Category: Văn hóa Việt

  • Đặc sản tiến Vua của người Việt xưa

    Đặc sản tiến Vua của người Việt xưa

    Bạn có muốn biết Vua ăn gì không?

    Nền ẩm thực phong phú của Việt Nam từ thời xa xưa đã sản sinh ra hàng trăm, hàng ngàn món ăn đặc sắc. Một phần nhỏ trong số những món ăn đó hưởng vị trí trang trọng đặc biệt khi được đưa vào cung đình để cung tiến các bậc vua chúa. Tiêu chí lựa chọn là: có giá trị dinh dưỡng cao và hương vị tuyệt vời hiếm thấy.

    Dưới đây là một số đặc sản tiến vua nổi tiếng ở Việt Nam:

     Sá sùng

    Ít ai biết rằng, từ thời xưa, sá sùng được khai thác để làm cống vật cho vua, quan hay chỉ có những người giàu có mới đủ điều kiện sử dụng bởi công dụng đặc biệt trong việc tăng cường sinh lực.
    Tuy nhiên, loài vật thân mềm này chỉ sống tại những bãi cát ven biển trên đảo Quan Lạn và Minh Châu (Quảng Ninh) và chỉ được khai thác vào tháng 3 đến tháng 7.

    Khi còn tươi, sá sùng có độ dài khoảng 5 – 10cm. Cá biệt có con dài đến 15 – 40cm, nặng từ 1- 3kg. Khi bị bắt lên khỏi mặt biển, chúng thu mình lại, tròn như một quả bóng, cái miệng bé như lỗ van bơm hơi. Lớp da sá sùng thay đổi màu sắc tùy theo môi trường ở, nếu dùng tay sờ vào thấy mềm và mát.


    Sá sùng có hình dạng na ná như một con giun khổng lồ, sống trong những hang đá, khe cát. 

    Ngoài công dụng chữa bệnh, sá sùng còn được dùng để chế biến thuốc hay nấu nước phở cho ngọt, nấu nước dùng ngon cho nhiều món trong dịp Tết.
    Tuy nhiên, việc khai thác sá sùng không phải đơn giản, bởi chỉ những người phụ nữ mới có thể khai thác được thứ của hiếm này – chứ nam giới bắt sá sùng tự nhiên mất hút.
    Bên cạnh đó, cư dân biển chỉ có thể dùng mai để đào, chứ không dùng được các loại máy móc hỗ trợ nào. Có lẽ chính bởi nguồn khai thác không lớn và thủ công nên giá của một kg sá sùng dao động khoảng 3,5 – 4 triệu đồng/kg.

    Bánh Phu thê

    Là nơi phát tích của vương triều nhà Lý, Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) thường được gọi là đất vua. Đây cũng vùng đất của một đặc sản nổi tiếng, đã được đưa vào tận kinh đô Huế để tiến vua, đó là bánh phu thê. Đúng như tên gọi của mình (phu thê nghĩa là vợ chồng), món bánh này không lẻ chiếc mà đi theo cặp. Phía sau những lớp là chuối, chiếc bánh hiện ra với lớp vỏ làm bằng bột nếp óng ánh màu vàng tươi. Nhân bánh là đỗ xanh giã nhuyễn, nhào đường, có thể cho thêm dừa. Hương vị của bánh ngọt ngào như duyện vợ chồng.

    Sâm cầm hồ Tây

    Sâm cầm hồ Tây là món ăn nổi tiếng, đã đi vào câu ca dao “Dưa La, húng Láng, ngổ Đầm/Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây” của đất Thăng Long. Quan niệm dân gian cho rằng loài chim này di trú từ phương Bắc về phương Nam, chúng đào ăn nhân sâm trên đỉnh các núi cao ở Trung Quốc, Hàn Quốc nên được gọi là sâm cầm. Đó là lý do thịt Sâm cầm được cho là một món ăn đại bổ. Đây cũng là một món ăn khoái khẩu của vua Tự Đức. Tương truyền, làng Nghi Tàm bên hồ Tây được lệnh mỗi năm phải tiến vua 40-50 con chim Sâm cầm, nếu thiếu sẽ bị phạt nặng.

    Cá Anh vũ

     

    Nếu Sâm cầm là niềm tự hào của hồ Tây thì cá Anh vũ là thương hiệu bất hủ của ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ). Với những thớ thịt trắng, quánh và đặc biệt là khối sụn môi giòn sần sật, cá anh vũ được người sành ẩm thực cho là ngon hơn bất kỳ loài cá nào của sông nước. Vì vậy, từ xa xưa, cá anh vũ đã được dùng làm thức tiến ăn tiến vua, được các bộ chính sử ghi lại. Cũng giống như sâm cầm hồ Tây, ngày nay cá Anh vũ đã gần như biến mất tại nơi vùng nước gắn với danh tiếng của mình.

    Chè long nhãn hạt sen phố Hiến

    Sau mỗi bữa ăn đầy sơn hào hải vị, vua chúa ngày xưa tráng miệng bằng gì? Một trong những câu trả lời là chè long nhãn hạt sen phố Hiến (Hưng Yên). Nguyên liệu chính của món chè tiến vua này là những quả nhãn lồng phố Hiến, loại nhãn có hương vị thơm quý phái, cùi dầy, ăn giòn, ngọt hơn bất cứ các loại nhãn nào khác.

    Gà Đông Tảo

    Bên cạnh nhãn lồng, đất Hưng Yên còn có một đặc sản tiến vua đặc sắc khác là gà Đông Tảo. Là giống gà quý chỉ có ở huyện Khoái Châu, gà Đông Tảo còn được gọi là gà chân voi đôi chân to sần sùi như chân voi, thân hình chắc nịch. Giống gà này rất khó nuôi, đòi hỏi phải kỳ công chăm sóc và gà càng già càng quý, thịt ăn thường có mùi vị thơm ngon đặc trưng không lẫn với bất kỳ loại gà nào. Gà Đông Tảo có thể được nấu thành nhiều món, nhưng độc đáo nhất là món “vảy rồng hầm thuốc bắc” làm từ đôi chân to quá khổ của chúng.

    Chuối Ngự

    Tương truyền, vào thời Trần, từ phủ Thiên Trường đến ngoài thành Nam Định, nhiều vùng là quê hương, thái ấp của vua quan nhà Trần. Cảm kích trước tài năng và đức độ của các bậc trị nước, dân thành Nam đã trồng một sản vật quý để dâng vua, đó chính là chuối ngự. Vẫn còn được trồng chọ đến ngày nay, chuối Ngự cho quả rất nhỏ, khi chín có màu vàng ướm như tơ tằm, mùi thơm ngát, vị ngọt thanh tao đầy quyến rũ…

    Cốm làng Vòng

    Cốm làng Vòng, sản vật đặc trưng của đất Thăng Long đã nổi tiếng từ cách đây 1.000 năm, khi được đưa vào cung tiến vua các triều Lý. Ngày nay, cứ mỗi mùa thu món ăn chơi làm từ lúa non này lại theo các gánh hàng rong ruổi khắp các phố phường Hà Nội. Cốm Vòng thường được mua về ăn với chuối chín hoặc nấu chè cốm. Đây cũng là nguyên liệu chính của bánh cốm Hàng Than, một món ăn cũng rất đậm chất Hà Nội.

    Mắm tép Hà Yên

    Mắm tép Hà Yên (huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa) là một đặc sản quý và độc đáo ở vùng chiêm trũng xứ Thanh, thời xưa thường được dùng để tiến vua. Để làm loại mắm này, các chức sắc địa phải cử người đến tận khe Gia Giã, làng Cổ Đam (vùng Bỉm Sơn bây giờ) để đánh riêng một loại tép quý, là tép riu nhỏ, có mầu trong xanh. Khi nấu nước mắm cũng phải chọn người nấu giỏi nhất vùng. Khi hoàn thành mắm có ánh vàng, sóng sánh như mật ong.

    Rau muống Linh Chiểu

    Trắng nõn và mềm giòn như giá đỗ, hương vị hài hòa, rau muống Linh Chiểu (huyện Phúc Thọ, Hà Nội) thời xưa rất được các bậc vua chúa ưa thích. Bởi vậy, giống rau này còn có tên gọi khác là rau muống tiến vua. Để bảo đảm chất lượng, việc chăm sóc rau rất kỳ công và vất vả, đất trồng rau phải nằm sát sông, được hưởng mạch nước sủi trong vắt và phù sa sông Hồng bồi đắp. Do việc chăm sóc phức tạp, hiệu quả kinh tế không cao, ngày nay giống rau đặc sản này đang dần bị mai một.

    Tổ chim yến

    Được làm từ nước dãi của những con chim yến, yến sào (tổ chim yến) là một đặc sản có hương vị rất hấp dẫn và giá trị dinh dưỡng cao. Từ thời xưa, yến sào đã được khai thác tại các đảo Yến ở ngoài khơi tỉnh Khánh Hòa để cung tiến các vua chúa. Ngày nay, cơ hội thưởng thức sản vật này vẫn nằm ngoài khả năng của đa số người dân Việt Nam bởi giá thành của chúng rất cao, từ 50-60 triệu đồng/kg. Phần lớn yến sào khai thác được xuất khẩu để thu ngoại tệ.

    Nem Ninh Hòa Khánh Hòa

    Nem nướng Ninh Hòa được làm từ nguyên liệu thịt đùi heo còn nóng hôi hổi khi vừa xẻ thịt xong. Thịt được giã nhuyễn bằng máy và giã sơ lại bằng chày tay rồi ướp gia vị. Hỗn hợp thịt này được quấn quanh chiếc đũa nướng trên than hồng. Mùi thơm lừng tỏa ra nhờ các gia vị và hương liệu. Khi nem chín vàng, đầu bếp cắt thành nhiều miếng nhỏ và dài cho dễ gói.
    Nem nướng Ninh Hòa được làm từ nguyên liệu thịt đùi heo còn nóng hôi hổi khi vừa xẻ thịt xong. Ảnh: amthuckhanhhoa.vn.

    Nem nướng ăn kèm thường là bánh hỏi và bún. Cùng vài miếng bánh tráng cuốn tròn chiên giòn rụm. Rau ăn với nem nướng không thể thiếu xà lách, rau húng, chuối chát, hẹ lá và nhiều loại rau rừng chỉ có ở miền Trung.

    Đây là món ăn dân dã nhưng cũng không kém phần sang trọng. Vì thế, khiăn, người ta lấy mỗi thứ rau một vài lá rồi cuốn với bánh tráng và bánh hỏi, bánh tráng chiên giòn kẹp với một miếng nem nướng chấm với nước chấm. Nước chấm được chế biến rất đặc biệt gồm nước mắm nhỉ được pha loãng nêm gia vị và tỏi, ớt, đậu phộng rang giã nhuyễn, có vị hơi ngọt và sền sệt. Rau có đủ vị chua, chát, cay, đắng, thơm,… hòa với nước chấm hương vị là lạ, thơm và béo.

    Nem Ninh Hòa là đặc sản của tỉnh Khánh Hòa rất phổ biến ở vùng này. Nhiều người phải nếm thử nem nướng khi đặt chân đến Ninh Hòa hay Nha Trang.

    Nước mắm Nam Ô

    Làng Nam Ô (Liên Chiểu – Đà Nẵng) xưa nay đã lừng danh với thương hiệu nước mắm tiến vua. Loại nước mắm này được chế biến bằng một thứ nguyên liệu rất độc đáo – con cá cơm than, do đó hương vị mắm Nam Ô không thể lẫn lộn với các loại nước mắm khác. Nước mắm Nam Ô có màu vàng nâu trong suốt, vị mặn vừa phải, mùi không quá gắt, thích hợp làm sản phẩm tiến vua từ rất xa xưa.

    Nhãn lồng Hưng Yên

    Nhãn lồng Hưng Yên là loại nhãn nổi tiếng bậc nhất nước ta. Loại quả này có vỏ dày màu vàng sậm, nổi gai. Cùi nhãn lồng rất dày, thơm, ngọt sắc như đường phèn và hạt nhãn thì rất nhỏ. Nhãn lồng được trồng ở nhiều nơi trong tỉnh Hưng Yên, nhưng ngon nhất là nhãn trồng trong ĐÌnh Hiến.

    Vải thiều Thanh Hà

    Miền Bắc Việt Nam trồng nhiều vải, nhưng trong đó vải thiều Thanh Hà tỉnh Hải dương là nổi tiếng hơn cả với vị ngọt thơm, cùi dày, hạt rất nhỏ. Khi chín, cả cây vải chuyển màu đỏ tươi như đĩa xôi gấc đơm đầy nhìn rất đẹp mắt. Không chỉ là sản vật tiến vua nhiều đời, vải thiều Thanh Hà còn là sản vật cống tiến nước ngoài, tương truyền nàng Dương Quý Phi rất thích ăn loại vải thiều này.

    Hình Ảnh Việt Nam tổng hợp

  • Ký hoạ 1935: cuộc sống người Miền Nam xưa

    Ký hoạ 1935: cuộc sống người Miền Nam xưa

    Bộ tranh này là những tác phẩm ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định . Xuất bản năm 1935 dưới dạng sách ảnh gồm 8 quyển, có tên Monographie dessinée de l’Indochine: Cochinchine, bằng tiếng Pháp, in khổ 32 x 25 cm. Hiện nay, bộ sách này được lưu giữ tại Thư viện Khoa học Tổng hợp TP HCM. Trường Mỹ thuật Gia Định tập hợp các tranh vẽ của sinh viên về phong cảnh, đời sống, sinh hoạt, văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng, các nghề thủ công, nông nghiệp, thương mại của người Nam Bộ vào khoảng những năm 30 của thế kỷ 20 và tạo nên cuốn sách này.

    Cầu khỉ trên con rạch ở Sa Đéc
    Cầu khỉ trên con rạch ở Sa Đéc
    Băng qua con rạch
    Băng qua con rạch
    Một cảnh ở chợ chuối.
    Một cảnh ở chợ chuối.
    Những nhạc công đường phố
    Những nhạc công đường phố
     Tắm con trẻ

    Tắm con trẻ
    Viếng mộ ngày giáp tết ở nghĩa trang Tân Sơn Nhất
    Viếng mộ ngày giáp tết ở nghĩa trang Tân Sơn Nhất
    Một người chơi đàn cò.
    Một người chơi đàn cò.
    Bà gánh cháu.
    Bà gánh cháu.
    Đám cưới người Việt Nam xưa.
    Đám cưới người Việt Nam xưa.
    Cảnh xay bột.
    Cảnh xay bột.
    Người bán gà
    Người bán gà
    Cảnh dệt chiếu.
    Cảnh dệt chiếu.

