Category: Phong tục – tập quán

  • Nghi lễ Tết của Hoàng tử, Công chúa triều Nguyễn

    Nghi lễ Tết của Hoàng tử, Công chúa triều Nguyễn

    Theo các tư liệu lịch sử còn lưu lại, hoàng tử, công chúa ngày xưa thường có nhiều hoạt động đón Tết, chơi xuân.

    Nghi lễ Tết của Hoàng tử, Công chúa triều Nguyễn

    Nghi lễ đón Tết trong cung triều Nguyễn. (Ảnh: Nhà nghiên cứu Võ Tòng Xuân).

    Theo sách “Đời sống trong cung đình triều Nguyễn”, hoàng tử, công chúa nhà Nguyễn lập gia đình đều được xây dựng phủ đệ riêng ở ngoài kinh thành. Cuộc sống của họ xem như tách biệt hoàn toàn với hoàng cung.

    Nghi lễ Tết của hoàng tử, công chúa
    Dịp gần Tết, nhịp sống ở phủ đệ rộn ràng hơn ngày thường. Số quan lại, binh lính, người hầu trong phủ đệ giảm khi một số xin phép về nhà ở quê lo Tết cho gia đình. Số còn lại ở phủ đệ được phân công canh gác, tập trung dọn dẹp, chuẩn bị phẩm vật sinh hoạt trong những ngày Tết.

    Theo quy định của triều Nguyễn, lễ Thướng tiêu (dựng cây nêu) là khởi đầu của nghỉ Tết. Khi Thướng tiêu ở Đại Nội thực hiện xong, các ông hoàng, bà chúa mới làm lễ này tại phủ đệ của mình.

    Sau lễ lễ Thướng tiêu, triều đình tiến hành lễ tế cuối năm tại các miếu để mời bậc tiên đế về ăn Tết, tổ chức ngày 30 tháng Chạp. Vua làm chủ tế lễ, thân công, hoàng tử, đại thần cùng đi theo. Đêm giao thừa, các phủ đệ đều đốt pháo với ngụ ý xua đuổi tà ma, điều xui xẻo, đưa tiễn cái cũ, đón điều mới, may mắn, tốt tươi.

    Sáng mùng một Tết, vua ngự ở điện Thái Hòa, tiến hành đại lễ chào đón năm mới. Các hoàng đệ, hoàng tử, công chúa đến mừng vua 5 lạy. Sau lễ mừng, vua truyền chỉ ban tiền thưởng xuân và yến tiệc. Các hoàng thân, hoàng tử mỗi người được ban trên dưới 20 lạng bạc. Tiếp đến, nhà vua đưa các hoàng tử đến cung Diên Thọ dâng biểu chúc mừng Hoàng Thái hậu và làm lễ Khánh hạ.

    Sang mùng 2 Tết, các ông hoàng, bà chúa làm lễ tại phủ đệ. Sau đó, họ vào Đại Nội xin phép vua rước mẹ mình về phủ để con cháu có dịp mừng tuổi, chúc phúc và báo hiếu.

    Dịp Tết về thăm con cháu tại phủ đệ, các bà hoàng đều chuẩn bị những món quà quý chỉ có ở chốn cung đình làm vật kỷ niệm và mừng tuổi. Trong hồi ký, tác giả Bửu Kế đã miêu tả sự kiện đón Tết tại phủ Lạc Biên quận công như sau:

    “Ngài tôi vào tâu xin hoàng đế cho phép bà tôi ra ngoài để con cháu dâng tuổi. Bà tôi đi một chiếc võng, hai bên có rèm bỏ xuống che kín cả người. Đòn võng sơn đỏ, hai đầu trở thành hình đầu phụng và đuôi phụng, khác hẳn đòn võng của ngài tôi trổ hình đầu rồng và đuôi rồng…

    Hai bà nữ quan hầu trầu thuốc và bưng tráp đã đứng khép nép sau lưng bà tôi. Ngài tôi, chị tôi và tôi lần lượt quỳ xuống dâng rượu thọ…Thăm con cháu đâu được một tiếng đồng hồ, bà tôi lại lên võng trở vào Đại Nội”.

    Ông hoàng, bà chúa chơi gì trong dịp Tết?
    Trong ba ngày Tết, các ông hoàng, bà chúa rất bận rộn, đi chúc Tết hoặc ở phủ đệ tiếp khách. Con cháu trong các phủ phòng khác, các vị tôn tước, quan lại trong triều thường đến phủ đệ chúc Tết.

    Đến mùng 3 Tết, những người nghèo khổ kéo nhau đến cổng ngõ phủ đệ của các ông hoàng, bà chúa xin tiền. Các ông hoàng, bà chúa sẵn lòng ban cho họ một ít tiền trong ngày đầu năm mới, thể hiện lối sống phong lưu, tấm lòng khoan dung, dẫu có lúc các ông hoàng, bà chúa cũng đang gặp khốn khó.

    Tết cũng là dịp để các ông hoàng, bà chúa gặp gỡ giới văn nghệ sĩ, cùng nhau sáng tác thi ca và ngâm vịnh thi phú tại phủ đệ. Những ông hoàng, bà chúa có khiếu thơ văn như: Tùng Thiện vương Miên Thẩm, Tuy Lý vương Miên Trinh, Tương An quận vương Miên Bửu, Công chúa Mai Am, Công chúa Huệ Phố… Họ đã để lại cho hậu thế một khối lượng tác phẩm văn chương đồ sộ, góp phần tạo ra hiện tượng văn chương tiêu biểu của giai đoạn này.

    Một số ông hoàng, bà chúa tổ chức diễn tuồng, ca Huế trong phủ đệ. Các vở tuồng được trình diễn vào những ngày Tết như: Ngự Văn Quân, Vạn bửu trình tường…, cầu chúc một năm mới gặp nhiều điều an lành.

    Những buổi biểu diễn tuồng vào dịp Tết không chỉ dành riêng cho các ông hoàng, bà chúa, tầng lớp quý tộc, quan lại, mà còn mở cửa cho dân chúng sống xung quanh phủ đệ đến xem.

    Phủ đệ cũng là nơi tổ chức nhiều trò chơi cung đình và dân gian như: Đổ xăm hường – trò chơi gieo các hột xúc xắc để dành những chiếc thẻ khắc chữ màu đỏ ghi các học vị trong hệ thống khoa cử thời xưa (tú tài, cử nhân, tiến sĩ, hội nguyên, thám hoa, bảng nhãn, trạng nguyên).

    Khi kết thúc ván chơi, người giữ trong tay những thẻ nào, có bao nhiêu điểm, tổng số điểm cộng lại sẽ giúp xác định kẻ thắng người thua.

    Tiếp đến là trò chơi Đầu hồ – ném mũi tên (phi tiêu) gõ vào “con cóc” (miếng gỗ dẹp đặt giữa bình và vị trí người chơi), sao cho khi bật lên sẽ rơi xuống lọt vào miệng bình. Đây là trò chơi thử thách sự khéo léo, tinh nhạy của người chơi.

    Ngoài ra, còn có chơi Bài vụ, Bài Chòi, trò chơi thu hút nhiều người tham gia nhất. Riêng các phi tần thời Nguyễn thích chơi bài, đặc biệt là bài tứ sắc và tổ tôm.

    Khi các ông hoàng, bà chúa lập phủ đệ ở bên ngoài kinh thành, dân chúng đã chịu ảnh hưởng của cuộc sống bình dân và văn hóa dân gian một cách sâu đậm. Như vậy, phủ đệ là nơi giao thoa, hòa quyện lối sống văn hóa cung đình và dân gian, từ đó góp phần hình thành tính cách con người xứ Huế.

    Cuộc vui chơi, du xuân kéo dài đến ngày mùng 7 tháng giêng, các ông hoàng, bà chúa tổ chức lễ hạ nêu tại phủ đệ, bắt đầu một năm làm việc mới. Phủ đệ trở về với không gian và nhịp sống kín đáo, thâm nghiêm như cũ.

    Nguồn: DV

  • So sánh trang phục xưa của Việt Nam và Triều Tiên

    So sánh trang phục xưa của Việt Nam và Triều Tiên

     

    Trang phục đại triều của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Khải Định)
    Trang phục đại triều của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Khải Định)
    Trang phục đại triều của quan Triều Tiên và Việt Nam (thời Nguyễn)
    Trang phục đại triều của quan Triều Tiên và Việt Nam
    Thường phục của nam nhân Triều Tiên và Việt Nam
    Thường phục của nam nhân Triều Tiên và Việt Nam
    Đại triều phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Đại triều phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Lễ phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Lễ phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt Nam
    Áo cưới cung đình của nữ quý tộc Triều Tiên và Việt Nam
    Áo cưới cung đình của nữ quý tộc Triều Tiên và Việt Nam
    Tế phục của vua Triều Tiên và Việt Nam
    Tế phục của vua Triều Tiên và Việt Nam
    Võ phục cung đình của Triều Tiên và Việt Nam
    Võ phục cung đình của Triều Tiên và Việt Nam
    thường phục của quan chức Triều Tiên và Nguyễn
    thường phục của quan chức Triều Tiên và Nguyễn
    trang phục của các quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    trang phục của các quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    trang phục nữ nhân Triều Tiên và Việt Nam
    trang phục nữ nhân Triều Tiên và Việt Nam
    Thường triều phục/ tế phục của quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    Thường triều phục/ tế phục của quan viên Triều Tiên và Việt Nam
    Võ phục cách tân của vua Triều Tiên và Việt Nam ( vua Khải Định)
    Võ phục cách tân của vua Triều Tiên và Việt Nam ( vua Khải Định)
    Võ phục truyền thống của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Thành Thái)
    Võ phục truyền thống của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Thành Thái)

    Theo FB/MÀU ÁO HOA RỪNG

  • Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Nói lái là một hình thức vô cùng độc đáo của ngôn ngữ Việt. Ngay từ trong truyện dân gian, có có câu chuyện liên quan đến nói lái. Bạn có bao giờ nghe giai thoại giải thích đại phong là lọ tương?

    Đại khái là một người bán tương ghi tên nhãn hiệu là Đại Phong. Món này ăn với rau muống rất ngon. Nhưng người mua thắc mắc Đại Phong là gì thì được giải thích như sau:

    – Đại là lớn, phong là gió. Đại phong là gió lớn, gió lớn thì chùa đổ, chùa đổ thì tượng (Phật) lo, tượng lo là lọ tương.

    Một giai thoại khác, ở trong Nam. Lúc ấy, vào buổi tàn thời của nho học, người ta bỏ bút lông, giắt bút chì; một số chạy theo thực dân Pháp. Trong số ấy có Nguyễn Văn Tâm, một lòng cúc cung với mẫu quốc, được người Pháp cất nhắc làm quan lớn; trên dưới trong ngoài, ai cũng biết nhờ bợ đỡ quan thầy mà làm quan to.

    Tâm lấy làm tự đắc lắm. Phú quí sinh lễ nghĩa, quan lớn nhà ta cũng muốn tỏ ra mình phong lưu, muốn có những bức hoành, trướng để trang trí. Có người dâng lên quan bốn chữ đại tự Đại Điểm Quần Thần, viết chân phương, rất đẹp và giải thích Quần thần là người bề tôi, Đại điểm là điểm lớn, ý nói quan lớn là người bề tôi có vị trí to lớn, quan trọng trong triều.

    Quan lấy làm thích thú đem treo bức liễn trong phòng khách; ai đến thăm quan cũng đem khoe và giải thích như trên. Ít lâu sau có người đến ngắm bức liễn, rồi xin quan lớn dẹp đi. Quan ngạc nhiên hỏi, người ấy xin đừng bắt tội, đuổi hết tả hữu rồi giải thích: Người viết liễn đã cố ý bỡn quan lớn, mà quan không biết. Bốn chữ trên dịch từng chữ: Đại điểm là chấm to; Quần thần là bề tôi, nói theo kiểu trong Nam là bầy tôi. Đại Điểm Quần Thần là Chấm To Bầy Tôi nói lái lại là Chó Tâm Bồi Tây. Chẳng nghe chuyện kể nói quan có tìm tác giả bốn chữ nói trên để trị tội hay vì không muốn làm vỡ chuyện mà ỉm luôn.

    Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Trong đời sống hàng ngày, chẳng hiếm khi chúng ta gặp những câu nói lái, đôi khi chỉ để bỡn cợt, châm biếm hay tránh những tiếng thô tục.

    Ở Nam Bộ, có câu :

    Con cá đối nằm trên cối đá,
    Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
    anh mà đối được, dẫu nghèo em cũng ưng.

    Người Việt, đối với những người lớn tuổi hay trưởng thành ở Việt Nam chẳng có ai là không biết cách nói lái, tùy theo gốc gác hay sinh hoạt ở Bắc, Trung hay Nam mà cách nói lái có khác nhau; nhưng tựu chung, khi nói lái, người ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà người nghe, vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra như trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần kể trên.

