













Theo FB/MÀU ÁO HOA RỪNG















Theo FB/MÀU ÁO HOA RỪNG














Sinh năm 1924 tại Bắc Ninh, khác với nhiều cung tần mỹ nữ thời trước, Mộng Điệp là phụ nữ đã có chồng và con. Tuy nhiên, nhan sắc mặn mà của người phụ nữ Kinh Bắc đã “đốn ngã” trái tim Bảo Đại mà ông từng tưởng rằng chỉ thuộc về duy nhất Nam Phương hoàng hậu.





Ít ai biết rằng ngay từ thời Pháp thuộc, tại Sài Gòn đã tổ chức khá nhiều cuộc thi sắc đẹp để chọn ra những ngôi sao nhan sắc. Vậy ai là cô gái đầu tiên giành được giải hoa hậu của xứ Nam Kỳ?
Có rất nhiều tài liệu chứng minh rằng, ngay từ thời Pháp thuộc, khi chế độ phong kiến vẫn còn hà khắc với người phụ nữ, thì tại đất Nam kỳ người Pháp đã tổ chức khá nhiều cuộc thi sắc đẹp nhằm tìm kiếm những gương mặt khả ái nhất vùng. Trên nền tảng những cuộc thi đó, người Việt cũng đã manh nha tổ chức những cuộc thi sắc đẹp có uy tín. Hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những giai nhân nức danh Nam Kỳ một thời, để tìm xem những ai được người dân gọi là hoa hậu đầu tiên của Nam Kỳ.
Cô Thiệu Trà Vinh còn được dân gian thường gọi là cô Ba Xà Bông là con thầy thông Chánh ở đất Trà Vinh xưa. Cô được nhiều người trong vùng ngưỡng mộ vì sở hữu một ngoại hình yêu kiều khó ai sánh bằng. Người ta nói rằng mẹ của cô vốn rất xinh đẹp, thế nên cô Ba được thừa hưởng những nét đẹp đó từ mẹ của mình. Trong cuốn “Sài Gòn tạp pín lù” của học giả Vương Hồng Sển, tác giả giới thiệu vẻ đẹp của cô Ba Thiệu như sau: “Kể về người đẹp trong Nam, xưa hơn hết, có cô Ba, con thầy Thông Chánh”.

Cô Ba Thiệu là người giành chiến thắng trong cuộc thi sắc đẹp đầu tiên ở Nam Kỳ do người Việt tổ chức.
Có tài liệu cho rằng cuộc thi hoa hậu đầu tiên ở Việt Nam do chính người Việt đứng ra là một cuộc thi mang tên Miss Sài Gòn được tổ chức vào năm 1865. Đây là cuộc thi sắc đẹp dành cho tất cả các cô gái Việt Nam ở Sài Gòn và những vùng lân cận. Tuy là lần đầu tổ chức nhưng cuộc thi đã thu hút gần 100 cô gái đăng ký dự thi. Và kết quả chung cuộc người đoạt được vương miện và trở thành hoa khôi Nam kỳ là cô Ba Thiệu.

Khi mô tả về vẻ đẹp của cô Ba, học giả Vương Hồng Sển viết rằng: “Trong giới huê khôi, nghe nhắc lại, trước kia, hồi Tây mới đến, có cô Ba, con gái thầy Thông Chánh, là đẹp không ai bì; đẹp tự nhiên, không răng giả, không ngực keo su nhơn tạo, tóc dài chấm gót, bới ba vòng một ngọn, mướt mượt và thơm phức dầu dừa mới thắng, đẹp không vì son phấn giả tạo, đẹp đến nỗi nhà nước in hình vào con tem Nhà thơ Dây thép (Bưu điện), và một hiệu buôn xà bông xin phép họa hình làm mẫu rao hàng: xà bông Cô Ba; muốn biết danh tiếng bực nào xin ráng tìm các bà cỡ 1900 hỏi lại!”.
Khi cô đăng quang, nhiều người Pháp đã đề nghị cô chụp ảnh để đăng báo ở chính quốc. Họ rất muốn chụp cô trong trang phục áo tắm nhưng cô không đồng ý.
Vì hình của người đẹp này được in nổi trên các sản phẩm nổi tiếng của Hãng xà bông Việt Nam do ông Trương Văn Bền lập ra, nên mọi người thường quen gọi cô Ba Thiệu là cô Ba Xà Bông. Có thể nói cô Ba là gương mặt thương hiệu đầu tiên ở đất Nam Kỳ vì trở thành “người mẫu” gắn liền với một thương hiệu nổi tiếng Việt Nam ra đời đầu thế kỷ 20.