     

    Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream

    Hình ảnh Việt Nam tổng hợp từ internet

  • Nghệ thuật trang trí trống đồng – Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Nghệ thuật trang trí trống đồng – Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Văn hoá Đông Sơn là nền văn hoá tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, phản ánh một thời kỳ phát triển văn hoá rực rỡ mà chủ nhân là những người Việt cổ. Nói đến Văn hoá Đông Sơn là nói đến trống đồng, bởi ở đó tập trung cao nhất những ý niệm về vũ trụ, những quan niệm nhân sinh.

    Đông Sơn là tên một làng nằm ở bờ sông Mã, cách cầu Hàm Rồng khoảng 1km về phía thượng nguồn (thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá). Năm 1924, người nông dân tên gọi Nguyễn Văn Lắm ở làng Đông Sơn khi ra bờ sông Mã câu cá đã tìm thấy một số đồ đồng ở nơi bờ sông sạt lở.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Văn hóa Đông Sơn đã làm chủ hoàn toàn nguyên liệu và chế tác ra nhiều loại hình công cụ, vũ khí, trang sức bằng đồng tinh xảo nhất còn lại cho đến ngày nay…Tuy nhiên, niềm tự hào chính đáng của chúng ta trong nền văn hóa Đông Sơn chính là bộ sưu tập trống đồng hết sức phong phú. Trống đồng của tổ tiên ta không giống hẳn các trống đồng tìm được tại các quốc gia khác ở vùng Đông Nam Á, mà lại khá nhiều về số lượng, dày đặc về mật độ phân bố, trau chuốt về đường nét và tinh tế về thẩm mỹ cũng như kỹ thuật chế tác, chứng minh rằng nền văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ đã phát sinh trưởng thành ngay tại bản địa.

    Những trống đồng Đông Sơn dù to nhỏ khác nhau, thời gian đúc sớm muộn khác nhau nhưng đều thống nhất về kiểu dáng gồm 3 khối hình học cơ bản chồng lên nhau:

    – Đế trống hình chóp cụt.

    – Thân giữa là khối trụ

    –  Phần tang ở trên là một phần của khối chóp cầu bị cắt lát để ngửa.

    Ba khối hình học trên khác nhau nhưng lại kết hợp hài hòa làm cho trống có các phần cân đối, vững chãi, sinh động.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Trống đồng Đông Sơn đã đẹp về tạo dáng lại càng đặc sắc hơn về lối tạo hình trong trang trí mang tính biểu tượng về những ý niệm vũ trụ, phong tục tập quán của đời sống con người. Tất cả vũ trụ , trời đất, sông núi, muôn loài…chỉ có thể xác nhận bằng trí tuệ con người và thống nhất một chủ đề là cuộc sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thời đại các vua Hùng. Trong các trống đồng tìm thấy, tiêu biểu là trống đồng Ngọc Lũ ( Nam Hà); trống đồng Hoàng Hạ (Hà Tây); trống đồngCổ Loa ( Đông Anh ); trống đồng đền Hùng( Phú Thọ) và trống đồng Đa Bút ( Vĩnh Thịnh, Quảng Xương TH).

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Bố cục mặt trống là những vòng tròn đồng tâm, bao lấy mặt trời hình ngôi sao nhiều cánh: 8- 12 – 14- 16cánh… tượng trưng cho mặt trời là dương, các vòng tròn tỏa rộng tượng trưng cho mặt trăng là âm. Đường đi của các họa tiết được trang trí trên mặt trống theo chiều ngược kim đồng hồ cũng là quan niệm lấy âm lịch làm trục thời gian trong sự vận hành chuyển hóa vũ trụ. Các họa tiết trang trí trên trống đồng là sự kết nối phong phú đa dạng vừa thể hiện triết lý phương Đông vừa thể hiện tư duy nông nghiệp đầy chất sáng tạo mang tính biểu tượng cao.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Họa tiết mặt trời là mảng lớn đặt chính giữa bề mặt trống được mô phỏng bằng các nét thẳng, tạo góc nhọn hình tia đều nhau làm người xem liên tưởng tới tia chiếu của ánh hào quang từ mặt trời. Mặt khác, nó là sự tượng trưng cho sự khuyếch đại của âm thanh, sự giãn truyền của sóng tưởng chừng không giới  hạn.

    Trong những hình trang trí trống đồng Đông Sơn, nổi trội lên là những hình sinh hoạt của con người, hầu hết là những hoạt động tập thể. Đó là những họa tiết hình người khoác áo lông chim, đội mũ cắm lông chim, là những chiến binh cầm mộc, cầm rìu hay đang chèo thuyền trong lễ hội. Hoạt động ít người là hình đang giã gạo với đường nét đơn giản được chắt lọc từ hiện thực đời sống. Tính chủ đạo cho ta thấy con người hòa với thiên nhiên lao động sản xuất, đánh bắt cá, săn bắn thú rừng, nhảy múa và thổi kèn. Con người cầm vũ khí bảo vệ đất đai và tưng bừng nhảy múa mừng chiến công hay cảm tạ thần linh đều biểu cảm bằng con mắt tròn to gần kín khuôn mặt nghiêng, thân người nhìn thẳng trùng hợp với phong cách của nghệ thuật cổ Ai Cập.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Với đặc điểm là cư trú vùng hạ lưu của các con sông lớn, người xưa coi thuyền là nhà của mình, đi lại bằng thuyền, ở trong thuyền … Hoàng Nam Tử đã viết: “Người Hồ thạo đi ngựa, người Việt thạo đi thuyền”. Văn hóa “thuyền” đã là dấu ấn in đậm trên họa tiết trang trí trống đồng. Nhìn về góc độ nghệ thuật thì họa tiết hình thuyền hầu như chiếm vị trí duy nhất trên bộ phận tang trống. Những chiếc thuyền to đẹp, đường nét mềm mại hình cánh cung, hai đầu cong vút được cắm lông chim, giữ thuyền có “lầu” với những hình mái chèo, hình người được sắp xếp đứng ngồi tạo sự thay đổi về nhịp điệu, phóng khoáng về đường nét.

    NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRỐNG ĐỒNG - Tinh hoa văn hóa Đông Sơn

    Tư duy của người Việt cổ còn mang đậm hình ảnh “ con cò bay lả bay la”; những cánh chim Lạc, chim Hồng là sự hóa thân vào con chim Hạc được cách điệu cao và phân bố dày đặc trên mặt trống: chim bay, chim đậu, chim đứng chầu mỏ vào nhau … xen kẽ với hình hươu và thuyền.

    Một dạng họa tiết khác góp phần không nhỏ tạo nên giá trị nghệ thuật của trống đồng là các họa tiết hình học cơ bản: hình rẻ quạt được xen kẽ giữa các cánh sao như những tia sáng, là nét đệm chuyển tiếp làm nền cho họa tiết chính. Họa tiết răng cưa là một cách thể hiện khác của họa tiết rẻ quạt, đó là sự tỏa ra của vầng hào quang mà chủ là mặt trời. Các vòng ròn nối nhau có điểm chấm ở giữa có thể hiểu là sóng nước, là hình trang trí điểm xuyết cho diềm trống. Họa tiết chữ S biểu thị cho chớp. Đó chính là tính ước lệ cho nghệ thuật trang trí trống đồng Đông Sơn.

    Theo dòng chảy lịch sử, văn hóa Đông Sơn với đỉnh cao là nghệ thuật trang trí trống đồng đã lùi xa cách thời gian của chúng ta ngót trên 2000 năm nhưng hình bóng của một nền văn hóa văn minh dân tộc vẫn còn tiềm ẩn đến ngày nay trong đời sống của các dân tộc Việt Nam, là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Giữa 54 dân tộc anh em với nhau  trên dải đất Việt để vang vọng mãi hai tiếng “đồng bào”.

    Họa tiết hình “con thuyền- ngôi nhà” trên trống đồng Đông Sơn chính là hình ngôi nhà của người Kinh- Mường- Thái phía bắc, hình “tuyền” trên trống đồng còn hóa thân vào mái ngôi nhà Rông của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Hình chim Hạc trên trống đồng Đông Sơn được tạc bằng gỗ đặt ở đàu hồi nhà sàn người Thái, trên hoa văn thổ cẩm người Thái Mường phía bắc…v.v…

    Tự hào biết bao nghệ thuật trống đồng Đông Sơn- văn hóa Đông Sơn; càng tự hào hơn khi trống đồng Đông Sơn còn trong tư cách trống trận trong lịch sử  mà tướng giặc khi nghe tiếng trống của người Việt đã sợ bạc cả tóc:

                  Bỗng lòe gươm sắt lòng thêm đắng
                                   Rộn tiếng trống đồng tóc đốm hoa

    (Trần Phu)

    Theo sentichmich89 blogspot

  • CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ)

    CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ)

    Những ai đã từng sống qua cái thời bao cấp gian khó trước đây đều biết đến cái vật này, cái thời nhà nhà đều chưa có cái tủ lạnh như bây giờ. Ở thành phố, cái chạn được đóng bằng gỗ, nông thôn người ta làm bằng tre. Hình thức thì giống nhau, công dụng như nhau đều là nơi để gia đình cất giữ thức ăn, nó có ngăn riêng chống được Ruồi, muỗi, chuột, bọ.

    CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ)

    Ngày ấy nghèo khó nên cũng chả có thức ăn gì lưu cữu quá 2 ngày nên chả cần lạnh, chủ yếu là để tránh gián, chuột chui vào và con Mèo ko ăn vụng được. Nhiều nhà để tránh lũ Kiến leo lên người ta còn kê 4 cái chân chạn lên 4 cái bát mẻ, đổ ngập dầu luyn tránh Kiến. Tầng trên cùng thoáng mát bởi 3 phía được gắn lưới sắt mắt nhỏ, có cánh cửa với cái khóa gỗ xoay ngang đóng bằng đinh guốc hoặc cái khuy móc cửa được dùng để cất đồ ăn, liễn mỡ, hũ đường… tầng giữa úp bát đũa và có thể là những cái nồi nhỏ.Tầng dưới cùng là vài ba cái hũ dưa Cà hay chai nước mắm dở, túm hành tỏi khô, sấp lá bánh đa nem còn lại, lọ lạc sống và úp xoong nồi, chảo…gầm chạn cao là nơi con Chó thích chui vào nằm nhất cho nên sau này các Cụ hay ví các chàng trai đi ở rể nhà vợ như “Chó chui gầm chạn” là vậy !

    Cái Chạn đã gắn bó với người Việt Nam qua rất nhiều năm khốn khó, lũ trẻ con đi học, đi chơi về đến nhà là lục Chạn xem có gì ăn không, có khi chỉ là củ khoai, củ sắn hấp cơm còn để lại trong cái bát chiết yêu miệng loe cũng đủ ấm lòng. Cái Chạn có lọ muối vừng, có bát mắm dở, có tý Tép rang, vài quả Cà thâm đen khô khốc đủ để ăn nốt bát cơm nguội vét nồi. Có lần để cửa Chạn hé mở, có con chuột nhắt mò vào thế là mấy đứa trẻ sập cửa Chạn hò nhau bắt… Cái Chạn chứa đựng cả một thời khốn khó, hiếm có nhà nào có sơn hào hải vị chứa trong cái vật đơn sơ ấy. Nó bình dị nhưng là vật ko thể thiếu trong nhà cùng cái Bếp kiềng đun rơm củi, xoong nồi đen nhẻm, nấu cơm khói bay mù mịt thơm mùi rơm mới. Cái Chạn đi vào tiềm thức tuổi thơ, thân thuộc.

    Nhớ lắm !

    (st)

  • Ảnh độc về một đám cưới ‘quý tộc’ năm 1969

    Ảnh độc về một đám cưới ‘quý tộc’ năm 1969

    Ngoài việc ghi lại khoảnh khắc tình yêu, hạnh phúc lứa đôi, các bức hình cưới xưa còn cho thấy sự đổi thay của xã hội qua từng năm tháng.

    Đây là những hình ảnh về các nghi lễ trong đám cưới của ông Vĩnh Phối và bà Thạch Huệ ở Huế ngày 9/3/1969. Trong ảnh là lúc nhà trai đến làm lễ trình giờ trước khi đón dâu.
    Phù dâu chuẩn bị trang phục cho cô dâu.
    Cô dâu và phù dâu.
    Đoàn nhà trai vào nhà gái.
    Mẹ cô dâu và mẹ chú rể thắp hương báo gia tiên tại nhà gái.
    Cô dâu lễ gia tiên tại nhà gái.
    Chú rể trao hoa cho cô dâu.
    Cô dâu, chú rể và hai bà mẹ.
    Đưa cô dâu về nhà chồng.
    Chú rể đón cô dâu.

    Tiệc cưới. Ảnh cưới vốn mang tính chất riêng tư của các cặp đôi, tuy nhiên, trước đây cũng có khá nhiều người muốn chia sẻ khoảnh khắc riêng tư của mình. Nhờ đó, những thế hệ sau có được nguồn tư liệu giá trị về văn hoá, phong tục và nếp sống của dân tộc qua các thời kỳ. (Ảnh chụp lại tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam).

  • Nghệ thuật ” khiêu dâm” ở Việt Nam thời cổ

    Thật bất ngờ là Việt Nam ngày xưa cũng có nghệ thuật nhạy cảm này, trái ngược với suy nghĩ cho rằng “các cụ” thời xưa rất kín kẽ về chuyện tình dục. Thực ra chỉ “các cụ” tầng lớp quý tộc, quan lại mới kín kẽ thôi, chứ “các cụ” ở tầng lớp bình dân thì thoải mái, phóng khoáng, vô tư về vấn đề này vô cùng.

