    Tuổi thơ mỗi bạn trẻ 8x, 9x đời đầu hẳn không thể nào vắng bóng bộ phim truyền hình “Đội đặc nhiệm nhà C21” trong ký ức. Cái thời mà phim Hàn chưa đổ bộ, Internet chưa phổ biến, “Đội đặc nhiệm nhà C21” gần như trở thành bộ phim tiêu biểu dành cho khán giả nhí những năm cuối thập niên 90.
    Lên sóng vào năm 1998, “Đội đặc nhiệm nhà C21” dài 9 tập, kể về một nhóm thám tử nhí trong khu nhà C21 gồm: Sơn “sọ”, Quang “sọt”, Minh “tổ cú”, Tùng quắt, Sáng béo. Cả 5 cậu nhóc học chung một lớp, lại có chung đam mê điều tra phá án, nên cùng nhau lập ra một nhóm mang tên “Đội đặc nhiệm nhà C21”. Sau đó nhóm còn kết nạp thêm 2 cô bạn cùng trường là Tuyết “mèo con” và Hạnh “tăm tre”.
    Trong lần tái ngộ khán giả truyền hình sau 17 năm, Minh "tổ cú" - diễn viên Tuấn Long và Hạnh "tăm tre" - Hồng Anh đã chia sẻ với khán giả khá nhiều kỷ niệm với bộ phim. Sau khi "Đội đặc nhiệm nhà C21" lên sóng, những diễn viên nhí trong phim vụt nổi tiếng và nhận được rất nhiều sự ngưỡng mộ của bạn bè cùng trang lứa. Như Tuấn Long chia sẻ thì "đến cuối năm học, nhìn lại số thư mà các bạn gửi về trường, về nhà, không thể đếm được mà phải tính bằng... cân". Hiện tại, các diễn viên nhí ngày ấy đã "lớn khôn", có nhiều người còn lập gia đình và lên chức bố, mẹ. Diễn viên Hán Quang Tú trong vai Quang sọt đã trở thành diễn viên trẻ triển vọng, từng đạt nhiều thành tích cao và là giảng viên đại học Sân Khấu Điện Ảnh chuyên ngành diễn xuất.
    Trong lần tái ngộ khán giả truyền hình sau 17 năm, Minh “tổ cú” – diễn viên Tuấn Long và Hạnh “tăm tre” – Hồng Anh đã chia sẻ với khán giả khá nhiều kỷ niệm với bộ phim. Sau khi “Đội đặc nhiệm nhà C21” lên sóng, những diễn viên nhí trong phim vụt nổi tiếng và nhận được rất nhiều sự ngưỡng mộ của bạn bè cùng trang lứa. Như Tuấn Long chia sẻ thì “đến cuối năm học, nhìn lại số thư mà các bạn gửi về trường, về nhà, không thể đếm được mà phải tính bằng… cân”.
    Hiện tại, các diễn viên nhí ngày ấy đã “lớn khôn”, có nhiều người còn lập gia đình và lên chức bố, mẹ. Diễn viên Hán Quang Tú trong vai Quang sọt đã trở thành diễn viên trẻ triển vọng, từng đạt nhiều thành tích cao và là giảng viên đại học Sân Khấu Điện Ảnh chuyên ngành diễn xuất.

     

    FILM : TỨ QUÁI SÀI GÒN Tứ quái Sài Gòn là tên một bộ phim điện ảnh hài do hãng phim Lido sản xuất năm 1973. Phim quy tụ nhiều diễn viên nổi tiếng của miền Nam Việt Nam như quái kiệt Tùng Lâm, La Thoại Tân, Khả Năng, Thanh Việt, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Văn Giai, Túy Hoa. Đây là một phim hài tiêu biểu của miền Nam trước 1975, được phụ đề bằng tiếng Trung và tiếng Pháp, phát hành đi nhiều nước châu Á.
    PHIM: TỨ QUÁI SÀI GÒN
    Tứ quái Sài Gòn là tên một bộ phim điện ảnh hài do hãng phim Lido sản xuất năm 1973. Phim quy tụ nhiều diễn viên nổi tiếng của miền Nam Việt Nam như quái kiệt Tùng Lâm, La Thoại Tân, Khả Năng, Thanh Việt, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Văn Giai, Túy Hoa.
    Đây là một phim hài tiêu biểu của miền Nam trước 1975, được phụ đề bằng tiếng Trung và tiếng Pháp, phát hành đi nhiều nước châu Á.
    Tứ quái Sài Gòn có sự tham gia diễn xuất của minh tinh Thẩm Thuý Hằng đấy bạn
    Tứ quái Sài Gòn có sự tham gia diễn xuất của minh tinh Thẩm Thuý Hằng đấy bạn

     

    PHIM : MÙA HÈ CHIẾU THẲNG ĐỨNG Nội dung phim lấy bối cảnh Hà Nội, gia đình của bốn chị em nhà nọ sum họp cùng nhau để chuẩn bị giỗ mẹ tại quán nước của người chị cả, Sương (Nguyễn Như Quỳnh). Trong ngày giỗ, Khanh (Lê Khanh) kể lúc chồng mình, Kiên (Trần Mạnh Cường) tìm được manh mối về thân phận của ông Phan Châu Toàn, người được tin là mối tình lúc trẻ thơ mà mẹ họ tiết lộ trong lúc lâm chung. Người cha của họ lúc đó vì quá đau buồn mà cũng qua đời vào một tháng sau. Sau ngày giỗ, Khanh tiết lộ mình có thai cùng Kiên, nhưng đề nghị anh giữ kín thêm một vài tháng nữa. Trong lúc gặp bế tắc trong đoạn kết của quyển tiểu thuyết đầu tay, Kiên quyết định bỏ ra một tuần lễ đến Sài Gòn cho khuây khỏa. Trong chuyến đi, anh tìm đến phòng của một người phụ nữ tại khách sạn, dù họ không có gì với nhau. Biết được chuyện, Khanh nghi ngờ sự trung thực của chồng mình.
    PHIM : MÙA HÈ CHIẾU THẲNG ĐỨNG
    Nội dung phim lấy bối cảnh Hà Nội, gia đình của bốn chị em nhà nọ sum họp cùng nhau để chuẩn bị giỗ mẹ tại quán nước của người chị cả, Sương (Nguyễn Như Quỳnh). Trong ngày giỗ, Khanh (Lê Khanh) kể lúc chồng mình, Kiên (Trần Mạnh Cường) tìm được manh mối về thân phận của ông Phan Châu Toàn, người được tin là mối tình lúc trẻ thơ mà mẹ họ tiết lộ trong lúc lâm chung. Người cha của họ lúc đó vì quá đau buồn mà cũng qua đời vào một tháng sau.
    Sau ngày giỗ, Khanh tiết lộ mình có thai cùng Kiên, nhưng đề nghị anh giữ kín thêm một vài tháng nữa. Trong lúc gặp bế tắc trong đoạn kết của quyển tiểu thuyết đầu tay, Kiên quyết định bỏ ra một tuần lễ đến Sài Gòn cho khuây khỏa. Trong chuyến đi, anh tìm đến phòng của một người phụ nữ tại khách sạn, dù họ không có gì với nhau. Biết được chuyện, Khanh nghi ngờ sự trung thực của chồng mình.
    Mùa hè chiều thẳng đứng được các nhà phê bình điện ảnh khen ngợi. Trên trang tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim nhận được "Chứng nhận tươi" với 82% đánh giá tích cực được tổng hợp dựa trên 55 bài bình luận, với điểm số trung bình là 7,1 trên 10, cùng lời nhận xét "Mùa hè chiều thẳng đứng điềm tĩnh một cách tráng lệ, nên thơ, ru người xem vào câu chuyện đời thường". Theo đánh giá cá nhân thì mình thấy tuy đây là 1 phim thuộc dòng nghệ thuật,khá "art",nhưng không kiểu bị hàn lâm khó hiểu,mà lại rất hay và đáng xem.
    Mùa hè chiều thẳng đứng được các nhà phê bình điện ảnh khen ngợi. Trên trang tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim nhận được “Chứng nhận tươi” với 82% đánh giá tích cực được tổng hợp dựa trên 55 bài bình luận, với điểm số trung bình là 7,1 trên 10, cùng lời nhận xét “Mùa hè chiều thẳng đứng điềm tĩnh một cách tráng lệ, nên thơ, ru người xem vào câu chuyện đời thường”.

     