    Đi sâu hơn vào chi tiết: một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chữ Chanh, chẳng hạn, gồm phụ âm Ch và âm anh. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ được phát âm khác nhau: Chanh, chánh, chành, chạnh… và tất nhiên có nghĩa khác nhau, và đây cũng là nét độc đáo của ngôn ngữ Việt, người nước ngoài bảo người Việt nói chuyện nghe giống như hát.

    Cũng có chữ không có phụ âm mà chỉ có âm, như trong ảnh ương hay ảo ảnh…

    Nói Lái theo cách ngoài Bắc.

    Trở lại câu chuyện đại phong là lọ tương nói trên. Tượng lo nói lái lại là lọ tương, người miền Bắc đổi chỗ cho hai chữ, đồng thời đổi luôn hai dấu (nghĩa là đổi âm sắc): lo đổi chỗ cho tượng, lấy dấu nặng thành lọ, tượng đổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành tương.

    Ta lấy vài thí dụ khác:

    Đấu tranh nói lái lại là tránh đâu: tranh đổi chỗ cho đấu, lấy dấu sắc của đấu thành tránh, đấu đổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh (không dấu) thành đâu.

    Hải phòng nói lái lại là phỏng hài: hải đổi chỗ cho phòng lấy dấu huyền của phòng thành hài, phòng đổi chỗ cho hải lấy dấu hỏi của hải thành phỏng

    Cứ theo cách ấy thì:

    Sầm Sơn là sờn sâm
    Thái Bình nói lái là bính thài
    Hà Nội là nồi hạ…

    Như vậy thì hai chữ có cùng dấu không nói lái được, như nhân dân, anh em, Sài Gòn, thánh thót, thực vật…. Cũng vậy, những tiếng láy như xanh xanh, hơ hớ, đo đỏ, lăng xăng… không thể nói lái được và nếu chúng ta cố tình theo qui luật trên thì cũng chỉ đổi vị trí cho nhau thôi.

    Nói lái theo kiểu trong Nam.

    Trong Nam người ta nói lái theo cách khác: cá đối nói lái lại thành cối đá.

    Ta nhận thấy theo cách nói lái trong nam, âm trong hai chữ đổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí, phụ âm c ghép với âm ối của đối thành cối, và phụ âm đ ghép với âm á thành đá. Như vậy:

    Sài gòn – sòn gài
    Cần thơ nói lái là cờ thân
    Cầy tơ là cờ tây
    Cửu long là cỏng lưu
    Thủ Đức thức đủ
    vv.. và vv..

    Bút hiệu Thế Lữ (trong Tự Lực Văn Đoàn) chính là chữ nói lái của tên thật của ông: Nguyễn Thứ Lễ. Ngày trước đã có vế đối:

    Ngày Tết, Thế Lữ đi hai thứ lễ: lê ta và lê tây

    Trong vài trường hợp người ta nói lái cho cả ba chữ, bằng cách giữ nguyên chữ giữa như trong trường hợp mèo đuôi cụt thành mút đuôi kèo (dấu nặng trong cụt biến thể thành dấu sắc trong mút), như vậy hà thủ ô nói lái thành hồ thủ a.

    Đôi khi người ta lại đổi chỗ hai phụ âm cho nhau (tuy ít thôi) để sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hơn, thí dụ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành biến chinh, do đó với hai chữ tranh đấu có người đã đùa mà nói rằng: tranh đấu thì tránh đâu khỏi bị trâu đánh thì thế nào cũng phải đấu tranh.

    Cũng như trong trường hợp trên, những chữ trùng âm như nhân dân, lù đù, lật đật… không nói lái được.

    Vài giai thoại – câu đối – câu đố

    Chúng ta đã thấy giai thoại về Đại điểm quần thần, Đại phong ở trên. Chúng ta cũng thường nghe nói đến câu tiếng lóng “hạ cờ tây” là “hạ cầy tơ” của dân nhậu trong Nam và “mộc tồn” (là “cây còn”, nói lái thành “con cầy”) ở ngoài Bắc, hay những lối nói lái rất quen thuộc: con chín bến đò (con chó bến đình), Hương bên đèo (heo bên đường), theo con Hương (thương con heo)…

    Trong Nam, mấy bạn nhậu thường hay nói chữ: “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu” cũng đừng vội tưởng họ sính nho, thật ra họ đùa “rượu gặp tri kỷ có trời mới biểu (bảo) thôi” (thiên = trời, bôi thiểu = biểu thôi)….

    Về câu đối, xin trở lại câu ca dao trên:

    Con cá đối nằm trên cối đá.
    Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.
    Anh mà đối đặng dẫu nghèo em cũng ưng.

    được đối là:

    Chim mỏ kiến(g) nằm trong miếng cỏ
    Chim vàng lông đáp đậu vồng lang
    Anh đà đối đặng hỏi nàng ưng chưa?

    Phải công nhận là câu đố và câu trả lời không chê vào đâu được, chắc gì chúng ta tìm được câu trả lời nào hay hơn cho cô gái tinh nghịch này.

    Một câu khác, nghe chừng như xuông miệng nói chơi, nhưng lại đối rất chỉnh, trong cả hai vế đều dùng cách nói lái:

    Kia mấy cây mía
    Có vài cái vò

    Một câu đối khác, nghe được sau 75, lúc người dân trong Nam không còn gì để sinh sống, đặc biệt là giới thầy cô thuộc chế độ cũ được lưu dụng. Dầu gì chăng nữa, trước đó họ là lớp người tuy sống nhờ đồng lương cố định, nhưng cũng có cơm ăn áo mặc đầy đủ. Người ta nghe thấy hai câu đối tết, nhại theo Tú Xương ngày trước, nhưng rất đặc sắc và chua xót:

    Chiều ba mươi, thày giáo tháo giày ra chợ bán
    Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang.

    Thực tế là giày không còn là một phần trong y phục của thày giáo, nhưng cháo đã là phần lương thực thường thấy trong bữa ăn hàng ngày.

    Trong một đám cưới, chú rể người Hóc Môn, cô dâu ở Gò Công; có người rắn mắt đọc đùa câu đối:

    Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc – Gái Gò Công vừa gồng vừa co

    Trong văn chương bình dân Việt Nam, câu đố chiếm một vị trí tuy khiêm nhường nhưng có sức sống tương đối mạnh mẽ so với hò đối đáp chẳng hạn. Ngày nay ta vẫn thường nghe những câu đố trong khi không còn thấy hò đối đáp trong sinh hoạt hàng ngày của người bình dân. Trong các dạng câu đố, cách dùng nói lái để đánh lừa người khác là một trong những cách tuy dễ nhưng cũng làm khó cho người bị đố không ít. Sau đây là vài câu đố dùng nói lái, lời giải có ngay trong câu đố:

    -Tổ kiến, kiển tố, đố là chi? – (đáp: tổ kiến)

    -Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai. Bò la, bò liệt đố ai biết gì? – (đáp: khoai lang).

    Những chữ mũi, lái, khứ, lai chỉ cốt để đánh lừa người bị đố.

    – Con gì ở cạnh bờ sông,
    cái mui thì nát cái cong thì còn – (đáp: con còng – cong còn nói lái thành con còng)

    – Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng – (đáp: ngón chưn cái)

    – Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn – (đáp: con ngựa)

    – Miệng bà ký lớn, bà ký banh
    Tay ông cai dài, ông cai khoanh – (đáp: canh bí, canh khoai)

    Một vài người cũng câu nệ về nói lái, tránh đặt tên con những chữ có thể nói lái thành thô tục như Thái (dễ ghép với chữ có phụ âm d: thái dọt, thái dúi, thái dòng…). Lài (dễ ghép với chữ có âm ồn như lài dồn, lài cồn, lài mồn…). Côn, Tôn, Đôn (ghép với chữ có phụ âm l) v.v.. và v.v..

    Vài suy nghĩ

    Qua những phân tích trên, ai cũng công nhận nói lái quả là một đặc thù của tiếng Việt. Chúng ta dùng nói lái để châm biếm, để gài người khác trong các câu đố, câu đối, để tránh những thô tục khi cố ý ghép chữ dể hạ thấp người khác.

    Bỏ qua một bên những cái độc đáo, lắt léo của nói lái trong câu đố, câu đối; để chỉ chú ý đến phần đông các trường hợp chúng ta sử dụng nói lái như là một hình thức hạ thấp người khác. Trong phần trên chúng ta đã thấy nhà nho nào đó đã dùng sự uyên bác của mình để chửi một quan to mà quan chẳng những đã không biết mà còn hoan hỉ chấp nhận trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần.

    Chúng ta đã dùng nói lái như một thứ vũ khí của người muốn dùng tiểu xảo để chống đối, để chứng tỏ mình hơn người, như một thứ vũ khí của kẻ yếu, kẻ bị trịđể bôi bác, nhạo báng, ám chỉ… để hạ phẩm cách của kẻ mạnh, kẻ thống trị.

    Vấn đề nêu ra để chúng ta phải suy gẫm là tại sao chúng ta có những cách rất tiêu cực như vậy? Phải chăng vì hoàn cảnh dân tộc Việt Nam đã đắm chìm quá lâu trong cảnh bị trị, dù của ngoại bang hay của chính người đồng chủng. Người dân phải tìm cách tránh né, che đậy để sinh tồn trước sức mạnh của kẻ thống trị. Vấn đề đặt ra cho chúng ta cùng suy nghĩ là chúng ta có nên duy trì mãi những tiêu cực tương tự trong những sinh hoạt thường ngày của chúng ta không? Ai cũng thấy rõ một điều là sức sống của người Việt vô cùng to lớn, mãnh liệt, nhưng đồng thời cũng thể hiện những tiêu cực vô cùng tai hại. Chính vì chỉ muốn sống còn bằng bất cứ giá nào, người Việt đã mất đi những tích cực của tập thể cần phải có, điều này đã giúp cho kể thống trị tồn tại lâu trong vị trí và là một cách giải thích tại sao dân tộc chúng ta bị trị lâu đến như vậy.

    Dù vậy, nói lái vẫn là một hình thức vô cùng đặc sắc của ngôn nhữ Việt, với khả năng nhạy bén về tính trào phúng, tính châm chọc… (và chúng ta chỉ nên khai thác khía cạnh tích cực này), chúng ta tin rằng nói lái sẽ tồn tại với người Việt.

    Hòa Đa (Saigonxua)

  • Màu áo cô dâu Việt Nam

    Màu áo cô dâu Việt Nam

    Theo sách “Trang phục Việt Nam” của nhà nghiên cứu trang phục Đoàn Thị Tình, cô dâu miền Bắc (thời Nguyễn) vào ngày cưới tóc vấn đuôi gà, đầu khăn gài con bướm bạc, cổ đeo kiềng bạc, chuỗi hạt vàng, lưng đeo xà tích, váy sồi đen, mặc áo mớ ba, bên ngoài mặc áo the đen, trong là áo hồng và áo xanh. Cô dâu các miền khác cũng có lối ăn mặc tương tự, nhưng có một số tiểu tiết khác biệt. Cô dâu miền trung và miền Nam chải lật búi tóc, thay vì vấn đuôi gà. Cô dâu miền Trung có thể mặc lồng hai áo năm thân, bên trong là màu đỏ hoặc hồng điều, bên ngoài là áo vân màu xanh chàm (Cũng có thể mặc thêm áo the đen bên ngoài thành áo mớ ba), mặc quần trắng.