    Chỉ có điều nghệ thuật nhạy cảm này ở Việt Nam không phát triển bằng nghệ thuật Xuân cung họa (Shunga) bên Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

    Nghệ thuật " khiêu dâm" ở Việt Nam thời cổ
    Nghệ thuật ” khiêu dâm” ở Việt Nam thời cổ

     

    Nguồn: ĐVCP hỏi đáp

  • Tết 3 miền Bắc – Trung – Nam

    Tết 3 miền Bắc – Trung – Nam

    Tết Nguyên Đán là ngày tết cổ truyền của Việt Nam, song ở mỗi vùng miền đều có những hình thức ăn tết khác nhau, Giữa miền Bắc, Trung và miền Nam từ lâu đã có những nét đặc trưng riêng… Bản sắc vùng miền hiện lên rất rõ trong từng cung cách ăn mặc hay vui chơi.

    Miền Bắc
    – Bánh chưng:
    Nhắc tới Tết miền Bắc, đầu tiên là món bánh chưng, bánh giầy. Bánh chưng thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông, đất trời xứ sở và là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại. Gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt, đặc biệt phía Bắc, mỗi dịp Tết đến xuân về. Bên cạnh bánh chưng là bánh giầy, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamNgười Bắc có câu: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh... Không có thịt mỡ, không có dưa hành, không có bánh chưng là không phải ngày Tết. Điều đó làm nên nét đặc trưng của món ăn ngày Tết. Bánh chưng ăn dễ ngán nên cần có thêm đĩa dưa hành muối. Trên mâm cỗ cổ truyền của người Hà Nội không thể thiếu món giò lụa và thịt gà có mấy sợi lá chanh ở trên. Ngoài ra, người miền Bắc còn có món thịt đông ăn trong ba ngày Tết, đây là món ăn dễ làm lại rất phù hợp với khí hậu lạnh…

    – Hoa đào:
    Nếu như ở mảnh đất phương Nam xa xôi hoa mai kiêu hãnh khoe mình trong nắng, gió thì trong tiết trời se lạnh của miền Bắc hoa đào góp phần làm xua tan cái giá rét của mùa đông
    Theo truyền thuyết, có một cây hoa đào đã mọc từ rất lâu trên vùng núi cao phía bắc. Trên cây đào bỗng xuất hiện hai vị thần tài giỏi có nhiệm vụ bảo vệ và che chở cho dân làng trong vùng. Do đó, ma quỷ rất sợ hai vị thần này và sợ luôn cả hoa đào. Cứ thấy cành đào là chúng bỏ chạy thật xa.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamHàng năm, gần đến Tết, hai vị thần này lại phải lên trời gặp Ngọc Hoàng nên không có người bảo vệ nên dân trong làng rủ nhau lên rừng chặt đào mang về cắm trong nhà để phòng ma quỷ.
    Cây đào chỉ trồng được ở miền Bắc, là loại hoa đặc biệt của Tết Nguyên đán. Nhiều người chuộng chơi hoa đào tết vì hoa đào có màu đỏ sẽ mang lại sự may mắn trong năm.

    Việc miền Bắc chơi đào, trong khi miền Nam chơi mai trong dịp Tết được giải thích là sau khi mở rộng bờ cõi về phương Nam vốn có khí hậu nóng hơn không thích hợp với việc trồng đào, mỗi khi Tết đến, những người đi mở đất nhớ đến cành đào ngoài Bắc nhưng không thể có được đã chọn mai (một cây hoa rất phổ biến ở trong Nam, đẹp, nhiều hoa lại nở đúng mùa Tết) để thay thế. Nếu ngày Tết mà thiếu hoa đào thì thiếu hẳn hương sắc mùa xuân. Mỗi dịp Tết đến xuân về, đào nở rộ như nhắc chúng ta nghĩ về gia đình, về một năm cũ đã qua…

    – Ngũ quả:
    Mỗi năm, cứ vào dịp Tết Nguyên đán, trên bàn thờ mọi gia đình người Việt đều bày mâm ngũ quả. Với màu sắc rực rỡ, hình dáng độc đáo cùng những ý nghĩa sâu xa, mâm ngũ quả làm cho ngày Tết sinh động hơn, thiêng liêng hơn…

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamMâm ngũ quả ở miền Bắc nhìn chung nhỏ hơn mâm ngũ quả ở miền Nam và không thể thiếu 3 loại quả: chuối, bưởi, quýt (hoặc cam). Mâm ngũ quả miền Nam thì khó có thể thiếu cặp dưa hấu và 4 loại quả: mãng cầu (na), dừa, đu đủ, xoài, bởi vì cầu – dừa – đủ – xoài theo tiếng người miền Nam có nghĩa là “cầu vừa đủ xài” – mong ước phổ biến nhất của họ trong năm mới. Một số nhà lại bày thêm trên mâm ngũ quả bình thường một chùm sung và quả đu đủ với ngụ ý cầu mong cuộc sống gia đình sẽ luôn “đầy đủ, sung túc”.

    Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cúng thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hoà với màu xanh mát của dưa hấu, đỏ rực của hồng, nâu mịn của hồng xiêm, vàng tươi của bưởi, cam, dứa… Nó thể hiện sinh động ý nghĩa triết học – tín ngưỡng – thẩm mỹ ngày Tết cùng những ước vọng lạc quan mà mỗi gia đình mang theo khi bước vào năm mới.

    – Mâm cỗ

    Cỗ tết truyền thống của người Việt trên khắp mọi miền đất nước đều có những món truyền thống như bánh chưng, gà luộc, giò lụa… Nhưng tùy vào tập quán, tính cách và khí hậu của mỗi vùng miền mà mâm cỗ tết cũng khác đi.

    Mâm cỗ tết của người Hà Nội thể hiện sự tinh tế, đặc sắc riêng của văn hóa ẩm thực nơi đây. Cỗ tết Hà Nội không có món bánh răng bừa, món gỏi như ở Huế, cũng không có xôi kèm lợn quay, bánh tét hay bánh măng, bánh dừa mận như ở miền Nam… mà có nhiều thức riêng phù hợp để thưởng thức trong không khí ngày tết rét lạnh miền Bắc.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamThông thường, các bát trên mâm cỗ gồm một bát bóng nấu với chân tẩy và nước dùng gà (chân tẩy gồm có su hào, cà rốt, củ đậu được thái mỏng theo những hình hoa đẹp đẽ). Một bát khoai tây hầm đầu, cổ, cánh gà. Một bát miến nấu lòng gà. Và một bát măng khô ninh chân giò. Các đĩa thì có đĩa gà luộc, đĩa thịt đông, đĩa giò xào, giò lụa, đĩa cá kho riềng hoặc bò kho khô, đĩa nộm.

    Cỗ tết Hà Nội hay bất cứ ở đâu trên cả nước đều không thể thiếu các món truyền thống là dưa hành và bánh chưng xanh. Nhưng miền Bắc nổi tiếng cả nước với cái rét lạnh mùa đông. Cỗ tết do đó cũng đặc biệt hơn bởi những món được làm từ không khí rét mướt ấy như giò xào hay thịt nấu đông…

    Thức ăn ngày tết bao giờ cũng được gia đình coi trọng. Thịt gà được dùng trong ngày năm mới phải là thịt gà trống thiến và được làm sẵn từ chiều 30 (vì người Việt ta kiêng sát sinh vào ngày mồng 1 và năm mới). Thịt lợn là thịt nạc mông hay thịt chân giò ngon, còn thịt mỡ sẽ dùng để chế biến món giò xào cho dễ ăn…

    Phong tục truyền thống:

    23 tháng Chạp tiễn ông Táo về trời, ngoài lễ vật người Bắc còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ được “phóng sinh” (thả ra ao hồ hay ra sông) sau khi cúng.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamTrước khi chia tay năm cũ để chào đón năm mới thì bao giờ cũng sẽ bắt đầu từ những bữa cơm tất niên bên gia đình ngày hội ngộ. Mâm cơm Tết lúc nào cũng đầy đủ đồ ăn thức uống, vừa để dâng lên tổ tiên vừa là nơi để cả nhà quây quần. Dường Tết luôn là “cái cớ hợp lý nhất để người Việt nhích lại gần nhau hơn”.

    Giao thừa luôn là khoảnh khắc thiêng liêng và ý nghĩa nhất, mọi người trong gia đình sẽ tề tựu bên nhau, cùng nhau đi hái lộc đầu năm. Lễ vật cúng giao thừa ngoài hương hoa quả phẩm còn có thêm mâm xôi đậu xanh, con gà luộc hoặc đầu heo, bánh chưng, cau trầu rượu. Ngày xưa cúng giao thừa xong, người miền Bắc còn có cổ tục đeo xâu bủa nêu ở trước cửa nhà.

    Người Bắc thường coi trọng tục lệ xông nhà nên buổi sáng mùng Một sẽ ra đường chơi hoặc ở nhà ăn Tết sáng mà không vào nhà ai cả. Kiêng kị như thế là vì có những người “nặng vía” sẽ làm cho gia chủ năm đó làm ăn thất bát, xảy ra cơ sự… Vì thế, có những gia đình sẽ mời người “nhẹ vía” hoặc hợp tuổi với gia chủ để xông đất. Trước Tết hay trong Tết, người ta cũng chúc nhau năm mới may mắn, bình an. Cả 3 miền đều thế, người trong gia đình sẽ lì xì cho nhau chúc nhau khỏe mạnh, may mắn.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – Nam

    Miền Trung
    Bánh tét:
    Ở miền Trung và miền Nam, ngày Tết gói bánh tét. Bánh tét được gói bằng lá chuối với các nguyên liệu giống như bánh chưng, chỉ khác là gói thành hình trụ dài chứ không phải hình vuông như bánh chưng. Khi ăn cắt thành từng khoanh, ở giữa nhân đậu xanh và thịt mỡ nổi lên như nhụy hoa. Bánh tét được coi là dạng nguyên thủy của bánh chưng. Là biểu tượng cho tín ngưỡng phồn thực của người Việt xưa.
    Trong không khí rộn ràng của xuân mới, người miền Trung náo nức chào xuân với hương thơm của bánh tét, của dưa món, của nem chua, của tré, của thịt giầm bên cành mai vàng sắc nắng. Lát bánh tét dẻo mềm, được ăn kèm với những lát dưa món giòn giòn, đậm đà đem đến cho người ăn cảm giác ngon miệng rất khó quên, khiến bao người con xa xứ nhớ nhung mỗi độ xuân về.

    Nhà ai cũng thế, dù mâm cao cỗ đầy, cao lương mỹ vị thì vẫn không thể thiều những món ăn truyền thống, dân dã của quê hương này. Đó đã trở thành một hương vị rất riêng, rất Trung mà chẳng đâu có được. Bên cạnh đĩa bánh tét, dưa món, nắm tré, bò ngâm màu trầm, thường có chén (bát nhỏ) tôm chua, xinh như một bông hoa, chói chang đỏ như vầng mặt trời mùa xuân ấm áp.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamTết 3 miền Bắc – Trung – NamĐĩa bánh tét dẻo thơm, thịt giầm đậm đà hương vị quê hương… trên bàn thờ gia tổ hay trong mâm cỗ đầu xuân bày tỏ hồn quê, là nhịp cầu gắn kết con cháu với tổ tiên, là sợi tình kéo người với người thêm bền chặt. Chính vì lẽ đó mà người dân quen tằn tiện nơi mưa lắm, nắng nhiều ít tìm đến sự no nê khi ăn Tết; chỉ để cảm nhận cái hồn dân tộc. Dù nghèo nhưng vẫn gắng ra chợ mua lạng thịt, cân gạo, ít củ quả, lo cho được mấy món truyền thống; trước để dâng cúng tổ tiên, sau để đàn con líu ríu, quây quần quanh mâm cơm tràn đầy hương Tết.

    – Mâm cỗ:
    Mâm cỗ cúng tết của người Trung nấu rất khéo, ở đó chúng ta có thể nhìn thấy cả sự chắt chiu, san sẻ. Những món chính như: Rau sống, chả ram, canh bún, cơm trắng, đồ xào, thịt kho và đôi khi có cả cá kho hoặc thêm cà ri, con gà luộc… được cho vào từng đĩa nhỏ không dồn vào một đĩa lớn. Tuyệt nhiên, người Trung sẽ không nếm mà dựa vào kinh nghiệm của mình để nêm thức ăn. Người Trung cũng không để bàn thờ ông bà thiếu hương khói trong thời gian lễ Tết, và đặc biệt ngày mồng một nhất định phải cúng chay. Ngoài các món dành để cúng, những món còn lại sẽ dùng đãi khách và ăn trong suốt dịp Tết. Vì ở Trung thời tiết khắc nghiệt, có năm nắng nóng có năm lại lạnh nên các món ăn chủ yếu là chịu thời tiết.

    Cũng như những vùng miền khác, món ăn tết ở miền Trung cũng có các món thịt bò kho, cá kho, một nồi thịt nấu đông và vài cây giò thủ và kèm thêm một nồi canh măng nấu với xương và hũ hành, cà rốt, su hào muối sẵn. Tuy nhiên, các món ăn được chế biến có phần mặn, đặc biệt là rất cay. Nếu có khách phương xa đến không quen với khẩu vị ăn, ngay cả sáng mùng hai Tết thì cũng có thể mua được món mới, thậm chí mua được cả rau xanh để chế một nồi lẩu nóng hổi vì bây giờ, chợ miền Trung họp rất sớm.

    Mâm ngũ quả:

    Khúc ruột miền Trung quanh năm bão lũ, hạn hán, đất đai vốn cằn cỗi, ít hoa trái, thêm vào đó Tết thường rơi vào mùa đông khắc nghiệt, và cả những hậu quả mà thiên tai để lại trước đó chưa dứt thế nên cây trái đặc sản địa phương rất hiếm. Người dân quê một nắng hai sương chất phát vì thế mà cũng không quá câu nệ hình thức ý nghĩa của mâm ngũ quả, chủ yếu là có gì cúng nấy, thành tâm dâng kính tổ tiên. Ngoài ra, vì ảnh hưởng của sự giao thoa văn hóa 2 miền Bắc – Nam nên mâm ngũ quả vẫn bày biện đủ: chuối, mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài…

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamNgười Trung không hay dùng các loại chuối, trái cây có vị đắng, cay, mà chỉ chọn loại có vị ngọt, tròn, thơm và lâu hư úng để chưng mâm ngũ quả cho đẹp mắt, độc đáo, mong cầu an vui, hạnh phúc cho gia đình trong năm mới. Thường thì người Trung cũng không chưng trái cam, trái quýt vì theo quan niệm của người dân nơi đây rằng “cam đành quýt đoạn”.

    – Phong tục truyền thống:

    Những ngày áp tết, từ khoảng 20 tháng Chạp Âm lịch, đường phố, làng xóm bắt đầu rực rỡ sắc màu với hoa cúc, hoa vạn thọ, hoa giấy, nhà nhà chuẩn bị lau dọn bàn thờ tổ tiên, thay bình cát trắng để đón ông bà tổ tiên về sum họp gia đình. Nhà nào có đồ đồng sắt thì mang đến thợ đánh bóng cho sạch đẹp. Các mẹ, các cô đi chợ mua dần các vật dụng dùng trong ba ngày Tết. Dưa món, dưa kiệu, dưa hành, các loại mứt Tết đựng đầy hũ to hũ nhỏ trong bếp.

    30 tháng Chạp được xem là ngày đoàn tụ gia đình, con cái dù ở xa đến mấy cũng về thăm ông bà, cha mẹ. Sau khi cúng Tất niên, cả gia đình thường quây quần bên nhau trong không khí ấm ấp, rộn ràng bên nồi bánh chưng, bánh tét. Sáng 30 Tết, đàn ông trụ cột của gia đình đi mộ thắp hương cho ông bà tổ tiên, mời ông bà cùng về ăn Tết với con cháu. Các mẹ, các gì đi sắm sửa vật dụng cuối năm, nấu nướng chuẩn cúng Tất niên. Nếu ai còn nợ nần gì cũng lo trả hết hoặc phải khất nợ cho rõ ràng, nếu không chủ nợ đòi lúc đầu năm thì xem như mắc nợ cả năm.

    Ở miền Trung cũng có tục “xông đất “ như người Bắc vào sáng mồng một. Thường gia đình sẽ nhờ người lớn tuổi, còn mạnh khỏe, có vai vế và uy tín trong xã hội hoặc những đứa trẻ thông minh, hoạt bát, vui vẻ đến “xông đất” đầu năm. Sáng mùng một, cả nhà phải dậy sớm dọn dẹp, bày biện bánh kẹo để đón người xông đất. Ngày đầu tiên của năm mới, mọi người thường đến thăm và chúc Tết bà con họ hàng. Từ đó, hàng xóm, láng giềng khắp nơi sẽ đến chúc Tết nhà mình. Nếu không bận chủ nhà tiếp tục hòa vào toán bạn bè đó; đến nhà nào cũng nhấp một vài chén rượu, ăn cái kẹo, miếng bánh.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamNgày mồng một Tết, Trung còn đi thăm mộ, lên chùa khấn vái, cầu nguyện ông bà hoặc các vị thần linh phù hộ cho mọi thành viên trong gia tộc. Sang mồng 2, mồng 3 Tết, mới bắt đầu đi thăm láng giềng, bà con xa hoặc bạn bè thân cận.

    Miền Nam:
    Hoa mai – đặc trưng tết miền Nam

    Trong bộ tranh Tứ Thời thường được các gia đình ưa chuộng treo để trang trí nhà cửa, thì hình ảnh Hoa Mai được xếp đầu tiên rồi mới đến Lan – Cúc –Trúc. Năm cánh hoa mai là hình ảnh của 5 vị thần may mắn, của ngũ phúc (phước, lộc, thọ, khang, ninh). Mai cũng như đào biểu tượng cho sự trường thọ. Người ta diễn tả đặc trưng này bằng những đóa hoa rực rỡ trên một thân cây trụi lá và gân guốc; vững chãi như sức công phá của thời gian chẳng làm gì được nó.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamTrong truyền thuyết dân gian, hoa mai liên quan đến hình ảnh của một cô gái xinh đẹp, hết lòng thương yêu cha mẹ, gia đình và làng xóm. Với tài trí của mình, cô gái nhỏ nhắn đã hy sinh sau khi giao đấu, diệt trừ yêu quái để cứu dân. Không ai biết cô đã chết, vì hàng năm vào chiều 29 tết, nàng quay lại với chiếc áo vàng mẹ nhuộm cho trước lúc ra đi, cùng ăn tết với gia đình, cho đến lúc cúng đưa ông bà, mới chịu ra đi. Mãi cho đến khi cha mẹ mất, người ta không thấy cô gái áo vàng trở lại nữa; vào những ngày cuối năm trong khu vườn quen thuộc nơi cô ở, xuất hiện một con chim lông vàng óng ả cất tiếng hót líu lo. Xóm làng thương nhớ và tri ân cô bằng cách lập một miếu thờ, hàng ngày hương khói. Từ lúc ấy, trước ngôi miếu mọc lên một loại cây lá xanh um, nhưng cứ vào những ngày giáp tết, lá lại rụng trơ cành và như một phép lạ, toàn thân xuất hiện những nụ bông vàng năm cánh rực rỡ.

    Cây mai từ đó được người dân nhân giống và trồng trong nhà mình, như một cách tưởng nhớ đến cô gái, cũng như răn đe loài quỷ dữ sợ oai phong của cô mà không dám quấy động đời sống yên lành của mọi người.

    Cũng như hoa đào, truyền thuyết về cô gái áo vàng cũng nhạt dần để thay vào đó hoa mai được đón chào trong ngày xuân như một cảm nhận mang tính nghệ thuật. Cành mai được chọn trên những tiêu chí không khác mấy vơi hoa đào, nhưng tinh thần của một cành mai được ngưỡng mộ không chỉ đẹp ở hoa với sắc thắm, cánh phân bố đều , nhụy thắm, mà còn ở sự gân guốc của cành, với những khoảng gập khúc của dáng cành theo hình chữ nữ. Thần thái ấy mang hình ảnh của một ẩn sĩ nơi thâm sơn, kiêu hãnh nhưng thanh thoát, vững chãi trước nắng gió và thời gian.

    – Mâm ngũ quả:
    Nếu như ở miền Bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày lên bàn thờ, kể cả quả ớt mang vị cay đắng, miễn sao mâm ngũ quả trông đẹp mắt là được; thì người miền Nam lại có sự kiêng cữ. Mâm ngũ quả của người miền Nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi” thể hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu.”

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamDo trái cây ngày càng nhiều, loại nào cũng ngon, bổ nên để thể hiện cao nhất lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, đồng thời cũng nhằm thể hiển tính trình bày mỹ thuật trong con mắt thẩm mỹ độc đáo của nhân dân, nên mâm ngũ quả ngày càng phong phú hơn, và người ta cũng không câu kệ cứng nhắc “ngũ quả” nữa mà có thể là bát, cửu, thập quả. Nhiều hơn, nhưng người ta vẫn gọi là “mâm ngũ quả” và, dù đựng trong đĩa cũng vẫn gọi theo xưa là “mâm.” Bởi đó là một “sản phẩm văn hóa” đã xác lập trong quá trình lịch sử lâu dài, được khuôn đúc theo quan niệm về “bộ ngũ hoàn hảo.”

    Chưng bày mâm ngũ quả trên bàn thờ của gia đình trong những ngày Tết mang ý nghĩa giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân Việt. Chính vì vậy, người dân Việt dù ở phương trời nào, đến ngày Tết cổ truyền vẫn không bỏ qua tục lệ này, như một sự nhắc nhở, cho bản thân và cho con cháu, về cội nguồn của mình.

    Mâm cỗ ngày xuân:

    Mâm cỗ Tết của miền Nam thường có nhiều đồ nguội do thời tiết nắng nóng. Hầu như nhà nào cũng có ba món cơ bản là bánh tét, bánh tráng và nồi thịt kho tàu trong mấy ngày tết. Trong suy nghĩ của người phương Nam, bánh tét tượng trưng cho sự ấm no từ đời này qua đời khác.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamĐặc trưng của Nam bộ đó là món bánh tét lá cẩm tím vừa thơm ngon lại vừa thẩm mỹ vì chỉ dành riêng cho những dịp lễ quan trọng của năm mà không nơi nào có được.
    Bốn món cúng cũng món ăn ngày Tết.

    Món thịt kho tàu là thịt ba rọi (ba chỉ) thái to khoảng trên bốn phân nấu chung với một trái dừa xiêm để thịt kho lạt đi, ăn được to miếng. Thịt hầm từ bắp đùi hầm nhừ với vài vị thuốc Bắc. Món này chỉ để ăn chơi chứ không ăn với cơm. Khổ qua dồn thịt heo rồi hầm như hầm thịt. Món cuối cùng là nem và bì, rau ăn kèm chỉ độc nhất một loại là dưa giá. Dù là bất kỳ món ăn nào trong bốn món trên cũng phải ăn kèm với dưa gi. Các món truyền thống này chỉ cúng và ăn tới chiều mồng hai, sang ngày mồng ba sẽ cũng và ăn món khác phải như gà, cá.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamĐể thay đổi khẩu vị và đỡ ngấy, nhà nào ở Nam Bộ cũng nấu cháo cá ám, ăn với rau ghém, chuối cây xắt mỏng và các loại rau thơm, rau mùi, một con cá lóc nướng ăn với lá bông súng non hay đọt vừng. Người phương Nam đặc biệt chăm chút cho bàn tiệc ngày xuân, nó chứa đựng lòng thành kính với tổ tiên ông bà và thưởng thức trọn vẹn vị mặn, ngọt, chua, cay, đắng trong từng món ăn bên mâm cơm sum vầy gia đình ngày đầu năm thêm ấm áp, an khang.

    Lễ nghi truyền thống:

    Ở miền Nam không có bánh chưng vuông như miền Bắc mà là những bánh chưng dài hay còn gọi là bánh tét. Bánh tét có nhiều loại: bánh tét chay, bánh tét mặn, bánh tét ngọt. Bánh tét chay không nhân. Bánh tét mặn được xắt miếng và thường ăn kèm với đĩa củ cải ngâm nước mắm.

    Giữa khung cảnh làng quê Nam bộ thanh bình, cả gia đình ngồi quây quần bên những chiếc nong, nia đựng đầy gạo, thịt và lá chuối xanh cùng làn khói bếp từ nồi bánh tét bốc lên mang theo cả tâm trạng nao nao với hình ảnh báo hiệu Tết đã về rất gần.

    Tết 3 miền Bắc – Trung – NamGiáp tết, các gia đình sẽ tổ chức đi chạp mộ để tỏ lòng “uống nước nhớ nguồn” với những người đã khuất. Chiều 23 tháng chạp đưa ông Táo về trời. Ngày 30 làm một mâm cơm cúng tổ tiên, gọi là lễ “rước ông bà”. Cho đến khi hết Tết khói hương trên bàn thờ gia tiên luôn nghi ngút và sau đó đến ngày mồng 3 tháng Giêng thì làm lễ “đưa ông bà”. Trước giao thừa, các gia đình thắp hương mời hương linh ông bà và tổ tiên và những người thân đã qua đời về ăn cơm, vui Tết với con cháu (cúng gia tiên). Lễ vật cúng giao thừa ngoài hương hoa quả phẩm còn có thêm quả dừa, bánh phồng, bánh tráng con gà trống luộc.

    Mâm cơm cúng tất niên chiều 30 tết, thường quy tụ đủ mặt mọi người thân trong gia đình. Theo quan niệm của người Nam Bộ mỗi năm có một ông Hành Khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao cho thần kia, nên cúng tế, đốt pháo là để tiễn đưa ông cũ và đón ông mới. Đêm 29-30 là lúc vui nhất, mọi người thức đón giao thừa, chơi tú, ăn uống… rất huyên náo. Ba ngày tết là ba ngày vui chơi, ăn uống, thăm viếng, chúc mừng nhau những điều mới mẻ, tốt lành. Một tập quán phổ biến là trong những ngày đầu năm, mọi người đều chỉ nói ra những lời hay, ý đẹp, gặp nhau chào mừng, hy vọng mọi điều như ý. Bao điều không vui, không vừa lòng năm trước đều bỏ đi.

    Trẻ con ở các vùng quê cũng được dịp vui chơi hết mình với những trò chơi đặc biệt như đá gà, đá cá lia thia, thi cây kiểng, đu tiên, đua ghe, đánh bài, đánh me và xóc điã.

    Theo VNE

  • Những nét văn hóa “rất Pháp” ở Miền Nam trước năm 1975

    Những nét văn hóa “rất Pháp” ở Miền Nam trước năm 1975

    Bộ ảnh này được nhiếp ảnh gia Pháp Jack Garofalo ghi lại năm 1974.

    Trong hình là những nét văn hóa mang hơi hướng Pháp ở miền Nam Vệt Nam.

    Những nét văn hóa Giao thông ở ngã tư Hàm Nghi – Tôn Thất Đạm. Những chiếc xe trong ảnh là của các hãng xe Pháp Renault và Citroën sản xuất.

    Những nét văn hóa

    Bánh mỳ baguette kiểu Pháp được bày bán bên lề đường.

    Những nét văn hóa

    Những người Pháp chơi bi sắt – bộ môn thể thao khai sinh ở Pháp – trong một câu lạc bộ ở Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Xưởng đóng tàu Caric của Pháp ở Thủ Thiêm, Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Quán rượu của một ông chủ người Pháp (người trong ảnh) sinh sống tại Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Ông chủ người Pháp của nhà hàng – quán bar ‘Le Colisée’ tạo dáng chụp ảnh với 3 nhân viên người Việt.

    Những nét văn hóa

    Rạp Vĩnh Lợi ở Sài Gòn với biển tên tiếng Pháp.

    Những nét văn hóa

    Nghĩa trang quân đội Pháp tại ngã tư Bảy Hiền, Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Một người đàn ông Pháp hút thuốc trước cửa hiệu của mình ở Di Linh, Lâm Đồng.

    Những nét văn hóa

    Học sinh dân tộc thiểu số tại nhà thờ Cam Ly ở Đà Lạt. Nhà thờ này do linh mục người Pháp Boutary cho xây dựng cuối thập niên 1960.

    Những nét văn hóa

    Các thiếu nữ người dân tộc thiểu số trong gian bếp của một trường dòng do người Pháp sáng lập tại Đà Lạt.

    Những nét văn hóa

    Một nữ tu với các bệnh nhân bệnh phong trước mộ Giám mục Pháp Jean Cassaigne tại trại phong Di Linh, Lâm Đồng.

    Theo Tachcafe

  • Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

    Rồng trong văn hóa Việt Nam

    Rồng là một biểu tượng văn hóa có độ phổ biến vào loại cao nhất thế giới. Xét theo hình thức cấu tạo, rồng là linh vật tổng hợp từ nhiều loài vật khác nhau, song luôn có hình dáng gần nhất với một loài vật chính.

    Dân gian phương Đông dùng thuyết “tam đình cửu tự” (thân 3 khúc: đầu, thân, đuôi, kết hợp từ 9 nét khác nhau của 9 loài vật có thật gồm “cửu tự” là chín nét giống, gồm: sừng giống nai, đầu giống đà, mắt giống thỏ, thân giống rắn, bụng giống trai, vảy giống cá, ngón chân giống chim, chân giống hổ, tai giống bò) để nói lên đặc trưng tổng hợp ấy, và để lý giải vị trí bá chủ vạn vật của rồng.

    1. Nguồn gốc Bách Việt của rồng

    Nghiên cứu cho thấy rồng Đông Á mang nguồn gốc Bách Việt cổ (cộng đồng cư dân cổ thuộc ngữ hệ Austro-asiatic cư trú từ hạ lưu Dương Tử đến Bắc Đông Dương, trong đó có tổ tiên Lạc Việt) trên cơ sở của sự kết hợprắn, cá sấu và nhiều loại vật khác. Rồng mang một số đặc trưng quan trọng liên quan đến văn hóa Bách Việt như

    (1) nguyên mẫu chính từ rắn hoặc cá sấu, tức các loài động vật phổ biến của phương Nam (Rồng có các nguyên mẫu chính gồm rắn, cá sấu, cá, lợn, trâu, ngựa, hổ, chó, tia chớp, sinh thực khí nam – xem Nguyễn Ngọc Thơ: “Về vấn đề nguyên mẫu của Rồng Trung Hoa”, Tập san KHXH&NV, 2007),

    (2) tính cách thích nước và sinh sống ở môi trường sông nước; và

    (3) rồng là sản phẩm tổng hợp của tư duy âm dương phương Nam.

    Theo nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn (2000), tên gọi Rồng vốn xuất hiện trong tiếng Việt và một số ngôn ngữ thuộc tiểu chi Proto Việt-Chứt; từ Thìn trong thập nhị địa chi là tên gọi do người Hán vay mượn từ ngôn ngữ Bách Việt cổ. Người Bách Việt, mà cụ thể là Lạc Việt, với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, tự xem mình là “conRồng cháu Tiên”. Nhiều nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng đồng nhất quan điểm này. Tác giả Văn Nhất Đa trong chuyên khảo “Đoan ngọ khảo” (1993) gắn nguồn gốc xuất hiện của rồng với tết Đoan ngọ và tục đua thuyền rồng của cư dân Ngô Việt vùng hạ lưu Dương Tử. Ngày nay, các vùng đất Nam Trung Hoa, Việt Nam, Đài Loan, Okinawa vẫn còn tục đua thuyền rồng trong các dịp đón năm mới, tết Đoan ngọ hay lễ hội truyền thống (Trịnh Tiểu Lô 1997). Tác giả Trung Hoa Nghê Nông Thủy (2010) chứng minh nguồn gốc Bách Việt của tết Đoan ngọ cùng tục đua thuyền rồng, sau được người Trung Hoa tiếp nhận và gắn thêm chức năng cứu Khuất Nguyên để giáo dục cội nguồn. Nhà dân tộc học người Nga D.V. Deopik (1993) từng viết “Rồng là con vật đặc thù chung cho tất cả các dân tộc Việt và chính từ đây nó đã đi vào văn hóa Trung Hoa”. Còn nhà Việt Nam học người Nga N. I. Niculin cũng nhận xét: “Trong văn hoá truyền thống của người Việt, hình tượng con Rồng – một con vật tưởng tượng – trở thành biểu tượng quan trọng nhất… Chính người Việt từ ngàn xưa đã biết trồng lúa nước và đánh cá… Hoàn toàn có cơ sở để cho rằng hình tượng con rồng trong văn hoá Trung Hoa có nguồn gốc từ phương Nam, từ vùng Đông Nam Á, từ Việt Nam và các quốc gia láng giềng….” (Xem Xem Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Ngọc Thơ: “Nguồn gốc con rồng nhìn từ văn hóa học”,Tập san KHXH&NV, 2011).

    Từ chiếc nôi Bách Việt, rồng lan truyền ra xung quanh, tại mỗi địa phương rồng khoác lên sắc thái văn hóa của riêng địa phương mình. Chính vì vậy, rồng đã trở nên đa dạng về chủng loại và hình dáng, tạo nên một “Gia tộc họ rồng” cực kỳ đa dạng về hình thức lẫn chức năng.

     

    2. Gia tộc họ rồng

       Lấy giới tính làm tiêu chí phân loại thì có hai loại rồng đực đuôi có hạt châu hoặc chỉ có chiếc đuôi đơn thuần và rồng cái đuôi phân nhánh thành hoa văn hoa cỏ.

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

     

    Thứ hai là tiêu chí nguyên mẫu. Rồng hình thành từ sự kết hợp đa loài, dù vậy vẫn có thể nhận diện loài vật đặc trưng nhất. Tiêu biểu có rồng rắn, rồng cá sấu, rồng cá, rồng ngựa, rồng hổ, rồng chó, rồng chim, rồng thuồng luồng (giao long), rồng kỳ đà, rồng cáo…

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa ViệtNguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa ViệtNguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

     

    Còn nếu dựa vào tứ chi của rồng để phân thì có các loại rồng 5 móng, 4 móng, 3 móng; không chân và rồng có tứ chi là hoa văn cây cỏ. Rồng 5 móng là loại rồng chuẩn, từ đầu Công nguyên trở đi đã trở thành biểu tượng của vua chúa, thường xuyên bị hoàng gia lũng đoạn, dân gian bị cấm dùng. Quan lại chỉ được phép dùng rồng 4 móng, có thời kì bị bắt buộc dùng hình mãng xà (như thời Minh ở Trung Quốc). Rồng không chân thường được hiểu là thuồng luồng, xuất hiện nhiều trong truyền thuyết dân gian. Rồng có tứ chi phát triển thành hoa văn hoa cỏ thường được dùng nhiều trong nghệ thuật trang trí kiến trúc hay hội họa truyền thống.

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

                                                                           Quỳ long

     

    –    Trong truyền thuyết phương Đông, rồng có chín con với hình dáng và sở thích hoàn toàn khác nhau, bao gồmbị hí, xi vẫn, bồ lao, bệ ngạn, thao thiết, công phúc, nhai xế, toan ngê, tiêu đồ; bên cạnh là một số linh vật họ rồng khác nữa như tù ngưu, phụ hý, trào phong, tỳ hưu, hải trãi v.v. [Nguyễn Ngọc Thơ: Rồng Trung Hoa,Luận văn thạc sỹ, 2003].

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa ViệtNguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa ViệtNguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

     

    3. Rồng qua các thời kỳ

    Con rồng đã từng là một tô tem trong tín ngưỡng sơ khai của người Việt Nam. Dân Việt cổ có tục xăm mình, phổ biến trong số ấy là họa tiết rồng (giao long). Theo ghi chép trong Hoài Nam TửSơn Hải Kinh, rồng được người Việt xưa xăm lên đùi để khi xuống nước “tránh bị giao long làm hại”. Đến đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) mới chấm dứt tục xăm mình. Rồng là hình tượng của mưa thuận gió hòa, là linh vật đứng vào hàng bậc nhất trong tứ linh “long, lân, quy, phụng”. Hình tượng rồng thời đại Hùng Vương là một linh vật thân dài có vẩy như cá sấu được chạm trên các đồ đồng, đặc biệt là trên trống đồng.

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

    Qua thời kỳ Bắc thuộc, con rồng Việt Nam dần xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Thủ đô Thăng Long được đặt tên theo thế “rồng bay”. Rồng thời Lý là con vật mình dài như rắn, thường thân trơn, lưng có vây, thân uống cong nhiều vòng uyển chuyển theo hình sin mềm mại và thoải nhỏ dần về phía đuôi, tạo cảm giác dòng văn hóa dân gian mượt mà dài vô tận. Rồng có bốn chân, mỗi chân có ba móng cong nhọn. Đầu rồng ngẩng cao, há miệng rộng với hai hàm răng nhỏ đang vờn đớp viên ngọc quý. Từ mũi thoát ra mào lửa. Trên trán rồng có một hoa văn giống hình chữ “S”, tượng trưng cho sấm sét, mây mưa [Xem Mỹ thuật thời Lý, 1973]. Trên đại thể, rồng thời Lý là rồng văn, rồng Phật giáo.

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

    Hình tượng con rồng thời Trần có nhiều biến đổi so với thời Lý. Đây là thời kì người Việt Nam ba lần đánh bại quân thiện chiến Nguyên Mông, do vậy triều Trần được cho là triều đại trọng võ. Dấu ấn ấy có thể nhìn thấy rất rõ qua hình tượng rồng. Đầu rồng xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay, chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng võng hình yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi thì đuôi thẳng và nhọn, khi thì xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng, có khi là những nửa hình nụ hoa tròn, có khi chỉ là những nét cong thanh thoát [Xem Mỹ thuật thời Trần, 1977].

    Rồng thời Lê (thế kỷ XV) hoàn toàn khác biệt với rồng thời Lý-Trần. Thân rồng có xu hướng ngắn lại, tư thế đa dạng phong phú. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Thân rồng lượn hai khúc lớn, chân có năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê tượng trưng cho quyền uy phong kiến [Xem Mỹ thuật thời Lê Sơ, 1978].

    Rồng thời Lê Trung hưng nhìn chung ít thay đổi so với thời Lê Sơ, điểm nổi bật là hình tượng rồng dần dà đi vào đời sống thường dân, đặc biệt là các mô típ bầy rồng con quây quần bên rồng mẹ, rồng đuổi bắt mồi, rồng vui cảnh lứa đôi v.v..

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt

    Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi vương quyền. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc rồng hàm thọ, lưỡng long triều nhật, lưỡng long chầu hoa cúc, lưỡng long chầu chữ thọ v.v.. Thân rồng không dài ngoằn, uốn lượn với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu có nhánh phụ cùng chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi giống mũi lân hoặc sư tử, miệng há to để lộ hàm răng răng nanh chắc khỏe. Vây trên lưng rồng có tia, thân cuộn hoa văn lửa hoặc mây, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua chân có năm móng mạnh mẽ, còn quan và tầng lớp quý tộc chỉ được pháp dùng rồng bốn hoặc ba móng, đuôi không có bờm lông, các chi tiết hoa văn lờ mờ hơn rồng cung đình. Rồng trên mái đình chùa miếu mạo thường cũng chỉ có bốn móng([1]).

     

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt
    Long ấn thời Nguyễn
        Kể từ khi triều Nguyễn kết thúc, tính phân tầng xã hội trong quy cách sử dụng mô típ rồng không còn nữa, chính vì vậy người ta có thể chạm khắc rồng với muôn hình vạn trạng, từ vân long, đoàn long, quỳ long, ứng long, li long, giao long, rồng 5 ngón, 5 ngón, 3 ngón v.v.. Hình tượng con rồng cũng không còn tính chất thiêng liêng, tối thượng như xưa, thay vào đó dân gian vẫn đưa vào trang trí cho các công trình kiến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ thuật với những ý nghĩa dân gian, bình dị.

      4. Rồng trong tâm thức người Việt

           Như vậy, tổ tiên Bách Việt đã từng có tô tem rồng. Sau quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa với Trung Hoa, người Việt Nam tiếp nhận trở lại hình ảnh và ý nghĩa của mẫu rồng Á Đông đã hoàn thiện hóa từ người Trung Hoa. Từ đó trở đi, rồng ngự trị trong tâm thức người Việt như một linh vật đặc biệt, là “vạn vật chi đế”, là biểu tượng cộng gộp tất cả các ước vọng tốt đẹp nhất của cuộc sống nhân sinh.
          Trước nhất, rồng là linh vật tổng hợp từ nhiều loại vật có thật trong tự nhiên, do vậy rồng mang trong mình hết thảy các ưu thế vượt trội của các loài, trong đó sức mạnh và quyền năng thiên biến vạn hóa là hai đặc tính quan trọng. Rồng được cho là biểu trưng của sự mạnh mẽ, hùng tráng, là uy lực bất bại trước kẻ thù.
           Từ đặc tính tạo thành từ giới tự nhiên, rồng được người Việt Nam và Đông Á nói chung vay mượn để thực hành hoặc chuyển tải các thông điệp tâm lý – xã hội. Với tính năng siêu việt, rồng được tin là linh vật mang lại điềm lành, sự may mắn, thịnh vượng, sự thông thái; đồng thời còn là sứ giả để gửi gắm những ước vọng trong đời: cầu mưa, cầu phồn thực. Chính từ đó, trong dân gian xuất hiện các mô-típ rồng hút nước biển Đông để tưới vào đất liền, cá chép vượt vũ môn hóa rồng, rồng trừng trị kẻ ác để bảo vệ chúng dân; thế đất rồng trong phong thủy mang đến cuộc sống phồn vinh (long mạch, long hổ hội, Dinh Độc Lập = phủ đầu rồng); hiện tượng rồng “cù dậy” (cù lao); rồng là một trong 12 con vật đại diện trong dãy Thập nhị Địa chi; mượn tên gọi Long, Rồng để đặt tên đất (Thăng Long, Hạ Long, Cửu Long, Long Hải, Hàm Rồng v.v.), tên người, tên các loài động thực vật hay dụng cụ khác giống rồng (địa long = giun đất, cá mắt rồng;  long nhãn, rau long tu, cây long huyết, cỏ long đảm; đầu rồng = vòi nước v.v.); múa lân-sư-rồng v.v..
          Tương tự, rồng được khắc, họa trong nhiều công trình kiến trúc quan trọng từ kinh đô đến nhà dân, từ đình chùa miếu mạo đến các cơ quan công quyền (truyền thống) như một thể hiện sống động của rồng trong tâm thức người Việt. Lấy hoa văn trang trí trên đình chùa miếu mạo làm ví dụ, người Việt Nam có xu hướng quy tụ vào nhóm Tứ linh (long-lân-quy-phụng) hơn là xu hướng đa dạng hóa các mô típ trang trí của người Trung Hoa (rồng-phụng, bát vật, bát bảo, bát tiên quá hải, các nhân vật truyền thuyết-thần thoại, các linh vật họ rồng v.v.. – có thể xem ở miếu Thiên Hậu Tuệ Thành số 710 đường Nguyễn Trãi, Quận 5, Tp. Hồ Chí Minh). Các mô típ thường thấy nhất là “lưỡng long tranh châu”, “lưỡng long triều nhật”, “tứ linh hội tụ”, “dây lá hóa long” v.v.. Ở đất Nam Bộ, rồng còn gắn liền với cá chép, cả hai đều là loài vật thích nước, đều là vật biểu trưng của vùng đất phương Nam đầy sông nước, như ở Tổ đình chùa Giác Lâm (Tp. Hồ Chí Minh) chẳng hạn.
           Trong ca dao tục ngữ, phần đông rồng được dùng để chuyển tải ý nghĩa cao quý, thánh thiện, nhấn mạnh chức năng tâm lý:  
              – Một ngày dựa mạn thuyền rồng
                Còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài
            – Bao giờ cá chép hoá long
              Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa.
            – Thế gian được vợ hỏng chồng
    Có đâu như rồng mà được cả đôi.
           – Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng
             Trăm khôn nghìn khéo không chồng cũng hư
           – Trứng rồng lại nở ra rồng
             Liu điu lại nở ra dòng liu điu
          Đôi khi còn dùng rồng để chuyển tại thông điệp tình yêu:
           – Nhớ chàng như vợ nhớ chồng
             Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây
          – Tình cờ anh gặp mình đây
             Như cá gặp nước, như mây gặp rồng
          – Trăm năm ghi tạc chữ đồng
            Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai
          Có chồng thì phải theo chồng
            Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo..
        Hay kinh nghiệm sống:
          – Rồng đen lấy nước thì nắng;
            Rồng trắng lấy nước thì mưa   
          – Rồng đen lấy nước được mùa;
            Rồng trắng lấy nước thì vua đi cày..
       Dùng làm câu đố:
            Đầu rồng đuôi phụng le te,
            Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con
    (Cây cau – xem Phan Thuận An: cuasomoi.com)
        Hoặc dùng rồng như một thứ để giễu cợt, mỉa mai, trách móc:
            – Rồng nằm bể bắc phơi râu,
              Đến khi nước cạn hở đầu hở đuôi    
            – Ăn rồng cuốn, nói rồng leo, làm mèo mửa v.v..
    (Phùng Thành Chủng: newvietart.com)
         Với thuyết Hồng Bàng thị, người Việt Nam còn coi rồng là một biểu trưng của nguồn cội, của ý thức giống nòi và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Ý thức “Con rồng cháu tiên” sớm ngấm ngầm vào da thịt từng người con đất Việt từ thuở lọt lòng mẹ.
    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt
          Cũng ở chức năng này, rồng sớm bị các bậc đế vương phong kiến lũng đoạn, bắt đầu từ nhà Hán ở Trung Hoa([2]), sau ảnh hưởng đến Việt Nam và các quốc gia Đông Á khác. Từ đó rồng được phân loại mạnh mẽ: rồng 5 móng là rồng chuẩn mực, là biểu tượng của vua chúa, hoàng gia nên dần dà trở thành vật sở hữu của họ([3]). Dân gian từ thời Lê trở về sau bị hạn chế dùng rồng trong trang trí, nhất là rồng 5 móng. Trong tâm thức dân gian Nam Bộ, rồng là biểu hiện của văn hóa cung đình, do vậy ca dao có câu “Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai..”. Tại các đình chùa miếu mạo do dân gian xây dựng, mô típ rồng thường thấy là rồng 4 móng hoặc 3 móng, tức chưa là rồng chuẩn. Như một sự phản kháng, dân chúng đã tạo ra các kiểu rồng không mọc chân mà thay vào đó là các kiểu hoa văn hoa cỏ sinh động để thể hiện ước vọng thăng hoa của nội tâm, đặc biệt là chạm khắc trên các công trình kiến trúc (quỳ long, li long, cù long v.v..).
    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt
    Mô típ “Lưỡng long triều nhật” ở Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Tp.HCM)

    Ở chức năng tâm linh, rồng được hiểu là thần thánh, phần nhiều là thiện thần. Hai trong những nguyên do biến rồng thành thần gồm (1) linh vật tổng hợp từ sự vượt trội của nhiều loài; (2) rồng có thể thiên biến vạn hóa và thông thiên kết nối nhân gian và thế giới thần tiên. Chính vì vậy, người Việt sớm nhận thức rằng rồng là hiện thân của thần linh để trị ác cứu dân, là vật cưỡi của thần tiên (như mô típ tiên cưỡi rồng trong kiến trúc đình Bắc Bộ) hay chư Phật (trong kiến trúc chùa), là linh vật chầu phục Đức Thái Thượng Lão Quân trong Đạo giáo. Sự ngự trị tối cao của rồng so với các loài vật khác còn có thể thấy trong quần thể tòa thánh Cao Đài ở Nam Bộ (trần mái Cửu Trùng Đài, cột rồng v.v.). Ở chùa An Phước (Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh), người ta đúc thuyền hình rồng trên có năm thầy trò Đường Tăng đầu quay về Thiên Trúc với ý nghĩa rồng hộ tống, đưa Phật tử và chúng sinh thánh thiện về đất Phật.

    Nguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa ViệtNguồn gốc và các loại Rồng trong văn hóa Việt
    Long ấn thời Nguyễn
        Tuy nhiên, chức năng tâm linh này của rồng thường được hiểu là gắn liền với chức năng ổn định tâm lý và giáo dục con người (tu tâm dưỡng tính, gửi gắm niềm mong mỏi một cuộc sống tốt đẹp hơn v.v.) là chính. Trong xã hội đương đại vẫn còn dấu vết của hiện tượng mê tín hóa biểu tượng rồng, chẳng hạn chuyện chọn năm Thìn để sinh con, hoặc chọn ngày giờ phù hợp sinh con để được quẻ Thuần Rồng (trong Tử vi); chuyện dùng nước “giếng rồng” để chữa bệnh; quan niệm ăn thịt rồng (thực chất là thịt rắn), trứng rồng (trứng đà điểu) để trường sinh bất lão; chuyện cúng tế “cù long” (rồng cù dậy) trong những ngôi nhà nền đất mặt sần sùi giống vảy rồng do đi lại lâu ngày tạo nên v.v..
         o0o
        Vậy đó, tổ tiên đã tạo ra biểu tượng rồng như là một biểu hiện của khát vọng vươn lên chinh phục tự nhiên và chinh phục chính mình. Cùng với thời gian, con người đã “thiên biến vạn hóa” biểu tượng rồng và sử dụng chúng theo những mục đích khác nhau, song chính những giá trị tốt đẹp của rồng trong tâm thức con người đã đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nó.

    [1] Xem B.A.V.H 1915: Những người bạn cố đô Huế (tập 2), Đặng Như Tùng dịch, NXB Thuận Hóa.
    [2] Hán Cao Tổ Lưu Bang sinh thời da vẻ sần sùi, tự xưng là giống rồng và ngụy tạo chuyện rồng cha truyền giống để lý giải quyền Thiên tử của mình. Tương truyền, mẹ là Lưu Ôn trong lần ra vườn Thượng uyển thấy bàn chân to trên đá, bá ướm thử, bỗng giông tố nổi lên, bà ngất xỉu. Trong lúc hôn mê, bà thấy một con rồng xanh từ trên trời bay xuống thụ tinh cho bà, bà có mang, sau sinh ra Lưu Bang.
    [3]Ở Trung Hoa, thời Minh Gia Khánh rồng bị lũng đoạn nghiêm trọng, chỉ có vua mới được dùng rồng, hoàng tử, quan lại chỉ dùng mãng xà, dân chỉ dùng rắn. Hoàng hậu đương triều trong một lần nhớ chồng mân mê chiếc long bào có hình rồng lập tức bị xử tội (xem Rồng Trung Hoa, luận văn thạc sỹ, 2003).

    Nguyễn Ngọc Thơ

             (Đã đăng trên Đặc san Khoa học Xã hội số 42, tháng 1 năm 2012) 

    Cổ vật tinh hoa ( Nguồn: vanhoahoc.vn)
  • Khăn vấn của người Việt

    Khăn vấn của người Việt

    Nét đặc trưng của An Nam thời Nguyễn chính là những chiếc khăn vấn, theo nhiều nhận định thì chỉ xuất hiện vào thời kỳ nhà Nguyễn kiểm soát toàn lãnh thổ An Nam.

    Ngày nay, chiếc khăn vấn được xem là biểu tượng đặc trưng, theo như cách nói bây giờ, là “thuần Việt”. Dẫu vậy, nhận thức và áp dụng khăn vấn ngày nay lại đi ngược hoàn toàn truyền thống, không phải theo hướng tích cực hơn mà ngày càng trở nên cồng kềnh và phô trương quá mức.

    Nguyên nhân cũng vì người hiện đại dần mất đi nhận thức về khăn vấn, điều đáng lẽ không thể xảy ra ở một đất nước “trọng những nét truyền thống văn hóa” như cách bây giờ họ tự hào.

    Còn với phụ nữ thì lại đa dạng hơn, nhưng có những đặc trưng. Phần lớn các phụ nữ miền Bắc là luồng tóc thật vào khăn, còn kinh sư lại kiểu vấn Khăn vành, tức là khăn và búi tóc riêng biệt. Tuy nhiên, ở kinh sư thỉnh thoảng vẫn có người búi tóc kiểu miền Bắc và ngược lại.

    Riêng phụ nữ miền Nam, rất hiếm ảnh cho thấy họ vấn khăn, mà phần lớn là búi tóc sau gáy.

    Khăn vấn của người Việt
    Kiểu vấn khăn nam giới thường có một điểm chung là không để lộ mái tóc trước trán. Hầu hết nam giới đều chỉ vấn theo một kiểu búi tóc cột riêng sau gáy, và khăn vấn lên
    Khăn vấn của người Việt
    Phụ nữ vấn khăn khá đa dạng, phần mái vuốt hết ra sau hoặc chẻ ngôi giữa, điểm chung có thể kể đến là họ rất trọng sự gọn gàng của phần mái, thể hiện sự trang nhã.
    Các tiểu thư vấn khăn theo kiểu phổ biến, điểm tiếp tóc được luồn vào khăn được đặt ở bên phải đầu của mỗi người.
    Các tiểu thư vấn khăn theo kiểu phổ biến, điểm tiếp tóc được luồn vào khăn được đặt ở bên phải đầu của mỗi người.
    Một người đàn ông vận áo the, vấn tóc
    Một người đàn ông vận áo the, vấn tóc
    Các quan đại thần vấn tóc theo kiểu sơ kì, búi vấn rất cao.
    Các quan đại thần vấn tóc theo kiểu sơ kì, búi vấn rất cao.

     

    Cách vấn của phụ nữ Bắc Hà, một kiểu thông dụng
    Cách vấn của phụ nữ Bắc Hà, một kiểu thông dụng
    Một phụ nữ vấn tóc rất gần với lối vấn khăn vành
    Một phụ nữ vấn tóc rất gần với lối vấn khăn vành
    Một kiểu vấn khăn của phụ nữ Bắc Hà. Kiểu vấn này bo tròn toàn bộ phần trước, không để lộ điểm tiếp tóc được luồn vào khăn vấn, điểm tiếp đó họ che dấu tỉ mỉ đằng sau gáy.
    Một kiểu vấn khăn của phụ nữ Bắc Hà. Kiểu vấn này bo tròn toàn bộ phần trước, không để lộ điểm tiếp tóc được luồn vào khăn vấn, điểm tiếp đó họ che dấu tỉ mỉ đằng sau gáy.
    Cô gái vấn khăn theo kiểu phổ biến, điểm tiếp tóc được luồn vào khăn được đặt ở bên phải đầu của người vấn.
    Cô gái vấn khăn theo kiểu phổ biến, điểm tiếp tóc được luồn vào khăn được đặt ở bên phải đầu của người vấn.

     

    Đằng trước và nhìn ngang của một kiểu vấn tóc nam điển hình.
    Đằng trước và nhìn ngang của một kiểu vấn tóc nam điển hình.
    Một kiểu vấn khăn của phụ nữ Bắc Hà. Phần đuôi tóc mà ngày nay gọi là "đuôi gà", để vấn được kiểu này thì thường mái tóc phải rất là dài.
    Một kiểu vấn khăn của phụ nữ Bắc Hà. Phần đuôi tóc mà ngày nay gọi là “đuôi gà”, để vấn được kiểu này thì thường mái tóc phải rất là dài.
    Một cô gái Bắc Hà vấn tóc đuôi gà. Để vấn được kiểu này thì thường mái tóc phải rất là dài.
    Một cô gái Bắc Hà vấn tóc đuôi gà. Để vấn được kiểu này thì thường mái tóc phải rất là dài.

     

    Kiểu vấn của Bắc Hà, luồng tóc thật vào chiếc khăn vấn và quấn quanh đầu một cách gọn gàng.
    Kiểu vấn của Bắc Hà, luồng tóc thật vào chiếc khăn vấn và quấn quanh đầu một cách gọn gàng.

     

    Một phụ nữ Bắc Hà, ta thấy rõ cách vòng chèn của [vòng quấn thứ 2] đặt lên trên [điểm tiếp nối giữa tóc và chiếc khăn] ở bên phải đầu người vấn. Đây là một kiểu rất rất thường thấy ở phụ nữ Bắc Hà, một kiểu khác tương tự nhưng vòng quấn thứ 2 lại để ở bên dưới.
    Một phụ nữ Bắc Hà, ta thấy rõ cách vòng chèn của [vòng quấn thứ 2] đặt lên trên [điểm tiếp nối giữa tóc và chiếc khăn] ở bên phải đầu người vấn. Đây là một kiểu rất rất thường thấy ở phụ nữ Bắc Hà, một kiểu khác tương tự nhưng vòng quấn thứ 2 lại để ở bên dưới.

     

     

    Một đám cưới ở Bắc Hà. Cô gái có cái khăn sáng màu được vấn theo kiểu gần như khăn vành, trong khi các cô gái khác vấn theo kiểu luồng tóc vào trong khăn như kiểu đặc trưng miền Bắc.
    Một đám cưới ở Bắc Hà. Cô gái có cái khăn sáng màu được vấn theo kiểu gần như khăn vành, trong khi các cô gái khác vấn theo kiểu luồng tóc vào trong khăn như kiểu đặc trưng miền Bắc.

     

    Các mệnh phụ vấn tóc. Một kiểu giản lược của khăn vành khi số vòng quấn ít hơn và không có chữ Nhân trước trán.
    Các mệnh phụ vấn tóc. Một kiểu giản lược của khăn vành khi số vòng quấn ít hơn và không có chữ Nhân trước trán.

     

    Phụ nữ Bắc Hà.
    Phụ nữ Bắc Hà.

     

    Phụ nữ Bắc Hà.
    Phụ nữ Bắc Hà.
    Phụ nữ Bắc Hà, chiếc khăn mỏ quạ này cũng là một cách để họ giữ vấn tóc.
    Phụ nữ Bắc Hà, chiếc khăn mỏ quạ này cũng là một cách để họ giữ vấn tóc.
    Phụ nữ Bắc Hà.
    Phụ nữ Bắc Hà.
    Phụ nữ Bắc Hà, đây có lẽ là một dạng vấn tóc mà điểm tiếp nối vào khăn được đặt ở sau gáy.
    Phụ nữ Bắc Hà, đây có lẽ là một dạng vấn tóc mà điểm tiếp nối vào khăn được đặt ở sau gáy.
    Khăn xếp, một sáng tạo vào đầu thế kỉ 20, rút ngắn thời gian so với vấn khăn truyền thống.
    Khăn xếp, một sáng tạo vào đầu thế kỉ 20, rút ngắn thời gian so với vấn khăn truyền thống.
    Khăn lương, một kiểu vấn nhàn nhã của các thiếu phụ. Theo di ảnh còn lại thì đa số kiểu này tập trung ở Huế.
    Khăn lương, một kiểu vấn nhàn nhã của các thiếu phụ. Theo di ảnh còn lại thì đa số kiểu này tập trung ở Huế.

     

    Nam Phương hoàng hậu vấn khăn vành. Kiểu vấn khăn vành là dùng một khổ vải vuông tầm 30cm, được vấn nếp hình chữ Nhân "人" trước trán, sau đó luồng quanh đầu cứ thế tầm 20-30 vòng cho đến hết chiều dài khăn. Búi tóc nguyên của người vấn trước đó sẽ được búi gọn gàng sau gáy. Ngoài ra, búi tóc có thể sẽ được vấn theo kiểu truyền thống miền Bắc, và khăn vành sẽ được vấn chèn đè lên trên. Thời kì hiện đại, người ta chế ra chiếc khăn đóng cục bộ cho đỡ việc vấn thủ công hơn, và đến dần dần cái tên của nó biến thành "cái mấn" và ngày càng biến tướng, theo xu hướng to và cồng kềnh.
    Nam Phương hoàng hậu vấn khăn vành. Kiểu vấn khăn vành là dùng một khổ vải vuông tầm 30cm, được vấn nếp hình chữ Nhân “人” trước trán, sau đó luồng quanh đầu cứ thế tầm 20-30 vòng cho đến hết chiều dài khăn. Búi tóc nguyên của người vấn trước đó sẽ được búi gọn gàng sau gáy. Ngoài ra, búi tóc có thể sẽ được vấn theo kiểu truyền thống miền Bắc, và khăn vành sẽ được vấn chèn đè lên trên. Thời kì hiện đại, người ta chế ra chiếc khăn đóng cục bộ cho đỡ việc vấn thủ công hơn, và đến dần dần cái tên của nó biến thành “cái mấn” và ngày càng biến tướng, theo xu hướng to và cồng kềnh.
    Madame Nhu vấn khăn vành. Kiểu vấn khăn vành là dùng một khổ vải vuông tầm 30cm, được vấn nếp hình chữ Nhân "人" trước trán, sau đó luồng quanh đầu cứ thế tầm 20-30 vòng cho đến hết chiều dài khăn. Búi tóc nguyên của người vấn trước đó sẽ được búi gọn gàng sau gáy. Ngoài ra, búi tóc có thể sẽ được vấn theo kiểu truyền thống miền Bắc, và khăn vành sẽ được vấn chèn đè lên trên. Thời kì hiện đại, người ta chế ra chiếc khăn đóng cục bộ cho đỡ việc vấn thủ công hơn, và đến dần dần cái tên của nó biến thành "cái mấn" và ngày càng biến tướng, theo xu hướng to và cồng kềnh.
    Madame Nhu vấn khăn vành. Kiểu vấn khăn vành là dùng một khổ vải vuông tầm 30cm, được vấn nếp hình chữ Nhân “人” trước trán, sau đó luồng quanh đầu cứ thế tầm 20-30 vòng cho đến hết chiều dài khăn. Búi tóc nguyên của người vấn trước đó sẽ được búi gọn gàng sau gáy. Ngoài ra, búi tóc có thể sẽ được vấn theo kiểu truyền thống miền Bắc, và khăn vành sẽ được vấn chèn đè lên trên. Thời kì hiện đại, người ta chế ra chiếc khăn đóng cục bộ cho đỡ việc vấn thủ công hơn, và đến dần dần cái tên của nó biến thành “cái mấn” và ngày càng biến tướng, theo xu hướng to và cồng kềnh.

     

    Khăn vấn của người Việt
    Kiểu vấn khăn vành
    Hoàng thân Vĩnh Cẩn đội khăn xếp. Khăn xếp, một sáng tạo vào đầu thế kỉ 20, rút ngắn thời gian so với vấn khăn truyền thống.
    Hoàng thân Vĩnh Cẩn đội khăn xếp. Khăn xếp, một sáng tạo vào đầu thế kỉ 20, rút ngắn thời gian so với vấn khăn truyền thống.
    Kiểu vấn ở kinh thành Huế, theo nhiều di ảnh họ gần như không luồn tóc mà vấn búi gọn sau gáy, và chiếc khăn vấn gọn gàng. Một kiểu gần với khăn vành nhưng hình dạng khăn thì lại giống kiểu miền Bắc.
    Kiểu vấn ở kinh thành Huế, theo nhiều di ảnh họ gần như không luồn tóc mà vấn búi gọn sau gáy, và chiếc khăn vấn gọn gàng. Một kiểu gần với khăn vành nhưng hình dạng khăn thì lại giống kiểu miền Bắc.

    Khăn vấn của người Việt
    Theo bộ ảnh thì đây là gia đình họ Vi ở Lạng Sơn, một đại phú thời Nguyễn mạt. Cách vấn nam giới theo kiểu quý tộc nam miền Bắc điển hình
    Cũng trong bộ ảnh của gia tộc họ Vi tại Lạng Sơn, nhưng cô tiểu thư lại vấn kiểu không thông thường ở miền Bắc, mà thiên về kiểu vấn khăn lương, với phần tóc xõa ra sau lưng. Nhưng chiếc khăn lại khá vuông gần với khăn vành.
    Cũng trong bộ ảnh của gia tộc họ Vi tại Lạng Sơn, nhưng cô tiểu thư lại vấn kiểu không thông thường ở miền Bắc, mà thiên về kiểu vấn khăn lương, với phần tóc xõa ra sau lưng. Nhưng chiếc khăn lại khá vuông gần với khăn vành.
    Khăn vấn và nón quai thao
    Khăn vấn và nón quai thao
    Một người đàn ông vấn khăn theo kiểu tiêu chuẩn điển hình.
    Một người đàn ông vấn khăn theo kiểu tiêu chuẩn điển hình.

     

    Một phụ nữ Bắc Hà
    Một phụ nữ Bắc Hà
    Thiếu phụ ở Huế, khăn lương
    Thiếu phụ ở Huế, khăn lương

    Một cặp lão thành Bắc Hà.
    Một cặp lão thành Bắc Hà.

     

    Một gia đình quyền quý Bắc Hà.
    Một gia đình quyền quý Bắc Hà.

     

    Một phụ nữ Bắc Hà
    Một phụ nữ Bắc Hà

    Theo: FB/ngo.dang.thien

    Thêm 1 kiểu vấn khăn thời nhà Nguyễn ( Theo Đại Việt Cổ Phong)

    Khăn vấn của người Việt

  • Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

    Đã hơn 200 năm trôi qua nhưng cuộc chiến chống tà đạo, trừ dẹp nạn mê tín trong dân gian của hoàng đế Gia Long và sau đó là người kế nghiệp, hoàng đế Minh Mạng, vẫn còn đẫm tính thời sự!

    Chúa Nguyễn Ánh bình định được nhà Tây Sơn và lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long  năm 1802. Thời bấy giờ, nạn mê tín dị đoan trong dân chúng gần như là quốc nạn, các đạo sĩ với những tà thuật ghê rợn tung hoành. Tin theo các đạo sĩ, thầy địa lý, nhiều phàm dân có tục “rửa  gân”, “nghiệm gân” bằng cách đào lấy hài cốt cha mẹ, bậc tôn trưởng để chiêm nghiệm việc tốt xấu. Không những thế, vì mê tín dị đoan mà người ta còn quật mồ để hủy hoại vất bỏ xác chết, gọt đầu, làm thương tổn đến tử thi, trộm quần áo của xác chết…

    Luật hình – nhân mạng (quyển 196) trong Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ đề cập rất rõ tệ mê tín dị đoan trong dân chúng thời bấy giờ. Không chỉ quật mồ người  thân  chiêu hồn xem điềm tốt xấu, còn có tình trạng những kẻ ngu muội, u mê giết người lấy nội tạng luyện bùa thuốc. Hình luật dành cho tội phạm dạng này, có đoạn: “Phàm những người lấy tai mắt, tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra làm bùa thuốc, nếu có người thân thuộc tố giác ra, hoặc bắt giải nộp quan, thì nếu đã hành động rồi, kẻ thủ phạm vẫn không được tha tội”.

    Luật hình – nhân mạng thời bấy giờ còn có tội danh khá lạ kỳ: làm ra hay nuôi chứa loài sâu có độc để giết người.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Hoàng đế Gia Long trên một tạp chí của Pháp.

    Loài sâu độc mà ai đó nuôi để giết người là sâu gì, cách nuôi ra sao, Luật hình-nhân mạng cũng như các thư tịch cổ triều Nguyễn còn để lại không nói rõ. Nạn trấn yểm, dùng bùa chú để hại chết người cũng nằm trong phạm vi cấm đoán của triều đình Gia Long: “Nếu kẻ nào khắc vẽ hình người để yểm phản, làm phù chú nguyền rủa, muốn làm chết người khác (kể cả người thường, con cháu,  nô tỳ, người ở đợ, bậc tôn trưởng, hạng dưới, ít tuổi) đều khép vào tội mưu giết người (đã hành động nhưng chưa làm cho bị thương) mà trị tội. Vì thế mà đến nỗi chết người, đều chiếu luật “mưu giết người”, mà trị tội. Nếu chỉ muốn làm cho người ta bị tật bệnh khốn khổ thì được giảm kém tội mưu giết người đã hành động rồi, nhưng chưa làm cho bị thương 2 bậc”.

    Hoàng đế Gia Long đã nhìn ra nguồn gốc của sự ngu muội trong dân chúng với các hình thái quật mồ chiêu hồn, nuôi sâu độc giết người, yểm phản làm phù chú, rồi nạn cầu đảo, giải hạn, trừ tà… xuất phát từ những kẻ làm nghề phù thủy, đồng cốt, thầy cúng, phường đồng cốt.

    Hoàng đế Gia Long khẳng định trước triều thần rằng, những kẻ thầy bà đã lợi dụng sự ngu muội trong dân chúng làm trò ma mị, đục khoét, gây thanh thế nên cần phải nghiêm trị: “Những thuật cầu đảo, sám hối, giải ách đều là vô ích cả. Đời xưa kẻ đồng cốt, bói toán khinh nhờn thần thánh, họ Cao Tân (họ của vua Đế Cốc ngày xưa) chỉ cúng tế vị thần chính đáng, bọn tà đạo làm mê hoặc dân chúng, chế độ của vương giả giết đi, đều là trừ khử sự mê hoặc, bỏ thuyết gian tà, để cho tục dân hết thảy theo về chính đạo. Như Tây Môn Báo ném người đàn bà làm đồng cốt xuống sông, Địch Nhân Kiệt phá bỏ đền dâm thần, đều có định kiến cả”.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Quan tòa kết tội và thi hành án một phạm nhân.

    Tây Môn Báo mà hoàng đế Gia Long nhắc đến, là người nước Ngụy, làm quan ở quận Nghiệp thời Chiến quốc (Trung Quốc). Cổ sử ghi dân chúng thời bấy giờ vì bị phường đồng cốt làm cho u mê hằng năm góp tiền làm lễ chọn một người con gái tế sống, quăng xuống sông gọi là cưới vợ cho Hà Bá để tránh bị quấy nhiễu. Bọn cường hào ác bá nhân đó lợi dụng làm tiền, khiến nhân dân khốn khổ. Tây Môn Báo biết chuyệt đã cho bắt hết phường đồng cốt quăng xuống sông, trừ được mối tệ cho dân.

    Còn Địch Nhân Kiệt làm quan thời Đường (Trung Quốc). Lúc còn làm tuần phủ Hoa Nam và thứ sử Dự Châu, thấy dân trong hạt thờ những Dâm thần vốn dĩ là những “thần bậy bạ không đáng thờ”, ông đã cho phá hết những đền thờ dâm thần trong hạt!

