Tag: ẩm thực Sài Gòn

  • Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975

    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975

    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975 đến bây giờ vẫn khiến bạn chết thèm khi ngắm ảnh

    Những bức ảnh ẩm thực vỉa hè Sài Gòn xưa cho thấy sự “trường tồn” của các món quà vặt tiêu biểu ở thành phố này như phá lấu, cuốn bò bía hay những cốc chè, ly mía đá.

    Được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông, Sài Gòn từ trước đến nay luôn hấp dẫn, năng động và có nhiều điều để nhớ nhung. Đối với người Sài Gòn, đặc biệt những người con xa quê, một trong những nhớ nhung, khắc khoải ấy chính là ẩm thực Sài Gòn mà đặc trưng nhất là những hàng quán ven đường, xe đẩy bán hàng rong.

    Thực tế những hàng quán ven đường, trên vỉa hè được xem là nét đặc trưng của Sài Gòn. Rất đơn giản, chúng chỉ là những gánh phở, xe kem, thùng tào phớ, tiệm bún, xe bò bía, gánh mận, những cốc si rô xanh đỏ…  Và chính những thứ tưởng như quá đơn giản và bình dị ấy lại bao chùm được tất cả bản sắc ẩm thực vỉa hè thú vị của thành phố này.

    Cùng ngắm bộ ảnh về ẩm thực vỉa hè Sài Gòn để khám phá thêm về Sài Gòn xưa .

    Xem thêm: Người Sài Gòn xưa giải khát thế nào?

     

    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Sài Gòn phá lấu có nhiều thứ đáng nhớ nhưng nhớ tới nhớ lui lại nhớ cái mâm nhôm của mấy người Hoa đội trên đầu, cái ghế xếp đeo vai và tiếng kéo lách cách thay cho tiếng rao hàng… – ( Ảnh: ttvnol.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Bò bía – món khoái khẩu của học sinh Sài Gòn xưa và nay – ( Ảnh: flickr.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những xe bò bía với nguyên liệu đơn giản luôn đắt khách.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Người Sài Gòn xưa hẳn sẽ chẳng quên được xe mực nướng thơm lừng ven đường mỗi buổi chiều – ( Ảnh: saigonocean.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Mía ghim món ăn vặt rất được yêu thích ở Sài Gòn.  ( Ảnh: skyscrapercity.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
     Một cậu bé với khay mía ghim ở khu trung tâm -( Ảnh: tiengsonghuong )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những sọt bánh mì to đùng, thơm phức ở chợ Cũ đường Hàm Nghi -( Ảnh: skyscrapercity.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Xe bánh mì chả ở chợ hoa Tết, trên đường Nguyễn Huệ.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Chậu chè chuối nguyên quả hấp dẫn này sẽ khiến nhiều người phải nuốt nước miếng vì thèm  – ( Ảnh: 2saigon.vn )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Củ đậu sắn gọt sẵn, để trong tủ kính, sẵn sàng phục vụ thực khách – ( Ảnh: tccl )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một tiệm bán bánh ở Chợ Bình Tây. – ( Ảnh: David Staszak )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một gánh trái cây trên đường phố Sài Gòn – ( Ảnh: Dr. William Bolhofer )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Siro ướp lạnh, món giải khát lý tưởng của thành phố có 2 mùa: nóng và rất nóng – ( Ảnh: vulep-photo )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Chùm ruột, xoài ngâm là những thức quà lúc nào cũng được ưa chuộng – ( Ảnh: saigoneer.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một gánh bún trên đường Phan Châu Trinh, cửa tây chợ Bến Thành -( Ảnh: Flickr )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Quầy măng cụt ăn ngay tại chỗ.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Gánh hàng nem nướng ở góc đường Nguyễn Huệ – Ngô Đức Kế.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Cháo gà và chiếc lon Guigoz – vỏ sữa bột đựng đũa “huyền thoại”.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Các chị, các cô thời thượng không ngại ngồi hàng quán vỉa hè  – ( Ảnh: allanfurtado.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một gánh xôi gà hấp dẫn – ( Ảnh: Tom Briggs )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Ứa nước miếng khi trót lạc vào tiệm vịt heo quay, xá xíu, lạp xưởng… – ( Ảnh: ttvnol )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Không thể không nhắc đến những xe nước mía – món đồ uống vô cùng được ưa chuộng ở Sài Gòn – ( Ảnh: tuxtini )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những gánh trái cây tươi ngon.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những xe chè thế này từng rất phổ biến ở Sài Gòn. Đến thập niên 90 vẫn còn vài chiếc xe chè, nước ngọt như chiếc này, nhưng đó trở di thì gần như đi vào dĩ vãng.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Cà phê vỉa hè là một phần quan trọng của ẩm thực Sài Gòn xưa. Thong dong ngồi trên ghế nhâm nhi ly cà phê mỗi sáng hay chiều tan sở là thói quen rất Sài Gòn của nhiều người Sài Gòn. – ( Ảnh: Flick )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Xe đẩy bán rau má, nước ngọt – những món đồ giải nhiệt không thể thiếu của Sài Gòn xưa – ( Ảnh: tommy japan )

    (Tổng hợp) : Bleu / Trí Thức Trẻ

  • Người Việt ăn uống như thế nào và Cách Nấu Nướng khác với Người Trung Hoa ra sao ?

    Người Việt ăn uống như thế nào và Cách Nấu Nướng khác với Người Trung Hoa ra sao ?

    GS. Trần Văn Khê
    GS. Trần Văn Khê

    Thật ra, tôi rất ngại khi cầm viết ghi lại những câu hỏi đã trả lời cho những bạn bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi : Người Việt Nam ăn uống thế nào ? Hay là cách nấu ăn của người Việt có khác người Trung Quốc hay chăng ? Vì đó chỉ là những phần nhận xét đã được nhanh chóng đúc kết để đưa ra những câu giải đáp kịp thời chớ không phải do một sự sưu tầm có tính cách khoa học. Trong câu chuyện, một vài bạn trong báo Tuổi Trẻ thấy nhận sét sơ bộ của tôi có phần nào lý thú, nghe vui tai nên nhờ tôi ghi ra thành văn bản. Nể lời các bạn, tôi xin gởi đến các bạn đọc vài mẩu chuyện có thật về cách ăn và nấu ăn của người Việt chúng ta, và xin các tay nghề nấu ăn trong nước đừng cười tôi dốt hay nói chữ, dám múa búa trước cửa Lỗ Ban, đánh trống trước cửa nhà Sấm.

    Trong một buổi tiệc, một anh bạn Pháp hỏi tôi: – Chẳng biết người Pháp và người Việt Nam ăn uống khác nhau như thế nàỏ – Tôi rất ngại so sánh . . . tôi trả lời . . . vì so sánh là biết rõ rành mạch cả hai yếu tố để so sánh. Thỉnh thoảng tôi có ăn uống theo người Pháp nhưng làm sao biết cách ăn của người Pháp bằng người Pháp chính cống như anh. Tôi thì có thể nói qua cách ăn uống của người Việt chúng tôị Để cho anh dễ nhớ, tôi chỉ đưa ra ba cách nấu ăn của người Việt, rồi anh xem người Pháp có ăn như vậy chăng ? Người chúng tôi ăn toàn diện, ăn khoa học, ăn dân chủ.

