Tag: tiền Việt Nam

  • Phu Văn Lâu, di tích được in trên tờ tiền 50.000 Đồng

    Được coi như một trong những biểu tượng của Cố đô Huế, hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000 phát hành năm 2003.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Nằm trên trục chính của Hoàng thành Huế, ở phía trước Kỳ Đài và phía sau Nghênh Lương Đình, Phu Văn Lâu là một công trình kiến trúc đặc sắc trong quần thể kiến trúc Cố đô.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tên gọi Phu Văn Lâu nghĩa là cái lầu trưng bày văn thư của triều đình, Côn trình được xây dựng vào năm 1819 dưới thời vua Gia Long để dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Đây là một tòa lầu hai tầng hai tầng duyên dáng, cao 11,67m, có hệ thống lan can bao xung quanh. Công trình được chống đỡ bằng 16 cột sơn màu đỏ sậm, gồm 4 cột chính xuyên suốt cả hai tầng, 12 cột quân.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Mặt trước và hai mặt bên của Phu Văn Lâu có bậc cấp dẫn lên nền tầng dưới. Bấc cấp phía trước có lan can hình rồng.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Không gian tầng dưới Phu Văn Lâu hoàn toàn để trống, có cầu thang dấn lên tầng trên, bên ngoài có lan can bằng bê tông.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tầng hai có bốn mặt đều dựng đố bản, kiểu đồ lụa khung tranh, mặt trước có cửa sổ chữ nhật, hai bên trổ cửa sổ tròn, lan can bên ngoài bằng gỗ. Trên của sổ mặt tiền có treo hoành phi sơn son thếp vàng, trang trí dây lá cách điệu “lưỡng long triều nguyệt”.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Mái phu văn lâu lợp ngói ống tráng men vàng.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Hai bên mặt trước Phu Văn Lâu có đặt hai khẩu súng thần công nhỏ bằng đồng hướng vào nhau.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Dưới thời vua Thiệu Trị, triều đình cho dựng ở hai bên hai tấm bia đá khắc 4 chữ “khuynh cái hạ mã”, nghĩa là ai đi qua đều phải cởi mũ và xuống ngựa.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Gần bên phải Phu Văn Lâu còn có tấm bia trên khắc bài thơ “Hương giang hiểu phiếm” nói về cảnh đẹp của sông Hương, cũng được dựng dưới thời vua Thiệu Trị.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Không chỉ là nơi niêm yết văn bản, Phu Văn Lâu còn là nơi diễn ra nhiều hoạt động khác của triều đình.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Năm 1829, vua Minh Mạng dùng nơi đây làm địa điểm tổ chức cuộc đấu giữa voi và hổ. Năm 1830, nhà vua dùng Phu Văn Lâu làm nơi tổ chức cuộc vui chơi yến tiệc suốt 3 ngày để mừng sinh nhật của mình.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Trong gần 200 năm tồn tại, Phu Văn Lâu được trùng tu khoảng 10 lần, lần sớm nhất vào năm 1905, lần gần đây là vào năm 2015-2016, sau khi một phần cồng trình bị sụp đổ do mối mọt năm 2014.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tuy đã được tu bổ nhiều lần nhưng công trình vẫn giữ nguyên cốt cách đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Được coi như một trong những biểu tượng của Cố đô Huế, hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000 đồng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành từ năm 2003.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Một số hình ảnh khác về Phu Văn Lâu.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Theo KIẾN THỨC

  • Bộ sưu tập tiền giấy Việt Nam từ xưa tới nay

    Hình ảnh Việt Nam xin gửi tới các bạn bộ sưu tập tiền giấy từ xưa tới nay.

    Lịch sử tiền giấy Việt Nam, xem ở đây

    Một vài dấu mốc đáng chú ý:

    Đồng tiền giấy đầu tiên trong lịch sử tiền tệ Việt Nam là “Thông bảo hội sao” (1396) do Hồ Quí Ly phát hành. Hơn 6 thế kỷ sau, tiền giấy kia ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong đời sống, kinh tế Việt Nam.

    Nếu không kể đến tờ tiền giấy thất bại của Hồ Quý Ly thì giấy bạc Đông Dương được xem là tờ tiền đầu tiên của Việt Nam. Đồng Đông Dương mệnh giá 100 đồng bạc được người Pháp phát hành và lưu thông trong thời gian từ 1885 đến năm 1954. Trên tờ tiền có in hình 3 thiếu nữ với trang phục truyền thống của Lào, Campuchia và Việt Nam.

    Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, tiền đồng cũng chính thức được in và lưu thông. Mặt trước tiền đồng có dòng chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” in bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt sau in hình Công – Nông – Binh. Các con số ghi mệnh giá theo số Ả-Rập hoặc chữ Hán, Lào, Campuchia. 

    Tiền giấy của Việt Nam Cộng Hoà: Từ 1954 đến 1975, nước ta bị phân chia thành hai hai miền Nam – Bắc, mỗi miền lại có một loại tiền riêng nhưng vẫn gọi chung là “tiền đồng”

    Sau giải phóng đất nước 30/4/1975, tiền lưu hành ở miền Nam mất giá và được đổi tên thành tiền giải phóng. Đến năm 1978, sau khi Nhà nước ổn định và thống nhất về tài chính, tiền Việt Nam tiếp tục thay đổi.  

    Hiện nay, tờ tiền mệnh giá 100 đồng không còn được phát hành nữa!

  • Mức sống của người Đàng Trong thông qua sử liệu

    Mức sống của người Đàng Trong thông qua sử liệu

    THỬ KIỂM KÊ MỨC SỐNG CỦA NGƯỜI ĐÀNG TRONG QUA SỬ LIỆU

    Mức sống của người Đàng Trong thông qua sử liệu
    Chúng ta cùng xem thử triều đình Đàng Trong mỗi năm chi xài bao nhiêu tiền nhé!

    “Phủ biên tạp lục” cho biết, mỗi năm triều đình Nam Hà chi tiêu khoảng từ 364.400 quan tới khoảng 369.400 quan, nếu thiếu khoảng 2-3 vạn thì lấy bạc bù vào. Trong đó, tiền chi cho quân lực (cả chưởng quản lẫn binh sĩ) là 260.000 quan, chi cho việc tế lễ của hai xứ Thuận – Quảng là 1.400 quan, chưa kể lễ tiết yến ẩm, thưởng lạo, tôn tạo công trình. So với tiền thu vào khoảng từ 338.100 quan tới 423.300 quan, vàng thu vào trên dưới 85 hốt, bạc tốt 24-29 hốt, bạc lá 224-228 hốt, bạc con gà khoảng 10.000 đồng ; có năm bạc tốt thu đến 251 hốt, bạc lá 223 hốt. Trong ba năm gần đó, đúc tiền kẽm khoảng 72.396 quan. Như vậy, số tiền chi cho triều đình khoảng chừng 100.000 quan. Mỗi hốt vàng luyện được 9 vạn lá, triều đình dùng để sắm trang sức, có năm ngốn đến 45 hốt, trong khi giá vàng mỗi hốt là 180 quan.

    Trước chiến tranh, giá gạo 10 thưng (đủ ăn một tháng) chỉ có 3 tiền, giá một con trâu không quá 10 quan, một con voi giá khoảng 2 hốt bạc. Cau 3 quan 1 tạ, tiêu 12 quan/tạ, các loại thảo mộc trên dưới 10 quan, tê giác 500 quan, yến sào 50 quan, vi cá 40 quan, tôm khô 6 quan, đồi mồi 180 quan, kỳ nam 120 quan/lạng, tơ lụa 3 quan 5 tiền/tấm. Thuế tàu Chiết Giang, Quảng Đông là 3000 quan đến và 300 quan về, tàu Ma Cao (thực ra là Hà Lan), Nhật Bản là 4000 quan đến và 400 quan về, Phi Luật Tân và Xiêm La 2000-200, Đông Ấn Hà Lan (Indonesia) 500-50, Hà Tiên 300-30.

    Từ bảng giá này có thể thấy… khoảng cách của xa xỉ phẩm với nhu yếu phẩm. Gạo cho 1 người ăn 1 năm chỉ khoảng gần 4 quan, ngang giá 1 tấm lụa. Đấy là do giá gạo ở Đàng Trong rẻ như cho, “tiền như đất bạc như bùn” nên không thể (và không nên) đem so sánh với nơi khác. Nhưng mà nhìn lại quân số xứ này ước khoảng 2-3 vạn người, trung bình mỗi người cao nhất khoảng 12-13 quan, thấp thì mỗi người 7-8 quan. Kể ra cũng chỉ trên mức sống trung bình tí thôi.

    【Trường An】VIETNAMESE HISTORICAL FILM