    Về cô dâu Nam Bộ, Sách “Trang phục Việt Nam” cũng cho biết cô dâu miền Nam mặc quần lĩnh đen, tuy nhiên không nói rõ áo màu gì. Còn heo sách “Nhà ở – Trang phục – Ăn uống của các dân tộc vùng ĐBSCL” của tác giả Phan Thị Yến Tuyết, xuất bản năm 1993, trang 66:

    “Vào lễ cưới, trang phục của cô dâu chú rể vùng Gia Định trước kia và vùng ĐBSCL hiện nay có những diễn biến theo phong tục và quan điểm thẩm mỹ, thời trang. Cho đến đầu thế kỷ XX… cô dâu mặc áo vân đen mỏng, quần đũi màu hồng sậm, cổ đeo xâu chuỗi hổ phách “hạt to bằng ngón tay cái”, hai tai xỏ đôi bông búp bạc. Dâu và rể đều khoác bên ngoài áo thụng rộng xanh, lót màu cánh sen, khi ra sân có cặp lọng che. Trong những gia đình theo tục cũ, trang phục của cô dâu và chú rể đều là áo cặp.

    cô dâu Đông Dương đầu thế kỉ XX, mặc áo cặp, trong đỏ ngoài xanh, đội nón cụ
    cô dâu Đông Dương đầu thế kỉ XX, mặc áo cặp, trong đỏ ngoài xanh, đội nón cụ

    Áo cặp ở Nam Bộ có thể là một dạng tàn dư, tồn tại biến dạng của “áo mớ” (áo mớ ba, mớ bảy) nơi tầng lớp mệnh phụ giàu có ở miền Trung. Vì khí hậu Nam Bộ nóng quanh năm, cư dân còn nghèo nên áo mớ không thể dung nạp, chỉ còn dừng lại ở dạng áo cặp trong nghi thức trang trọng như lễ cưới. Hoặc rõ rệt hơn, có thể “áo cặp” là phong tục chỉ sự “đủ đôi đủ cặp” trong lễ cưới, vì ngày trước ở vùng Gia Định có thời cô dâu, chú rể ngoài “áo cặp” còn mặc “quần cặp”. Áo cặp tức áo song khai, cô dâu dùng áo the lót gấm hồng, chú rể dùng hàng the lót gấm xanh có dệt chữ “thọ” nhỏ (chữ thọ lớn chỉ dùng cho người lớn tuổi).

    cô dâu miền Nam đầu thế kỷ XX, mặc áo xanh ngoài, áo hồng bên trong, đội nón cụ. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu miền Nam đầu thế kỷ XX, mặc áo xanh ngoài, áo hồng bên trong, đội nón cụ. Chú rể mặc áo lam

    Chiếc áo dài của cô dâu, chú rể mặc bên ngoài người ta gọi là áo thụng. Đó là chiếc áo dài và rộng so với áo dài mặc bên trong, tay áo thụng cũng rất dài và rộng, của tay áo có khi lên đến 30 cm. Áo thụng thường được may bằng vải gấm dày, màu lục sậm, xanh sậm hoặc xanh lam có dệt hoa văn. Ngày trước, cô dâu chú rể tầng lớp bình dân ở ĐBSCL có khi mặc áo cặp, đội nón, đội khăn nhưng đi chân đất, không mang giày dép ”

    Còn theo bài viết “Gam màu đặc trưng của phục trang xứ Huế” trên trang báo Nét Cố Đô thì cô dâu Huế mặc áo cặp điều lục, đồng thời giải thích điều là màu đỏ, lục là màu xanh.

    Như vậy có thể nói, kiểu mặc áo ngoài màu xanh, áo trong hồng hay đỏ (tức áo lục điều) là một kiểu phối màu phổ biến và nhất quán của cô dâu Việt thời Nguyễn, thậm chí có thể là trong những thời kỳ trước đó.

    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam
    cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam

    Tuy nhiên, trong thực tế, ngoài màu xanh, trong một số đám cưới cô dâu có thể còn mặc nhiều màu khác nữa, tuỳ vào từng quan niệm, địa vị và hoàn cảnh. Áo đen, áo thâm là màu mang tính “bản sắc dân tộc”, được người Việt ưa chuộng trong lễ, tiết. Áo đỏ, áo vàng một phần là ảnh hưởng từ các dạng áo Nhật Bình trong cung. Áo đỏ cũng có thể do ảnh hưởng từ áo đỏ của cô dâu Trung Quốc, mang ý nghĩa đại cát, đại hỉ. Áo hồng, áo tím là màu đẹp, nhẹ nhàng, gợi cảm… Nếu có điều kiện, xin sẽ nói rõ hơn ở các bài sau về nguồn gốc và ý nghĩa các màu sắc trong đám cưới Việt xưa, đặc biệt là màu xanh đã nói đến ở trên.

    Theo Lê Phan – ĐVCP

  • Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn

    Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn

    Các nghi thức trang điểm theo lối cung đình Huế vẫn luôn là điều bí mật với nhiều người. Bí ẩn từ cách pha chế mỹ phẩm đến cung cách vẽ mặt sao cho các mệ trông giống như các bức tượng tiên thánh. Những phần khác chỉ còn là huyền thoại, cùng với sự ra đi của những bà hoàng, những công chúa, phi tần cuối cùng của vương triều nhà Nguyễn…

    Người cung nữ cuối cùng còn sống của Triều Nguyễn
    Người cung nữ cuối cùng còn sống của Triều Nguyễn

    Mỗi sáng sớm các viên lính giản khiêng loan ỷ Thánh Cung Hoàng thái hậu, đích mẫu của Vua Khải Định, từ trên lầu Tịnh Minh xuống chính sảnh Cung Diên Thọ để các Cô làm tốt. Đây là cách người Huế xưa gọi việc trang điểm. Phải mất công như thế vì bà bị thấp khớp rất nặng, đi đứng khó khăn. Theo lời yêu cầu của ông Quan Năm bác sỹ người Pháp, triều đình xây cái lầu này trên nhà Thông Minh Đường để Thái hậu nghỉ ngơi cho đỡ ẩm thấp. Dù đau đớn thế nào đi nữa, trong suốt thời gian làm tốt Lệnh bà cũng vẫn phải ngồi yên, lưng ngay, mặt nhìn thẳng theo đúng phép tắc cung đình. Sau khi việc điểm trang, áo xống đã xong, Thái hậu vẫn phải giữ vẻ trang nghiêm trên ngai, đến nỗi trông bà giống như các tượng tiên, thánh trong đền.

    Khoảng năm 1970 tôi có dịp được bà Điềm Tần, thứ thất của cố Hoàng đế Khải Định, cho tôi xem cách bà trang điểm để sửa soạn cho một dịp đại kỵ. Lúc ấy vì không hiểu nên tôi chỉ thấy buồn cười mà không dám nói. Bà dùng phấn nụ pha nước sền sệt đánh mặt trắng bệch như vôi, nhưng từ dưới cầm xuống cổ, và hai tai, lại để da trần. Cho dù da bà trắng, sự tương phản vẫn rõ nét, gần như do cố ý. Điều gây ấn tượng mạnh nhất đối với tôi lúc ấy là cặp mắt không trang điểm của bà hiện ra giữa mầu phấn trắng một cách siêu thực. Có khi đấy cũng là do cố ý? Bà bôi lên mỗi gò má một khoảnh tròn phấn hồng. Môi trên dưới đều đánh phấn trắng, nhưng sau đấy bà dùng ngón tay tô sáp lên môi trên, và chỉ một điểm sáp son vào chính giữa môi dưới. Như vậy để môi chum chím như một nụ hoa. Lông mày cũng được đánh che hết bằng phấn trắng, để rồi được tô lại bằng bút lông với muội than gỗ điên điển (có thể thay gỗ điên điển bằng nút bấc).

    Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn Trang điểm trong Cung Đình nhà Nguyễn

    Bà Tần giải thích rằng khi một nữ nhân đã nhập nội (vào làm vợ vua) rồi thì ngoài chồng, tức là vua, không một người đàn ông nào khác được thấy mặt mình nữa, dù là cha ruột. Gặp những dịp các bà phải có mặt ngoài cung cấm, thì các bà phải đánh phấn trắng như vậy để “trăm Mệ như một”. Người ngoài chỉ được thấy cái mặt giả của các bà. Bà nói các kỹ nữ (geisha) bên Nhật cũng phải theo nguyên tắc này. Mặt thật của họ chỉ có chồng con được biết thôi.

    Theo lệ thời cuối Nguyễn Triều thì các hoàng thái hậu và các bà hậu, phi trong tam cung không phải đánh phấn trắng lối này. Các bà trong lục viện mới phải đánh mặt trắng. Ba viện trên được đánh sáp môi lên môi trên và một chấm sáp giữa môi dưới. Ba viện dưới đánh trắng môi trên với một chấm son giữa môi dưới…
    Bây giờ tôi chỉ ước được quay lại khung cảnh ấy để chiêm ngưỡng. Cô Lê Thị Dinh, người giữ phận sự trang điểm cho bà Từ Cung Hoàng thái hậu, sau này cho tôi biết rằng tôi rất may mắn. Vì trong tất cả các bà trong nội cung thời cuối Nguyễn, chỉ có bà Điềm Tần còn giữ các cung cách cổ.

    Phụ nữ trong cung thủa xưa dùng phấn nụ để trang điểm. Gọi là phấn nụ vì do cách sản xuất thời bấy giờ, mỗi viên phấn có hình dáng giống như một nụ hoa nho nhỏ. Các bà tự làm ra phấn nụ để dùng chứ ít khi họ tin tưởng vào phấn mua ngoài phố. Phấn nụ được làm từ chất cao lanh thượng hạng mua từ Trung Quốc và đem về chế biến.

    Khi đánh phấn, người ta nhón viên nụ phấn bằng các đầu ngón tay rồi miết với động tác xoay tròn lên mặt. Sau đó dùng các đầu ngón tay xoa cho đều. Lập lại nếu cần. Phấn cũng còn được pha sẵn với nước đựng trong hũ nhỏ để bôi lên mặt khi cần đánh lớp trắng, dầy trong các dịp đại kỵ.

    Người xưa đốt gỗ điên điển, và sau này là nút bấc, rồi dùng cọ lông viết chữ Nho quết than khô để vẽ lông mày. Sau khi đã vấn khăn hay búi tóc xong, các bà cũng dùng than này chấm lên che bớt tóc bạc, đường rẽ ngôi và các chỗ tóc bị sói.

    Lối đánh phấn trắng bệch với phấn hồng và môi điểm nụ chỉ được dùng trong các dịp đại kỵ trong cung ngày xưa. Vào các lễ lạc khác và ở đời thường, phấn nụ và sáp môi cũng chỉ được điểm trang như cách phụ nữ vẫn làm ngày nay mà thôi. Phấn nụ vẫn được làm thành từng thỏi lớn và bán tại các hàng xén trong chợ Đông Ba ở Huế. Nhưng các bà xưa vẫn thường tự mua cao lanh về làm phấn nụ để dùng riêng. Họ phải kỹ vì chất cao lanh loại thấp cấp dễ gây tổn hại cho da mặt.

    Phấn nụ loại tốt ngày xưa còn được xem là có công dụng dưỡng da. Phấn được bôi dầy lên mặt mỗi đêm, để trong khi ngủ da sẽ thẩm thấu phấn và trở nên mịn màng. Các phụ nữ nội cung còn sống ở Huế hiện nay vẫn chỉ dùng phấn nụ. Họ không hài lòng lắm với mỹ phẩm Tây phương.

    Phấn nụ và khăn vành dây bao giờ cũng đi đôi với nhau trong cung nội ở Huế. Người Việt cổ dùng vải nhiễu cát để bao tóc. Người Tây phương sau này cũng rất chuộng loại vải này và gọi nó là Crepe de Chine. Nhiễu cát do người Việt dệt ngày xưa chỉ mỏng bằng nửa loại Crepe de Chine ngoại nhập được dùng khá phổ biến trong cung ở thời cuối Nguyễn triều.

    Cách chít khăn trong cung ở Huế khác với cách vấn khăn của đàng ngoài. Khăn vấn Huế được chít với mép khăn hướng lên trên và dấu ở phía trong vành khăn. Vành khăn thứ hai được chít bao ra ngoài phía trước vành khăn một, chứ không luồn bên dưới vành một như ở Bắc bộ. Các mệnh phụ trong cung Huế thường vấn khăn vành dây ra ngoài khăn chít trong các dịp lễ. Khăn vành dây rộng 30cm. Khăn bằng Crepe de Chine ngoại quốc có độ dài trung bình là 15 mét. Khăn nhiễu cát Việt Nam mỏng nên có độ dài hơn.

    Từ độ rộng 30cm, khăn vành dây được xếp thành bề rộng 6cm với cạnh hở hướng lên trên, rồi quấn thành hình chữ Nhân, tức là chữ V ngược, che tóc, một phần tai và vòng khăn chít bên trong. Khi khăn đã bao giáp vòng, gấp khăn lại còn nửa chiều rộng, bắt đầu từ đằng sau gáy, vẫn để cạnh hở hướng về phía trên, rồi vấn tiếp. Khăn vành được bao chặt ra ngoài phần khăn chit, tạo thành một cái đĩa lớn. Vì nhiễu cát có độ co dãn và nhám cao nên khăn vành ít khi tuột. Phần cuối của khăn được vén khéo vào trong vành khăn phía sau, rồi dùng kim găm dấu cho khéo.
    Về sau khi tóc uốn trở nên thông dụng, người Huế tạo ra một vòng vải ống tròn nhồi bông chụp vừa lên đầu giả khăn vấn để lót cho khăn vành dây. Một trong những người đầu tiên xử dụng loại khăn vấn sẵn này là Hoàng hậu Nam Phương. Khi mới nhập cung, tóc Hoàng hậu vẫn còn uốn ngắn như hồi còn ở bên Pháp. Phải có cái ống khăn chít giả bên trong người ta mới vấn được khăn vành cho Hoàng hậu, để bà có thể mặc áo mệnh phụ khi làm triều lễ.

    Chỉ mãi sau này khi điển lệ đã bị phá bỏ người ta mới thấy một vài khăn vành dây mầu vàng trong cung. Còn ngoài ra, từ các hoàng thái hậu, hoàng hậu cho đến các công chúa, mệnh phụ thường cũng chỉ vấn khăn vành mầu lam đậm. Khăn vành dây bao giờ cũng được xem là niềm kiêu hãnh, cũng như nỗi khổ của các phi, hậu, mệnh phụ ngày xưa.