    1- Ăn toàn diện: Chúng tôi không chỉ ăn bằng miệng, nếm bằng lưỡi, mà bằng ngũ quan. Trước hết ăn bằng con mắt, và do đó có nhiều món đem dọn lên, nhiều màu sắc chen nhau như món gỏi sứa chúng tôi chẳng hạn: có giá màu trắng, các loại rau thơm màu xanh, ớt màu đỏ, tép màu hồng, thịt luộc và sứa màu sữa đục, đậu phộng rang màu vàng nâu v. v. . . Có khi lại tạo ra hình con rồng, con phụng, trong những món ăn nấu đãi đám hỏi, đám cưới. Sau khi nhìn cái đẹp của món ăn, chúng tôi thưởng thức bằng mũi, mùi thơm của các loại rau thơm như húng quế, ngò, hoặc các mùi đặc biệt của nước mắm, của cà cuống. Răng và nứu đụng chạm với cái mềm của bún, cái dai của thịt luộc và sứa, cái giòn của đậu phộng rang để cho xúc cảm tham gia vào việc thưởng thức món ăn sau thị giác và khứu giác. Rồi lỗ tai nghe tiếng lốc cốc của đậu phộng rang, hay tiếng rào rào của bánh phồng tôm, hay tiếng bánh tráng nướng nghe rôm rốp. Sau cùng lưỡi mới nếm những vị khác nhau, hòa hợp trong món ăn: lạt, chua, mặn, ngọt, chát, the, cay v. v. Chúng tôi ăn uống bằng năm giác quan, về cái ăn như thế gọi là ăn toàn diện.

    2- Ăn khoa học : Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu, nhất là ở Nhật Bổn thường hay sắp các thức ăn theo “âm” và “dương” Nói một cách tổng quát thì những món nào mặn thuộc về dương, còn chua và ngọt thuộc về âm. Người Việt thường trộn mặn với ngọt làm nước mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, ướp thịt nướng, luôn luôn có pha một chút đường; mà ăn ngọt quá như chè, ăn dưa hấu hay uống nước dừa xiêm thì cho một chút muối cho âm dương tương xứng. Người Tây khi ăn bưởi thật chua lại cho thêm đường, đã âm lại thêm âm thì âm thịnh dương suy, không đúng theo khoa học ăn uống. Người Việt phần đông không nghiên cứu về thức ăn, nhưng theo truyền thống của cha ông để lại thành ra ăn uống rất khoa học. Người Việt chẳng những để ý đến quân bình âm dương giữa các thức ăn mà còn để ý đến quân bình âm dương giữa người ăn và thức ăn.

     

    Bát cháo hành
    Bát cháo hành

    Khi có người bị cảm, người nấu cháo hỏi: cảm lạnh (bị mắc mưa, đêm ra ngoài bị cảm sương) thì nấu cháo gừng vì cảm lạnh (âm) vào người phải đem gừng (dương) vào chế ngự. Nếu cảm nắng (bị mặt trời làm cho sốt) thì dương đã vào người phải nấu cháo hành (âm) . Lại nghĩ đến âm dương giữa người ăn và môi trường; mùa hè thời tiết có dương nhiều nên khi ăn có canh chua (âm) hoặc hải sâm (âm) ; mùa đông thời tiết có âm nhiều nên ăn thịt nướng. Ta có câu : “mùa hè ăn cá sông, mùa đông ăn cá biển” Quân bình trong âm dương còn thể hiện qua điếu thuốc lào, thuốc lá phơi và đóm lửa (dương) hít một hơi cho khói qua nước lã trong bình (âm) để hơi khói thuốc vào cơ thể, nguồn hút có cả dương và âm, không kể nước đã lọc bớt chất nicotine có hại cho buồng phổi. Chẳng những cân đối về âm dương mà còn hàn nhiệt nữa: thịt vịt hay thịt cá trê – hàn – thì chấm với nước mắm gừng – nhiệt. Cách ăn của người Việt Nam khoa học vì phù hợp với nguyên tắc âm dương tương xứng hành nhiệt điều hòa. Ngoài ra trong một món ăn thường đã có chất bột, chất thịt, chất rau làm cho sự tiêu hóa được dễ dàng.

    3- Ăn dân chủ : Trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng chúng tôi có thể những món chúng tôi thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của chúng tôi. Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của chúng tôi, chớ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổi. Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ. Anh bạn người Pháp thích chí cười to : ăn toàn diện, chúng tôi chưa nghĩ đến là về thính giác, ăn mà nghe tiếng động là vô phép nên ăn bớt ngon. Ăn khoa học, thì chúng tôi chỉ nghĩ đến calory mà không biết âm dương và hàn nhiệt. Còn ăn dân chủ, thì hoàn toàn thiếu sót vì đến nhà chúng tôi có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no cũng phải cố gắng ăn cho hết. Tôi xin hoàn toàn hoan nghinh cách ăn của người Việt Nam. Về cách ăn uống Việt Nam lại có thêm :

    4- Ăn cộng đồng : Thức ăn đầy bàn mà có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơi.

    5- Ăn lễ phép : Con lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhứt, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng.

    6- Ăn tế nhị : Ăn ớt cử cách cắn trái ớt, có khi phải ăn ớt xắt từng khoanh, ớt bằm, ớt làm tương. Nước chấm nhứt là ở miền Trung rất tinh tế ăn món chi phải có nước chấm đặc biệt : bánh bèo, bánh lá, bánh khoái đều có nước chấm khác.

    7- Ăn đa vị : Một miếng nem nướng đã có vị thịt, riềng, muối, tỏi, hành cuốn vào bánh tráng lạt lạt, có chút bún, rau thơm, ớt (cay), chuối sống (chát), khế (chua), tương (ngọt, mặn cay) có pha hột điều hay đậu phộng xay (béo). Ăn có năm vị chánh : ngọt, mặn, chua, cay, béo, có cả ngũ sắc đen (tương), đỏ (ớt), xanh (rau), vàng (khế chín), trắng (bánh tráng, bún). Ăn một miếng mà thấy 5 màu, lưỡi nếm 5 vị và có khi hơn thế nữa.

    Một lần khác, một anh bạn của tôi khai trương một tiệm ăn lớn tại Paris. Anh có mời đài phát thanh và báo chí đến để cho biết rằng tiệm của anh có cả thức ăn Trung Quốc và Việt Nam. Các phóng viên muốn biết Việt Nam và Trung Quốc nấu ăn có khác nhau như thế nàỏ Hai đầu bếp Việt Nam và Trung Quốc được mời ra để báo chí hỏi thì hai người đều khẳng định là cách nấu ăn rất khác, nhưng phải xuống bếp coi mới thấy. Nhà bếp nhỏ không chứa được mấy chục phóng viên, và ai cũng ngại hôi dầu hôi mỡ nên ông chủ tiệm nhờ tôi tìm câu trả lời cho các nhà báo. Tuy không phải là một chuyên gia về nghệ thuật nấu bếp, nhưng tôi cũng phải tìm câu trả lời thế nào để cho các nhà báo bằng lòng. Tôi mới nói rằng, tôi không đi vào chi tiết nhưng chỉ đưa ra ba điểm khác nhau trong cơ bản.

    1/- Cách dùng bột: Người Việt Nam thường dùng bột gạo trong khi người Trung Quốc thích dùng bột mì, cho nên Việt Nam có phở, hủ tiếu, bún thang, bún bò, bún riêu; mà người Trung Quốc thì chuyên về mì nước, mì khô, mì sợi nhỏ, mì sợi lớn, mì vịt tiềm. Người Việt làm bánh đùm, bánh xếp, bánh cuốn, bánh hỏi; người Trung Quốc thì bánh bao. Chả giò người Việt Nam cuốn bằng bánh tráng bột gạo; còn người Trung Quốc thì cuốn tép trong bánh bằng bột mì.

    2/- Nước chấm cơ bản của người Việt nam là nước mắm là bằng cá; còn nước chấm của người Trung Quốc là xì dầu làm bằng đậu nành.

    3/- Người Việt thì thường pha mặn ngọt; người Trung Quốc thích chua ngọt. Chỉ nói đại khái như vậy mà các phóng viên đã hài lòng về viết bài tường thuật nêu lên những điểm khác nhau ấy. Ông giám đốc tạp chí Đông Nam Á, sau lời nhận xét đó, cho phóng viên đến phỏng vấn tôi thêm và hỏi tôi có biết yếu tố nào khác đáng kể khi nói về cách nấu ăn của người Việt khác người Trung Quốc ở chỗ nào. Tôi trả lời cho phóng viên trong 40 phút. Hôm nay tôi chỉ tóm tắt cho các bạn những điểm chính sau đây.