    PHIM : XÍCH LÔ Một hiện tượng kỳ lạ, một niềm tự hào của điện ảnh Việt, và cho đến tận bây giờ, chưa có bộ phim nào cũng như đạo diễn nào có thể làm được như Trần Anh Hùng, giành giải Sư Tử Vàng tại Liên Hoan Phim Venice, một giải thưởng quốc tế vô cùng danh giá. Nhờ bộ phim mà rất nhiều người nước ngoài biết đến Việt Nam và rất nhiều người quyết định đến Việt Nam sau khi xem phim. Lê Văn Lộc, nam chính của phim, được ưu ái gọi là “người đạp xích-lô ra thế giới”.
    PHIM : XÍCH LÔ
    Một hiện tượng kỳ lạ, một niềm tự hào của điện ảnh Việt, và cho đến tận bây giờ, chưa có bộ phim nào cũng như đạo diễn nào có thể làm được như Trần Anh Hùng, giành giải Sư Tử Vàng tại Liên Hoan Phim Venice, một giải thưởng quốc tế vô cùng danh giá. Nhờ bộ phim mà rất nhiều người nước ngoài biết đến Việt Nam và rất nhiều người quyết định đến Việt Nam sau khi xem phim. Lê Văn Lộc, nam chính của phim, được ưu ái gọi là “người đạp xích-lô ra thế giới”.
    Thế nhưng, ngay tại quê nhà, bộ phim đã không được cấp phép để chiếu tại các rạp, dù bộ phim nói về Việt Nam, diễn viên Việt Nam, quay tại Việt Nam. Đơn giản là trong phim phản ảnh một xã hội quá tàn khốc, những cảnh bạo lực cùng những đau thương quá lớn không phải hiện thực tại Việt Nam, phim được diễn đạt bằng một ngôn ngữ điện ảnh độc đáo nhưng lạnh lùng, tàn nhẫn, cho dù trong phim còn có sự góp mặt của ngôi sao điện ảnh Hoa ngữ là Lương Triều Vỹ cùng rất nhiều ngôi sao khác của điện ảnh Việt Nam như là NSND Như Quỳnh, Trịnh Thịnh… nhưng đó không thể là yếu tố chính để bộ phim được hoan nghênh tại nước nhà. => Cá nhân mình rất yêu thích bộ phim này ^.^ Nó gai góc nhưng phản ánh rất đúng chân thực cuộc sống.Quay cũng đẹp nữa,tóm lại rất đáng xem,hehe
    Thế nhưng, ngay tại quê nhà, bộ phim đã không được cấp phép để chiếu tại các rạp, dù bộ phim nói về Việt Nam, diễn viên Việt Nam, quay tại Việt Nam. Đơn giản là trong phim phản ảnh một xã hội quá tàn khốc, những cảnh bạo lực cùng những đau thương quá lớn không phải hiện thực tại Việt Nam, phim được diễn đạt bằng một ngôn ngữ điện ảnh độc đáo nhưng lạnh lùng, tàn nhẫn, cho dù trong phim còn có sự góp mặt của ngôi sao điện ảnh Hoa ngữ là Lương Triều Vỹ cùng rất nhiều ngôi sao khác của điện ảnh Việt Nam như là NSND Như Quỳnh, Trịnh Thịnh… nhưng đó không thể là yếu tố chính để bộ phim được hoan nghênh tại nước nhà.

     

    PHIM : ĐẤT PHƯƠNG NAM Đất Phương Nam – một bộ phim thiếu nhi đầy xúc động và ý nghĩa về cuộc sống, con người vùng sông nước Nam Bộ. Bộ phim kể về cuộc hành trình đi tìm cha của chú bé An (Hùng Thuận đóng), và trong chuyến đi về phương Nam, An đã phải chứng kiến biết bao sự oan nghiệt của cuộc đời. Tại nơi đây, những người nông dân bị đàn áp một cách dã man, họ bị chiếm đất, chiếm ruộng, chế độ thực dân phong kiến đã buộc những con người vốn hiền lành, chất phác buộc phải nổi dậy. Tuy long đong, lận đận và phải lưu lạc ở khắp chân trời góc bể để tìm cha nhưng An luôn được sống trong sự đùm bọc và lòng nhân ái của mọi người, và chính điều đó đã trở thành nguồn động lực giúp An có sức mạnh và niềm tin vững vàng để vượt qua mọi khó khăn. Được chuyển thể từ tác phẩm Đất Rừng Phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi, bộ phim đã khắc họa rõ nét cuộc sống của người dân Nam Bộ trong những năm tháng kháng chiến. Đất Phương Nam còn lên án tội ác chiến tranh và thực dân phong kiến ngày trước. Chính chiến tranh và sự hống hách của chế độ đã khiến biết bao người dân sống trong cảnh lầm than, biết bao đứa trẻ như An phải đi lưu lạc khắp nơi để tìm lại những người thân thích.
    PHIM : ĐẤT PHƯƠNG NAM
    Đất Phương Nam – một bộ phim thiếu nhi đầy xúc động và ý nghĩa về cuộc sống, con người vùng sông nước Nam Bộ. Bộ phim kể về cuộc hành trình đi tìm cha của chú bé An (Hùng Thuận đóng), và trong chuyến đi về phương Nam, An đã phải chứng kiến biết bao sự oan nghiệt của cuộc đời. Tại nơi đây, những người nông dân bị đàn áp một cách dã man, họ bị chiếm đất, chiếm ruộng, chế độ thực dân phong kiến đã buộc những con người vốn hiền lành, chất phác buộc phải nổi dậy.
    Tuy long đong, lận đận và phải lưu lạc ở khắp chân trời góc bể để tìm cha nhưng An luôn được sống trong sự đùm bọc và lòng nhân ái của mọi người, và chính điều đó đã trở thành nguồn động lực giúp An có sức mạnh và niềm tin vững vàng để vượt qua mọi khó khăn. Được chuyển thể từ tác phẩm Đất Rừng Phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi, bộ phim đã khắc họa rõ nét cuộc sống của người dân Nam Bộ trong những năm tháng kháng chiến. Đất Phương Nam còn lên án tội ác chiến tranh và thực dân phong kiến ngày trước. Chính chiến tranh và sự hống hách của chế độ đã khiến biết bao người dân sống trong cảnh lầm than, biết bao đứa trẻ như An phải đi lưu lạc khắp nơi để tìm lại những người thân thích.

     

    PHIM: XIN HÃY TIN EM Xin hãy tin em là một bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của Nguyễn Thị Thu Huệ. Đây là bộ phim đầu tay của đạo diễn Đỗ Thanh Hải với dàn diễn viên trẻ của thời điểm đó như Bùi Lệ Hằng, Lê Vũ Long, Hoa Thúy... bộ phim được phát sóng trong chương trình văn nghệ chủ nhật vào năm 1997. Bộ phim tập trung miêu tả Hoài "thát-chơ" một cô sinh viên năm cuối trường Tổng hợp với tính cách mạnh mẽ, phá phách, ngang tàng gặp chàng sinh viên Nhạc viện tên Phong đã làm cô thay đổi.
    PHIM: XIN HÃY TIN EM
    Xin hãy tin em là một bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của Nguyễn Thị Thu Huệ.
    Đây là bộ phim đầu tay của đạo diễn Đỗ Thanh Hải với dàn diễn viên trẻ của thời điểm đó như Bùi Lệ Hằng, Lê Vũ Long, Hoa Thúy… bộ phim được phát sóng trong chương trình văn nghệ chủ nhật vào năm 1997. Bộ phim tập trung miêu tả Hoài “thát-chơ” một cô sinh viên năm cuối trường Tổng hợp với tính cách mạnh mẽ, phá phách, ngang tàng gặp chàng sinh viên Nhạc viện tên Phong đã làm cô thay đổi.
    Xin Hãy Tin Em xoay quanh cô sinh viên Hoài "thát-chơ" người tỉnh lẻ nổi tiếng khắp khu ký túc xá trường Tổng Hợp Hà Nội vì thói ăn chơi, ngang ngạnh, phá phách thường xuyên trốn học, đi đòi nợ, uống rượu với đám con trai... nhưng ẩn sâu trong tính cách lại là một cô gái tốt vì thường dạy học cho Minh - thằng bé đánh giày từng được Hoài giúp trốn khỏi công an. Trong một lần tình cờ đi ra bưu điện để nhận tiền của bố mẹ gửi, Hoài đã gặp Phong - chàng sinh viên chơi Violin đang học tại Nhạc viện Hà Nội, hai người bị cuốn hút ngay từ cái nhìn đầu tiên và bắt đầu hẹn hò. Biết được mối quan hệ này của Hoài, đám bạn cùng phòng cũng gồm những cô sinh viên tỉnh lẻ đã nỗ lực khuyên nhủ, giúp đỡ mà đặc biệt là Thắm và Hường, Hoài trở thành cô sinh viên dịu dàng, nữ tính. Mối quan hệ của Hoài với Phong ngày càng sâu sắc, Phong đã mời Hoài về nhà dự sinh nhật của chị mình. Tại tiệc sinh nhật, Phương - bạn gái cũ của Phong cũng có mặt, dùng lời lẽ để tỏ ra khinh miệt Hoài, cố dùng rượu làm Hoài say. Cuối cùng, Hoài không chịu nổi Phương, tự mình uống say và vô tình lộ ra Hoài không phải là con người như Phong tưởng, cô nhảy nhót với đám con trai làm gia đình Phong hết sức ngạc nhiên và thất vọng. Với sức ép của gia đình, Phong đưa Hoài về nhà trọ và chấm dứt mọi quan hệ mặc cho Hoài van xin Phong hãy tin rằng Hoài đã thay đổi. Vì tuyệt vọng, Hoài bỏ về tận quê thằng bé đánh giày Minh ở mãi Thanh Hóa định bỏ học và thi. Đám bạn của Hoài vô cùng lo lắng, họ tìm mọi cách để tìm ra nơi Hoài đi đến. Cuối phim là cảnh đoàn tụ của những người bạn.
    Xin Hãy Tin Em xoay quanh cô sinh viên Hoài “thát-chơ” người tỉnh lẻ nổi tiếng khắp khu ký túc xá trường Tổng Hợp Hà Nội vì thói ăn chơi, ngang ngạnh, phá phách thường xuyên trốn học, đi đòi nợ, uống rượu với đám con trai… nhưng ẩn sâu trong tính cách lại là một cô gái tốt vì thường dạy học cho Minh – thằng bé đánh giày từng được Hoài giúp trốn khỏi công an. Trong một lần tình cờ đi ra bưu điện để nhận tiền của bố mẹ gửi, Hoài đã gặp Phong – chàng sinh viên chơi Violin đang học tại Nhạc viện Hà Nội, hai người bị cuốn hút ngay từ cái nhìn đầu tiên và bắt đầu hẹn hò. Biết được mối quan hệ này của Hoài, đám bạn cùng phòng cũng gồm những cô sinh viên tỉnh lẻ đã nỗ lực khuyên nhủ, giúp đỡ mà đặc biệt là Thắm và Hường, Hoài trở thành cô sinh viên dịu dàng, nữ tính. Mối quan hệ của Hoài với Phong ngày càng sâu sắc, Phong đã mời Hoài về nhà dự sinh nhật của chị mình. Tại tiệc sinh nhật, Phương – bạn gái cũ của Phong cũng có mặt, dùng lời lẽ để tỏ ra khinh miệt Hoài, cố dùng rượu làm Hoài say. Cuối cùng, Hoài không chịu nổi Phương, tự mình uống say và vô tình lộ ra Hoài không phải là con người như Phong tưởng, cô nhảy nhót với đám con trai làm gia đình Phong hết sức ngạc nhiên và thất vọng. Với sức ép của gia đình, Phong đưa Hoài về nhà trọ và chấm dứt mọi quan hệ mặc cho Hoài van xin Phong hãy tin rằng Hoài đã thay đổi. Vì tuyệt vọng, Hoài bỏ về tận quê thằng bé đánh giày Minh ở mãi Thanh Hóa định bỏ học và thi. Đám bạn của Hoài vô cùng lo lắng, họ tìm mọi cách để tìm ra nơi Hoài đi đến. Cuối phim là cảnh đoàn tụ của những người bạn.

     

    PHIM : SÓNG Ở ĐÁY SÔNG Sóng ở đáy sông là một bộ phim dựa trên một câu chuyện có thật về cuộc đời của một con người trong xã hội của đạo diễn Lê Đức Tiến, ra mắt lần đầu năm 2000. Bộ phim nói về một nhân vật tên Núi và cuộc đời của cậu. Núi vốn là con của một người vợ lẽ và bản thân mẹ cậu nguyên là một người ở trong một gia đình tư sản thời cũ. Từ nhỏ Núi và hai em (Sông và Biển) không được bố cậu chấp nhận là con, bốn mẹ con chỉ được ăn cơm thừa canh cặn, bố Núi luôn tìm cách để tống khứ bốn người ra khỏi nhà, khi chiến tranh nổ ra, lợi dụng việc di tản của thành phố, ông ta đã gửi ba anh em về bên ngoại. Cậu học ở quê ngoại và được đi thi học sinh giỏi. Ở quê ngoại, cậu có một mối tình đầu với một cô gái có họ rất xa và cô ấy có thai, sau khi gia đình phát hiện sự việc, người yêu Núi đã bỏ đi nơi khác. Sau khi mẹ mất, bố bỏ rơi, mấy anh em hết kế sinh nhai, Núi trở thành kẻ cắp và phải đi tù nhiều lần, phải sống trong kiếp giang hồ. Sau cùng, khi gặp lại mối tình thời xưa thì Núi đã được cảm hóa và trở lại chính mình.
    PHIM : SÓNG Ở ĐÁY SÔNG
    Sóng ở đáy sông là một bộ phim dựa trên một câu chuyện có thật về cuộc đời của một con người trong xã hội của đạo diễn Lê Đức Tiến, ra mắt lần đầu năm 2000.
    Bộ phim nói về một nhân vật tên Núi và cuộc đời của cậu. Núi vốn là con của một người vợ lẽ và bản thân mẹ cậu nguyên là một người ở trong một gia đình tư sản thời cũ. Từ nhỏ Núi và hai em (Sông và Biển) không được bố cậu chấp nhận là con, bốn mẹ con chỉ được ăn cơm thừa canh cặn, bố Núi luôn tìm cách để tống khứ bốn người ra khỏi nhà, khi chiến tranh nổ ra, lợi dụng việc di tản của thành phố, ông ta đã gửi ba anh em về bên ngoại. Cậu học ở quê ngoại và được đi thi học sinh giỏi. Ở quê ngoại, cậu có một mối tình đầu với một cô gái có họ rất xa và cô ấy có thai, sau khi gia đình phát hiện sự việc, người yêu Núi đã bỏ đi nơi khác. Sau khi mẹ mất, bố bỏ rơi, mấy anh em hết kế sinh nhai, Núi trở thành kẻ cắp và phải đi tù nhiều lần, phải sống trong kiếp giang hồ. Sau cùng, khi gặp lại mối tình thời xưa thì Núi đã được cảm hóa và trở lại chính mình.

     

    PHIM : ĐỒNG TIỀN XƯƠNG MÁU Bộ phim Đồng tiền xương máu xoay quanh cuộc sống của gia đình ông Khải với ba người con. Ông Khải vốn cổ hũ, hà khắc không tán thành những gì mới mà luôn theo nguyên tắc cũ. Trái lại, Toàn - con trai ông lại bỏ nhà máy của ông ra thành lập công ty với mong muốn giàu có. Những xung đột trong gia đình nảy sinh khi Toàn muốn phá căn nhà là kỷ niệm của ông để xây căn nhà mới... Bộ phim đề cập đến xã hội trong những năm chuyển đổi cơ chế thị trường.
    PHIM : ĐỒNG TIỀN XƯƠNG MÁU
    Bộ phim Đồng tiền xương máu xoay quanh cuộc sống của gia đình ông Khải với ba người con. Ông Khải vốn cổ hũ, hà khắc không tán thành những gì mới mà luôn theo nguyên tắc cũ. Trái lại, Toàn – con trai ông lại bỏ nhà máy của ông ra thành lập công ty với mong muốn giàu có. Những xung đột trong gia đình nảy sinh khi Toàn muốn phá căn nhà là kỷ niệm của ông để xây căn nhà mới…
    Bộ phim đề cập đến xã hội trong những năm chuyển đổi cơ chế thị trường.

     

    PHIM : 12A VÀ 4H 12A và 4H xoay quanh nhóm bạn Hạ-Hân-Hoa-Hằng (4H) của lớp 12A trường Chu Văn An với những niềm vui, nỗi buồn của tuổi mới lớn. Tuy có gia cảnh khác nhau nhưng bốn cô chơi rất thân và đều là học sinh giỏi của lớp 12A. Năm học mới bắt đầu, Hằng tiếp tục được bầu làm lớp trưởng lớp 12A, bạn thân của cô là Hạ cũng được cử giữ chức bí thư lớp. Lên lớp 12, lớp của nhóm 4H có giáo viên dạy Văn kiêm chủ nhiệm mới, đó là thầy Minh, một thầy giáo trẻ kiêm nhà thơ tài hoa. Ở lớp 12A, thầy Minh phải đối mặt với những rắc rối của lứa tuổi học trò mới lớn, lớp thầy chủ nhiệm có rất nhiều cá tính khác nhau, có những em hiền lành ngoan ngoãn như nhóm 4H, nhưng cũng có em mang trong mình tính cách nổi loạn như Ngôn. Năm cuối cùng của đời học sinh cũng chứng kiến những rung động đầu đời của nhóm 4H, Hạ nảy sinh tình cảm với một bạn trai cùng lớp có gia cảnh khó khăn và phải đi đạp xích lô sau giờ học để kiếm sống, Hằng còn gặp rắc rối hơn khi cô gái dường như đã có tình cảm với cả thầy Minh chủ nhiệm. Bộ phim sau khi phát sóng đã được khán giả, đặc biệt là khán giả trẻ đón nhận, cho đến nay đây vẫn được coi là một trong những bộ phim truyền hình hay của Việt Nam dành cho lứa tuổi này.
    PHIM : 12A VÀ 4H
    12A và 4H xoay quanh nhóm bạn Hạ-Hân-Hoa-Hằng (4H) của lớp 12A trường Chu Văn An với những niềm vui, nỗi buồn của tuổi mới lớn.
    Tuy có gia cảnh khác nhau nhưng bốn cô chơi rất thân và đều là học sinh giỏi của lớp 12A. Năm học mới bắt đầu, Hằng tiếp tục được bầu làm lớp trưởng lớp 12A, bạn thân của cô là Hạ cũng được cử giữ chức bí thư lớp. Lên lớp 12, lớp của nhóm 4H có giáo viên dạy Văn kiêm chủ nhiệm mới, đó là thầy Minh, một thầy giáo trẻ kiêm nhà thơ tài hoa. Ở lớp 12A, thầy Minh phải đối mặt với những rắc rối của lứa tuổi học trò mới lớn, lớp thầy chủ nhiệm có rất nhiều cá tính khác nhau, có những em hiền lành ngoan ngoãn như nhóm 4H, nhưng cũng có em mang trong mình tính cách nổi loạn như Ngôn. Năm cuối cùng của đời học sinh cũng chứng kiến những rung động đầu đời của nhóm 4H, Hạ nảy sinh tình cảm với một bạn trai cùng lớp có gia cảnh khó khăn và phải đi đạp xích lô sau giờ học để kiếm sống, Hằng còn gặp rắc rối hơn khi cô gái dường như đã có tình cảm với cả thầy Minh chủ nhiệm. Bộ phim sau khi phát sóng đã được khán giả, đặc biệt là khán giả trẻ đón nhận, cho đến nay đây vẫn được coi là một trong những bộ phim truyền hình hay của Việt Nam dành cho lứa tuổi này.

     

    PHIM : ĐƯỜNG ĐỜI Chuyện phim bắt đầu từ năm 1976. Sau chiến tranh, Hải - một thanh niên vừa hoàn thành nghĩa vụ trở về mái trường đại học. Nhưng cuộc sống của gia đình ở quê quá khó khăn, không muốn vợ phải bươn trải nên Hải đi đến quyết định bỏ học về quê để lo vực lại kinh tế gia đình. Được một người bạn chỉ cho cách thức buôn thuốc bắc ở biên giới, Hải rất phấn khởi, nhưng anh không ngờ đây là một bước ngoặt quyết định đối với cuộc đời mình. Trong một lần qua biên giới để cất thuốc, Hải bị sốt rét phải ở lại để chạy chữa. Tại đây, anh đã được ông Lý, một thầy lang giỏi chữa khỏi bệnh. Thấy Hải có tư chất thông minh, thái độ cầu thị nên ông Lý đành hết tâm huyết truyền nghề cho anh
    PHIM : ĐƯỜNG ĐỜI
    Chuyện phim bắt đầu từ năm 1976. Sau chiến tranh, Hải – một thanh niên vừa hoàn thành nghĩa vụ trở về mái trường đại học. Nhưng cuộc sống của gia đình ở quê quá khó khăn, không muốn vợ phải bươn trải nên Hải đi đến quyết định bỏ học về quê để lo vực lại kinh tế gia đình. Được một người bạn chỉ cho cách thức buôn thuốc bắc ở biên giới, Hải rất phấn khởi, nhưng anh không ngờ đây là một bước ngoặt quyết định đối với cuộc đời mình. Trong một lần qua biên giới để cất thuốc, Hải bị sốt rét phải ở lại để chạy chữa. Tại đây, anh đã được ông Lý, một thầy lang giỏi chữa khỏi bệnh. Thấy Hải có tư chất thông minh, thái độ cầu thị nên ông Lý đành hết tâm huyết truyền nghề cho anh.

     

  • Tản mạn về nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    Tản mạn về nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    Tản mạn về nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75, trước biến cố tháng 4/1975, nhạc nhẹ nói chung và nhạc rock nói riêng gần như chỉ có ở duy nhứt ở Miền Nam, Sau 30/04/1975, làn sóng nhạc nhẹ tràn ra miền Bắc và dấy nên một trào lưu nhạc nhẹ rộng khắp, thu hút đông đảo thanh niên vốn trước đó chỉ tiếp xúc với những ban nhạc theo kiểu thính phòng hoặc các ban “nhạc nhẹ” đánh theo tổng phổ, năm 1954, dù người Pháp rút khỏi Việt Nam, nhạc Pháp vẫn còn hằn sâu trong sinh hoạt âm nhạc xã hội, nhưng khi người Mỹ đổ quân đến miền Nam thì nhạc Pháp cũng lùi dần nhường bước cho làn sóng văn hóa Mỹ, uối thập niên 1950 – đầu thập niên 1960 có thể nói nhạc trẻ Sài Gòn đã hình thành, nhưng nó thật sự gây được ấn tượng mạnh mẽ với công chúng trẻ là từ năm 1963.

    Một số bức ảnh cắt ra từ báo chí thời bấy giờ:

    nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    1.Âm nhạc phương tây du nhập vào Saigon

    Cũng từ cái mốc năm 1963 cho đến trước ngày 30/4/1975, Sài Gòn nhộn nhịp với những đại nhạc hội. Đại nhạc hội thời ấy có hai loại: đại nhạc hội dành cho giới bình dân, biểu diễn tại rạp Quốc Thanh và rạp Hưng Đạo vào mỗi buổi sáng Chủ nhật với sự tham gia của các ca sĩ nổi tiếng thời đó như: Chế Linh, Duy Khánh… Hát nhạc kích động “bình dân” tiêu biểu có Hùng Cường – Mai Lệ Huyền, Khánh Băng – Phùng Trọng với những bản nhạc twist, agogo như Một trăm phần trăm, Gặp nhau trên phố… mà những ban nhạc rock “tinh tuyền” gọi là rock “dởm”. Ngoài ra, có một đại nhạc hội khác gọi là đại nhạc hội kích động nhạc, tiền thân của nó là những ban nhạc học sinh của trường Taberd (nay là trường Trần Đại Nghĩa – 20 Lý Tự Trọng, quận 1). Đại nhạc hội kích động thường được tổ chức tại trường Taberd, Thảo cầm viên hoặc sân vận động Hoa Lư. Đây là nơi trình diễn của những ban nhạc trẻ không hát những loại nhạc “bình dân” và trong đó có những ban nhạc rock thực thụ, giai đoạn đầu các ban nhạc trẻ nói chung chủ yếu là hát nhạc ngoại quốc bằng tiếng Anh hoặc Pháp, các ban nhạc rock thì cover lại những bản nhạc chủ yếu của Anh, Mỹ.

    Thời gian cuối thập niên 1960 và nhất là vào đầu thập niên 1970, nhạc trẻ Sài Gòn có một sự chuyển biến đáng chú ý: đó là trào lưu “Việt hóa” các ca khúc Âu – Mỹ. Mở đầu cho trào lưu này có thể nói đến nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng, anh đã chuyển soạn lời Việt cho các ca khúc được nhiều người yêu mến như: Búp bê không tình yêu (Poupée De Cire, Poupée De Son), Gõ cửa 3 tiếng (Knock Three Times), Chuyện Phim Buồn (Sad Movies), Lãng du (L’Avventura), Anh thì không (Toi Jamais) v.v… Sau đó nhiều ban nhạc, nhiều nhạc sĩ khác cũng đã soạn lời Việt cho nhiều ca khúc ngoại quốc khác, trong đó có cả nhà báo Trường Kỳ…,nhưng trong trào lưu “Việt hóa” có lẽ điều đáng chú ý nhất là các nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà, với ban nhạc Phượng Hoàng, đã đi một bước xa hơn là sáng tác những ca khúc nhạc trẻ Việt Nam đầu tiên với những bài hát đi vào lòng người như Hãy ngước mặt nhìn đời, Tôi muốn… đặt nền móng đầu tiên cho những ca khúc nhạc trẻ Sài Gòn, về các ban nhạc trẻ, một trong những ban nhạc gây ấn tượng nhất đó là Strawberry Four gồm Tuấn Ngọc (guitar), Đức Huy (guitar), Tiến Chỉnh (bass, trước đó là Billy Chane), Tùng Giang (trống). Đây được xem là ban nhạc “nhà giàu” với những chiếc đàn, amplie Fender làm “lé mắt” dân chơi nhạc, trên sân khấu họ toàn bận complet lịch lãm và nhất là tạo được “danh giá” khi Trawberry Four là ban nhạc Việt Nam đầu tiên và duy nhất được lên đài truyền hình Mỹ (phát tại Sài Gòn).

    2.Phong trào nhạc ‘HIPPY’ theo mô hình Woodstock 1969 và Đại hội nhạc trẻ Hoa Lư & Trường Lasan Taberd

    Nhạc rock đã xuất hiện trong bối cảnh của nhạc trẻ Sài Gòn như trên. Tuy nhiên, lịch sử nhạc rock Sài Gòn có liên hệ mật thiết đến sự có mặt của quân đội Mỹ, những club mọc lên như nấm của người Mỹ tại Sài Gòn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lực lượng nhạc rock, nhất là từ năm 1965 khi người Mỹ có mặt thật đông đảo tại “hòn ngọc Viễn Đông” và các tỉnh phụ cận. Đây cũng là giai đoạn chuyển hướng mạnh mẽ nhất của nhạc trẻ Sài Gòn, và là thời điểm xuất hiện khá nhiều ban nhạc chơi rock Mỹ, khác với trước đó dân chơi nhạc và nghe nhạc vẫn còn yêu chuộng những ca khúc trữ tình của các nhạc sĩ Việt Nam như Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước… và các ca khúc Pháp, tuy nhiên dấu mốc phát triển của rock có thể kể đến sự kiện đại nhạc hội kích động nhạc do”Trường Kỳ-Nam Lộc- Tùng Giang” tổ chức sau khi lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm … Đại hội kích động nhạc này được tổ chức tại Đại Thế giới (nay là Trung tâm Văn hóa Q.5) vào năm 1963, qui tụ hầu hết các ban nhạc trẻ đang hoạt động tại Sài Gòn thời ấy và đây cũng là một tiền đề để sau đó những đại hội kích động nhạc được tổ chức thường xuyên ,những ban nhạc “thuần” rock như “The Peanuts Company,The Black Caps, The Rockin’ Stars, The Interprise, Les Pénitents, The Crazy Dog, CBC…” ,trong đó The Rockin’ Stars và The Black Caps được xem như những ban nhạc rock đầu tiên của Sài Gòn, thì hai ban nhạc “The Peanuts Company và CBC được xem là 2 ban nhạc “đệ nhất kích động nhạc” thời ấy”.

    Thêm vài hình ảnh:

    nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    3.Nhạc Rock và những bản tình ca thuần việt

    Ca sĩ Elvis Phương thành viên của Rockin’ Stars cho biết: “Ban nhạc thành lập năm 1960 với thành viên: Nguyễn Trung Lang (bass guitar), Nguyễn Trung Phương (rythm guitar), Jules Tampicanou (lead guitar), Đặng Hữu Tòng (tenor saxophone), Lưu Văn Hùng (trống) và Elvis Phương (ca sĩ). Năm 1961 có thêm 2 thành viên mới là Jean jacques Cussy va Nicole. Cuối naăm 1961 có thêm ca sĩ Billy Shane. Ban nhạc The Black Caps ra đời vào cuối năm 1960 với: Thanh Tùng (guitar), Paul Doãn (ca sĩ)… Phong trào nhạc trẻ hình thành trong giới học sinh của trường trung học Jean Jacques Rousseau (nay là trường cấp 3 Lê Quý Đôn), vì vậy hai ban nhạc này đa số là học sinh của Jean Jacques Rousseau chỉ có Nicole là của Marie Curie và Billy Shane là của Taberd”.

    Các ban nhạc rock trước giải phóng chủ yếu là cover các bản nhạc rock Mỹ, cũng có một số ca khúc được những “rocker” Việt sáng tác, nhưng chủ yếu là viết lời bằng tiếng Anh để trình diễn trong những club của Mỹ”. Ban nhạc Phượng Hoàng của Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà ra đời khá trễ (1970). Tuy nhiên đây có thể nói là một ban nhạc “Việt hóa” triệt để: sáng tác ca khúc Việt cho rock, hát lời Việt và cái tên cũng “thuần Việt” giữa vô vàn các tên ban nhạc bằng tiếng Anh đang hiện hành. Ca khúc rock viết bằng tiếng Việt của Nguyễn Trung Cang, được nhiều người biết đến đó là bản Mặt trời đen, đây có thể xem là bản nhạc rock Việt đầu tiên khá tiêu biểu của giới rock Sài Gòn.

    Nguồn :FB/ Sài Gòn xưa