Tương truyền những vị vua nhà Nguyễn không quan tâm đến việc đào tạo quân đội nhiều như trước nên quân lính cùng vũ khí ngày càng lạc hậu.
Vốn là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, triều Nguyễn tồn tại hơn 143 năm cùng nhiều đời vua chúa, mãi năm 1945 mới kết thúc sau khi Pháp xâm lược.
Binh lính triều Nguyễn thuộc thời cận đại nên được trang bị vũ khí hiện đại hơn so với trước. Tuy nhiên, số lượng vũ khí cho binh lính có hạn, thời gian luyện tập hạn chế nên không đủ sức chống lại thực dân Pháp. Nước ta thời Pháp thuộc được Pháp chia thành 3 xứ với 3 chế độ khác nhau, lần lượt là Bắc Kỳ (Tonkin), Nam Kỳ (Cochinchine) và Trung Kỳ (Annam).
Tại xứ Trung Kỳ (Annam), lính thú nhà Nguyễn có nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ triều đình khỏi những vấn đề từ bên ngoài. Triều đình đã cho xây dựng và đào tạo một số loại lính thú, được gọi là “Lính khố vàng”, thắt lưng được làm bằng dây vải màu vàng, có nón đội trên đầu, chóp nón làm bằng đồng thau.
Các loại quân lính thời nhà Nguyễn gồm: “Lính kinh đô” có nhiệm vụ bảo vệ hoàng gia và kinh thành Huế, “Lính thượng tứ” gồm lính kỵ binh và lính bộ binh’ “Lính kỹ thuật” có nhiệm vụ lo binh khí và súng thần công. Lính triều đình chưa có giày dép nên vẫn đi chân đất. Binh lính thời kỳ này đã được trang bị súng hỏa mai, nhưng họ chủ yếu vẫn dùng đao và kiếm. Súng hỏa mai vẫn là loại súng thô sơ, được tạo nên từ một ống kim loại, thuốc súng và đạn dược nạp trên đầu, phải châm ngòi thì nó mới nổ.
Khả năng bắn của súng hỏa mai không nhanh, sau này nó được thay thế bằng súng trường, dùng vỏ đạn kim loại có lực bắn mạnh và nhanh hơn. Đến thời vua Gia Long còn xuất hiện thêm súng đại bác thần công, tên đầy đủ là “thần uy tướng công” hay còn gọi là súng lớn hay pháo. Loại súng này có khả năng bắn đạn ra tầm xa và lực phá hủy mạnh hơn súng hỏa mai.
Để chọn binh lính cho triều đình, thanh niên trai tráng trong làng sẽ được xã, thôn ghi vào sổ đinh, sau đó chọn lựa kỹ càng rồi gửi lên quan huyện, chuyển lên phủ. Người được chọn sẽ làm nhiệm vụ ở địa phương hoặc đưa lên triều đình đào tạo. Những người lính thú bảo vệ biên cương sẽ phải rời xa quê hương, trấn giữ biên giới trong 3 năm. Thời đó gọi là “chế độ quân dịch” còn ngày nay gọi là “nghĩa vụ quân sự”.
Công việc này rất vất vả, bao khó khăn gian khổ rình rập. Hết rừng thiêng nước độc, hùm beo, cá sấu đầy rẫy, rắn độc, muỗi hay các hiểm họa khác có thể khiến những người lính bỏ mạng bất cứ khi nào. Bên cạnh đó, việc canh gác, bảo vệ phải làm ngày làm đêm, ăn uống cực khổ, sức khỏe không ổn định, nhiều người không chết vì bệnh cũng chết bởi đói khát.
Bên cạnh đó, vua triều Nguyễn ngày càng không quan tâm đến đào tạo, trang bị quân đội nhiều như trước. Ngân khố hạn chế, quân đội ngày càng lạc hậu, sa sút. Dưới thời vua Gia Long hay Minh Mạng lấy cách tổ chức của quân đội phương Tây làm kiểu mẫu, số lượng người cầm cờ giảm từ 40 xuống còn 2 người, chỉ cần chất lượng, không cần số lượng.
Đến thời vua Tự Đức, tình hình vẫn không được cải thiện khi vũ khí đều cũ kỹ, thủy binh không được chăm chút, binh pháp không được cải tiến. Cách dẫn quân, đánh trận không được cách tân mà theo hướng bảo thủ. Do đó, không có gì lấy làm lạ khi thành Gia Định dễ dàng rơi vào tay Pháp. Sau này, 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cũng phải nhường lại cho thực dân Pháp. Quân Pháp nhân cơ hội đó chiếm luôn 3 tỉnh Nam Kỳ: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Có thể thấy, triều Nguyễn không chịu cải cách quân binh, chỉ chăm chăm giữ lại cái cũ khiến cho việc đào tạo quân đội bị kìm hãm, dẫn đến việc mất nước.
Trang phục đại triều của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Khải Định)Trang phục đại triều của quan Triều Tiên và Việt NamThường phục của nam nhân Triều Tiên và Việt NamĐại triều phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt NamLễ phục của vương hậu Triều Tiên và hoàng hậu Việt NamÁo cưới cung đình của nữ quý tộc Triều Tiên và Việt NamTế phục của vua Triều Tiên và Việt NamVõ phục cung đình của Triều Tiên và Việt Namthường phục của quan chức Triều Tiên và Nguyễntrang phục của các quan viên Triều Tiên và Việt Namtrang phục nữ nhân Triều Tiên và Việt NamThường triều phục/ tế phục của quan viên Triều Tiên và Việt NamVõ phục cách tân của vua Triều Tiên và Việt Nam ( vua Khải Định)Võ phục truyền thống của vua Triều Tiên và Việt Nam (vua Thành Thái)
Các nghi thức trang điểm theo lối cung đình Huế vẫn luôn là điều bí mật với nhiều người. Bí ẩn từ cách pha chế mỹ phẩm đến cung cách vẽ mặt sao cho các mệ trông giống như các bức tượng tiên thánh. Những phần khác chỉ còn là huyền thoại, cùng với sự ra đi của những bà hoàng, những công chúa, phi tần cuối cùng của vương triều nhà Nguyễn…
Người cung nữ cuối cùng còn sống của Triều Nguyễn
Mỗi sáng sớm các viên lính giản khiêng loan ỷ Thánh Cung Hoàng thái hậu, đích mẫu của Vua Khải Định, từ trên lầu Tịnh Minh xuống chính sảnh Cung Diên Thọ để các Cô làm tốt. Đây là cách người Huế xưa gọi việc trang điểm. Phải mất công như thế vì bà bị thấp khớp rất nặng, đi đứng khó khăn. Theo lời yêu cầu của ông Quan Năm bác sỹ người Pháp, triều đình xây cái lầu này trên nhà Thông Minh Đường để Thái hậu nghỉ ngơi cho đỡ ẩm thấp. Dù đau đớn thế nào đi nữa, trong suốt thời gian làm tốt Lệnh bà cũng vẫn phải ngồi yên, lưng ngay, mặt nhìn thẳng theo đúng phép tắc cung đình. Sau khi việc điểm trang, áo xống đã xong, Thái hậu vẫn phải giữ vẻ trang nghiêm trên ngai, đến nỗi trông bà giống như các tượng tiên, thánh trong đền.
Khoảng năm 1970 tôi có dịp được bà Điềm Tần, thứ thất của cố Hoàng đế Khải Định, cho tôi xem cách bà trang điểm để sửa soạn cho một dịp đại kỵ. Lúc ấy vì không hiểu nên tôi chỉ thấy buồn cười mà không dám nói. Bà dùng phấn nụ pha nước sền sệt đánh mặt trắng bệch như vôi, nhưng từ dưới cầm xuống cổ, và hai tai, lại để da trần. Cho dù da bà trắng, sự tương phản vẫn rõ nét, gần như do cố ý. Điều gây ấn tượng mạnh nhất đối với tôi lúc ấy là cặp mắt không trang điểm của bà hiện ra giữa mầu phấn trắng một cách siêu thực. Có khi đấy cũng là do cố ý? Bà bôi lên mỗi gò má một khoảnh tròn phấn hồng. Môi trên dưới đều đánh phấn trắng, nhưng sau đấy bà dùng ngón tay tô sáp lên môi trên, và chỉ một điểm sáp son vào chính giữa môi dưới. Như vậy để môi chum chím như một nụ hoa. Lông mày cũng được đánh che hết bằng phấn trắng, để rồi được tô lại bằng bút lông với muội than gỗ điên điển (có thể thay gỗ điên điển bằng nút bấc).
Bà Tần giải thích rằng khi một nữ nhân đã nhập nội (vào làm vợ vua) rồi thì ngoài chồng, tức là vua, không một người đàn ông nào khác được thấy mặt mình nữa, dù là cha ruột. Gặp những dịp các bà phải có mặt ngoài cung cấm, thì các bà phải đánh phấn trắng như vậy để “trăm Mệ như một”. Người ngoài chỉ được thấy cái mặt giả của các bà. Bà nói các kỹ nữ (geisha) bên Nhật cũng phải theo nguyên tắc này. Mặt thật của họ chỉ có chồng con được biết thôi.
Theo lệ thời cuối Nguyễn Triều thì các hoàng thái hậu và các bà hậu, phi trong tam cung không phải đánh phấn trắng lối này. Các bà trong lục viện mới phải đánh mặt trắng. Ba viện trên được đánh sáp môi lên môi trên và một chấm sáp giữa môi dưới. Ba viện dưới đánh trắng môi trên với một chấm son giữa môi dưới…
Bây giờ tôi chỉ ước được quay lại khung cảnh ấy để chiêm ngưỡng. Cô Lê Thị Dinh, người giữ phận sự trang điểm cho bà Từ Cung Hoàng thái hậu, sau này cho tôi biết rằng tôi rất may mắn. Vì trong tất cả các bà trong nội cung thời cuối Nguyễn, chỉ có bà Điềm Tần còn giữ các cung cách cổ.
Phụ nữ trong cung thủa xưa dùng phấn nụ để trang điểm. Gọi là phấn nụ vì do cách sản xuất thời bấy giờ, mỗi viên phấn có hình dáng giống như một nụ hoa nho nhỏ. Các bà tự làm ra phấn nụ để dùng chứ ít khi họ tin tưởng vào phấn mua ngoài phố. Phấn nụ được làm từ chất cao lanh thượng hạng mua từ Trung Quốc và đem về chế biến.
Khi đánh phấn, người ta nhón viên nụ phấn bằng các đầu ngón tay rồi miết với động tác xoay tròn lên mặt. Sau đó dùng các đầu ngón tay xoa cho đều. Lập lại nếu cần. Phấn cũng còn được pha sẵn với nước đựng trong hũ nhỏ để bôi lên mặt khi cần đánh lớp trắng, dầy trong các dịp đại kỵ.
Người xưa đốt gỗ điên điển, và sau này là nút bấc, rồi dùng cọ lông viết chữ Nho quết than khô để vẽ lông mày. Sau khi đã vấn khăn hay búi tóc xong, các bà cũng dùng than này chấm lên che bớt tóc bạc, đường rẽ ngôi và các chỗ tóc bị sói.
Lối đánh phấn trắng bệch với phấn hồng và môi điểm nụ chỉ được dùng trong các dịp đại kỵ trong cung ngày xưa. Vào các lễ lạc khác và ở đời thường, phấn nụ và sáp môi cũng chỉ được điểm trang như cách phụ nữ vẫn làm ngày nay mà thôi. Phấn nụ vẫn được làm thành từng thỏi lớn và bán tại các hàng xén trong chợ Đông Ba ở Huế. Nhưng các bà xưa vẫn thường tự mua cao lanh về làm phấn nụ để dùng riêng. Họ phải kỹ vì chất cao lanh loại thấp cấp dễ gây tổn hại cho da mặt.
Phấn nụ loại tốt ngày xưa còn được xem là có công dụng dưỡng da. Phấn được bôi dầy lên mặt mỗi đêm, để trong khi ngủ da sẽ thẩm thấu phấn và trở nên mịn màng. Các phụ nữ nội cung còn sống ở Huế hiện nay vẫn chỉ dùng phấn nụ. Họ không hài lòng lắm với mỹ phẩm Tây phương.
Phấn nụ và khăn vành dây bao giờ cũng đi đôi với nhau trong cung nội ở Huế. Người Việt cổ dùng vải nhiễu cát để bao tóc. Người Tây phương sau này cũng rất chuộng loại vải này và gọi nó là Crepe de Chine. Nhiễu cát do người Việt dệt ngày xưa chỉ mỏng bằng nửa loại Crepe de Chine ngoại nhập được dùng khá phổ biến trong cung ở thời cuối Nguyễn triều.
Cách chít khăn trong cung ở Huế khác với cách vấn khăn của đàng ngoài. Khăn vấn Huế được chít với mép khăn hướng lên trên và dấu ở phía trong vành khăn. Vành khăn thứ hai được chít bao ra ngoài phía trước vành khăn một, chứ không luồn bên dưới vành một như ở Bắc bộ. Các mệnh phụ trong cung Huế thường vấn khăn vành dây ra ngoài khăn chít trong các dịp lễ. Khăn vành dây rộng 30cm. Khăn bằng Crepe de Chine ngoại quốc có độ dài trung bình là 15 mét. Khăn nhiễu cát Việt Nam mỏng nên có độ dài hơn.
Từ độ rộng 30cm, khăn vành dây được xếp thành bề rộng 6cm với cạnh hở hướng lên trên, rồi quấn thành hình chữ Nhân, tức là chữ V ngược, che tóc, một phần tai và vòng khăn chít bên trong. Khi khăn đã bao giáp vòng, gấp khăn lại còn nửa chiều rộng, bắt đầu từ đằng sau gáy, vẫn để cạnh hở hướng về phía trên, rồi vấn tiếp. Khăn vành được bao chặt ra ngoài phần khăn chit, tạo thành một cái đĩa lớn. Vì nhiễu cát có độ co dãn và nhám cao nên khăn vành ít khi tuột. Phần cuối của khăn được vén khéo vào trong vành khăn phía sau, rồi dùng kim găm dấu cho khéo.
Về sau khi tóc uốn trở nên thông dụng, người Huế tạo ra một vòng vải ống tròn nhồi bông chụp vừa lên đầu giả khăn vấn để lót cho khăn vành dây. Một trong những người đầu tiên xử dụng loại khăn vấn sẵn này là Hoàng hậu Nam Phương. Khi mới nhập cung, tóc Hoàng hậu vẫn còn uốn ngắn như hồi còn ở bên Pháp. Phải có cái ống khăn chít giả bên trong người ta mới vấn được khăn vành cho Hoàng hậu, để bà có thể mặc áo mệnh phụ khi làm triều lễ.
Chỉ mãi sau này khi điển lệ đã bị phá bỏ người ta mới thấy một vài khăn vành dây mầu vàng trong cung. Còn ngoài ra, từ các hoàng thái hậu, hoàng hậu cho đến các công chúa, mệnh phụ thường cũng chỉ vấn khăn vành mầu lam đậm. Khăn vành dây bao giờ cũng được xem là niềm kiêu hãnh, cũng như nỗi khổ của các phi, hậu, mệnh phụ ngày xưa.
Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lên ngôi vua, ấy là vua Gia Long, vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn. Gia Long chọn đóng đô ở Huế. Thăng Long sau đó được đổi thành tổng trấn Bắc Thành với 11 trấn trực thuộc. Nhà Nguyễn bấy giờ đặt quan tổng trấn Bắc Thành và trao quyền hành rất lớn, lại đặt ra các Tào, gần như cơ quan đại diện của các Bộ tại Thăng Long. Quan tổng trấn Bắc Thành được quyền tự quyết cắt đặt quan lại, bãi quan miễn chức, xét xử kiện tụng, sau khi tiến hành xong rồi mới tâu trình. Bởi vậy, quan phủ ở Thăng Long – Bắc thành bấy giờ gần như một triều đình thu nhỏ. Điều đó cho thấy, nhà Nguyễn vẫn đề cao tầm quan trọng của Thăng Long đến mức nào.
Bản đồ Hà Nội 1873
Thành Hà Nội (thành) – vi.wikipedia.org Vua Gia Long cho phá dỡ Cấm thành Thăng Long, cho xây dựng lại một tòa thành mới hình vuông, mô phỏng theo kiểu Vauban của Pháp. Mỗi mặt thành được bố trí 2 pháo đài, mỗi góc đều có pháp đài góc. Thành ngoài được mở 7 cửa, trên mỗi cửa có lầu và cột đồng. Xung quanh thành đều có hệ thống hào được dẫn nước từ sông Tô Lịch. Cầu bắc qua hào để vào thành được xây bằng gạch nung chín. Nền thành rộng chừng 28m, mặt thành rộng khoảng 8m. Trên thành có xây tường nhỏ bằng gạch làm chỗ núp cho quân bắn xuống khi có chiến tranh. Vua Gia Long cho xây thêm tòa điện phía sau điện Kính Thiên làm hành cung, xây các cửa thành Đông Nam, Tây Nam, Đông, Tây và Bắc. Phía trước Hoàng thành Thăng Long cũ, vua Nguyễn cho xây cột cờ, gọi là Điền Đài, cao 100 thước. Tháng 7 năm 1820, vua Minh Mạng lại bổ sung thêm một số công trình ở Thăng Long. Vua Nguyễn cho dựng thêm các điện, đường hành cung và làm các quán dịch để tiếp sứ thần Trung Quốc từ Kinh Bắc lên tới Lạng Sơn. Phía trước điện Kính Thiên, vua Minh Mạng cho dựng điện Thị Triều và điện Cần Chánh. Ở bờ Nam sông Nhĩ đặt nhà tiếp sứ lợp ngói, bờ Bắc sông Nhĩ đặt các trạm sứ quán từ trạm Gia Quất đến Lạng Sơn cả thảy 7 trạm. Ở giữa trạm dựng một nhà ngói, các tòa nhà trước, sau và hai bên đều dùng gỗ tạp và lợp cỏ tranh.
Vị trí thành Thăng Long-Hà Nội qua các thời kỳ (Khảo sát thực địa -giả định)
Bản đồ Thành cổ Hà Nội thời Pháp chiếm đóng
Cảnh tổng quát Thành Hà Nội, thủ phủ của Bắc Kỳ-1880, nhìn từ cửa phía Đông thành.
Tới năm 1931, vua Minh Mạng thực hiện công cuộc cải cách hành chính với quy mô lớn. Cấp tổng trấn Bắc Thành và Gia Định Thành bị bãi bỏ. Vua Minh Mạng chia cả nước làm 30 tỉnh đặt dưới sự cai trị thống nhất của triều đình. Thủ phủ của Tổng trấn Bắc Thành, gồm khu vực Kinh thành Thăng Long các triều đại trước và mở rộng thêm, được cắt thành tỉnh Hà Nội. Bấy giờ, tỉnh Hà Nội được triều Nguyễn cắt đặt cho 4 phủ là Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa và Lý Nhân; 15 huyện là Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm, Thượng Phúc, Thanh Trì, Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An, Nam Xang, Duy Tiên, Bình Lục, Phú Xuyên, Kim Bảng và Thanh Liêm. Thành tỉnh Hà Nội trước đó được nhà Nguyễn dựng lại với chu vi 1.728m, cao 4,5m, hào bao quanh rộng khoảng 16m. Đến lúc vua Minh Mạng chia lại tỉnh hạt, bèn cho bạt bớt đi 1 thước 8 tấc cho phù hợp với quy chế thành của một tỉnh. Như vậy, đến thời Nguyễn, dù Kinh đô được đặt ở Huế, nhưng Thăng Long – Hà Nội vẫn tồn tại như một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội lớn, rất được triều đình coi trọng.
Sơ đồ vị trí các cổng thành Hà Nội
Cửa Chính Bắc Vị trí và hình dáng Sử chép rằng Cửa Bắc được xây dựng từ thời Nguyễn, trên nền Cửa Bắc của thời Lê và hoàn thành năm 1805. Cửa Bắc được xây dựng theo kiến trúc vọng lâu: phía trên là lầu, phía dưới là thành.[1] Cửa Bắc nay nằm trên đường Phan Đình Phùng thuộc quận Ba Đình, Hà Nội. Cửa Bắc là một khối gần như vuông dạng hình thang, tường hai bên xoải ra. Lòng cửa là vòm cuốn xây gạch. Mép cửa kè đá hình chữ nhật, riềm trên bằng đá trang trí viền cánh sen. Trên nóc cửa có vọng lâu là một phương đình 8 mái. Phía bắc trán cửa có gắn tấm biển, ở giữa khắc nổi ba chữ Hán “Chính Bắc Môn” (正北門). Riềm cửa gắn biển đá trang trí nổi hoa dây. Bên cạnh phía phải gắn một tấm biển đá khắc ngày 25 tháng 4 1882,[2] đánh dấu ngày quân Pháp khai hỏa, bắn vào thành và chiếm lấy thủ phủ xứ Bắc Kỳ. Tường cửa còn nguyên dấu đạn đại bác của quân xâm lăng.[1] Trên lầu hiện là nơi thờ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu – hai vị Tổng đốc đã có công cùng nhân dân thành Hà Nội chống trả lại kế hoạch xâm chiếm thành của thực dân Pháp. Hai ông đều nhận lấy cái chết dầu [không] giữ được thành. (nguồn: wikipedia.org)
Đây là cửa Chính Bắc của thành Hà Nội, do Emile Gsell chụp (khoảng năm 1880) trước khi thành bị tàu chiến Pháp khai hỏa bắn vào ngày 25 tháng 4 1882 trong trận chiến thành Hà Nội lần thứ hai, do vậy trong hình này tường của cửa thành còn nguyên vẹn chưa có dấu đạn đại bác như còn lại ngày nay.
Cũng cửa thành Chính Bắc này, ảnh do BS Hocquard chụp khoảng 1884-85, đã sụp đổ điêu tàn
Cửa Bắc nhìn từ bên trong, kh. năm 1884-1885, sau khi quân Pháp đã chiếm thành Hà Nội.
Cửa Bắc phía trước cổng thành đã lấp hào sông chạy quanh, tường thành bị hạ thấp .
Cổng thành Hà Nội trước năm 1896 càng rõ khi thấy khoảng đất bằng phẳng trước mặt.
Thành Cửa Bắc phía trên bị biến dạng xây dựng công trình cho mục đích sử dụng khác.
Vọng lâu bị phá
Đã được cải tạo, phục hồi lại nguyên trạng
Năm 1999 cũng tại đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện các phần còn lại của một bức tường xây bằng đá và gạch vồ, nền móng dày 1,2m và dấu tích của một kiến trúc khác thời Lê tại độ sâu từ 1,66m – 2,20m
Vết đại bác trên cổng Bắc thành Hà Nội do pháo thuyền của Pháp bắn vào. Nguyên văn biển đá bằng tiếng Pháp: 25 avril 1882: Bombarde de la citadelle par les canonnières “Surprise” et “Fanfare”; nghĩa là Ngày 25/04/1882: Vết bắn phá thành của các pháo thuyền “Surprise” và “Fanfare”.
Phía nam thành Hà nội có hai cửa: cửa Tây Nam và cửa Đông Nam (cửa Đại Hưng), tất cả đã mất theo thời gian. Cửa Nam chỉ còn trong tên một con phố nơi có những tên đất như Đình Ngang (nơi dừng lại để soát xét giấy tờ, thẻ bài trước khi vào Hoàng Thành), Cấm Chỉ (dừng nơi khu cấm) và một góc cái vườn hoa thời Pháp thuộc có dựng tượng “Bà đầm xòe”.
Cửa Đông Nam thành Hà Nội-Bức ảnh này cho thấy hình ảnh Cửa Nam đổ nát, phía trong thấy rõ Kì Đài và Đoan Môn.
Phục dựng lai bằng 3D Cửa Đông Nam (cửa Đại Hưng), Cửa Nam thời Lý – Trần có tên là cửa Đại Hưng; nơi đây là cửa chính ra vào của các quan lại những ngày thiết triều, của các quan nhậm tại trấn ngoài có việc vào triều, nơi trần thiết lễ nghi mỗi khi Nhà nước có công việc quan trọng như tế lễ Giao, lễ Tịch Điền, nhà vua đi kinh lý các địa phương (thời Lý – Trần các vua năng đi tuần thú ra ngoài, vua Lê thì rất hiếm).
Họa đồ thành Thăng Long thời Lê với sông Nhị chảy ở phía đông, tháp Báo Thiên ở giữa, vương phủ chúa Trịnh chếch ở phía nam tháp, hồ Tây ở phía bắc và thành Thăng Long gồm hai vòng lũy (và có Đại Hưng Môn, Chính Đông, cửa Tây ) nằm giữa hồ Tây và tháp Báo Thiên.
Vấn đề vị trí các cửa thành trải qua các vương triều có cùng vị trí còn cần khảo cứu và có chứng cứ khảo cổ, tư liệu xác thực.
Cửa Đông
Chính Môn Đông (thành Cửa Đông) nằm phía Đông Hoàng Thành, dẫn vào khu cư dân sầm uất nhất kinh thành – khu phố cổ quận Hoàn Kiếm ngày nay. Cũng như Cửa Nam, Cửa Đông ngày nay chỉ còn là tên một con phố. Trước kia có một đường đi cũ trong thành từ cửa Đoan Môn ra đến Chính Môn Đông, qua cổng thành và dương mã thành, qua cầu bắc trên hào, để ra ngoài, tại đây con đường quặt về hướng Đông nam một quãng mới toả đi các phố của khu Cửa Đông. Bức ảnh này cho thấy Chính Môn Đông năm 1885 với phía trong là các khu nhà trại lính Pháp.
Trên bức ảnh vẫn thấy rõ dấu tích cây cầu bắc qua hào. Khi Chính Môn Đông, tường thành và con hào bị phá bỏ, người Pháp cho mở một con đường mới thẳng từ Cổng Tỉnh (chiếc cổng sắt lớn thay cho Chính Môn Đông) ra khu phố cũ, con đường mới đó được đặt tên là Rue Général Bichot, nhân dân ta cứ quen gọi là phố Cửa Đông hoặc con đường Cổng Tỉnh. Bên ngoài Cổng Tỉnh luôn túc trực đông đảo một đội quân xe kéo, đáp ứng nhu cầu đi lại của binh lính Pháp từ trong thành vào khu 36 phố phường của Hà Nội. Quân đội Pháp biến Cấm Thành thành sở chỉ huy pháo binh, còn toàn bộ phía Đông Hoàng Thành (khu vực giữa hai con đường Nguyễn Tri Phương và Lý Nam Đế ngày nay) trở thành một trại lính khổng lồ.
Bản vẽ phục dựng khu vưc trước vửa Đông Hoàng Thành
Nhìn vào phía trong thành từ Cửa thành phía Đông
Cổng Đông Thành Hà Nội năm 1885
Cửa Đông Thành Hà Nội năm 1890, lúc này đã bị hạ tầng lầu trên trên thành.
Nhìn theo hướng khác năm 1898
Cửa Đông-chính Đông Môn
Phố Cửa Đông, Hà Nội.
Cửa Tây thành Hà Nội.
(Cửa Tây – Dương Mã Thành – đời Nguyễn)
Trong bài viết: “Những vết tích của Hoàng Thành Thăng Long trên mặt đất và dưới lòng đất” GS Trần Quốc Vượng tiết lộ: “Tôi cùng với ông Đỗ Văn Ninh và một cán bộ kỹ thuật (đo vẽ khảo cổ) được thu nhận vào theo dõi công việc đào móng xây dựng công trường Lăng Bác. Chúng tôi đã thấy gì? Thấy được Cửa Tây – Dương Mã Thành – đời Nguyễn cùng nhiều đoạn thành, nền là lớp đá ong rất dày, trên xây gạch Nguyễn lẫn lộn gạch vồ Lê. Thấy nhiều di vật (gạch, ngói lưu li xanh vàng, đồ gốm sứ Lý – Trần – Lê – Nguyễn…).
Cửa thành Hà Nội nhìn từ phía đường Sơn Tây (Ảnh của Hocquard chụp khoảng 1885 -1886)
Thấy những đống xương: Người, thú (trâu bò, lợn, gà…), có xương bả vai trâu có một đinh ba sắt xuyên qua (lễ hiến tế). Thấy một vài cái giếng xây bằng gạch “Giang Tây quân\’” (chữ in trên gạch, niên đại thuộc Đường thế kỷ VII – IX), có gạch in chữ “Lý gia đệ tam đế Long Thụy thái bình tứ niên tạo” (làm năm Long Thụy thái bình thứ tư, đời vua thứ ba nhà Lý – 1057) v.v… (thời ấy phải nghiêm ngặt tuân thủ định chế của công trường: Không được mang vào và mang ra bất cứ hiện vật gì, không được hỏi, được nói bất cứ cái gì mình biết và không biết, không được đi ra khỏi nơi quy định…)”.
Đối chiếu bản đồ cũ với ảnh Google có thể thấy bốn con đường chạy quanh Hoàng Thành xưa hiện giờ là: Phan Đình Phùng (phía Bắc), Trần Phú (phía Nam), Lý Nam Đế (phía Đông) và Hùng Vương (phía Tây). Vẫn theo GS Trẫn Quốc Vượng: Về phía Tây Hoàng Thành Lê, thì còn chứng cứ: Khán Sơn.
Toàn thư chép là ở góc Tây Bắc Hoàng Thành, nơi vua Lê Thánh Tông và các đại quan ngự xem quân sĩ tập trận. Thời Pháp thuộc, chính quyền Pháp sai san phẳng Khán Sơn làm nền, trên đó xây dựng trường trung học mang tên viên toàn quyền Albert Sarraut, nay được cải tạo, sửa thành trụ sở TƯ Đảng CSVN.
Từ thời vua Gia Long tuy có mối giao hảo tốt với phương Tây đặc biệt là Pháp, nhưng vua Gia Long vẫn thấy nguy cơ về mất chủ quyền mỗi khi cơ hội đến với phương Tây thông qua con đường bảo vệ đạo Thiên chúa nên ông căn dặn người kế vị (Minh Mạng) không nên đối xử phân biệt giữa các đạo Nho, Phật, Thiên chúa giáo. Việc khủng bố tôn giáo sẽ là nguyên nhân dẫn đến các biến động xã hội và gây ra thù oán trong nhân dân; đôi khi làm sụp đổ cả ngôi vua.
Đối với người Công Giáo, thì trong lịch sử bắt đạo ở Việt Nam, cuộc bắt đạo dưới thời vua Minh Mệnh là nổi bật về thái độ thù ghét đạo Công Giáo hơn cả và là cuộc bắt đạo tàn bạo và rất khoa học
Trước thái độ suy tôn một Thiên Chúa của người Công Giáo và coi Vua chỉ ở bậc thứ nhì. Vua Minh Mệnh coi đạo Công Giáo do ngoại nhân đem vào là một xỉ nhục cho quốc gia, một tai họa cho dân chúng. Với vua Minh Mệnh, trong nước không thể có hai vua cũng như không thể có hai tôn giáo, đã có Nho Giáo rồi thì không thể có đạo Thiên Chúa thờ Chúa trời đất.
Dưới thời vua Minh Mạng ông cho xử tử rất nhiều giáo sĩ. Việc bắt và xử tử giáo sĩ đến thời vua Thiệu Trị có phần ít hơn, cho lãnh án “trảm giam hậu” (tội chết nhưng giam đợi xét), rồi cuối cùng cũng được trả tự do. Nhưng tới thời vua Tự Đức giáo sĩ lại bị xử tử bắt giam rất nhiều, nhất là trong giao đoạn Chiến tranh Pháp-Đại Nam.
Bản đồ truyền giáo vùng Thượng du Bắc Kỳ thuộc Giáo phận Tây Đàng Ngoài.
Đền thờ các Thánh tử đạo ở Sơn Tây.
Toàn cảnh thị trấn Hưng Hóa, thủ phủ của hội Truyền giáo vùng Thượng du Bắc Kỳ
Cuộc tử vì đạo của cha Pierre Lê Tùy tại Nghệ An ngày 11/10/1833.
Cuộc tử vì đạo của cha Marchand Du tại Huế ngày 30/11/1835.
Cuộc tử vì đạo của cha Marchand Du tại Huế ngày 30/11/1835.
Cuộc tử vì đạo của cha Jean-Charles Cornay Tân tại xứ Đoài (tức Sơn Tây) ngày 20/09/1837
Cuộc tử vì đạo của cha Jean-Charles Cornay Tân tại xứ Đoài (tức Sơn Tây) ngày 20/09/1837.
Cuộc tử vì đạo của cha François Xavier Nguyễn Cần ở Kẻ Chợ (tức Hà Nội) ngày 26/11/1837
.
Cuộc bắt bớ và giải thầy Pierre Nguyễn Khắc Tự, cha Vincent Nguyễn Thế Điểm và giám mục Pierre Dumoulin Borie Cao tới Quảng Bình ngày 27/07 và 31/07/1838.
Cuộc tử vì đạo của các ông Michel Nguyễn Huy Mĩ, Antoine Nguyễn Đích và cha Jacques Đỗ Mai Năm tại Nam Định ngày 12/08/1838.
Cuộc bắt bớ và giải thầy Jean-Baptiste Đinh Văn Thanh, thầy Pierre Nguyễn Văn Hiếu và cha Pierre Phạm Khắc Khoan tới Ninh Bình ngày 24/08/1838.
Cuộc tử vì đạo của giám mục Pierre Dumoulin-Borie Cao ngày 24/11/1838 tại Đồng Hới.
Cuộc tử vì đạo của giám mục Pierre Dumoulin-Borie Cao ngày 24/11/1838 tại Đồng Hới.
Pierre Dumoulin-Borie Cao (1808 – 1838)
Chiếc gông cùm thánh Pierre Dumоulin-Borie Cao, bị hành quyết tại Đồng Hới năm 1838, bày trong Phòng tưởng niệm những người tử vì đạo tại Hội Thừa sai Paris
Cuộc tử vì đạo của các cha Paul Nguyễn Văn Mĩ, Pierre Trương Văn Đường, và Pierre Vũ Văn Truật tại Sơn Tây ngày 18/10/1838
Cuộc tử vì đạo của các cha Paul Nguyễn Văn Mĩ, Pierre Trương Văn Đường, và Pierre Vũ Văn Truật tại Sơn Tây ngày 18/10/1838
Cuộc tử vì đạo của các cha Paul Phạm Khắc Khoan, Pierre Nguyễn Văn Hiếu và Jean-Baptiste Đinh Văn Thanh tại Vân Sàng – Ninh Bình ngày 28/04/1840
Cuộc tử vì đạo của ông Antoine Nguyễn Hữu Quỳnh và thầy Pierre Nguyễn Khắc Tự tại Quảng Bình ngày 10/07/1840
Cuộc tử vì đạo của cha Pierre Phạm Khanh tại Hà Tĩnh ngày 12/07/1842
Cuộc tử vì đạo của cha Augustin Schoeffler Đông tại Sơn Tây ngày 1/05/1851
Cuộc tử vì đạo của cha Jean-Louis Bonnard Hương tại Vĩnh Trị ngày 1/05/1852.
Thánh Gioan Hương (Jean Louis Bonnard) sinh năm 1824 tại Saint Christo en Jarez, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài. Bị xử trảm ngày 1/05/1852 tại Nam Ðịnh (khi 28 tuổi) dưới đời vua Tự Ðức. Được Giáo hoàng Lêô XIII phong Chân Phước ngày 27/05/1900 và được tuyên phong Hiển Thánh ngày 19/6/1988 bởi Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Lễ kính vào ngày 1/05.
Thánh Gioan Ven (Jean Théophane Vénard) sinh năm 1829 tại St. Loup-sur-Thouet, Pháp; linh mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài. Bị xử trảm ngày 2/02/1861 tại Ô Cầu Giấy (khi 32 tuổi) dưới đời vua Tự Ðức. Được Giáo hoàng Piô X phong Chân Phước ngày 2/05/1909 và được tuyên phong thánh ngày 19/6/1988 bởi Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Lễ kính vào ngày 2/02.
Ngôi nhà tại St Loup-sur-Thouet, nước Pháp, nơi thánh Théophane Vénard ra đời.
Trong 143 năm tồn tại của mình, nhà Nguyễn cũng như các vương triều trước đó đều coi ấn tín biểu thị cho quyền lực tối cao, là báu vật của quốc gia và tượng trưng cho đế quyền. Triều Nguyễn đã cho làm hơn 100 chiếc ấn báu, có rất nhiều loại ấn tín khác nhau từ hình dáng đến họa tiết, chất liệu… Rất nhiều trong số đó là những ấn tín độc đáo có một không hai.
1. Vua Minh Mạng và những chiếc ấn ngọc “tình cờ có được”
Điển hình nhất, có giá trị cao nhất là loại ấn tín của hoàng đế được gọi chung là “Kim ngọc Bảo tỷ”. Kim Ngọc Bảo tỷ là những ấn của nhà vua dùng trong trường hợp danh nghĩa quốc gia trọng đại hay được đóng trên các văn bản quan trọng. Những loại ấn này nếu được làm bằng ngọc gọi là “Ngọc tỷ”, được đúc bằng vàng gọi là “Kim Bảo tỷ”.
Vua Minh Mạng trong thời gian ở ngôi đã cho làm nhiều loại ấn tín bằng các chất liệu khác nhau với mục đích sử dụng cụ thể. Ngoài ra trong số ấn tín của vua lại có những chiếc ấn có được một cách tình cờ. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết vào năm Mậu Tý (1828) “có người ở Quảng Trị là Nguyễn Đăng Khoa, được viên ngọc tỷ đem vào dâng vua, trong có khắc bốn chữ: “Vạn thọ vô cương” bằng lối chữ triện.”
Ngọc tỷ khắc chữ “Vạn Thọ vô cương” của vua Minh Mạng. (Ảnh: Doanhdoanh)
Các quan đều tâu mừng rằng: “Đây là điềm đức Hoàng thượng thọ khảo và phúc quốc gia vô cương vậy!”. Nhà vua đem việc ấy mà dụ các quan rằng: “Khi trẫm mới lên ngôi, người ở Long triều đã từng dâng ngọc tỷ khắc bốn chữ: “Trung hòa vị dục”, nay lại được ngọc tỷ này, xem nghĩa bốn chữ ấy thì có lẽ là bảo vật của triều trước di truyền, để lâu ngày mờ ám nên chưa biết rõ”.
Về sau người ở Đông Trì, tỉnh Thừa Thiên là Hoàng Nghĩa Thắng đào được một ngọc tỷ đem dâng, trong có khắc bốn chữ nổi là: “Phong cương vạn thổ”.
Phong cương vạn cổ được làm bằng loại bích ngọc, quai núm vuông, 4 mặt vát hình thang chạm khắc 2 hàng hồi văn chữ S, 4 phía thành hình chữ nhật. (Ảnh: Internet)
Trên mặt núm vuông chạm hình rồng. Mặt ấn chạm 4 chữ Triện: Phong cương vạn cổ. Ấn này không thấy ghi chép trong sách vở nào nhưng rất cổ kính và độc đáo.
Sách Quốc sử di biên cũng cho biết như sau: “Lấy được ấn ngọc ở Quảng Bình. Tôn Thất Sưởng bắt được ở xã Nhan Biều, trấn Quảng Bình, ấn có bốn chữ “Vạn thọ vô cương”. Chiếu cho dùng ấn ngọc này đóng vào tờ ấn chiếu tiết Vạn Thọ. Trước có 6 ấn ngọc như “Quốc gia tín bảo”, “Trị lịch minh thời”.v.v…, đến đây, tăng thêm 6 ấn ngọc nữa là “Hoàng đế chi tỷ”, “Tôn nhân chi tỷ”, “Khâm văn”, “Duệ vũ”, “Sắc chánh vạn dân” và “Thảo tội an dân”, cộng với 6 ấn cũ thành 12 ấn ngọc, đều tùy việc mà dùng”.
2. Chiếc ấn báu của vua Thiệu Trị được làm từ một viên ngọc cực quý hiếm
Theo sử sách ghi lại, vào năm Bính Ngọ niên hiệu Thiệu Trị thứ 6 (1846) có người dân trong khi tìm vàng và đá quý ở núi Ngọc, huyện Hòa Điền, vùng đất Quảng Nam đã đào được một viên ngọc cực lớn, ánh sắc rực rỡ vô cùng bèn dâng vua. Thấy đây là viên ngọc quý hiếm, vua Thiệu Trị rất mừng cho là điềm may mắn liền sai quan Hữu tư mang đi mài dũa, chế tác làm thành quả ấn.
Ấn ngọc “Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ”. (Ảnh: Internet)
Sau thời gian một năm trời bỏ công sức, trổ hết tài năng, thợ khắc đã chế tác xong chiếc ấn dâng lên, vua Thiệu Trị xem thấy ngọc tỉ cứng rắn, đẹp đẽ, ôn nhuận sáng sủa, trên núm ấn là hình rồng uốn khúc, cao hơn 4 tấc, mặt hình dấu khắc theo hình vuông, kích thước 3,1×3,1cm. Nhà vua cũng quyết định chọn thời điểm đẹp, ngày tốt là ngày 15 tháng 3 năm Đinh Mùi (1847), tổ chức việc khắc chữ triện vào Ngọc tỉ đúng theo nghi lễ.
Hôm đó vua Thiệu Trị đích thân làm lễ Đại tự, thỉnh mệnh trời đất, kính yết Tổ khảo giúp vận nước lâu dài, và khắc lên mặt ấn ngọc 9 chữ Triện: “Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỉ” (Ngọc Tỷ truyền quốc của nước Đại Nam, nhận mệnh lâu dài từ trời). Nghi lễ xong xuôi, vua lệnh cho các cung giám phụng mang cất giữ cẩn thận ở điện Trung Hòa trong Càn Thành.
Với bảo ấn đó, vua Thiệu Trị cho dùng đóng trên những bản sắc mệnh ban cho các nước chư hầu, những việc ban bố cho thiên hạ và nó được coi trọng bảo vệ như Kim bảo “Nam Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn tri bảo” được đúc theo lệnh của chúa của Minh Vương Nguyễn Phúc Chu và truyền lại sử dụng trong thời gian cầm quyền của các chúa Nguyễn sau đó.
(Ảnh: Internet)
3. Vua Đồng Khánh và chiếc ấn làm từ “thiên thạch”
Để tỏ ý thân thiện hữu hảo với vua Đồng Khánh, chính phủ Pháp một món quà rất đặc biệt. “Đối với một vị con Trời như vua Đồng Khánh, không gì hay hơn là nên tặng vua một bảo vật đến từ trời. Vậy, tôi xin yêu cầu chính phủ xứ ta hãy cố tìm cho ra một thiên thạch, sau đó hãy khắc và tiện nó ra thành một cái ấn qúy”, Stanislas Meunier – nhà địa chất học, khoáng vật học, nhà báo khoa học- đã cố vấn cho Tổng thống Pháp và nhận trọng trách đi tìm báu vật.
Viên thiên thạch ‘trong mơ’ ấy cuối cùng cũng đã được tìm thấy tại thành phố Vienne – Áo. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Stanislas Meunier đã phải khắp các nơi để tìm một thiên thạch vừa ý, cuối cùng, tại thành phố Vienne (Áo), ông mới mua được một khối đá đã rơi xuống trái đất vào ngày 30/1/1868 tại Pultusk (Ba Lan). Thiên thạch này không bị nứt nẻ, có dáng đẹp mắt, kích thước thích hợp. Ông mừng quá và mang về giao cho thợ kim hoàn chế tạo. Mặt ấn bằng vàng ròng, có khắc chữ: “Le gouvernement de la République Française à S. M. Dong-Khanh, roi d’Annam” (Chính phủ cộng hoà Pháp tặng vua Đồng Khánh, quốc vương xứ An Nam).
Chiếc ấn của chính phủ Pháp tặng vua Đồng Khánh và mặt ấn. (Ảnh: Sachxua)
Theo sách “Đồng Khánh chính yếu”, món quà này được gửi tới vua Đồng Khánh vào tháng 12 năm Đinh Hợi (1887). Khi nhận được chiếc ấn ngọc được gọi là Kim tinh hắc hỏa, vua đã viết thư cảm ơn chính phủ Pháp sau đó ban hành tờ cáo dụ cho toàn dân được biết.
4. Chiếc ấn báu nặng nhất thuộc về vị vua cuối cùng Bảo Đại – 10,7kg
Chiếc ấn quan trọng nhất, biểu tượng cho hoàng đế là ấn Hoàng đế chi bảo. Chiếc bảo ấn lớn và đẹp nhất Triều Nguyễn này được đúc bằng vàng ròng vào mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ tư (15-3-1823). Căn cứ theo ảnh tư liệu có được, TS. Phan Thanh Hải – Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, mô tả bảo ấn này như sau:
Ấn Hoàng Đế chi bảo nặng nhất (10,7kg vàng) hiện đang ở tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. (Ảnh: Internet)
“… Ấn đúc hình vuông, quai ấn là một con rồng uốn khúc, đầu ngẩng cao, mắt nhìn thẳng về phía trước. Đỉnh đầu rồng khắc hình chữ vương; kỳ (vây lưng) dựng đứng; đuôi cũng dựng đứng, vây đuôi uốn cong về phía trước; 4 chân rồng đúc rõ 5 móng, tư thế chống chân xuống mặt ấn rất vững vàng. Mặt dưới của ấn khắc 4 chữ triện Hoàng đế chi bảo. Mặt trên của ấn, phía 2 bên quai khắc nổi 2 dòng chữ: Minh Mạng tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo (đúc vào giờ tốt mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4); Thập thành hoàng kim, trọng nhị bách thập lạng cửu tiền nhị phân (đúc bằng vàng, trọng lượng 280 lạng 9 chỉ 2 phân – Nếu tính 27 lạng tương đương 1kg thì chiếc ấn này nặng khoảng 10,7kg)”.
Theo quy định của Triều Nguyễn, ấn Hoàng đế chi bảo chỉ dùng khi “…gặp khánh tiết ban ơn, đại xá thiên hạ cũng là các cáo dụ thân huân, đi tuần thú các nơi để xem xét các địa phương, mọi điển lễ long trọng ấy, và ban sắc, thư cho ngoại quốc”.
Kim Ngọc Bảo Tỷ “Sắc mệnh chi bảo” thời vua Minh Mạng (Ảnh chụp lại từ sách “Kim Ngọc Bảo Tỷ của hoàng đế và vương hậu triều Nguyễn Việt Nam”).
Thời xưa trang phục thường được phân loại theo cách cắt của cổ áo thành ba dạng: đối lĩnh (tức giao lĩnh), trực lĩnh và bàn lĩnh.
Đối lĩnh (trái), Trực lĩnh (giữa) và Bàn lĩnh (phải). Trích từ ‘Trung Quốc cổ đại nhân vật phục thức dữ họa pháp’.
– Đối lĩnh, hay giao lĩnh, có cổ cắt vạt chéo cài sang bên phải. Đây là lễ phục trang trọng nhất trong các lễ phục cổ truyền, được mặc trong các lễ tế. Cao cấp hơn cả của loại này là áo cổn ở trong cung, may bằng đoạn thất thể rất quý hiếm, thường được vua, quan mặc trong lễ tế Giao. Tay áo giao lĩnh cắt thụng, khi buông xuống dài bằng gấu áo. Các nước Đồng văn trọng Khổng giáo ở Á châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều có áo này. Dưới thời Nguyễn ở Việt Nam phụ nữ không mặc giao lĩnh. Hiện nay trong nhiều lễ tế đình ở các làng, xã, người mình vẫn mặc áo giao lĩnh.
– Trực lĩnh, tức là áo có vạt xẻ dọc ở giữa thân trước. Lễ phục trực lĩnh trong cung thời nguyễn dành riêng cho các bà và gọi là áo mệnh phụ. Áo này không được vua quan, nam phái trong triều đình Việt Nam xử dụng. Trong khi đó các nam đạo sĩ Lão giáo bên Trung Quốc lại có mặc áo được cắt y hệt như áo mệnh phụ của phụ nữ Việt. Áo nhật bình của các sư sãi trong nước cũng thuộc dạng trực lĩnh. Lễ phục trực lĩnh cũng may rộng, xẻ bên, và có tay cắt thụng dài bằng gấu. Áo được xẻ vạt bên hông.
– Bàn lĩnh, tức áo cắt cổ tròn, có hay không có cổ đứng đính liền, vạt cài sang phải. Lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ở nước ta trước đây. Ở trong cung áo này được cả nam lẫn nữ phái xử dụng dưới dạng long bào, phượng bào của vua, hoàng thái hậu, hoàng quý phi; và mãng bào của thân vương, hoàng tử và các quan. Các áo bào này được may bằng gấm thất thể hay ngũ thể quý hiếm, và có cổ tròn không đính cổ đứng. Áo rất rộng, xẻ bên. Tay cắt thụng dài bằng gấu áo. Áo được mặc trong các lễ đại triều, triều yến.
Nhưng lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ngày xưa của người Việt, cả ở trong cung lẫn ngoài phố, là bàn lĩnh có cổ đứng, gọi là áo Tấc. Áo cũng cắt rộng, xẻ bên, với tay thụng dài bằng gấu, cài khuy bên phải như áo dài. Áo Tấc rất thông dụng, được mặc trong các lễ yết miếu, từ đường, việc hỷ, cũng như các việc thăm viếng quan trọng.
Áo Tấc
Sử sách cận đại của Nguyễn triều ít khi đề cập đến triều phục của quan lại. Thảng hoặc mới có nhắc đến một vài đạo dụ liên quan đến vấn đề này. Thí dụ như dụ năm 1886 của vua Đồng Khánh, hay các đạo dụ 1920 và 1921 của vua Khải Định. Các đạo dụ này thật ra có chủ ý khiển trách các sự cẩu thả trong việc xử dụng triều phục, cũng như tiếm lạm trong mầu sắc trang phục của các quan thời bấy giờ. Thí dụ như thường dân dám mặc áo mầu chính hoàng. Rồi việc quan cấp dưới dám tiếm dụng sắc áo của hoàng tử, hoàng thân. Hay về việc vì công quỹ không đủ để tiếp tục cấp nhung phục cho các quan với các sắc mầu và hoa văn đúng theo lệ cổ, cho nên phải thay bằng các áo tứ linh mầu xanh lá cây cho văn ban và mầu huyền cho võ ban từ chánh nhị phẩm đến tòng tam phẩm (thực ra hai sắc vải này có vẻ đã được dùng để may áo chầu nhiều hơn là may nhung phục).
Nhưng điều quan trọng là qua các đạo dụ này người ta biết thêm một loại lễ phục nữa trong triều đình, bên cạnh các áo lễ tay rộng (phổ phục) vẫn phổ biến như áo cổn, áo chầu. Đó là nhung phục. Nhung phục cũng được may rộng như phổ phục, với cùng loại vải, hoa văn và mầu sắc với áo chầu của người mặc. Nhưng nhung y có tay áo cắt chẽn như tay áo dài. Nói cách khác, nhung y là áo tấc tay hẹp.
Áo cổn thuộc dạng giao lĩnh là loại lễ phục cao quý nhất, chỉ dùng trong lễ tế giao. Áo đại triều, hay áo chầu, được mặc trong các dịp đại triều nghi vào các ngày 1 và 15 âm lịch tại điện Thái Hòa. Áo thường triều được xử dụng khi chầu vua trong các ngày 5, 10, 20 và 25 mỗi tháng tại điện Cần Chánh. Nhung phục được ban cho các ấn quan để mặc khi thù tiếp các quý quan (quan Tây), hoặc khi chầu vua ở điện Văn Minh.
Nhung y tòng nhất phẩm võ ban.
Loại nhung phục cao quý nhất là những áo được vua ngự tứ đặc biệt cho các công thần, được lấy ra từ kho ngự dụng của nhà vua. Áo này thường được trang trí theo dạng cửu long, mà trên thực tế là các con phi giao hay còn được vua Khải Định gọi là rồng bay ngang.
Nhung y ngự tứ.
Một loại áo chiến tay chẽn nữa, với hai đầu tay được may đáp miếng vải gọi là mã quải, được mặc khi dự lễ ngoài trời như duyệt binh hay tịch điền. Loại áo này khi vua mặc gọi là long trấn. Còn của thân vương, hoàng tử hay các quan thì gọi là mãng lan.
Mãng lan tòng nhị phẩm
Điều quan trọng nhất khi khảo về trang phục của quan lại triều Nguyễn là việc phân biệt cấp bậc và ban hệ theo mầu sắc và hoa văn của áo.
Trong tập Bulletin des Amis du Vieux Huế (tháng 7-9 năm 1916), cụ Nguyễn Đôn có viết rõ về mầu sắc của từng cấp bậc triều phục dựa theo lệ vào năm Thiệu Trị ngũ niên (1845). Theo tài liệu này thì mầu sắc áo chầu, tức áo đại triều, của các quan được định rõ như sau:
Chánh nhất phẩm: Vải đoạn bát ti mầu cổ đồng (古銅), tiếng Pháp là vieux cuivre; dệt hoa văn ngũ thể (năm mầu) cộng thêm chỉ kim tuyến. Vải đoạn tức là satin gấm. Tất cả các loại vải từ đây trở xuống đều dệt bằng tơ tằm.
Áo chầu chánh nhất phẩm văn ban mầu cổ đồng
Áo cổn chánh nhất phẩm võ ban
Tòng nhất phẩm: Vải đoạn bát ti mầu thiên thanh (天青), tiếng Pháp là pourpre sombre (tím đậm, hay mầu tương); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.
Áo chầu tòng nhất phẩm võ ban mầu thiên thanh
Chánh nhị phẩm: Vải đoạn bát ti mầu cam bích (紺碧), tiếng Pháp là poupre rougeat(tím đỏ); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.
Áo chầu chánh nhị phẩm văn ban mầu cam bích
Tòng nhị phẩm: Vải đoạn bát ti mầu quan lục (官綠), tiếng Pháp là verte (xanh lục); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.
Áo chầu tòng nhị phẩm võ ban mầu quan lục
Chánh tam phẩm: Đoạn bát ti mầu bửu lam (寶藍), tiếng Pháp là bleu foncé (lam đậm); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.
Áo chầu chánh tam phẩm võ ban mầu bửu lam
Tòng tam phẩm: Đoạn bát ti mầu ngọc lam (玉藍), tiếng Pháp là bleu de jade (xanh ngọc bích); dệt hoa văn ngũ thể viền kim tuyến.
Áo chầu tòng tam phẩm văn ban mầu ngọc lam
Hai cấp tứ phẩm và ngũ phẩm cả văn lẫn võ ban đều mặc áo chầu may bằng vải trừu (lụa), dệt hoa văn tròn toàn hoa (trong sách viết nhầm là viên giao) mầu ngũ thể với kim tuyến. Áo tứ phẩm mầu quan lục. Áo ngũ phẩm mầu bửu lam. Phân biệt văn võ bằng mão đội đầu.
Hoa bào của chánh, tòng ngũ phẩm
Chánh và tòng lục phẩm mặc áo bào may bằng loại lụa dệt hoa văn đơn sắc gọi là quang tố trừu, mầu ngọc lam. Nhưng thật ra cho đến thời điểm 1916, sắc áo đại triều của cấp bậc chánh tòng lục phẩm là quan lục. Từ cấp bực này trở xuống ở lễ đại triều phải đeo bổ tử.
Áo chầu lục phẩm với bổ tử thêu con bạch nhàn (gà lôi trắng)
Theo sách Khâm định Đại nam hội điển sự lệ thì mầu sắc và chất liệu áo chầu của chánh thất phẩm cũng giống như của lục phẩm, chỉ khác nhau ở bổ tử. Nhưng trên thực tế thì từ trước thời Khải Định các quan từ chánh thất phẩm trở xuống đến cửu phẩm đã không còn được cấp áo đại triều nữa. Tất cả đều chỉ mặc áo giao lĩnh thường triều may bằng vải sa đoạn với bổ tử các cấp.
Cũng theo Khâm định Đại nam hội điển sự lệ thì áo rộng giao lĩnh thường triều được may bằng vải sa đoạn (sa Bắc), với các mầu lam, lục hay hắc; với cổ mầu bạch tuyết. Nhưng trên thực tế thì áo thường triều của tất cả các quan từ nhất phẩm đến cửu phẩm đều may bằng vải sa đoạn mầu lam. Cấp bậc được phân biệt qua nội dung bổ tử.
Áo thường triều
Một vài mẫu bổ tử thời cuối Nguyễn triều:
Bổ tử trên quan phục Văn nhất và nhị phẩm (Tiên Hạc), mẫu Huế [trái] và trên quan phục Văn cửu phẩm (liêu thuần-đa đa) mẫu Bắc[phải]
Bổ tử trên quan phục Võ thất phẩm (bưu, tức hổ nhỏ) mẫu Huế [trái] và Võ tứ phẩm (hổ) mẫu Bắc [phải]
Sự khác biệt hoa văn giữa văn và võ ban không thấy chỉ rõ trong tài liệu này. Và cũng không được nhắc đến trong bộ Khâm định Đại nam hội điển sự lệ hay bất cứ một tài liệu nào khác. Nhưng trong bài viết về lễ Nguyên Đán trong cung năm Bính Tuất (1886) thời Đồng Khánh, bác sĩ người Pháp là Hocquart có nhắc đến việc quan văn mặc áo chầu có chim phượng và quan võ mặc áo có trang trí mặt tròn (medaillon). Có lẽ vì từ xa nhìn loáng thoáng không rõ cho nên khi các quan văn đứng chầu với hai tay chắp trước ngực, con phượng trên tay áo rộng được thấy rõ nhất và che phủ các chi tiết khác của áo tứ linh.
Tượng quan văn đội mão đỉnh tròn với hoa văn tứ linh trên áo
Tượng quan văn đội mão đỉnh tròn với hoa văn tứ linh trên áo
Nhưng rõ nhất là chi tiết thấy được trên những tượng quan hầu ở các tôn lăng. Các tượng quan văn đội mão viên phác đầu (đỉnh tròn) đều mặc áo chầu tứ linh. Trong khi các tượng quan võ đội mão phương phác đầu (đỉnh vuông) trên áo có hoa văn ổ tròn.
Nhà sưu tầm cổ vật Vũ Kim Lộc ở Sài Gòn vốn xuất thân từ nghề kim hoàn. Vì thế, những món đồ cổ bằng vàng, bạc và đá quý… luôn được anh quan tâm sưu tầm và nghiên cứu. Anh đã từng sưu tập được những cổ vật Champa, cổ vật Óc Eo hay cổ vật triều Nguyễn… bằng vàng, xứng đáng liệt hạng quốc bảo. Nhưng có lần anh nói với tôi: “Cổ vật bằng quý kim của Champa, Óc Eo hay của các triều đại phong kiến Việt Nam tôi gặp khá nhiều, nhưng tôi chưa bao giờ được cầm trên tay một món đồ vàng thời chúa Nguyễn. Trong khi, nghề kim hoàn lại là một thành tựu nổi bật của nền thủ công truyền thống thời chúa Nguyễn”.
* Vàng và nghề kim hoàn thời chúa Nguyễn
Đàng Trong vốn là “vùng đất của vàng”, nơi mà các tiền nhân Champa, Óc Eo… đã tạo nên biết bao kiệt tác nghệ thuật bằng quý kim vẫn còn lưu truyền cho đến đời nay. Vì thế, các chúa Nguyễn đã thực thi những chính sách để phát triển nghề khai thác vàng và nghề kim hoàn. Theo sách Phủ biên tạp lục do Lê Quý Đôn biên soạn vào năm 1776, thì các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã cấp phát lương thực, tiền công cho người dân để khuyến khích họ đi tìm vàng, khai thác vàng cho nhà nước. Các chúa cũng không hạn chế người dân buôn vàng và tự túc khai thác vàng, mà chỉ thu thuế và tạo điều kiện cho họ được kinh doanh và khai thác. Nhà nước cũng lập các đội tìm vàng chuyên nghiệp, giao cho các tướng lĩnh phụ trách. Không chỉ tìm vàng ở các vùng mỏ trong đất liền, các chúa Nguyễn còn lập đội Hoàng Sa, phái người đi đến các vùng biển đảo như Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa để thu nhặt vàng bạc, hàng hóa từ các tàu thuyền của nước ngoài bị đắm trong các vùng biển này. Triều đình nhà chúa còn lập 3 cơ quan gồm: Nội lệnh sử ty chuyên đi thâu nhận vàng, Ngân tượng ty chuyên việc tinh luyện vàng bạc và Nội kim tượng cục chuyên chế tác vàng thành phẩm và làm đồ trang sức để phục vụ cho nội cung và xuất khẩu. Theo các nguồn sử liệu viết về thời kỳ này, thì vào năm 1634, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho xuất khẩu sang Nhật Bản 50 cái bát và 50 cái đĩa, một nửa làm bằng vàng và một nửa làm bằng bạc. Cuốn hồi ký Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, một nhà sư người Trung Hoa có mặt ở Đàng Trong dưới triều chúa Nguyễn Phúc Chu, chép rằng các chúa Nguyễn dùng toàn đồ làm bằng vàng và bạc, chế tác rất công phu, còn các hạng người sang trọng thì mũ mão và yên cương ngựa của họ đều được trang sức bằng vàng bạc. Đàn bà con gái đều mặc hàng tơ lụa, cổ áo thêu hoa, coi vàng bạc như cát, lúa thóc như bùn.
* Bộ trang sức của một vương phi thời chúa Nguyễn
Một ngày, tôi vào Sài Gòn, ghé nhà Vũ Kim Lộc, anh khoe với tôi bộ ảnh chụp những món trang sức bằng vàng và bảo: “Đây là những cổ vật bằng vàng đầu tiên của thời chúa Nguyễn mà tôi tận mắt chứng kiến. Theo tôi, đây là trang sức của một bà phi đời chúa Nguyễn Phúc Khoát”.
Bộ trang sức gồm một cái bác sơn bằng vàng để gắn trên chiếc mũ của các bậc vua chúa; 12 chiếc trâm hoa; 1 chiếc trâm phượng và 2 chiếc vòng tay, đều làm bằng vàng, gắn đá quý. Tất cả đều rất tinh xảo và sang trọng.
Bác sơn là một dải trang sức, thường làm bằng quý kim, được chạm trổ công phu, trang trí cầu kỳ, để gắn lên mũ của vua, hoàng hậu, quan lại, quý tộc thời xưa. Chiếc bác sơn này dài 18,5 cm, nặng 42 g, được làm từ một miếng vàng mỏng, chạm lộng hình tản vân và văn thủy ba, làm nền cho các đồ án trang trí đính kèm gồm 3 hình chim phượng và 3 cụm hoa lá. Nhìn vào bố cục trang trí của các đồ án đính kèm, có thể nhận thấy số cụm hoa lá lẽ ra phải là 4, nhưng có lẽ cụm hoa lá ở ngoài cùng bên phải bác sơn đã bị thất lạc. Trên bác sơn còn có một hàng lỗ nhỏ, là nơi đã từng gắn các viên đá quý hoặc trân châu nhưng đã bị mất. Vì đồ án trang trí chủ đạo trên bác sơn là hình chim phượng, nên theo điển chế ngày xưa, thì đây là bác sơn trên chiếc mũ của hoàng hậu, vương phi.
Bác sơn bằng vàng trang trí trên mũ vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
Hình chim phượng bằng vàng gắn trên bác sơn. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
Bộ trâm hoa gồm 12 chiếc, dài từ 9,4 cm đến 12 cm, tạo dáng như những cánh hoa. Phần đầu của những chiếc trâm là những cụm hoa lá bằng vàng, được tô điểm bởi những viên đá quý màu ngọc bích. Có 4 loài hoa được thể hiện trên bộ trâm, trong đó có hai loài hoa được nhận diện là hoa mai và hoa cúc. Phần chuôi để cài vào mái tóc của 12 chiếc trâm hoa này được làm bằng bạc.
Chiếc trâm hoa mai của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
Chiếc trâm hoa cúc của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
Chiếc trâm phượng hoàn toàn làm bằng vàng, dài 14,25 cm, nặng 15 g. Phần đầu trâm thể hiện hình chim phượng đang ngậm chiếc lồng đèn rất tinh xảo. Thân chiếc trâm cũng chính là thân và đuôi của chim phượng, được tạo thành hai nhánh và hơi cong xuống ở phần đuôi. Đầu chim phượng được thể hiện rất sắc sảo, với mỏ quặp, mắt và đuôi mắt dài, có bờm ở trên đầu, dưới cằm và sau cổ. Mỏ chim phượng ngậm chiếc lồng đèn có tán che bên trên, khánh treo bên dưới và những chùm hoa văn treo xung quanh.
Chiếc trâm phượng bằng vàng của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
Bộ vòng tay gồm 2 chiếc, một chiếc có đường kính 6,18 cm, nặng 20,17 g, chiếc kia có đường kính 6,41 cm, nặng 20,36 g. Tất cả đều làm bằng vàng. Thân vòng đúc rỗng, mặt ngoài có 16 lỗ tròn, nổi trên nền hoa văn hình cánh hoa liên hoàn. Những lỗ tròn này là nơi gắn các viên đá quý nhằm tăng thêm giá trị của chiếc vòng. Phần khóa của chiếc vòng là một đồ án trang trí hình hai con rồng chầu một hạt châu (hay hạt đá quý) nay đã bị thất lạc.
Vòng tay bằng vàng của vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
Đồ án lưỡng long trên vòng tay vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
Hạt pha lê khảm trên vòng tay vương phi. Ảnh: Vũ Kim Lộc.
Bộ trang sức này được tạo tác một cách công phu với kỹ thuật điêu luyện chứng tỏ trình độ tay nghề của nghệ nhân chế tác món đồ này thuộc vào hạng thượng thừa. Đối chiếu các kiểu thức trang trí có trên bộ trang sức này với những miêu tả trong các nguồn sử liệu viết về mỹ thuật và thủ công mỹ nghệ thời chúa Nguyễn, đồng thời so sánh với những kiểu thức trang trí trên Đại hồng chung chùa Thiên Mụ (do chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc năm 1715), trên trán bia mộ của bà Chiêu phi họ Nguyễn (một vương phi thời chúa Nguyễn) ở Quảng Trị) và trên trán bia mộ bà Chiêu Nghi Trần Thị Xạ (vợ chúa Nguyễn Phúc Khoát) ở Huế, tôi đồng tình với ý kiến của Vũ Kim Lộc rằng đây là bộ trang sức của một vương phi thời chúa Nguyễn.
Đồ án chim phượng trang trí trên Đại hồng chung chùa Thiên Mụ, đúc năm 1715. Ảnh. Trần Đức Anh Sơn.
Đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia Nguyễn Chiêu phi. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.
Bản dập đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia mộ Nguyễn Chiêu phi. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.
Đồ án chim phượng chầu mặt trời trên trán bia mộ Chiêu Nghi Trần Thị Xạ. Thác bản của Nguyễn Phước Bảo Đàn.
Và đây cũng là bộ bảo vật đầy đủ nhất và quý hiếm nhất của thời chúa Nguyễn mà giới nghiên cứu và sưu tầm cổ vật Việt Nam từng biết đến từ trước tới nay.
Hình ảnh các vị vua, hoàng hậu, hoàng tử… triều Nguyễn trên các bức ảnh chụp vào đầu thế kỷ XX thường được thể hiện trong trang phục triều hội, với các “phụ kiện” như cân đai, hia, mão và các món trang sức bằng vàng, ngọc và đá quý rất độc đáo. Tùy theo chất liệu và hình dáng, những món trang sức này được gọi là kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội. Đó không phải là thứ trang sức thông thường của vua chúa, quý tộc hay đình thần, mà là những phục trang thể hiện danh phận, quyền uy và vinh hạnh của người phục sức. Đó còn là những kỷ vật ghi nhận công trạng hay sự ân thưởng của nhà vua đối với những người có công lao với quốc gia và triều đình.
Kim bài là những chiếc thẻ bài làm bằng vàng hình chữ nhật (8,5cm x 5cm), phía trên tạo hình tựa chiếc khánh, có lỗ để xâu dây đeo. Dưới triều Gia Long (1802 – 1820), triều đình cấp cho các quan trong Cơ Mật viện những chiếc thẻ bài bằng bạc (ngân bài) như một thứ “giấy thông hành” để họ ra vào Đại Nội. Đến năm 1834, vua Minh Mạng (1820 – 1841) bắt đầu cấp các thẻ bài bằng vàng (kim bài) có khắc 4 chữ Hán Cơ Mật đại thần thay cho các ngân bài được cấp trước đây. Với các chức quan không thuộc Cơ Mật viện, thì tùy theo chức tước và phẩm hàm, thẻ bài cấp cho họ có thể làm bằng vàng, bằng bạc mạ vàng hay bằng bạc.
Kim bài quý nhất là của nhà vua, có khắc dòng chữ Hán Thái bình thiên tử trên nền hoa văn “lưỡng long” và có gắn 10 viên kim cương, bên ngoài có 3 đường viền kết bằng ngọc trai. Ngoài ra, nhà vua còn có kim bài khắc dòng chữ Hán Đại bang duy bình và có gắn 10 viên hồng ngọc.
Kim khánh cũng được làm bằng vàng, được vua ban cho các tướng lĩnh, quan lại cao cấp vì những công lao của họ đối với triều đại và đất nước. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, kim khánh chỉ được thưởng cho các thành viên hoàng gia và các quan lại có điện hàm đại học sĩ (Tứ trụ).
Từ năm 1873 trở đi, vua Tự Đức (1848 – 1883) còn ban thưởng kim khánh cho các quan chức cao cấp người Pháp ở Đông Dương để tỏ tình giao hảo. Từ triều Hàm Nghi (1884 – 1885) trở về trước, kim khánh chỉ có 2 hạng: đại hạng kim khánh (kim khánh hạng lớn) và kim khánh (kim khánh hạng thường), đều làm bằng vàng 8,5 tuổi nhưng khác nhau về kích thước, trọng lượng và hoa văn trang trí. Sang triều Đồng Khánh (1885 – 1889), kim khánh được phân thành 4 hạng: đại (hạng lớn), trung (hạng vừa), thứ (hạng dưới trung bình) và tiểu (hạng nhỏ). Đến năm 1900, vua Thành Thái (1889 – 1907) quy định kim khánh chỉ có 3 hạng, đều khắc dòng chữ Hán Thành Thái sắc tứ ở mặt trước, nhưng mặt sau thì phân biệt bởi các dòng chữ Hán: Báo nghĩa thù huân (hạng nhất), Gia thiện sinh năng (hạng hai) và Lao năng khả tưởng (hạng ba). Mỗi kim khánh đều có một chùm tua kết bằng các hạt ngọc trai, mã não và cườm nhiều màu nhập từ Ấn Độ. Đặc biệt, kim khánh của triều Khải Định (1916 – 1925) thường có các chữ Hán Khải Định ân tứ hoặc Ân tứ khắc chìm và được khảm ngọc trai trong lòng chữ. Những kim khánh này được đựng trong những chiếc hộp bằng bạc, chính giữa khắc 4 chữ Hán Khải Định niên tạo và có chữ ký nghệ nhân chế tác kim khánh khắc ở phía dưới. Riêng những kim khánh vua ban cho phái nữ thì các hoa văn hình rồng được thay thế bằng hình chim phụng.
Kim bội là vật trang sức hoàng gia, chỉ xuất hiện từ năm 1889 trở đi. Kim là vàng, bội là đeo, treo. Kim bội là (vật bằng) vàng để treo, đeo. Kim bội dáng hình thuẫn hoặc hình chữ nhật cách điệu ở 4 góc. Một mặt của kim bội khắc các dòng chữ Hán ghi niên hiệu của vua như: Thành Thái niên tạo, Duy Tân niên tạo…, mặt kia khắc dòng chữ Hán Quỳnh diêu vĩnh hảo. Lúc đầu, vua Thành Thái cho đúc kim bội để thưởng cho những người có công, nhưng về sau kim bội chỉ được ban tặng cho phụ nữ, chủ yếu là các công chúa, để làm vật trang sức và thể hiện danh phận của họ. Do vậy nên dòng chữ Hán Quỳnh diêu vĩnh hảo trên kim bội được thay bằng các dòng chữ Hán: Hoàng trưởng nữ công chúa, Hoàng thứ nữ công chúa, hay Hoàng thứ nữ. Hoa văn trang trí trên kim bội thường là thuộc đề tài hoa thảo hay các dạng hồi văn chữ Thọ, chữ Công liên hoàn.
Ngọc bội có hình dáng tương tự kim khánh nhưng được làm bằng ngọc quý, chủ yếu là bằng cẩm thạch. Một mặt của ngọc bội khắc chìm dòng chữ Hán thếp vàng Thụ thiên vĩnh mệnh, mặt kia khắc niên hiệu của vị vua đang tại vị như Thiệu Trị trân bửu, Khải Định trân bửu… Thời Nguyễn sơ, ngọc bội được coi là hàm tước danh dự hay quan huy và được ban thưởng cho cả nam lẫn nữ. Từ triều Khải Định trở đi, ngọc bội chỉ còn là một thứ trang sức biểu trưng cho vương gia và quyền quý.
Việc chế tác kim bài, kim khánh, kim bội, ngọc bội dưới thời Nguyễn do Kim ngân tượng cục thực hiện. Kim ngân tượng cục là quan xưởng do vua Minh Mạng cho lập vào năm 1834 đặt dưới sự cai quản của Sở Nội tạo. Đây là nơi tập trung những người thợ kim hoàn giỏi nhất trong nước, chuyên chế tác các vật dụng bằng vàng, bạc và đá quý để phục vụ cho nhu cầu của hoàng gia và triều đình. Ngoài Kim ngân tượng cục, triều Nguyễn còn cho mở thêm hai tượng cục khác để chế tác các vật dụng có liên quan đến vàng bạc. Đó là Kim mạo tượng ty chuyên chế tạo mũ mão bằng vàng cho vua và hoàng gia và Kim tương tượng ty chuyên chế tạo các vật phẩm có thếp vàng.
Vua, hoàng gia và đình thần thường đeo kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội trong các dịp quốc lễ, triều hội hay trong những dịp nghinh tiếp quốc khách. Cùng với các bộ triều phục lộng lẫy, những kim bài, kim khánh, kim bội, ngọc bội… của triều Nguyễn là những trang sức không thể thiếu trong trang phục cung đình Huế. Những trang sức ấy đã góp phần tạo dựng nét uy phong và quyền quý của một lớp người từng nắm giữ quyền lực ở Việt Nam một thuở. Để rồi giờ đây, khi buổi hoàng kim của triều Nguyễn đã trở thành quá vãng, những món trang sức ấy lại trở thành những cổ vật vô giá và là niềm mơ ước của những nhà sưu tập có tinh thần hoài cổ.
Trong những di sản văn hóa do triều Nguyễn để lại, có một loại cổ vật có giá trị lịch sử, mỹ thuật và văn hóa rất cao, được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau, nhưng được gọi chung bằng một cái tên là thẻ bài. Đây là tên dùng để gọi một nhóm vật dụng, chữ Hán tự ghi là bài, nghĩa là “cái bảng, mảnh ván đề chữ làm dấu hiệu để yết thị; chiếc thẻ dùng để làm tin”. Từ tên chung là thẻ bài, tùy theo chất liệu làm nên chiếc thẻ mà có sự phân biệt là: kim bài (bài bằng vàng), ngân bài (bài bằng bạc), mộc bài (bài bằng gỗ), thạch bài (bài bằng đá)…; hay tùy theo công năng của từng chiếc thẻ mà gọi là: bội bài (bài để đeo), tín bài (bài làm tín vật), lệnh bài (bài giao việc)…
Những thẻ bài này là vật dụng đặc biệt, dùng để ghi công hay để phân biệt danh tính, phẩm hàm, địa vị, chức phận của các hạng quý tộc, quan binh thời Nguyễn. Theo khảo cứu của Đặng Ngọc Oánh trong bài Les distintions honorifiques annamites (B.A.V.H. No.4/1915) và của L. Sogny trong bài Les plaquettes des dignitaires et des mandarins à la Cour d’Annam (B.A.V.H. No.3/1926), thẻ bài gồm hai loại: một loại là những huân chương, huy chương để tưởng thưởng công trạng hay huy chương danh dự của triều đình ban tặng cho các bậc vương công, đại thần, binh sĩ và cả những người nước ngoài phụng sự cho triều Nguyễn. Loại kia là những “phục trang” đặc biệt để phân biệt địa vị, phẩm hàm của những hạng người khác nhau trong xã hội. Ngoài ra, còn có những chiếc thẻ bài có giá trị như giấy thông hành, dùng để ra vào nơi cung cấm, hay được dùng như giấy ủy nhiệm của quan lại cấp trên giao việc cho thuộc hạ.
Khởi thủy, vua Gia Long (1802 – 1820) cấp cho các quan trong Cơ Mật Viện một ngân bài (bài bằng bạc) để ra vào Đại Nội. Năm 1834, vua Minh Mạng (1820 – 1841) bắt đầu cho làm các thẻ bài bằng vàng, gọi là kim bài, có đề 4 chữ Hán: Cơ Mật Đại Thần để ban cho các quan lại cao cấp được sung vào Cơ Mật Viện. Tùy theo chức tước và phận sự, các thẻ bài do triều Nguyễn ban tặng cho các quan được làm bằng vàng, bằng bạc mạ vàng hay bằng bạc. Từ năm Thành Thái thứ 16 (1906) trở đi, quan lại văn võ từ hàm thất phẩm trở lên nhận thẻ bài làm bằng ngà, từ thất phẩm trở xuống nhận thẻ bài làm bằng sừng trâu. Bài của quân lính phục vụ trong Đại Nội thì làm bằng chì, sau đổi làm bằng gỗ mun.
Quý nhất trong các loại thẻ bài chính là các kim bài của các bậc đế hậu hay quý tộc cao cấp. Đây là những món đồ trang sức của vua chúa, đồng thời cũng là vật thể hiện địa vị và đẳng cấp của người sở hữu chúng. Ngoài kim bài, vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa và các vương tôn còn đeo kim khánh và ngọc khánh. Nhà vua còn dùng kim bài, kim khánh và ngọc khánh như vật phong tặng, quà kỷ niệm hay vật ân thưởng cho quý tộc và quan lại cao cấp trong những dịp đặc biệt.
Kim bài của các vua triều Nguyễn thường có hình chữ nhật (8,5cm x 5cm), có 4 chữ Hán Thái bình thiên tử bằng vàng chạm nỗi và nạm 10 viên kim cương. Ngoài ra còn có loại kim bài hạng hai, khắc 4 chữ Hán Đại bang duy bình bằng vàng chạm nỗi và nạm 10 hồng ngọc, xung quanh có viền hoa văn hình lưỡng long khắc chìm.
Kim khánh làm bằng vàng có đính các hạt trân châu, mã não, là thứ huy chương quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, kim khánh chỉ dành riêng cho các thành viên hoàng gia và các quan lại có hàm đại học sĩ. Dưới triều Thiệu Trị (1841 – 1847) và Tự Đức (1848 – 1883) kim khánh gồm hai hạng: đại kim khánh và kim khánh. Từ năm 1885 triều đình đổi thành bốn hạng: đại kim khánh có đề 4 chữ Hán Báo nghĩa thù huân; trung kim khánh (hình dáng như đại kim khánh như nhẹ hơn); kim khánh có đề 4 chữ Hán Sanh thiện thượng công và tiểu kim khánh có đề 4 chữ Hán Lao năng khả tưởng. Mặt sau các kim khánh thường khắc ghi niên hiệu của triều vua cho chế tác và ban tặng kim khánh. Năm Thành Thái thứ 2 (1900), triều đình bỏ hạng trung kim khánh và thiết lập hệ thống kim khánh mới gồm ba hạng: nhất hạng kim khánh, nhị hạng kim khánh và tam hạng kim khánh dùng để trao trặng cho quần thần và cho cả người Pháp. Mặt sau các kim khánh này có khắc các chữ Hán Đại Nam hoàng đế sắc tứ. Đến triều Khải Định (1916 – 1925), kim khánh làm bằng vàng, có đề 4 chữ Khải Định ân tứ, được đựng trong một hộp bạc, chạm trỗ hoa văn lưỡng long triều nhật, chính giữa mặt trong có một ô hình trái xoan đề 4 chữ Hán Khải Định niên tạo và phía dưới có chữ ký nghệ nhân chế tác ở bên trái. Đối với các kim khánh ban cho phái nữ thì xung quanh các Hán tự có trang trí 2 hình chim phụng.
Ngọc khánh có hình dáng tương tự như kim khánh nhưng được làm bằng ngọc quý, chủ yếu làm bằng cẩm thạch. Mặt trước ngọc khánh thường khắc 4 chữ Hán Thụ thiên vĩnh mệnh. Mặt sau khác niên hiệu của vị vua đang trị vì vào thời điểm ngọc khánh được chế tác hay ban tặng.
Việc chế tác các kim bài và kim khánh dưới thời Nguyễn được giao cho Kim ngân tượng cục thực hiện. Kim ngân tượng cục do vua Minh Mạng cho lập vào năm 1834, trực thuộc Sở Nội tạo. Đây là nơi trưng tập các thợ thủ công tài giỏi trong cả nước về nghề kim hoàn. Họ được tuyển vào làm việc ở Kim ngân tượng cục này để chuyên chế tác các vật dụng bằng vàng và bạc, cung ứng cho nhu cầu của hoàng gia và triều đình. Ngoài Kim ngân tượng cục, triều Nguyễn còn cho mở thêm hai tượng cục khác, chuyên chế tác các vật dụng liên quan đến vàng bạc. Đó là Kim mạo tượng ty chuyên chế tạo mũ mão bằng vàng cho vua và hoàng gia và Kim tương tượng ty chuyên chế tạo các vật phẩm có thếp vàng.
Vua, hoàng hậu và các thành viên hoàng gia thường mang kim bài, kim khánh, ngọc khánh… trong các dịp thiết đại triều, trong những lễ lạt quan trọng của triều đình và trong các dịp nghinh đón quốc khách. Riêng vua Khải Định, thì ngoài kim bài, kim khánh và ngọc khánh, nhà vua còn đeo thêm các huy chương như Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh… mà chính phủ Pháp trao tặng, nhất là trong các dịp lễ lạt có sự hiện diện của quan lại mẫu quốc.
165 năm sau ngày nhà Nguyễn cáo chung, phần lớn kim bài, kim khánh, ngọc khánh… của triều Nguyễn đã trở thành cổ vật trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân ở nước ngoài. Trong một bài viết mới công bố gần đây, nhà nghiên cứu Philippe Truong (hiện sống ở Pháp) cho biết: Cách nay hai tháng, trên mạng eBay có đưa ra đấu giá một thẻ bài bằng bạc mạ vàng của An Tĩnh Công, giá bán cuối cùng lên đến 1919 euro. Ngoài ra, trong sưu tập huy chương của đại sứ Ý Antonio Benedetto Spada, hiện đang trưng bày tại bảo tàng Légion d’Honneur (Paris), có trưng bày 8 kim bài, 6 ngân bài và một số bài bằng ngà và sừng, kim khánh, ngân khánh, kim bội và kim tiền thời Nguyễn. Trong số đó, đáng chú ý nhất là kim bài khắc 4 chữ Hán Đại bang duy bình của vua Khải Định làm bằng vàng nạm 10 hồng ngọc, viền hoa văn lưỡng long và kim khánh bằng vàng có đề bốn chữ Hán Khải Định ân tứ, chứa trong một hộp bạc, khắc hoa văn lưỡng long triều nhật, chính giữa có một ô hình trái xoan đề chữ Khải Định niên tạo và chữ ký của nghệ nhân khắc ở phía dưới bên trái.
Giới khảo cứu và dân chơi cổ ngoạn trong nước hiếm khi có dịp tận mắt chiêm ngưỡng những trân bảo ấy. May mắn lắm cũng chỉ nhìn thấy hình dáng “của hiếm” trong những catalogue in ấn ở ngoại quốc mà thôi. Âu đó cũng là một thiệt thòi cho giới sưu tầm và ưa chuộng cổ vật nước nhà vậy.
Kim bài khắc dòng chữ Thái bình thiên tử của vua Khải Định
Kim bài khắc dòng chữ Đông cung hoàng thái tử của hoàng thái tử Vĩnh Thụy
Kim bài khắc dòng chữ An Tĩnh công, triều Khải Định
Kim khánh khắc hai chữ Ân tứ, triều Đồng Khán
Kim khánh khắc dòng chữ Báo nghĩa thù huân, triều Khải Định
Kim khánh khắc dòng chữ Khải Định ân tặng
Kim bội khắc dòng chữ Hoàng trưởng nữ công chúa
Kim bội khắc dòng chữ Hoàng thứ nữ công chúa
Ngọc bội khắc dòng chữ Thiệu Trị trân bửuNgọc bội khắc dòng chữ Khải Định trân bửu
Chân dung vua Đồng Khánh mặc hoàng bào, đeo ngọc khánh, tay cầm hốt trấn khuê, ngự trên ngai vàng
Vua Thành Thái mặc long bào, đeo ngọc khánh và kim tiền
Vua Khải Định mặc trang phục kiểu Âu châu, đội nón, đeo kim bài, ngọc khánh và huy chương (do người Pháp tặng)
Vua Bảo Đại mặc quốc phục, đeo kim bài và huy chương (do người Pháp tặng)
Hoàng tử Bảo Long mặc quốc phục, đeo kim bài và ngọc khánh
Hoàng tử Bảo Long mặc quốc phục, đeo kim bài và huy chương (do người Pháp tặng)
Tiếp theo bài viết đặc sản tiến Vua của người Việt xưa. Hình ảnh Việt Nam xin giới thiệu một bài viết rất hay trình bày những vấn đề về cung cách ăn uống của vua triều Nguyễn.
Ông cố và ông nội tôi (cụ Nguyễn Đắc Tiêu) suốt đời ở trong ban Nhạc chánh của Nam triều. Đời bác tôi (ông Ngũ Vọng) , lại làm Thị vệ cho vua Khải Định và ông vua cuối cùng Bảo Đại. Lúc nhỏ tôi được gần ông nội tôi và bác tôi. Để giải buồn, ông tôi và bác tôi hay kể chuyện trong Nội cho tôi nghe. Những chuyện đó cứ được kể đi kể lại đã làm cho nhiều người khó chịu và chúng cũng đã hằn sâu trong tâm trí tôi. Không ngờ, nững nếp hằn đó đã trở thành những cơ sở đầu tiên cho cuộc đời nghiên cứu Huế của tôi sau này.
Ẩm thực cung đình Huế
Nhân nói chuyện ăn Tết năm nay, tôi xin trình bày đôi nét về chuyện ăn uống của các vua Nguyễn.
Trong cung Nguyễn có hai bộ phận lo chuyện bếp núc.
Bộ phận Lý Thiện : Người phục vụ trong bộ phận này phần lớn là dân làng Phước An (Thừa Thiên-Huế) phụ trách nấu nướng cỗ bàn cho những yến tiệc, kỵ giỗ của triều đình. Đầu đường Lê Huân phía cột cờ có một con đường nhỏ mang tên Lý Thiện. Đó là nơi ăn ở và làm việc của bộ phận Lý Thiện ngày xưa.
Bộ phận Lý Thiện : Ở ngay trong Đại Nội (phía phải của Nhà hát cung đình Duyệt Thị Đường). Thượng Thiện hằng ngày đi chợ mua thực phẩm cho vua và gia đình nhà vua. Bộ phận này là bếp chính của vua.
Mẹ tôi đã từng được bác Ngũ Vọng đưa vào xem bếp Thượng Thiện và được nghe lính Thượng Thiện giải thích cặn kẽ chuyện bếp núc của nhà vua.
Bếp Thượng Thiện lo nấu nướng cho vua ăn có đến mấy chục người. Mỗi người phụ trách một việc như : vót đũa, vót tăm, quết thịt nạc, làm nem, làm chả, làm tré, người đi chợ, người nấu các món ăn (mỗi người chỉ nấu được một vài món / 35 món).
Nấu cơm và thức ăn cho vua đều dùng nồi trách bằng đất nung sản xuất ở làng “Đột Đột” huyện Phong Điền. Đồ đất mới đưa vào Nội liền được thả vào một chảo nước chè xanh đậm đặc đang sôi sùng sục, ninh đến khi nào các đồ đất mới ấy được mạ một lớp men xanh mới vớt ra và cất vào kho để dùng dần. Mỗi bữa ăn dùng một cái om nấu cơm, vua ăn xong đập bể, bữa sau lại dùng cái khác.
Đũa vua dùng vót từ một loại tre già, vót sao cho chiếc đũa có một đầu to, một đầu nhỏ. Vót xong dùng dăm tre chuốt cho thật bóng láng và bỏ vào nồi hấp rồi phơi khô trước khi nhập kho. Tăm vua dùng gọi là “tăm bông” cũng vót từ một thứ tre già. Chiếc tăm dài bằng cây bút bi. Đầu nhỏ giống đầu tăm thường dùng xỉa răng. Đầu lớn bằng mút đũa được người vót dùng sống rựa đập nhè nhẹ cho tuơ ra, cái xơ tre thật mịn mới được dùng. Cái đầu xơ loe ra giống như một cái bông vạn thọ, nhà Nguyễn kiêng chữ “hoa” nên gọi là “tăm bông”. Các cụ nhuộm răng đen, sau khi ăn cơm xong, xỉa răng uống nước cho sạch miệng rồi dùng đầu tăm bông chà sạch răng. Cuối cùng chấm đầu bông ấy vào thuốc rỏi (đen như mực) để rỏi lại hàm răng, giữ cho hàm răng luôn luôn bóng đẹp, nhất là phái nữ.
Vua ăn cơm gọi là hoàng đế “ngự thiện” hoặc “Ngài ngự thiện”. Trừ vua Duy Tân và vua Bảo Đại “ngự thiện” với vợ con, các ông vua khác thường ngồi ăn cơm một mình. Khi cần có người nói chuyện cho vui trong khi ăn, vua cho hai trực thần (quan văn từ tứ phẩm, quan võ từ tam phẩm trở lên) vào ngồi gần hầu chuyện, gọi là “chầu thiện”. Vua ” ngự thiện” trên bàn hoặc trên sập, hai quan “chầu thiện” ngồi chênh chếch đối diện với một khoảng cách có thể đối thoại với nhau bằng giọng bình thường. Nếu có những vị quan nào được vua quý trọng, vua sẽ “ban thiện” bằng cách sai thị vệ dọn thêm một mâm riêng và mâm cơm được đặt ở một khoảnh cách nhất định để vị quan đó vừa ăn cơm vừa hầu chuyện.
Trong lúc vua ăn, ban nhạc cung đình ngồi ở xa xa hòa nhạc giúp cho không khí bữa ăn bớt phần tẻ nhạt.
Mỗi bữa “ngự thiện” có 35 món. Các món chính đựng trong vịm bịt giấy và buộc lạt cẩn thận. Tên thức ăn được viết trên một cái nhãn dán bên ngoài vịm. Vua thích món ăn nào thì bảo thị vệ mở món đó. Trước khi ăn, nhà vua thường ban bớt thức ăn cho các bà phi được nhà vua sủng ái nhất.
Trong 35 món ngự thiện không phải món nào cũng thuộc loại cao lương mỹ vị mà thực ra có nhiều món rất bình dân như : dưa môn kho, ruốc sả, dưa cải, rau muống chấm nước tôm kho … Vua Duy Tân lúc nhỏ rất thích ăn cơm với cá bống kho khô, khi lên làm vua, bữa “ngự thiện” nào cũng có món ăn dân tộc ấy. Cơm “ngự thiện” đầy đủ như thế, nhưng nhiều khi nhà vua không thích ăn mà chỉ húp một chén cháo trắng rồi đứng dậy.
Vua ăn xong, thị vệ bèn bưng vào một khay thức ăn tráng miệng gồm có các loại chè, bánh, kẹo, mứt, trái cây. Những món này được những bàn tay “cực kỳ tinh tế ” của các bà trong cung Nguyễn tự làm hay gửi mua. Bởi thế, dù không muốn ăn nhà vua cũng cố gắng nhón tay lấy một vài món bỏ vào miệng ăn để vừa lòng các bà. Các bà có món ăn được vua chọn lấy làm hãnh diện. Những món nhà vua không dùng hết, vua để riêng ban cho các quan. Vua cho ai món gì thì giao cho thị vệ sai lính thượng thiện bỏ vào quả sơn đỏ để vào siểng phủ khăn điều và che lọng xanh rước đến tận nhà người đó. Tại đây, chủ nhà phải có mặt để đón “ân vua, lộc nước”.
Việc nấu nướng ăn uống của vua lâu ngày ảnh hưởng đến các quan và dần dần ảnh hưởng đến dân gian. Đến nay, triều Nguyễn đã chấm dứt gần nửa thế kỷ mà cái ảnh hưởng đó vẫn còn. Và nó đã được xem là di sản văn hóa vật chất của trung tâm văn hóa Huế.