    • Về rau : người Việt tuy có ăn rau luộc, hay xào; nhưng thích ăn rau sống, rau thơm, mà người Trung Quốc không ưa ăn rau sống, cải sống, giá sống.
    • Về cá : Người Trung Quốc biết kho, chưng, chiên như người Việt Nam. Nhưng người Trung Quốc có cá mặn không làm mắm như người Việt. Có rất nhiều cách làm mắm và ăn mắm: mắm thái, mắm nêm, mắm ruốc, mắm tôm v. v. . . Các nước Đông Nam Á cũng có làm mắm nhưng không có nước nào biết làm nhiều loại mắm như người Việt.
    • Về thịt : Người Trung Quốc biết quay, kho, luộc xào, hầm như người Việt, mà không biết làm nem, bì và các loại chả như chả lụa, chả quế v. v. . .
    • Người Trung Quốc ít có phối hợp nhiều vị trong một món ăn như người Việt. Khi chúng ta ăn một món ăn như nem nướng thì có biết bao nhiêu vị: lạt lạt của bánh tráng, bún, hơi mát mát ngọt ngọt như dưa leo, và đặc biệt của giá sống trộn với khế chua, chuối chát, ớt cay, đậu phộng cà bùi bùi, và có tương mặn và ngọt. Người Việt trong nghệ thuật nấu ăn rất thích lối đa vị và tất cả các vị ấy bổ sung cho nhau, tạo ra một vị tổng hợp rất phong phú. Cái ăn chiếm phần khá quan trọng trong đời sống của chúng ta.

    Khi dạy dỗ một trẻ em thì phải cho nó học ăn, học nói, học gói, học mở để biết ăn, nói với người ta. Ra đường phải biết “ăn bận” hay “ăn mặc” cho phải cách phải thế. Đối với mọi người không nên “ăn thua” làm chi cho bận lòng. Làm việc gì phải cẩn thận “ăn cây nào, rào cây nấy”. Trong việc tiêu tiền phải biết “liệu cơm, gắp mắm” và dẫu cho nghèo đi nữa “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Không nên ham ăn quá độ vì ” no mất ngon, giận mất khôn”. Ra làm ăn phải quyết tâm đừng ” cà lơ xích xụi” chạy theo ” ăn có” người khác. Phải biết ” ăn chịu” với người làm việc nghiêm túc thì công việc khỏi bị “ăn trớt”. Không nên “ăn gian, ăn lận” hay bỏ lỡ cơ hội thì “ăn năn” cũng muộn. Trong cuộc sống nên tìm việc làm hữu ích cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước đừng để mang tiếng “ăn hại” “ăn bám” người khác. Khi đàn chơi phải biết lên dây đàn cho” ăn” với giọng ca, hòa đàn cũng phải “ăn” với nhau, “ăn ý” , “ăn rơ” thì mới haỵ

    Các bạn thấy chăng ? Cái “ăn” cũng khá quan trọng nên mới lọt vào một số từ ngữ của tiếng nói Việt Nam. Tuy chúng ta không như người Trung Quốc ” dĩ thực vi tiên” nhưng phải có ăn mới làm nên việc vì có “thực mới vực được đạo”.

    GS. Trần Văn Khê

  • Cà phê Sài Gòn xưa

    Cà phê Sài Gòn xưa

    Cà phê Sài Gòn Xưa & Nay
    Cà phê Sài Gòn Xưa & Nay

    Bạn đã uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, thì rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm gì à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca thì phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu thì nằng nặc đòi uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm nhận lấy. Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đã đời, thú vị phải không? Bạn đã có đủ những gì bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài Gòn những năm cuối 1960 và đầu 1970.

    Sài Gòn những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên; hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.

    cafe-sai-gon-xua-1975

    Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.

    Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hãnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Trong lãnh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân vân…

    Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả. Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che dấu.
    Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán – những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi thì không là trí thức)- đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó. Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không còn, tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Còn chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào?

    Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý, cùng với những tên tuổi đã giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài Gòn ngồi đồng từ sáng đến tối để… làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không còn. Những con người cũ tứ tán muôn phương.

    Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đã đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh – loại bánh đặc biệt của chị Chi- nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đã biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ.
    Những năm cuối thập niên 60 Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng… Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ – Hình như là Đào Duy Từ – gần sân vận động Thống Nhất bây giờ, có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giã thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những giò lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La mang sắc thái rất … Đa La. Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà… Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa của nhiều mối tình. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc nào tôi không nhớ.

    Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì; có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si. Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Hồng Thập Tự – Cường Để còn nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đình Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run khi được mấy chàng mời cơm.
    Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng. Rồi còn cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai ; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật bình dân nhưng thường xuyên chứng kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường Tộ.

    Chán cà phê thì đi ăn nghêu sò, bò bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đã có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán Mù U, hẻm Võ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngã tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần dòng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ý. Cao cấp hơn có La Pagode (đổi thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard, Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi… cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam. Vào Casino Sài Gòn có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đã quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của SV, cả nghèo lẫn giàu. Cuộc sống SV cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài Gòn. Nghèo nhưng vui và mơ mộng. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác Hình phạt, Zara đã nói như thế! Che Guervara, Garcia Lorca. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà.

    Lương Thái Sỹ – An Dân
    Vài hình ảnh cảnh quán xá Cafe Sài Gòn xưa:

    Cà phê Sài Gòn xưa
    Siêu đựng cà phê trong các tiệm cà phê của người Tầu vamột quán cà phê người Tàu của Sài Gòn xưa

    Cà phê Sài Gòn xưa

    Cà phê Sài Gòn xưa
    Siêu đựng cà phê trong các tiệm cà phê của người Tầu vamột quán cà phê người Tàu của Sài Gòn xưa

    Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa

    Nguồn chủ yếu từ Blog Nam Ròm !

  • Quán ăn vỉa hè Sài Gòn xưa

    Quán ăn vỉa hè Sài Gòn xưa

    Văn hóa ẩm thực đường phố Sài Gòn xưa

    Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, Sài Gòn đón nhận nhiều dòng chảy văn hóa khác nhau, và cũng là nơi tụ hội nhiều tinh hoa ẩm thực nhất.

    Qua những khung ảnh xưa, chúng ta có thể cảm nhận nhiều sắc thái văn hóa khác nhau tại Sài Gòn. Tất cả tạo nên một bản sắc thú vị của ẩm thực Sài Gòn mà không nơi nào có được.

    Một xe mì tại vào những năm cuối thế kỷ thứ 18
    Một xe mì tại vào những năm cuối thế kỷ thứ 18
    Trong một trà quán của người Hoa ở Chợ Lớn những năm 1920
    Trong một trà quán của người Hoa ở Chợ Lớn những năm 1920
    Một xe mì của người Hoa gần kênh Tàu Hủ
    Một xe mì của người Hoa gần kênh Tàu Hủ
    Một hàng quán tạm bợ những năm 20 thế kỷ trước
    Một hàng quán tạm bợ những năm 20 thế kỷ trước
    Ngày đó việc trang trí, bày biện tiệm ăn rất đơn giản
    Ngày đó việc trang trí, bày biện tiệm ăn rất đơn giản
    Trong một tiệm ăn ở gần chợ Gò Vấp năm 1920
    Trong một tiệm ăn ở gần chợ Gò Vấp năm 1920
    Công chức Sài Gòn thời đó rất thích các tiệm mì của người Hoa
    Công chức Sài Gòn thời đó rất thích các tiệm mì của người Hoa
    Trong một quán cà phê ngó ra đường Catinat (Đồng Khởi) bây giờ. Ảnh chụp năm 1948
    Trong một quán cà phê ngó ra đường Catinat (Đồng Khởi) bây giờ. Ảnh chụp năm 1948
    Cà phê bên hồ bơi Tao Đàn năm 1948 (Cung Văn hóa Lao Động bây giờ)
    Cà phê bên hồ bơi Tao Đàn năm 1948 (Cung Văn hóa Lao Động bây giờ)
    Tiệm bánh mì Hòa Mã năm 1960 trên đường Phan Đình Phùng  (Nguyễn Đình Chiểu, quận 03 ngày nay). Sau tiệm dời về đường  Cao Thắng ở gần đó.
    Tiệm bánh mì Hòa Mã năm 1960 trên đường Phan Đình Phùng
    (Nguyễn Đình Chiểu, quận 03 ngày nay). Sau tiệm dời về đường
    Cao Thắng ở gần đó.
    Một tiệm mì trong Chợ Lớn năm 1961
    Một tiệm mì trong Chợ Lớn năm 1961
    Các món mì và hủ tiếu của người Hoa là một phần quan trọng trong đời sống ẩm thực Sài Gòn
    Các món mì và hủ tiếu của người Hoa là một phần quan trọng trong đời sống ẩm thực Sài Gòn
    Kem Bạch Đằng ở ngã tư Lê Lợi - Pasteur những năm 60
    Kem Bạch Đằng ở ngã tư Lê Lợi – Pasteur những năm 60
    Đường Tôn Thất Đạm (quận 01) tập trung rất nhiều quán ăn nổi tiếng
    Đường Tôn Thất Đạm (quận 01) tập trung rất nhiều quán ăn nổi tiếng
    Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh (ngày nay Saigon Tourist vẫn duy trì mô hình này)
    Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh (ngày nay Saigon Tourist vẫn duy trì mô hình này)
    Phở Con Voi - cũng là một quán nhậu khá nổi tiếng
    Phở Con Voi – cũng là một quán nhậu khá nổi tiếng
    Tiệm cà phê rang xay trên đường Hai Bà Trưng (quận 01)
    Tiệm cà phê rang xay trên đường Hai Bà Trưng (quận 01)
    Tiệm phở Đô Thành trên đường Võ Tánh (đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận ngày nay)
    Tiệm phở Đô Thành trên đường Võ Tánh (đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận ngày nay)
    Tiệm heo quay, vịt quay trên đường Hàm Nghi
    Tiệm heo quay, vịt quay trên đường Hàm Nghi
    Một sạp bún riêu trong chợ
    Một sạp bún riêu trong chợ
    Sạp cơm bên cạnh khu kios đường Nguyễn Huệ
    Sạp cơm bên cạnh khu kios đường Nguyễn Huệ
    Khu nhà hàng trên đường Hai Bà Trưng
    Khu nhà hàng trên đường Hai Bà Trưng
    Nhà hàng, vũ trường Maxim's lừng danh một thời trên đường Đồng Khởi
    Nhà hàng, vũ trường Maxim’s lừng danh một thời trên đường Đồng Khởi

    Theo thanhnien.com.vn

  • Người Sài Gòn xưa giải khát như thế nào?

    Người Sài Gòn xưa giải khát như thế nào?

    Khám phá nét ẩm thực Sài Gòn qua những bức ảnh xưa cũ

    Bạn đã bao giờ mường tượng ra 50, 70 năm trước người Sài Gòn giải khát thế nào chưa?

    Hơn 50 năm trước, người Sài Gòn chuộng giải khát với nước mía ép tay, nước ngọt Con Cọp lừng danh và các bịch nước đóng trong bao nylon…

    Qua những khung ảnh sinh động, cùng khám phá thêm nhiều điều thú vị về ẩm thực Sài Gòn xưa nhé – “Hòn ngọc Viễn Đông” – vào giữa thế kỷ 20.

    Người Sài Gòn xưa giải khát thế nào
    Những xe bán nước dạo trên đường phố Sài Gòn những năm 40
    Nụ cười hồn nhiên của cô bé bán nước bên bờ kênh
    Nụ cười hồn nhiên của cô bé bán nước bên bờ kênh
    Nước ngọt Con Cọp lừng danh một thời
    Nước ngọt Con Cọp lừng danh một thời
    Nhãn bia La De Trái thơm từng rất được yêu thích. Gọi là "La De Trái thơm" vì  trên nhãn là  hình đầu con cọp vàng ở giữa - hai bên có tràng hoa houblon (là loại hoa tạo nên vị  nhẫn đắng của bia). Vì tràng hoa có hình như trái thơm nên gọi là Le De Trái thơm luôn.
    Nhãn bia La De Trái thơm từng rất được yêu thích. Gọi là “La De Trái thơm” vì trên nhãn là
    hình đầu con cọp vàng ở giữa – hai bên có tràng hoa houblon (là loại hoa tạo nên vị
    nhẫn đắng của bia). Vì tràng hoa có hình như trái thơm nên gọi là Le De Trái thơm luôn.
    Nhãn bia 33, là tiền thân của bia 333 ngày nay
    Nhãn bia 33, là tiền thân của bia 333 ngày nay
    Nước ngọt Con Cọp, bia 33 hay bia La De (Larue) đều là sản phẩm của công ty BGI  (viết tắt của Brasseries & Glacières De L’Indochine)
    Nước ngọt Con Cọp, bia 33 hay bia La De (Larue) đều là sản phẩm của công ty BGI
    (viết tắt của Brasseries & Glacières De L’Indochine)
    Một đại lý bia và nước ngọt các loại vào những năm 60. Chữ "Lave Larue" ở góc trái cũng là lý do vì sao  bia Larue hay được gọi là bia "La De"
    Một đại lý bia và nước ngọt các loại vào những năm 60. Chữ “Lave Larue” ở góc trái cũng là lý do vì sao
    bia Larue hay được gọi là bia “La De”
    Năm 1960, hãng nước ngọt CoCa Cola chính thức có mặt ở Việt Nam
    Năm 1960, hãng nước ngọt CoCa Cola chính thức có mặt ở Việt Nam
    Cậu bé bán nước lấy khay nước ngọt làm ghế ngồi
    Cậu bé bán nước lấy khay nước ngọt làm ghế ngồi
    Nước cam không ga Bireley's cũng từng rất được yêu chuộng, đặc biệt là phái nữ
    Nước cam không ga Bireley’s cũng từng rất được yêu chuộng, đặc biệt là phái nữ
    Nước mía rất được yêu thích tại Sài Gòn
    Nước mía rất được yêu thích tại Sài Gòn
    Một xe nước mía với cách ép mía bằng tay truyền thống
    Một xe nước mía với cách ép mía bằng tay truyền thống
    Xe đẩy bán rau má, nước ngọt. Có thể thấy người bán đang chặt đá, kế bên là thanh gỗ để làm đá bào  (dành cho món xi rô đá bào mà học sinh rất yêu thích)
    Xe đẩy bán rau má, nước ngọt. Có thể thấy người bán đang chặt đá, kế bên là thanh gỗ để làm đá bào
    (dành cho món xi rô đá bào mà học sinh rất yêu thích)
    Xe chè của người Hoa bên góc đường. Trên xe có rất nhiều các họa tiết sơn thủy như thường thấy ở các xe mì, hủ tiếu
    Xe chè của người Hoa bên góc đường. Trên xe có rất nhiều các họa tiết sơn thủy
    như thường thấy ở các xe mì, hủ tiếu
    Một xe sinh tố trên đường Nguyễn Cư Trinh (quận 01)
    Một xe sinh tố trên đường Nguyễn Cư Trinh (quận 01)
    Quầy nước với những bịch nước ngọt được để sẵn trong bao nylon  (thường là loại không có ga)
    Quầy nước với những bịch nước ngọt được để sẵn trong bao nylon
    (thường là loại không có ga)
    Một xe đẩy bán nước bên cạnh một quầy cà phê nhỏ trên vỉa hè Sài Gòn
    Một xe đẩy bán nước bên cạnh một quầy cà phê nhỏ trên vỉa hè Sài Gòn