    Trong bản Dụ vào năm 1804 (năm Gia Long thứ 3), hoàng đế Gia Long nhìn nhận thực trạng “dân chúng tin theo quỷ thần, mê muội đã quá, hơi một tí cũng đi mời thầy vẽ bùa, đọc chú, ninh hầu kẻ đồng cốt”.

    Vị vua lập nên triều Nguyễn, khẳng định: “Kẻ có tà thuật đều giả trá, lừa dối cho người nghe sinh biến đổi rối loạn trong lòng, vẽ bùa, viết khoán, nhờ pháp thuật để sinh nhai; chuộc mạng, chiêu hồn, lấy con bệnh làm của báu. Thậm chí có kẻ phù đồng ấp bóng, bịa ra lời nói của thần, kiêng ăn, cấm thuốc, kẻ đau ốm không thể cứu lại được. Lại có những thuật làm người bằng giấy, làm ngựa bằng cỏ, ném gạch đá vào nhà, đốt cháy nhà cửa, cùng những bùa thuốc làm mê hoặc, đã lấy pháp thuật để quấy nhiễu người lại đến tận nhà để xin chữa, lừa dối trăm cách, thực là mối hại lớn của nhân dân”.

    Xác định phường thầy bà đồng cốt là mối hại lớn của nhân dân, để an dân, triều đình Gia Long cấm ngặt những kẻ hành nghề phù thủy, làm đồng cốt. Không những thế, theo lệnh vua, bộ Hình định rõ tội danh và trừng trị thẳng tay những kẻ can phạm. Nhẹ thì đánh đòn, bắt làm phu dịch, bắt đi giã gạo, lưu đày xa xứ, nặng thì phạt tội trảm (chém), giảo (thắt cổ)…

    Điều luật Cấm chỉ các bọn thầy cúng, đồng cốt và tà thuật  (Luật lễ – nói về tế tự, quyển 186) đề cập chi tiết các hình phạt dành cho phường đồng cốt, thầy cúng, tăng đạo cả gan vi phạm cấm lệnh bài trừ tệ nạn mê tín trong nhân dân.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Hơn 200 năm trước, hoàng đế Gia Long xem nạn cầu đảo, giải hạn… là tệ mê tín dị đoan. 200 năm sau, hậu thế vẫn có lắm kẻ ngu muội!

    Theo đó hình phạt giảo giam hậu (giam chờ ngày treo cổ) sẽ được áp dụng với những thầy cúng, đồng cốt giả làm tờ thần giáng xuống, vẽ bùa đọc chú vào bát nước hầu giá lên đồng tự xưng là Đoan Công, Thái Bảo, sư bà…, cùng xưng càn là Phật Di lặc, các hội Bạch Liên xã, Minh Tôn Giáo, Bạch Vân Tôn. Theo điều luật này, kẻ tòng phạm sẽ bị phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm. Nếu là quân, dân đóng giả thần tượng, gõ thanh la, đánh trống, đón thần mở hội, phạt 100 trượng (chỉ bắt tội kẻ đứng đầu). Lý trưởng biết không tố cáo,  phạt xuy 40 roi.

    Phạt xuy nghĩa là lý trưởng sẽ bị nọc ra đánh đòn, vừa bị đánh vừa bị răn cho biết nhục. Roi phạt xuy lý trưởng là sợi mây nhỏ, riêng tội phạt trượng thì dùng sợi mây to vừa. Và “lưu 3.000 dặm” nghĩa là can phạm sẽ bị đưa đi an trí nơi phương xa đến 3.000 dặm, suốt đời không được trở về bản quán. Với đàn bà phạm tội làm đồng cốt, hình phạt sẵn dành là “phạt xuy 100 roi, bắt đi giã gạo 6 tháng”.

    Luật hình định danh tội “Đào mả người khác” với hình phạt dành cho kẻ đào mồ chưa đến quan quách “phạt 100 trượng, đày 3 năm”, đào đến quan quách “phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm”, nếu đã mở quan quách thấy xác người sẽ bị “tội giảo giam hậu” (giam chờ ngày treo cổ). Luật cũng ghi rõ hình phạt lăng trì (xẻo thịt cho đến chết) với những kẻ lấy tai mắt, tạng phủ của người sống làm thuốc. Vợ con kẻ can phạm cùng người nhà tuy không biết chuyện cũng bị xử vạ lây, bị xử lưu 2.000 dặm  (cho đi ở cách nơi ở cũ 2.000 dặm).

    Nhận định của thiên tử về tội ác này: “Tội lấy tai mắt tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra, tội này cũng giống như tội mổ xẻ thân thể người. Nhưng tội mổ xẻ thân thể người, chỉ muốn giết chết người ấy thôi, còn tội này thì giết chết người ấy làm bùa thuốc để mê hoặc người khác, cho nên tội lại nặng hơn”. Với góc nhìn ấy, hình phạt dành cho thủ phạm nếu hành động nhưng chưa làm bị thương nạn nhân  cũng là “xử trảm”, vợ con bị “xử lưu 2.000 dặm”, kẻ tòng phạm (có giúp sức) thì xử phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm!

    Với những kẻ “làm ra hay nuôi chứa loài sâu có chất độc để giết người”, nếu bị phát giác, can phạm sẽ bị xử trảm (chém đầu), vợ con và người ở chung nhà tuy không biết chuyện cũng bị xử lưu 2.000 dặm. Trong trường hợp kẻ phạm tội lấy chất độc của loài sâu  độc đánh thuốc độc người ở chung nhà mà người thân không hay biết, thì được miễn tội xử lưu. Luật ghi: “nếu có biết chuyện, tuy là người của bên bị đánh thuốc độc vẫn phải tội lây”.

    Kẻ khắc vẽ hình người để yểm phản, làm phú chú nguyền rủa muốn làm chết người khác, sẽ bị khép vào tội mưu giết người, tội này theo luật hình thời bấy giờ là trảm!

    Những hình thức xử phạt kể trên cho thấy hoàng đế Gia Long rất nghiêm khắc và quyết tâm trong việc trừ dẹp tệ mê tín dị đoan trong nhân dân. Năm 1820, sau 18 năm trị vì thiên hạ, hoàng đế Gia Long băng hà, kế tục sự nghiệp của vua cha, hoàng đế Minh Mạng (1791-1841) cũng dốc lòng dốc sức tuyên chiến với tệ mê tín dị đoan nói chung, nạn thầy bà giở những thuật quái gở nói riêng. Thời trị vì của hoàng đế Minh Mạng, đã có không ít “thầy bà” hay những kẻ ngu muội bị đánh đòn và xử tử.

    Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), Trần Đăng Luật ở  xã Phan Xá (huyện Phong Lộc, phủ Quảng Ninh) đến triều đường kêu dâng các giấy tờ biên chép lời sấm của người cha quá cố là Trần Đăng Triều gọi là “Thái Bình sách”. Việc đến tai vua Minh Mạng, theo luật Trần Đăng Luật sẽ bị xử tử, nhưng xét thấy Luật là “dân mọn, ngu tối không biết gì, tưởng lầm vật quý của nhà đem mê hoặc dân chúng” nên vị vua thứ 2 của triều Nguyễn ban đặc ân, cho khoan giảm tội, phạt 100 trượng, rồi giao về cho địa phương quản thúc nghiêm ngặt!

    Không được may mắn như Trần Đăng Luật, 10 năm sau (1837- năm Minh Mạng thứ 18), có 3 can phạm đã phải trả giá bằng mạng sống khi vi phạm tội danh được định khung của bộ Hình thời bấy giờ là “Làm ra sách và lời nói quái đản”: “Tên Dao là người thổ ở Trấn Tây, nói dối có phép thuật quái gở, làm cờ ngụy, bọn tên Nguyên, tên Ban cùng nhau tuyên truyền,  mê hoặc người đem sang đất giặc, 3 tên ấy đều xử tội trảm  đem thi hành ngay”…

    Hoàng đế Minh Mạng cũng có chính sách phạt nặng với quan chức địa phương mà cụ thể là lý trưởng, nếu “biết mà không cáo giác ra thì xử phạt 100 trượng”. Và để khuyến khích dân chúng góp sức cùng triều đình chống tệ nạn trên, những người cáo giác bắt được kẻ vi phạm các cấm lệnh sẽ được hậu thưởng đến 20 lạng bạc. Tiền thưởng ấy được trích từ tài sản của kẻ phạm tội. Trường hợp quan binh phát hiện vụ việc và thực thi việc bắt giữ, cũng được thưởng số tiền là 10 lạng bạc trích từ tài sản của can phạm!

    Ngày nay, nạn mê tín dị đoan vẫn phổ biến với đủ hình thức ngu muội, buôn thần bán thánh… tồn tại như một thứ dịch bệnh khó loại trừ. Xem ra, kinh nghiệm xử phạt thật nặng, và trọng thưởng cho người tố giác trích từ tài sản của kẻ phạm tội, mà hoàng đế triều Nguyễn áp dụng, chính là chìa khóa vàng để triệt dẹp thói tệ này!

    Nguồn: N.T.Dũng (An ninh thế giới)

  • Gái Việt ngày xưa làm đẹp như thế nào?

    Gái Việt ngày xưa làm đẹp như thế nào?

    Để có vòng một căng đầy mà không cần dao kéo, phụ nữ Việt xưa có nhiều bí quyết khác nhau…


    Cung đình Huế xưa có cả một công nghệ chế tạo mỹ phẩm cho các bà hoàng, cung phi… và hầu hết đều làm từ nguyên liệu thiên nhiên. Ví dụ như sáp môi được làm từ sáp ong loại tốt, thường là sáp ong ruồi, đem nấu chảy, trộn thêm dầu ô liu rồi lọc vài lần qua các lớp sa, sau đó trộn với màu ưa thích như hồng, cánh sen, hổ hoàng nhồi đều. Son này được các bà dùng bôi lên môi tạo độ bóng tự nhiên, làm môi mềm, lâu phai màu.

    Bột phấn tô lông mày đốt từ gỗ cây điên điển, rồi thổi thật nhẹ để lấy thứ bụi tro nhẹ, mịn làm chì kẻ mắt. Bút vẽ lông mày là cây điên điển phơi khô, giã giập mịn đầu rồi cắt xéo vạt, sau này mới được thay bằng cọ lông…

    Mỹ phẩm nổi tiếng nhất, còn được lưu truyền đến ngày nay của cung đình Huế là phấn nụ, có công dụng dưỡng da mặt mịn màng, làm trắng da, trị mụn và tàn nhang, giải độc tố, giúp giảm viêm, hạn chế quá trình lão hóa, ổn định bề mặt biểu bì, hài hòa màu da tự nhiên. Quy trình sản xuất mỹ phẩm hoàng cung này cũng lắm công phu, qua tới 9 công đoạn. Nguyên liệu chính là thạch cao và trên 10 vị thuốc bắc bí truyền, một số loại hoa và đặc biệt là… nước mưa xứ Huế tinh khiết.

    Bên cạnh phấn nụ, một mỹ phẩm làm đẹp da nổi tiếng khác của cung đình Huế là hoa cung nữ, hay còn gọi là hoa phấn. Đây là một loại hoa màu hồng tím, mùi hương nhẹ dịu tinh khiết, trong ruột hoa có chứa một loại phấn màu trắng. Các cung tần mỹ nữ thời xưa thường bôi bột phấn lên mặt để trang điểm, giúp khuôn mặt trắng mịn.

    Hoa phấn còn có thể lấy cánh vắt ra thành nước, bôi lên da mặt, giúp làn da đều màu, mịn màng, mờ các vết thâm nám.

    Trong hoàng cung nhà Nguyễn còn có nhiều loại mỹ phẩm khác như nước trắng dưỡng da, nước trắng trị mụn… Mỗi loại mang đến cho làn da những tác dụng riêng, đem đến cho cung tần mỹ nữ xưa một làn da trắng hồng tự nhiên thông qua tác dụng dưỡng da và chống nắng lâu dài chứ không thông qua cơ chế tẩy trắng làn da trong một thời gian ngắn.

    Một biện pháp đơn giản mà cung nữ hay dùng là khi tắm nước nóng thì dùng tay xoa nhẹ tấm thân mượt mà, trơn tru. Vừa xối nước vừa vỗ nhẹ lên thân, lên da mặt để kích thích cho da hồng hào.

    Một số món ăn cũng được cho là đem lại làn da khoẻ mạnh, như quả vải, canh nhân sâm bồi bổ sức khoẻ, giúp da khoẻ đẹp từ bên trong.

    Để có vòng một căng đầy mà không cần “bơm”, phụ nữ xưa có nhiều bí quyết khác nhau, như ăn nhiều đu đủ và sắn dây sau mỗi kỳ “đèn đỏ”, thoa khắp ngực loại thuốc cao docó chứa thành phần thực vật tự nhiên như trầm hương, cam thảo, thực hiện các bài massage vùng ngực để kích thích tuần hoàn máu, khai thông huyệt đạo, hấp thu tối đa các chất dinh dưỡng cần thiết… Nhân sâm cũng được coi là một “thần dược” giúp cho bộ ngực nảy nở căng tràn.

    Để có một mái tóc đẹp, phụ nữ thời Nguyễn chỉ dùng bồ kết gội đầu cho tóc có màu đen nhánh và mượt mà. Đây là loại nguyên liệu phổ biến trong cung đình cũng như dân chúng, đã được sử dụng từ thời xa xưa và còn phổ biến cho đến những thập niên gần đây.

    Để biến tóc điểm bạc thành tóc đen nhánh, một phương pháp được nhiều người ưa chuộng dưới thời Nguyễn là lấy nùi điển điển (nút chai rượu Champagne của Tây) đốt thành than. Sau đó lấy tăm hoặc bông chấm than, kẻ lên đầu xóa hết các vùng chân tóc thưa hoặc phủ lên vùng bị bạc. Loại than này cũng được dùng làm chì kẻ mắt vì màu thật, hợp với da.

    Các loại thảo dược có vai trò rất quan trọng trong việc làm đẹp của phụ nữ thời xưa. Tùy theo chủng loại mà chúng được dùng để nấu nước tắm, chế biến thành món ăn, bào chế thành thuốc… giúp kéo dài tuổi xuân của các chị em.

    Theo Khám phá Huế.