Hình của cô Ba Thiệu được in trên hộp của một hãng xà bông của Việt Nam.
Cuộc đời cô Ba xà bông gặp khá nhiều truân chuyên. Sau khi đoạt giải hoa khôi, cô cưới biện lý Jaboin và sống một cuộc sống khép kín. Tuy nhiên vào năm 1893, ông Chánh và Jaboin xảy ra mâu thuẫn, cô Ba đã cầm súng bắn chết tên biện lý Jaboin. Cô bị Tòa đại hình Mỹ Tho kết án ngày 19/6/1893 và bị xử tử ngày 18/1/1894 tại Trà Vinh.
Nam Phương hoàng hậu tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan sinh ra tại huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Bà là vị hoàng hậu cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam.

Nam phương hoàng hậu vốn là cháu ngoại của đại phú gia giàu có bậc nhất Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20 – huyện Sỹ Lê Phát Đạt. Người thời đó cho rằng số tài sản của Huyện Sỹ còn nhiều hơn tổng tài sản của Vua Bảo Đại.

Năm 1932, người đẹp này đã nổi danh về nhan sắc khắp vùng Nam Kỳ và cả Đông Dương. Nhiều tài liệu cho rằng trước khi Thị Lan trở thành chính cung hoàng hậu của vua Bảo Đại, bà đã 3 lần giành được giải hoa hậu Đông Dương.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu của nhà sử học Dương Trung Quốc thì trong thời Pháp thuộc tuy có tổ chức nhiều cuộc thi sắc đẹp, nhưng không có cuộc thi nào mang tên Hoa hậu Đông Dương. Vì vậy có thể danh hiệu này được người dân trao tặng cho hoàng hậu vì yêu quý nhan sắc tuyệt trần của bà.

Cô Ba Trà tên thật là Trần Ngọc Trà, sinh năm 1906, bà là người phụ nữ sinh đẹp nổi tiếng đất Sài thành vào những năm đầu thế kỷ 20, và được mệnh danh là Étoile de Saigon (tạm dịch: ngôi sao Sài Gòn).
Xuất thân từ một làng quê nghèo ở Cần Đước (Long An). Năm 16 tuổi, sau khi cha qua đời, cô Ba Trà một mình lên Sài Gòn để mưu sinh. Nhiều người cho chính những bi thương từ thuở ấu thơ đã góp phần hình thành nên tính cách của người phụ nữ này: coi đời lạnh như băng.
Cô Ba Trà sớm bộc lộ dung mạo xinh đẹp khi mới chỉ 16 tuổi và nhanh chóng trở thành “ngôi sao” của đất Sài Gòn hoa lệ. Với vẻ đẹp “sắc nước nghiêng thành”, cùng một trí thông minh và cách nói chuyện khôn khéo, cô Ba Trà đã đốn ngã hàng loạt tay chơi hào hoa giàu có bậc nhất đất Nam Kỳ như Hắc công tử (Trần Trinh Huy), Bạch công tử (Lê Công Phước), công tử Bích. Chính vì thế dù không đoạt được danh hiệu chính thức nào, nhưng người dân vẫn thường dành tặng cho cô Ba danh hiệu Người đẹp Nam Kỳ.
Trải qua 4 cuộc hôn nhân lần lượt là: viên quan ba người Pháp, con trai tỷ phú đất Phan Rang, bác sĩ Trần Ngọc Án, và cuối cùng là một triệu phú trẻ tuổi, nhưng tất cả đều tan vỡ. Kể từ đó, người đẹp lao vào ăn chơi, cặp kè hết người này đến người khác và dấn sâu vào con đường bài bạc.

Những canh bạc lớn đã đốt sạch gia sản của người đẹp. Khi còn trẻ, cô Ba Trà được nhiều người săn đón bao nhiêu thì đến lúc già, cô lại phải sống trong cảnh cô độc, nghèo túng. Đến cuối đời, hoa khôi Trần Ngọc Trà lâm vào cảnh nợ nần, túng bấn và phải đi làm công ở một cửa tiệm tồi tàn để kiếm sống qua ngày. Hết tiền, cô Ba phải bán nhà và sống trong một xó chân cầu thang của một chung cư, tài sản duy nhất là cái ghế bố cô nằm. Người ta nói rằng họ thấy cô Ba Trà chết trên ghế bố dưới chân cầu thang một chung cư ở Sài Gòn.
Theo Toàn Nguyễn/Tri thức trẻ
NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT DUY NHẤT MẶC ÁO VÀNG TRONG TRIỀU ĐÌNH
Năm 1932 vua Bảo Đại về nước sau mười năm học tập ở Pháp. Bảo Đại (sinh 1913) là một ông vua đẹp trai, có Tây học, ham thích thể thao, săn bắn và âm nhạc, là hình ảnh lý tưởng của con gái Việt Nam, đặc biệt là con gái Huế thời bấy giờ và mãi nhiều năm về sau. Nhiều nhà quyền quý, có con gái đều nhắm đến vị Hoàng đế trẻ tuổi này.
Sau ngày Bảo Đại về nước, bà Từ Cung – mẹ đẻ của vua Bảo Đại, đã chọn cô Bạch Yến con ông Phó bảng Nguyễn Đình Tiến quê ở làng Chí Long (Phong Điền, Thừa Thiên) để chuẩn bị tiến cung. Cô Bạch Yến được dạy đàn ca, thơ phú, dạy ăn nói, đi lại cho đúng với lễ nghi trong cung cấm. Hằng ngày cô được tắm gội bằng sữa dê để giữ làn da đẹp. Nhưng rồi thật bẽ bàng, cuối cùng cô Bạch Yến đã không được Bảo Đại lưu ý.
Bởi vì Bảo Đại đã yêu cô Nguyễn Hữu Thị Lan (sinh 1914), con một nhà hào phú Nam bộ là ông Nguyễn Hữu Hào (gốc Gò Công). Bà còn là cháu ngoại ông Lê Phát Đạt, tức Huyện Sỹ – người giàu nhất Nam bộ đầu thế kỷ XX, Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh đẹp, từng ba năm liền đạt giải hoa hậu Đông Dương.
Tuy nhiên, với quyết định này của nhà vua, đã khiến Thái Hậu Từ Cung vô cùng phiền lòng, còn triều đình như phải đối mặt với một cơn sóng dữ.
Bà Từ Cung bày tỏ không đồng tình việc Bảo Đại đòi lấy cô Nguyễn Hữu Thị Lan, vì tuy là con nhà giàu nhưng cha mẹ không có chức tước gì trong triều đình. Huống chi lại theo đạo Công giáo!.

Bảo Đại còn cứng rắn thưa với mẹ rằng, nếu không lấy được Nguyễn Hữu Thị Lan thì thà ở vậy suốt đời. Vua cũng cam kết Hoàng hậu sẽ thắp nhang cúng vái tổ tiên theo đúng phong tục tập quán của người Việt.
Người đứng đầu Tôn Nhân Phủ là Tôn Thất Hân lại càng phản đối kịch liệt. Tôn Thất Hân nêu lý do: “Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì không thể chấp nhận được”.
Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu”.
Tôn Thất Đàn, cựu thượng thư bộ Hình định thảo một kiến nghị có chữ ký của các đại thần đứng đầu các Bộ và các nha phủ quan trọng trong triều yêu cầu Nhà vua nên từ hôn với Nam Phương. Bản thân ông và bạn bè còn nghĩ đến buộc Nam Phương bỏ Công giáo theo đạo Phật pha trộn với đạo Lão đang thịnh hành ở Việt Nam nếu cứ lấy Bảo Đại. Vị cựu thượng thư còn nói thêm có một vài vị quan quyền cao đức trọng tỏ ý thà chết còn hơn được thấy việc hôn nhân này vi phạm những nguyên tắc của nhà nước quân chủ.
Nhưng cuối cùng do sự quả quyết của Bảo Đại, bà Từ Cung và các quan đình đành phải nghe theo vua.
Ngày 20/3/1934, hôn lễ được tổ chức tại Huế. Khi đó, Bảo Đại 21 tuổi, Nguyễn Hữu Thị Lan 19. Bốn ngày sau, lễ Tấn Phong Hoàng Hậu rất trọng thể ở Điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Lan tước Nam Phương Hoàng Hậu.
Việc phong hoàng hậu này cũng lại là một biệt lệ, vì bà cùng với Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, chính thất của Nguyễn Thế Tổ Gia Long hoàng đế, là 2 vị Hoàng hậu duy nhất trong hoàng tộc nhà Nguyễn mang tước vị Hoàng hậu khi còn sống.
Bảo Đại giải thích hai chữ Nam Phương như sau: “Tôi đã chọn tên trị vì của hoàng hậu mới là Nam Phương, có nghĩa là “Hương thơm của miền Nam” và tôi đã ra một chỉ dụ, đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng, là màu dành riêng cho Hoàng đế”.
Với tư cách hoàng hậu, Nam Phương đã giúp cho vua Bảo Đại trong các hoạt động ngoại giao, đón tiếp các quốc khách, giao thiệp với Pháp. Nam Phương là vị Đệ nhất phu nhân Việt Nam đầu tiên được giao phụ trách các công việc xã hội, làm khuyến học, khen thưởng học sinh giỏi, giúp đỡ người nghèo, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội.
Hoàng hậu Nam Phương có với Bảo Đại 5 người con. Hai hoàng tử và ba công chúa.
Nam Phương Hoàng hậu rời Việt Nam năm 1947. Những năm cuối đời, bà sống lặng lẽ cùng các con tại Perche, một làng cổ ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Limousin nước Pháp. Bà mất ngày 14 tháng 9 năm 1963, đám tang được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ, thưa thớt, vắng vẻ. Bên ngôi mộ đơn sơ có tấm bia khắc chữ Pháp:
CI REPOSE L’IMPÉRATRICE D’ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN
(Đây là nơi an nghỉ của Hoàng hậu nước An Nam, nhũ danh Maria Têrêsa Nguyễn Hữu Thị Lan)
























































Hình ảnh Việt Nam Tổng hợp