    TRỊNH BÁCH

  • Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

    Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

     

    1. Thị

    Nói tới thị xin mọi người trở về cái thời hồng hoang, ăn lông ở lổ của bộ lạc và thị tộc.
    Xã hội khi đó rất lạc hậu nên cần người, sanh đẻ rất khó nuôi, thành ra vai trò người đờn bà rất quan trọng.
    Thị tộc mẫu hệ là hình thức thị tộc đầu tiên và phổ biến của xã hội loài người. Người phụ nữ có vai trò lớn, là người đứng đầu gia đình và các thị tộc.
    Thị tộc phụ hệ là giai đoạn kế tiếp thị tộc mẫu hệ, ra đời từ thời kỳ đồ đá.

    Dân tộc Việt phải nhắc tới Hồng Bàng Thị (鴻龐氏) dịch ra là họ Hồng Bàng, nhưng ý nghĩa ban đầu là “người mẹ Hồng Bàng”.
    Bên Tàu có, như: “Phục Hi thị” 伏羲氏, “Thần Nông thị” 神農氏, “Cát Thiên thị” 葛天氏, “Hữu Hỗ thị” 有扈氏 cũng là kiểu này.
    Nữu Hỗ Lộc thị thời nhà Thanh là một trong bát kỳ, Sùng Khánh Hoàng thái hậu dòng tộc Nữu Hỗ Lộc thị là thân mẫu của Càn Long Hoàng đế. Hòa Thân, một nhân vật đầy quyền lực cũng thuộc Nữu Hỗ Lộc thị.

    Thị là một danh xưng mặc định cho người đờn bà. Cả Tàu lẫn Việt đều chỉ đại từ nhơn xưng ngôi thứ ba số ít chỉ phụ nữ là”y thị”.
    Thành ra có những cách gọi, xưng hô đờn bà như bà Trần Thị,Nguyễn Thị,Lý Thị, Vương Thị.

    Nên nhớ Việt tộc là một tộc khá cá biệt của thế giới văn minh, chúng ta theo chế độ mẫu hệ dài hơn người Tàu nữa, Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh là bằng chứng.
    Tôi đã từng nói Việt tộc ta trường tồn là có một phần “mẫu hệ”, nhờ mẫu hệ mà 1000 năm bị Tàu đô hộ ta không mất gốc.
    Cái chế độ mẫu hệ ở Việt Nam ta từ hồi Bà Trưng, Bà Triệu và tới nay đã là phụ hệ khi con mang họ cha. Tuy nhiên con mang họ cha là lý thuyết thôi, trong gia đình quyền lực của các bà vẫn bao trùm.

    Cái câu “Hỏi má mày” nghe trong xóm làng hơi bị nhiều.
    Ông bà xưa VN ta có câu : ”Mua heo chọn nái mua gái chọn dòng” là vì thế.
    Người Việt mình rất nhơn văn, không có tục bó chưn đau đớn như Tàu, chẳng có tục tùy táng người hầu, vợ lẽ sau khi chết…

    Việt cổ có tục xâm mình ,ăn trầu và nhuộm răng đen.
    Người Việt đặt tên con gái thì bưng nguyên chữ 氏 thị vô làm chữ lót một cách bất di bất dịch.
    Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan, bà là chánh thất vua Gia Long, là mẹ đẻ của hoàng tử Cảnh.
    Đoan Huy Hoàng thái hậu Hoàng Thị Cúc –tên thường gọi là Bà Từ Cung là thứ thất của vua Khải Định –mẹ của vua Bảo Đại… rồi bà Nguyễn Hữu Thị Lan, bà Bùi Thị Xuân, Ngô Đình Thị Hiệp…

    Người Việt đặt lót thị nhiều chứ người Tàu không thấy kiểu này.
    Nói vầy cho dễ hiểu nè, Việt đặt là Bành Thị Chơi,Tàu đặt tên là Bành Sướng Chơi và Tàu kêu thông dụng là bà Bành thị.
    Không phải con gái là cứ đặt thị, có người không lót chữ thị, tùy ý thích thôi.
    Thí dụ như : Bà Đạm Phương nữ sử tên thật là Công Tôn Nữ Đồng Canh là cháu nội vua Minh Mạng.
    Ca sĩ Quỳnh Giao tên thiệt là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang là cháu sơ vua Minh Mạng.
    Nhưng lại có bà Tôn Nữ Thị Ninh.
    Cái tên này hay nè? Công Tằng Tôn Nữ Tạ Thị Đánh Đu Tòn Ten Bong Lòng Đèn Lấp La Lấp Lánh Như Ánh Thuỳ Dương
    Ta nghe Thị Mẹt, Thị Màu, Thị Nở, Thị Hết, Thị Bẹt là một dạng gọi trỏng của người VN.
    Nhưng thị cũng là một cái họ riêng dù hiếm hoi. Vua Minh Mạng cho người Khmer họ Thị
    Kết luận: Lót chữ thị 氏 là dấu vết và nhắc nhớ tới mẫu hệ của Việt tộc ta.

    Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

    2. Văn

    Văn ra đời sau chữ thị vì phụ hệ đi sau mẫu hệ.

    Trong Nho giáo xưa thì học là giỏi, trau dồi học vấn,văn ôn võ luyện.
    Võ thì mạnh bạo, nhưng sát phạt, không dám khoe, văn thì phải khoe.

    Ông bà ta quan niệm học hành thi cử tiến thân.
    “Trai nam nhơn thi chữ
    Gái thục nữ thi tài”

    Chữ 文 Văn xuất xứ đầu tiên nghĩa là “chữ”.
    Chữ tượng hình là chữ bắt chước hình tượng các loài mà đặt ra kêu là “văn” 文, gộp cả hình với tiếng gọi là “tự” 字.
    Văn tự là chữ viết, thành ra ta có Anh Văn, Pháp Văn,Hoa Văn…

    Văn còn là“văn minh” 文明, “văn hóa” 文化.
    Người xưa tôn thờ sao Văn Xương, Văn Khúc vì tượng trưng cho thông minh, hiếu học, học giỏi, văn chương, mỹ thuật, âm nhạc, thành đạt.

    “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
    Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
    Anh về học lấy chữ nhu
    Chín trăng em đợi, mười thu em chờ”

    Người Việt thích lót chữ văn cho con trai là muốn con mình học giỏi, thi đậu, thành đạt.
    Các bạn nên hiểu là bên Tàu cũng có lót chữ văn, tuy nhiên không nhiều như Việt mình, thí dụ Triệu Văn Trác, Mã Văn Tài.

    Nhưng con gái mà tên Phạm Văn Phương thì cũng lạ.
    Văn cũng là một cái họ khá phổ biến của người Tàu và VN, thí dụ Văn Thiên Tường.
    Nhưng cũng như thị, người Việt không phải cứ con trai là lót chữ văn.
    Thí dụ như Hồ Quý Ly có con là Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương.
    Nhà Lê Sơ, con cháu Lê Lợi đặt tên là Lê Nguyên Long, Lê Bang Cơ, Lê Nghi Dân, Lê Tư Thành…
    Chúa Nguyễn thì lót chữ Phúc cho con, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Khoát…
    Vua Minh Mạng thì làm bài phiên hệ “Miên-Hường…” đặt cho con.
    Họ Ngô thì lấy chữ Đình lót cho con: Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm…

    Túm lại: Chữ lót văn là như vậy đó
    “Đêm qua chớp bể mưa nguồn
    Hỏi người tri kỷ có buồn hay chăng
    Cá buồn cá lội tung tăng
    Em buồn em biết đãi đằng cùng ai?”

    Nguyễn Gia Việt/Dansaigonxua

  • Tục để móng tay dài “siêu dị” của người Việt Nam xưa

    Tục để móng tay dài “siêu dị” của người Việt Nam xưa

    Quan niệm của người xưa về sự quyền quý, cao sang là người không phải “động chân, động tay”, tức là mọi việc năng nhọc đều sai khiến người khác. Lao động chân tay bị coi là công việc thấp hèn. Cộng với quan niệm của một số nho sĩ cho rằng, thân thể mình là do tạo hoá và cha mẹ ban cho, do vậy phải gìn giữ tất thảy cái gì có thể gìn giữ được.

    Tục để móng tay dài
    Do vậy mà nảy sinh một tục của giới mày râu là để móng tay dài, không cắt ngắn. Những móng tay để dài đến mức nó cuộn tròn khiến bàn tay khó có thể cầm nắm hoặc làm việc gì nặng nhọc là cách thể hiện quan niệm và địa vị của mình. Đương nhiên vì không thể tuyệt đối không sử dụng bàn tay, nên thông thường người ta chỉ để móng tay của bàn tay trái, còn bàn tay phải thì ít nhất cũng phải dùng để cầm cây bút hay một vài sinh hoạt cá nhân.
    một ông quan người An Nam (VN) với móng tay để dài
    Một ông quan người An Nam (VN) với móng tay để dài

     

    Tục để móng tay dài
    Một bàn tay của quan An Nam. Các ngón tay được để móng dài, để chứng tỏ đẳng cấp xã hội (không phải làm việc tay chân, chỉ lao động bằng trí óc!), trừ ngón trỏ dùng để… gãi!

     

    Tục để móng tay dài
    Hanoi – Long nails of a native’s hand Bàn tay của một nhà nho, với móng tay để dài, biểu hiện cho vị trí cao trong xã hội (tức là người không phải lao động bằng tay chân)

     

    ông lang móng tay dài
    ông lang móng tay dài

     

    Móng tay để dài của một nhà nho - Photo by Léon Busy
    Móng tay để dài của một nhà nho – Photo by Léon Busy

     

    Hà Nội - Ông lang (thầy thuốc) với móng tay để dài
    Hà Nội – Ông lang (thầy thuốc) với móng tay để dài

     

    Đông Dương thập niên 1920 - Một nho sĩ Annam với móng tay dài, niềm tự hào và thích thú của ông ta
    Đông Dương thập niên 1920 – Một nho sĩ Annam với móng tay dài, niềm tự hào và thích thú của ông ta

     

    SàiGòn - người phụ nữ nhà giàu với móng tay để dài
    SàiGòn – người phụ nữ nhà giàu với móng tay để dài

     

    Tục để móng tay dài
    Go Cong 1920-1929 – Un chef de canton qui a de longs ongles – Một ông cai tổng (chánh tổng) với bàn tay để móng dài Với móng tay dài loằng ngoằng như thế này, xỏ vào được tay áo dài chắc không phải là việc dễ dàng lắm! Nam Kỳ Tỉnh chia thành tổng (canton), đứng đầu là Chánh tổng (Chef de canton), còn gọi là Cai tổng. Tổng chia thành làng (village), đứng đầu là Hội đồng Hương chức (còn gọi là Ban Hội tề) do Hương cả phụ trách chung.

     

     

    Tục để móng tay dài
    SAIGON 1869 – Hand of a rich Annamese. See the long nails on his left hand. Photograph by Wilhelm Burger Móng tay để dài của một người Annam giàu có tại Saigon.

    [ Flickr/ manhhai]

  • Tục nhuộm răng đen của người Việt xưa

    BY VietSun magazine
    Phong tục nhuộm răng đen của người Việt xưa
    Phong tục nhuộm răng đen của người Việt xưa

    Bài viết chia sẻ về phương pháp nhuộm răng đen trên Facebook:

    Có lẽ đối với các thế hệ ngày nay, hình ảnh những người bà, người mẹ và cả những cô thiếu nữ với hàm răng óng ả hạt huyền chỉ còn là một hình ảnh đẹp trong quá khứ xa xôi. Những người của thế hệ nhuộm răng đen đến nay đã ra đi gần hết! Nét duyên dáng răng đen như ngọn đèn trước gió, và đi vào kỷ niệm! Nhưng những nụ cười đen nhánh nay đã mơ hồ kia, cứ đen mãi trong lòng sâu thẳm của những ai biết nó… mãi đen huyền, đen rực một cách thân thương!…
    Để nhớ, để lưu giữ lại một phong tục, một nét đẹp văn hoá, mời các bạn cùng tìm hiểu nghệ thuật nhuộm răng đen của người Việt xưa.
    Nguồn gốc của Tục nhuộm răng
    Nhuộm răng là tục cổ của dân tộc Việt, có từ thời Hùng Vương cùng với tục ăn trầu đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của bộ tộc người Việt để phân biệt với các sắc dân khác..Đại Việt Sử Ký toàn thư trang 133 chỉ ghi lại lời vua Hùng về tục xăm mình chứ tục nhuộm răng thì không thấy “… rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái vào mình. Từ đấy không thấy thuồng luồng đến cắn hại nữa”. Sứ thần của nước Văn Lang trả lời vua nhà Chu về tục ăn trầu “Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen…”. Không chỉ người Việt mới có tục nhuộm răng mà các dân tộc khác như Mường, Thái, Si La… cũng có tục này nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thời gian, cách nhuộm và chất liệu sử dụng.
    Phong tục nhuộm răng đen
    Tục nhuộm răng đen trước hết là do quan điểm thẩm mỹ. Chính tục lệ ăn trầu là lý do trực tiếp của tục nhuộm răng, bởi nhai trầu thường làm ố đen răng, nên phải nhuộm đen, nhuộm thật đen để loại bỏ tác dụng trên, đồng thời tạo được vẻ thẩm mỹ duyên dáng cho hàm răng… “Da trắng, răng đen” tạo sự tương phản cao và đầy nghệ thuật đã thu hút bao hồn vía các chàng trai thời ấy! Các cô gái, cho dù không ăn trầu, vẫn cứ nhuộm răng đen. Thậm chí, việc nhuộm răng đen còn lan sang cả cánh đàn ông nhưng số lượng ít hơn. Việc nhuộm răng đen đã trở thành luật, phổ biến trong dân chúng, trừ những đức trẻ còn răng sữa, ngoài ra đều phải nhuộm đen, không ai có thể cưỡng lại qui luật trên. Và nếu đã sở hữu một hàm răng đen, buộc cứ khoảng gần một năm phải nhuộm lại, vì màu đen đã phai. Đặc biệt vào các dịp lễ tết hay những ngày vui trọng đại như lễ hỏi, lễ cưới, họ phải nhuộm răng lại cho đen mới để tham dự.
    Tục nhuộm răng đen có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc. Kinh đô Huế được coi là nơi cực thịnh của nghệ thuật nhuộm răng, vì ở đó các ông hoàng bà chúa, các cung tần mỹ nữ, tầng lớp quan lại, nho sĩ, các cô chiêu, cậu ấm rất ưa chuộng việc nhuộm răng. Thuốc nhuộm răng của người Việt xưa phải có một công thức pha chế riêng: Bột nhựa cánh kiến, Nước cốt chanh hay hạnh, Phèn đen, Nhựa của gáo dừa.
    Việc nhuộm răng phải tuân theo từng giai đoạn làm sao cho răng đạt màu đen bóng. Để khởi đầu cho việc nhuộm răng thì miệng và răng phải được làm vệ sinh, phải chuẩn bị hàm răng cho thật sạch. Không được có bợn, bả răng trong các kẽ và chân răng, phải lấy hết cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được. Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối sống hầm chín thành bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoặc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh. Tác dụng của nước cốt làm cho lớp men ngoài răng “mềm” đi, tính acid của chanh sẽ bào mòn tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng. Thời gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, hai hàm răng lung lay gần như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó từ 7 đến 10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Ở thôn quê, người ta trét lên lá dừa, cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng.
    Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới. Đến sáng người ta sẽ gỡ ra thật nhẹ nhàng tránh bị bong tróc lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau khi lấy thuốc ra phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua để thải hết chất thuốc c.n sót lại. Người nhuộm răng gần như phải ngậm miệng suốt đêm, tránh tối đa miếng thuốc nhuộm rơi bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khoảng thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt thức ăn chứ không được nhai. Thông thường các người nhuộm răng được cho ăn bún trộn với mỡ heo và nước mắm để dễ nuốt trửng. Khi thấy răng có màu đỏ già, màu của cánh kiến th. việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộm đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày. Sau đó phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa, chất nhựa này được làm như sau: Lấy sọ hay gáo dừa già, đem phơi khô nhiều nắng, sau đó đem đốt nó trên than hồng rồi để cái sọ dừa đang cháy này lên trên một cái rựa sắt cùn, từ trong sọ dừa đang cháy un khói đó sẽ chảy ra một thứ nhựa đen sền sệt lấy chất đó bôi lên răng, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng. Người ta gọi giai đoạn này là “giết răng”. Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hột mãng cầu..Xưa ở nông thôn có thầy nhuộm răng, ông ta đi từ làng này sang làng khác để hành nghề như người làm nghề thiến heo, thiến gà chó… Ở Huế lại có các “bà thầy” nhuộm răng thường hành nghề cố định trong các chợ, như chợ Đông Ba có đến 5, 6 người hành nghề này. Họ có một cái sạp ngay giữa lồng chợ, còn như các chợ nhỏ như chợ Bến Ngự, chợ Bao Vinh, chợ An Cựu chỉ có một hai bà thầy nhuộm răng mà thôi.
    Cách đây 70 năm có một bà thầy nhuộm răng nổi tiếng nhất ở kinh đô Huế không ai là không biết, đó là bà thầy Thại ở làng Sư Lỗ cách cầu Ngói Thanh Toàn một con sông. Bà thầy vừa hành nghề nhuộm răng vừa sản xuất thuốc nhuộm, thuốc xỉa, cao dán mắt, cao no hơi đầy bụng cho trẻ sơ sinh… Muốn nhuộm răng các cô chiêu, cậu ấm phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng trời mới tới phiên mình được nhuộm. Mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà bà thầy trong suốt thời gian nhuộm khoảng từ 12 ngày đến nửa tháng. Chiều chiều bà thầy thường cho các cô chiêu cậu ấm leo lên một đồi nhỏ trong làng quay mặt ra hướng đông, bảo họ há miệng to để gió biển thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô (!) và bà cũng kể cho các cô chiêu cậu ấm đó nghe về những chuyện cổ tích, danh nhân lịch sử, lòng yêu nước, hiếu thảo với cha mẹ. Đặc biệt có một ông già mù phụ thêm hát vè Mụ Đội, vè Phạm Công Cúc Hoa, vè Lục Vân Tiên, vè thất thủ Kinh Đô… để mua vui cho các cô các cậu và những người hiếu kỳ đến xem. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại càng ngày càng nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, có mấy cái đại lý của bà ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vô tới Quảng Nam, Quảng Ngãi…Hình ảnh thiếu nữ với răng đen đã đi vào kỷ niệm.
    Duyên dáng răng đen
    Còn trong văn chương, ca dao Việt Nam thì tục nhuộm răng và răng đen của người phụ nữ được ca ngợi tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu được. Răng đen là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái: Một thương tóc bỏ đuôi gà,
    Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,
    Ba thương má lúm đồng tiền,
    Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua Để hấp dẫn, để sửa soạn, để trang điểm người con gái bao giờ cũng rất chú trọng đến hàm răng đen gợi cảm của mình: Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
    Bõ công trang điểm má hồng răng đen.
    Và:
    Năm quan mua lấy miệng cười
    Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen. Trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” nhà thơ Hoàng Cầm cũng đã từng ca ngợi nét duyên dáng, vẻ đẹp của ngườ phụ nữ Việt Nam …Những cô hàng xén răng đen
    Cười như mùa thu tỏa nắng…
    Người của ngày xưa còn lại đến hôm nay
    Phụ họa thêm cho hàm răng đen mướt một sự sạch sẽ văn minh, phụ nữ thời ấy, lúc ăn trầu thường hay “đánh răng thuốc”, nghĩa là họ dùng một lọn thuốc lá sợi, vê thành cục bằng đầu ngón út mà chà xát vào mặt ngoài của hàm răng. Có “đánh răng thuốc”, khi nhai trầu, răng mới đen mướt và sạch sẽ. Có “đánh răng thuốc” thì miếng trầu mới đậm đà, không lạt lẽo. Có “đánh răng thuốc” thì trò chuyện mới duyên dáng! Cho nên, thao tác “đánh răng thuốc” là một nghệ thuật vô cùng sinh động trong giao tiếp, tăng thêm lịch sự quyến rũ! Mới răng là mới nụ cười
    Mới cả con người, mới cả thế gian!
    Tục nhuộm răng đen còn tồn tại mãi đến khi sang thế kỷ 20, chúng ta mới phá bỏ tục lệ này. Cho đến nay, hình ảnh người phụ nữ với hàm răng đen đã lùi vào dĩ vãng nhưng đó vẫn mãi là một nét đẹp văn hoá của người Việt Nam.

  • Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến trải gần 5.000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 1: Hình ảnh tổ tiên ta vào thời An Dương Vương ăn mặc như thời mông muội in trong sách do Nxb Giáo dục xuất bản.

    Nhà xuất bản Giáo dục đã cho phép in cuốn sách minh họa hình ảnh tổ tiên ta vào thời An Dương Vương ăn mặc như thời mông muội trong lịch sử nhân loại: Chung quanh người chỉ cuốn lá cọ (ảnh 1). Mà vào thời đại tương đương với thời gian lịch sử ấy, có thể nói rằng: Hầu hết các dân tộc khác trên mặt địa cầu này đã có một nền văn minh phát triển. Điều này khiến tôi có thể chắc chắn rằng: Không phải chỉ một mình tôi cảm thấy đau lòng vì sự miêu tả tổ tiên một cách thấp kém của những cuốn sách truyện loại này.

    1. Một trào lưu hạ thấp giá trị cội nguồn dân tộc

    Tôi không có thành kiến riêng với người họa sĩ minh họa cho bộ chuyện tranh này. Anh ta chỉ là một trong rất đông người nằm trong trào lưu của quan điểm phủ nhận những giá trị truyền thống về cội nguồn trải gần 5.000 năm văn hiến của dân tộc Việt.

    Cách đây không lâu trong cuộc thi thể hình ở Đài Loan, Nguyễn Tiến Đoàn – mệnh danh là Hoa vương của cuộc thi – cũng đã ăn mặc như truyện tranh trên miêu tả và hiên ngang phát biểu trước tất cả các đại diện thi thể hình nam của các dân tộc trên thế giới: “Đây là y phục dân tộc truyền thống của dân tộc Việt”. Điều này khiến tôi – người viết bài này thấy nghẹn ngào khi y phục truyền thống của các dân tộc khác trên thế giới rất đẹp và chứng tỏ họ là một dân tộc văn minh.

    Còn hình ảnh y phục truyền thống dân tộc Việt, theo như Nguyễn Tiến Đoàn công bố thì chỉ “Ở trần đóng khố”!?. Sự việc cũng không chỉ mới ở Nguyễn Tiến Đoàn và truyện tranh An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc.

    Từ năm 1996, Nxb Trẻ cũng in một bộ truyện Lịch sử Việt Nam bằng tranh, khi miêu tả về thời Hùng Vương thì chúng ta cũng lại chỉ gặp hình ảnh những người dân “ở trần đóng khố” (ảnh 2 và ảnh 3).

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 2: Vua Hùng và các quan lang (Lịch sử Việt Nam bằng tranh), Tập 3, Nxb Trẻ 1996.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 3: Vua Hùng và Chử Đồng Tử (Lịch sử Việt Nam bằng tranh), Tập 3, Nxb Trẻ 1996.

    Những bài viết về y phục dân tộc thời Hùng Vương miêu tả như những con người sống ở thời bán khai, nhan nhản, có thể không khó khăn lắm khi tìm những tài liệu này rải rác trên báo chí và sách, mạng…và ngay cả trong sách giáo khoa phổ biến từ trước 2004 từ cấp I đến Đại học.

    Quan niệm về một hình ảnh thấp kém của tổ tiên không còn là một suy nghĩ riêng lẻ, một thứ tư duy lạc loài mà người ta quen gọi là “hiện tượng cá biệt”. Nó đã trở thành một tư duy khá phổ biến.

    Họ đã căn cứ vào đâu để có một nhận định như vậy về y phục dân tộc Việt thời Hùng Vương?

    Có thể xác định rằng: Không hề có một căn cứ khoa học nào hết.

    Nhưng ngược lại, tôi có thể xác định rằng: Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến trải gần 5.000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. Nhưng bằng chứng mà tôi trình bày dưới đây, xác định quan điểm này.

    2. Y phục thời Hùng Vương – cội nguồn lịch sử 5.000 năm văn hiến Việt

    2.1. Y phục giới bình dân

    Để chứng minh cho nhận định trên, bạn đọc so sánh những bức vẽ minh hoạ, những hình ảnh di vật khảo cổ và những luận cứ được trình bày sau đây:

    Ảnh 4 được chép lại từ cuốn Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ 20 (Nxb Trẻ 1989 – Nguyễn Mạnh Hùng giới thiệu). Đây là công trình sưu tầm của một học giả người Pháp có tên là Henri Joseph Oger. Nói một cách khác, ngay ở thế kỷ 20 này người ta vẫn ở trần đóng khố, nhưng đó không phải là y phục phổ biến trong sinh hoạt xã hội ở thời gian này.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 4: Tranh của Henri Oger.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 5: Đánh ghen – Tranh Đông Hồ.

    Hình lớn trong ảnh 5 mà bạn đang xem là bức tranh dân gian nổi tiếng: Đánh ghen, thuộc dòng tranh dân gian của làng Đông Hồ. Đó là bức tranh giàu tính nhân bản, thể hiện ở hình người con chắp tay lạy cha mẹ.

    Hình ảnh hai người phụ nữ trong tranh tuy không thuộc thời Hùng Vương, nhưng bạn đọc có thể so sánh với bức tranh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở góc trên bên trái của ảnh 5, được in lại trong cuốn Lịch sử Việt Nam bằng tranh (Nxb Trẻ 1996, tập 3). Chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên về sự tương tự của người phụ nữ trong hai tranh. Đương nhiên bức tranh minh họa trong cuốn Lịch sử Việt Nam bằng tranh không phản ánh sự thật về y phục phổ biến trong sinh hoạt của thời Hùng Vương. Bởi vì nó không thể liên hệ được sự giống nhau trong khoảng cách gần 2.000 năm theo quan điểm lịch sử mới về y phục thời Hùng Vương mà họ miêu tả với bức tranh dân gian Việt. Ngược lại, chúng ta so sánh y phục trong bức tranh Đánh ghen và y phục dân tộc truyền thống của phụ nữ miền Bắc với hình người trên cán dao bằng đồng trong hình mô tả dưới đây:

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 6. Hình minh họa của Thiên Sứ.

    Ảnh 6 và ảnh 7 là một cụm hình, được ghép bởi hình chiếc cán dao bằng đồng từ thời Hùng Vương – có niên đại được xác định là 300 năm trước CN, được tìm thấy ở Lãng Ngâm – Hà Bắc – trên có tạc người phụ nữ với y phục thời Hùng Vương và hình vẽ miêu tả y phục của một phụ nữ miền Bắc (ãnh Võ An Ninh) và ảnh Tượng chùa Dâu, do người viết ghép lại thành cụm hình để tiện so sánh.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 7: Ảnh Tượng chùa Dâu: Thiên Sứ; Ảnh người phụ nữ nông thôn: Võ An Ninh.

    Kiểu y phục của hình vẽ này tuy không còn phổ biến, nhưng bạn vẫn có thể gặp ở một bà già cao tuổi sống trong một vùng nông thôn xa thành thị nào đó ở miền Bắc Việt Nam, ngay trong năm 2009 này. Đó là thế hệ cuối cùng nằm trên võng ru con, bằng cách kể lại những câu chuyện cổ tích từ thời xa xưa và truyền thuyết về một nước Văn Lang – nơi cội nguồn của người Việt – trước khi nhường lại cho những phương tiện thông tin đại chúng và những người nghiên cứu thông thái nói lại về những câu chuyện của họ.

    Qua hình ảnh minh họa đã trình bày với bạn đọc ở trên, chúng ta cũng nhận ra sự trùng khớp hoàn toàn bởi những đường nét chính giữa y phục trên cán dao đồng và y phục của người phụ nữ Việt hiện đại còn mặc, tuy không còn phổ biến.

    Điều này chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: Y phục của người phụ nữ miền Bắc còn mặc hiện nay chính là sự tiếp nối truyền thống y phục từ thời Hùng Vương thể hiện trên chiếc cán dao đồng. Đồng thời sự so sánh này cũng cho thấy: Từ 2.300 năm qua trở lại đây – về căn bản – hình thức y phục phổ biến trong dân gian không có sự thay đổi đáng kể.

    Như vậy, có thể khẳng định: Dưới thời Hùng Vương, ông cha ta đã có những y phục phổ biến trong giới bình dân, tương tự như y phục dân tộc còn tồn tại ở các vùng thôn quê Việt Nam.

    Qua đó, chúng ta cũng nhận thức được rằng: Y phục của tầng lớp bình dân trong xã hội thời Hùng Vương đã mang tính văn hoá đặc thù của dân tộc Việt và xã hội này phải có một nền văn minh phát triển để chế tác ra những cấu trúc y phục cầu kỳ đó. Chúng ta tiếp tục tìm hiểu về y phục của tầng lớp trên trong xã hội Việt thời Hùng Vương.

    2.2. Y phục tầng lớp trên trong thời Hùng Vương

    Tất nhiên, khi mà trang phục phổ biến của các tầng lớp bình dân đã hoàn chỉnh và đa dạng thì y phục của tầng lớp trên cũng phải phù hợp với đẳng cấp của nó vì sự trang trọng và việc thực hiện những nghi lễ quốc gia văn hiến. Để chứng minh điều này, bạn đọc tiếp tục xem xét các vấn đề và hiện tượng được trình bày sau đây:

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 8: Hình bộ truyện tranh “Tam quốc diễn nghĩa” do họa sĩ Trung Quốc thực hiện.

    Hình trong ảnh 8 được chép lại từ bộ truyện tranh Tam quốc diễn nghĩa do chính các họa sĩ Trung Quốc thực hiện, Nxb Mũi Cà Mau in lại vào năm 1995, trọn bộ 30 tập. Đây là hình thứ 3795 trong tập 16. Hình người nổi bật trong tranh bên chính là Tôn Quyền (Thế kỷ II và III sau CN).

    Hình người phụ nữ ở giữa cụm tranh trong ảnh 8 này chính là Tôn Phu Nhân, em gái Tôn Quyền, vợ Lưu Bị cũng được chép lại từ bộ truyện tranh trên. Bạn hãy so sánh y phục của tất cả những nhân vật Tam Quốc, thể hiện nền văn hoá Hán trong các tranh trên với hình người trên cán dao bằng đồng của thời Hùng Vương có trước đó 500 năm (Tư liệu trong sách Thời đại Hùng Vương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1995).

    Bạn sẽ thấy một sự tương tự trong y phục. Chỉ có khác chăng là tay áo thụng của các nhân vật Tam Quốc và tay áo bó của hình người trên cán dao đồng, còn phần y phục gần như hoàn toàn giống nhau. Nếu như y phục của các bậc vương giả thời Tam Quốc không phải là bắt chước y phục thời Hùng Vương, thì chắc chắn y phục của cô gái ở trên cán dao đồng thời Hùng Vương không thể bắt chước các nhân vật Tam Quốc. Bởi vì, chiếc cán dao này có niên đại trước thời Tam Quốc ít nhất 500 năm. Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây.

    Về y phục của tầng lớp trên trong xã hội Văn Lang, người viết xin được trình bày một đoạn trích dẫn trong Kinh Thư. Kinh Thư là một trước tác từ trước đến nay vẫn được coi là sản phẩm của nền văn minh Trung Hoa, nhưng lại có rất nhiều dấu ấn chứng tỏ thuộc về nền văn minh Văn Lang. Dấu ấn đầu tiên của người Lạc Việt trong Kinh Thư được chứng minh trong sách Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại (Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Nxb Văn hóa Thông tin tái bản lần thứ 2, 2002) chính là Hồng phạm cửu trù, bản hiến pháp đầu tiên của người Lạc Việt.

    Đoạn trích dẫn sau đây liên quan đến y phục dân tộc thời Hùng Vương được trích trong cuốn Thượng Thư – sách ghi chép thời thượng cổ (bản dịch Võ Ngọc Liên, Trần Kiết Hùng, Nxb Đồng Nai 1996, trang 156): “Ba loại như mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú thì làm tinh kỳ, rồng chỉ y phục của vua, hổ chỉ y phục của đại thần theo sự phân biệt ba loại y phục khác nhau: cổn miện (của vua), tệ miện, tuyệt mịch. Tên của ba loại quần áo là dựa vào hình vẽ trên y phục mà gọi, như “cổn” thì có long cổn, cổn miện có chín bậc trong đó có long cổn đứng đầu. Tệ tức là chim trĩ, tệ triều có bảy loại trong đó có hổ đứng đầu”.

    Qua đoạn văn trên, bạn đọc nhận thấy rằng “cổn miện” (tức là mũ của vua) có chín bậc, trong đó long cổn đứng đầu; “tệ miện tức là cái mũ có hình chim trĩ”. Về hình ảnh mũ có hình tượng rồng của vua và mũ có hình chim trĩ của các quan – Oái oăm thay – nó lại được chứng tỏ trên trống đồng của nền văn minh Văn Lang.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 9a và 9b: Hoa văn trên trống đồng Đông Sơn cho thấy trên mũ của những hình người này thể hiện chiếc đầu rồng và đầu chim phượng đã được cách điệu để chứng tỏ địa vị của người đó trùng hợp với văn bản của Kinh Thư.

    Qua ảnh 9a và 9b, bạn đọc cũng dễ dàng nhận thấy, trên mũ của những hình người trên trống đồng này thể hiện chiếc đầu rồng và đầu chim phượng đã được cách điệu để chứng tỏ địa vị của người đó trùng hợp với văn bản của Kinh Thư.

    Nếu như hình vẽ trên trống đồng và những vấn đề y phục của vương triều nói trên trong Kinh Thư chỉ là một lần trùng hợp duy nhất thì có thể coi đó là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nhưng vấn đề lại không phải đơn giản như vậy! Khi mà một thiên được coi là quan trọng nhất của Kinh Thư: Thiên Hồng phạm, lại hoàn toàn mang nội dung của người Lạc Việt và một lần nữa cũng không chỉ dừng lại ở đấy.

    Người viết xin được đặt vấn đề để các bậc trí giả minh xét với đoạn trích dẫn sau đây (Việt lý tố nguyên, Kim Định, 1971): “Trong mấy thiên đầu Kinh Thư chữ ‘Viết’ cũng đọc và viết là ‘Việt’”. “Viết nhược kê cổ” cũng là “Việt nhược kê cổ”. Các nhà chú giải lâu đời nhất như Mã Dung và Khổng An Quốc cũng chỉ giải nghĩa rằng đó là câu nói giáo đầu (phát ngữ từ) nhưng không đưa ra lý do tại sao lại dùng câu đó, tại sao chữ viết với Việt lại dùng lẫn lộn… Vì thế mà có câu lập lờ mở đầu “Viết nhược kê cổ”. Cả Mã Dung lẫn Khổng An Quốc đều cho chữ “nhược” là thuận, chữ “kê” là khảo. Và, câu trên có nghĩa rằng: “Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa”. Nếu nói “Viết nhược kê cổ” thì ra câu văn thiếu chủ từ. Còn khi thay vào bằng chữ Việt thì có chủ từ là người Việt, nhưng phải cái phiền là ghi công người Việt vào đầu Kinh Thư không tiện, nên cho rằng chữ “Việt” với “Viết” như nhau…”

    Qua phần trích dẫn của ông Kim Định, người viết không cho rằng: “Việt nhược kê cổ” tức là “Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa” và càng không thể là người Việt có công chép lại Kinh Thư cho nền văn minh Trung Hoa. Từ những sự phân tích trên, hoàn toàn có cơ sở để đặt một dấu hỏi hoài nghi về nguồn gốc đích thực của Kinh Thư. Và câu trên có thể hiểu là: “Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt”.

    Như vậy, với những dấu chứng của văn minh Văn Lang trong Kinh Thư; hoàn toàn không thể cho rằng: Y phục của các vị vua thời Nghiêu, Thuấn trùng hợp một cách ngẫu nhiên với những hình ảnh trên trống đồng. Hiện tượng này chỉ có thể giải thích một cách hợp lý rằng: Y phục của vương triều được nhắc tới trong Kinh Thư, chính là y phục của vương triều Văn Lang. Việc gán ghép cho vua Nghiêu, Thuấn chế tác ra y phục cũng giống như sự gán ghép những học thuật của văn minh Văn Lang cho các vị vua cổ đại Trung Hoa, khi những hình ảnh của y phục vương triều lại được thể hiện trên trống đồng Lạc Việt. Kinh Thư chính là cuốn “Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt” mà điều này đã ghi rõ ngay trên câu đầu của cuốn sách “Viết nhược kê cổ” và nội dung của nó hoàn toàn trùng khớp với hình ảnh trên trống đồng của nền văn hóa Việt đã trình bày.

    Nếu theo quan niệm mới cho rằng: Thời Hùng Vương chỉ tồn tại khoảng vài trăm năm (thế kỷ thứ VII trước CN) và địa bàn nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở miền Bắc Việt Nam, thì sẽ không thể liên hệ và có sự minh chứng một cách chặt chẽ về sự liên quan giữa y phục trên trống đồng Lạc Việt với vương triều của vua Nghiêu (khoảng 2.000 trước CN theo bản văn chữ Hán) thể hiện trong Kinh Thư, bởi một khoảng cách hàng vạn dặm về địa lý và hàng thiên niên kỷ về thời gian.

    Trở lại vấn đề y phục, qua sự so sánh trên cho thấy: Sự có mặt của vua Nghiêu (2253 trước CN) trong việc quy định y phục vương triều, gắn với hình ảnh trên trống đồng Lạc Việt (là một di vật khảo cổ), đã chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: nền văn minh Văn Lang không những đã chế tác ra y phục phổ biến cho con người trong xã hội, mà ở tầng lớp trên đã có những y phục thể hiện sự trang trọng trong nghi lễ quốc gia và sự phân biệt ngôi thứ.

    Điều này minh chứng bổ sung cho những vấn đề được đặt ra ở những phần trên và có sự liên hệ tiếp nối như sau:

    * Hình người trên trống đồng mà giáo sư Nguyễn Khắc Thuần viết trong Thế thứ các triều đại Việt Nam cho rằng: “Hình người đang múa” thực ra đây là hình ảnh thể hiện những người đứng đầu nhà nước Văn Lang đang thực hiện những nghi lễ quốc gia. Điều này được minh chứng qua hình ảnh đầu rồng và đầu chim phượng trên những chiếc mũ của các ngài đang đội.

    * Từ đó đặt vấn đề: Hình chữ nhật được cách điệu trên tay các ngài chính là những văn bản được đọc trong khi hành lễ. Tính văn bản được chứng tỏ bằng nếp gấp phía trên góc hình chữ nhật. Giả thuyết này bổ sung việc minh chứng cho sự tồn tại một hệ thống chữ viết của người Lạc Việt.

    * Sự tồn tại hình ảnh những người đứng đầu nhà nước Văn Lang trên trống đồng là: Vua: đội mũ có hình đầu rồng; đại thần: đội mũ gắn hình chim phượng, đã khẳng định sự tồn tại một nhà nước có tổ chức chặt chẽ ở thời cổ đại, tương tự như các quốc gia cổ đại hùng mạnh khác vào thời bấy giờ. Chính những y phục đã tồn tại hàng thiên niên kỷ trước Công nguyên trong nền văn minh Văn Lang, đã trở thành căn nguyên cho bản sắc văn hóa thể hiện trong y phục truyền thống của người Việt Nam hiện nay.

    Những lập luận và hình ảnh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở trên được bổ trợ bằng một phát hiện của ngành khảo cổ như sau: 19.2.1.1 Trước hết, đó là tơ tằm. Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất sớm. Trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kỳ đá mới cách đây khoảng 5.000 năm (như di chỉ Bầu Tró), đã thấy có dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung.

    Đến giai đoạn Đông Sơn (cách nay khoảng 3.000 – 2.500 năm), hình người trên trống đồng đều mặc áo, váy và đóng khố. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang – đó là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của nền nông nghiệp Việt Nam. Người Hán từ xưa cũng luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam: đó chính là hai đặc điểm đầu tiên mà Từ Tùng Thạch kể đến trong cuốn Việt giang 178 lưu vực nhân dân (Kim Định, 1971a: 108); trong chữ “Man” mà người Hán dùng để chỉ người phương Nam có chứa bộ trùng chỉ con tằm. (Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm).

    Trong sách Luận ngữ, thiên Hiến vấn, khi nhận xét về vai trò của Quản Trọng đối với nước Tề và ảnh hưởng của nó tới xã hội Trung Hoa, chính Khổng Tử đã nói: “Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải búi tóc và vắt vạt áo bên tả như người Man Di”.

    Bạn đọc có thể tìm thấy câu nói đã dẫn của Khổng Tử ở trên trong hầu hết các sách dịch ra Việt ngữ liên quan đến Luận Ngữ, như: Luận ngữ – thánh kinh của người Trung Hoa(Nxb Đồng Nai 1996, Hồ Sĩ Hiệp biên soạn, Trần Kiết Hùng hiệu đính, trang 208); hoặc ngay trong cuốn Lịch sử văn minh Trung Hoa, (Witt Durant, do Nguyễn Hiến Lê dịch. Nxb Văn hoá Thông tin, 1997, trang 32)…

    Quản Trọng – tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu – sống vào giai đoạn đầu thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, không rõ năm sinh, mất năm 654 trước CN, người đưa nước Tề trở thành một cường quốc, bá chủ các chư hầu nhà Chu. Đây là thời điểm tương đương với thời kỳ mà không ít những nhà nghiên cứu đã căn cứ vào Việt sử lược, cho rằng: “Đó là giai đoạn khởi đầu của thời Hùng Vương”Việt sử lược viết: “Vào thời Trang Vương nhà Chu (698 – 682 trước CN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương”.

    Như vậy, qua sự trích dẫn ở trên quí vị cũng nhận thấy sự tương đương sát sao về niên đại của thời Quản Trọng (mất năm 654 trước CN và thời Trang Vương nhà Chu: 698 – 682 tr.CN) và thời điểm lập quốc của các vua Hùng theo cái nhìn mới – mà họ cho rằng: “Thời Hùng Vương chỉ xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VII trước CN”. Thật là một sự vô lý, khi chính Khổng Tử thừa nhận một nền văn minh phát triển ở ngay bên cạnh địa bàn cư trú của người Hoa Hạ, có khả năng ảnh hưởng và chi phối đến sự phát triển của nền văn minh này.

    Đã có nhà nghiên cứu cho rằng: “Người Man di ở phía Bắc Trung Quốc”(?). Trên thực tế, trong các thư tịch cổ chữ Hán chưa lần nào dùng từ Man di để chỉ giống người phương Bắc Trung Hoa. Ngược lại, trong các thư tịch cổ chữ Hán, Man di là từ được dùng nhiều lần để chỉ người Việt. Từ “người Man” trong câu nói của Khổng Tử không phải là một danh từ chung để chỉ những tộc người có trình độ phát triển khác nhau, cư ngụ ở miền Nam sông Dương Tử. Ở đây, Khổng Tử đã nói đến nền văn minh Lạc Việt. Bản văn sau đây do chính Tô Đông Pha, một danh sĩ thời Tống – sau Khổng Tử ngót 1.500 năm xác nhận lại điều này. Tô Đông Pha chép rằng: “… Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 – 207 trước CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại tình trạng man di. B’Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành. Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đã mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ”.[1].

    [Nguồn: http://tuanvietnam.net/2009-12-07-thoi-hung-vuong-to-tien-an-mac-the-nao-; Ngày: 08/12/2009 06:40 GMT+7]

    Chú thích

    [1]. An Nam chí lược; Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục Cổ tích. Viện Đại học Huế 1961. Giáo sư Linh mục Cao Văn Luận.

    Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta lại một lần nữa thấy tính hợp lý giữa các hiện tượng và vấn đề liên quan đến việc vạt áo cài bên trái của chín quận Nam Việt. Điều này chứng tỏ tính thống nhất về văn hóa ở vùng đất nam sông Dương Tử này hoàn toàn khác biệt với văn hóa Hoa Hạ.

    Đây cũng chính là vùng đất: Bắc giáp Động Đình Hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba Thục; Đông giáp Đông Hải của nước Văn Lang xưa. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đã chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 trước CN, và xa hơn – Từ thời Tam Đại – nền văn hóa Lạc Việt đã là một nền văn hóa ưu việt cho khu vực. Ảnh hưởng của nền văn hóa này rất lớn, để “nếu không có Quản Trọng thì người Hán đã phải cài vạt áo bên trái”.

    Hình ảnh của việc cái vạt áo bên trái (bên tả) cho y phục truyền thống Việt trong các bản văn trên, được minh chứng tiếp tục trong di sản văn hóa Việt tiếp nối qua các thời đại lịch sử đến tận ngày hôm nay. Bạn đọc tiếp tục so sánh với các hình ảnh dưới đây:

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 10: Hình khắc nổi tiếng trên một hang động ở tỉnh Hồ Nam, thuộc Nam Dương Tử, có niên đại trên 2.500 năm, tương truyền là hình bà Nữ Oa và vua Phục Hy. Chúng ta lại nhận thấy vạt áo cài bên trái của vua Phục Hy và bên phải của bà Nữ Oa. Có thể nói: Đây là dấu chứng cổ xưa nhất minh chứng về y phục truyền thống Việt liên hệ đến câu nói của Khổng Tử trong sách Luận ngữ viết về hiện tượng áo cài vạt bên trái vào thế kỷ thứ VII trước Công Nguyên.

    Hình trong ảnh 10 là một hình khắc nổi tiếng trên một hang động ở tỉnh Hồ Nam, thuộc Nam Dương Tử, có niên đại trên 2.500 năm, mà người sống ở vùng này vẫn tương truyền rằng: Đó là hình bà Nữ Oa và vua Phục Hy. Chúng ta lại nhận thấy vạt áo cài bên trái của vua Phục Hy và bên phải của bà Nữ Oa. Có thể nói: Đây là dấu chứng cổ xưa nhất minh chứng về y phục truyền thống Việt liên hệ đến câu nói của Khổng Tử trong sách Luận ngữ viết về hiện tượng áo cài vạt bên trái vào thế kỷ thứ VII trước CN.

    Mối liên hệ này chúng ta sẽ còn tiếp tục tìm thấy những dấu chứng qua các thời đại, mà điển hình là hình tượng những con rối nước sau đây:

    Hình ảnh mà người viết trình bày trong bức ảnh 11 được chép lại từ tạp chí Heritage số tháng 9/10 năm 1996 của Hàng không Việt Nam. Hoàn toàn không có sử dụng kỹ thuật vi tính để lật ngược lại bức tranh. Bạn đọc có thể kiểm chứng điều này qua tay phải của một số nhân vật cùng đứng trong tranh.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 11: Hình ảnh mà người viết trình bày trong bức ảnh 11 được chép lại từ tạp chí Heritage số tháng 9/10 năm 1996 của Cục Hàng không Việt Nam.

    Bạn đọc cũng thấy vạt áo của nhân vật rối nước này ở phía bên “tả” (trái) và mấy cái búi tóc của những hình rối nước này. Cho đến đầu thế kỷ 20, phần lớn đàn ông của dân tộc Việt vẫn búi tóc. Điều này chắc không cần phải chứng minh.

    Hình tượng những con rối nước – một nghệ thuật dân gian truyền thống của người Việt – cái vạt áo bên trái sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi đó chính là sự tiếp nối của y phục dân tộc Việt từ hàng ngàn năm trước, khi liên hệ với câu của Khổng Tử trong sách Luận ngữ“Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải cài vạt áo bên tả và búi tóc như người Man di”.

    Rất tiếc! Những con rối nước cài vạt áo bên trái ngày nay rất hiếm gặp. Người ta đã hiện đại hoá nó bằng cách tạo cho nó một cái vạt áo bên phải. Đây là sự biến dạng của những di sản văn hóa phi vật thể. Nhưng cũng may mắn thay! Đây không phải bằng chứng duy nhất cho y phục dân tộc thời Hùng Vương.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 12: Y phục dân tộc Dao ở Phú Thọ. (Trích từ bài “Cạy cửa tìm nhau”, Ngọc Vinh và Lương Ngọc An – Tuổi Trẻ 8/6/2002).

    Xin bạn đọc tiếp tục xem ảnh 12. Tất nhiên tác giả bài báo này không có nhã ý nhằm giới thiệu y phục dân tộc Dao và giúp minh chứng cho luận điểm của người viết. Dân tộc Dao là một dân tộc có nền văn hóa lâu đời tồn tại trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, y phục dân tộc này cũng còn giữ được những nét văn hoá cổ truyền của nước Văn Lang xưa: Trên y phục của cặp vợ chồng ở hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy người đàn ông áo vạt đưa sang bên trái, người phụ nữ vạt đưa sang bên phải.

    Vấn đề cũng không chỉ dừng ở đây: Ảnh 13 được người viết chụp trực tiếp hình ảnh trên chương trình truyền hình VTV1, có nội dung miêu tả đám cưới người dân tộc Mông. Chúng ta lại một lần nữa tìm thấy dấu ấn y phục từ ngàn xưa của tổ tiên với người nam mặc áo bên “tả” và nữ bên “hữu”: Dân tộc Dao và Mông sống trong vùng rừng núi hẻo lánh, cho nên ít chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 13: Miêu tả đám cưới người dân tộc Mông. Chúng ta lại một lần nữa tìm thấy dấu ấn y phục từ ngàn xưa của tổ tiên với người nam mặc áo bên “tả” và nữ bên “hữu”.

    Do đó, hiện tượng cài vạt áo bên trái của người đàn ông trong y phục của những dân tộc này còn lại đến nay, cùng với các tư liệu đã trình bày ở trên cho thấy: Đó là những chứng cứ có sự tiếp nối văn hóa từ ngàn xưa và cho đến tận bây giờ – khi bạn đọc đang xem bài viết này – của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ ở nam Dương Tử. Những chứng cứ rõ ràng đó và luận điểm trình bày hoàn toàn phù hợp với những tiêu chí khoa học: “Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng, nếu nó lý giải một cách hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó; có tính khách quan; tính hệ thống, tính quy luật và có khả năng tiên tri”.

    Những vấn đề được hân hạnh trình bày với bạn đọc, nhằm chứng minh cho một nền văn hoá cao cấp tốn tại ở miền Nam sông Dương Tử mà chính Khổng Tử nói tới với sự tiếp nối, liên hệ của những giá trị đó trong những di sản văn hóa Việt Nam hiện nay.

    * Tính đa dạng trong y phục của Việt tộc thời cổ xưa

    Sự đa dạng trong y phục của Việt tộc xác định qua sự liên hệ với hình ảnh những con rối nước là một minh chứng “Y phục dân tộc thời Hùng Vương” được tiếp tục qua những hình ảnh sau đây.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 14: Hình ghép được chép lại trong sách “Thời đại Hùng Vương”, chiếc cán dao bằng đồng miêu tả y phục thời Hùng Vương và hình nhân vật rối nước trong trò “Múa Tiên”.

