Tag: nhà Nguyễn

  • Sai sót khi tái dựng trang phục của các vị vua triều Nguyễn

    Sai sót khi tái dựng trang phục của các vị vua triều Nguyễn

    Gần đây có một bộ tranh chân dung của các vua triều Nguyễn được vẽ mới và phổ biến, thu hút được nhiều sự chú ý của người xem. Nếu chỉ thưởng thức các bức vẽ này như những ảnh vui mắt, đầy mầu sắc thì được. Nhưng các tranh này không có giá trị tài liệu và sử liệu về triều phục Việt Nam thời Nguyễn. Tất cả các chi tiết về áo, mão lẫn diện mạo đều do họa sĩ tưởng tượng. Trước hết hãy so sánh các bức ảnh nguyên gốc (bên trái) và các chân dung được họa sĩ phóng tác lại (bên phải).

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Gia Long.

    Vua Gia Long, bên trái là chân dung do người Pháp vẽ ước lệ theo ký ức. Nếu nhà vua mặc áo dài hay áo tấc đen (chỉ có hai loại áo này có cổ xây) thì không đội mão phác đầu (mũ cánh chuồn). Và nếu là mão phác đầu thì trong ảnh này thiếu cánh chuồn. Quan trọng là các vua không đội mũ cánh chuồn. Ảnh bên phải vẽ phỏng theo, với các sáng tác ngộ nghĩnh về trang phục. Vua được cho mặc cổ áo loại chi đó không rõ. Còn cái mão trong chân dung mới vẽ lại (bên phải) hoàn toàn không có trong trang phục cung đình của tất cả các nước trọng Khổng (còn gọi là các nước đồng văn) là Hoa, Nhật, Hàn và Việt, cả về hình dạng đến màu sắc, hoa văn…

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Minh Mạng.

    Vua Minh Mạng, bên trái là chân dung cũng do người Tây phương vẽ lại theo ký ức. Họ muốn vẽ mão xung thiên của hoàng đế, nhưng vì nhớ không rõ nên vẽ thành hình dạng này. Hoa văn rồng trên áo kiểu trên áo cũng không có ở triều đình Á châu nào. Người vẽ phỏng lại tranh bên phải, do không hiểu, nên vẽ lại gần như nguyên bản cái mũ sai lạc đó. Do người Pháp nhớ không rõ cho nên vẽ cái cổ áo bàn lĩnh của hoàng bào to và thành hai tầng. Người họa sĩ Việt tưởng nhầm thành cái vân kiên phủ vai hoàn toàn không có trong triều phục thời Nguyễn ở Việt Nam.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Tự Đức do người Pháp vẽ
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung mới vẽ lại của vua Thiệu Trị (bên trái) và vua Tự Đức (bên phải)

    Vua Thiệu Trị và vua Tự Đức hoàn toàn không để lại hình ảnh gì, ngoài một cái ảnh vẽ ước lệ vua Tự Đức nhìn ngang, trên đầu đội một cái mão đường cân được vẽ phỏng lại không chính xác dựa theo ký ức. Khổ nỗi là tác giả của bộ tranh mới lại cho hai vị hoàng đế này đội mão phác đầu (mũ cánh chuồn) của các quan. Hoàng đế không đội mão phác đầu. Và mão vẽ ở trong hai tranh này cũng không phải là mão phác đầu, vì sai cả hình dạng lẫn các vật trang trí. Bất cứ một họa tiết trang trí nào trên áo, mão triều phục cũng có luật lệ nghiêm ngặt. Dù chỉ là một con giao long nhỏ trên cái cánh chuồn cũng phải làm dựa theo luật định, vì màu sắc của chất liệu làm ra nó cũng ấn định phẩm cấp của người đội.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Hiệp Hòa, bên trái là do con cháu vẽ theo tưởng tượng, bên phải là chân dung mới phóng tác
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Hàm Nghi.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Kiến Phúc (bên phải mới vẽ lại), còn ảnh gốc bên trái thật ra là ảnh vua Duy Tân
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Đồng Khánh do họa sĩ đương thời vẽ trực tiếp, chuẩn xác bên trái và chân dung mới mới phóng tác ở bên phải.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Thành Thái (ảnh gốc bên trái mặc áo long trấn, đầu đội đường cân).

    Đối với bức chân dung vua Thành Thái, người vẽ phóng tác không hiểu biết, cho nên vẽ nhà vua mặc long bào tay rộng, nhưng lại đội đường cân. Đường viền dưới gấu áo của ảnh bên phải không có trong hệ thống triều phục Việt Nam.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Vua Duy Tân ngày tấn phong. Lên ngôi còn bé và gấp quá không kịp làm áo, mão và hia. Bên phải là chân dung mới phóng tác.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Khải Định.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Bảo Đại.

    Thật tội cho ba vua Hàm Nghi, Khải Định và Bảo Đại được người vẽ cho mặc áo dài của thái giám. Thái giám trong nội cung mặc áo dài mầu lam hay lục dệt hoa văn chữ thọ và hoa cỡ nhỏ mầu trắng, bạc độc sắc… Tất cả các khăn vấn hay khăn xếp đội đầu ngày xưa của phái nam theo đúng lệ đều mầu đen, chứ không theo màu áo dài như bây giờ. Riêng hoàng đế vấn hay đội khăn vàng hoặc đen tùy trường hợp.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Hoa văn vạn thọ trên áo dài bằng vải đoạn mầu quan lục của vua Bảo Đại.

    Các hoàng đế mặc áo dài gấm, đoạn, sa dệt hay thêu hoa văn trang trí họa tiết vạn thọ. Nền vải chuộng các màu vàng, đen, bửu lam (lam đậm), hay quan lục (xanh nõn chuối) dệt hoa văn thất thể (7 màu). Các quan mặc áo dài với họa tiết dệt bách thọ, tứ thời, tứ tiết, và mầu sắc với hoa văn dệt ngũ thể. Họa tiết hoa văn nhỏ dệt đơn sắc trong các tranh vẽ tưởng tượng ba vị hoàng đế ở đây chỉ dành cho quân hầu và thái giám.

    Hoàng đế khi mặc hoàng bào ngự lễ đại triều thì đội mão xung thiên. Khi ra ngoài duyệt binh, ngự lễ tịch điền, v.v., thì mặc áo long trấn tay chẽn, đội mão Đường cân. Khi mặc áo cổn để tế Giao thì đội miện bình thiên có 24 tua rủ (gọi là châu), 12 phía trước và 12 đằng sau. Với cả ba trang phục này các hoàng đế đều đi hia bằng đoạn đen, thêu nổi rồng mây bằng chỉ kim tuyến vàng và gắn kim sa vàng.

    Khi thiết đại triều hoàng đế cầm trấn khuê làm bằng ngọc mầu trắng mỡ. Các quan lớn cầm hốt ngà và các quan nhỏ cầm hốt gỗ bạch. Không bao giờ có hốt mầu đỏ viết chữ đen như ở các tranh này.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Long bào Đại triều của vua triều Nguyễn (hiện vật gốc ở Bảo tàng Lịch sử TPHCM).

    Cái áo long bào này được các vua Nguyễn mặc truyền nối từ thời Minh Mạng đến Đồng Khánh. Chỗ cột thủy (sọc dọc đa sắc dưới gấu áo) được gấp lên hoặc hạ xuống tùy chiều cao của người mặc và đính vào phía trong áo, không được cắt. Hoàng đế đội mão xung thiên với trang phục này. Tay các loại áo lễ luôn phải dài bằng gấu áo, chứ không ngắn ngang cổ tay như thấy trong các phim truyền hình dài tập Trung Quốc.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Áo bằng sa thâm khoác bên ngoài áo cổn tế Giao của vua triều Nguyễn (hiện vật gốc tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế).
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Áo tế Giao của vua triều Nguyễn (phía sau).
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Long trấn của vua triều Nguyễn (hiện vật gốc tại Bảo tàng Lịch sử TPHCM).
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Mão Xung thiên Đại triều của vua triều Nguyễn.

    Mão xung thiên ở ảnh bên trái được vẽ trực tiếp với đầy đủ các chi tiết chính xác. Mão bên phải là mão phục chế hiện trưng bầy tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội với vài vật trang trí còn sót lại từ mão gốc. Mão gốc có lớp ngoài làm bằng ô sa, trong lót lớp mã vĩ (lông đuôi ngựa). Mão có 31 con rồng vàng; cùng với các viên ngọc đỏ (hỏa tề), trắng (thủy soạn), trân châu, mây vàng và lửa vàng.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Miện Bình thiên của vua triều Nguyễn (phục chế, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội).

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Hia của vua (hiện vật gốc ở Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế). Hia này bị mất hết các hạt kim sa, cũng như lớp vải đoạn lót mầu vàng bên trong.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Vua Khải Định trong trang phục tế Giao (trái). Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương (phải).

    Ảnh bên trái là vua Khải Định mặc tế phục Nam Giao, đầu đội miện, tay cầm trấn khuê. Treo rủ xuống trước bụng là tấm tế tất (phất tất). Ngoài ra còn các phụ kiện khác bị áo che phủ, như các giải ngọc đeo rủ xuống từ thắt lưng hai bên tế tất gọi là tạp bội và tiểu thụ, với 200 viên châu ngọc các loại cùng các phiến ngọc khắc hình khánh, dơi, tiền… Và có thêm một tấm đoạn thêu gọi là thiên thụ treo từ thắt lưng phía sau áo.

    Ảnh bên phải là vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương trong ngày hôn lễ. Nhà vua mặc long bào (hoàng bào), đầu đội mão xung thiên, tay cầm trấn khuê. Hoàng hậu mặc phượng bào (nữ bào) và xiêm, đầu đội mão thất phụng, chân đi hài phượng. Hôm hôn lễ hoàng hậu Nam Phương mặc áo nữ bào mầu hỏa hoàng (da cam), nhưng sau này khi đã sinh được tự quân rồi thì đổi sang mặc áo bào sắc vàng.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Vua Đồng Khánh (trái) và vua Kiến Phúc (phải).

    Ảnh trái là vua Đồng Khánh trong phút thư giãn. Vua mặc áo tấc, đầu vấn lửng sơ sài khăn kiểu chữ nhất theo lối võ ban (khi mặc lễ phục hay vấn khăn, các hoàng đế đều theo quy chế võ ban). Chân đi văn hài. Ảnh phải là vua Kiến Phúc dạo chơi bằng long xa. Vua vấn khăn chữ nhất, mặc long trấn. Một tay cầm cung, tay kia chống súng và kiếm. Sau xe treo cờ tiết mao của Thiên tử…

    Giải thích kỹ như thế nhưng vẫn còn rất qua loa so với các điển lệ phức tạp nhưng chặt chẽ của một hoàng triều. Người ta chỉ cần nhìn mầu áo của một vị quan, hay hình dạng mão, hoa văn bổ tử, để biết cấp bậc của vị quan. Ngay cả đến chất liệu làm trang trí trên một cánh chuồn trên mão và hình dạng cánh chuồn, cũng như chất liệu của các vật trang trí đó cũng đều có quy định phân biệt rõ ràng cho mỗi phẩm cấp. Ngoài ra còn các lệ về cách đeo đai (thắt lưng) cho mỗi loại triều phục, hay cách đeo các loại khánh, bài, bội… cũng phải theo luật lệ nghiêm ngặt.

    Khi muốn phục dựng hay vẽ lại những gì thuộc văn hóa cổ của dân tộc, có ảnh hưởng đến sự hiểu biết của giới trẻ sau này, thì phải kỹ lưỡng, không nên tùy tiện.

     Trịnh Bách

    anhsontranduc.wordpress.com

  • Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Đệ nhất ân Phi Hồ Thị Chỉ là vợ vua Khải Định. Bà Chỉ nổi tiếng là nhan sắc mặn mà, thông minh, đàn hay, thông thạo tiếng Pháp, Hán Văn, Việt Ngữ. Bà Chỉ là con của Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung và bà Châu Thị Ngọc Lương quê ở làng Chuồn (xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế)
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Chân dung hai hoàng hậu Tiên Cung (vợ trước) và Thánh Cung (vợ sau) của vua Đồng Khánh

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Công chúa Thuyên Hoa, em gái vua Thành Thái có vẻ đẹp hiện đại
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Công chúa Mỹ Lương, Trưởng nữ của vua Dục Đức, chị cả của vua Thành Thái
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Cô Nguyễn Thị Cẩm Hà – thường gọi là Mệ Bông, con của Công chúa Mỹ Lương với vẻ đẹp dịu dàng

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Hoàng thái hậu Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức có nét đẹp rất hiền từ. Bà rất thương dân. Do trong dân gian thường gọi nhầm là Từ Dũ nên tên Từ Dũ sau này cũng vì thế được đặt cho bệnh viện phụ sản lớn nhất Sài Gòn từ trước năm 1975 cho đến nay
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Hoàng thái hậu Tự Cung – là Hoàng thái hậu cuối cùng của triều Nguyễn rất đẹp, sắc sảo. Bà Từ Cung là vợ vua Khải Định và cũng là người duy nhất trong số 12 người vợ có con trai là hoàng đế Bảo Đại say này

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Bà Từ Cung (giữa) cùng các người thân trong hoàng tộc
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Bà Nguyễn Thị Định, là thứ phi của vua Thành Thái, mẹ vua Duy Tân, ảnh chụp khi bà đã lớn tuổi nhưng nét đẹp một thời vẫn còn trên khuôn mặt

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Một ảnh chụp khác của Vương phi Mai Thị Vàng, vợ yêu của vua Duy Tân lúc về già
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Hình ảnh Nam Phương hoàng hậu lúc được tấn phong – vợ của vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng triều đại phong kiến tại Việt Nam
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Nam Phương quê ở Tiền Giang, con của một gia đình rất giàu có. Bà 3 năm liền đoạt giải Hoa hậu Đông Dương, lấy vua Bảo Đại khi vừa 19 tuổi

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Thứ phi Mộng Điệp người Hà Nội rất được vua Bảo Đại sủng ái

    Sinh năm 1924 tại Bắc Ninh, khác với nhiều cung tần mỹ nữ thời trước, Mộng Điệp là phụ nữ đã có chồng và con. Tuy nhiên, nhan sắc mặn mà của người phụ nữ Kinh Bắc đã “đốn ngã” trái tim Bảo Đại mà ông từng tưởng rằng chỉ thuộc về duy nhất Nam Phương hoàng hậu.

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Nhan sắc của Mộng Điệp trở thành đề tài của rất nhiều bậc tài tử thời bấy giờ. Theo nhiều tài liệu lịch sử cho biết, trước khi lấy chồng nhà Mộng Điệp không thể đếm xuể bao nhiêu người qua lại ngỏ ý. Vẻ đẹp mặn mà, duyên dáng của cô gái Kinh Bắc dễ dàng làm siêu lòng bất kỳ chàng trai nào thời đó.

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Bức ảnh ghi lại khoảnh khắc rất tình cảm của thứ phi Mộng Điệp với cựu hoàng Bảo Đại (ảnh tư liệu của nhà nghiên cứu Huế – Nguyễn Đắc Xuân)
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Hoàng hậu Nam Phương sau khi sinh con vẫn giữ được nét đẹp quý phái

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Hoàng hậu Nam Phương và các hoàng tử, công chúa con của mình với nét đẹp chuẩn mực. Đây cũng là hoàng hậu cuối cùng của triều đại phong kiến cuối cùng của việt Nam đóng đô tại Huế với nhiều quá khứ vàng son (1802-1945)
  • Bí ẩn về cuộc đời của các vị quan thái giám cuối cùng triều Nguyễn

     

    Video tài liệu: Khám phá những bí ẩn về cuộc đời của các vị quan thái giám cuối cùng triều Nguyễn và ngôi chùa Từ Hiếu ( chùa Thái giám) ở Huế…
    Kịch bản và Đạo diễn: Nguyễn Hải Anh

    https://www.youtube.com/watch?v=lF0jmkrI0LQ

    Thái giám, hay hoạn quan là một chức quan tuy địa vị thấp nhưng chiếm vị trí quan trọng trong hậu cung xưa. Cuộc đời của họ ngoài những thăng trầm biến cố theo thời cuộc, còn phải chịu thêm đủ nỗi nặng nề, thương tâm. Một trong số đó là cảm giác đơn độc, cô quạnh cho tới lúc nhắm mắt xuôi tay.

    Thái giám trong lịch sử Việt Nam tồn tại dưới các đời Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Do không có bộ phận sinh dục nên con người của thái giám tiếng nói cũng như tính cách rụt rè thiên về nữ nhiều hơn nam. Suốt đời họ phụng sự trong cung và lớn lên họ kết nghĩa với nhau, có thể cùng giới hoặc khác giới.

    Một số thái giám có sức ảnh hưởng tới dòng chảy lịch sử dân tộc, mời bạn xem bài viết: Những hoạn quan nổi tiếng của nước Việt

    Song hành cùng lịch sử dẫu bị chối bỏ công lao

    Cũng do có thuận lợi được sống gần “thiên tử”, được nhiều ân sủng và nắm được những “thâm cung bí sử” trong triều nên thường họ cùng liên kết với nhau để thực hiện âm mưu nào đó. Không ít triều đình rối ren, thậm chí bị đảo chính cũng là có phần góp sức không nhỏ của thái giám.

    Rút kinh nghiệm từ những bậc tiền bối bị thái giám nổi loạn chuyên quyền, thời vua Minh Mạng (1820 – 1841) đã ban hẳn một chiếu chỉ riêng dành cho thái giám: “Cho họ người nào việc ấy để sai khiến hầu hạ nhưng mãi mãi không cho dự vào giai và phẩm hàm quan chức.

    Bí ẩn về cuộc đời của các vị quan thái giám cuối cùng triều Nguyễn

    Vì chức vụ của họ là để nội đình sai khiến và truyền lệnh mà thôi. Tất cả triều chính và việc ngoài đều không được tham dự, kẻ nào vi phạm phải trừng trị nặng, không khoan tha. Trẫm đã dặn dò, hết sức mưu tính sâu xa cho đời sau…”.

    Sống quạnh hiu, chết nương nhờ cửa Phật

    Tại Huế, bên cạnh những lăng tẩm lộng lẫy, không mấy người không biết tới chùa Từ Hiếu, nơi nương mình lặng lẽ của những người hầu cận vốn chiếm vai trò khá quan trọng trong cung đình xưa, nhưng tên tuổi cũng như vị trí của họ chưa bao giờ được đề cao. Họ là những thái giám chốn hậu cung.

    Ngôi chùa là nơi “cưu mang” các quan thái giám trong triều Nguyễn,  vốn không có con nối dõi, họ bày tỏ nguyện vọng với nhà vua, sau khi nhắm mắt xuôi tay, họ được chôn trong ngôi chùa này đặng có người lo hương khói.

    Cảm thông với ước nguyện chính đáng này, vua Tự Đức đã xuống chỉ dụ chấp thuận. Họ đã đóng góp công đức vào ngôi chùa, để sau khi chết họ được mai táng, phục tự và cúng giỗ nơi này.

    Bí ẩn về cuộc đời của các vị quan thái giám cuối cùng triều Nguyễn
    Khuôn viên chùa Từ Hiếu, nơi có nghĩa trang thái giám với 25 ngôi mộ.

    Vì thế, ngoài tên Từ Hiếu, chùa còn được nhiều người quen gọi là chùa Thái giám. Hiện nay, trong vườn chùa Từ Hiếu có đến 25 ngôi mộ của Thái giám triều Nguyễn. Trước mỗi ngôi mộ đều có tấm bia ghi rõ tên họ và chức vụ của từng người.

    Nhiều mảnh đời chung tâm nguyện nhỏ nhoi

    Về cuối đời, các thái giám triều Nguyễn lúc bấy giờ phải cư trú ở một ngôi nhà phía Bắc hoàng thành gọi là Cung giám viện. Khi chết, số phận họ vô cùng bi thảm, không được chôn gần lăng tẩm hoặc những chốn linh thiêng và cũng chẳng được ai thờ cúng vì không có con cháu. Để tránh bát hương trở nên lạnh lẽo khi “về trời”, nhiều người đã chọn con nuôi để dạy dỗ và lo hậu sự về sau.

    Theo tục lệ, cứ đến rằm tháng 11 hàng năm, chùa Từ Hiếu lại tổ chức ngày giỗ chung để tưởng nhớ những người đã mất, trong đó có thái giám triều Nguyễn. Có lẽ, một phần nhờ sự lãng quên của người đời, mà mặc dù trải qua các giai đoạn chiến tranh ác liệt nhưng phần lớn những ngôi mộ này vẫn nguyên vẹn và đa phần đều đọc được rõ chữ.

    Bí ẩn về cuộc đời của các vị quan thái giám cuối cùng triều Nguyễn
    Nghĩa trang thái giám hiu quạnh trong chùa Từ Hiếu

    Theo lời dịch lại của một sư cụ trong chùa, thì xúc động nhất là lời lẽ trên tấm bia trước cổng nghĩa trang khiến hậu thế không khỏi chạnh lòng: Bia đề: “Trong đời sống, chúng tôi tìm thấy ở đây sự yên bình. Khi ốm đau, chúng tôi lui về đây và sau khi chết, chúng tôi sẽ được chôn chung ở đây. Dù sống hay chết, chúng tôi vẫn tìm thấy được ở đây sự yên bình”.

    Phận đời đưa đẩy đã khiến nhiều thái giám có một nỗi sợ mãnh liệt lớn hơn cả cái chết, chết ở đâu, chết lúc nào… theo họ giờ không quan trọng mà quan trọng nhất là được chết toàn thây, được chết cạnh cái mà mình đã cắt bỏ đi để khi về thế giới bên kia mình được chứng nhận là đã trải qua một kiếp con người. Đó cũng là cái kết “đáng buồn thay” cho cuộc đời của những con người “sinh ra chẳng được mấy ai chấp nhận”.

  • Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

    Đã hơn 200 năm trôi qua nhưng cuộc chiến chống tà đạo, trừ dẹp nạn mê tín trong dân gian của hoàng đế Gia Long và sau đó là người kế nghiệp, hoàng đế Minh Mạng, vẫn còn đẫm tính thời sự!

    Chúa Nguyễn Ánh bình định được nhà Tây Sơn và lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long  năm 1802. Thời bấy giờ, nạn mê tín dị đoan trong dân chúng gần như là quốc nạn, các đạo sĩ với những tà thuật ghê rợn tung hoành. Tin theo các đạo sĩ, thầy địa lý, nhiều phàm dân có tục “rửa  gân”, “nghiệm gân” bằng cách đào lấy hài cốt cha mẹ, bậc tôn trưởng để chiêm nghiệm việc tốt xấu. Không những thế, vì mê tín dị đoan mà người ta còn quật mồ để hủy hoại vất bỏ xác chết, gọt đầu, làm thương tổn đến tử thi, trộm quần áo của xác chết…

    Luật hình – nhân mạng (quyển 196) trong Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ đề cập rất rõ tệ mê tín dị đoan trong dân chúng thời bấy giờ. Không chỉ quật mồ người  thân  chiêu hồn xem điềm tốt xấu, còn có tình trạng những kẻ ngu muội, u mê giết người lấy nội tạng luyện bùa thuốc. Hình luật dành cho tội phạm dạng này, có đoạn: “Phàm những người lấy tai mắt, tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra làm bùa thuốc, nếu có người thân thuộc tố giác ra, hoặc bắt giải nộp quan, thì nếu đã hành động rồi, kẻ thủ phạm vẫn không được tha tội”.

    Luật hình – nhân mạng thời bấy giờ còn có tội danh khá lạ kỳ: làm ra hay nuôi chứa loài sâu có độc để giết người.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Hoàng đế Gia Long trên một tạp chí của Pháp.

    Loài sâu độc mà ai đó nuôi để giết người là sâu gì, cách nuôi ra sao, Luật hình-nhân mạng cũng như các thư tịch cổ triều Nguyễn còn để lại không nói rõ. Nạn trấn yểm, dùng bùa chú để hại chết người cũng nằm trong phạm vi cấm đoán của triều đình Gia Long: “Nếu kẻ nào khắc vẽ hình người để yểm phản, làm phù chú nguyền rủa, muốn làm chết người khác (kể cả người thường, con cháu,  nô tỳ, người ở đợ, bậc tôn trưởng, hạng dưới, ít tuổi) đều khép vào tội mưu giết người (đã hành động nhưng chưa làm cho bị thương) mà trị tội. Vì thế mà đến nỗi chết người, đều chiếu luật “mưu giết người”, mà trị tội. Nếu chỉ muốn làm cho người ta bị tật bệnh khốn khổ thì được giảm kém tội mưu giết người đã hành động rồi, nhưng chưa làm cho bị thương 2 bậc”.

    Hoàng đế Gia Long đã nhìn ra nguồn gốc của sự ngu muội trong dân chúng với các hình thái quật mồ chiêu hồn, nuôi sâu độc giết người, yểm phản làm phù chú, rồi nạn cầu đảo, giải hạn, trừ tà… xuất phát từ những kẻ làm nghề phù thủy, đồng cốt, thầy cúng, phường đồng cốt.

    Hoàng đế Gia Long khẳng định trước triều thần rằng, những kẻ thầy bà đã lợi dụng sự ngu muội trong dân chúng làm trò ma mị, đục khoét, gây thanh thế nên cần phải nghiêm trị: “Những thuật cầu đảo, sám hối, giải ách đều là vô ích cả. Đời xưa kẻ đồng cốt, bói toán khinh nhờn thần thánh, họ Cao Tân (họ của vua Đế Cốc ngày xưa) chỉ cúng tế vị thần chính đáng, bọn tà đạo làm mê hoặc dân chúng, chế độ của vương giả giết đi, đều là trừ khử sự mê hoặc, bỏ thuyết gian tà, để cho tục dân hết thảy theo về chính đạo. Như Tây Môn Báo ném người đàn bà làm đồng cốt xuống sông, Địch Nhân Kiệt phá bỏ đền dâm thần, đều có định kiến cả”.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Quan tòa kết tội và thi hành án một phạm nhân.

    Tây Môn Báo mà hoàng đế Gia Long nhắc đến, là người nước Ngụy, làm quan ở quận Nghiệp thời Chiến quốc (Trung Quốc). Cổ sử ghi dân chúng thời bấy giờ vì bị phường đồng cốt làm cho u mê hằng năm góp tiền làm lễ chọn một người con gái tế sống, quăng xuống sông gọi là cưới vợ cho Hà Bá để tránh bị quấy nhiễu. Bọn cường hào ác bá nhân đó lợi dụng làm tiền, khiến nhân dân khốn khổ. Tây Môn Báo biết chuyệt đã cho bắt hết phường đồng cốt quăng xuống sông, trừ được mối tệ cho dân.

    Còn Địch Nhân Kiệt làm quan thời Đường (Trung Quốc). Lúc còn làm tuần phủ Hoa Nam và thứ sử Dự Châu, thấy dân trong hạt thờ những Dâm thần vốn dĩ là những “thần bậy bạ không đáng thờ”, ông đã cho phá hết những đền thờ dâm thần trong hạt!

    Trong bản Dụ vào năm 1804 (năm Gia Long thứ 3), hoàng đế Gia Long nhìn nhận thực trạng “dân chúng tin theo quỷ thần, mê muội đã quá, hơi một tí cũng đi mời thầy vẽ bùa, đọc chú, ninh hầu kẻ đồng cốt”.

    Vị vua lập nên triều Nguyễn, khẳng định: “Kẻ có tà thuật đều giả trá, lừa dối cho người nghe sinh biến đổi rối loạn trong lòng, vẽ bùa, viết khoán, nhờ pháp thuật để sinh nhai; chuộc mạng, chiêu hồn, lấy con bệnh làm của báu. Thậm chí có kẻ phù đồng ấp bóng, bịa ra lời nói của thần, kiêng ăn, cấm thuốc, kẻ đau ốm không thể cứu lại được. Lại có những thuật làm người bằng giấy, làm ngựa bằng cỏ, ném gạch đá vào nhà, đốt cháy nhà cửa, cùng những bùa thuốc làm mê hoặc, đã lấy pháp thuật để quấy nhiễu người lại đến tận nhà để xin chữa, lừa dối trăm cách, thực là mối hại lớn của nhân dân”.

    Xác định phường thầy bà đồng cốt là mối hại lớn của nhân dân, để an dân, triều đình Gia Long cấm ngặt những kẻ hành nghề phù thủy, làm đồng cốt. Không những thế, theo lệnh vua, bộ Hình định rõ tội danh và trừng trị thẳng tay những kẻ can phạm. Nhẹ thì đánh đòn, bắt làm phu dịch, bắt đi giã gạo, lưu đày xa xứ, nặng thì phạt tội trảm (chém), giảo (thắt cổ)…

    Điều luật Cấm chỉ các bọn thầy cúng, đồng cốt và tà thuật  (Luật lễ – nói về tế tự, quyển 186) đề cập chi tiết các hình phạt dành cho phường đồng cốt, thầy cúng, tăng đạo cả gan vi phạm cấm lệnh bài trừ tệ nạn mê tín trong nhân dân.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Hơn 200 năm trước, hoàng đế Gia Long xem nạn cầu đảo, giải hạn… là tệ mê tín dị đoan. 200 năm sau, hậu thế vẫn có lắm kẻ ngu muội!

    Theo đó hình phạt giảo giam hậu (giam chờ ngày treo cổ) sẽ được áp dụng với những thầy cúng, đồng cốt giả làm tờ thần giáng xuống, vẽ bùa đọc chú vào bát nước hầu giá lên đồng tự xưng là Đoan Công, Thái Bảo, sư bà…, cùng xưng càn là Phật Di lặc, các hội Bạch Liên xã, Minh Tôn Giáo, Bạch Vân Tôn. Theo điều luật này, kẻ tòng phạm sẽ bị phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm. Nếu là quân, dân đóng giả thần tượng, gõ thanh la, đánh trống, đón thần mở hội, phạt 100 trượng (chỉ bắt tội kẻ đứng đầu). Lý trưởng biết không tố cáo,  phạt xuy 40 roi.

    Phạt xuy nghĩa là lý trưởng sẽ bị nọc ra đánh đòn, vừa bị đánh vừa bị răn cho biết nhục. Roi phạt xuy lý trưởng là sợi mây nhỏ, riêng tội phạt trượng thì dùng sợi mây to vừa. Và “lưu 3.000 dặm” nghĩa là can phạm sẽ bị đưa đi an trí nơi phương xa đến 3.000 dặm, suốt đời không được trở về bản quán. Với đàn bà phạm tội làm đồng cốt, hình phạt sẵn dành là “phạt xuy 100 roi, bắt đi giã gạo 6 tháng”.

    Luật hình định danh tội “Đào mả người khác” với hình phạt dành cho kẻ đào mồ chưa đến quan quách “phạt 100 trượng, đày 3 năm”, đào đến quan quách “phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm”, nếu đã mở quan quách thấy xác người sẽ bị “tội giảo giam hậu” (giam chờ ngày treo cổ). Luật cũng ghi rõ hình phạt lăng trì (xẻo thịt cho đến chết) với những kẻ lấy tai mắt, tạng phủ của người sống làm thuốc. Vợ con kẻ can phạm cùng người nhà tuy không biết chuyện cũng bị xử vạ lây, bị xử lưu 2.000 dặm  (cho đi ở cách nơi ở cũ 2.000 dặm).

    Nhận định của thiên tử về tội ác này: “Tội lấy tai mắt tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra, tội này cũng giống như tội mổ xẻ thân thể người. Nhưng tội mổ xẻ thân thể người, chỉ muốn giết chết người ấy thôi, còn tội này thì giết chết người ấy làm bùa thuốc để mê hoặc người khác, cho nên tội lại nặng hơn”. Với góc nhìn ấy, hình phạt dành cho thủ phạm nếu hành động nhưng chưa làm bị thương nạn nhân  cũng là “xử trảm”, vợ con bị “xử lưu 2.000 dặm”, kẻ tòng phạm (có giúp sức) thì xử phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm!

    Với những kẻ “làm ra hay nuôi chứa loài sâu có chất độc để giết người”, nếu bị phát giác, can phạm sẽ bị xử trảm (chém đầu), vợ con và người ở chung nhà tuy không biết chuyện cũng bị xử lưu 2.000 dặm. Trong trường hợp kẻ phạm tội lấy chất độc của loài sâu  độc đánh thuốc độc người ở chung nhà mà người thân không hay biết, thì được miễn tội xử lưu. Luật ghi: “nếu có biết chuyện, tuy là người của bên bị đánh thuốc độc vẫn phải tội lây”.

    Kẻ khắc vẽ hình người để yểm phản, làm phú chú nguyền rủa muốn làm chết người khác, sẽ bị khép vào tội mưu giết người, tội này theo luật hình thời bấy giờ là trảm!

    Những hình thức xử phạt kể trên cho thấy hoàng đế Gia Long rất nghiêm khắc và quyết tâm trong việc trừ dẹp tệ mê tín dị đoan trong nhân dân. Năm 1820, sau 18 năm trị vì thiên hạ, hoàng đế Gia Long băng hà, kế tục sự nghiệp của vua cha, hoàng đế Minh Mạng (1791-1841) cũng dốc lòng dốc sức tuyên chiến với tệ mê tín dị đoan nói chung, nạn thầy bà giở những thuật quái gở nói riêng. Thời trị vì của hoàng đế Minh Mạng, đã có không ít “thầy bà” hay những kẻ ngu muội bị đánh đòn và xử tử.

    Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), Trần Đăng Luật ở  xã Phan Xá (huyện Phong Lộc, phủ Quảng Ninh) đến triều đường kêu dâng các giấy tờ biên chép lời sấm của người cha quá cố là Trần Đăng Triều gọi là “Thái Bình sách”. Việc đến tai vua Minh Mạng, theo luật Trần Đăng Luật sẽ bị xử tử, nhưng xét thấy Luật là “dân mọn, ngu tối không biết gì, tưởng lầm vật quý của nhà đem mê hoặc dân chúng” nên vị vua thứ 2 của triều Nguyễn ban đặc ân, cho khoan giảm tội, phạt 100 trượng, rồi giao về cho địa phương quản thúc nghiêm ngặt!

    Không được may mắn như Trần Đăng Luật, 10 năm sau (1837- năm Minh Mạng thứ 18), có 3 can phạm đã phải trả giá bằng mạng sống khi vi phạm tội danh được định khung của bộ Hình thời bấy giờ là “Làm ra sách và lời nói quái đản”: “Tên Dao là người thổ ở Trấn Tây, nói dối có phép thuật quái gở, làm cờ ngụy, bọn tên Nguyên, tên Ban cùng nhau tuyên truyền,  mê hoặc người đem sang đất giặc, 3 tên ấy đều xử tội trảm  đem thi hành ngay”…

    Hoàng đế Minh Mạng cũng có chính sách phạt nặng với quan chức địa phương mà cụ thể là lý trưởng, nếu “biết mà không cáo giác ra thì xử phạt 100 trượng”. Và để khuyến khích dân chúng góp sức cùng triều đình chống tệ nạn trên, những người cáo giác bắt được kẻ vi phạm các cấm lệnh sẽ được hậu thưởng đến 20 lạng bạc. Tiền thưởng ấy được trích từ tài sản của kẻ phạm tội. Trường hợp quan binh phát hiện vụ việc và thực thi việc bắt giữ, cũng được thưởng số tiền là 10 lạng bạc trích từ tài sản của can phạm!

    Ngày nay, nạn mê tín dị đoan vẫn phổ biến với đủ hình thức ngu muội, buôn thần bán thánh… tồn tại như một thứ dịch bệnh khó loại trừ. Xem ra, kinh nghiệm xử phạt thật nặng, và trọng thưởng cho người tố giác trích từ tài sản của kẻ phạm tội, mà hoàng đế triều Nguyễn áp dụng, chính là chìa khóa vàng để triệt dẹp thói tệ này!

    Nguồn: N.T.Dũng (An ninh thế giới)

  • Vua Minh Mạng xử quan lại tham ô, nghiêm khắc là đây!

    Vấn đề tham quan ô lại, triều đại nào trị vì cũng đều được đặt ra và xử lý hết sức nghiêm ngặt.
    Khi đọc lịch sử thời Minh Mạng, một ông vua nổi tiếng là nghiêm khắc chúng ta thấy hai sự kiện đáng chú ý trong bộ Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, do NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 1963, tập IV. Hai đoạn sử cho thấy thái độ kiên quyết của vua Minh Mạng trị tội bọn tham quan.
    anh-vua-minh-mang
    Ảnh vẽ truyền thần Vua Minh Mạng
    Bị chém đầu vì trộm hơn 1 lạng vàng
    Trong Bộ luật Gia Long có một điều khoản quy định cách xử tội những người ăn cắp tài sản của nhà nước. Điều 229 của bộ luật có đoạn viết: “Kho của vua gọi là Nội phủ, nó ở trong cấm địa của Hoàng thành. Hễ lấy trộm món gì ở đó dù nhiều hay ít đều bị tội chém đầu”.
    Dưới thời vua Gia Long trị vì (1802 – 1819) đã xảy ra một vụ gian lận, lấy cắp tài sản chứa trong nội phủ và những thủ phạm đã bị chém đầu. Đến thời vua Minh Mạng trị vì (1820 – 1840) lại diễn ra cảnh hoàng kim hắc thế tâm (vàng làm đen tối lòng người). Vào tháng 5/1823, một ông quan làm việc tại phủ nội vụ, tên là Lý Hữu Diệm lấy trộm hơn một lạng vàng. Việc bị phát giác, bộ Hình đưa ông Diệm ra xét xử. Thay bằng tuyên án chém đầu, bộ Hình thấy đây là một ông quan đã ít nhiều có công trạng nên giảm xuống thành tội bắt đi đày viễn xứ. Vụ án được tâu lên vua, vua Minh Mạng không chấp nhận đề nghị của bộ Hình là giảm án và nhà vua ra lệnh cho bộ Hình đem can phạm ra trước chợ Đông Ba chém đầu, cho mọi người trông thấy mà sửa mình. Đoạn văn ấy được ghi như sau:
    “Thư lại Nội vụ phủ là Lý Hữu Diệm lấy trộm hơn một lạng vàng. Bộ Hình nghĩ xử tội chém chuẩn làm tội đồ. Án tâu lên, vua dụ rằng: Khoảng năm Gia Long, bọn Nguyễn Đăng Được thông đồng với thợ bạc là bọn Nguyễn Khoa Nguyên đúc trộm ấn giả, để trộm đổi ấn cất ở kho, đều xử chém ngay. Nay Hữu Diệm ở đấy cân vàng mà còn dám công nhiên lấy trộm, huống chi của kho thì sao?
    Thế là trong mắt hắn không có pháp luật. Chi bằng theo đúng tội danh mà định tội để răn người sau. Lý Hữu Diệm phải giải ngay đến chợ Đông, chém đầu cho mọi người biết. Hồ Hữu Thẩm phải truyền cho bọn viên lại Nội vụ phủ cùng đến xem, hoặc giả mắt thấy lòng sợ mà tự khuyên răn nhau để khỏi mắc tội, há chẳng là một phương thuốc hay cho bọn người sao?”.

    Vua Minh Mạng xử quan lại tham ô nghiêm khắc là đây
    Ảnh minh họa. 

    Chặt tay vì lấy trộm thùng nhựa thơm
    Vụ gian lận thứ hai xảy ra vào tháng 11 năm 1831. Toàn văn đoạn sử này như sau:
    Lũ Nguyễn Đức Tuyên, tư vụ Nội vụ phủ, ăn bớt nhựa thơm. Việc phát giác. Vua dụ rằng: “Lai dịch các kho phần nhiều là kẻ tham lam hèn mạt, bớt xén, dối trá, chẳng thiếu cách gì. Xảy ra đến đâu trừng phạt đến đấy, đã chiếu luật làm tội nặng, lại nhiều lần truyền dụ, dạy bảo hầu đến rát cổ họng. Cốt muốn cho kẻ gian đổi lòng đổi dạ, trở thành lương thiện, thế mà không ngờ lòng người khác xưa, ngày thêm gian giảo! Năm nay có vụ án (ăn cắp) sơn ở Vũ khố, đã đem nhẹ thành nặng vì khinh nhờn pháp luật, lừa dối vua. Kẻ phạm tội ấy đã bị xử tử, lại phải chặt một tay để treo ở cửa kho.
    Gần đây lại xảy ra vụ án mất trộm sa đoạn và hổ phách, hiện đương sai tra xét rất khẩn cấp. Nay sai dâng nhựa thơm thì ra lũ Nguyễn Đức Tuyên đã ăn bớt từ trước, lại dám lấy mật trộn lẫn vào để ít hóa nhiều, ý định lừa gạt che giấu. Trước còn chối cãi, đến lúc cả kho xưng ra, mới chịu thổ lộ thực tình, thì những người tai nghe mắt thấy ai mà không ghét. Vả lại vụ mất sơn chưa nguôi, án sa đoạn, hổ phách còn nóng hổi, chúng nó mù điếc, sao lại mất hết lương tâm, cố ý phạm tội như thế. Đáng lẽ cho trói đem ra chợ Cửa Đông chém đầu, nhưng lần này tạm chặt một bàn tay thủ phạm Nguyễn Đức Tuyên đem treo, xóa tên trong sổ làm quan, để lại cho nó cái đầu, khiến nó suốt đời hối hận và nhờ đó để làm cho mọi người đều biết tỉnh ngộ, răn chừa. Thế cũng là một cách trừng trị kẻ gian”.
    Khi thụt một lạng vàng, lấy cắp trong kho một thùng nhựa thơm mà vua Minh Mạng đã bắt chém đầu, chặt tay thủ phạm. Đọc lại những ghi chép trong sử sách đáng để cho chúng ta luận cổ suy kim.
    Theo Kienthuc.Net
  • Về cách đặt tên đệm của dòng họ Nguyễn

    Về cách đặt tên đệm của dòng họ Nguyễn

    Dòng họ Nguyễn làm Chúa, làm Vua trong một thời gian khá lâu (từ 1558 đến 1945), con cháu rất đông. để khỏi nhầm lẫn về thế, thứ, thân, sơ và người trong họ, các Chúa và các vua Nguyễn đã ban những nguyên tắc đặt tên và tên đệm cho con cháu trong dòng họ mình. Nhiều người, ngay cả người trong Hoàng tộc, cũng lúng túng trong việc nhìn nhận vai vế trong tộc mình.

    Việc đặt tên đệm do vua Minh Mạng chủ trương để áp dụng cho 20 đời tính từ vua Thiệu Trị về sau. Theo lời văn khắc trên đồng sách (bài ngự chế tự) thì việc này làm theo ý vua Gia Long.

    1. Từ vua Minh Mạng trở về trước (tức vua Gia Long ngược lên thêm 9 đời Chúa nữa)

    2. Những con cháu của chính vua Minh Mạng

    3. Họ của một số con cháu (Công tính)

     

    Chân dung Nguyễn Ánh trong thời gian ông lưu vong ở Xiêm La năm 1783.
    Chân dung Gia Long Nguyễn Ánh trong thời gian ông lưu vong ở Xiêm La năm 1783

    I. Những con cháu thuộc các thế hệ từ vua Minh Mạng trở về trước

    Gồm con cháu chín đời Chúa, anh em vua Gia Long và anh em vua Minh Mạng.

    Chúa Tiên (1558 – 1613) từ ngoài Bắc vào mang họ Nguyễn, tức Nguyễn Hoàng. Tương truyền rằng, khi bà vợ ông nằm mơ thấy thần nhân cho tờ giấy viết đầy cả chữPhúc, nhiều người đề nghị lấy chữ Phúc đặt tên cho con thì bà cho rằng: Nếu đặt tên cho con thì chỉ một người được hưởng Phúc, chi bằng lấy chữ Phúc đặt làm tên đệm thì mọi người đều được hưởng Phúc. Bà đặt tên cho con là Nguyễn Phúc Nguyên, nhánh họ Nguyễn vào Nam làm Chúa đổi thành Nguyễn Phúc bắt đầu từ đó. Từ NGuyễn Phúc Nguyên xuống đến vua Minh Mạng đều mang họ Nguyễn Phúc (Vua Minh Mạng là Nguyễn Phúc Đảm). Những hậu duệ của chín đời Chúa cùng họ Nguyễn Phúc với vua Minh Mạng được nhà vua đặt là Tôn Thất. Con gái của Tôn Thất là Tôn nữ.

    Một số thân tộc thuộc dòng những con trai khác của Nguyễn Hoàng còn ở lại đất Bắc (như dạng làm con tin) thì đổi ra họ Nguyễn Hựu.

    anh-vua-minh-mang
    Ảnh vẽ truyền thần Vua Minh Mạng

    II. Những con cháu của vua Minh Mạng

    Vua Minh Mạng cho làm riêng cho con cháu mình bài Đế hệ thi 20 chữ dành cho 20 đời.

              Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh
              Bảo Quí Định Long Trường
    Hiền Năng Kham Kế Thuật
    Thế Thụy Quốc Gia Xương

    Con vua Minh Mạng có tên đệm là Miên như Miên Tông (Vua Thiệu Trị), Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương), Miên Trinh (Tuy Lý Vương).

    Cháu nội vua Minh Mạng có tên đệm là Hường như Hường Nhậm (Vua Tự Đức).

    Chắt nội tên đệm là Ưng như Ưng Chân (Vua Dục Đức).

    Chỉ có những người trong Đế hệ thi mới được làm vua: Miên Tông (Thiệu Trị), Hồng Nhậm (Tự Đức), Ưng Chân (Dục Đức), Bửu Lân (Thành Thái), Bửu Đảo (Khải Định), Vĩnh San (Duy Tân), Vĩnh Thụy (Bảo Đại).

    Con gái, cháu gái của vua Minh Mạng cũng có một cách đặt tên riêng.
    Nói chung, con gái của vua Minh Mạng hay của các vua con cháu của vua Minh Mạng cũng đều áp dụng theo một cách đặt chữ lót sau đây:
    Con gái của vua là Hoàng nữ, khi được sắc phong thì trở thành Công chúa và có tên hiệu riêng. Ví dụ Hoàng nữ Trinh Thận (em ruột Miên Thẩm) được sắc phong là Lại Đức Công chúa.

    Công chúa về sau có anh hay em làm vua thì được gọi là Trưởng Công chúa (để phân biệt với Công chúa con vua đang trị vì), có cháu làm vua (vua gọi bằng cô) thì được gọi là Thái trưởng công chúa (trở thành cô của vua tại vị).

    Con, cháu gái các Hoàng tử tức cháu nội của vua thì phải căn cứ vào thứ bậc của anh hoặc em trai mà đặt.

    Con trai của Hoàng tử là Công tử, chị em gái của Công tử là Công nữ, con trai, con gái của Công tử là Công tôn nữ (tôn đây có nghĩa là cháu), con gái Công tôn là Công tằng tôn nữ, xuống một bậc nữa là Cung huyền tôn nữ, xuống nữa là Lai tôn… Nhưng để đơn giản các đời kế tiếp chỉ gọi là Tôn nữ với ý nghĩa là cháu gái.

    III. Những con cháu của anh và em vua Minh Mạng

    Vua Minh Mạng có một người anh (Hoàng tử Cảnh) và chín người em trai có con cháu. Những người này là phên dậu gần gủi của nhà vua. Để phân biệt với các Tôn Thất khác (con cháu chín đời chúa Nguyễn), vua Minh Mạng cho làm 10 bài Phiên hệ thi, mỗi bài có 20 chữ dùng làm chữ lót sau chữ Tôn Thất cho 20 đời (thế) con cháu của anh và em của ông.

    Dành cho con cháu Hoàng tử Cảnh, anh cả của vua Minh Mạng:

    Bài 01: ANH DUỆ

    Mỹ Duệ Anh Cường Tráng

    Liên Huy Phát Bội Hương

    Lệnh Nghi Tàm Tốn Thuận

    Vị Vọng Biểu Khôn Quang

    Dòng này đến đời thứ tư có một người rất nổi tiếng là Ông Cường Để (Kỳ Ngoại Hầu) giữ cương vị minh chủ của Việt Nam Quang Phục hội do nhà cách mạng Phan Bội Châu sáng lập.

    KỲ NGOẠI HẦU CƯỜNG ĐỂ (1882-1951)
    KỲ NGOẠI HẦU CƯỜNG ĐỂ (1882-1951)

    Bài 02: KIẾN AN

    Lương Kiến Ninh Hòa Thuận
     Du Hành Suất Nghĩa Phương
    Dưỡng Di Tương Thức Hảo
    Cao Túc Thể Vi Tường

    Bài 03: ĐỊNH VIỄN

    Tĩnh Hoài Chiêm Viễn Ái
    Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha
    Nghiễm Cách Do Trung Đạt
    Liên Trung Tập Cách Đa

    Bài 04: DIÊN KHÁNH

    Diên Hội Phong Hanh Hợp
    Trọng Phùng Tuấn Lăng Nghi
    Hậu Lưu Thành Tú Diệu
    Diễn Khánh Thích Phương Huy

    Bài 05: ĐIỆN BÀN

    Tín Diện Tư Duy Chánh
    Thành Tín Lợi Thỏa Trinh
    Túc Cung Thừa Hữu Nghị
    Vinh Hiển Tập Khanh Danh

    Bài 06: THIỆU HÓA

    Thiện Thiệu Kỳ Tuấn Lý
    Văn Tri Tại Mẫn Du
    Ngưng Lân Tài Chí Lạc
    Địch Đạo Doãn Phu Hưu

    Bài 07: QUẢNG OAI

    Phụng Phù Trưng Khải Quảng
    Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ
    Điển Học Kỳ Giai Chí
    Đôn Di Khắc Tự Trì

    Bài 08: THƯỜNG TÍN

    Thường Các Tuân Gia Huấn
    Lâm Trang Túy Thạnh Cung
    Thận Tu Di Tấn Đức
    Thọ Ích Mậu Tân Công

    Bài 09: AN KHÁNH

    Khâm Tùng Xưng Ý Phạm
    Nhã Chánh Thủy Hoằng Qui
    Khải Đế Đằng Cần Dự
    Quyển Ninh Cọng Tập Hy

    Bài 10: TỪ SƠN

    Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm
    Phu Văn Ái Diệu Dương
    Bách Chi Quân Phụ Dực
    Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương

    Một người cháu bốn đời của ông Từ Sơn là nhà sử học cách mạng Tôn Dương Ky (1914 – 1987) chủ biên tạp chí Tiến Hóa và tạp chí Ngày Mai ở Huế, tác giả sách Việt Sử Khảo Lược, Tiến Hóa 1949.

    IV. Họ của một số con cháu công thần (Công tính)

    Năm 1593, Nguyễn Hoàng đem các con ra Bắc giúp vua Lê chúa Trịnh, khi trở vào Nam, để lấy lòng tin của chúa Trịnh, Nguyễn Hoàng đã để Công tử Hải (thứ năm) và các cháu nội (con của Hán và Hải) ở lại trên đất Bắc. Con cháu những người này về sau lấy chữ lót là Hựu (Nguyễn Hựu). Riêng con cháu của Công tử Hiệp và Công tử Trạch can vào quốc sự, con cháu của hai công tử này về sau đổi ra họ Nguyễn Thuận.

    Buổi đầu vào Thuận Hóa, trong số các danh thần đi theo Nguyễn Hoàng có Mạc Cảnh Huống. Về sau con trai của Mạc Cảnh Huống là Phó tướng Vinh lấy bà Công nữ Ngọc Liên – con gái chúa Sãi, được Chúa cho cải họ thành Nguyễn Hữu.

    Con gái Ngọc Hoàng là bà Ngọc Tú lấy Trịnh Tráng. Thấy chúa Trịnh không có tâm giữ phận bề tôi bà rất buồn phiền. Bà đã nhờ Nguyễn Kiều ở Đông Đô giúp đưa thư và bảo ấn vào Nam cho chúa Sãi. Nguyễn Kiều giả làm người đi chọi gà thoát ra khỏi Đông Đô vào đến xứ Đàng trong. Kiều được chúa Sãi trọng đãi và gả cho ông Công nữ Ngọc Đỉnh (Công nữ thứ ba). Về sau ông lập được nhiều công trạng, con cháu ông có nhiều người nổi tiếng. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820) vua Minh Mạng cho dòng họ ông đổi thành họ Nguyễn Cửu

    Mấy họ Nguyễn Hựu, Nguyễn Hữu và Nguyễn Cửu nói trên được nhà vua xem là Công tính. Con cháu của các Công tính hiện nay rất đông.
    Chế độ quân chủ ở Việt Nam đã cáo chung cách đây hơn nửa thế kỷ, dòng họ Nguyễn Phước gồm các con cháu các chúa, các vua không còn phân biệt thân sơ nữa, tất cả đều bình đẳng trước dòng họ mình nên xu thế hiện nay nhiều người Tôn Thất lấy lại Nguyễn Phúc, những người có chữ lót theo Phiên hệ thi và Đế hệ thi đặt sau Nguyễn Phúc một chữ lót theo thế thứ của mình.

    [Nguồn: Theo Chín đời Chúa mười ba đời Vua Nguyễn – Nguyễn Đắc Xuân]

  • 17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Sự xuất hiện của người Pháp vào giữa thế kỷ 19 đã mang tới những thay đổi lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Cũng chính nhờ họ mà ngày nay chúng ta còn có thể chiêm ngưỡng được những hình ảnh quý báu của quá khứ vương triều Việt.

     

    Nhà Nguyễn (1802 – 1945) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Trong 143 năm tồn tại của mình, nhà Nguyễn đã ghi lại nhiều dấu ấn quan trọng trong dòng chảy lịch sử.
    Đó cũng là thời kỳ xã hội Việt Nam biến đổi đầy xáo trộn. Sự can thiệp vũ lực của người Pháp đã mang đến những thăng trầm lớn cho lịch sử. Các nhiếp ảnh gia đã lưu lại những hình ảnh tư liệu quý giá.

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Chân dung vua Thành Thái (1889-1907) trong bộ triều phục

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Một vương phi già trong triều đình ở Huế

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Thái tử Bảo Long, con vua Bảo Đại, ảnh chụp năm 1936

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Các quan hành lễ trước điện Thái Hòa

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Vua Khải Định bên cạnh các quan cố vấn triều đình

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Vua Khải Định ăn trưa tại điện Cần Chánh

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Lễ thiết triều của các quan lại triều Nguyễn, ảnh chụp năm 1926

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Bà Chúa Nhất, trưởng nữ của vua Dục Đức, chị cả của vua Thành Thái, ảnh chụp năm 1931

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Hai vị quan phục vụ trong triều, ảnh chụp tại Huế năm 1931

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Chân dung vua Bảo Đại, ảnh chụp năm 1928

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Nam Phương hoàng hậu thời thiếu nữ

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Nhan sắc của Nam Phương hoàng hậu

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Nam Phương hoàng hậu trong lễ tấn phong năm 1934

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Hai người vợ của vua Thành Thái năm 1907

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Vua Duy Tân chụp cùng quan lại trong triều năm 1907

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Vị vua trẻ tuổi Duy Tân ngồi trên kiệu, ảnh chụp năm 1907

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Ảnh chụp một vị quan triều Nguyễn cùng với vợ của mình năm 1899

    17 bức hình cực hiếm về các vua chúa triều Nguyễn

    Nhà Nguyễn (1802 – 1945) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Trong 143 năm tồn tại của mình, nhà Nguyễn đã ghi lại nhiều dấu ấn quan trọng trong dòng chảy lịch sử.
  • Bí ẩn áo bào của các vua nhà Nguyễn

    Bí ẩn áo bào của các vua nhà Nguyễn

    Người xưa và người đời gọi áo vua mặc bằng nhiều tên khác nhau như áo bào, hoàng bào, long bào… Được biết trong kho đồ vải ở bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế (BTMTCĐH) mà tiền thân là điện Long An (xây dựng năm 1845 thời vua Thiệu Trị) có khoảng 100 bộ trang phục của không chỉ các bậc mẫu nghi thiên hạ, thái tử, hoàng tử, công chúa, quan lại cùng lính tráng… mà có cả áo bào của các vua.

    Bí ẩn áo bào của các vua nhà Nguyễn

    Ít ai biết phía sau những chiếc áo từng được thiên tử ngự này có nhiều chuyện thâm cung bí sử gắn với nạn tham tang của những thợ thêu, tính cách các vua, những trận đòn và không ít cái chết thảm khốc…

    Bào vua dát vàng, ngọc

    Theo tài liệu được ghi trong BĐMTCĐH, y phục nhà vua mặc trong lễ thiết đại triều và các dịp Tết gọi là long bào, thêu hình rồng bay lên (rồng thăng), hai con rồng chầu mặt trời (lưỡng long chầu nhật), điểm xuyết các tầng mây, sóng nước (thủy ba). Trong lễ thiết thường triều, vua Nguyễn mặc hoàng bào, thêu rồng cuộn tròn (viên long) bằng chuỗi ngọc, xen kẽ bát bửu, hoa lá, thủy ba, chữ thọ.

    Ngoài long bào, y phục đại lễ của vua Nguyễn còn có long cổn (y phục tế đàn Nam Giao) màu đen, tay rộng, trang trí kiểu thức rồng thăng, rồng lượn. Ngoài ra còn có hồng bào (y phục cày ruộng tịch điền) màu gạch non, trang trí rồng nhỏ, ẩn trong mây (long vân). “Với quan niệm hoàng đế là bậc anh minh, thay trời trị dân, do đó trang trí hình rồng chỉ được thể hiện trên trang phục vua và thái tử. Tuy nhiên nếu trên long bào, hình rồng chân 5 móng được thể hiện dưới các kiểu thức phi long (rồng bay) hay hồi long hướng nhật (rồng quay đầu về phía mặt trời) có kích thước cân đối, mặt rộng uy nghi thì hình rồng trên long bào thái tử chỉ là mặt nạ, chân có 4 móng, thân thu nhỏ. Còn hình rồng trang trí trên y phục hoàng tử chỉ là các loài giao, mãng, những biến thể thứ cấp của rồng, vì thế y phục hoàng tử được gọi là mãng bào hay mãng lan”, nói về áo bào của người có chân mệnh thiên tử cùng các hoàng nam của mình là thái tử (người kế vị ngai vàng) và hoàng tử, thông tin từ BTMTCĐH, cho biết như thế.

    Riêng chuyện về áo vua mặc mà người viết tiếp cận được từ tài liệu cổ Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ do nội các triều Nguyễn biên soạn thì bào vua được ghi chú với nhiều điểm khác biệt và chi tiết hơn. Theo đó, phục trang vua mặc dùng thiết triều bằng lụa quý được thêu rồng tinh xảo, đính chỉ bằng vàng và nhiều châu ngọc quý báu. Ngoài hình tượng con rồng, áo vua còn có sự hiện diện của chiếc sừng loài tê giác nay đã tuyệt chủng: “Hoàng bào may bằng sa đoạn sắc vàng chính, thêu rồng lớn rồng nhỏ, mây, thủy ba và 4 chữ phúc thọ. Mặt trước và sau mỗi mặt có 2 chữ “vạn thọ”, 3 hình rồng. Mỗi tay áo có 1 hình rồng, 2 cánh và san hô, hỏa lựu, xâu chuỗi bằng hạt ngọc châu nhỏ. Cổ áo bằng đoạn đậu 8 sợi tơ bóng màu tuyết trắng, 2 dải rủ xuống đều thêu rồng mây. Xiêm dùng sa mỏng trắng bóng toàn sợi tơ có hoa màu đỏ, dệt kiểu rồng cuộn tròn, thủy ba, cổ đồ, bát bảo… dưới nối bằng đoạn gấm hoa hồi văn dây leo, lan can đỏ, trong lót lụa đỏ, gấm hạng nhất toàn hoa kim liên, màu lục hay lam, áo nối bằng lụa mộc. Đai bằng vàng, đoạn đậu 8 sợi tơ trắng bóng nhuộm màu vàng chính, khâu chen kẽ tơ lông đổ, đính sừng con tê, dài, vuông, như hình cái mộc cộng 18 mảnh, ngoài bọc vàng tốt, khảm 92 hạt trân châu”.

    Những cấm lệnh lạ kỳ…

    Chiêm ngưỡng kỹ những chiếc áo vua còn được lưu giữ ở xứ kinh kỳ một thuở sẽ thấy, mặt trước và sau từng chiếc áo bào đều có biểu tượng rồng 5 móng ẩn hiện giữa những tầng mây trên nền lụa vàng quyền quý. Ít ai biết được rồng 5 móng cùng sắc vàng trên áo bào kia chỉ có một người trên muôn vạn người được “ngự”. Mọi hành vi lạm dụng, kể cả vô tình, bất kể quan hay dân đều bị xử lý nghiêm, nhẹ thì bị nọc ra đánh (phạt trượng) hay tội xuy (vừa đánh đòn vừa răn dạy, sỉ nhục), tịch thu tang vật làm của công. Trường hợp nghiêm trọng kẻ vi phạm sau khi ăn đòn sẽ bị lưu đày, quan lại bị cách chức.

    Những hình phạt nghiêm khắc như trên được qui định rõ trong Bộ hình triều Nguyễn. Theo đó, những thứ như nhà ở, xe cáng, áo mặc, đồ dùng của quan và dân đều có thứ bậc, nếu trái mẫu thức, lạm dụng, người có chức sẽ bị phạt 100 trượng, cách chức không lưu dụng (không cho làm quan). Với thường dân phạt xuy 50 roi nhưng chỉ bắt tội gia trưởng (chủ nhà), thợ làm đều phải phạt xuy 50 roi.

    Luật triều đình qui định những thứ làm trái mẫu thức bắt buộc phải chữa lại. Các thợ làm tự thú được tha tội, nhưng không được thưởng: “Nếu người nào lạm dụng những thứ trái cấm lệ như thêu vẽ con rồng con phượng, con giao long thì quan hay dân đều phạt 100 trượng, đày 3 năm, thợ làm phải phạt 100 trượng. Những thứ làm trái lệ cấm đều sung làm của công, kẻ thú cáo (thú tội và cáo giác – PV) được thưởng 50 lạng bạc. Nếu thợ làm mà thú cáo ra thì được tha tội, lại được thưởng nữa”.

    Cũng theo qui định của triều Nguyễn, triều đình cấm cả đàn bà, con gái lạm dụng thứ áo mặc thêu dát vàng sắc lóng lánh, thứ cài đầu, vòng xuyến bằng vàng dát châu báu (vàng không dát châu báu thì không cấm – PV) cùng dùng trân châu thêu đính vào áo dày, bởi đó là qui thức dành cho bậc mẫu nghi thiên hạ là hoàng hậu hay mẹ của vua. Nếu ai đó vi phạm, việc phát giác ra cả thảy người phạm tội và người liên đới đều bị chiểu theo luật để trị tội, các thứ áo mặc, đồ dùng bị thu làm công. Luật hình thời bấy giờ nói rõ nếu đàn bà, con gái phạm tội thì bắt tội.

    “Ăn” bớt bào vua: nhẹ phải đòn, nặng… xử tử

    Chuyện rằng từ lời tâu của Bộ Hộ và nội các, Phủ Nội vụ trong quá trình đốc suất thợ may triều đình thêu mới 4 chiếc áo vua phát hiện một số ngờ vực, hoàng đế Minh Mạng đã giao cho hội đồng tính kỹ và phát hiện “trong 4 chiếc áo ấy chiếc nào cũng lấy thừa từ 1 tấc trở lên, rõ ràng là tên thợ may cố ý lấy bớt đi”.

    Việc thợ may chốn cấm cung xén bớt áo bào khiến hoàng đế Minh Mạng phẫn nộ nên đã thiết triều luận xử tội những thợ may tham lam và các quan lại đốc suất không làm tròn nhiệm vụ: “Niên cục chính Tư trượng là Lê Văn Sự chiểu luật “bất kính” xử tội giảo giam hậu (giam chờ ngày treo cổ – PV), trước đem đánh 40 côn sơn đỏ. Đốc công Lê Văn Thu có trách nhiệm đốc sức thợ, mà dung túng cho thợ cố ý làm hơn kém, chuẩn sai đội Cẩm y đến bắt tên Lê Văn Thu xiềng khóa lại đem giam cấm, đợi sau xuống chỉ theo thế mà xử trị. Hội đồng coi làm là Ngô Văn Địch, Lê Viết Trị, Nguyễn Khoa Dục, Ngô Ngọc Cương lần này hãy tạm theo mực nhẹ đều phạt lương 3 tháng để làm răn”.

    Năm 1841, vua Minh Mạng băng hà, kế nghiệp ông là hoàng đế Thiệu Trị. Ngay năm đầu tiên trị vì, vị hoàng đế thứ 3 triều Nguyễn đã như vua cha thiết triều xử hàng loạt quan chức vì không trọn chức sự trong việc làm bào vua. Lời dụ rằng: “Lần này thêu bào rồng, xiêm vàng là việc quan trọng, các ngươi thừa hành phải nên mười phần cẩn thận, phải thực khéo mới xứng đáng với chức sự của mình. Thế mà các đốc công không để ý đốc suất thợ làm, đến nỗi áo xiêm ngắn sai kiểu mẫu, chỗ thêu nối thêm màu đậm, nhạt nhìn kỹ chỗ nọ chỗ kia không được hợp nhau, trong đó đường thêu lại có nhiều chỗ nhăn nhúm, dày thưa, nhiều chỗ không đúng mẫu thức, thực là sơ suất quá lắm. Các viên đốc công chuyên ty là viên ngoại lang Hồ Đình Hy, chủ sự là Hà Văn Hanh đều giáng 1 cấp, được lưu dụng. Còn bọn thợ thêu là Nguyễn Chương, Phạm Đình Luân, Nguyễn Văn Đắc, Nguyễn Đắc Thông, Nguyễn Tất Tố chính tay thêu mà nhầm, chuẩn đem đánh 100 trượng thực đau, phó trị sự là Lê Văn Tuyển, tượng mục là Lê Văn Sự chuẩn phạt mỗi tên 80 trượng để làm răn”.

    Từ chuyện hai hoàng đế Minh Mạng, Thiệu Trị thiết triều, ban dụ quở trách, ra lệnh xử phạt đánh đòn, xử tử những can phạm ăn chặn, may xấu bào vua cho thấy sự nghiêm khắc của luật pháp thời bấy giờ, đồng thời cũng cho hậu thế biết thêm một phần tính cách của 2 vị hoàng đế này: Minh Mạng ghét xự xảo trá, gian tham; còn con trai ông, hoàng đế Thiệu Trị trong một chừng mực nào đó cho thấy ông khá kỹ tính… Đây hẳn là những thông tin thú vị để ta biết rõ hơn về áo bào của vua, nó không chỉ xa hoa mà còn ẩn sau đó tính khí của các vị hoàng đế và cả những bi kịch tàn khốc.

    Theo Net Cố Đô

  • Chuyện về Hậu cung triều Nguyễn

    Với 143 năm tồn tại (1802-1945), hậu cung triều Nguyễn và những câu chuyện thâm cung bí sử hầu như không được sử sách ghi chép nhưng lại được biết qua những câu chuyện truyền miệng của các nhân vật đã từng sống cùng thời điểm hoặc sống trong hậu cung.

    Ở Huế từng truyền tụng câu ca dao:

    Ngọ Môn năm cửa chín lầu,

    Một lầu vàng tám lầu xanh,

    Ba cửa thẳng hai cửa quanh,

    Sinh em ra làm phận gái,

    Chớ nên hỏi chốn kinh thành mà làm chi.

    Đã mang thân phận nữ nhi thì không nên biết đến chốn kinh thành, hay chính xác hơn là không nên vì vinh hoa phú quý, quyền cao chức trọng mà như những con thiêu thân lao vào hậu cung của các bậc đế vương để đổi lấy một cuộc sống lắm tai ương, bất trắc. Bước vào hoàng cung là những thiếu nữ thanh xuân, tuổi trẻ, thiện lương còn bỡ ngỡ trước cuộc đời. Tuy nhiên, cuộc sống đầy âm mưu thủ đoạn của chốn cung cấm đã biến những thiếu nữ thanh thuần trở thành những người lắm mưu, nhiều kế, tay dính máu tanh. Thậm chí là một cuộc sống cô đơn, buồn bã, đánh mất cả tuổi thanh xuân vì không được ân sủng của nhà vua.

    Cung phi của các vị vua triều Nguyễn hầu hết đều là con gái của các vị quan trong triều đình. Sự hậu thuẫn của gia tộc cũng chính là một trong những nguyên nhân để các bà trong cung Nguyễn nhận được sự sủng ái của các bậc đế vương. Những cuộc hôn nhân này cũng chính là sự cân bằng quyền lực giữa các thế lực trong triều, nhằm ổn định tình hình chính trị của quốc gia. Cho dù mục đích phía sau của những cuộc hôn nhân này là gì, thì hầu hết những cô gái này đã đánh đổi tuổi thanh xuân và nước mắt của họ để đổi lấy một cuộc sống hoặc là quyền cao chức trọng, mẫu bằng tử quý, hoặc là cô đơn, phòng không gối chiếc cho đến cuối cuộc đời. Những người con gái một khi đã bước chân vào cung cấm thì chỉ có đi mà không thể trở lại. Cả cuộc đời, cả số phận, dù hạnh phúc hay bất hạnh, dù quyền cao chức trọng hay cô đơn chiếc bóng, ảo não u buồn… tất cả chỉ phụ thuộc vào một người duy nhất: Hoàng đế!

    “Một ngày dựa mạn thuyền rồng

    Cũng bằng muôn kiếp sống trong thuyền chài”

    Cũng bởi ước mong được một ngày dựa mạn thuyền rồng, mà những bi kịch, những tiếc nuối và cả những ai oán của các nữ nhân chốn hậu cung vẫn cứ mãi tiếp diễn. Có những người được vua sủng ái thì hưởng tột đỉnh vinh quang, hạnh phúc nhưng cũng có những người mang nỗi buồn cô đơn, không thể than thở cùng ai. Những phi tần dù được nhà vua sủng hạnh hay chưa được sủng hạnh, nhưng khi vua băng hà cũng phải theo nhà vua đến nơi an nghỉ cuối cùng để phụng thờ hương khói cho đến cuối cuộc đời.

    Chuyện về Hậu cung triều Nguyễn

    Bên trong khu mộ 15 liếp.

    Ở Huế còn có câu thành ngữ “đưa con vô Nội” để chỉ thân phận của các cô gái chốn cung cấm, một khi đã bước vào cung thì không mong ngày trở ra. Đưa con vô Nội lâu ngày đã trở thành một câu nói cửa miệng của người Huế khi nói đến một sự việc có đi mà không có lại, cũng giống như đưa con vô Nội là không mong có ngày gặp lại. Có một số cung phi chỉ thực sự bước chân ra khỏi cung cấm sau khi triều Nguyễn cáo chung và sống lặng lẽ cho đến cuối cuộc đời. Một số sau khi ra khỏi cung tuy vẫn là gái tân nhưng tuổi trẻ và thời thanh xuân thì đã gởi lại trong Tử Cấm Thành.

    Nhà Nguyễn cũng đặt ra các quy định chăm sóc sức khỏe cho các cung nữ. Khi đau yếu, bệnh tật, họ phải ra khỏi hoàng cung để dưỡng bệnh tại Bình An Đường. Hiện nay, trong hệ thống kiến trúc triều Nguyễn có hai nhà Bình An Đường, một ở bên ngoài, góc Đông Bắc Hoàng thành (đường Đặng Thái Thân) và một ở bên ngoài lăng Tự Đức, gần cửa Vụ Khiêm. Hai nhà Bình An Đường này là nơi dưỡng bệnh (nếu bệnh nhẹ) và chờ chết (nếu bệnh nặng) của các thái giám và cung nữ chốn hậu cung thời kỳ nhà Nguyễn. Bình An Đường bên ngoài Hoàng thành đã được trùng tu vào năm 2003 nhưng Bình An Đường của Lăng Tự Đức hiện chỉ còn dấu vết của la thành và một cổng vào còn khắc dòng chữ Bình An Đường môn.

    Chuyện về Hậu cung triều Nguyễn

    Xem triển lãm ảnh cung nữ triều Nguyễn.

    Phía sau khuôn viên Bình An Đường Lăng Tự Đức, hiện vẫn còn 15 ngôi mộ của các bà vợ vua Tự Đức với nhà bia và la thành bao quanh, dân địa phương gọi đây là khu lăng mộ 15 Liếp (hay mộ các bà). Khu lăng mộ này hầu như bị bỏ hoang, hương khói của khu lăng mộ đều do người dân chung quanh phúng viếng, thỉnh thoảng cũng có thân nhân và người trong hoàng tộc Nguyễn đến thăm viếng. Trong 15 ngôi mộ ở tại đây, chỉ có 2 ngôi mộ là được thân nhân đến tu sửa, bảo dưỡng. Hương tàn, khói lạnh là thực trạng của khu lăng mộ các bà theo phụng thờ hương khói khi vua Tự Đức băng hà. Sống thì phòng không gối chiếc, chết lại mồ hoang cỏ lạnh là số phận của không ít nữ nhân chốn hậu cung thời Nguyễn.

    Sử sách Việt Nam hầu như không ghi chép về những cuộc tranh giành quyền lực ở chốn hậu cung. Hiếm hoi lắm chúng ta mới thấy được một đoạn hồi ký của Michel Đức Chaigneau trong cuốn Souvenir de Hué cho biết một vài chi tiết sinh động về mối quan hệ giữa các phi tần trong cung cấm dưới thời vua Gia Long. Nữ nhân ở hậu cung thời điểm bấy giờ chưa phải là nhiều lắm (nhà vua có 21 bà vợ có con và được ghi chép vào Nguyễn Phúc tộc thế phả), nhưng cũng làm cho nhà vua đau đầu, đến nỗi nhà vua phải than thở “Trị nước thật dễ dàng, không khó nhọc bằng trị chốn nội cung của mình”. Trong một cuộc gặp gỡ với Michel Đức Chaingeau, nhà vua đã tâm sự: “Khanh tưởng rằng sau khi bãi triều, thanh toán xong mọi việc chính trị và hành chính trong ngày là công việc của trẫm đã xong và thế là trẫm có thể nghỉ ngơi trong hậu cung sao? Khanh lầm đó. Khanh không thể tưởng cái gì đang chờ đợi Trẫm ở đấy (vua chỉ về phía hậu cung) sau khi trẫm ra khỏi nơi này. Ở đây, trẫm hài lòng vì được nói chuyện với những người hiểu biết, họ lắng nghe trẫm, hiểu biết trẫm và khi cần thì vâng lời trẫm! Vào trong ấy, trẫm gặp phải những con quỷ dữ. Chúng gây gổ, đánh đập nhau, cấu xé nhau… rồi sau cùng kéo nhau đến đòi trẫm phân xử. Nếu làm đúng thì trẫm phải trị tội cả bọn họ, vì trẫm không biết ai sẽ nhường nhịn ai trong cơn giận dữ!”

    Sau một hồi im lặng, vua Gia Long nói tiếp: “Này đây, một chốc nữa, trẫm sẽ phải đứng giữa một bầy quỷ cái, chúng nó sẽ gào thét làm trẫm điếc cả tai” (Michel Đức Chaigneau, Souvenirs de Hué, Éditions typhon, Shanghai 1941, pp. 98-99).

    Những vấn đề mà vua Gia Long đã tâm sự ở trên chỉ là những việc cãi vã công khai (minh tranh) để tranh giành sự sủng ái của các bậc đế vương. Phía sau những cuộc cãi vã này hẳn là không thiếu những thủ đoạn độc ác, tinh vi (ám đấu) nhằm loại trừ nhau của những bóng hồng nhiều tham vọng muốn làm chủ chốn hậu cung. Để minh chứng phần nào cho nhận định này, chúng tôi đã làm một thống kê nhỏ qua Nguyễn Phước tộc thế phả (Nguyễn Phúc tộc Thế phả, Nhà Xuất bản Thuận Hoá Huế 1993) và thấy như sau:

    Vua Gia Long có 31 người con (13 hoàng tử và 18 công chúa) thì số lượng mất sớm là 06 người (01 tảo thương, 05 mất sớm), chiếm tỷ lệ 19,35%. Vua Minh Mạng có 142 người con (78 hoàng tử và 64 công chúa) thì có đến 30 người mất khi đang còn là bào thai hoặc lúc tuổi còn nhỏ (13 tảo thương, 17 mất sớm), chiếm tỷ lệ 21,12%. Vua Thiệu Trị có 64 người con (29 hoàng tử và 35 công chúa) thì số lượng con mất sớm là 28 người (05 tảo thương, 23 mất sớm), chiếm tỷ lệ 43,75%. Và đến đời Tự Đức thì nhà vua thể chất yếu nhược, không có khả năng sinh con nối dõi và cũng đến thời điểm này, sự truyền thừa của dòng trưởng (con vợ chính) triều Nguyễn xem như chấm dứt.

    Chỉ tính riêng 3 vị vua đầu triều Nguyễn, ở vào thời thịnh trị nhất, ta thấy hiện tượng các hoàng tử, công chúa chết non khi đang còn là bào thai (tảo thương) hoặc mất sớm, theo thời gian ngày càng tăng. Liệu rằng trong những số phận bất hạnh ấy, có ai là nạn nhân của những vụ “ám đấu” để tranh giành quyền lực ở chốn hậu cung?

    Sau khi vua Tự Đức băng hà (ngày 19 tháng 7 năm 1883), triều đình nhà Nguyễn bước vào giai đoạn khủng hoảng. Pháp đã đặt xong nền móng của chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam, ngai vàng và các vua kế vị cũng gặp nhiều thay đổi. Chỉ trong 4 tháng (từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1883), ngai vàng triều Nguyễn đã 3 lần đổi chủ: Dục Đức – Hiệp Hòa – Kiến Phúc. Đây là thời điểm kinh đô Huế tồn tại hai chính thể cai trị – thực dân Pháp và triều đình phong kiến Nguyễn và cũng là giai đoạn mà các vị vua nối ngôi liên tục thay đổi.

    Do sự bất ổn về triều chính, hậu cung triều Nguyễn giai đoạn này cũng im hơi lặng tiếng. Các bậc đế vương về sau như Khải Định (chỉ có duy nhất một con trai), Bảo Đại khi ở ngôi vua chỉ có duy nhất một bà vợ là Nam Phương hoàng hậu nên sự đấu đá tranh giành chốn hậu cung xem như chấm dứt.

    Hậu cung triều Nguyễn trong suốt 143 năm tồn tại, tuy chỉ là những hoạt động mặt sau của vương triều nhưng những hoạt động của chốn hậu cung này lại góp phần quyết định cho việc sản sinh ra một thế hệ lãnh đạo của triều đình phong kiến Nguyễn và trong một chừng mực nhất định nào đó cũng góp phần không nhỏ đến sự bình ổn chính trị vào thời điểm bấy giờ.

    Theo Net Cố Đô.

  • Vua Minh Mạng ‘giải vây’ cho tàu Anh mắc cạn ở Hoàng Sa

    Vua Minh Mạng ‘giải vây’ cho tàu Anh mắc cạn ở Hoàng Sa

    Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ cho biết: Vào tháng 12/1836 thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người được nhà Nguyễn cứu sống đưa vào bờ biển Bình Định.

    Trong thời kỳ làm hoàng đế, vua Minh Mạng và vương triều Nguyễn đã có những việc làm thiết thực để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.

    Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 104, năm Minh Mạng thứ 14 (1833) chép: “Vua bảo bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.

    Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 154, năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chép: “Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có cái giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lí ba bình” (tức là muôn dặm sóng êm).

    Cồn Bạch Sa có chu vi 1070 trượng, tên cũ  là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái (tức năm 1834) vua toan dựng miếu lập bia chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được.

    Vua Minh Mạng ‘giải vây’ cho tàu Anh mắc cạn ở Hoàng SaBản dập Mộc bản triều Nguyễn phản ánh vua Minh Mạng cho giúp đỡ tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa.

    Đến đây, mới sai Cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về”.

    Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 176, trang 1, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) chép: “Mùa đông, tháng 12, thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình Định.

    Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và  gạo. Lại phái thị vệ  thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ  ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt. Phái viên về tâu, vua nói: “Họ, tính vốn kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn chẩn tuất, bỗng cảm hoá, đổi được tục man di. Thật rất đáng khen”. Sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải; các người tuỳ tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.

    Từ những việc làm như trồng cây, lập miếu thờ ở  Hoàng Sa hay cho cứu vớt tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa đã cho thấy vương triều Nguyễn có chủ quyền riêng ở quần đảo này. Bên cạnh đó, Mộc bản triều Nguyễn và các sách lịch sử khác chưa hề phản ánh việc các nước khác tranh chấp với triều Nguyễn trên quần đảo Hoàng Sa.

    Theo Báo Đất Việt

  • Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931

    Công chúa Mỹ Lương, nữ sinh áo tím Đồng Khánh, quan võ ở Huế… là loạt ảnh màu hiếm có được phóng viên tạp chí National Geographic chụp ở Đông Dương 1931.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Bà Chúa Nhất, hoàng trưởng nữ của vua Dục Đức, chị cả của vua Thành Thái và các hầu gái. Ảnh: Corbis.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Công chúa Mỹ Lương, tên thật Nguyễn Thị Cẩm Hà, con của bà Chúa Nhất.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Một ông quan văn đứng trước Điện Cần Chánh ở Huế.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Hai ông quan võ trong triều đình Huế.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Cửa Hiển Nhơn ở Hoàng Thành Huế.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Đài chiến sĩ trận vong bên bờ sông Hương.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Hai em nhỏ đứng trước một tấm bình phong ở Hội An.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Những người cửu vạn An Nam.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Đàn ông và phụ nữ An Nam bên đường Cái Quan (Quốc lộ 1 ngày nay).

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Ngựa và hình nhân vàng mã của người Việt.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Các nhà sư ở Huế.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Một phụ nữ bán đồ mộc.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Nữ sinh trường Đồng Khánh ở Huế với áo dài tím đặc trưng.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Một bức ảnh khác của các nữ sinh Đồng Khánh.

    Ảnh màu cực hiếm về Huế năm 1931
    Tháp Chàm ở Ninh Thuận.

  • Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn

    Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn

    Một trang mạng Trung Quốc đăng ảnh vài mẫu bút tích của một số vị vua Nhà Nguyễn. Mời bạn xem và cho ý kiến!

    Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn

    Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn