Tag: vua Minh Mạng

  • Vẻ đẹp bề thế, cổ kính của lăng Minh Mạng

    Nằm trên núi Cẩm Khê ở cố đô Huế, lăng Minh Mạng gây ấn tượng mạnh với những công trình kiến trúc tráng lệ hòa hợp tuyệt vời với khung cảnh thiên nhiên.

    Lăng Minh Mạng còn được gọi là Hiếu Lăng, có bố cục kiến trúc đối xứng với các công trình nằm dọc theo trục đường thần đạo. Cổng chính của lăng là Đại Hồng Môn, chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng. Sau đó, việc ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.

    Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, một khoảng sân rộng 45m x 45m lát gạch Bát Tràng, hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu

    Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn.

    Bên trong Bi Đình có bia “Thánh đức thần công” bằng đá ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha Minh Mạng.

    Sau Bi Đình là khoảng sân triều lễ được chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc.

    Cuối sân triều lễ là Hiển Đức Môn, cánh cổng mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng cho mặt đất.

    Điện Sùng Ân nằm ở trung tâm khu vực tẩm điện.

    Trong điện thờ bài vị của vua Minh Mạng và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu, chính thất của vua.

    Ở phía trước, đối xứng hai bên bên trái và bên phải điện Sùng Ân có Tả, Hữu Phối Điện, phía sau có Tả, Hữu Tùng Phòng.

    Khu tẩm điện kết thúc với Hoằng Trạch Môn.

    Bước qua Hoằng Trạch Môn là bắt đầu một không gian đầy thi vị với hồ Trừng Minh và và những hàng cây xanh tốt xung quanh.

    Ba chiếc cầu Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh đưa du khách đến Minh Lâu, một tòa lầu nằm trên quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.

    Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát. Đây là công trình mang giá trị kiến trúc nổi bật của khu lăng.

    Tòa nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông, thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa..

    Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi vĩnh hằng.

    Từ Minh Lâu đi xuống sẽ gặp cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt để dẫn vào Bửu Thành, tòa thành bảo vệ nơi yên nghỉ của nhà vua.

    Hồ Tân Nguyệt là hồ nước được tạo hình như trăng non, là yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành – biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật.

    Mộ vua nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn.

    Hình tròn của Bửu Thành nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng Trái Đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố

    Từ chân Khải Trạch Sơn có 33 bậc cấp dẫn lên cổng của Bửu Thành, cánh cổng dẫn vào thế giới vĩnh hằng của người đã khuất.

    Ngoài các công trình chính nằm dọc đường thần đạo, lăng Minh Mạng còn có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn, Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn, Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn, Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn, Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn, Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn…

    Tiếc rằng do sự tàn phá của thời gian, các công trình này chỉ còn là phế tích.

    Theo đánh giá của giới nghiên cứu, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, đã tạo nên nét đẹp riêng cho lăng Minh Mạng.

    Bố cục kiến trúc đăng đối hoàn hảo của các hạng mục chính đã đem lại vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ vua chúa.

    Bên cạnh đó, sự hài hòa giữa các công trình nhân tạo và cảnh quan thiên nhiên cũng đem lại giá trị kiến trúc đặc sắc cho lăng Minh Mạng.

    Điều này thể hiện qua những con đường đi dạo quanh co vòng quanh các hồ nước lớn và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh

    Điều này làm cho toàn bộ quần thể lăng dù uy nghiêm tột bậc nhưng vẫn gợi lên cảm giác thư thái do sự mềm mại của thiên nhiên.

    Ngoài ra, lăng Minh Mạng còn sở hữu một giá trị văn hóa nổi bật là gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu. Đây là những tuyệt tác vô giá, một “bảo tàng thơ” chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.

     

    Ngược dòng lịch sử. Tháng 2/1820, vua Gia Long băng hà. Hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi, lấy niên hiệu là Minh. Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình.

    Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành sông Hương. Phát mất 14 năm cân nhắc, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này.

    Vua Minh Mạng đã cho đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4/1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu.

    Không lâu sau đó, vua Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào tháng 1/1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại.

    Tháng 8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất.

    Vậy là, từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động và óc sáng tạo của con người, một tuyệt tác kiến trúc đã hình thành, trở thành di sản vô giá để lại cho hậu thế…

    Theo KIẾN THỨC

  • Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

    Đã hơn 200 năm trôi qua nhưng cuộc chiến chống tà đạo, trừ dẹp nạn mê tín trong dân gian của hoàng đế Gia Long và sau đó là người kế nghiệp, hoàng đế Minh Mạng, vẫn còn đẫm tính thời sự!

    Chúa Nguyễn Ánh bình định được nhà Tây Sơn và lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long  năm 1802. Thời bấy giờ, nạn mê tín dị đoan trong dân chúng gần như là quốc nạn, các đạo sĩ với những tà thuật ghê rợn tung hoành. Tin theo các đạo sĩ, thầy địa lý, nhiều phàm dân có tục “rửa  gân”, “nghiệm gân” bằng cách đào lấy hài cốt cha mẹ, bậc tôn trưởng để chiêm nghiệm việc tốt xấu. Không những thế, vì mê tín dị đoan mà người ta còn quật mồ để hủy hoại vất bỏ xác chết, gọt đầu, làm thương tổn đến tử thi, trộm quần áo của xác chết…

    Luật hình – nhân mạng (quyển 196) trong Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ đề cập rất rõ tệ mê tín dị đoan trong dân chúng thời bấy giờ. Không chỉ quật mồ người  thân  chiêu hồn xem điềm tốt xấu, còn có tình trạng những kẻ ngu muội, u mê giết người lấy nội tạng luyện bùa thuốc. Hình luật dành cho tội phạm dạng này, có đoạn: “Phàm những người lấy tai mắt, tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra làm bùa thuốc, nếu có người thân thuộc tố giác ra, hoặc bắt giải nộp quan, thì nếu đã hành động rồi, kẻ thủ phạm vẫn không được tha tội”.

    Luật hình – nhân mạng thời bấy giờ còn có tội danh khá lạ kỳ: làm ra hay nuôi chứa loài sâu có độc để giết người.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Hoàng đế Gia Long trên một tạp chí của Pháp.

    Loài sâu độc mà ai đó nuôi để giết người là sâu gì, cách nuôi ra sao, Luật hình-nhân mạng cũng như các thư tịch cổ triều Nguyễn còn để lại không nói rõ. Nạn trấn yểm, dùng bùa chú để hại chết người cũng nằm trong phạm vi cấm đoán của triều đình Gia Long: “Nếu kẻ nào khắc vẽ hình người để yểm phản, làm phù chú nguyền rủa, muốn làm chết người khác (kể cả người thường, con cháu,  nô tỳ, người ở đợ, bậc tôn trưởng, hạng dưới, ít tuổi) đều khép vào tội mưu giết người (đã hành động nhưng chưa làm cho bị thương) mà trị tội. Vì thế mà đến nỗi chết người, đều chiếu luật “mưu giết người”, mà trị tội. Nếu chỉ muốn làm cho người ta bị tật bệnh khốn khổ thì được giảm kém tội mưu giết người đã hành động rồi, nhưng chưa làm cho bị thương 2 bậc”.

    Hoàng đế Gia Long đã nhìn ra nguồn gốc của sự ngu muội trong dân chúng với các hình thái quật mồ chiêu hồn, nuôi sâu độc giết người, yểm phản làm phù chú, rồi nạn cầu đảo, giải hạn, trừ tà… xuất phát từ những kẻ làm nghề phù thủy, đồng cốt, thầy cúng, phường đồng cốt.

    Hoàng đế Gia Long khẳng định trước triều thần rằng, những kẻ thầy bà đã lợi dụng sự ngu muội trong dân chúng làm trò ma mị, đục khoét, gây thanh thế nên cần phải nghiêm trị: “Những thuật cầu đảo, sám hối, giải ách đều là vô ích cả. Đời xưa kẻ đồng cốt, bói toán khinh nhờn thần thánh, họ Cao Tân (họ của vua Đế Cốc ngày xưa) chỉ cúng tế vị thần chính đáng, bọn tà đạo làm mê hoặc dân chúng, chế độ của vương giả giết đi, đều là trừ khử sự mê hoặc, bỏ thuyết gian tà, để cho tục dân hết thảy theo về chính đạo. Như Tây Môn Báo ném người đàn bà làm đồng cốt xuống sông, Địch Nhân Kiệt phá bỏ đền dâm thần, đều có định kiến cả”.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Quan tòa kết tội và thi hành án một phạm nhân.

    Tây Môn Báo mà hoàng đế Gia Long nhắc đến, là người nước Ngụy, làm quan ở quận Nghiệp thời Chiến quốc (Trung Quốc). Cổ sử ghi dân chúng thời bấy giờ vì bị phường đồng cốt làm cho u mê hằng năm góp tiền làm lễ chọn một người con gái tế sống, quăng xuống sông gọi là cưới vợ cho Hà Bá để tránh bị quấy nhiễu. Bọn cường hào ác bá nhân đó lợi dụng làm tiền, khiến nhân dân khốn khổ. Tây Môn Báo biết chuyệt đã cho bắt hết phường đồng cốt quăng xuống sông, trừ được mối tệ cho dân.

    Còn Địch Nhân Kiệt làm quan thời Đường (Trung Quốc). Lúc còn làm tuần phủ Hoa Nam và thứ sử Dự Châu, thấy dân trong hạt thờ những Dâm thần vốn dĩ là những “thần bậy bạ không đáng thờ”, ông đã cho phá hết những đền thờ dâm thần trong hạt!

    Trong bản Dụ vào năm 1804 (năm Gia Long thứ 3), hoàng đế Gia Long nhìn nhận thực trạng “dân chúng tin theo quỷ thần, mê muội đã quá, hơi một tí cũng đi mời thầy vẽ bùa, đọc chú, ninh hầu kẻ đồng cốt”.

    Vị vua lập nên triều Nguyễn, khẳng định: “Kẻ có tà thuật đều giả trá, lừa dối cho người nghe sinh biến đổi rối loạn trong lòng, vẽ bùa, viết khoán, nhờ pháp thuật để sinh nhai; chuộc mạng, chiêu hồn, lấy con bệnh làm của báu. Thậm chí có kẻ phù đồng ấp bóng, bịa ra lời nói của thần, kiêng ăn, cấm thuốc, kẻ đau ốm không thể cứu lại được. Lại có những thuật làm người bằng giấy, làm ngựa bằng cỏ, ném gạch đá vào nhà, đốt cháy nhà cửa, cùng những bùa thuốc làm mê hoặc, đã lấy pháp thuật để quấy nhiễu người lại đến tận nhà để xin chữa, lừa dối trăm cách, thực là mối hại lớn của nhân dân”.

    Xác định phường thầy bà đồng cốt là mối hại lớn của nhân dân, để an dân, triều đình Gia Long cấm ngặt những kẻ hành nghề phù thủy, làm đồng cốt. Không những thế, theo lệnh vua, bộ Hình định rõ tội danh và trừng trị thẳng tay những kẻ can phạm. Nhẹ thì đánh đòn, bắt làm phu dịch, bắt đi giã gạo, lưu đày xa xứ, nặng thì phạt tội trảm (chém), giảo (thắt cổ)…

    Điều luật Cấm chỉ các bọn thầy cúng, đồng cốt và tà thuật  (Luật lễ – nói về tế tự, quyển 186) đề cập chi tiết các hình phạt dành cho phường đồng cốt, thầy cúng, tăng đạo cả gan vi phạm cấm lệnh bài trừ tệ nạn mê tín trong nhân dân.

    Vua Gia Long, Minh Mạng và cuộc chiến bài trừ mê tín dị đoan

     Hơn 200 năm trước, hoàng đế Gia Long xem nạn cầu đảo, giải hạn… là tệ mê tín dị đoan. 200 năm sau, hậu thế vẫn có lắm kẻ ngu muội!

    Theo đó hình phạt giảo giam hậu (giam chờ ngày treo cổ) sẽ được áp dụng với những thầy cúng, đồng cốt giả làm tờ thần giáng xuống, vẽ bùa đọc chú vào bát nước hầu giá lên đồng tự xưng là Đoan Công, Thái Bảo, sư bà…, cùng xưng càn là Phật Di lặc, các hội Bạch Liên xã, Minh Tôn Giáo, Bạch Vân Tôn. Theo điều luật này, kẻ tòng phạm sẽ bị phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm. Nếu là quân, dân đóng giả thần tượng, gõ thanh la, đánh trống, đón thần mở hội, phạt 100 trượng (chỉ bắt tội kẻ đứng đầu). Lý trưởng biết không tố cáo,  phạt xuy 40 roi.

    Phạt xuy nghĩa là lý trưởng sẽ bị nọc ra đánh đòn, vừa bị đánh vừa bị răn cho biết nhục. Roi phạt xuy lý trưởng là sợi mây nhỏ, riêng tội phạt trượng thì dùng sợi mây to vừa. Và “lưu 3.000 dặm” nghĩa là can phạm sẽ bị đưa đi an trí nơi phương xa đến 3.000 dặm, suốt đời không được trở về bản quán. Với đàn bà phạm tội làm đồng cốt, hình phạt sẵn dành là “phạt xuy 100 roi, bắt đi giã gạo 6 tháng”.

    Luật hình định danh tội “Đào mả người khác” với hình phạt dành cho kẻ đào mồ chưa đến quan quách “phạt 100 trượng, đày 3 năm”, đào đến quan quách “phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm”, nếu đã mở quan quách thấy xác người sẽ bị “tội giảo giam hậu” (giam chờ ngày treo cổ). Luật cũng ghi rõ hình phạt lăng trì (xẻo thịt cho đến chết) với những kẻ lấy tai mắt, tạng phủ của người sống làm thuốc. Vợ con kẻ can phạm cùng người nhà tuy không biết chuyện cũng bị xử vạ lây, bị xử lưu 2.000 dặm  (cho đi ở cách nơi ở cũ 2.000 dặm).

    Nhận định của thiên tử về tội ác này: “Tội lấy tai mắt tạng phủ của người sống đem mổ xẻ ra, tội này cũng giống như tội mổ xẻ thân thể người. Nhưng tội mổ xẻ thân thể người, chỉ muốn giết chết người ấy thôi, còn tội này thì giết chết người ấy làm bùa thuốc để mê hoặc người khác, cho nên tội lại nặng hơn”. Với góc nhìn ấy, hình phạt dành cho thủ phạm nếu hành động nhưng chưa làm bị thương nạn nhân  cũng là “xử trảm”, vợ con bị “xử lưu 2.000 dặm”, kẻ tòng phạm (có giúp sức) thì xử phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm!

    Với những kẻ “làm ra hay nuôi chứa loài sâu có chất độc để giết người”, nếu bị phát giác, can phạm sẽ bị xử trảm (chém đầu), vợ con và người ở chung nhà tuy không biết chuyện cũng bị xử lưu 2.000 dặm. Trong trường hợp kẻ phạm tội lấy chất độc của loài sâu  độc đánh thuốc độc người ở chung nhà mà người thân không hay biết, thì được miễn tội xử lưu. Luật ghi: “nếu có biết chuyện, tuy là người của bên bị đánh thuốc độc vẫn phải tội lây”.

    Kẻ khắc vẽ hình người để yểm phản, làm phú chú nguyền rủa muốn làm chết người khác, sẽ bị khép vào tội mưu giết người, tội này theo luật hình thời bấy giờ là trảm!

    Những hình thức xử phạt kể trên cho thấy hoàng đế Gia Long rất nghiêm khắc và quyết tâm trong việc trừ dẹp tệ mê tín dị đoan trong nhân dân. Năm 1820, sau 18 năm trị vì thiên hạ, hoàng đế Gia Long băng hà, kế tục sự nghiệp của vua cha, hoàng đế Minh Mạng (1791-1841) cũng dốc lòng dốc sức tuyên chiến với tệ mê tín dị đoan nói chung, nạn thầy bà giở những thuật quái gở nói riêng. Thời trị vì của hoàng đế Minh Mạng, đã có không ít “thầy bà” hay những kẻ ngu muội bị đánh đòn và xử tử.

    Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), Trần Đăng Luật ở  xã Phan Xá (huyện Phong Lộc, phủ Quảng Ninh) đến triều đường kêu dâng các giấy tờ biên chép lời sấm của người cha quá cố là Trần Đăng Triều gọi là “Thái Bình sách”. Việc đến tai vua Minh Mạng, theo luật Trần Đăng Luật sẽ bị xử tử, nhưng xét thấy Luật là “dân mọn, ngu tối không biết gì, tưởng lầm vật quý của nhà đem mê hoặc dân chúng” nên vị vua thứ 2 của triều Nguyễn ban đặc ân, cho khoan giảm tội, phạt 100 trượng, rồi giao về cho địa phương quản thúc nghiêm ngặt!

    Không được may mắn như Trần Đăng Luật, 10 năm sau (1837- năm Minh Mạng thứ 18), có 3 can phạm đã phải trả giá bằng mạng sống khi vi phạm tội danh được định khung của bộ Hình thời bấy giờ là “Làm ra sách và lời nói quái đản”: “Tên Dao là người thổ ở Trấn Tây, nói dối có phép thuật quái gở, làm cờ ngụy, bọn tên Nguyên, tên Ban cùng nhau tuyên truyền,  mê hoặc người đem sang đất giặc, 3 tên ấy đều xử tội trảm  đem thi hành ngay”…

    Hoàng đế Minh Mạng cũng có chính sách phạt nặng với quan chức địa phương mà cụ thể là lý trưởng, nếu “biết mà không cáo giác ra thì xử phạt 100 trượng”. Và để khuyến khích dân chúng góp sức cùng triều đình chống tệ nạn trên, những người cáo giác bắt được kẻ vi phạm các cấm lệnh sẽ được hậu thưởng đến 20 lạng bạc. Tiền thưởng ấy được trích từ tài sản của kẻ phạm tội. Trường hợp quan binh phát hiện vụ việc và thực thi việc bắt giữ, cũng được thưởng số tiền là 10 lạng bạc trích từ tài sản của can phạm!

    Ngày nay, nạn mê tín dị đoan vẫn phổ biến với đủ hình thức ngu muội, buôn thần bán thánh… tồn tại như một thứ dịch bệnh khó loại trừ. Xem ra, kinh nghiệm xử phạt thật nặng, và trọng thưởng cho người tố giác trích từ tài sản của kẻ phạm tội, mà hoàng đế triều Nguyễn áp dụng, chính là chìa khóa vàng để triệt dẹp thói tệ này!

    Nguồn: N.T.Dũng (An ninh thế giới)

  • Chuyện hưởng thụ khoái lạc của vua Minh Mạng và Bảo đại

    Chuyện hưởng thụ khoái lạc của vua Minh Mạng và Bảo đại

    Vua Minh Mạng không chỉ nổi tiếng ở tài thao lược, mà còn vang danh hậu thế nhờ có sức khoẻ hơn người. Nhà vua hoạt động chăn gối về đêm đều đặn nhưng hằng ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt. Không chỉ có thế, Vua thường thức đến tận canh ba để làm việc. Điều đó cho thấy Vua Minh Mạng có một “thể chất tiên thiên” – cường tráng bẩm sinh. Chính sự khỏe mạnh đó đã góp phần không nhỏ vào sự vượng con của vị vua này.

    Một số tài liệu cũng cho thấy, Hoàng đế Minh Mạng có số lượng con nhiều nhất trong 13 đời vua Nguyễn. Ông để lại cho đời 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa. Sách Kể chuyện các vua Nguyễn viết: Trong đời sống thường nhật, có lẽ Vua Minh Mạng là người được hưởng nhiều vui thú nhất trong các vua Nguyễn ở chốn phòng the. Nhà vua có sức khỏe phục vụ tam cung lục viện, một đêm có thể “chiều” đến 5 – 6 cung tần. Tuy nhiên, thông thường, mỗi đêm, Vua chấm cho thái giám gọi 5 bà vào hầu, mỗi canh một bà. Trong số các bà ấy thì có khi đã có ba bà thụ thai.

    Chuyện hưởng thụ khoái lạc của vua Minh Mạng và Bảo đại

    Có giai thoại rằng, để cẩn thận “tìm” đúng con vua, thái giám phải chuyển danh sách năm bà ấy cho Tôn nhơn phủ; phủ này lại chuyển một danh sách khác cho Quốc sử quán. Sau này, khi bà nào mãn nguyệt khai hoa, Quốc sử quán có trách nhiệm rà soát, đối chiếu xem thử từ ngày vua “đòi” đến kỳ sinh nở có đúng ngày đúng tháng không.

    Vậy, làm thế nào mà Vua Minh Mạng có “sức đàn ông” phi thường? Theo sử sách, các ngự y trong triều đã ngày đêm nghiên cứu, bào chế những bài thuốc có tính năng tráng dương bổ thận cho thiên tử dùng. Và nhờ “bồi bổ” Minh Mạng thang, gồm hai toa thuốc: Nhất dạ ngũ giao và Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử – được thầy thuốc căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của nhà vua để lập ra thang thuốc rượu, mà đấng quân vương nhà Nguyễn trở thành chiến binh dũng mãnh chốn phòng the.

    Tuy nhiên, các nhà y học hiện đại cho rằng, “phép thần thông” mà người ta đồn đại về Minh Mạng thang không hoàn toàn đúng 100%. Vua Minh Mạng là người có thực lực tính dục bẩm sinh, hứng thú ân ái. Những toa thuốc vua dùng chỉ mang tính trợ lực, chứ không phải đóng vai trò chủ trì quyết định. Ngoài ra, có một bằng chứng đơn giản, nếu Hoàng đế Minh Mạng có bài thuốc thần diệu như vậy thì tại sao Vua Tự Đức (cháu nội) lại không áp dụng được mà vẫn bị bất lực, không con?

    Chuyện hưởng thụ khoái lạc của vua Minh Mạng và Bảo đại

    Cũng có đời sống tình dục phóng khoáng trong số các vị vua triều Nguyễn, Bảo Đại nổi tiếng là vị vua đa tình và ăn chơi khét tiếng một thời. Theo sách Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam của tác giả người Pháp Daniel Grandclément, sở thích hàng đầu của Hoàng đế Bảo Đại là đuổi theo những người đàn bà đẹp. Ông từng thẳng thắn bộc lộ sự ham muốn sắc dục của mình: “Luôn có nhu cầu đối với đàn bà, một thứ nhu cầu thường xuyên không thể dập tắt được như đồ ăn thức uống. Từ khi đến tuổi lớn, đêm nào cũng phải có một người đàn bà nằm bên, mỗi đêm một người”.

    “Con người Bảo Đại có một phần mười của Farouk, hai phần mười của Machiavel và bảy phần mười của Hamlet… Ông đã dan díu với đủ hạng người, từ cô hầu phòng bình thường, vợ của các gia nhân đày tớ, hoa hậu Đông Dương đến gái nhảy, thậm chí gái điếm…”, một người thân thiết của cựu hoàng đã bình phẩm.

    Không chỉ thử “cảm giác” với người đẹp ở quê hương, ông hoàng Bảo Đại còn có đàn bà Trung Hoa, Hong Kong, Pháp, Nhật Bản, Zaire….

    Theo Dantri

  • Vua Minh Mạng xử quan lại tham ô, nghiêm khắc là đây!

    Vấn đề tham quan ô lại, triều đại nào trị vì cũng đều được đặt ra và xử lý hết sức nghiêm ngặt.
    Khi đọc lịch sử thời Minh Mạng, một ông vua nổi tiếng là nghiêm khắc chúng ta thấy hai sự kiện đáng chú ý trong bộ Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, do NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 1963, tập IV. Hai đoạn sử cho thấy thái độ kiên quyết của vua Minh Mạng trị tội bọn tham quan.
    anh-vua-minh-mang
    Ảnh vẽ truyền thần Vua Minh Mạng
    Bị chém đầu vì trộm hơn 1 lạng vàng
    Trong Bộ luật Gia Long có một điều khoản quy định cách xử tội những người ăn cắp tài sản của nhà nước. Điều 229 của bộ luật có đoạn viết: “Kho của vua gọi là Nội phủ, nó ở trong cấm địa của Hoàng thành. Hễ lấy trộm món gì ở đó dù nhiều hay ít đều bị tội chém đầu”.
    Dưới thời vua Gia Long trị vì (1802 – 1819) đã xảy ra một vụ gian lận, lấy cắp tài sản chứa trong nội phủ và những thủ phạm đã bị chém đầu. Đến thời vua Minh Mạng trị vì (1820 – 1840) lại diễn ra cảnh hoàng kim hắc thế tâm (vàng làm đen tối lòng người). Vào tháng 5/1823, một ông quan làm việc tại phủ nội vụ, tên là Lý Hữu Diệm lấy trộm hơn một lạng vàng. Việc bị phát giác, bộ Hình đưa ông Diệm ra xét xử. Thay bằng tuyên án chém đầu, bộ Hình thấy đây là một ông quan đã ít nhiều có công trạng nên giảm xuống thành tội bắt đi đày viễn xứ. Vụ án được tâu lên vua, vua Minh Mạng không chấp nhận đề nghị của bộ Hình là giảm án và nhà vua ra lệnh cho bộ Hình đem can phạm ra trước chợ Đông Ba chém đầu, cho mọi người trông thấy mà sửa mình. Đoạn văn ấy được ghi như sau:
    “Thư lại Nội vụ phủ là Lý Hữu Diệm lấy trộm hơn một lạng vàng. Bộ Hình nghĩ xử tội chém chuẩn làm tội đồ. Án tâu lên, vua dụ rằng: Khoảng năm Gia Long, bọn Nguyễn Đăng Được thông đồng với thợ bạc là bọn Nguyễn Khoa Nguyên đúc trộm ấn giả, để trộm đổi ấn cất ở kho, đều xử chém ngay. Nay Hữu Diệm ở đấy cân vàng mà còn dám công nhiên lấy trộm, huống chi của kho thì sao?
    Thế là trong mắt hắn không có pháp luật. Chi bằng theo đúng tội danh mà định tội để răn người sau. Lý Hữu Diệm phải giải ngay đến chợ Đông, chém đầu cho mọi người biết. Hồ Hữu Thẩm phải truyền cho bọn viên lại Nội vụ phủ cùng đến xem, hoặc giả mắt thấy lòng sợ mà tự khuyên răn nhau để khỏi mắc tội, há chẳng là một phương thuốc hay cho bọn người sao?”.

    Vua Minh Mạng xử quan lại tham ô nghiêm khắc là đây
    Ảnh minh họa. 

    Chặt tay vì lấy trộm thùng nhựa thơm
    Vụ gian lận thứ hai xảy ra vào tháng 11 năm 1831. Toàn văn đoạn sử này như sau:
    Lũ Nguyễn Đức Tuyên, tư vụ Nội vụ phủ, ăn bớt nhựa thơm. Việc phát giác. Vua dụ rằng: “Lai dịch các kho phần nhiều là kẻ tham lam hèn mạt, bớt xén, dối trá, chẳng thiếu cách gì. Xảy ra đến đâu trừng phạt đến đấy, đã chiếu luật làm tội nặng, lại nhiều lần truyền dụ, dạy bảo hầu đến rát cổ họng. Cốt muốn cho kẻ gian đổi lòng đổi dạ, trở thành lương thiện, thế mà không ngờ lòng người khác xưa, ngày thêm gian giảo! Năm nay có vụ án (ăn cắp) sơn ở Vũ khố, đã đem nhẹ thành nặng vì khinh nhờn pháp luật, lừa dối vua. Kẻ phạm tội ấy đã bị xử tử, lại phải chặt một tay để treo ở cửa kho.
    Gần đây lại xảy ra vụ án mất trộm sa đoạn và hổ phách, hiện đương sai tra xét rất khẩn cấp. Nay sai dâng nhựa thơm thì ra lũ Nguyễn Đức Tuyên đã ăn bớt từ trước, lại dám lấy mật trộn lẫn vào để ít hóa nhiều, ý định lừa gạt che giấu. Trước còn chối cãi, đến lúc cả kho xưng ra, mới chịu thổ lộ thực tình, thì những người tai nghe mắt thấy ai mà không ghét. Vả lại vụ mất sơn chưa nguôi, án sa đoạn, hổ phách còn nóng hổi, chúng nó mù điếc, sao lại mất hết lương tâm, cố ý phạm tội như thế. Đáng lẽ cho trói đem ra chợ Cửa Đông chém đầu, nhưng lần này tạm chặt một bàn tay thủ phạm Nguyễn Đức Tuyên đem treo, xóa tên trong sổ làm quan, để lại cho nó cái đầu, khiến nó suốt đời hối hận và nhờ đó để làm cho mọi người đều biết tỉnh ngộ, răn chừa. Thế cũng là một cách trừng trị kẻ gian”.
    Khi thụt một lạng vàng, lấy cắp trong kho một thùng nhựa thơm mà vua Minh Mạng đã bắt chém đầu, chặt tay thủ phạm. Đọc lại những ghi chép trong sử sách đáng để cho chúng ta luận cổ suy kim.
    Theo Kienthuc.Net
  • Lối sống điều độ của Vua Minh Mạng

    Lối sống điều độ của Vua Minh Mạng

    Để có thể lực cường tráng, chăn gối viên mãn, ngoài thuốc men tẩm bổ, Minh Mạng còn rèn luyện sức khỏe bằng phương pháp mà ngày nay rất phổ biến.

    Minh Mạng tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, lên ngôi vào tháng giêng năm Canh Thìn (tức tháng 2/1820) khi 29 tuổi, độ tuổi thanh niên với sức khỏe và lòng nhiệt huyết nhưng nhà vua không vì thế mà sa vào hưởng lạc, trái lại ông lấy công việc, hoạt động để nuôi dưỡng tinh thần, vun bồi thể chất.
    Không thể lấy chuyện Minh Mạng có nhiều con mà cho rằng vua ham mê sắc dục được, bản thân nhà vua xem thịnh suy, hưng vong của đế vương đời trước làm tấm gương để tự răn mình “không hề dám đắm say về lạc thú” và khẳng định rằng: “Cái đức của đấng quân vương là không có nhàn rỗi, dâm dật” (Đại Nam thực lục).

    Lên ngôi không lâu, trong một buổi thiết triều, Minh Mạng nói với triều thần rằng:

    – Trẫm đang độ tuổi trẻ, còn sáng suốt về tinh thần, mạnh mẽ về sức lực, nên trẫm hằng chăm lo việc triều chính.
    Một lần khác, vua lại nói:

    – Trẫm với các khanh cùng hội họp, lòng trẫm lấy làm khoan khoái, há không hơn cả ngày ở trong cung đối diện với đám phụ nữ, không có điều gì để nói năng cả hay sao.
    Vua Minh Mạng

    Hoàng đế và đại thần

    Sách Minh Mạng chính yếu chép vào năm Kỷ Hợi (1839), nhân có quan Hiệp biện đại học sĩ, Tổng đốc tỉnh Bình Phú (Bình Định – Phú Yên) là Vũ Xuân Cẩn vào kinh chầu, vua Minh Mạng thấy ông râu tóc bạc phơ bèn hỏi tuổi và hỏi vì sao già mà vẫn có sức khỏe như vậy. Quan Tổng đốc Vũ Xuân Cẩn mới tâu rằng:

    – Hạ thần nay đã 68 tuổi, ở tỉnh thời thường đến xem quân lính, nhân dân đốn cây, chặt củi, nên có thể trèo leo, lên xuống núi khe mà không biết mỏi mệt.

    Nghe vậy nhà vua nói rằng:

    – Trẫm ở trong cung, cũng thường đi bộ, tập giờ lâu mà không biết mệt mỏi, thế mới biết người ta phải tập vận động, cố gắng thì ngày một thêm mạnh, cứ ngồi yên mà lười biếng thì ngày một thêm yếu, không kể tuổi già hay trẻ vậy!

    Vua Minh Mạng
    Hoàng đế bộ hành

    Minh Mạng còn khuyên dạy các hoàng tử không nên lười nhác, phải chăm vận động. Vua nói rằng:

    – Ta xem các con ngày nay không bằng ta lúc còn trẻ tuổi. Trước kia ta theo đức Thế Tổ Cao hoàng đế [Gia Long], dừng xa giá tại tỉnh Gia Định, lúc xa giá ra trận, thường ở lại để coi giữ địa phương. Trời rét như cắt, ta mặc áo đơn, cưỡi thuyền đi lại trên mặt biển mà không biết lạnh. Các con tuổi mới trên dưới 30 mà không chịu nổi nóng lạnh, sau này đến năm sáu, bảy mươi tuổi làm sao mạnh mẽ được vậy. Ta nay hằng nghĩ đến tự cường, không dám để mình nhàn hạ quá. Các con nên theo ý ta, không mưu đồ sự an nhàn vui vẻ vậy!

    Theo Khám phá Huế.

  • Vua Minh Mạng ‘giải vây’ cho tàu Anh mắc cạn ở Hoàng Sa

    Vua Minh Mạng ‘giải vây’ cho tàu Anh mắc cạn ở Hoàng Sa

    Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ cho biết: Vào tháng 12/1836 thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người được nhà Nguyễn cứu sống đưa vào bờ biển Bình Định.

    Trong thời kỳ làm hoàng đế, vua Minh Mạng và vương triều Nguyễn đã có những việc làm thiết thực để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.

    Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 104, năm Minh Mạng thứ 14 (1833) chép: “Vua bảo bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.

    Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 154, năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chép: “Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có cái giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lí ba bình” (tức là muôn dặm sóng êm).

    Cồn Bạch Sa có chu vi 1070 trượng, tên cũ  là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái (tức năm 1834) vua toan dựng miếu lập bia chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được.

    Vua Minh Mạng ‘giải vây’ cho tàu Anh mắc cạn ở Hoàng SaBản dập Mộc bản triều Nguyễn phản ánh vua Minh Mạng cho giúp đỡ tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa.

    Đến đây, mới sai Cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về”.

    Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 176, trang 1, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) chép: “Mùa đông, tháng 12, thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình Định.

    Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và  gạo. Lại phái thị vệ  thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ  ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt. Phái viên về tâu, vua nói: “Họ, tính vốn kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn chẩn tuất, bỗng cảm hoá, đổi được tục man di. Thật rất đáng khen”. Sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải; các người tuỳ tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.

    Từ những việc làm như trồng cây, lập miếu thờ ở  Hoàng Sa hay cho cứu vớt tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa đã cho thấy vương triều Nguyễn có chủ quyền riêng ở quần đảo này. Bên cạnh đó, Mộc bản triều Nguyễn và các sách lịch sử khác chưa hề phản ánh việc các nước khác tranh chấp với triều Nguyễn trên quần đảo Hoàng Sa.

    Theo Báo Đất Việt