    Ảnh 14 là một hình ghép được chép lại trong sách Thời đại Hùng Vương (sách đã dẫn) chiếc cán dao bằng đồng miêu tả y phục thời Hùng Vương và hình nhân vật rối nước trong trò Múa Tiên.

    Qua hình ảnh trên, chắc quí vị sẽ nhận thấy một sự trùng hợp hoàn toàn về hình thức cái mũ trên đầu hình rối nước và cái mũ trên cán dao đồng. Ngoài sự trùng hợp về cái mũ, còn một số nét tiêu biểu khác trên y phục của hai vật thể này cũng trùng hợp gần như hoàn toàn. Từ đó có thể dẫn đến sự liên hệ hợp lý cho một cấu trúc đặc thù chung của y phục thời Hùng Vương qua y phục rối nước. Hay nói một cách khác: Hoàn toàn có căn cứ khoa học thực sự khi dùng những hình mẫu có chọn lọc của những con rối nước truyền thống để phục chế lại y phục thời Hùng Vương.

    Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây, khi chúng ta tiếp tục so sánh chiếc mũ trên hình cán dao đồng – được khẳng định niên đại từ thời Hùng Vương – với chiếc nón trong hình rối nước Múa Tiên (ảnh 15) và chiếc nón trên hai bức tượng Tiên Dung và Ngọc Hoa công chúa hiện đang thờ ở đền Hùng Phú Thọ.

    Thời Hùng Vương, tổ tiên ta ăn mặc ra sao?

    Ảnh 15: Chiếc nón trên hai bức tượng Tiên Dung và Ngọc Hoa công chúa hiện đang thờ ở đền Hùng Phú Thọ.

    Hiện nay, có rất nhiều trò rối nước được sáng tác ngay thời hiện đại, hoặc vào những thế kỷ trước. Nhưng trò Múa Tiên là một trò truyền thống có từ rất lâu trong nghệ thuật rối nước Việt Nam, tất cả các đoàn rối đều có trò này. Do đó, hình rối nước trong trò Múa Tiên chắc chắn đã xuất hiện từ thời xa xưa.

    Qua một khoảng cách thời gian của hơn 1000 Bắc thuộc, nghệ thuật rối nước được ghi nhận lần đầu tiên trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh – đời Lý – của chùa Đọi Sơn (Huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà), tức là vào đầu thời hưng quốc của Đại Việt, cách đây cả ngàn năm. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng múa rối nước chỉ xuất hiện vào thời kỳ này.

    Đền thờ Tổ 18 thời Hùng Vương xác định xây dựng (hoặc được trùng tu vào thế kỷ XIV). Chiếc cán dao bằng đồng có cách đây khoảng 2.500 năm và chỉ mới được phát hiện vài chục năm gần đây.

    Trước hết chúng ta cần phải khẳng định rằng: Trò Múa Tiên, tượng công chúa đền Hùng và chiếc dao đồng là những sản phẩm của trí tuệ sáng tạo. Trò Múa Tiên và tượng công chúa đền Hùng đều có trước khi tìm ra chiếc cán dao đồng với khoảng cách hơn 2.000 năm cho sự sáng tạo ra hai vật thể này. Do đó, nó không thể được coi là sự sao chép từ chiếc cán dao đồng hoặc là một sự trùng khớp ngẫu nhiên.

    Hình thức tồn tại giống nhau của những di sản văn hoá nói trên với khoảng cách tính bằng thiên niên kỷ, đã xác định sự tiếp nối truyền thống xuyên thời gian của y phục dân tộc Việt từ thượng tầng xã hội cho đến các tầng lớp bình dân là đa dạng và phong phú, thể hiện qua y phục của những con rối nước trong di sản văn hóa truyền thống Việt. Những hình thức y phục của những con rối nước Việt còn thấy tồn tại trong y phục dân tộc của các quốc gia láng giềng với Việt Nam ngày nay.

    * Lịch sử gần 5000 năm văn hiến qua y phục dân tộc

    Qua y phục dân tộc thời Hùng Vương trình bày ở trên, chúng ta hoàn toàn có đầy đủ cơ sở khoa học để xác quyết về một truyền thống văn hóa sử được chính sử xác định: Thời Hùng Vương có niên đại 2879 BC và kết thúc vào 258 BC, có biên giới: Bắc giáp Động Đình Hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba Thục; Đông giáp Đông Hải. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đã chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 trước CN, và xa hơn – Từ thời Tam Đại – nền văn hóa Lạc Việt đã là một nền văn hóa ưu việt của phương Đông cổ đại. Và chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng thừa nhận.

    Bạn đọc xem đoạn trích dẫn dưới đây:

    * Phát hiện mộ cổ bí ẩn ở Trung Quốc

    Các nhà khảo cổ nước này vừa khai quật một ngôi mộ hơn 2.500 tuổi, có thể thuộc về một vị vua của triều đại Ba (Ba Kingdom) bí ẩn. Ngoài 500 đồ vật bằng đồng, trong mộ còn có bộ xương của 2 người đàn bà và một người đàn ông, mặt ngửa lên trời và hướng về phía đông.

    Nhóm nghiên cứu cho rằng đó có thể là những tuỳ tùng hoặc chư hầu được chôn cùng vị vua. Nếu được xác nhận, đây sẽ là phát hiện khảo cổ quan trọng nhất liên quan tới triều đại Ba. Ngôi mộ nằm ở Luo Jiaba, tỉnh Tứ Xuyên, mang đặc điểm điển h́ình của một ngôi mộ thuộc đẳng cấp cao nhất trong số các ngôi mộ thuộc triều đại Ba đã được tìm thấy. 31 ngôi mộ khác cũng đã được khai quật ở khu vực. Hầu hết các đồ đồng là vũ khí (như giáo, gươm, dao găm và rìu), hay các vật cúng tế tương ứng với vị trí tối cao của chủ nhân ngôi mộ.

    Triều đại Ba bao trùm các vùng Tứ Xuyên, Hồ Nam và nhiều nơi khác ở miền nam Trung Quốc trước khi biến mất một cách bí ẩn khoảng 2.000 năm trước đây. Người dân thời đại này được miêu tả là những chiến binh hiếu chiến và gan dạ. Tuy vậy, nguồn gốc, cấu trúc xã hội và văn hoá của họ vẫn còn là một điều bí ẩn. [Minh Thi theo Tân Hoa Xã (Nguồn VNexpress)].

  • Bộ sưu tập các kiểu tóc trong suốt lịch sử Việt Nam

    Độc giả sẽ rất ngạc nhiên với những mái tóc dài chấm gót của những thiếu nữ Hà Nội đầu thế kỷ 19 đến vẻ đẹp mê hồn của những chân dung nổi tiếng một thời. Các bức ảnh đen trắng đã ngả vàng theo thời gian khi đặc tả những thiếu nữ Hà Thành tiêu biểu, khi ghi lại những dấu ấn rất riêng của phụ nữ Việt Nam ở cả 3 miền từ mái tóc dài chấm gót đến tóc vấn cao, tóc đuôi gà, tóc xoăn… Cho dù là ở độ tuổi, thời kì nào đi nữa, vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ Việt trong quá khứ hẳn cũng đã làm thế hệ công chúng trẻ phải thán phục và ngạc nhiên.

    Tất cả những tư liệu quý báu này đều được thu thập và lưu giữ dưới nhiều dạng thức, từ nghiên cứu kho tàng ca dao tục ngữ tới lời kể của người cao tuổi, những kí sự sưu tầm của các nhà du hành phương Tây đầu thế kỉ 17,18; qua các bức ảnh đen trắng bạc màu hay qua những mô tả trong các tác phẩm văn học cùng thời. Sưu tập ảnh đặc biệt này của nhà sử học Dương Trung Quốc chính là một trong những dạng thức lưu dấu vẻ đẹp một thời.

    Nhân dịp bộ sưu tập được giới thiệu tại Davines hair show diễn ra vào tối 31/7 tại Hà Nội, mời độc giả chiêm ngưỡng trước những bức ảnh hiếm có này.

    Người phụ nữ trong Nam nói chung, thành phố thuộc địa Sài Gòn nói riêng không vấn khăn như người Bắc hay người Hà Thành mà bới cao hay búi tóc, đôi khi sử dụng các loại khăn tân thời bằng len hay khăn đan sợi bông.

    Đến tuổi trưởng thành, các thiếu nữ đều vấn khăn để bộ tóc của mình gọn ghẽ, chắc trên đầu. Mái tóc dài được khéo léo cuộn vào trong một chiếc khăn. Nhà giàu thì dùng khăn nhung, kẻ nghèo thì bằng vải thường

     

    Nhà văn Nguyễn Công Hoan chép trong “Nhớ gì ghi nấy”: “Trước kia con gái lên ba, lên bốn thì cạo trọc đầu, nhưng để một cái “cút” ở phía trước. Từ 16 tuổi trở đi thì vấn khăn, tức rẽ giữa trán rồi trải sang hai bên mới vấn khăn ra ngoài, quấn chặt cho thật lẳn.

    Đứng giữa trong ảnh là bà Vi Kim Ngọc – phu nhân cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, cha là cụ Vi Văn Định. Bà kết hôn với GS Nguyễn Văn Huyên năm 1936, trong buổi lễ, bà vấn tóc cao với vành khăn tựa bà Nam Phương.

  • Ký hoạ 1935: cuộc sống người Miền Nam xưa

    Ký hoạ 1935: cuộc sống người Miền Nam xưa

    Bộ tranh này là những tác phẩm ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định . Xuất bản năm 1935 dưới dạng sách ảnh gồm 8 quyển, có tên Monographie dessinée de l’Indochine: Cochinchine, bằng tiếng Pháp, in khổ 32 x 25 cm. Hiện nay, bộ sách này được lưu giữ tại Thư viện Khoa học Tổng hợp TP HCM. Trường Mỹ thuật Gia Định tập hợp các tranh vẽ của sinh viên về phong cảnh, đời sống, sinh hoạt, văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng, các nghề thủ công, nông nghiệp, thương mại của người Nam Bộ vào khoảng những năm 30 của thế kỷ 20 và tạo nên cuốn sách này.

    Cầu khỉ trên con rạch ở Sa Đéc
    Cầu khỉ trên con rạch ở Sa Đéc
    Băng qua con rạch
    Băng qua con rạch
    Một cảnh ở chợ chuối.
    Một cảnh ở chợ chuối.
    Những nhạc công đường phố
    Những nhạc công đường phố
     Tắm con trẻ

    Tắm con trẻ
    Viếng mộ ngày giáp tết ở nghĩa trang Tân Sơn Nhất
    Viếng mộ ngày giáp tết ở nghĩa trang Tân Sơn Nhất
    Một người chơi đàn cò.
    Một người chơi đàn cò.
    Bà gánh cháu.
    Bà gánh cháu.
    Đám cưới người Việt Nam xưa.
    Đám cưới người Việt Nam xưa.
    Cảnh xay bột.
    Cảnh xay bột.
    Người bán gà
    Người bán gà
    Cảnh dệt chiếu.
    Cảnh dệt chiếu.

     

    Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream Tranh vẽ người miền nam xưa , phong tục, tập quán áo quần người xưa. Bộ tranh này là ký hoạ của Sinh viên Trường Mỹ Thuật Gia Định - Xuất bản năm 1935. Nguồn ảnh: Manhhai Photostream

    Hình ảnh Việt Nam tổng hợp từ internet

  • Ảnh độc về một đám cưới ‘quý tộc’ năm 1969

    Ảnh độc về một đám cưới ‘quý tộc’ năm 1969

    Ngoài việc ghi lại khoảnh khắc tình yêu, hạnh phúc lứa đôi, các bức hình cưới xưa còn cho thấy sự đổi thay của xã hội qua từng năm tháng.

    Đây là những hình ảnh về các nghi lễ trong đám cưới của ông Vĩnh Phối và bà Thạch Huệ ở Huế ngày 9/3/1969. Trong ảnh là lúc nhà trai đến làm lễ trình giờ trước khi đón dâu.
    Phù dâu chuẩn bị trang phục cho cô dâu.
    Cô dâu và phù dâu.
    Đoàn nhà trai vào nhà gái.
    Mẹ cô dâu và mẹ chú rể thắp hương báo gia tiên tại nhà gái.
    Cô dâu lễ gia tiên tại nhà gái.
    Chú rể trao hoa cho cô dâu.
    Cô dâu, chú rể và hai bà mẹ.
    Đưa cô dâu về nhà chồng.
    Chú rể đón cô dâu.

    Tiệc cưới. Ảnh cưới vốn mang tính chất riêng tư của các cặp đôi, tuy nhiên, trước đây cũng có khá nhiều người muốn chia sẻ khoảnh khắc riêng tư của mình. Nhờ đó, những thế hệ sau có được nguồn tư liệu giá trị về văn hoá, phong tục và nếp sống của dân tộc qua các thời kỳ. (Ảnh chụp lại tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam).