Category: Văn hóa Việt

  • Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

    Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

     

    1. Thị

    Nói tới thị xin mọi người trở về cái thời hồng hoang, ăn lông ở lổ của bộ lạc và thị tộc.
    Xã hội khi đó rất lạc hậu nên cần người, sanh đẻ rất khó nuôi, thành ra vai trò người đờn bà rất quan trọng.
    Thị tộc mẫu hệ là hình thức thị tộc đầu tiên và phổ biến của xã hội loài người. Người phụ nữ có vai trò lớn, là người đứng đầu gia đình và các thị tộc.
    Thị tộc phụ hệ là giai đoạn kế tiếp thị tộc mẫu hệ, ra đời từ thời kỳ đồ đá.

    Dân tộc Việt phải nhắc tới Hồng Bàng Thị (鴻龐氏) dịch ra là họ Hồng Bàng, nhưng ý nghĩa ban đầu là “người mẹ Hồng Bàng”.
    Bên Tàu có, như: “Phục Hi thị” 伏羲氏, “Thần Nông thị” 神農氏, “Cát Thiên thị” 葛天氏, “Hữu Hỗ thị” 有扈氏 cũng là kiểu này.
    Nữu Hỗ Lộc thị thời nhà Thanh là một trong bát kỳ, Sùng Khánh Hoàng thái hậu dòng tộc Nữu Hỗ Lộc thị là thân mẫu của Càn Long Hoàng đế. Hòa Thân, một nhân vật đầy quyền lực cũng thuộc Nữu Hỗ Lộc thị.

    Thị là một danh xưng mặc định cho người đờn bà. Cả Tàu lẫn Việt đều chỉ đại từ nhơn xưng ngôi thứ ba số ít chỉ phụ nữ là”y thị”.
    Thành ra có những cách gọi, xưng hô đờn bà như bà Trần Thị,Nguyễn Thị,Lý Thị, Vương Thị.

    Nên nhớ Việt tộc là một tộc khá cá biệt của thế giới văn minh, chúng ta theo chế độ mẫu hệ dài hơn người Tàu nữa, Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh là bằng chứng.
    Tôi đã từng nói Việt tộc ta trường tồn là có một phần “mẫu hệ”, nhờ mẫu hệ mà 1000 năm bị Tàu đô hộ ta không mất gốc.
    Cái chế độ mẫu hệ ở Việt Nam ta từ hồi Bà Trưng, Bà Triệu và tới nay đã là phụ hệ khi con mang họ cha. Tuy nhiên con mang họ cha là lý thuyết thôi, trong gia đình quyền lực của các bà vẫn bao trùm.

    Cái câu “Hỏi má mày” nghe trong xóm làng hơi bị nhiều.
    Ông bà xưa VN ta có câu : ”Mua heo chọn nái mua gái chọn dòng” là vì thế.
    Người Việt mình rất nhơn văn, không có tục bó chưn đau đớn như Tàu, chẳng có tục tùy táng người hầu, vợ lẽ sau khi chết…

    Việt cổ có tục xâm mình ,ăn trầu và nhuộm răng đen.
    Người Việt đặt tên con gái thì bưng nguyên chữ 氏 thị vô làm chữ lót một cách bất di bất dịch.
    Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan, bà là chánh thất vua Gia Long, là mẹ đẻ của hoàng tử Cảnh.
    Đoan Huy Hoàng thái hậu Hoàng Thị Cúc –tên thường gọi là Bà Từ Cung là thứ thất của vua Khải Định –mẹ của vua Bảo Đại… rồi bà Nguyễn Hữu Thị Lan, bà Bùi Thị Xuân, Ngô Đình Thị Hiệp…

    Người Việt đặt lót thị nhiều chứ người Tàu không thấy kiểu này.
    Nói vầy cho dễ hiểu nè, Việt đặt là Bành Thị Chơi,Tàu đặt tên là Bành Sướng Chơi và Tàu kêu thông dụng là bà Bành thị.
    Không phải con gái là cứ đặt thị, có người không lót chữ thị, tùy ý thích thôi.
    Thí dụ như : Bà Đạm Phương nữ sử tên thật là Công Tôn Nữ Đồng Canh là cháu nội vua Minh Mạng.
    Ca sĩ Quỳnh Giao tên thiệt là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang là cháu sơ vua Minh Mạng.
    Nhưng lại có bà Tôn Nữ Thị Ninh.
    Cái tên này hay nè? Công Tằng Tôn Nữ Tạ Thị Đánh Đu Tòn Ten Bong Lòng Đèn Lấp La Lấp Lánh Như Ánh Thuỳ Dương
    Ta nghe Thị Mẹt, Thị Màu, Thị Nở, Thị Hết, Thị Bẹt là một dạng gọi trỏng của người VN.
    Nhưng thị cũng là một cái họ riêng dù hiếm hoi. Vua Minh Mạng cho người Khmer họ Thị
    Kết luận: Lót chữ thị 氏 là dấu vết và nhắc nhớ tới mẫu hệ của Việt tộc ta.

    Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

    2. Văn

    Văn ra đời sau chữ thị vì phụ hệ đi sau mẫu hệ.

    Trong Nho giáo xưa thì học là giỏi, trau dồi học vấn,văn ôn võ luyện.
    Võ thì mạnh bạo, nhưng sát phạt, không dám khoe, văn thì phải khoe.

    Ông bà ta quan niệm học hành thi cử tiến thân.
    “Trai nam nhơn thi chữ
    Gái thục nữ thi tài”

    Chữ 文 Văn xuất xứ đầu tiên nghĩa là “chữ”.
    Chữ tượng hình là chữ bắt chước hình tượng các loài mà đặt ra kêu là “văn” 文, gộp cả hình với tiếng gọi là “tự” 字.
    Văn tự là chữ viết, thành ra ta có Anh Văn, Pháp Văn,Hoa Văn…

    Văn còn là“văn minh” 文明, “văn hóa” 文化.
    Người xưa tôn thờ sao Văn Xương, Văn Khúc vì tượng trưng cho thông minh, hiếu học, học giỏi, văn chương, mỹ thuật, âm nhạc, thành đạt.

    “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
    Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
    Anh về học lấy chữ nhu
    Chín trăng em đợi, mười thu em chờ”

    Người Việt thích lót chữ văn cho con trai là muốn con mình học giỏi, thi đậu, thành đạt.
    Các bạn nên hiểu là bên Tàu cũng có lót chữ văn, tuy nhiên không nhiều như Việt mình, thí dụ Triệu Văn Trác, Mã Văn Tài.

    Nhưng con gái mà tên Phạm Văn Phương thì cũng lạ.
    Văn cũng là một cái họ khá phổ biến của người Tàu và VN, thí dụ Văn Thiên Tường.
    Nhưng cũng như thị, người Việt không phải cứ con trai là lót chữ văn.
    Thí dụ như Hồ Quý Ly có con là Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương.
    Nhà Lê Sơ, con cháu Lê Lợi đặt tên là Lê Nguyên Long, Lê Bang Cơ, Lê Nghi Dân, Lê Tư Thành…
    Chúa Nguyễn thì lót chữ Phúc cho con, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Khoát…
    Vua Minh Mạng thì làm bài phiên hệ “Miên-Hường…” đặt cho con.
    Họ Ngô thì lấy chữ Đình lót cho con: Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm…

    Túm lại: Chữ lót văn là như vậy đó
    “Đêm qua chớp bể mưa nguồn
    Hỏi người tri kỷ có buồn hay chăng
    Cá buồn cá lội tung tăng
    Em buồn em biết đãi đằng cùng ai?”

    Nguyễn Gia Việt/Dansaigonxua

  • Tục để móng tay dài “siêu dị” của người Việt Nam xưa

    Tục để móng tay dài “siêu dị” của người Việt Nam xưa

    Quan niệm của người xưa về sự quyền quý, cao sang là người không phải “động chân, động tay”, tức là mọi việc năng nhọc đều sai khiến người khác. Lao động chân tay bị coi là công việc thấp hèn. Cộng với quan niệm của một số nho sĩ cho rằng, thân thể mình là do tạo hoá và cha mẹ ban cho, do vậy phải gìn giữ tất thảy cái gì có thể gìn giữ được.

    Tục để móng tay dài
    Do vậy mà nảy sinh một tục của giới mày râu là để móng tay dài, không cắt ngắn. Những móng tay để dài đến mức nó cuộn tròn khiến bàn tay khó có thể cầm nắm hoặc làm việc gì nặng nhọc là cách thể hiện quan niệm và địa vị của mình. Đương nhiên vì không thể tuyệt đối không sử dụng bàn tay, nên thông thường người ta chỉ để móng tay của bàn tay trái, còn bàn tay phải thì ít nhất cũng phải dùng để cầm cây bút hay một vài sinh hoạt cá nhân.
    một ông quan người An Nam (VN) với móng tay để dài
    Một ông quan người An Nam (VN) với móng tay để dài

     

    Tục để móng tay dài
    Một bàn tay của quan An Nam. Các ngón tay được để móng dài, để chứng tỏ đẳng cấp xã hội (không phải làm việc tay chân, chỉ lao động bằng trí óc!), trừ ngón trỏ dùng để… gãi!

     

    Tục để móng tay dài
    Hanoi – Long nails of a native’s hand Bàn tay của một nhà nho, với móng tay để dài, biểu hiện cho vị trí cao trong xã hội (tức là người không phải lao động bằng tay chân)

     

    ông lang móng tay dài
    ông lang móng tay dài

     

    Móng tay để dài của một nhà nho - Photo by Léon Busy
    Móng tay để dài của một nhà nho – Photo by Léon Busy

     

    Hà Nội - Ông lang (thầy thuốc) với móng tay để dài
    Hà Nội – Ông lang (thầy thuốc) với móng tay để dài

     

    Đông Dương thập niên 1920 - Một nho sĩ Annam với móng tay dài, niềm tự hào và thích thú của ông ta
    Đông Dương thập niên 1920 – Một nho sĩ Annam với móng tay dài, niềm tự hào và thích thú của ông ta

     

    SàiGòn - người phụ nữ nhà giàu với móng tay để dài
    SàiGòn – người phụ nữ nhà giàu với móng tay để dài

     

    Tục để móng tay dài
    Go Cong 1920-1929 – Un chef de canton qui a de longs ongles – Một ông cai tổng (chánh tổng) với bàn tay để móng dài Với móng tay dài loằng ngoằng như thế này, xỏ vào được tay áo dài chắc không phải là việc dễ dàng lắm! Nam Kỳ Tỉnh chia thành tổng (canton), đứng đầu là Chánh tổng (Chef de canton), còn gọi là Cai tổng. Tổng chia thành làng (village), đứng đầu là Hội đồng Hương chức (còn gọi là Ban Hội tề) do Hương cả phụ trách chung.

     

     

    Tục để móng tay dài
    SAIGON 1869 – Hand of a rich Annamese. See the long nails on his left hand. Photograph by Wilhelm Burger Móng tay để dài của một người Annam giàu có tại Saigon.

    [ Flickr/ manhhai]

  • Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”

    Tôi đã nhiều lần đến Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam chỉ để ngắm tuyệt tác ‘Em Thúy” của danh họa Trần Văn Cẩn. 75 năm đã trôi qua kể từ ngày bước chân vào thế giới hội họa, mọi vật đều thay đổi nhưng “em Thúy” vẫn ngồi đó, mãi hồn nhiên, tươi trẻ, như dòng suối tinh khiết trong đời sống quá nhiều trần tục. Một vẻ đẹp Hà thành thật bình yên.

    Bảo vật quốc gia

    “Em Thúy” là tên bức sơn dầu (60x45cm) của họa sĩ Trần Văn Cẩn (1910-1994) sáng tác năm 1943 vẽ cô cháu gái Nguyễn Minh Thúy lên 8 của ông.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    “Em Thúy” của họa sĩ Trần Văn Cẩn
    Từng tốt nghiệp thủ khoa Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1937, từng được đồng nghiệp ngưỡng mộ suy tôn trong “bộ tứ họa sĩ” lừng danh thời ấy là “nhất Trí, nhì Lân, tam Vân, tứ Cẩn”, dù có nhiều tác phẩm nổi tiếng, song “Em Thúy” vẫn được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của danh họa Trần Văn Cẩn. Không chỉ vậy, “Em Thúy” còn được coi là một trong những tác phẩm tranh chân dung thành công nhất của mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2014.Trong tranh, em Thúy với mái tóc ngắn, nét mặt thơ ngây, đáng yêu ngồi khép nép trên chiếc ghế mây, đôi vai gầy nhỏ bé, gương mặt hướng về phía trước bằng đôi mắt mở to tròn. Bức tranh gây xúc động bởi chính thông điệp giản dị về sự trong sáng, thánh thiện. Xem tranh ta như thấy được yên ả, thanh bình, như thấy được yêu thương… những tình cảm giúp con người muốn xa lánh, trút bỏ những điều ác để hướng về cái thiện.

    Năm 2003, nhạc sĩ người Anh Paul Zetter đã viết bản “Little Thúy Minuet” (Điệu minuet cho em Thúy) khi ông ngắm nhìn bức tranh. Bản nhạc là cảm xúc mãnh liệt mà như ông chia sẻ: Ánh mắt của “em Thúy” đã chạm vào và tạo nên những xáo động nội tâm để mỗi người như được gặp lại tuổi thơ của chính mình…

    Quá khứ chưa xa

    Năm nay đã bước vào tuổi 83 nhưng bà Nguyễn Minh Thúy – nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy” vẫn giữ được hồn cốt của bé gái năm xưa, một vẻ đẹp trong sáng, thanh lịch của một người Hà Nội, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Có khác chăng chỉ là dấu vết của thời gian đã hằn lên làn da và mái tóc trắng màu mây.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    “Em Thúy” ngày nay. Ảnh VIỆT VĂN
    Nói về bức tranh, ánh mắt bà Thúy ánh lên niềm vui. Cuộc đời bà thật hạnh phúc khi có được một cái “duyên” đặc biệt với hội họa. Nhờ “bác Cẩn”, bà đã bước vào một thế giới đẹp như mộng và tràn đầy cảm xúc. Chính người bác tài năng đã mở ra những cảm nhận đặc biệt trong tâm hồn bà về nghệ thuật.Ngày ấy, khi ngồi làm mẫu cho bác Cẩn vẽ tranh, bé Thúy mới lên 8 (1943), đang theo học trường nữ sinh tiểu học Ecole Brieux (nay là trường THCS Thanh Quan) ở 29 Hàng Cót. Việc hằng ngày đi học về phải ngồi làm mẫu cho bác Cẩn vẽ một đến hai tiếng đồng hồ đối với bé Thúy thật là khó khăn. Vì thế mà bác Cẩn cứ phải dỗ dành, đôi lúc lại mắng yêu: “Sao cứ chạy lăng xăng thế!”. Phải mất đến mấy tháng, bác Cẩn mới hoàn thành bức họa và đặt cho nó cái tên giản dị “Em Thúy”. Khi ấy, chẳng ai trong gia đình ý thức được giá trị nghệ thuật của bức tranh. Chỉ nhớ là tại cuộc triển lãm mỹ thuật ở Hội Khai Trí Tiến Đức năm đó, bác Cẩn được nhận giải Nhất với hai tác phẩm “Em Thúy” (sơn dầu) và “Gội đầu” (điêu khắc).

    Khi người Pháp quay lại Hà Nội, gia đình bé Thúy đi tản cư mà không mang theo bức tranh. Tới khi quay về thì tranh đã bị lấy trộm, phải bỏ tiền chuộc lại từ một người buôn tranh. Bức tranh được treo lại trang trọng trong ngôi nhà 23 Hàng Cót cho đến khi bác Cẩn tặng cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Đó cũng là bức duy nhất, độc bản.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    “Em Thúy” năm 24 tuổi – tranh Trần Văn Cẩn.
    Ngoài bức chân dung “Em Thúy”, họa sĩ Trần Văn Cẩn còn có một bức tranh khác vẽ cô thiếu nữ Minh Thúy năm 24 tuổi (1959). Khác với nét hồn nhiên trong trẻo của bức Thúy 8 tuổi, bức Thúy 24 tuổi phảng phất nỗi buồn thiếu nữ. Bà Thúy nói bức này ông Cẩn vẽ rất nhanh, chỉ một ngày là xong.Giai nhân phố cổ Hà thành

    Bà Minh Thúy chưa bao giờ cho rằng mình là một người đàn bà đẹp, vì thế bà cũng không ý thức quá về cái đẹp của mình, dù bất cứ ai, khi gặp bà cũng nhận ra gương mặt của một nhan sắc Hà thành thuần khiết, tự nhiên. Bước vào tuổi xưa nay hiếm nhưng bà vẫn giữ cốt cách thanh tao, lịch thiệp, nhẹ nhàng của người phụ nữ sinh trưởng trong những gia đình nền nếp của Hà Nội xưa.

    Là chị gái cả trong một gia đình công chức có 4 chị em ở 23 phố Hàng Cót, Hà Nội, cũng như những thiếu nữ Hà thành thời đó, cô bé Minh Thúy được nuôi dưỡng trong môi trường nền nếp. Nhắc về những nét đẹp xưa cũ, bà Thúy nói: “Người Hà Nội xưa chu đáo lắm, nền nã lắm. Trong gia đình thì bố mẹ dạy con cái rất nghiêm. Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn được mẹ chú ý sửa cách ngồi, cách cầm bát, cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn… Hà Nội xưa cũng yên bình lắm, không ồn ào náo nhiệt như bây giờ đâu”.

    Rời trường Ecole Brieux, Minh Thúy trở thành cô nữ sinh Trưng Vương hằng ngày mặc áo dài, đi guốc cao gót, cùng vú em đến trường. Nếp sống bình lặng và đều đặn đó, tạo nên tính cách bình yên của người con gái Hà Nội.

    Theo nền nếp gia đình, Minh Thúy học sư phạm và trở thành nhà giáo. Bà đã trải qua một cuộc đời dạy học khá êm đềm nhưng cũng không ít khó khăn vì đất nước những năm tháng đó đang có chiến tranh, ai ai cũng phải thắt lưng buộc bụng, chồng bà hay phải đi công tác xa, 3 con thì nhỏ dại. Cô giáo Thúy lúc dạy ở trường ngoại thành lúc chuyển về dạy ở nội thành. Hết dạy môn văn – sử – địa ở trường phổ thông, cô lại dạy nữ công gia chánh ở trường sư phạm, môn học vốn là sở trường của những người phụ nữ Hà thành khéo tay, tinh tế. Những năm đi sơ tán theo chồng trong những ngày cả đất nước chiến tranh, khốn khó, cô Thúy đã gánh trên vai gánh nặng của một người vợ hiền đảm đang, quên mình vì chồng vì con.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    Bà Minh Thúy vẫn giữ cốt cách thanh tao, lịch thiệp, nhẹ nhàng của người Tràng An xưa.
    Ảnh VIỆT VĂN
    Với bà Minh Thúy, thành quả lớn nhất mà bà nhận được cho đến giờ phút này có lẽ chính là cuộc sống yên bình, thảnh thơi bên con cháu lúc tuổi già. Ngẫm lại, sống cuộc đời lặng lẽ, ẩn danh cũng là một cách bà Minh Thúy chọn cho mình sự bình an và không phủ nhận mối lương duyên kỳ lạ với nghệ thuật đã đem đến cho cuộc đời bà những gam nóng của hạnh phúc. Nhiều nhà báo đã đi tìm cô gái nhỏ trong tranh của danh họa năm nào.Bà Thúy lưu giữ tất cả những bài báo nói về mình và mỗi khi được ôn lại kỷ niệm về “bác Cẩn” yêu quý là một lần bà trở về với những ngày tháng tuyệt vời nhất của tuổi thơ.

    Theo Nhipsonghanoi.vn
  • Việt Nam có những con MA gì?

    Việt Nam có những con MA gì?

    Ma là một khái niệm trừu tượng, là phần phi vật chất của một người đã chết (hay hiếm hơn là một động vật đã chết). Theo quan niệm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con người gồm 2 phần là thể xác và linh hồn. Khi thể xác chết, linh hồn thoát khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có con người sẽ gọi là “ma”, “hồn ma” hoặc “quỷ” (xem thêm bài viết này để hiểu rõ hơn về ma).

    Việt Nam có những con MA gì?

    Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, ma có nhiều loại với những tên gọi khác nhau tùy theo vùng miền, các loại ma phổ biến như:

    MA TRƠI

    Ma trơi hay ma chơi, là những đám lửa sáng lập lòe được nhìn thấy vào ban đêm ở những bãi tha ma. Đây là một hiện tượng tự nhiên duy nhất mà đến nay các nhà khoa học có thể giải thích được bằng tri thức khoa học, không hề thần bí như nhiều người mê tín (tưởng là ma) đã kể.

    Ma trơi là hiện tượng các hợp chất phosphor được hình thành từ hoạt động của vi khuẩn sống dưới lòng đất phần mộ (gồm hai chất đó là Phốtphin (PH3) và diphotphin) trong xương người và sinh vật dưới mồ bốc lên thoát ra ngoài, gặp không khí trong một số điều kiện nhất định sẽ bốc cháy thành lửa. Các đốm lửa nhỏ với độ sáng khá nhỏ (xanh nhạt), lập lòe, khi ẩn khi hiện. Ban đêm mới thấy được ánh sáng còn ban ngày thì các đốm lửa này có thể bị ánh sáng mặt trời che khuất.

    Hiện tượng ma trơi đuổi theo: khi gặp ma trơi, con người sẽ sợ, hoảng loạn và chạy. Khi đó sẽ sinh ra một luồng khí chuyển động làm ngọn lửa bay theo chiều gió theo hướng người chạy.

    MA GÀ

    Ma gà có tên gọi khác là ma chài hoặc ma ngũ hải, có nguồn gốc từ một số dân tộc miền núi Lạng Sơn như Tày, Nùng…Đây cũng là một trong những điều bí ẩn lớn nhất tại các bản làng vùng cao. Những người tin vào sự tồn tại của ma gà cho rằng, nó được sử dụng như một loại bùa ngải có tác dụng đem lại may mắn cho gia chủ hoặc trù ếm kẻ thù từ xa. Kẻ bị nguyền có thể gặp phải trăm vàn xui xẻo tai họa như bệnh tật, tai nạn, bị thù ghét…

    Cho đến bây giờ, chưa từng có ai biết hình dạng thật sự của con “ma gà”, tất cả chỉ dựa vào những câu truyện truyền miệng từ đời này qua đời khác, để rồi nó trở thành một hủ tục kinh dị ăn sâu vào tiềm thức những người dân vùng cao. Tất cả những người tin vào “ma gà” đều cho rằng không phải ai cũng “nuôi” được ma gà, chỉ có những người sinh ra trong gia tộc, dòng họ có truyền thống nuôi “ma” truyền lại mới có thể nuôi được. Ma gà được nuôi trong một cái hũ sành, để ở xó xỉnh tăm tối nhất, kín đáo nhất của ngôi nhà, cái hũ này sẽ được đậy kín trong mọi trường hợp. Mỗi tháng, vào một ngày nhất định, người nuôi “ma gà” phải tắm rửa sạch sẽ, khấn vái làm lễ cho “ma” ăn, thức ăn thường là một con gà sống. Nếu cứ đến ngày đó, “ma” không được ăn gì thì cũng phải “nhập” được vào một ai hoặc một con vật bất kỳ, nếu không gia chủ phải thế mạng. Ai đã bị con ma gà nhập vào, phải mời thầy cúng làm lễ trừ tà.

    MA XÓ

    Ma xó có nguồn gốc từ phong tục của các dân tộc thiểu số ở vùng thượng du Tây Bắc, tại xứ Mán, Mèo. Khi nhà có người chết thì các thầy mo sẽ bó xác chết cho cứng lại rồi bỏ vào một cái quan tài dựng đứng đặt ở góc tối của ngôi nhà (loại quan tài này được tạo thành từ một thân cây rỗng ruột). Các thầy mo sẽ cúng cơm cho ma ăn mỗi ngày và ngày nào cũng gọi tên của nó cho đến khi con ma xó trả lời lại thầy mo bằng một hình thức tương tác tâm linh đầy bí ẩn. Sau một khoảng thời gian tương đối dài, thầy mo sẽ dạy cho con ma xó cách thức giữ nhà, khi thành công thì có mở cửa nhà cũng không ai dám vào nhà mà phá phách, trộm cắp.

    Theo truyền thuyết, ma xó có uy lực rất lớn, nó có khả năng bẻ gãy cổ một người trưởng thành trong tích tắc. Khi ai đó tự ý bước vào nhà và chạm vào bất kỳ đồ vật nào của người bản xứ lúc vắng chủ, ma xó sẽ làm kẻ không mời đó trào máu ra thất khiếu mà chết đứng!

    MA LAI

    Ma lai (còn gọi là ma lai ba khoang) là một loại ma trong truyền thuyết, chuyên đi ăn phân, nội tạng của người hay súc vật. Tương truyền Ma lai 3 khoang cũng là những cô gái đẹp ở vùng Tây Bắc, khu vực giáp ranh xứ Lào, đây là những thiếu nữ cực kì diễm lệ với cổ cao ba ngấn đỏ hồng….nhưng khi gần gũi lúc nào cũng có cảm giác phảng phất mùi tanh tưởi đâu đó!

    Dân gian đồn rằng vào những đêm trăng khuyết, khi mọi người đều an giấc… chiếc đầu của cô gái này sẽ tách khỏi thân mình cùng với ba đốt sống ở cổ, mang theo cả bộ lục phủ ngũ tạng, đặc biệt là cà bộ ruột lòng thòng mà không một nhiểu máu!….Ma lai sẽ bay đi trong màn sương qua các bụi rậm để tìm phân hay hay đàm rải của con nguời thải ra mà ăn!…Nếu tìm không có thì nó sẽ tạm dùng cứt trâu còn lầy hay những xác cóc nhái chết sình trương… ma lai phải về nhập lại thân mình trước khi giờ Dần đến (trước 4 giờ sáng) vì khi có sáng mặt trời xuất hiện chiếu vào bộ ruột của nó thì con ma lai sẽ bị chết ngay lập tức!

    Cũng có người cho rằng khi lật úp cái xác của ma lại trong lúc nó đã tách khỏi xác thì con ma lai không thể nhập vào xác được mà phải năn nỉ kẻ đã úp xác nó lại…Nếu kẻ ấy muốn nó chết thì cứ để đến lúc mặt trời lên! Tự khắc từ cổ thân hình đang nằm sấp kia sẻ trào hết máu ra…lúc ấy là hết đời thiếu nữ Ma lai.!

    MA DA

    Có thể phân loài ma này thuộc quái vật nước do môi trường sinh sống là ẩn mình dưới nước. Do Việt Nam là một đất nước có hệ thống sông ngòi chằng chịt nên việc con người bị chết đuối xảy ra thường xuyên nên dân gian kể nhau nghe câu chuyện ma da để hù dọa, răn đe lũ con nít chăng?

    Loài ma da này thường được miêu tả như sau: Khi bạn bơi dưới nước nơi hoang vắng hay bơi qua một khúc sông chỉ có một mình thì ma da sẽ xuất hiện từ bên dưới, nó kéo cẳng chân bạn lôi sâu xuống dưới nước, kết quả là bạn chết ngộp. Có nơi miêu tả nó có hình dạng như một đứa trẻ con, có nơi nó như một tấm vải đen to lớn, có nơi thì ví nó có màu xanh, trơn nhớt như rong rêu bám dưới đáy sông. Nhưng dù gì đi nữa thì với tình trạng chết do đuối nước thường diễn ra thì câu chuyện về ma da sẽ vẫn được nhắc đến.

    BÓNG ĐÈ

    Bóng đè hay còn gọi là ma bóng đè không gây nguy hiểm đến con người. Theo mô tả của một số người từng bị bóng đè thì ma bóng đè có hình dáng như con người, đen như màn đêm. Khi bạn đang chìm vào trong giấc ngủ sâu thì bạn sẽ bị rơi vào trạng thái mơ màng, có thể bạn sẽ có cảm giác như thấy mình bị rơi từ trên cao xuống vực, hoặc thấy bị ai đó bóp cổ, bị chó đuổi, rắn tấn công…muốn chạy mà không nhúc nhích nổi. Có người cảm thấy như nghe có sức mạnh đè lên người mà không thể nào đẩy ra được, khó thở, có khi bị ảo giác nhìn thấy những hình ảnh khủng khiếp, hoặc nghe được âm thanh bí ẩn. Có người còn thấy hình như có ai đó đứng, ngồi bên cạnh hay cảm giác như bị đẩy ngã ra khỏi giường,… Đó là hiện tượng “bóng đè” mà mỗi người ít nhất 1 lần trong đời phải trải qua.

    Về mặt khoa học, có rất nhiều nguyên nhân khiến bóng đè xảy ra. Nguyên nhân chủ yếu là do căng thẳng tâm lý, lo lắng hay stress do sức áp từ công việc, do đảo lộn chu trình của giấc ngủ, những yếu tố tâm lý này kích thích lên vỏ não, gây ra hiện tượng bóng đè. Do tư thế nằm ngủ, người để tay lên ngực khi ngủ sẽ gây khó khăn cho việc thở và dễ bị bóng đè. Cà phê và rượu cũng là tác nhân gây nên bóng đè. Cũng có khi bóng đè là dấu hiệu của một số bệnh tim mạch, nhưng những trường hợp này chiếm rất ít.

    Ngoài những loại ma kể trên, còn có:

    Ma men là vong hồn của những người say khi chết đi thành ma vẫn thường hay lôi kéo người khác say sưa tới chết.

    Ma thần vòng là hồn ma của những người thắt cổ chết sau đó xui khiến người khác cũng thắt cổ tự tử chết như họ.

    Ma trành hay còn gọi là ma cọp dữ, thường tìm dẫn cọp bắt ăn người khác để nó được đầu thai…

    và nhiều loại ma khác như ma le, ma hời, ma lon…

    Bài viết dựa trên quan điểm của tác giả, có tham khảo nhiều nguồn thông tin khác nhau nên chỉ mang tính chất tham khảo.   https://hanhtrinhtamlinh.com

     

  • Rồng trong thế giới tâm hồn người Việt

    Rồng trong thế giới tâm hồn người Việt

    Hình ảnh Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt

    Con rồng là biểu tượng tâm linh của cả thế giới phương Đông và Phương Tây. Tuy nhiên, đối với người Việt thì Rồng là một con vật linh thiêng, là biểu tượng của mưa thuận, gió hòa và khởi thủy dòng giống…
    Xem thêm nguồn gốc và các loại rồng Việt: https://hinhanhvietnam.com/nguon-goc-va-cac-loai-rong-trong-van-hoa-viet/

    Con rồng trong khai sinh người Việt

    Theo truyền thuyết, người Việt vốn là con Rồng cháu Tiên. Lạc Long Quân là con trai Long Vương, thuộc nòi Rồng, kết hôn với Âu Cơ là thuộc dòng tiên trên núi. Sự kết duyên giữa núi rừng biển, rồng tiên ấy đã sinh ra cái bọc trăm trứng, nở trăm con. Sau đó, 50 con theo cha xuống biển, khai hoang lập ấp ở các vùng đồng bằng. 50 con theo mẹ lên núi, lập nghiệp.
    Sự phát sinh đó tạo nên các dòng giống: tộc người Việt và các dân tộc thiểu số ở ở ta hiện nay. Sự liên kết đó hình thành nên nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt là Văn Lang rồi phát triển đến ngày nay.
    Do đó, người Việt và các cộng đồng dân tộc Việt đều xem Rồng là biểu tượng tâm linh lớn lao, là sự sinh thành nên mình.

     

    Rồng của người Việt

    Còn xét về văn hóa, tập quán, dân tộc Việt sinh sống chủ yếu trên khu vực đồng bằng. Đây là vùng được hình thành từ sự bồi đắp của những con sông lớn với nền văn minh lúa nước phát triển mạnh. Do vậy, người Việt đã phác họa ra hình tượng con Rồng khác biệt với Rồng của các nước khác trên thế giới.
    Rồng của người Việt là tượng trưng cho mưa thuận gió hòa cung cấp nước cho nền nông nghiệp trồng lúa, chứ không phải là những con Rồng đáng sợ, phun lửa, hủy diệt … như ở các nước phương Tây.
    Theo hình dung của người Việt, Rồng là một con vật thân dài, có vẩy, chân có móng,… được gọi là là giao long, hay thuồng luồng.
    Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt
    Hình tượng Rồng thời Lý

    Sự phát triển hình tượng rồng qua các triều đại

    Trong thời kỳ phong kiến, Rồng là biểu tượng của vua, chúa, là biểu tượng của sức mạnh, của quyền lực tối cao, cho sự tốt đẹp may mắn và thịnh vượng.
    Lý Thái Tổ lúc dời đô ra thành Đại La, thấy Rồng vàng bay lên. Vua cho là điềm may mắn liền đặt tên Đại La là Thăng Long.
    Rồng thời Lý có thân dài, 4 chân, mảnh như rắn, có vây lưng, mình uốn khúc mềm mại, uyển chuyển, há miệng vờn viên ngọc quý, từ mũi thoát ra mào rồng có dạng ngọn lửa… Đây là tượng trưng mơ ước của cư dân trồng lúa nước với  khung cảnh mây, nước.
    Đến thời Trần, Rồng được bổ sung thêm cặp sừng và đôi tay. Thân rồng mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, nhưng động tác lượn khá thoải mái và dứt khoát, mạnh mẽ với tư thế vươn về phía trước.
    Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt
    Hình tượng Rồng thời Trần
    Rồng thời Lê có sự khác biệt với các triều đại khác. Rồng thời kỳ này được khắc họa với đầu to, bờm lớn ngược ra phía sau, chiếc mào lửa được thay thế bằng chiếc mũi to, thân uốn thành 2 khúc lớn, chân có 5 móng quắp lại trông dữ tợn. Con rồng tượng trưng cho uy quyền của vương triều.
    Rồng thời Nguyễn có dáng vẻ uy nghi, tượng trưng cho sức mạnh.
    Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt
    Hình tượng Rồng thời Nguyễn

    Rồng trong đời sống tâm linh

    Rồng được cho là biểu trưng của sự mạnh mẽ, hùng tráng, là uy lực bất bại trước kẻ thù. Với tính năng siêu việt, Rồng được người Việt tin là linh vật mang lại điềm lành, sự may mắn, thịnh vượng, sự thông thái. Đồng thời, Rồng còn là sứ giả để gửi gắm những ước vọng trong đời: cầu mưa, cầu phồn thực.
    Chính từ đó, từ xa xưa đã xuất hiện nhưng câu chuyện dân gian, cổ tích truyền miệng như: Rồng hút nước biển Đông để tưới vào đất liền; Cá chép vượt vũ môn hóa Rồng; Rồng trừng trị kẻ ác để bảo vệ chúng dân, mang đến cuộc sống phồn vinh….
    Trong đời sống người Việt, hình tượng Rồng là một hình tượng không thể thiếu từ việc đặt tên các địa danh ở khắp mọi miền đất nước: cầu Long Biên, đền Long Đỗ, cầu Hàm Rồng, Bến Nhà Rồng,… Các trò chơi dân gian như: múa lân, múa Rồng, múa rối nước … cũng có nhiều tình tiết gắn với con rồng với mong muốn mang lại vận may, hạnh phúc, ấm no.

    Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt

    Sản phẩm nhẫn rồng do công ty TNHH Dịch vụ Nghề kim hoàn Thiện Chí chế tác.
    Từ trước đến nay, việc xây dựng cung điện, lăng tẩm, đình chùa, miếu… đều được các nhà địa lý xem xét tới long mạch với những trang trí, chạm trỗ, điêu khắc hình Rồng với sự uy nghiêm, sức mạnh không ai có thể so sánh được.
    Trong đời sống ngày nay, người Việt còn có một chút mê tín hóa biểu tượng của Rồng. Chẳng hạn như việc chọn năm Rồng để sinh con, chọn ngày giờ phù hợp sinh con để được quẻ Thuần Rồng,…
    Đời sống công nghiệp hiện đại có phần làm mai một hình tượng Rồng. Chỉ có những người hiểu văn hóa mới chú ý gìn giữ sự tôn nghiêm của nó.
    Tuy nhiên, chính những giá trị tốt đẹp của Rồng trong tâm thức người Việt đã đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nó.
    Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt
    Bút con rồng | sản phẩm được chế tác từ bàn tay khéo léo của thợ đúc kim hoàn.
    Nguồn Công ty Thiện Chí
  • Quy trình làm tranh Đông Hồ

    Quy trình làm tranh Đông Hồ

    Auto Draft

    Gà thư hùng

    Những bức tranh Gà, Lợn, Hứng dừa, Đánh ghen… mộc mạc, dân dã mà cuốn hút, níu kéo, đã tạo thi hứng cho nhà thơ Hoàng Cầm viết câu thơ nổi tiếng : «Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong. Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp… ». Đã từ lâu, câu hỏi : « Các nghệ nhân Đông Hồ đã làm tờ tranh điệp như thế nào » luôn trăn trở với người yêu tranh. Dưới đây là những  chia sẻ cùng bạn đọc qui trình làm tranh Đông Hồ với các công đoạn: ra mẫu, cắt ván, chuẩn bị nguyên vật liệu và in tranh.

    1. Ra mẫu

    Đây là công việc của nghệ  nhân sáng tác. Từ xưa đến nay, bao giờ cũng vậy, trong làng chỉ có một vài nghệ nhân ra mẫu. Nghề làm tranh là nghề của cả làng, ông thợ cày, bà thợ cấy, các em thiếu nhi, các cụ già – đều biết làm tranh, nhưng là làm những việc như in, quét điệp, hay nhặt nhạnh, phơi phóng – chứ không thể sáng tác. Một điều cần nhấn mạnh là cùng được gọi là Nghệ nhân, nhưng nghệ  nhân sáng tác thì khác xa nghệ nhân cắt ván và lại càng xa hơn nghệ nhân chỉ biết in tranh (cũng có những nghệ nhân làm được tất cả các việc). Các nghệ nhân sáng tác thường là những nhà nho có học, am hiểu văn hoá, lịch sử, xã hội, có tài quan sát, có khiếu thẩm mỹ… Chính vì thế, tranh Đông Hồ có nội dung rất phong phú, không chỉ thể hiện cảnh sinh hoạt ở nông thôn  hiện tại  mà  còn có nhiều tranh về lịch sử, về tôn giáo và có nhiều tranh mang tính triết lý sâu sắc. Trên tranh  thường có chữ Hán, chữ Nôm, sau này có cả chữ quốc ngữ. Giống với các loại hình văn hoá dân gian khác, tranh Đông Hồ cũng do các nghệ nhân không được đào tạo qua trường lớp sáng tạo nên. Lúc đầu mỗi bức tranh  chỉ do một nghệ nhân vẽ mẫu, sau khi vẽ, nghệ nhân có thể treo tranh lên vách để mọi người cùng xem và góp ý, cho dù nghệ nhân có sửa tranh theo sự góp ý nào đó – thì cũng không thể coi bức tranh đó là sáng tác tập thể được. Thực tế thì tác giả đã nghiền ngẫm rất kỹ, nếu có thay đổi chút ít thì thường cũng từ ý kiến của một ông bạn nhà nho tâm đắc. Thế nhưng, thời xưa ở ta chưa có khái niệm bản quyền, những tranh mới  mà bán chạy, lập tức nhà khác “xin “ mẫu ngay. Khi cắt ván, nghệ nhân điêu khắc  có thể làm thay đổi chút ít – làm tranh khác với nguyên mẫu. Hoặc thời gian trôi qua, các thế hệ sau thêm chữ (hay bớt chữ), hay thay chữ nho bằng chữ quốc ngữ (hoặc ngược lại), vì những lẽ đó  ta thường bắt gặp cùng một tranh có nhiều dị bản.

    Có một điều đặc biệt là vào thời kì chưa xa lắm, trong số các nghệ nhân sáng tác nổi tiếng, còn được lưu danh đến ngày nay, không có ai là nông dân theo đúng với nghĩa của từ này. Họ ở nông thôn nhưng không biết cầy cấy, lúc nhỏ tuổi thì đi học, học qua tuổi thanh niên, không đi thi, hay thi không đỗ về nhà dạy học, vẽ tranh, sau này thì vẽ thêm hàng mã. Đó là các nghệ nhân: Nguyễn Thể Thức (1882 – 1943), Vương Chí Long (1887 – 1944 – còn gọi là cụ đồ Long),  Nguyễn Thể Lãm (1910 – 1978), Phùng Đình Năng (1912 – 1993), Vương Chí Lương (1916 – 1946).

    Xưa các cụ sáng tác tranh thường có đôi – như đôi câu đối. Có bốn kiểu đôi tranh: Kiểu thứ nhất: Hai tranh hoàn toàn đối xứng nhau (đối xứng trục), chẳng hạn hai con lợn châu đầu vào nhau. Kiểu thứ hai: Hai tranh cũng đối xứng trục nhưng trên mỗi tranh có chữ khác nhau. Chẳng hạn tranh “Tiến tài”  – có đôi của nó là “Tiến lộc”. (Hai vị thần đối xứng nhau nhưng chữ trên mỗi tranh khác nhau). Kiểu thứ ba: Sự đối xứng không còn thực hiện nghiêm ngặt nữa, đối ý là chính. Chẳng hạn, em bé ôm gà và em bé ôm vịt (phú quí, vinh hoa), hay em bé cầm quả đào và em bé cầm quả phật thủ. Kiểu thứ tư: Chỉ đối ý, loại này nhiều tranh nhất: Hứng dừa – đánh ghen, Đu đôi – bắt trạch, Trưng Vương khởi nghĩa – Triệu Ẩu xuất quân, Trai tứ khoái – gái bảy nghề v.v… Đôi khi hai tranh đối xứng được vẽ thành một – như “Phúc lộc song toàn” hay “Lý ngư  vọng nguyệt”.

    Lúc ra mẫu, đầu tiên các nghệ nhân vẽ phác  lên  giấy dày, sửa chữa đến khi ưng ý thì can lên một tờ giấy dó loại rất mỏng. Có một số tranh  tác giả lật mặt sau lên, tô lại,  được một đôi tranh đối xứng nhau. Nếu thi hứng dâng trào thì tác giả lại viết  thêm chữ hoặc câu đối lên tranh. Nghệ nhân vẽ mẫu thường cũng hay vẽ tranh chơi (vẽ trực tiếp, không phải in). Tranh mẫu để cắt ván khác hẳn tranh vẽ chơi ở chỗ: đường nét đơn giản, rõ ràng, không quá nhiều chi tiết gây rối và khó cắt ván, tranh in ra không đẹp.

    2. Cắt ván  (đúng nghĩa là « khắc ván » nhưng người Đông Hồ quen gọi là « cắt ván »)

    Số nghệ nhân cắt ván không nhiều lắm nhưng đông hơn số nghệ nhân sáng tác. Trước  hết họ làm một tấm gỗ thật phẳng. Gỗ thị, gỗ mực thường làm ván nét (nét đanh, bền lâu), gỗ vàng tâm làm ván màu (mảng to hơn, không cần phải “đanh” lắm, mà gỗ vàng tâm mềm hơn, dễ khắc). Sau đó quét hồ lên, dán úp tờ mẫu vào, quét lại  một lượt bằng “thét” (một loại chổi thông sẽ nói ở phần sau) không có hồ, toàn bộ mẫu tranh đã hiện lên mặt sau tờ tranh. Khắc xong, khi in ra tranh sẽ giống như tờ mẫu, (nếu dán ngửa tờ mẫu vào rồi khắc, tranh in ra sẽ ngược với mẫu, chữ không đọc được). Nghệ nhân cắt ván có bộ đồ nghề như của thợ mộc, nhưng nhỏ hơn, sắc bén hơn. Họ đục nét  trước rồi “dãy” mảng sau, cứ như vậy cho đến khi hoàn thành bản đầu tiên gọi là ván nét. Nét khắc trên ván này thường to đậm, sâu và đứng thành.

    Tiếp đến  là việc phân màu, công đoạn này nghệ nhân cắt ván  kết hợp với nghệ nhân ra mẫu cùng làm. Họ in ra một bản nét, dùng bút lông tô màu từng mảng – thường mỗi tờ tranh có từ ba đến bốn màu và đường viền (contour)  màu đen, sau đó lấy tờ giấy dó mỏng đặt lên trên, tô lại mỗi mảng màu đó một bản, rồi lại làm như với ván nét – được các ván màu. Để các ván này in ra khớp với nhau, người ta để lại ở mỗi ván hai chấm ở  bên trái, sát mép gỗ – gọi là “cữ”.

    Đến thời kỳ tranh bộ, mỗi bộ có bốn tờ dài, mỗi tờ có khi phải làm ba, bốn ván in như vậy mỗi bộ tranh có thể có 16 ván. Còn có một loại gọi là tranh chủ (vẽ các đồ thờ cúng – dùng để dán lên bàn thờ), gồm một tờ to, kích thước khoảng 80 x 120 cm và bốn tờ nhỏ 20 x 120 cm. Bộ ván in tranh này có thể tới 24 tấm ván in.

    Đầu thế kỷ XX có các nghệ nhân cắt ván giỏi còn lưu danh như: Nguyễn Đăng Tuỵ, Nguyễn Đăng Mưu, Nguyễn Thế Bân, Hà Văn Tư…

    3.Chuẩn b nguyên vật liệu

    • Giấy dó
      Auto Draft

    Đây là loại giấy được sản xuất bằng phương pháp thủ công từ cây dó. Nghiên cứu tại các cơ sở sản xuất giấy dó ở Việt Nam cho thấy, về cơ bản, giấy dó sản xuất thủ công, không có tác động hoá chất tạo a-xít trong giấy. Vỏ cây dó được nấu và ngâm trong nước vôi với thời gian ba tháng, bóc bỏ lần vỏ đen đi, giã bằng cối và chày rồi dùng chất nhầy từ cây mò (chi Clerodendrum) tạo hỗn hợp kết dính. Hỗn hợp này gọi là “huyền phù” mà người thợ sẽ pha với nước độ lỏng hay đặc tùy theo loại giấy. Khi seo giấy, người thợ dùng “liềm seo” (khuôn có mành trúc, nứa hay dây đồng ken dày) chao đi chao lại trong bể bột dó. Lớp bột dó trên liềm chính là tờ giấy dó sau khi kết thúc công đoạn ép, phơi, sấy, nén hay cán phẳng. Xơ dó kết lại với nhau, như cái mạng nhện nhiều lớp, tạo nên tờ giấy dó. Sự kết mạng như vậy đã làm cho tờ giấy xốp, nhẹ. Sau cùng là phơi hoặc sấy. Các công cụ sản xuất hầu như bằng tre, gỗ và dùng ánh sáng tự nhiên để làm khô giấy. Giấy dó được sản xuất theo quy trình này không có độ a-xít dẫn đến tuổi thọ cao. Một số tài liệu cho rằng giấy dó có độ tuổi thọ tới 500 năm.

    Giấy dó có nhiều loại từ rất mỏng đến rất dầy, gọi là bóc một, bóc đôi, bóc ba v.v… Đông Hồ không làm giấy này mà mua ở Đống Cao – huyện Yên Phong cùng tỉnh hoặc làng Hồ Khẩu- ven Hồ Tây Hà Nội. Giấy để in tranh thường người ta chọn loại bóc ba hoặc bóc tư – không dầy quá, cũng không mỏng quá. Thời xưa giấy dó thường có khổ khoảng 25 x 70 cm, các nghệ nhân Đông Hồ  chia tranh thành ba loại theo khổ giấy:

    – Tranh phá đôi: Tờ giấy dó pha đôi, kích thước khoảng 25 x 35 cm.

    – Tranh phá ba: Tờ giấy dó pha ba, kích thước khoảng 25 x 23 cm – còn gọi là tranh vuông.

    – Tranh phá tư: Tờ giấy dó pha tư, kích thước khoảng 25 x 17 cm – còn gọi là tranh lá mít.

    Việc rọc giấy được thực hiện bằng thanh nứa hoặc dao cùn làm các mép giấy xơ ra cho thêm phần dân dã.

    • Điệp

    Ở vùng biển Quảng Ninh  có một loài nhuyễn thể, màu trắng gọi là con điệp. Người Đông Hồ mua vỏ điệp – đã vôi hoá qua thời gian, đổ từng đống lớn ở sân, lấy bùn trát ra ngoài, ủ độ một hai năm thì lấy ra cho vào cối giã nhỏ, dần kỹ, loại bỏ những mảnh to, cứng rồi cho vào bể ngâm vài ngày, lọc một lần nữa rồi bỏ ra đạp bằng chân  hoặc cho vào cối lấy chày xoáy – chứ không giã, gọi là “lèn điệp”. Đến khi điệp quánh lại  thì nắm thành từng nắm to bằng vốc tay, phơi thật khô rồi cất đi dùng dần. Khi làm người ta tán nhỏ ra, trộn với hồ nếp và màu, quét lên giấy dó, được một màu nền lấp lánh vảy điệp.

    • Những màu thiên nhiênAuto Draft

    – Màu xanh: Vùng đồng bào dân tộc Tày, Nùng có cây Chàm vẫn để nhuộm vải, người Đông Hồ mua về, bỏ vào chum, vại ngâm từ vài tháng đến một năm, lọc bỏ cặn, được thứ bột  dẻo quánh màu xanh lá cây già. Đó chính là cây chàm mèo hoặc chàm lá to có tên khoa học là Strobilanthes Cusia. Đây là loài cây nhỏ lưu niên, hoa mọc so le hay mọc đối, tràng hoa màu lam đến tím. Không chỉ có công dụng nhuộm vải, cây chàm còn là một cây thuốc quý dùng trong nhiều bài thuốc Đông y. Khi cây chàm đã lên xanh tốt, lá được hái, bỏ vào thùng nước, ngâm cho đến khi mục rữa. Sau đó xương lá chàm được vớt ra, nước trong thùng được quấy lên đến khi sóng sánh màu xanh rồi chờ tinh bột lắng xuống thì gạn ra đem phơi khô và cắt thành miếng cho tiện dùng. Khi nhuộm chàm, thợ nhuộm lấy tinh bột chàm (đã phơi khô) hoà với nước. Tạp chất này tạo ra một loại vi khuẩn tựa như dấm thanh, để tinh bột chàm “cắn” vào vải làm nên màu bền lâu phai.

    – Màu đỏ đất:  được lấy từ  đất đỏ (dạng đá ong non) ở vùng trung du Gia Lương, Quế Võ. Loại này phải ngâm kỹ hơn, có khi tới vài năm, màu đỏ ngả nâu.

    – Màu đỏ vang: Gỗ vang được trẻ nhỏ, đun kỹ, gạn lấy nước đặc được màu đỏ tươi hơn đỏ đất. Tô mộc, còn có các tên gọi khác là vang, tô phượng, vang nhuộm, co vang, mạy vang (tên khoa học: Caesalpinia sappan), là một loài thực vật thân gỗ nhỏ, cao khoảng 5-10 mét, cho gỗ rất rắn, có màu đỏ nâu ở phần lõi và trắng ở phần ngoài, được tìm thấy ở khu vực Đông Nam Á. Gỗ này trong tiếng Anh gọi là Brezel wood. Gỗ tô mộc đã từng là một trong các mặt hàng chủ yếu trong buôn bán giữa người Nhật Bản và người khu vực Đông Nam Á (đặc biệt là Thái Lan) trong thế kỷ XVII trên các “chu ấn thuyền”. Nó cũng là nguồn có giá trị để sản xuất một loại thuốc nhuộm có màu đỏ, được dùng để nhuộm các sản phẩm từ sợi bông. Tại Việt Nam, gỗ tô mộc còn là một trong những thành phần dùng để nấu nước rửa hài cốt khi cải táng. Phần lõi gỗ rắn, gần như không bị nứt nẻ và được sử dụng để chạm khắc đồ mỹ nghệ.

    Thân cây vang cong queo như như con cò quăm, người làng vẫn truyền nhau câu ca về việc nấu gỗ vang:

    Cò quăm mà ở trên rừng

    Đem về nấu nướng tưng bừng suốt đêm

    Hết nước thì lại đổ thêm

    Một trăm gánh nước không mềm cò quăm.

    Màu vàng  được chế từ  hoa hoè. Đó là một loại hoa nhỏ li ti như hạt gạo, đông y vẫn dùng làm nước giải nhiệt. Hoa hoè được cho vào chảo rang  đến màu vàng nâu thì cho vào nồi nước đun thật kỹ ta có  màu vàng. Sau này người ta còn dùng thêm củ nghệ và  hoa giành giành làm màu vàng.

    – Màu đen: Mùa lá tre rụng, các cụ già, trẻ em quét vườn quanh năm, đổ ở sân đống lá tre to như đống rơm. Người ta đốt lá tre – và cũng có khi đốt rơm nếp – đủ độ thành than (nếu quá một tí sẽ thành tro không có màu), được đến đâu vẩy nước đến đấy, rồi cho vào chum nước ngâm đến tận tháng bảy năm sau mới dùng được.

    Từ các màu kể trên pha với điệp và pha lẫn nhau (theo tỉ lệ hoàn toàn do kinh nghiệm của nghệ nhân) được một bảng màu đa dạng mà mộc mạc, dân dã được gọi là Thuốc cái.

    Theo nghệ nhân Trần Nhật Tấn, một số màu khác được tạo ra như sau:

    – Màu đỏ vang pha thêm phèn chua tạo ra đỏ tía, nếu thêm hòe thì thành màu da cam, thêm điệp thì thành màu cánh sen nhạt (không thẫm như phẩm cánh sen) còn thêm chàm thì tạo ra màu nhiễu tím.

    – Màu xanh chàm thêm nhựa thông tạo ra màu cẩm thạch, thêm vàng hòe tạo ra màu hoa lý.

    – Màu da người được pha từ Hoàng đan (một vị thuốc bắc) và điệp.

    Lý thuyết thì như vậy, thực tế thì không phải ai cũng áp dụng được, màu đẹp hay không còn do “bàn tay vàng” của người nghệ nhân.

    Tất cả các màu khi dùng làm tranh đều phải pha với hồ nếp – thứ hồ xay từ gạo nếp, ngâm vài ngày, mỗi ngày thay nước một lần, không để hồ lên men. Pha màu với hồ phải do người có kinh nghiệm làm, không có công thức nào cố định, tuỳ theo thời tiết mà gia giảm, vừa độ thì in sẽ bắt ván, đặc quá hay loãng quá đều bị bong điệp.

    Thời kỳ làm tranh tô màu, Đông Hồ dùng phẩm với bảng màu như sau:

    – Màu đỏ có: son, điều, cánh quế (sắc độ thẫm dần) và cánh sen.

    – Màu vàng có: Vàng đất, vàng chanh.

    – Màu xanh có: xanh lục, xanh lam, hồ thuỷ (da trời).

    – Màu hoa hiên.

    – Màu tím.

    – Màu đen được chế từ muội cao su (người làng thường gọi là “loa”, gốc tiếng Pháp noir  nghĩa là đen).

    Ngoài ra các nghệ nhân còn pha xanh lục với vàng được màu hoa lý. Khi vẽ tranh thờ thì dùng thêm kim nhũ và ngân nhũ.

    • Các dụng cụ in tranh

    – Thét: Đó là một loại chổi làm bằng lá thông phơi héo vừa phải, một đầu buộc túm lại, ở giữa được nẹp bằng hai thanh tre cho đầu kia tòe ra. Thét dùng để quét điệp làm nền, phết màu khi in, nó thay cho bút bẹt và cũng có đủ các cỡ  từ  5cm đến 25cm. Thét đựơc  làm ở làng Đạo Tú (cùng xã Song Hồ) là chính. Khi mua về người ta phải luộc thét bằng nước pha muối, rồi lấy dùi đục đập phần đầu cho mềm ra – nhưng cũng không quá lướt sao cho  khi quét nền còn để lại vết  trên điệp và những vẩy điệp lấp lánh – đó là nét đặc sắc của tranh Đông Hồ.

    – Bìa: Đây là một cái hộp bằng gỗ, không có nắp, kích thước khoảng 40 x 60 x 15 cm, bên trong nhồi rơm, phía trên căng tấm vải bố. Khi in tranh người ta dùng thét  phết màu lên bìa, rập ván in vào rồi in ra giấy.

    Ngoài ra còn các dụng cụ khác như chậu sành đựng phẩm, xơ mướp để xoa vào lưng tranh khi in, sào tre, nứa để phơi tranh…

    4. In tranh

    • Tranh ĐiệpAuto Draft

    Sau khi có đầy đủ nguyên vật liệu, ông chủ – thường là người có nhiều kinh nghiệm nhất trong nghề – bắt đầu pha màu.  Nếu trong nhà có nhiều người làm được thì có thể pha vài màu cho vài người in cùng một lúc. Người in để một đống giấy đã quét nền, xếp ngay ngắn trước mặt là bìa, chậu màu, thét, còn ván in thì xếp bên phải tay. Trước tiên dùng thét quét màu lên bìa, sau đó rập ván in lên bìa vài lần (ván in đã được đóng “tay cầm” chắc chắn), đặt ván in lên giấy theo cữ, tay trái luồn xuống dưới  tờ giấy lật cả giấy lẫn ván lên  rồi dùng xơ mướp xoa lên phía sau tờ giấy để màu bắt đều nét, cuối cùng bóc tờ tranh ra bỏ sang bên trái, các tờ in sau để so le với tờ trước. Cứ như vậy cho đến đủ các màu, màu đen – tức là ván nét được in cuối cùng và do người khéo tay nhất thực hiện.  Yêu cầu màu vừa đủ, đặt ván chính xác, xoa đều tay. Nếu màu khanquá  hoặc xoa ẩu sẽ mất nét, nếu  màu nhiều quá (các cụ nói là bị sặc màu) hoặc đặt không đúng cữ, thì tranh  sẽ bị nhòe nhoẹt – cả hai trường hợp tranh đều xấu. Cùng một mẫu tranh do một nghệ nhân sáng tác, khi cắt ván – nhiều nhà cùng cắt – đã có thể tạo ra những tranh khác nhau. Khi in, mỗi nhà lại phân màu khác nhau, cộng với tay  nghề khác nhau nên có thể tạo ra những bức tranh khác nhau. Cùng tranh một con gà có khi rất đẹp mà cũng có khi lem nhem xấu xí. Kỹ thuật in như trên rất giống kỹ thuật in tranh khắc gỗ màu Nhật Bản. ở Nhật Bản gọi các bản in màu là bản vỗ, phương pháp in được gọi là so dấu – cũng đánh dấu như “cữ” của tranh Đông Hồ. Các bản vỗ được lăn mực chứ không dập lên bìa như Đông Hồ. Sau khi lật ngửa ván in lên người Nhật dùng xơ gai dầu để chà xát lên lưng tranh.

    • Tranh tô màu

    Loại này chỉ phải in một lần màu đen. Với những tranh khổ lớn, ván in to, dài (như tranh Tứ phủ chẳng hạn), thì không dập ván lên bìa như trên (màu không thể bắt đều vào ván – tranh sẽ mất nét) mà phải dùng thét quét mực lên ván in, rồi cũng làm như  với tranh nhỏ. Khi tranh khô và đã nén phẳng sẽ được chia cho cả nhà tô màu, trẻ con hoặc các cụ bà thì tô màu vàng – (có lấn sang mảng khác còn sửa được), những người khác tô các màu còn lại. Các kỹ thuật: vờn, điểm mắt (tô màu xong, vẽ lại mắt cho đẹp) rất tỉ mỉ. Vẽ kim nhũ, ngân nhũ (với tranh thờ), phải do người có tay nghề giỏi nhất thực hiện. Tranh bộ và tranh thờ được dán thêm hai que bằng tre, hoặc nứa vào đầu trên, đầu dưới gọi là trục – để tờ tranh cứng cáp hơn.  Tranh tô màu tận dụng nguồn lao động của cả gia đình. Màu sắc in tranh được quy định nghiêm ngặt, trẻ em khi làm thường sơ ý nên vị trí in màu bị thay đổi, nhà nào không có người chủ giỏi lại không theo dõi sát sao  thì tranh không thể đẹp được.

    Bốn bước in tranh Gà dạ xướng:

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

     

  • Tục nhuộm răng đen của người Việt xưa

    BY VietSun magazine
    Phong tục nhuộm răng đen của người Việt xưa
    Phong tục nhuộm răng đen của người Việt xưa

    Bài viết chia sẻ về phương pháp nhuộm răng đen trên Facebook:

    Có lẽ đối với các thế hệ ngày nay, hình ảnh những người bà, người mẹ và cả những cô thiếu nữ với hàm răng óng ả hạt huyền chỉ còn là một hình ảnh đẹp trong quá khứ xa xôi. Những người của thế hệ nhuộm răng đen đến nay đã ra đi gần hết! Nét duyên dáng răng đen như ngọn đèn trước gió, và đi vào kỷ niệm! Nhưng những nụ cười đen nhánh nay đã mơ hồ kia, cứ đen mãi trong lòng sâu thẳm của những ai biết nó… mãi đen huyền, đen rực một cách thân thương!…
    Để nhớ, để lưu giữ lại một phong tục, một nét đẹp văn hoá, mời các bạn cùng tìm hiểu nghệ thuật nhuộm răng đen của người Việt xưa.
    Nguồn gốc của Tục nhuộm răng
    Nhuộm răng là tục cổ của dân tộc Việt, có từ thời Hùng Vương cùng với tục ăn trầu đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của bộ tộc người Việt để phân biệt với các sắc dân khác..Đại Việt Sử Ký toàn thư trang 133 chỉ ghi lại lời vua Hùng về tục xăm mình chứ tục nhuộm răng thì không thấy “… rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái vào mình. Từ đấy không thấy thuồng luồng đến cắn hại nữa”. Sứ thần của nước Văn Lang trả lời vua nhà Chu về tục ăn trầu “Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen…”. Không chỉ người Việt mới có tục nhuộm răng mà các dân tộc khác như Mường, Thái, Si La… cũng có tục này nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thời gian, cách nhuộm và chất liệu sử dụng.
    Phong tục nhuộm răng đen
    Tục nhuộm răng đen trước hết là do quan điểm thẩm mỹ. Chính tục lệ ăn trầu là lý do trực tiếp của tục nhuộm răng, bởi nhai trầu thường làm ố đen răng, nên phải nhuộm đen, nhuộm thật đen để loại bỏ tác dụng trên, đồng thời tạo được vẻ thẩm mỹ duyên dáng cho hàm răng… “Da trắng, răng đen” tạo sự tương phản cao và đầy nghệ thuật đã thu hút bao hồn vía các chàng trai thời ấy! Các cô gái, cho dù không ăn trầu, vẫn cứ nhuộm răng đen. Thậm chí, việc nhuộm răng đen còn lan sang cả cánh đàn ông nhưng số lượng ít hơn. Việc nhuộm răng đen đã trở thành luật, phổ biến trong dân chúng, trừ những đức trẻ còn răng sữa, ngoài ra đều phải nhuộm đen, không ai có thể cưỡng lại qui luật trên. Và nếu đã sở hữu một hàm răng đen, buộc cứ khoảng gần một năm phải nhuộm lại, vì màu đen đã phai. Đặc biệt vào các dịp lễ tết hay những ngày vui trọng đại như lễ hỏi, lễ cưới, họ phải nhuộm răng lại cho đen mới để tham dự.
    Tục nhuộm răng đen có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc. Kinh đô Huế được coi là nơi cực thịnh của nghệ thuật nhuộm răng, vì ở đó các ông hoàng bà chúa, các cung tần mỹ nữ, tầng lớp quan lại, nho sĩ, các cô chiêu, cậu ấm rất ưa chuộng việc nhuộm răng. Thuốc nhuộm răng của người Việt xưa phải có một công thức pha chế riêng: Bột nhựa cánh kiến, Nước cốt chanh hay hạnh, Phèn đen, Nhựa của gáo dừa.
    Việc nhuộm răng phải tuân theo từng giai đoạn làm sao cho răng đạt màu đen bóng. Để khởi đầu cho việc nhuộm răng thì miệng và răng phải được làm vệ sinh, phải chuẩn bị hàm răng cho thật sạch. Không được có bợn, bả răng trong các kẽ và chân răng, phải lấy hết cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được. Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối sống hầm chín thành bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoặc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh. Tác dụng của nước cốt làm cho lớp men ngoài răng “mềm” đi, tính acid của chanh sẽ bào mòn tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng. Thời gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, hai hàm răng lung lay gần như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó từ 7 đến 10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Ở thôn quê, người ta trét lên lá dừa, cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng.
    Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới. Đến sáng người ta sẽ gỡ ra thật nhẹ nhàng tránh bị bong tróc lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau khi lấy thuốc ra phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua để thải hết chất thuốc c.n sót lại. Người nhuộm răng gần như phải ngậm miệng suốt đêm, tránh tối đa miếng thuốc nhuộm rơi bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khoảng thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt thức ăn chứ không được nhai. Thông thường các người nhuộm răng được cho ăn bún trộn với mỡ heo và nước mắm để dễ nuốt trửng. Khi thấy răng có màu đỏ già, màu của cánh kiến th. việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộm đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày. Sau đó phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa, chất nhựa này được làm như sau: Lấy sọ hay gáo dừa già, đem phơi khô nhiều nắng, sau đó đem đốt nó trên than hồng rồi để cái sọ dừa đang cháy này lên trên một cái rựa sắt cùn, từ trong sọ dừa đang cháy un khói đó sẽ chảy ra một thứ nhựa đen sền sệt lấy chất đó bôi lên răng, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng. Người ta gọi giai đoạn này là “giết răng”. Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hột mãng cầu..Xưa ở nông thôn có thầy nhuộm răng, ông ta đi từ làng này sang làng khác để hành nghề như người làm nghề thiến heo, thiến gà chó… Ở Huế lại có các “bà thầy” nhuộm răng thường hành nghề cố định trong các chợ, như chợ Đông Ba có đến 5, 6 người hành nghề này. Họ có một cái sạp ngay giữa lồng chợ, còn như các chợ nhỏ như chợ Bến Ngự, chợ Bao Vinh, chợ An Cựu chỉ có một hai bà thầy nhuộm răng mà thôi.
    Cách đây 70 năm có một bà thầy nhuộm răng nổi tiếng nhất ở kinh đô Huế không ai là không biết, đó là bà thầy Thại ở làng Sư Lỗ cách cầu Ngói Thanh Toàn một con sông. Bà thầy vừa hành nghề nhuộm răng vừa sản xuất thuốc nhuộm, thuốc xỉa, cao dán mắt, cao no hơi đầy bụng cho trẻ sơ sinh… Muốn nhuộm răng các cô chiêu, cậu ấm phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng trời mới tới phiên mình được nhuộm. Mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà bà thầy trong suốt thời gian nhuộm khoảng từ 12 ngày đến nửa tháng. Chiều chiều bà thầy thường cho các cô chiêu cậu ấm leo lên một đồi nhỏ trong làng quay mặt ra hướng đông, bảo họ há miệng to để gió biển thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô (!) và bà cũng kể cho các cô chiêu cậu ấm đó nghe về những chuyện cổ tích, danh nhân lịch sử, lòng yêu nước, hiếu thảo với cha mẹ. Đặc biệt có một ông già mù phụ thêm hát vè Mụ Đội, vè Phạm Công Cúc Hoa, vè Lục Vân Tiên, vè thất thủ Kinh Đô… để mua vui cho các cô các cậu và những người hiếu kỳ đến xem. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại càng ngày càng nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, có mấy cái đại lý của bà ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vô tới Quảng Nam, Quảng Ngãi…Hình ảnh thiếu nữ với răng đen đã đi vào kỷ niệm.
    Duyên dáng răng đen
    Còn trong văn chương, ca dao Việt Nam thì tục nhuộm răng và răng đen của người phụ nữ được ca ngợi tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu được. Răng đen là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái: Một thương tóc bỏ đuôi gà,
    Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,
    Ba thương má lúm đồng tiền,
    Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua Để hấp dẫn, để sửa soạn, để trang điểm người con gái bao giờ cũng rất chú trọng đến hàm răng đen gợi cảm của mình: Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
    Bõ công trang điểm má hồng răng đen.
    Và:
    Năm quan mua lấy miệng cười
    Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen. Trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” nhà thơ Hoàng Cầm cũng đã từng ca ngợi nét duyên dáng, vẻ đẹp của ngườ phụ nữ Việt Nam …Những cô hàng xén răng đen
    Cười như mùa thu tỏa nắng…
    Người của ngày xưa còn lại đến hôm nay
    Phụ họa thêm cho hàm răng đen mướt một sự sạch sẽ văn minh, phụ nữ thời ấy, lúc ăn trầu thường hay “đánh răng thuốc”, nghĩa là họ dùng một lọn thuốc lá sợi, vê thành cục bằng đầu ngón út mà chà xát vào mặt ngoài của hàm răng. Có “đánh răng thuốc”, khi nhai trầu, răng mới đen mướt và sạch sẽ. Có “đánh răng thuốc” thì miếng trầu mới đậm đà, không lạt lẽo. Có “đánh răng thuốc” thì trò chuyện mới duyên dáng! Cho nên, thao tác “đánh răng thuốc” là một nghệ thuật vô cùng sinh động trong giao tiếp, tăng thêm lịch sự quyến rũ! Mới răng là mới nụ cười
    Mới cả con người, mới cả thế gian!
    Tục nhuộm răng đen còn tồn tại mãi đến khi sang thế kỷ 20, chúng ta mới phá bỏ tục lệ này. Cho đến nay, hình ảnh người phụ nữ với hàm răng đen đã lùi vào dĩ vãng nhưng đó vẫn mãi là một nét đẹp văn hoá của người Việt Nam.

  • Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Chuyên trang ẩm thực Việt Viet Street Food đã đăng tải những hình ảnh rất hấp dẫn kèm theo lời giới thiệu về các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Phở tất nhiên sẽ là món ăn đầu tiên được nhắc đến. Món ăn này xuất xứ từ miền Bắc Việt Nam, nhưng đã được đưa vào miền Nam và trở nên nổi tiếng toàn cầu.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Cơm tấm là món ăn đặc trưng của miền Nam, có thành phần chính là cơm nấu bằng hạt gạo vỡ ăn với chả, trứng, thịt, nước mắm và nhiều loại thức ăn khác kèm theo.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Xôi là món quà sáng tuyệt với nấu từ gạo nếp, có nhiều loại khác nhau tùy theo vùng miền. Trong ảnh là xôi ngô ngọt kiểu miền Bắc.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Xôi trắng ăn với thịt gà xé nhỏ.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Xôi ngọt phong cách miền Nam.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bánh mỳ cũng là một món ăn nổi tiếng thế giới của Việt Nam, trong đó ngon nhất phải kể đến bánh mỳ Sài Gòn. Nó gồm một chiếc bánh nhồi đủ thứ bên trong như giăm bông, pa tê, rau, dưa chua v..v.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bún là tên gọi chung của những món ăn có thành phần chính là sợi bún, làm bằng bột gạo. Có rất nhiều loại bún khác nhau, trong đó bún chả hay bún thịt nướng (trong ảnh) là một trong những loại được ưa thích nhất.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bún bò Huế có hương vị đậm đà và khá cay.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bún riêu cũng rất phổ biến, với hương vị đặc trưng của thịt cua và nước dùng có vị chua.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Cùng là một món ăn, nhưng có hai phiên bản khác nhau ở hai miền, đó là bánh ướt miền Nam và bánh cuốn miền Bắc. Món ăn này làm từ bột gạo tráng mỏng, hấp lên và cuộn lại. Trong ảnh là bánh ướt miền Nam, thường được phục vụ trong các xe đẩy trên đường phố.

    Auto Draft

    Bánh cuốn miền Bắc khác ở chỗ có thêm nhân thịt lợn băm.

    Auto Draft

    Gỏi (nộm) bò là món ăn vặt được ưa thích, có thành phần chính là đu đủ thái sợi ngâm dấm cay, ăn cùng lạc, rau sống, thịt bò…

    Auto Draft

    Bánh canh là một loại mỳ sợi lớn, có xuất xứ từ miền Trung, ngày nay rất phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Trong ảnh là bánh canh cua kiểu Huế.

    Auto Draft

    Gỏi (nem) cuốn được đánh giá là 1 trong 50 món ăn ngon nhất thế giới. Nó gồm các thành phần khác nhau như bún, thịt lợn, tôm, rau, trứng… cuộn trong một tấm bánh tráng.

  • Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến trải gần 5.000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 1: Hình ảnh tổ tiên ta vào thời An Dương Vương ăn mặc như thời mông muội in trong sách do Nxb Giáo dục xuất bản.

    Nhà xuất bản Giáo dục đã cho phép in cuốn sách minh họa hình ảnh tổ tiên ta vào thời An Dương Vương ăn mặc như thời mông muội trong lịch sử nhân loại: Chung quanh người chỉ cuốn lá cọ (ảnh 1). Mà vào thời đại tương đương với thời gian lịch sử ấy, có thể nói rằng: Hầu hết các dân tộc khác trên mặt địa cầu này đã có một nền văn minh phát triển. Điều này khiến tôi có thể chắc chắn rằng: Không phải chỉ một mình tôi cảm thấy đau lòng vì sự miêu tả tổ tiên một cách thấp kém của những cuốn sách truyện loại này.

    1. Một trào lưu hạ thấp giá trị cội nguồn dân tộc

    Tôi không có thành kiến riêng với người họa sĩ minh họa cho bộ chuyện tranh này. Anh ta chỉ là một trong rất đông người nằm trong trào lưu của quan điểm phủ nhận những giá trị truyền thống về cội nguồn trải gần 5.000 năm văn hiến của dân tộc Việt.

    Cách đây không lâu trong cuộc thi thể hình ở Đài Loan, Nguyễn Tiến Đoàn – mệnh danh là Hoa vương của cuộc thi – cũng đã ăn mặc như truyện tranh trên miêu tả và hiên ngang phát biểu trước tất cả các đại diện thi thể hình nam của các dân tộc trên thế giới: “Đây là y phục dân tộc truyền thống của dân tộc Việt”. Điều này khiến tôi – người viết bài này thấy nghẹn ngào khi y phục truyền thống của các dân tộc khác trên thế giới rất đẹp và chứng tỏ họ là một dân tộc văn minh.

    Còn hình ảnh y phục truyền thống dân tộc Việt, theo như Nguyễn Tiến Đoàn công bố thì chỉ “Ở trần đóng khố”!?. Sự việc cũng không chỉ mới ở Nguyễn Tiến Đoàn và truyện tranh An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc.

    Từ năm 1996, Nxb Trẻ cũng in một bộ truyện Lịch sử Việt Nam bằng tranh, khi miêu tả về thời Hùng Vương thì chúng ta cũng lại chỉ gặp hình ảnh những người dân “ở trần đóng khố” (ảnh 2 và ảnh 3).

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 2: Vua Hùng và các quan lang (Lịch sử Việt Nam bằng tranh), Tập 3, Nxb Trẻ 1996.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 3: Vua Hùng và Chử Đồng Tử (Lịch sử Việt Nam bằng tranh), Tập 3, Nxb Trẻ 1996.

    Những bài viết về y phục dân tộc thời Hùng Vương miêu tả như những con người sống ở thời bán khai, nhan nhản, có thể không khó khăn lắm khi tìm những tài liệu này rải rác trên báo chí và sách, mạng…và ngay cả trong sách giáo khoa phổ biến từ trước 2004 từ cấp I đến Đại học.

    Quan niệm về một hình ảnh thấp kém của tổ tiên không còn là một suy nghĩ riêng lẻ, một thứ tư duy lạc loài mà người ta quen gọi là “hiện tượng cá biệt”. Nó đã trở thành một tư duy khá phổ biến.

    Họ đã căn cứ vào đâu để có một nhận định như vậy về y phục dân tộc Việt thời Hùng Vương?

    Có thể xác định rằng: Không hề có một căn cứ khoa học nào hết.

    Nhưng ngược lại, tôi có thể xác định rằng: Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến trải gần 5.000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. Nhưng bằng chứng mà tôi trình bày dưới đây, xác định quan điểm này.

    2. Y phục thời Hùng Vương – cội nguồn lịch sử 5.000 năm văn hiến Việt

    2.1. Y phục giới bình dân

    Để chứng minh cho nhận định trên, bạn đọc so sánh những bức vẽ minh hoạ, những hình ảnh di vật khảo cổ và những luận cứ được trình bày sau đây:

    Ảnh 4 được chép lại từ cuốn Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ 20 (Nxb Trẻ 1989 – Nguyễn Mạnh Hùng giới thiệu). Đây là công trình sưu tầm của một học giả người Pháp có tên là Henri Joseph Oger. Nói một cách khác, ngay ở thế kỷ 20 này người ta vẫn ở trần đóng khố, nhưng đó không phải là y phục phổ biến trong sinh hoạt xã hội ở thời gian này.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 4: Tranh của Henri Oger.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 5: Đánh ghen – Tranh Đông Hồ.

    Hình lớn trong ảnh 5 mà bạn đang xem là bức tranh dân gian nổi tiếng: Đánh ghen, thuộc dòng tranh dân gian của làng Đông Hồ. Đó là bức tranh giàu tính nhân bản, thể hiện ở hình người con chắp tay lạy cha mẹ.

    Hình ảnh hai người phụ nữ trong tranh tuy không thuộc thời Hùng Vương, nhưng bạn đọc có thể so sánh với bức tranh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở góc trên bên trái của ảnh 5, được in lại trong cuốn Lịch sử Việt Nam bằng tranh (Nxb Trẻ 1996, tập 3). Chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên về sự tương tự của người phụ nữ trong hai tranh. Đương nhiên bức tranh minh họa trong cuốn Lịch sử Việt Nam bằng tranh không phản ánh sự thật về y phục phổ biến trong sinh hoạt của thời Hùng Vương. Bởi vì nó không thể liên hệ được sự giống nhau trong khoảng cách gần 2.000 năm theo quan điểm lịch sử mới về y phục thời Hùng Vương mà họ miêu tả với bức tranh dân gian Việt. Ngược lại, chúng ta so sánh y phục trong bức tranh Đánh ghen và y phục dân tộc truyền thống của phụ nữ miền Bắc với hình người trên cán dao bằng đồng trong hình mô tả dưới đây:

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 6. Hình minh họa của Thiên Sứ.

    Ảnh 6 và ảnh 7 là một cụm hình, được ghép bởi hình chiếc cán dao bằng đồng từ thời Hùng Vương – có niên đại được xác định là 300 năm trước CN, được tìm thấy ở Lãng Ngâm – Hà Bắc – trên có tạc người phụ nữ với y phục thời Hùng Vương và hình vẽ miêu tả y phục của một phụ nữ miền Bắc (ãnh Võ An Ninh) và ảnh Tượng chùa Dâu, do người viết ghép lại thành cụm hình để tiện so sánh.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 7: Ảnh Tượng chùa Dâu: Thiên Sứ; Ảnh người phụ nữ nông thôn: Võ An Ninh.

    Kiểu y phục của hình vẽ này tuy không còn phổ biến, nhưng bạn vẫn có thể gặp ở một bà già cao tuổi sống trong một vùng nông thôn xa thành thị nào đó ở miền Bắc Việt Nam, ngay trong năm 2009 này. Đó là thế hệ cuối cùng nằm trên võng ru con, bằng cách kể lại những câu chuyện cổ tích từ thời xa xưa và truyền thuyết về một nước Văn Lang – nơi cội nguồn của người Việt – trước khi nhường lại cho những phương tiện thông tin đại chúng và những người nghiên cứu thông thái nói lại về những câu chuyện của họ.

    Qua hình ảnh minh họa đã trình bày với bạn đọc ở trên, chúng ta cũng nhận ra sự trùng khớp hoàn toàn bởi những đường nét chính giữa y phục trên cán dao đồng và y phục của người phụ nữ Việt hiện đại còn mặc, tuy không còn phổ biến.

    Điều này chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: Y phục của người phụ nữ miền Bắc còn mặc hiện nay chính là sự tiếp nối truyền thống y phục từ thời Hùng Vương thể hiện trên chiếc cán dao đồng. Đồng thời sự so sánh này cũng cho thấy: Từ 2.300 năm qua trở lại đây – về căn bản – hình thức y phục phổ biến trong dân gian không có sự thay đổi đáng kể.

    Như vậy, có thể khẳng định: Dưới thời Hùng Vương, ông cha ta đã có những y phục phổ biến trong giới bình dân, tương tự như y phục dân tộc còn tồn tại ở các vùng thôn quê Việt Nam.

    Qua đó, chúng ta cũng nhận thức được rằng: Y phục của tầng lớp bình dân trong xã hội thời Hùng Vương đã mang tính văn hoá đặc thù của dân tộc Việt và xã hội này phải có một nền văn minh phát triển để chế tác ra những cấu trúc y phục cầu kỳ đó. Chúng ta tiếp tục tìm hiểu về y phục của tầng lớp trên trong xã hội Việt thời Hùng Vương.

    2.2. Y phục tầng lớp trên trong thời Hùng Vương

    Tất nhiên, khi mà trang phục phổ biến của các tầng lớp bình dân đã hoàn chỉnh và đa dạng thì y phục của tầng lớp trên cũng phải phù hợp với đẳng cấp của nó vì sự trang trọng và việc thực hiện những nghi lễ quốc gia văn hiến. Để chứng minh điều này, bạn đọc tiếp tục xem xét các vấn đề và hiện tượng được trình bày sau đây:

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 8: Hình bộ truyện tranh “Tam quốc diễn nghĩa” do họa sĩ Trung Quốc thực hiện.

    Hình trong ảnh 8 được chép lại từ bộ truyện tranh Tam quốc diễn nghĩa do chính các họa sĩ Trung Quốc thực hiện, Nxb Mũi Cà Mau in lại vào năm 1995, trọn bộ 30 tập. Đây là hình thứ 3795 trong tập 16. Hình người nổi bật trong tranh bên chính là Tôn Quyền (Thế kỷ II và III sau CN).

    Hình người phụ nữ ở giữa cụm tranh trong ảnh 8 này chính là Tôn Phu Nhân, em gái Tôn Quyền, vợ Lưu Bị cũng được chép lại từ bộ truyện tranh trên. Bạn hãy so sánh y phục của tất cả những nhân vật Tam Quốc, thể hiện nền văn hoá Hán trong các tranh trên với hình người trên cán dao bằng đồng của thời Hùng Vương có trước đó 500 năm (Tư liệu trong sách Thời đại Hùng Vương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1995).

    Bạn sẽ thấy một sự tương tự trong y phục. Chỉ có khác chăng là tay áo thụng của các nhân vật Tam Quốc và tay áo bó của hình người trên cán dao đồng, còn phần y phục gần như hoàn toàn giống nhau. Nếu như y phục của các bậc vương giả thời Tam Quốc không phải là bắt chước y phục thời Hùng Vương, thì chắc chắn y phục của cô gái ở trên cán dao đồng thời Hùng Vương không thể bắt chước các nhân vật Tam Quốc. Bởi vì, chiếc cán dao này có niên đại trước thời Tam Quốc ít nhất 500 năm. Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây.

    Về y phục của tầng lớp trên trong xã hội Văn Lang, người viết xin được trình bày một đoạn trích dẫn trong Kinh Thư. Kinh Thư là một trước tác từ trước đến nay vẫn được coi là sản phẩm của nền văn minh Trung Hoa, nhưng lại có rất nhiều dấu ấn chứng tỏ thuộc về nền văn minh Văn Lang. Dấu ấn đầu tiên của người Lạc Việt trong Kinh Thư được chứng minh trong sách Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại (Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Văn hóa Thông tin tái bản lần thứ 2, 2002) chính là Hồng phạm cửu trù, bản hiến pháp đầu tiên của người Lạc Việt.

    Đoạn trích dẫn sau đây liên quan đến y phục dân tộc thời Hùng Vương được trích trong cuốn Thượng Thư – sách ghi chép thời thượng cổ (bản dịch Võ Ngọc Liên, Trần Kiết Hùng, Nxb Đồng Nai 1996, trang 156): “Ba loại như mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú thì làm tinh kỳ, rồng chỉ y phục của vua, hổ chỉ y phục của đại thần theo sự phân biệt ba loại y phục khác nhau: cổn miện (của vua), tệ miện, tuyệt mịch. Tên của ba loại quần áo là dựa vào hình vẽ trên y phục mà gọi, như “cổn” thì có long cổn, cổn miện có chín bậc trong đó có long cổn đứng đầu. Tệ tức là chim trĩ, tệ triều có bảy loại trong đó có hổ đứng đầu”.

    Qua đoạn văn trên, bạn đọc nhận thấy rằng “cổn miện” (tức là mũ của vua) có chín bậc, trong đó long cổn đứng đầu; “tệ miện tức là cái mũ có hình chim trĩ”. Về hình ảnh mũ có hình tượng rồng của vua và mũ có hình chim trĩ của các quan – Oái oăm thay – nó lại được chứng tỏ trên trống đồng của nền văn minh Văn Lang.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 9a và 9b: Hoa văn trên trống đồng Đông Sơn cho thấy trên mũ của những hình người này thể hiện chiếc đầu rồng và đầu chim phượng đã được cách điệu để chứng tỏ địa vị của người đó trùng hợp với văn bản của Kinh Thư.

    Qua ảnh 9a và 9b, bạn đọc cũng dễ dàng nhận thấy, trên mũ của những hình người trên trống đồng này thể hiện chiếc đầu rồng và đầu chim phượng đã được cách điệu để chứng tỏ địa vị của người đó trùng hợp với văn bản của Kinh Thư.

    Nếu như hình vẽ trên trống đồng và những vấn đề y phục của vương triều nói trên trong Kinh Thư chỉ là một lần trùng hợp duy nhất thì có thể coi đó là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nhưng vấn đề lại không phải đơn giản như vậy! Khi mà một thiên được coi là quan trọng nhất của Kinh Thư: Thiên Hồng phạm, lại hoàn toàn mang nội dung của người Lạc Việt và một lần nữa cũng không chỉ dừng lại ở đấy.

    Người viết xin được đặt vấn đề để các bậc trí giả minh xét với đoạn trích dẫn sau đây (Việt lý tố nguyên, Kim Định, 1971): “Trong mấy thiên đầu Kinh Thư chữ ‘Viết’ cũng đọc và viết là ‘Việt’”. “Viết nhược kê cổ” cũng là “Việt nhược kê cổ”. Các nhà chú giải lâu đời nhất như Mã Dung và Khổng An Quốc cũng chỉ giải nghĩa rằng đó là câu nói giáo đầu (phát ngữ từ) nhưng không đưa ra lý do tại sao lại dùng câu đó, tại sao chữ viết với Việt lại dùng lẫn lộn… Vì thế mà có câu lập lờ mở đầu “Viết nhược kê cổ”. Cả Mã Dung lẫn Khổng An Quốc đều cho chữ “nhược” là thuận, chữ “kê” là khảo. Và, câu trên có nghĩa rằng: “Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa”. Nếu nói “Viết nhược kê cổ” thì ra câu văn thiếu chủ từ. Còn khi thay vào bằng chữ Việt thì có chủ từ là người Việt, nhưng phải cái phiền là ghi công người Việt vào đầu Kinh Thư không tiện, nên cho rằng chữ “Việt” với “Viết” như nhau…”

    Qua phần trích dẫn của ông Kim Định, người viết không cho rằng: “Việt nhược kê cổ” tức là “Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa” và càng không thể là người Việt có công chép lại Kinh Thư cho nền văn minh Trung Hoa. Từ những sự phân tích trên, hoàn toàn có cơ sở để đặt một dấu hỏi hoài nghi về nguồn gốc đích thực của Kinh Thư. Và câu trên có thể hiểu là: “Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt”.

    Như vậy, với những dấu chứng của văn minh Văn Lang trong Kinh Thư; hoàn toàn không thể cho rằng: Y phục của các vị vua thời Nghiêu, Thuấn trùng hợp một cách ngẫu nhiên với những hình ảnh trên trống đồng. Hiện tượng này chỉ có thể giải thích một cách hợp lý rằng: Y phục của vương triều được nhắc tới trong Kinh Thư, chính là y phục của vương triều Văn Lang. Việc gán ghép cho vua Nghiêu, Thuấn chế tác ra y phục cũng giống như sự gán ghép những học thuật của văn minh Văn Lang cho các vị vua cổ đại Trung Hoa, khi những hình ảnh của y phục vương triều lại được thể hiện trên trống đồng Lạc Việt. Kinh Thư chính là cuốn “Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt” mà điều này đã ghi rõ ngay trên câu đầu của cuốn sách “Viết nhược kê cổ” và nội dung của nó hoàn toàn trùng khớp với hình ảnh trên trống đồng của nền văn hóa Việt đã trình bày.

    Nếu theo quan niệm mới cho rằng: Thời Hùng Vương chỉ tồn tại khoảng vài trăm năm (thế kỷ thứ VII trước CN) và địa bàn nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở miền Bắc Việt Nam, thì sẽ không thể liên hệ và có sự minh chứng một cách chặt chẽ về sự liên quan giữa y phục trên trống đồng Lạc Việt với vương triều của vua Nghiêu (khoảng 2.000 trước CN theo bản văn chữ Hán) thể hiện trong Kinh Thư, bởi một khoảng cách hàng vạn dặm về địa lý và hàng thiên niên kỷ về thời gian.

    Trở lại vấn đề y phục, qua sự so sánh trên cho thấy: Sự có mặt của vua Nghiêu (2253 trước CN) trong việc quy định y phục vương triều, gắn với hình ảnh trên trống đồng Lạc Việt (là một di vật khảo cổ), đã chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: nền văn minh Văn Lang không những đã chế tác ra y phục phổ biến cho con người trong xã hội, mà ở tầng lớp trên đã có những y phục thể hiện sự trang trọng trong nghi lễ quốc gia và sự phân biệt ngôi thứ.

    Điều này minh chứng bổ sung cho những vấn đề được đặt ra ở những phần trên và có sự liên hệ tiếp nối như sau:

    * Hình người trên trống đồng mà giáo sư Nguyễn Khắc Thuần viết trong Thế thứ các triều đại Việt Nam cho rằng: “Hình người đang múa” thực ra đây là hình ảnh thể hiện những người đứng đầu nhà nước Văn Lang đang thực hiện những nghi lễ quốc gia. Điều này được minh chứng qua hình ảnh đầu rồng và đầu chim phượng trên những chiếc mũ của các ngài đang đội.

    * Từ đó đặt vấn đề: Hình chữ nhật được cách điệu trên tay các ngài chính là những văn bản được đọc trong khi hành lễ. Tính văn bản được chứng tỏ bằng nếp gấp phía trên góc hình chữ nhật. Giả thuyết này bổ sung việc minh chứng cho sự tồn tại một hệ thống chữ viết của người Lạc Việt.

    * Sự tồn tại hình ảnh những người đứng đầu nhà nước Văn Lang trên trống đồng là: Vua: đội mũ có hình đầu rồng; đại thần: đội mũ gắn hình chim phượng, đã khẳng định sự tồn tại một nhà nước có tổ chức chặt chẽ ở thời cổ đại, tương tự như các quốc gia cổ đại hùng mạnh khác vào thời bấy giờ. Chính những y phục đã tồn tại hàng thiên niên kỷ trước Công nguyên trong nền văn minh Văn Lang, đã trở thành căn nguyên cho bản sắc văn hóa thể hiện trong y phục truyền thống của người Việt Nam hiện nay.

    Những lập luận và hình ảnh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở trên được bổ trợ bằng một phát hiện của ngành khảo cổ như sau: 19.2.1.1 Trước hết, đó là tơ tằm. Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất sớm. Trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kỳ đá mới cách đây khoảng 5.000 năm (như di chỉ Bầu Tró), đã thấy có dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung.

    Đến giai đoạn Đông Sơn (cách nay khoảng 3.000 – 2.500 năm), hình người trên trống đồng đều mặc áo, váy và đóng khố. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang – đó là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của nền nông nghiệp Việt Nam. Người Hán từ xưa cũng luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam: đó chính là hai đặc điểm đầu tiên mà Từ Tùng Thạch kể đến trong cuốn Việt giang 178 lưu vực nhân dân (Kim Định, 1971a: 108); trong chữ “Man” mà người Hán dùng để chỉ người phương Nam có chứa bộ trùng chỉ con tằm. (Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm).

    Trong sách Luận ngữ, thiên Hiến vấn, khi nhận xét về vai trò của Quản Trọng đối với nước Tề và ảnh hưởng của nó tới xã hội Trung Hoa, chính Khổng Tử đã nói: “Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải búi tóc và vắt vạt áo bên tả như người Man Di”.

    Bạn đọc có thể tìm thấy câu nói đã dẫn của Khổng Tử ở trên trong hầu hết các sách dịch ra Việt ngữ liên quan đến Luận Ngữ, như: Luận ngữ – thánh kinh của người Trung Hoa(Nxb Đồng Nai 1996, Hồ Sĩ Hiệp biên soạn, Trần Kiết Hùng hiệu đính, trang 208); hoặc ngay trong cuốn Lịch sử văn minh Trung Hoa, (Witt Durant, do Nguyễn Hiến Lê dịch. Nxb Văn hoá Thông tin, 1997, trang 32)…

    Quản Trọng – tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu – sống vào giai đoạn đầu thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, không rõ năm sinh, mất năm 654 trước CN, người đưa nước Tề trở thành một cường quốc, bá chủ các chư hầu nhà Chu. Đây là thời điểm tương đương với thời kỳ mà không ít những nhà nghiên cứu đã căn cứ vào Việt sử lược, cho rằng: “Đó là giai đoạn khởi đầu của thời Hùng Vương”Việt sử lược viết: “Vào thời Trang Vương nhà Chu (698 – 682 trước CN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương”.

    Như vậy, qua sự trích dẫn ở trên quí vị cũng nhận thấy sự tương đương sát sao về niên đại của thời Quản Trọng (mất năm 654 trước CN và thời Trang Vương nhà Chu: 698 – 682 tr.CN) và thời điểm lập quốc của các vua Hùng theo cái nhìn mới – mà họ cho rằng: “Thời Hùng Vương chỉ xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VII trước CN”. Thật là một sự vô lý, khi chính Khổng Tử thừa nhận một nền văn minh phát triển ở ngay bên cạnh địa bàn cư trú của người Hoa Hạ, có khả năng ảnh hưởng và chi phối đến sự phát triển của nền văn minh này.

    Đã có nhà nghiên cứu cho rằng: “Người Man di ở phía Bắc Trung Quốc”(?). Trên thực tế, trong các thư tịch cổ chữ Hán chưa lần nào dùng từ Man di để chỉ giống người phương Bắc Trung Hoa. Ngược lại, trong các thư tịch cổ chữ Hán, Man di là từ được dùng nhiều lần để chỉ người Việt. Từ “người Man” trong câu nói của Khổng Tử không phải là một danh từ chung để chỉ những tộc người có trình độ phát triển khác nhau, cư ngụ ở miền Nam sông Dương Tử. Ở đây, Khổng Tử đã nói đến nền văn minh Lạc Việt. Bản văn sau đây do chính Tô Đông Pha, một danh sĩ thời Tống – sau Khổng Tử ngót 1.500 năm xác nhận lại điều này. Tô Đông Pha chép rằng: “… Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 – 207 trước CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại tình trạng man di. B’Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành. Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đã mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ”.[1].

    [Nguồn: http://tuanvietnam.net/2009-12-07-thoi-hung-vuong-to-tien-an-mac-the-nao-; Ngày: 08/12/2009 06:40 GMT+7]

    Chú thích

    [1]. An Nam chí lược; Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục Cổ tích. Viện Đại học Huế 1961. Giáo sư Linh mục Cao Văn Luận.

    Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta lại một lần nữa thấy tính hợp lý giữa các hiện tượng và vấn đề liên quan đến việc vạt áo cài bên trái của chín quận Nam Việt. Điều này chứng tỏ tính thống nhất về văn hóa ở vùng đất nam sông Dương Tử này hoàn toàn khác biệt với văn hóa Hoa Hạ.

    Đây cũng chính là vùng đất: Bắc giáp Động Đình Hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba Thục; Đông giáp Đông Hải của nước Văn Lang xưa. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đã chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 trước CN, và xa hơn – Từ thời Tam Đại – nền văn hóa Lạc Việt đã là một nền văn hóa ưu việt cho khu vực. Ảnh hưởng của nền văn hóa này rất lớn, để “nếu không có Quản Trọng thì người Hán đã phải cài vạt áo bên trái”.

    Hình ảnh của việc cái vạt áo bên trái (bên tả) cho y phục truyền thống Việt trong các bản văn trên, được minh chứng tiếp tục trong di sản văn hóa Việt tiếp nối qua các thời đại lịch sử đến tận ngày hôm nay. Bạn đọc tiếp tục so sánh với các hình ảnh dưới đây:

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 10: Hình khắc nổi tiếng trên một hang động ở tỉnh Hồ Nam, thuộc Nam Dương Tử, có niên đại trên 2.500 năm, tương truyền là hình bà Nữ Oa và vua Phục Hy. Chúng ta lại nhận thấy vạt áo cài bên trái của vua Phục Hy và bên phải của bà Nữ Oa. Có thể nói: Đây là dấu chứng cổ xưa nhất minh chứng về y phục truyền thống Việt liên hệ đến câu nói của Khổng Tử trong sách Luận ngữ viết về hiện tượng áo cài vạt bên trái vào thế kỷ thứ VII trước Công Nguyên.

    Hình trong ảnh 10 là một hình khắc nổi tiếng trên một hang động ở tỉnh Hồ Nam, thuộc Nam Dương Tử, có niên đại trên 2.500 năm, mà người sống ở vùng này vẫn tương truyền rằng: Đó là hình bà Nữ Oa và vua Phục Hy. Chúng ta lại nhận thấy vạt áo cài bên trái của vua Phục Hy và bên phải của bà Nữ Oa. Có thể nói: Đây là dấu chứng cổ xưa nhất minh chứng về y phục truyền thống Việt liên hệ đến câu nói của Khổng Tử trong sách Luận ngữ viết về hiện tượng áo cài vạt bên trái vào thế kỷ thứ VII trước CN.

    Mối liên hệ này chúng ta sẽ còn tiếp tục tìm thấy những dấu chứng qua các thời đại, mà điển hình là hình tượng những con rối nước sau đây:

    Hình ảnh mà người viết trình bày trong bức ảnh 11 được chép lại từ tạp chí Heritage số tháng 9/10 năm 1996 của Hàng không Việt Nam. Hoàn toàn không có sử dụng kỹ thuật vi tính để lật ngược lại bức tranh. Bạn đọc có thể kiểm chứng điều này qua tay phải của một số nhân vật cùng đứng trong tranh.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 11: Hình ảnh mà người viết trình bày trong bức ảnh 11 được chép lại từ tạp chí Heritage số tháng 9/10 năm 1996 của Cục Hàng không Việt Nam.

    Bạn đọc cũng thấy vạt áo của nhân vật rối nước này ở phía bên “tả” (trái) và mấy cái búi tóc của những hình rối nước này. Cho đến đầu thế kỷ 20, phần lớn đàn ông của dân tộc Việt vẫn búi tóc. Điều này chắc không cần phải chứng minh.

    Hình tượng những con rối nước – một nghệ thuật dân gian truyền thống của người Việt – cái vạt áo bên trái sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi đó chính là sự tiếp nối của y phục dân tộc Việt từ hàng ngàn năm trước, khi liên hệ với câu của Khổng Tử trong sách Luận ngữ“Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải cài vạt áo bên tả và búi tóc như người Man di”.

    Rất tiếc! Những con rối nước cài vạt áo bên trái ngày nay rất hiếm gặp. Người ta đã hiện đại hoá nó bằng cách tạo cho nó một cái vạt áo bên phải. Đây là sự biến dạng của những di sản văn hóa phi vật thể. Nhưng cũng may mắn thay! Đây không phải bằng chứng duy nhất cho y phục dân tộc thời Hùng Vương.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 12: Y phục dân tộc Dao ở Phú Thọ. (Trích từ bài “Cạy cửa tìm nhau”, Ngọc Vinh và Lương Ngọc An – Tuổi Trẻ 8/6/2002).

    Xin bạn đọc tiếp tục xem ảnh 12. Tất nhiên tác giả bài báo này không có nhã ý nhằm giới thiệu y phục dân tộc Dao và giúp minh chứng cho luận điểm của người viết. Dân tộc Dao là một dân tộc có nền văn hóa lâu đời tồn tại trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, y phục dân tộc này cũng còn giữ được những nét văn hoá cổ truyền của nước Văn Lang xưa: Trên y phục của cặp vợ chồng ở hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy người đàn ông áo vạt đưa sang bên trái, người phụ nữ vạt đưa sang bên phải.

    Vấn đề cũng không chỉ dừng ở đây: Ảnh 13 được người viết chụp trực tiếp hình ảnh trên chương trình truyền hình VTV1, có nội dung miêu tả đám cưới người dân tộc Mông. Chúng ta lại một lần nữa tìm thấy dấu ấn y phục từ ngàn xưa của tổ tiên với người nam mặc áo bên “tả” và nữ bên “hữu”: Dân tộc Dao và Mông sống trong vùng rừng núi hẻo lánh, cho nên ít chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 13: Miêu tả đám cưới người dân tộc Mông. Chúng ta lại một lần nữa tìm thấy dấu ấn y phục từ ngàn xưa của tổ tiên với người nam mặc áo bên “tả” và nữ bên “hữu”.

    Do đó, hiện tượng cài vạt áo bên trái của người đàn ông trong y phục của những dân tộc này còn lại đến nay, cùng với các tư liệu đã trình bày ở trên cho thấy: Đó là những chứng cứ có sự tiếp nối văn hóa từ ngàn xưa và cho đến tận bây giờ – khi bạn đọc đang xem bài viết này – của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ ở nam Dương Tử. Những chứng cứ rõ ràng đó và luận điểm trình bày hoàn toàn phù hợp với những tiêu chí khoa học: “Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng, nếu nó lý giải một cách hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó; có tính khách quan; tính hệ thống, tính quy luật và có khả năng tiên tri”.

    Những vấn đề được hân hạnh trình bày với bạn đọc, nhằm chứng minh cho một nền văn hoá cao cấp tốn tại ở miền Nam sông Dương Tử mà chính Khổng Tử nói tới với sự tiếp nối, liên hệ của những giá trị đó trong những di sản văn hóa Việt Nam hiện nay.

    * Tính đa dạng trong y phục của Việt tộc thời cổ xưa

    Sự đa dạng trong y phục của Việt tộc xác định qua sự liên hệ với hình ảnh những con rối nước là một minh chứng “Y phục dân tộc thời Hùng Vương” được tiếp tục qua những hình ảnh sau đây.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 14: Hình ghép được chép lại trong sách “Thời đại Hùng Vương”, chiếc cán dao bằng đồng miêu tả y phục thời Hùng Vương và hình nhân vật rối nước trong trò “Múa Tiên”.

    Ảnh 14 là một hình ghép được chép lại trong sách Thời đại Hùng Vương (sách đã dẫn) chiếc cán dao bằng đồng miêu tả y phục thời Hùng Vương và hình nhân vật rối nước trong trò Múa Tiên.

    Qua hình ảnh trên, chắc quí vị sẽ nhận thấy một sự trùng hợp hoàn toàn về hình thức cái mũ trên đầu hình rối nước và cái mũ trên cán dao đồng. Ngoài sự trùng hợp về cái mũ, còn một số nét tiêu biểu khác trên y phục của hai vật thể này cũng trùng hợp gần như hoàn toàn. Từ đó có thể dẫn đến sự liên hệ hợp lý cho một cấu trúc đặc thù chung của y phục thời Hùng Vương qua y phục rối nước. Hay nói một cách khác: Hoàn toàn có căn cứ khoa học thực sự khi dùng những hình mẫu có chọn lọc của những con rối nước truyền thống để phục chế lại y phục thời Hùng Vương.

    Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây, khi chúng ta tiếp tục so sánh chiếc mũ trên hình cán dao đồng – được khẳng định niên đại từ thời Hùng Vương – với chiếc nón trong hình rối nước Múa Tiên (ảnh 15) và chiếc nón trên hai bức tượng Tiên Dung và Ngọc Hoa công chúa hiện đang thờ ở đền Hùng Phú Thọ.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 15: Chiếc nón trên hai bức tượng Tiên Dung và Ngọc Hoa công chúa hiện đang thờ ở đền Hùng Phú Thọ.

    Hiện nay, có rất nhiều trò rối nước được sáng tác ngay thời hiện đại, hoặc vào những thế kỷ trước. Nhưng trò Múa Tiên là một trò truyền thống có từ rất lâu trong nghệ thuật rối nước Việt Nam, tất cả các đoàn rối đều có trò này. Do đó, hình rối nước trong trò Múa Tiên chắc chắn đã xuất hiện từ thời xa xưa.

    Qua một khoảng cách thời gian của hơn 1000 Bắc thuộc, nghệ thuật rối nước được ghi nhận lần đầu tiên trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh – đời Lý – của chùa Đọi Sơn (Huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà), tức là vào đầu thời hưng quốc của Đại Việt, cách đây cả ngàn năm. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng múa rối nước chỉ xuất hiện vào thời kỳ này.

    Đền thờ Tổ 18 thời Hùng Vương xác định xây dựng (hoặc được trùng tu vào thế kỷ XIV). Chiếc cán dao bằng đồng có cách đây khoảng 2.500 năm và chỉ mới được phát hiện vài chục năm gần đây.

    Trước hết chúng ta cần phải khẳng định rằng: Trò Múa Tiên, tượng công chúa đền Hùng và chiếc dao đồng là những sản phẩm của trí tuệ sáng tạo. Trò Múa Tiên và tượng công chúa đền Hùng đều có trước khi tìm ra chiếc cán dao đồng với khoảng cách hơn 2.000 năm cho sự sáng tạo ra hai vật thể này. Do đó, nó không thể được coi là sự sao chép từ chiếc cán dao đồng hoặc là một sự trùng khớp ngẫu nhiên.

    Hình thức tồn tại giống nhau của những di sản văn hoá nói trên với khoảng cách tính bằng thiên niên kỷ, đã xác định sự tiếp nối truyền thống xuyên thời gian của y phục dân tộc Việt từ thượng tầng xã hội cho đến các tầng lớp bình dân là đa dạng và phong phú, thể hiện qua y phục của những con rối nước trong di sản văn hóa truyền thống Việt. Những hình thức y phục của những con rối nước Việt còn thấy tồn tại trong y phục dân tộc của các quốc gia láng giềng với Việt Nam ngày nay.

    * Lịch sử gần 5000 năm văn hiến qua y phục dân tộc

    Qua y phục dân tộc thời Hùng Vương trình bày ở trên, chúng ta hoàn toàn có đầy đủ cơ sở khoa học để xác quyết về một truyền thống văn hóa sử được chính sử xác định: Thời Hùng Vương có niên đại 2879 BC và kết thúc vào 258 BC, có biên giới: Bắc giáp Động Đình Hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba Thục; Đông giáp Đông Hải. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đã chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 trước CN, và xa hơn – Từ thời Tam Đại – nền văn hóa Lạc Việt đã là một nền văn hóa ưu việt của phương Đông cổ đại. Và chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng thừa nhận.

    Bạn đọc xem đoạn trích dẫn dưới đây:

    * Phát hiện mộ cổ bí ẩn ở Trung Quốc

    Các nhà khảo cổ nước này vừa khai quật một ngôi mộ hơn 2.500 tuổi, có thể thuộc về một vị vua của triều đại Ba (Ba Kingdom) bí ẩn. Ngoài 500 đồ vật bằng đồng, trong mộ còn có bộ xương của 2 người đàn bà và một người đàn ông, mặt ngửa lên trời và hướng về phía đông.

    Nhóm nghiên cứu cho rằng đó có thể là những tuỳ tùng hoặc chư hầu được chôn cùng vị vua. Nếu được xác nhận, đây sẽ là phát hiện khảo cổ quan trọng nhất liên quan tới triều đại Ba. Ngôi mộ nằm ở Luo Jiaba, tỉnh Tứ Xuyên, mang đặc điểm điển h́ình của một ngôi mộ thuộc đẳng cấp cao nhất trong số các ngôi mộ thuộc triều đại Ba đã được tìm thấy. 31 ngôi mộ khác cũng đã được khai quật ở khu vực. Hầu hết các đồ đồng là vũ khí (như giáo, gươm, dao găm và rìu), hay các vật cúng tế tương ứng với vị trí tối cao của chủ nhân ngôi mộ.

    Triều đại Ba bao trùm các vùng Tứ Xuyên, Hồ Nam và nhiều nơi khác ở miền nam Trung Quốc trước khi biến mất một cách bí ẩn khoảng 2.000 năm trước đây. Người dân thời đại này được miêu tả là những chiến binh hiếu chiến và gan dạ. Tuy vậy, nguồn gốc, cấu trúc xã hội và văn hoá của họ vẫn còn là một điều bí ẩn. [Minh Thi theo Tân Hoa Xã (Nguồn VNexpress)].

  • Bộ trang sức của một Vương Phi thời nhà Nguyễn

    Nhà sưu tầm cổ vật Vũ Kim Lộc ở Sài Gòn vốn xuất thân từ nghề kim hoàn. Vì thế, những món đồ cổ bằng vàng, bạc và đá quý… luôn được anh quan tâm sưu tầm và nghiên cứu. Anh đã từng sưu tập được những cổ vật Champa, cổ vật Óc Eo hay cổ vật triều Nguyễn… bằng vàng, xứng đáng liệt hạng quốc bảo. Nhưng có lần anh nói với tôi: “Cổ vật bằng quý kim của Champa, Óc Eo hay của các triều đại phong kiến Việt Nam tôi gặp khá nhiều, nhưng tôi chưa bao giờ được cầm trên tay một món đồ vàng thời chúa Nguyễn. Trong khi, nghề kim hoàn lại là một thành tựu nổi bật của nền thủ công truyền thống thời chúa Nguyễn”.

    * Vàng và nghề kim hoàn thời chúa Nguyễn

    Đàng Trong vốn là “vùng đất của vàng”, nơi mà các tiền nhân Champa, Óc Eo… đã tạo nên biết bao kiệt tác nghệ thuật bằng quý kim vẫn còn lưu truyền cho đến đời nay. Vì thế, các chúa Nguyễn đã thực thi những chính sách để phát triển nghề khai thác vàng và nghề kim hoàn. Theo sách Phủ biên tạp lục do Lê Quý Đôn biên soạn vào năm 1776, thì các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã cấp phát lương thực, tiền công cho người dân để khuyến khích họ đi tìm vàng, khai thác vàng cho nhà nước. Các chúa cũng không hạn chế người dân buôn vàng và tự túc khai thác vàng, mà chỉ thu thuế và tạo điều kiện cho họ được kinh doanh và khai thác. Nhà nước cũng lập các đội tìm vàng chuyên nghiệp, giao cho các tướng lĩnh phụ trách. Không chỉ tìm vàng ở các vùng mỏ trong đất liền, các chúa Nguyễn còn lập đội Hoàng Sa, phái người đi đến các vùng biển đảo như Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa để thu nhặt vàng bạc, hàng hóa từ các tàu thuyền của nước ngoài bị đắm trong các vùng biển này. Triều đình nhà chúa còn lập 3 cơ quan gồm: Nội lệnh sử ty chuyên đi thâu nhận vàng, Ngân tượng ty chuyên việc tinh luyện vàng bạc và Nội kim tượng cục chuyên chế tác vàng thành phẩm và làm đồ trang sức để phục vụ cho nội cung và xuất khẩu. Theo các nguồn sử liệu viết về thời kỳ này, thì vào năm 1634, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho xuất khẩu sang Nhật Bản 50 cái bát và 50 cái đĩa, một nửa làm bằng vàng và một nửa làm bằng bạc. Cuốn hồi ký Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, một nhà sư người Trung Hoa có mặt ở Đàng Trong dưới triều chúa Nguyễn Phúc Chu, chép rằng các chúa Nguyễn dùng toàn đồ làm bằng vàng và bạc, chế tác rất công phu, còn các hạng người sang trọng thì mũ mão và yên cương ngựa của họ đều được trang sức bằng vàng bạc. Đàn bà con gái đều mặc hàng tơ lụa, cổ áo thêu hoa, coi vàng bạc như cát, lúa thóc như bùn.

    * Bộ trang sức của một vương phi thời chúa Nguyễn

    Một ngày, tôi vào Sài Gòn, ghé nhà Vũ Kim Lộc, anh khoe với tôi bộ ảnh chụp những món trang sức bằng vàng và bảo: “Đây là những cổ vật bằng vàng đầu tiên của thời chúa Nguyễn mà tôi tận mắt chứng kiến. Theo tôi, đây là trang sức của một bà phi đời chúa Nguyễn Phúc Khoát”.

    Bộ trang sức gồm một cái bác sơn bằng vàng để gắn trên chiếc mũ của các bậc vua chúa; 12 chiếc trâm hoa; 1 chiếc trâm phượng và 2 chiếc vòng tay, đều làm bằng vàng, gắn đá quý. Tất cả đều rất tinh xảo và sang trọng.

    Bác sơn là một dải trang sức, thường làm bằng quý kim, được chạm trổ công phu, trang trí cầu kỳ, để gắn lên mũ của vua, hoàng hậu, quan lại, quý tộc thời xưa. Chiếc bác sơn này dài 18,5 cm, nặng 42 g, được làm từ một miếng vàng mỏng, chạm lộng hình tản vân và văn thủy ba, làm nền cho các đồ án trang trí đính kèm gồm 3 hình chim phượng và 3 cụm hoa lá. Nhìn vào bố cục trang trí của các đồ án đính kèm, có thể nhận thấy số cụm hoa lá lẽ ra phải là 4, nhưng có lẽ cụm hoa lá ở ngoài cùng bên phải bác sơn đã bị thất lạc. Trên bác sơn còn có một hàng lỗ nhỏ, là nơi đã từng gắn các viên đá quý hoặc trân châu nhưng đã bị mất. Vì đồ án trang trí chủ đạo trên bác sơn là hình chim phượng, nên theo điển chế ngày xưa, thì đây là bác sơn trên chiếc mũ của hoàng hậu, vương phi.

    Bác sơn bằng vàng trang trí trên mũ vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
    Hình chim phượng bằng vàng gắn trên bác sơn. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Bộ trâm hoa gồm 12 chiếc, dài từ 9,4 cm đến 12 cm, tạo dáng như những cánh hoa. Phần đầu của những chiếc trâm là những cụm hoa lá bằng vàng, được tô điểm bởi những viên đá quý màu ngọc bích. Có 4 loài hoa được thể hiện trên bộ trâm, trong đó có hai loài hoa được nhận diện là hoa mai và hoa cúc. Phần chuôi để cài vào mái tóc của 12 chiếc trâm hoa này được làm bằng bạc.

    Chiếc trâm hoa mai của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Chiếc trâm hoa cúc của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Chiếc trâm phượng hoàn toàn làm bằng vàng, dài 14,25 cm, nặng 15 g. Phần đầu trâm thể hiện hình chim phượng đang ngậm chiếc lồng đèn rất tinh xảo. Thân chiếc trâm cũng chính là thân và đuôi của chim phượng, được tạo thành hai nhánh và hơi cong xuống ở phần đuôi. Đầu chim phượng được thể hiện rất sắc sảo, với mỏ quặp, mắt và đuôi mắt dài, có bờm ở trên đầu, dưới cằm và sau cổ. Mỏ chim phượng ngậm chiếc lồng đèn có tán che bên trên, khánh treo bên dưới và những chùm hoa văn treo xung quanh.

    Chiếc trâm phượng bằng vàng của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Bộ vòng tay gồm 2 chiếc, một chiếc có đường kính 6,18 cm, nặng 20,17 g, chiếc kia có đường kính 6,41 cm, nặng 20,36 g. Tất cả đều làm bằng vàng. Thân vòng đúc rỗng, mặt ngoài có 16 lỗ tròn, nổi trên nền hoa văn hình cánh hoa liên hoàn. Những lỗ tròn này là nơi gắn các viên đá quý nhằm tăng thêm giá trị của chiếc vòng. Phần khóa của chiếc vòng là một đồ án trang trí hình hai con rồng chầu một hạt châu (hay hạt đá quý) nay đã bị thất lạc.

    Vòng tay bằng vàng của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Đồ án lưỡng long trên vòng tay vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Hạt pha lê khảm trên vòng tay vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.

    Bộ trang sức này được tạo tác một cách công phu với kỹ thuật điêu luyện chứng tỏ trình độ tay nghề của nghệ nhân chế tác món đồ này thuộc vào hạng thượng thừa. Đối chiếu các kiểu thức trang trí có trên bộ trang sức này với những miêu tả trong các nguồn sử liệu viết về mỹ thuật và thủ công mỹ nghệ thời chúa Nguyễn, đồng thời so sánh với những kiểu thức trang trí trên Đại hồng chung chùa Thiên Mụ (do chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc năm 1715), trên trán bia mộ của bà Chiêu phi họ Nguyễn (một vương phi thời chúa Nguyễn) ở Quảng Trị) và trên trán bia mộ bà Chiêu Nghi Trần Thị Xạ (vợ chúa Nguyễn Phúc Khoát) ở Huế, tôi đồng tình với ý kiến của Vũ Kim Lộc rằng đây là bộ trang sức của một vương phi thời chúa Nguyễn.

    Đồ án chim phượng trang trí trên Đại hồng chung chùa Thiên Mụ, đúc năm 1715. Ảnh. Trần Đức Anh Sơn.

    Đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia Nguyễn Chiêu phi. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.

    Bản dập đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia mộ Nguyễn Chiêu phi. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.

    Đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia mộ Chiêu Nghi Trần Thị Xạ. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.

    Và đây cũng là bộ bảo vật đầy đủ nhất và quý hiếm nhất của thời chúa Nguyễn mà giới nghiên cứu và sưu tầm cổ vật Việt Nam từng biết đến từ trước tới nay.

    Nguồn :Trần Đức Anh Sơn’s Blog

  • Bộ sưu tập các kiểu tóc trong suốt lịch sử Việt Nam

    Độc giả sẽ rất ngạc nhiên với những mái tóc dài chấm gót của những thiếu nữ Hà Nội đầu thế kỷ 19 đến vẻ đẹp mê hồn của những chân dung nổi tiếng một thời. Các bức ảnh đen trắng đã ngả vàng theo thời gian khi đặc tả những thiếu nữ Hà Thành tiêu biểu, khi ghi lại những dấu ấn rất riêng của phụ nữ Việt Nam ở cả 3 miền từ mái tóc dài chấm gót đến tóc vấn cao, tóc đuôi gà, tóc xoăn… Cho dù là ở độ tuổi, thời kì nào đi nữa, vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ Việt trong quá khứ hẳn cũng đã làm thế hệ công chúng trẻ phải thán phục và ngạc nhiên.

    Tất cả những tư liệu quý báu này đều được thu thập và lưu giữ dưới nhiều dạng thức, từ nghiên cứu kho tàng ca dao tục ngữ tới lời kể của người cao tuổi, những kí sự sưu tầm của các nhà du hành phương Tây đầu thế kỉ 17,18; qua các bức ảnh đen trắng bạc màu hay qua những mô tả trong các tác phẩm văn học cùng thời. Sưu tập ảnh đặc biệt này của nhà sử học Dương Trung Quốc chính là một trong những dạng thức lưu dấu vẻ đẹp một thời.

    Nhân dịp bộ sưu tập được giới thiệu tại Davines hair show diễn ra vào tối 31/7 tại Hà Nội, mời độc giả chiêm ngưỡng trước những bức ảnh hiếm có này.

    Người phụ nữ trong Nam nói chung, thành phố thuộc địa Sài Gòn nói riêng không vấn khăn như người Bắc hay người Hà Thành mà bới cao hay búi tóc, đôi khi sử dụng các loại khăn tân thời bằng len hay khăn đan sợi bông.

    Đến tuổi trưởng thành, các thiếu nữ đều vấn khăn để bộ tóc của mình gọn ghẽ, chắc trên đầu. Mái tóc dài được khéo léo cuộn vào trong một chiếc khăn. Nhà giàu thì dùng khăn nhung, kẻ nghèo thì bằng vải thường

     

    Nhà văn Nguyễn Công Hoan chép trong “Nhớ gì ghi nấy”: “Trước kia con gái lên ba, lên bốn thì cạo trọc đầu, nhưng để một cái “cút” ở phía trước. Từ 16 tuổi trở đi thì vấn khăn, tức rẽ giữa trán rồi trải sang hai bên mới vấn khăn ra ngoài, quấn chặt cho thật lẳn.

    Đứng giữa trong ảnh là bà Vi Kim Ngọc – phu nhân cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, cha là cụ Vi Văn Định. Bà kết hôn với GS Nguyễn Văn Huyên năm 1936, trong buổi lễ, bà vấn tóc cao với vành khăn tựa bà Nam Phương.

  • Chuyện ăn uống của các vua Nguyễn

    Chuyện ăn uống của các vua Nguyễn

    Tiếp theo bài viết đặc sản tiến Vua của người Việt xưa. Hình ảnh Việt Nam xin giới thiệu một bài viết rất hay trình bày những vấn đề về cung cách ăn uống của vua triều Nguyễn.

    Ông cố và ông nội tôi (cụ Nguyễn Đắc Tiêu) suốt đời ở trong ban Nhạc chánh của Nam triều. Đời bác tôi (ông Ngũ Vọng) , lại làm Thị vệ cho vua Khải Định và ông vua cuối cùng Bảo Đại. Lúc nhỏ tôi được gần ông nội tôi và bác tôi. Để giải buồn, ông tôi và bác tôi hay kể chuyện trong Nội cho tôi nghe. Những chuyện đó cứ được kể đi kể lại đã làm cho nhiều người khó chịu và chúng cũng đã hằn sâu trong tâm trí tôi. Không ngờ, nững nếp hằn đó đã trở thành những cơ sở đầu tiên cho cuộc đời nghiên cứu Huế của tôi sau này.

    Ẩm thực cung đình Huế
    Ẩm thực cung đình Huế

    Nhân nói chuyện ăn Tết năm nay, tôi xin trình bày đôi nét về chuyện ăn uống của các vua Nguyễn.

    Trong cung Nguyễn có hai bộ phận lo chuyện bếp núc.

    Bộ phận Lý Thiện : Người phục vụ trong bộ phận này phần lớn là dân làng Phước An (Thừa Thiên-Huế) phụ trách nấu nướng cỗ bàn cho những yến tiệc, kỵ giỗ của triều đình. Đầu đường Lê Huân phía cột cờ có một con đường nhỏ mang tên Lý Thiện. Đó là nơi ăn ở và làm việc của bộ phận Lý Thiện ngày xưa.

    Bộ phận Lý Thiện : Ở ngay trong Đại Nội (phía phải của Nhà hát cung đình Duyệt Thị Đường). Thượng Thiện hằng ngày đi chợ mua thực phẩm cho vua và gia đình nhà vua. Bộ phận này là bếp chính của vua.

    Mẹ tôi đã từng được bác Ngũ Vọng đưa vào xem bếp Thượng Thiện và được nghe lính Thượng Thiện giải thích cặn kẽ chuyện bếp núc của nhà vua.

    Bếp Thượng Thiện lo nấu nướng cho vua ăn có đến mấy chục người. Mỗi người phụ trách một việc như : vót đũa, vót tăm, quết thịt nạc, làm nem, làm chả, làm tré, người đi chợ, người nấu các món ăn (mỗi người chỉ nấu được một vài món / 35 món).

    Nấu cơm và thức ăn cho vua đều dùng nồi trách bằng đất nung sản xuất ở làng “Đột Đột” huyện Phong Điền. Đồ đất mới đưa vào Nội liền được thả vào một chảo nước chè xanh đậm đặc đang sôi sùng sục, ninh đến khi nào các đồ đất mới ấy được mạ một lớp men xanh mới vớt ra và cất vào kho để dùng dần. Mỗi bữa ăn dùng một cái om nấu cơm, vua ăn xong đập bể, bữa sau lại dùng cái khác.

    Đũa vua dùng vót từ một loại tre già, vót sao cho chiếc đũa có một đầu to, một đầu nhỏ. Vót xong dùng dăm tre chuốt cho thật bóng láng và bỏ vào nồi hấp rồi phơi khô trước khi nhập kho. Tăm vua dùng gọi là “tăm bông” cũng vót từ một thứ tre già. Chiếc tăm dài bằng cây bút bi. Đầu nhỏ giống đầu tăm thường dùng xỉa răng. Đầu lớn bằng mút đũa được người vót dùng sống rựa đập nhè nhẹ cho tuơ ra, cái xơ tre thật mịn mới được dùng. Cái đầu xơ loe ra giống như một cái bông vạn thọ, nhà Nguyễn kiêng chữ “hoa” nên gọi là “tăm bông”. Các cụ nhuộm răng đen, sau khi ăn cơm xong, xỉa răng uống nước cho sạch miệng rồi dùng đầu tăm bông chà sạch răng. Cuối cùng chấm đầu bông ấy vào thuốc rỏi (đen như mực) để rỏi lại hàm răng, giữ cho hàm răng luôn luôn bóng đẹp, nhất là phái nữ.

    Vua ăn cơm gọi là hoàng đế “ngự thiện” hoặc “Ngài ngự thiện”. Trừ vua Duy Tân và vua Bảo Đại “ngự thiện” với vợ con, các ông vua khác thường ngồi ăn cơm một mình. Khi cần có người nói chuyện cho vui trong khi ăn, vua cho hai trực thần (quan văn từ tứ phẩm, quan võ từ tam phẩm trở lên) vào ngồi gần hầu chuyện, gọi là “chầu thiện”. Vua ” ngự thiện” trên bàn hoặc trên sập, hai quan “chầu thiện” ngồi chênh chếch đối diện với một khoảng cách có thể đối thoại với nhau bằng giọng bình thường. Nếu có những vị quan nào được vua quý trọng, vua sẽ “ban thiện” bằng cách sai thị vệ dọn thêm một mâm riêng và mâm cơm được đặt ở một khoảnh cách nhất định để vị quan đó vừa ăn cơm vừa hầu chuyện.

    Trong lúc vua ăn, ban nhạc cung đình ngồi ở xa xa hòa nhạc giúp cho không khí bữa ăn bớt phần tẻ nhạt.

    Mỗi bữa “ngự thiện” có 35 món. Các món chính đựng trong vịm bịt giấy và buộc lạt cẩn thận. Tên thức ăn được viết trên một cái nhãn dán bên ngoài vịm. Vua thích món ăn nào thì bảo thị vệ mở món đó. Trước khi ăn, nhà vua thường ban bớt thức ăn cho các bà phi được nhà vua sủng ái nhất.

    Trong 35 món ngự thiện không phải món nào cũng thuộc loại cao lương mỹ vị mà thực ra có nhiều món rất bình dân như : dưa môn kho, ruốc sả, dưa cải, rau muống chấm nước tôm kho … Vua Duy Tân lúc nhỏ rất thích ăn cơm với cá bống kho khô, khi lên làm vua, bữa “ngự thiện” nào cũng có món ăn dân tộc ấy. Cơm “ngự thiện” đầy đủ như thế, nhưng nhiều khi nhà vua không thích ăn mà chỉ húp một chén cháo trắng rồi đứng dậy.

    Vua ăn xong, thị vệ bèn bưng vào một khay thức ăn tráng miệng gồm có các loại chè, bánh, kẹo, mứt, trái cây. Những món này được những bàn tay “cực kỳ tinh tế ” của các bà trong cung Nguyễn tự làm hay gửi mua. Bởi thế, dù không muốn ăn nhà vua cũng cố gắng nhón tay lấy một vài món bỏ vào miệng ăn để vừa lòng các bà. Các bà có món ăn được vua chọn lấy làm hãnh diện. Những món nhà vua không dùng hết, vua để riêng ban cho các quan. Vua cho ai món gì thì giao cho thị vệ sai lính thượng thiện bỏ vào quả sơn đỏ để vào siểng phủ khăn điều và che lọng xanh rước đến tận nhà người đó. Tại đây, chủ nhà phải có mặt để đón “ân vua, lộc nước”.

    Việc nấu nướng ăn uống của vua lâu ngày ảnh hưởng đến các quan và dần dần ảnh hưởng đến dân gian. Đến nay, triều Nguyễn đã chấm dứt gần nửa thế kỷ mà cái ảnh hưởng đó vẫn còn. Và nó đã được xem là di sản văn hóa vật chất của trung tâm văn hóa Huế.

    Nguyễn Đắc Xuân
    1994