Tag: Thói hư tật xấu

  • Những điểm khác nhau thú vị giữa người Mỹ và người Việt

    Những điểm khác nhau thú vị giữa người Mỹ và người Việt

    Người Mỹ lên Sếp thì gầy còn người Việt lên Sếp thì béo là một trong 33 điểm khác nhau thú vị giữa người Mỹ và người Việt.

    Những điểm khác nhau thú vị giữa người Mỹ và người Việt

     

    1. Thư ký của giám đốc người Mỹ thì mang hồ sơ còn thư ký của giám đốc người Việt thì mang son phấn.

    2. Nhà hàng của người Mỹ giới hạn khách uống rượu còn nhà hàng Việt rủ rê khách uống rượu.

    3. Vào buổi trưa người Việt ngủ nhưng người Mỹ thì lại đọc sách.

    4. Người Mỹ ăn sáng xong thì đến công sở làm việc còn người Việt thì đến công sở và sau đó mới đi ăn sáng, cà phê và tán gẫu với nhau.

    5. Người Mỹ muốn xin việc thì đến công sở gặp giám đốc, người Việt để xin được việc thì đến nhà riêng của giám đốc.

    6. Người Mỹ thích ăn ức gà còn người Việt thích đùi gà.

    7. Người Mỹ rất yêu chó còn người Việt thì khác, người Việt yêu thịt chó.

    8. Người Mỹ va chạm nhau trên đường thìxin lỗi nhau còn người Việt va chạm nhau trên đường thì gây gổ đánh nhau.

    9. Người Mỹ đến thăm nhau tặng hoa còn người Việt thăm nhau tặng phong bì.

    10. Người Mỹ xem hồ sơ của người xin việc để quyết định nhận hay không, còn người Việt thì xem hồ sơ của bố người xin việc hoặc xem phong bì không đựng hồ sơ để quyết định nhận hay không nhận .

    11. Ở Mỹ, người Mỹ rất giàu nhưng ít tiền mặt còn người Việt nghèo nhưng lại lắm tiền mặt.

    12. Người Mỹ lên Sếp thì gầy còn người Việt lên Sếp thì béo.

    13. Người Mỹ nhìn thấy đèn đỏ thì tìm cách dừng lại còn người Việt thấy đèn đỏ thì tìm cách vượt qua.

    14. Người Mỹ rủ nhau đi ăn thì chia nhau trả tiền còn người Việt ai rủ thì người đó trả.

    15. Bố mẹ người Việt khi đến thăm con thì ngủ trên giường, bố mẹ người Mỹ đến thăm con thì ngủ trên ghế (nếu không có đủ giường)

    16. Người Mỹ vừa uống cà phê vừa đọc sách còn người Việt thì vừa uống cà phê vừa nhắn tin.

    17. Người Mỹ dùng nhà nghỉ để nghỉ đêm giữa chuyến đi dài, người Việt dùng nhà nghỉ để nghỉ trưa giữa hai buổi làm việc.

    18. Ở Mỹ, Sếp đến thăm nhân viên khi nhân viên đau ốm còn ở Việt Nam, nhân viên đến thăm Sếp khi Sếp được thăng chức.

    19. Người Mỹ dùng điện thoại di động để nói : tôi đang ở chỗ nào còn người Việt dùng điện thoại di động để giấu nơi mình đang ở.

    20. Các ông chồng Mỹ cho vợ vay tiền, các ông chồng Việt Nam nộp tiền cho vợ.

    21. Người Mỹ làm chuồng cho chim về ở, người Việt làm bẫy để bắt chim.

    22. Khi gặp nhau người Mỹ hỏi có khỏe không, người Việt hỏi làm ăn thế nào.

    23. Người Mỹ vay tiền ngân hàng để mua nhà, người Việt vay tiền bạn bè để xây nhà.

    24. Người Mỹ im lặng để nghe người khác nói, người Việt bắt người khác im lặng để nghe mình nói

    25. Ở Mỹ, người đi tìm thùng rác, ở Việt Nam, thùng rác đi tìm người

    26. Người Mỹ ăn rất nhiều ở bữa tối, người Việt lại uống rất nhiều vào bữa tối.

    27. Người Mỹ uống một chai rượu chỉ trong một bữa,người Việt lai rai chai rượu cả ngày.

    28. Người Việt thích bố mẹ già ở nhà mình, người Mỹ thích bố mẹ già ở nhà dưỡng lão.

    29. Người Mỹ trồng cỏ trong vườn, người Việt thì nhổ.

    30. Người Mỹ chặt một cây thì trồng ba cây, người Việt chặt ba cây thì trồng một cây.

    31. Người Mỹ thích cụ thể, người Việt thích chung chung.

    32. Ở Việt Nam dân nịnh lãnh đạo, ở Mỹ lãnh đạo nịnh dân.

    33. Người Mỹ tìm cách được nghỉ hưu, người Việt đến tuổi hưu tìm cách ở lại.

    – st –

  • Người Việt rất hay ngụy biện và tư duy ngụy biện?

    Người Việt rất hay ngụy biện và tư duy ngụy biện?

    Người Việt rất hay ngụy biện và tư duy ngụy biện?

    Những ai đã có kiến thức về ngụy biện đều hiểu một điều đáng buồn rằng: Người Việt rất hay ngụy biện và tư duy ngụy biện! Chúng ta đều biết hai chữ “ngụy biện”, nhưng liệu chúng ta có thật sự hiểu về nó? Bạn có tin rằng tại Việt Nam, ngụy biện đã cướp đi mạng sống của con người?

    Ngụy biện hay Fallacy là khái niệm để chỉ những cách lập luận tưởng chừng là đúng, nhưng thực chất lại là sai lầm và phi logic trong tranh luận. Ngụy biện có thể biến một vấn đề từ sai thành đúng, và từ đúng trở thành sai. Ngụy biện có thể dẫn đến những cái nhìn sai lệch và tư duy sai lầm mà chính bản thân người nói cũng không nhận ra được.

    Trên thế giới, ngụy biện đã trở thành một kiến thức được biết đến rộng rãi, và các nhà nghiên cứu đã thống kê khoảng trên dưới 100 loại ngụy biện khác nhau. Đáng tiếc là tài liệu về ngụy biện tiếng Việt chỉ có một vài nguồn, đó là trang GS Nguyễn Văn Tuấn, trang Thư viện khoa học, hay trang “Ngụy biện – Fallacy” của TS. Phan Hữu Trọng Hiền.

    Dưới đây xin được tổng hợp lại 9 câu “ngụy biện” điển hình của người Việt đã được nêu ra tại các nguồn tài liệu trên:

    1. “Nhìn lại mình đi rồi hẵng nói người khác”

    Mình làm sai thì là sai rồi, sao lại không nhận sai, không nói thẳng vào vấn đề “mình sai” mà lại quay qua tìm điểm yếu của người khác? Việc này cũng giống như là khi nhận được góp ý: “Viết sai chính tả rồi kìa”, thì thay vì sửa sai, bạn lại bốp chát: “Thế mày chưa viết sai bao giờ à?”

    2. “Có làm được gì cho đất nước đâu mà to mồm”

    Người ta có làm được gì hay không thì là điều mình chưa biết, hơn nữa bạn đã “lạc đề” rồi. Vấn đề người ta nêu ra thì bạn không trả lời, không đưa ra luận điểm logic, mà lại đi đường vòng, chuyển qua công kích người khác.

    3. “Nó ăn trộm chó thì cứ đánh cho nó chết”

    Lập luận này đã khiến cho những kẻ trộm chó vốn không đáng phải chết bị giết chết bởi chính những người dân tưởng chừng “lương thiện”. “Ăn trộm chó” là sai, nhưng “giết người” cũng là sai, hai sai thì không phải là một đúng, mà là sai lại càng sai.

    4. “Làm được như người ta đi rồi hãy nói”

    Lại một hình thức “lạc đề”. Luận điểm mà người ta đưa ra thì bạn không xoay quanh mà bàn luận, lại cứ phải công kích cá nhân người khác thì mới vừa lòng sao?

    5. “Nếu không hài lòng thì cút xéo ra nước ngoài mà sinh sống”

    Lời nói này không chỉ đánh lạc hướng vấn đề, mà còn rất bất lịch sự, chuyên dùng để làm người đối diện tức giận, chứ chẳng có một chút logic nào trong đó cả.

    6. “Nghèo là lương thiện / Giàu là bất chính”

    Người ta có câu “vơ đũa cả nắm”, ấy chính là để chỉ việc lập luận cảm tính, khái quát cảm tính, mà không hề đưa ra logic hợp lý nào cả.

    7. “Nước nào mà chẳng có tham nhũng”

    Vì nước nào cũng có tham nhũng nên Việt Nam được phép có tham nhũng hay sao? Vì mọi người đều vượt đèn đỏ nên tất nhiên tôi cũng phải vượt đèn đỏ? Vì xã hội thiếu gì nghiện hút nên trong nhà có người hút chích cũng là bình thường?

    8. “Nếu anh là họ mà anh làm được thì hẵng nói”

    Đặt mình vào vị trí người khác là một tiêu chuẩn người xưa dùng để tu sửa bản thân, hướng vào bản thân tìm lỗi, là một nét văn hóa rất độc đáo của phương Đông. Tuy nhiên câu nói đó chỉ sử dụng khi một người tự răn mình, chứ không phải là một câu nói dùng trong tranh luận. Việc sử dụng nó trong tranh luận không chỉ là sự bịt miệng những phê bình của người khác, không giải thích các luận điểm của người khác, mà còn chứng tỏ rằng chúng ta đang phá hoại và lãng quên văn hóa truyền thống của chính mình.

    9. “Tại sao anh dám nói chúng tôi sai? Anh là một tên phản động / dư luận viên”

    Kiểu lập luận chụp mũ này mặc nhiên coi mình là đúng, họ là sai, và những người đồng quan điểm với họ cũng là sai. Nó không hề đưa ra một thứ logic nào, nhưng lại cắt ngang một cái giới tuyến, và tùy tiện định tội cho người khác.

    Tất nhiên đây mới chỉ là những câu ngụy biện cơ bản nhất, thường thấy nhất. “Văn hóa ngụy biện” đã ngày càng xuất hiện thường xuyên hơn, muôn hình vạn trạng, và luôn ẩn giấu trong tư duy của người Việt. Vậy nguyên nhân của thói quen này là từ đâu?

    Trong phần nhiều các lỗi ngụy biện thường gặp của người Việt, có một tâm lý cơ bản hiện rõ ra khi tham gia thảo luận, đó chính là tâm tranh đấu, hiếu thắng, và không hề tôn trọng người đối diện. Ngoài đó ra, chúng ta cũng hay bị ảnh hưởng của tâm lý đám đông, lợi dụng tâm lý đám đông để che đi trách nhiệm của bản thân mình.

    Muốn tránh cách tư duy ngụy biện, chúng ta không những phải sửa lối tư duy vòng vo, thiếu suy nghĩ, mà còn phải sửa chính từ tâm thái của mình khi trao đổi và luận bàn về mọi việc. Điều cơ bản nhất khi tham gia tranh luận là có trách nhiệm trong lời nói của chính mình và biết tôn trọng người đối diện.

    Theo TRITHUCVN

  • Tật xấu của người Việt: gì cũng cười, nói năng lộn xộn, học hời hợt

    Tật xấu của người Việt: gì cũng cười, nói năng lộn xộn, học hời hợt

     

    Tật xấu của người Việt: gì cũng cười, nói năng lộn xộn, học hời hợtKhông còn lễ nghĩa liêm sỉ

    Nước ta, những nơi chợ búa thành phố, không luận đàn bà trẻ con, đến người có học biết chữ mà cũng mở miệng là nói lời thô bỉ.

    Tập thành thói quen, những tiếng tục tĩu, người nghe nhơ cả lỗ tai, mà người nói lại lấy làm khoái.

    Cho đến câu mắng bài chửi, đọc ra có cung có điệu, người nào mắng chửi cả ngày mà không trùng lặp, thì người ta xem như Tô Tần, Trương Nghi (1), chiếm giải quán quân.

    Đến lúc diễn ra cái bộ dạng mắng chửi, tiếng như mõ rao, chân như múa hát lên tay xuống ngón, mặt như sơn đổ, tóc như tơ vò, nước miếng như bọt giải, tay cầm dát lia, chân đi cà xiểng (2) không khác gì người điên.

    Lại còn một điều xấu nữa, hễ có bất bình với ai thì phát thệ (3) và nguyện rủa chúc dữ(4) rất nặng.

    Thường hàng ngày cùng giao du với nhau, mà đến lúc bỏ nhau, chất chứa điều bất bình lâu, thì khí yêu (5)nhân đó mà sinh ra, người nọ bảo người kia “đầy miệng điều láo, một ngày bán được ba gánh giả, đến đâu cũng dối, ba ngày không mua được một điều thực “.

    Thật là không còn chút lễ nghĩa liêm sỉ nào! Cái phong tục kiêu bạc (6) đến thế là cùng.Thế giới chưa có nước nào như xứ mình!

    (1) các nhà thuyết khách nổi tiếng đời Chiến quốc bên Trung quốc
    (2) dát lia – chưa tra cứu được; còn cà xiểng , theo Đại Nam quốc âm tự vị , là Ngao du không biết công chuyện chi mà làm, không nên sự gì
    (3) thề bồi
    (4) chúc: khấn. Chúc dữ: ước cho mắc sự dữ
    (5) tinh thần gian tà bất chính

    (6) cũng tức là khinh bạc với nghĩa cổ: kẻ không biết tự trọng
    (Nguyễn Trường Tộ, Về việc cải cách phong tục, 1871)

    Những câu chửi rủa quá quắt

    Nói tục, nói bẩn chắc hẳn không người nước nào bằng người An Nam ta. Lắm câu chửi rủa của ta, không tiếng nước nào dịch nổi, giả thử những người nói ra có nghĩ đến nghĩa từng tiếng thì đứa nặc nô (1) cũng phải đỏ mặt đến lòng trắng mắt.

    Thử ngẫm mà xem, những câu ấy có nghĩa lý gì đâu.

    Bảo người ta ăn những gì những gì thì có nghĩa lý nào? Gọi ông cha mấy đời người ta lên mà chém mà vằm cũng không có nghĩa gì cả.

    Người ngay thật có ai sợ nhưng câu chửi rủa ấy đâu? Mà người mở mồm nói những tiếng dơ bẩn ấy, thì thực là xấu cho cái miệng quá, ra ngay con người thô tục.

    (1) nặc nô: người làm nghề đi đòi nợ thuê ngày xưa; nghĩa rộng là người đanh đá ghê gớm

    (Nguyễn Văn Vĩnh, Ăn nói thô tục, Đông dương tạp chí, 1914)

    Tây không ra tây, tàu không ra tàu, ta không ra ta

    Người mình không những nghề diễn thuyết chưa biết, mà đến nói câu chuyện cho có đầu đuôi manh mối cũng ít người nói được.

    Khi hội đồng (1), thời (2) chẳng khác gì như họp việc làng, tranh nhau nói, ồn ào lộn xộn mà ít ai nói được câu gì cho có nghĩa lý, chỉ bẻ hành bẻ tỏi nhau những cái vặt vặt chẳng đâu vào đâu.

    Khi yến tiệc thời đương câu chuyện vui, gặp có tiếng gì buồn cười, nhất là nói tiếng bẩn, ông nào to miệng cả tiếng thở ra một cái cười hà hà, cử toạ đều cười ầm cả lên đến vỡ đổ nhà; thế là câu chuyện tan.

    Chỗ công môn thời ông quan nói, muốn ra oai mặt sắt chỉ nói nhát gừng, cách một vài câu lại điểm những tiếng nghe chưa ? nghe chưa? thằng dân thưa thời gãi tai gãi đầu, chỉ nghe những tiếng bẩm bẩm dạ dạ nói không ra lời. Mấy cậu thiếu niên thời toa toa moa moa(3) ngậu xị cả đường phố , câu chuyện không những vô vị mà thường bất thành ngôn (4) nữa.

    Thời buổi nhố nhăng, ngữ ngôn bác tạp, anh bồi chú bếp con bạc làng chơi ả giang hồ cậu công tử, tây không ra tây, tàu không ra tàu, ta không ra ta, có nhiều cái xã hội không biết họ nói thứ tiếng gì.

    Thử tìm khắp trong nước được mấy người là biết nói năng lịch sự ? Thật ít quá.

    (1) Cuộc hội họp đông người để bàn việc công (nghĩa cũ )
    (2) thì
    (3) mày mày tao tao
    (4) không nên lời

    (Phạm Quỳnh, Pháp du hành trình nhật ký,1922)

    Thiên về những cái tầm thường thô bỉ

    Ai có ý đến những nơi họp tập, hoặc là chỗ chơi bời thì thực là buồn thay cho cái trí dục của những người đời nay.

    Ngoại giả chuyện cô đầu, chuyện cờ bạc, chuyện hát tuồng, chuyện chim chuột, chuyện quần áo còn thì không mấy khi được nghe những câu chuyện lý thú, làm tỏ được học vấn kẻ nói, lợi được trí khôn người nghe.

    Mà xem như trong cách nói chuyện, thì thiếu niên (1) ta nghe lại có ý thích những câu chuyện tầm thường, nói chuyện để mà khoe cho người nọ người kia biết cái cách của ta chơi xa xỉ hoặc là kỳ khu (2)

    Ai ăn nói có tư tưởng có tỏ học vấn thì thường người nghe thích nhưng ít cầu, vì câu chuyện có nghĩa, làm cho phải nghĩ, phải đối đáp nhọc mệt…

    Người nói chuyện hay, cũng có kẻ phục là người có ích, nhưng trong cái phục có cái ghen có cái ghét. Ghen là vì ở đâu đến cướp mất tai kẻ nghe, ghét là vì ở đâu đến làm tỏ cái nhàm của câu cười cợt tầm thường người ta đang thú.

    (1) hồi đầu thế kỷ XX, chữ thiếu niên không phải dùng để chỉ lớp thiếu nhi từ 10 đến 14 tuổi như bây giờ. Mà có nghĩa là người trẻ tuổi, tức lớp thanh niên 18 tuổi trở lên.
    (2) tỉ mỉ, mất nhiều công sức

    (Nguyễn Văn Vĩnh, Đông dương tạp chí, 1914)

    Tật huyền hồ sáo hủ (1)

    Xét trong văn chương, xảo kỹ nước Việt Nam, điều gì cũng toàn là huyền hồ giả dối hết cả, không cái gì là thực tình… Thời tiết nước mình thì không biết một chút chi chi, tả đến tứ thời thì xuân phải phương thảo địa, hạ phải lục hà trì, thu phải hoàng hoa tửu, đông phải bạch tuyết thi (2). Thành ra đến câu hát cũng hát cho người, cảnh nhà mình thì như mắt mù tai điếc. Mượn chữ người, mượn đến cả phong cảnh tính tình chớ không biết dùng cái vật liệu mượn ấy mà gây dựng lấy văn chương riêng cho nó có lý tưởng đặc biệt.

    Người Việt Nam lý hội (3) điều đẹp cũng có một cách lạ. Sách Tàu tả người đẹp môi son mắt phượng, mày ngài khuôn trăng mình liễu thì bao giờ tả người đẹp ta cũng cứ thế mà tả.

    (1) huyền là sự gì lơ lửng không dính vào đâu; hồ là lời nói càn; sáo là lời dựa theo khuôn có sẵn; hủ là lời khoe khoang; bốn chữ này ghép lại chỉ sự ăn nói lời nói linh tinh, trống rỗng, giả tạo
    (2) vùng đất đầy cỏ thơm, ao sen xanh mướt, rượu hoàng hoa và thơ tả tuyết trắng
    (3) hiểu, quan niệm

    (Nguyễn Văn Vĩnh, Tật huyền hồ sáo hủ, Đông dương tạp chí,1913)

    Trong tiếng cười ẩn chứa nhiều ý xấu

    An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì, phải cũng hì mà quấy (1) cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng mọi việc hết nghiêm trang.

    Có kẻ bảo cười hết cả cũng là một cách của người hiền(2). Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thẩy, không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày nghĩ ngợi…

    Nhưng mà xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cách láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên trí không không phải nghe hết nhời người ta mà đã gièm trước cái ý tưởng của người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc (3) người ta.

    Gì bực mình bằng rát cổ bỏng họng, mỏi lưỡi tê môi để mà hỏi ý một người, mà người ấy chỉ đáp bằng một tiếng hì, khen chẳng ơn, mắng chẳng cãi hỏi chẳng thưa, trước sau chỉ có miệng cười hì thì ai là không phải phát tức ?

    (1) sai, trái với lẽ phải
    (2) người có đức hạnh, tài năng
    (3) ở đây không có nghĩa sự nghiệp to lớn mà chỉ hàm ý công việc nói chung

    (Nguyễn Văn Vĩnh, Gì cũng cười, Đông dương tạp chí, 1914)

    Tiếng cười vô duyên

    Có một phần đông người Pháp ở đây, ta hằng ngày thấy họ, cũng có thể chiêm nghiệm được một dân tộc.

    Ví dụ như gặp khi trời mưa, đường trơn có người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trượt té, bấy giờ có năm ba người Pháp đứng đó họ có cười không?

    Tôi, và nhiều người như tôi, dám chắc rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại để đỡ người bị té ấy lên nữa.

    Còn như con rồng cháu tiên ta, tôi cầm chắc rằng trước khi chạy lại đỡ, ta phải cười một chặp cho no nê đã.

    (Phan Khôi, Phụ nữ tân văn 1931)

    Nói bừa nói bãi, tủi nhục cho cả nòi giống

    Không biết nói không biết, đó là nghĩa vụ thứ nhất của người muốn học muốn hiểu. Đằng này nhiều người ở ta lại làm như trong thế giới này cái gì cũng rõ ràng minh bạch, tựa hai lần hai là bốn.

    Ai không tin là thế, họ liền phê cho hai chữ: thần bí; hai chữ ấy trong trí họ tức là ngu xuẩn điên rồ.

    Họ không ngờ rằng họ lại “thần bí” hơn ai hết.

    Có những vấn đề xưa nay bao người tài giỏi suốt đời nghiền ngẫm chưa tìm ra manh mối.Thế mà cái điều một ông Pasteur một ông Einstein không dám nói, ngày nay ở xứ ta những cậu học sinh vừa mới bước chân ra khỏi trường Sơ học đã giảng giải được lên sách, lên báo, theo những phương pháp cuối cùng của khoa học.

    Thế giới còn chờ gì mà không khắc bia xây tượng để đền ơn họ.

    Nói chơi vậy thôi, chớ cái việc họ làm đó là một sự tủi nhục vô cùng cho nòi giống.

    Cả một đám thanh niên chưa có lấy cái học phổ thông cũng tấp tểnh chạy theo những lý thuyết cao thâm của siêu hình học.

    Có lần chúng tôi thấy một thiếu nữ trước đâu mới học đến lớp ba lớp tư gì đó đương hăng hái giảng giải về duy tâm và duy vật. Chúng tôi chán ngán không biết nên khóc hay nên cười. Thực là một cái họa !

    (Hoài Thanh, Một cái họa, Văn chương và hành động,1936)

    Hay cãi nhau, thích kiện tụng

    Những vụ cãi nhau nảy ra ngay từ cách tổ chức làng xã.

    Xã hội hương thôn chia thành các giai cấp lệ thuộc vào nhau. Muốn thực hiện các điều kiện cần thiết để bước vào một trong những giai cấp đặc quyền, người ta phải cúng Thành hoàng và mời mọi người ăn uống.

    Điều đó thật tàn hại: người ta đi vay với lãi cao, cầm cố nhà và ruộng, bắt vợ con chịu thiếu thốn.

    Khi thuộc giai cấp đặc quyền thì vấn đề là phải biết bảo vệ đặc quyền của mình.

    Người ta sẽ đi đến tận Tòa án tỉnh, thậm chí Tòa thượng thẩm, chỉ vì miếng thịt chia không đều, hoặc một sự việc cực kỳ phù phiếm.

    Người ta tiêu đến đồng tiền cuối cùng để giữ thể diện hoặc làm đối thủ mất mặt.

    Lịch sử một số làng cũng là lịch sử kiện cáo. Có những làng mà tất cả ruộng đều thuộc sở hưũ của những làng lân cận. Đấy chính là những làng đã qua những vụ kiện nổi tiếng.

    (Nguyễn Văn Huyên, Vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ, 1939)

    Chỉ trích và châm chọc

    Người Việt ít khi chịu chết vì tín ngưỡng hay vì một vĩ nhân nào đó đã chủ trương trái quyền lợi của họ.

    Gặp lúc phải dồn vào thế yếu, họ chống lại ngay bằng phương pháp tiêu cực: chỉ trích và châm chọc.

    Luôn luôn bị áp bức về kinh tế và chính trị, cuộc sinh hoạt tinh thần thường lẩn cả vào trong tâm tưởng nên sức phản ứng của tình cảm và tư tưởng không mau lẹ. Tính ưa hư danh là một tật phổ thông của những người hằng cố gắng tìm vượt lên trên địa vị hiện tại của mình. Tật cờ bạc, do cuộc sống chật hẹp gây nên, cũng là một tật phổ thông khác.

    (Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hoá sử,1944)
    Thể thao văn hóa 2005-2007