Tag: vua chúa Việt Nam

  • Lễ lên ngôi Hoàng thái tử cuối cùng của Việt Nam

    Lễ lên ngôi Hoàng thái tử cuối cùng của Việt Nam

    Thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long (1936 – 2007) là hoàng thái tử cuối cùng của Việt Nam. Ông sinh tại điện Kiến Trung trong Đại nội Huế, là con trai của Hoàng đế Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương. Ngày 7 tháng 3 năm 1939, Bảo Long được phong hoàng thái tử khi mới 3 tuổi.

    Sau ngày vua cha Bảo Đại thoái vị đánh dấu việc kết thúc nhà Nguyễn, ông cùng các em theo hoàng hậu Nam Phương về cung An Định sống và học tại trường Đồng Khánh cùng với các gia đình bình dân.

    Năm 1947, chiến tranh Pháp-Việt nổ ra, hoàng hậu Nam Phương đem Bảo Long và các anh chị em đến Thorenz tại Cannes, thuộc vùng biển Địa Trung Hải Côte d’Azur Pháp sinh sống.

    Ông sống một cuộc đời lặng lẽ tại Pháp, sau khi rời khỏi quân ngũ ông theo học ngành Luật và Khoa học Chính trị tại Paris và rồi đi làm cho một ngân hàng của gia đình bên ngoại, rồi ông sống lặng lẽ, không dính đến việc chính trị.

    Ông đã từng cộng tác với Hoàng Tử Bảo Vàng (con của vua Duy Tân) trong nhiều dự án về từ thiện, giáo dục và văn hóa cho người Việt Nam.
    Buổi lễ tấn phong năm 1939 của vị hoàng thái tử cuối cùng nhà Nguyễn được người Pháp quay lại, đó là đoạn phim màu giúp thế hệ sau biết nhiều hơn về cung điện, quan lại, trang phục…thời Nguyễn.

     

    Lễ lên ngôi Hoàng thái tử cuối cùng của Việt Nam
    Thái tử Bảo Long

    https://youtu.be/YQOnMPu5xIU

    Thuyết minh video:

    Lễ thụ phong Hoàng Thái Tử Bảo Long

    Những người phụ nữ không được phép can dự vào các công việc của triều đình, nên trong lễ thụ phong Hoàng Thái Tử, Hoàng Hậu cũng không được phép tham dự. Vào ngày lễ thụ phong Hoàng Thái Tử Bảo Long, Hoàng Hậu rời cung điện để tới cung của Hoàng Thái Hậu.

    Thượng thư Bộ Lễ, Tông nhân phủ phụ trách các công việc Hoàng gia và đoàn tùy tùng đưa thái tử tới cung điện ngai vàng, nơi sẽ diễn ra lễ thụ phong.

    Tới lượt, đoàn tùy tùng hoàng gia tiến về nơi diễn ra buổi lễ.

    Sau đó là sự xuất hiện của Toàn Quyền Đông Dương, theo sau là các thành viên các quốc gia thuộc liên minh Pháp.
    Trong khi hai chính phủ ký tên vào Cuốn Sổ vàng công nhận Hoàng Tử chính thức là người kế vị ngai vàng, quan lại triều đình cũng cử hành nghi lễ biểu đạt sự chấp thuận. Buổi lễ lớn kết thúc, đoàn tùy tùng hoàng gia quay trở lại cung cấm trong âm thanh của nhã nhạc truyền thống.

  • Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Bảo tàng chứng tích chiến tranh (quận 3) vốn là chùa Khải Tường – nơi vua Minh Mạng được sinh ra năm 1791, khi chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi.

    Theo sách Biên niên sử Phật giáo Gia Định – Saigon – TP HCM 1600-1992ấn hành năm 2001, Khải Tường là ngôi chùa tọa lạc trên gò cao tại ấp Tân Lộc, huyện Bình Dương, thuộc thành Gia Định xưa. Ban đầu, đây là am nhỏ do Thiền sư Phật Linh – Ý Nhạc lập năm 1744. Khải Tường và chùa Từ Ân gần đó (ở vị trí trong Công viên Tao Đàn hiện nay) là 2 chùa cổ của Sài Gòn, nổi tiếng vì là nơi vua Gia Long từng ẩn náu quân Tây Sơn. Trong đó, chùa Khải Tường chính là nơi hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng) chào đời.

    Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Chùa Khải Tường khoảng năm 1871-1874. Ảnh tư liệu.

    Năm 1788, nội bộ Tây Sơn có nhiều mâu thuẫn, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh giành lại được Gia Định để củng cố lực lượng cũng như xây dựng thành trì, biến nơi đây thành trung tâm chính trị của triều Nguyễn.

    Hai năm sau, trong lúc thành Gia Định mới được xây dựng, hoàng gia và bộ máy quan lại lúc này ở Gia Định phải tá túc ở hai ngôi chùa lớn nằm gần nhau là chùa Từ Ân và chùa Khải Tường. Theo một số tư liệu, ngày 25/5/1791, Nhị phi Trần Thị Đang (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu) sinh Nguyễn Phúc Đảm nơi hậu liêu chùa Khải Tường.

    Sau khi thống nhất đất nước và lên ngôi vua, năm 1802 vua Gia Long cho trùng tu hai ngôi chùa này. Để tạ ơn che chở, vua đã dâng cúng tượng Phật A-Di-Đà cao 2,5 m bằng gỗ mít, ngồi trên tòa sen, sơn son thếp vàng.

    Sách Lược Khảo Phật giáo sử Việt Nam của Vân Thanh, xuất bản tháng 3/1975, viết: “… chùa Khải Tường, Thôn Hoạt Lột, huyện Bình Dương, xây cất năm Tân Hợi (1791), hiện nay nền chùa là Trường Đại Học Y Khoa cũ, đường Trần Quý Cáp, do Nguyễn Vương Phúc Ánh kiến tạo để kỷ niệm nơi sinh Hòang tử Đởm (hay Đảm, tên vua Minh Mạng)”.

    Tương tự, nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển trong quyển Sài Gòn năm xưa cũng cho rằng “Chùa nầy có dật sử chính hoàng tử Đảm (sau lên ngôi là Đức Minh Mạng) sanh nơi hậu liêu vào năm Tân Hợi (1791) giữa cơn tị nạn Bình Tây Sơn. Qua năm 1804, Cao Hoàng nhớ tích cũ, để tạ ơn Phật dày công che chở mấy năm bôn tẩu nên gởi tặng chùa một cốt Phật Thích Ca thật lớn bằng gỗ mít, thếp vàng tuyệt kỹ”.

    Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Tượng phật A-Di-Đà vua Gia Long tặng chùa Khải Tường hiện được trưng bày ở bảo tàng lịch sử Việt Nam – TP HCM. Ảnh: Wikipedia

    Năm 1820 vua Gia Long Mất, Minh Mạng nối ngôi. Đến năm 1832, sau khi tìm kiếm được địa chỉ nơi cha mẹ từng ở và cũng là nơi sinh ra mình, vua Minh Mạng sai xuất 300 lạng bạc trùng tu chùa và đặt tên là Quốc Ấn Khải Tường, đồng thời cho “mộ sư đến ở, cấp ruộng tự điền” để lo việc lễ tiết hàng năm (Khải Tường là mở bày đều tốt lành. Ám chỉ nơi chốn vua sinh ra là vùng đất quý, phát phúc lâu dài, rộng rãi). Chùa Từ Ân gần đó cũng được phong Sắc Tứ Từ Ân.

    Quy mô của chùa Quốc Ấn Khải Tường từ ngoài vào trong gồm có lầu chuông trống ba gian hai chái; tiếp đến điện Phật ba gian; hai bên có hai hành lang dài nối với Tăng xá và nhà ăn đều ba gian hai chái. Chùa làm xong, thỉnh hai mươi nhà sư đến cư trú, ban cấp ruộng đất lấy hoa lợi lo việc thờ cúng hằng năm. Nơi đây có các vị Cao Tăng Trụ trì hoằng dương đạo pháp, được triều đình bảo hộ nên trở thành ngôi chùa tiêu biểu, ảnh hưởng rộng lớn đến quần chúng đạo Phật khắp Nam kỳ lục tỉnh.

    Năm 1859, quân Pháp tấn công Gia Định, sau khi chiếm được thành họ chiếm đóng chùa Khải Tường và các ngôi chùa lớn khác như Từ Ân, Kim Chương, Kiểng Phước, Mai Sơn… thiết lập phòng tuyến quân sự để chống lại các đợt tấn công của người Việt.

    Riêng chùa Khải Tường, đại úy thủy quân lục chiến Pháp tên Barbé nhận nhiệm vụ dẫn quân vào chiếm giữ. Barbé cho đem tượng Phật bỏ ngoài sân, cưỡng bức các sư phải rời chùa. Chiều 7/12/1860, quân Việt phục kích giết chết Barbé khi viên sĩ quan này cỡi ngựa đi tuần đêm từ chùa Khải Tường đến đền Hiển Trung (nay được cho là ngã ba Võ Văn Tần – Trần Quốc Thảo).

    Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Bảo tàng chứng tích chiến tranh ngày nay. Ảnh: Trung Sơn

    Theo nhà văn Sơn Nam, khoảng năm 1867 chùa Khải Tường trở thành trường sư phạm nam. Mười ba năm sau chùa bị tháo dỡ, trường dời qua cơ sở mới là trường Chasseloup Laubat xây cất xong khoảng 1877.

    Khi tháo dỡ, tấm hoành phi “Quốc ân Khải Tường tự” được chuyển về chùa Từ Ân (nay ở đường Tân Hóa, quận 6) cất giữ, còn tượng Phật A-Di-Đà phải dời đi nhiều nơi, sau cùng được trưng bày trong Viện bảo tàng Quốc gia Sài Gòn (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP HCM).

    Thời gian sau, trên nền chùa bỏ hoang này, người Pháp cho xây một dinh thự dành cho quan chức trong bộ máy cai trị. Trước năm 1963 dùng làm Trường Đại học Y dược, sau khi chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các tướng lãnh cho các cố vấn quân sự đến trú đóng. Sau ngày năm 1975, nơi đây được dùng làm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh.

    Trung Sơn

    Theo vnexpress

  • Chuyện vi hành “bi hài” của vua Việt

    Chuyện vi hành “bi hài” của vua Việt

    Xưa, các đấng quân vương ngoài việc thiết triều bàn nghị việc nước, điều khiển việc quốc gia đại sự, nhiều vị bởi muốn hiểu nhân tình thế thái thế nào nên vi hành vào chốn nhân gian. Trong sử Việt, những cuộc vi hành của vua chúa không được ghi lại nhiều. Nhưng qua những tài liệu cóp nhặt được từ sử cũ, chúng ta cũng biết được dăm ba điều về các cuộc vi hành ấy, và cũng có những sự khác lạ nhất định.
     
    Vua vi hành, dân gặp cướp 
    Vua Tự Đức, cũng đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng thời Nguyễn, trong Việt sử tổng vịnh, phần Đế vương, khi viết về vua Lý Cao Tông nhà Lý, ngài đã nhận xét về tiền nhân rất nghiêm phê: “Trong thời gian tại vị, Lý Cao Tông xây dựng dinh thự không ngớt, và Đế vui chơi không có chừng mực; giặc giã và trộm cướp trong nước nổi lên như ong, nhân dân đói khát khổ sở gấp bội những năm khác. Cơ nghiệp nhà Lý bắt đầu suy đốn từ đấy”. Lại có thơ rằng:
    Cưỡng bão bi tần dĩ tự do,
    Cố tương dân mịch phụng bàn du.
    Chiêm Thành khúc lý đa ai oán,
    Quy Hóa giang đầu thuỷ bất lưu.
    Tạm dịch:
    Khăn tã tự do thỏa ý trời,
    Hại dân chẳng kể, kể rong chơi.
    Chiêm Thành khúc hát, lời ai oán,
    Quy Hóa đầu sông nước chẳng trôi. 

    Nhận xét nghiêm khắc của một đấng quân vương dành cho đấng quân vương ở cùng địa vị “thiên tử”, là tấm gương soi chính xác đối với vị vua thứ bảy của nhà Lý. Trị vì đất nước 35 năm (1175 – 1210), là một trong những vị vua trị vì lâu nhất của nhà Lý (chỉ kém vua Lý Nhân Tông) cũng như chế độ phong kiến Đại Việt, nhưng công trạng, sự nghiệp Lý Cao Tông để lại cho hậu thế gần như chẳng có gì. Có chăng là tiếng xấu về sự ham chơi bời, tiêu phí sản nghiệp quốc gia cho những thú vui chơi vô bổ của vua. Nào là ưa phương thuật, sự lạ, tin tài sai bảo hổ của sư Tây Vực năm Đinh Mùi (1187), hay uy trị sấm của Nguyễn Dư năm Bính Dần (1206). Lại chăm việc thổ mộc, xây dựng cung Nghiêm Thiềm năm Đinh Tỵ (1197), dựng gác Kính Thiên năm Quý Hợi (1203)… Đặc biệt, vua rất ưa vi hành, nhưng không phải là quan tâm muôn dân trăm họ, mà để thỏa chí tò mò, sự ham vui chơi của bản thân, như lời Đại Việt sử ký toàn thư thuật lại: “Vua ngự đi khắp núi sông, phàm ngự đến đâu mà có thần linh đều cho phong hiệu và lập miếu để thờ”… “vua xây dựng không ngớt, ngao du không chừng mực”.

     

    Chuyện vi hành
     Vua Lý Cao Tông lên ngôi từ năm 3 tuổi. Nguồn: Internet.

     

    Cũng vì cái sự ngao du ấy, có lần vua gặp cảnh “bất bình chẳng tha” (trích lời Lục Vân Tiên trong truyện thơ Nôm cùng tên của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu), nhưng đấng kim thượng lại nhắm mắt làm ngơ. Ấy là vào năm Bính Dần (1206) niên hiệu Trị Bình Long Ứng năm thứ hai theo ghi chép của Đại Việt sử lược, việc xảy ra ngay tại kinh thành, khi vua 37 tuổi ta.
    Năm đó, trong nước đã loạn lạc dữ lắm, mà vua thích đi chơi, nhưng đường xá không thông được, vua bèn sai làm hành cung Ứng Phong, Hải Thanh ở đầm Ứng Minh, hàng ngày cùng bọn cung nữ đi chơi bời làm vui. Lại lấy thuyền to làm thuyền ngự, lấy các thuyền bé chia làm hai đột, sai bọn cung nữ, phường tuồng chèo thuyền, vua dẫn bọn tả hữu bắt chước nghi vệ thiên tử như khi vua ngự đi chơi đâu vậy. Lại còn lấy sáp ong bọc những tấm lụa và các thứ hải vật thả xuống ao rồi sai người lội xuống mò lên giả làm đồ vật dưới Long Cung đem dâng. Bá quan văn võ thấy vua rong chơi vô độ đều sợ hãi không dám nói.
    Một hôm, vua ngự giá đi chơi ở đầm Ứng Minh như mọi khi. Đang lúc cùng bọn hầu cận, cung nữ vui đùa, bỗng nghe từ ngoài thành vọng lại những tiếng kêu thảm thiết. Lại nói thời bấy giờ, đói kém liên miên, bọn giặc cướp có mặt ở khắp nơi, giết người cướp của ngang nhiên như chốn không người. Để ý, cả đoàn mới biết là tiếng người bị ăn cướp đang hô hoán kêu cứu. Mặc dù đủ cả cấm binh vây quanh đến vài lớp, tiếng kêu cứu rõ mồn một, nhưng Lý Cao Tông chỉ ngỡ ngàng một chút, rồi lại cười nói, đùa vui như trước, giả vờ không nghe thấy gì, mặc cho dân đen, con đỏ của mình chẳng có ai giúp đỡ, đành gào thét vì bị cướp của giữa thanh thiên bạch nhật. Thật là:
     
    Vui chơi nào có biết gì, 

    Thờ ơ phó chuyện an nguy mặc trời.

    (Trích Đại Nam quốc sử diễn ca)
    Vua siêng đi chơi, bị đá rơi đầu 

    Đó là trường hợp của vị vua thứ tư nhà Trần: Trần Anh Tông (1293 – 1314). Vua vi hành bị bọn vô lại ném đá, nhưng đó là quãng thời gian khi vua mới lên ngôi còn ham chơi bời. Xét cả thời trị vì 21 năm của vị vua đặt duy nhất niên hiệu Hưng Long này, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí đã ca ngợi công đức của vua là: “Vua khéo nối nghiệp trước, thương dân, lập chính, đời được yên vui, chính trị tốt đẹp, chế độ rực rỡ, đáng khen”. Hay thời Nguyễn, Thái Hà Diên Mậu Hoàng Cao Khải khi viếtViệt sử yếu, cũng nhận xét thời vua Trần Anh Tông: “Nhân tài xuất hiện ngày càng nhiều, đạo học chấn hưng ngày càng thịnh, triều vua Trần Anh Tông thật là triều thịnh trị nhất về đời nhà Trần”.

     

    Chuyện vi hành
     Vua Anh Tông bỏ tục xăm mình. Nguồn: Internet.

     

    Quản nước tốt đẹp là thế, nhưng không phải lúc nào vua Trần Anh Tông cũng nghiêm cẩn sửa mình như lời dặn của thượng hoàng Trần Nhân Tông:
    Thủ thành nối nghiệp gian nan,
    Hễ là tửu sắc lòng toan đã chừa.
    (Trích Việt sử diễn âm)
    Khi vua mới lên ngôi, tuổi độ thanh niên mới lớn, nên tính bồng bột, ham chơi bời, lại có Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông bên mình trị nước, do đó mà chính sự có phần lơ là. Có lần, vì ham uống rượu xương bồ mà suýt bị Thượng hoàng truất ngôi thiên tử bởi giận. May sao có văn nhân Đoàn Nhữ Hài hay thơ làm biểu tạ lỗi mới được vua cha bỏ qua cho lỗi ấy. Ngoài việc thích uống rượu, do tuổi trẻ thích tìm hiểu, nên Anh Tông thỉnh thoảng cũng hay cùng bọn quân hầu vi hành ra ngoài nhân gian thăm thú dân tình, vui chơi thả sức. Khổ nỗi, đi đêm lắm có ngày gặp ma, sự thể ấy được Việt sử cương mục tiết yếu cho hay.
    Tính vua thích vi hành, ban đêm thường cải trang làm công tử con quan, lên kiệu cùng hơn chục tên hầu cận rong ruổi khắp kinh thành Thăng Long, nào ngắm tửu quán đông vui, nào xem người qua lại nhộn nhịp, lại mắt liếc tay đưa những bóng hồng lướt qua. Cứ thế cả đoàn đi đến khi gà gáy mới về lại cung cấm. Ấy rồi có đêm khi đến một phường nọ trong kinh thành, bọn thanh niên hư đốn tính hay ghen ghét, tưởng kiệu Anh Tông là công tử con quan nhà ai diễu phố nên thấy ngứa mắt, mới hùa với nhau cầm gạch ném vào kiệu. Bọn người đi theo hầu hoảng hốt lắm, chẳng cần giấu bí mật vua vi hành nữa, mới thét lên cho bọn kia nghe thấy:
    – Kiệu của vua đấy!
    Nghe đến thiên tử, bọn thanh niên vô lại cả đám chạy tan sợ bị tội. Đến khi xem lại, thì đầu vua đã bị trúng mảnh gạch ném vào, chảy cả máu, cả chục ngày vết thương mới liền sẹo.
    Sau, Thượng hoàng Trần Nhân Tông thấy vết sẹo ấy, mới hỏi nguyên do vì sao lại bị thế. Vua Trần Anh Tông cứ thực thà mà tâu lại. Thượng hoàng Nhân Tông bực mình lắm, lắc đầu, tặc lưỡi mãi mới thôi.
    Kể ra chuyến vi hành ấy, may mà mới bị ném đá, nếu có ẩu đả nữa, không biết mệnh vua có được bảo toàn. Cũng sau lần bị nạn vi hành, vua Anh Tông ngày càng trở nên thận trọng, nghiêm cẩn hơn trong vui chơi, trị nước, giúp dân cường, nước thịnh, triều đại thêm thịnh đạt, được Việt sử diễn âm hết lời thi tán:
    Khiêm xung hiếu hữu bản sinh tri, 
    Cải quá chung hình tuyệt ẩm thì.
    Nghiệp kế thủ văn xưng thịnh chúa,
    Nội tu lễ nhạc ngoại thương di.
    Nghĩa là:
    Hiếu hữu khiêm toàn đức bẩm sinh,
    Rượu chừa lỗi sửa bỏ phồn hình.
    Trọng văn kế nghiệp đời khen thịnh,
    Lễ nhạc tôn súng bốn bể thanh. 
    Vua hiền gặp trộm giỏi

    Thời Lê sơ, vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) được biết đến là một ông vua cai trị sáng suốt, tạo nên đỉnh cao thịnh trị cho bản thân và triều đại. Nói đến vua, đức trị cũng giỏi, pháp trị cũng hay. Thế nên trong Việt sử yếu mới nhận xét rằng: “Bàn về nền quân chủ ở Việt Nam ta, được xưng tụng về văn trị và võ công cực thịnh không lúc nào bằng triều đại Hồng Đức (Lê Thánh Tông)”.

     

    Chuyện vi hành
     Vua Lê Thánh Tông, tranh của Vũ Huyên. Nguồn: Internet.

     

    Để yên nghiệp nước, vua không chỉ chăm lo việc giáo hóa, nông tang, mà còn chú trọng tới luật pháp để xã hội đi vào quy củ, Quốc triều hình luật ra đời từ lý do đó. Một trong những trọng tội vua Thánh Tông muốn bài trừ ở mọi góc độ là nạn tham ô, nhũng lạm, nhất là đối với quan lại. Giai thoại dưới đây đề cập tới vấn đề xử tệ nhũng lạm, có liên quan tới chuyến vi hành của vị vua sáng.
    Thời vua Thánh Tông trị vì, ở Thăng Long có một tay đạo chích rất giỏi nghề. Nhưng khác với những kẻ chôm chỉa thường thấy khác, hắn hay trộm của nhà giàu chia cho dân nghèo, mà chỉ lấy của những kẻ giàu có bất chính. Do thoắt ẩn, thoắt hiện, ra tay nhanh như chớp nên nhiều người gọi hắn là Quận Gió.
    Đúng vào dịp Tết nọ, vua Thánh Tông cải trang vi hành đón giao thừa. Biết tiếng Quận Gió, vua sai người tìm ra nơi Gió đang ở, rồi tự mình giả cách làm học trò trường Giám (Quốc Tử Giám) vào gặp. Chàng giám sinh hờ nói với Quận Gió:
    – Tôi ở Thanh Hóa Thừa tuyên, làm học trò trường Giám, năm hết tết đến muốn về quê mà trong tay không còn cắc bạc nào. Dám xin ông giúp cho lộ phí đi đường.
    Nghe chàng giám sinh than thở, Quận Gió cảm động. Nói:
    – Chẳng giấu gì nhà anh, tôi là Quận Gió, chắc anh đã biết tiếng. Anh nghèo, tôi sẽ giúp. Tiền không có sẵn, nhưng tôi sẽ lấy của mấy tay trọc phú giúp anh. Vậy, bây giờ anh định lấy của nhà ai?
    Chàng giám sinh hồ hởi:
    – Trộm của phú ông ở cửa Tây thành được không?
    – Không được! Ông ấy giàu nhờ cày sâu, cuốc bẫm, lao động vất vả quanh năm suốt tháng – Quận Gió lắc đầu.

    – Vậy trộm của chủ cửa hiệu vàng bạc ở phố cửa Đông thành? – Chàng giám sinh lại tiếp.

    Quận Gió lại lắc đầu, đáp:
    – Ông ấy người ngay thẳng. Có của là nhờ buôn bán, tích cóp. Giờ anh đợi ở đây, tôi đến nhà lão quan coi kho bạc nhà vua ở phố cửa Bắc chôm cho ông vài nén. Lão ấy có lắm vàng ròng, bạc nén trong nhà. Đó là những thứ không phải của hắn.

    Nói xong, Quận Gió nhanh như chớp đã mất hút trong đêm đen. Chưa đầy một khắc, Quận Gió đã quay lại với hai nén bạc trên tay, mỉm cười với chàng giám sinh:

    – Hai nén bạc này, anh có đủ tiền làm lộ phí và còn để dùng vào việc sôi kinh, nấu sử. Mong rằng sau này anh đỗ đại khoa, nhớ đừng có bòn rút xương máu, công sức của dân mà hãy làm một ông quan liêm.
    Chàng giám sinh gật đầu cảm tạ, lại soi hai nén bạc dưới ánh nến, thấy đề bốn chữ: “Quốc khố chi bảo”. Không nghi ngờ gì nữa, đây là bạc trong kho của nhà nước.
    Sáng mùng một Tết, chàng giám sinh ấy đã ngự trên ngai vàng, dưới sân điện, các quan tung hô chúc Tết. Khi ấy, vua Thánh Tông mới kể về chuyến vi hành đêm giao thừa, lại cho mọi người chuyền tay nhau hai nén bạc “Quốc khố chi bảo”. Viên quan coi kho mặt cắt không còn giọt máu, bị lột bỏ hết mọi tước vị. Gia sản bị tịch thu, thân bị lưu đày vì tội nhũng lạm quốc khố nhà nước. Còn Quận Gió sau đó được vua cho vời vào cung ban hiệu là “quân tử đạo chích” và ban thưởng rất hậu. Giai thoại vi hành trên của vua phần nhiều mang tính hoang đường, nhưng việc xử nghiêm tệ tham nhũng thì sử sách còn ghi lại nhiều lắm.
    Bạn có thể xem thêm các bài bình luận chuyện vua chúa tại Facebook: Kể chuyện vua chúa
    Theo kienthuc.net.vn
  • Các vị vua chúa triều đại nhà Nguyễn

    Các vị vua chúa triều đại nhà Nguyễn

    Hình ảnh các vị vua chúa triều đại nhà Nguyễn

    Vào thời đại phong kiến, chỉ cần nhìn mặt vua là cũng có thể rơi đầu vì chỉ muốn ám sát vua nên mới muốn biết mặt vua như thế nào mà thôi. Cũng nhờ vào cái tục lệ nầy mà xưa kia vua Lê Lợi đã thoát chết khi bị quân Minh vây, chỉ cần vua mặc quần áo thường là có thể chạy thoát vì không ai biết mặt vua ra sao.

    Dưới thời Pháp thuộc, các ông Vua Việt Nam đã trở thành những “tài tử” nổi tiếng để Pháp bán bưu thiệp, thời đó phải coi là một nhục quốc thể. Nhưng cũng “nhờ” vào đó mà ngày nay chúng ta mới biết được khuôn mặt của các vì vua.

    Vua Gia Long (1802-1820)

    Vua Gia Long, người thành lập Triều đại nhà Nguyễn
    Vua Gia Long, người thành lập Triều đại nhà Nguyễn
    Hoàng tử Cảnh (hình vẽ bên Pháp bởi họa sĩ Maupérin vào năm 1787)
    Hoàng tử Cảnh (hình vẽ bên Pháp bởi họa sĩ Maupérin vào năm 1787)

    Vua Minh Mạng (1820-1840)

    Vua Minh Mạng
    Vua Minh Mạng
    Ấn của vua Minh Mạng
    Ấn của vua Minh Mạng
    Lăng vua Minh Mạng ở Huế
    Lăng vua Minh Mạng ở Huế
    Cổng vào lăng vua Minh Mạng
    Cổng vào lăng vua Minh Mạng

    Vua Tự Ðức (1847-1883)

    Vua Tự Ðức
    Vua Tự Ðức
    Các bà vợ vua Tự Ðức sống đến đầu thế kỷ thứ 20
    Các bà vợ vua Tự Ðức sống đến đầu thế kỷ thứ 20

    Vua Hàm Nghi (1884-1885)

    Vua Hàm Nghi
    Vua Hàm Nghi
    Di ảnh vua Hàm nghi thờ tại lâu đài De la Nauche (France)
    Di ảnh vua Hàm nghi thờ tại lâu đài De la Nauche (France)
    Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)
    Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)
    Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)
    Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)
    Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie
    Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie
    Dân chúng chờ đợi xe đám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie
    Dân chúng chờ đợi xe đám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie
    Ngôi mộ của vua Hàm Nghi ở làng Thonac (France
    Ngôi mộ của vua Hàm Nghi ở làng Thonac (France

    Vua Ðồng Khánh (1885-1889)

    Vua Ðồng Khánh
    Vua Ðồng Khánh

    Vua Thành Thái (1889-1907)

    Từ trái sang phải, 3 hoàng tử: Bửu Lũy, Bửu Trang và Bửu Liêm. Các em của Vua Thành Thái (1891)
    Từ trái sang phải, 3 hoàng tử: Bửu Lũy, Bửu Trang và Bửu Liêm. Các em của Vua Thành Thái (1891)
    Hai người vợ của vua Thành Thái
    Hai người vợ của vua Thành Thái
    Các anh em của vua Thành Thái và các ông thầy (phụ đạo)
    Các anh em của vua Thành Thái và các ông thầy (phụ đạo)
    Vua Thành Thái
    Vua Thành Thái
    Vua Thành Thái trong triều phục
    Vua Thành Thái trong triều phục
    Vua Thành Thái trong lúc còn tại vị
    Vua Thành Thái trong lúc còn tại vị
    Vua Thành Thái trong lúc bị đày bên đảo Réunion
    Vua Thành Thái trong lúc bị đày bên đảo Réunion
    Vua Thành Thái và em tới thăm quan toàn quyền (1900)
    Vua Thành Thái và em tới thăm quan toàn quyền (1900)
    Vua Thành Thái và em tới thăm quan toàn quyền (1900)
    Vua Thành Thái và em tới thăm quan toàn quyền (1900)
    Cựu hoàng Thành Thái về thăm Huế lần cuối (1953)
    Cựu hoàng Thành Thái về thăm Huế lần cuối (1953)
    Vua Bảo Ðại đến thăm cựu hoàng Thành Thái tại Saigon (1953)
    Vua Bảo Ðại đến thăm cựu hoàng Thành Thái tại Saigon (1953)
    Hoàng hậu Từ Minh, thân mẫu cựu hoàng Thành Thái
    Hoàng hậu Từ Minh, thân mẫu cựu hoàng Thành Thái
    Bà Ðoàn Thị Châu, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái
    Bà Ðoàn Thị Châu, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái

    Vua Duy Tân (1907-1916)

    Vua Duy Tân (5-9-1907)
    Vua Duy Tân (5-9-1907)
    Vua Duy Tân (19-9-1907)
    Vua Duy Tân (19-9-1907)
    Vua Duy Tân
    Vua Duy Tân
    Vua Duy Tân (1907)
    Vua Duy Tân (1907)
    Vua Duy Tân (năm 30 tuổi)
    Vua Duy Tân (năm 30 tuổi)
    Bà Nguyễn Thị Ðịnh, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái, mẹ của vua Duy Tân
    Bà Nguyễn Thị Ðịnh, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái, mẹ của vua Duy Tân
    Bà vương phi Mai Thị Vàng, một trong những thứ phi của vua Duy Tân (năm 72 tuổi)
    Bà vương phi Mai Thị Vàng, một trong những thứ phi của vua Duy Tân (năm 72 tuổi)
    Duy Tân và các anh chị em
    Duy Tân và các anh chị em

    Vua Khải Ðịnh (1916-1925)

    Vua Khải Ðịnh
    Vua Khải Ðịnh
    Vua Khải Ðịnh
    Vua Khải Ðịnh
    Vua Khải Ðịnh
    Vua Khải Ðịnh
    Vua Khải Ðịnh
    Vua Khải Ðịnh
    Vua Khải Ðịnh
    Vua Khải Ðịnh
    Vua Khải Ðịnh và thái tử Vĩnh Thụy tại Paris năm 1922
    Vua Khải Ðịnh và thái tử Vĩnh Thụy tại Paris năm 1922
    Bà Ân phi Hồ Thị Chỉ, vợ của vua Khải Định (theo ông Nguyễn Duy Chính ở VN)
    Bà Ân phi Hồ Thị Chỉ, vợ của vua Khải Định (theo ông Nguyễn Duy Chính ở VN)

    Vua Bảo Ðại (1925-1945)

    Thái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Ðại trong tương lai)
    Thái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Ðại trong tương lai)
    Thái tử Vĩnh Thụy  (1925)
    Thái tử Vĩnh Thụy (1925)
    Vua Bảo Ðại
    Vua Bảo Ðại
    Vua Bảo Ðại
    Vua Bảo Ðại
    Vua Bảo Ðại và Hoàng hậu Nam Phương
    Vua Bảo Ðại và Hoàng hậu Nam Phương
    Hoàng hậu Nam Phương, vợ của vua Bảo Ðại
    Hoàng hậu Nam Phương, vợ của vua Bảo Ðại
    Hoàng hậu Nam Phương
    Hoàng hậu Nam Phương
    Vua Bảo Ðại
    Vua Bảo Ðại
    Vua Bảo Ðại trong một buổi lễ năm 1933
    Vua Bảo Ðại trong một buổi lễ năm 1933
    Cựu hoàng Bảo Ðại bên Pháp (tháng 12 năm 1995)
    Cựu hoàng Bảo Ðại bên Pháp (tháng 12 năm 1995)
    Cựu hoàng Bảo Ðại và chiếc ấn Hoàng Ðế Chi Bửu
    Cựu hoàng Bảo Ðại và chiếc ấn Hoàng Ðế Chi Bửu
    Chiếc ấn Hoàng Ðế Chi Bửu
    Chiếc ấn Hoàng Ðế Chi Bửu
    Thái tử Bảo Long, con của vua Bảo Ðại
    Thái tử Bảo Long, con của vua Bảo Ðại
    Thái tử Bảo Long và các quan đại thần
    Thái tử Bảo Long và các quan đại thần

    Những người trong hoàng tộc

    Một Hoàng Thái hậu (không biết tên gì)
    Một Hoàng Thái hậu (không biết tên gì)
    Ðám ma mẹ vua (không biết của ai) (1908)
    Ðám ma mẹ vua (không biết của ai) (1908)
    Ðám ma mẹ vua (không biết của ai) (1908)
    Ðám ma mẹ vua (không biết của ai) (1908)

    HinhanhVietNam.com sưu tầm từ Free.fr