Category: Nhân Vật Lịch Sử

  • 218 Bí danh/Bút danh của Hồ Chí Minh

    218 Bí danh/Bút danh của Hồ Chí Minh

    Đây là danh sách những bí danh/bút danh được Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.
    1. Nguyễn Sinh Cung.  2. Nguyễn Sinh Côn.  3. Nguyễn Tất Thành.  4. Nguyễn Văn Thành.

    Họ tên nguyên thủy 1890

    1.Nguyễn Sinh Cung.

    2.Nguyễn Sinh Côn.

    Họ tên thiếu niên và trưởng thành 1893-1911

    3. Nguyễn Tất Thành.
    4.Nguyễn Văn Thành.
    5.Nguyễn Bé Con.
    Hồ Chí Minh hoạt động
    6. Asan (Á Tam – 阿三), 1911 [1]
    7.Paul Tất Thành (Nguyễn Tất Thành – 阮必成), 1912.
    8. Nguyễn Kinh Thiên Aiguo (Nguyễn Ái Quốc – 阮爱国). Ông Big Brother giới thiệu tham dự những buổi sinh hoạt đảng CS Pháp, Paris 1919.
    9. U L. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Người cùng khổ, năm 1922.
    10. H A. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Người cùng khổ, năm 1923.
    11. Li Rui Chí (Hồ chí Minh hóa danh Lý Thụy – 胡志明化名李瑞). Ngày 13 tháng 12 năm 1924, từ Liên Xô đi Quảng Châu, Trung Quốc.
    12. T V. Bí danh dùng khi ở Hương Cảng ?
    13. Loo Shing Yan, 1 tài liệu, ngày 12 tháng 11 năm 1924. Bản gốc tài liệu đánh máy bằng tiếng Pháp (Loo Shing Yan – Nữ đảng viên Quốc Dân Đảng)
    14. Nilốpki, 6 tài liệu từ tháng 10 năm 1925 đến tháng 3 năm 1926. (hồ sơ khác ghi 1924).
    15. Z A C, 1925. Bí danh nữ tình báo.
    16. Howang T.S, 1 tài liệu Báo cáo trong Đại hội công nhân và nông dân ngày 2 tháng 1925
    17. LT, 4 tài liệu viết từ tháng 4 năm 1925 đến tháng 5 năm 1954. (hồ sơ khác ghi 1925)
    18. X X, 1926.
    19. H T, 1 tài liệu “Bà Trưng Trắc” đăng trên báo Thanh Niên, số 72 ngày 12 tháng 12 năm 1926.
    20. X. 7 tài liệu từ tháng 12 năm 1926 đến tháng 3 năm 1927.
    21. AP, 1 tài liệu, bài “Văn minh Pháp ở Đông Dương”- tạp chí Inpekorr. Tiếng Đức. số 22. 1927.
    22. Lin, 5 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1935 đến tháng 9 năm 1939. (có nơi ghi Line. 1924-1938, dùng tại Diên An, Trung Quốc).
    23. N K, 1 tài liệu “Sự thống trị của đế quốc Pháp tại Đông Dương”-Tạp chí Inprekorr. bản tiếng Pháp. ngày 15 tháng 10 năm 1927.
    24. N A K, 1 tài liệu “Thư gửi Quốc tế nông dân” ngày 3 tháng 2 năm 1928.
    25. Wang, 6 tài liệu từ tháng 9 năm 1927 đến tháng 6 năm 1928.
    26. N, tài liệu từ tháng 2 năm 1922 đến tháng 1 năm 1924. (hồ sơ khác ghi 1923).
    27. T V Wang, 1930.
    28. Victo, 1930.
    29. Vichto Lơ bông, (Victor Lebon), 1930 ?
    30. L M Wang, 1930.
    32 .Quac.E. Wen, 1931.
    33. K V, 1931.
    34. V, 2 tài liệu đều trong tháng 2 năm 1931.
    35. K, 1931.
    36. New Man, 1933.
    37. Li Nốp, 1934.
    38. P C Lin, 8 tài liệu từ tháng 12 năm 1938 đến tháng 7 năm 1939.
    39. X Y Z, 10 tài liệu từ tháng 10 năm 1947 đến tháng 9 năm 1950.
    40. Albert de Pouvourville, 1920.
    41. Phéc-đi-năng (Ferdinand).
    42. Culixe,1 tài liệu ngày 13 tháng 2 năm 1922. (bản gốc tài liệu tiếng Pháp đề: “Culixe” Nguyễn Ái Quốc dịch).
    43. Pôn, 1 tài liệu ngày 27 tháng 2 năm 1930. (hồ sơ khác ghi Paul Thành 1915).
    44. Vichto, 5 tài liệu từ tháng 9 năm 1930 đến tháng 4 năm 1935.
    45. Henri Tchen (Trần). 1922.
    46. Un Annamite. (Một người An Nam), 1924
    47. Liwang, 1927.
    48. Teng Man Huon, 1935.
    49. N A Q. 8 tài liệu viết từ tháng tháng 6 năm 1922 đến tháng 9 năm 1930.
    50. Pôn (Paul), 1930.
    51. Vector Lebm.
    52. Q TH, 14 tài liệu từ tháng 12 năm 1945 đến tháng 10 năm 1946. (hồ sơ khác ghi 1945)
    53. Q T, 10 tài liệu từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946.
    54. T C, 1946.
    55. Đ H, 1946.
    56. A, 1947.
    57. Z, 1947.
    58. H G, 1949.
    59. AG, 7 tài liệu viết từ tháng 6 năm 1947 đến tháng 1 năm 1950.
    60. Đ X, 51 tài liệu viết từ tháng 6 năm 1951 đến tháng 7 năm 1954, (trong chuyên mục “Thường thức chính trị” trên báo Cứu quốc. (hồ sơ khác ghi 1951).
    61. N T, 1951
    62. H B, 1 bài “Có phê bình phải có tự phê bình” – Báo Nhân Dân số 488 ngày 4 tháng 7 năm 1955.
    63. K C, 1957
    64. T, 1958
    65. V K, 1 tài liệu “Kiều bào ta ở Thái Lan luôn hướng về Tổ Quốc” ngày 3 tháng 1 năm 1960. (có nơi 1951).
    66. CK, 9 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1960 đến tháng 3 năm 1960.
    67. K K T, 1960
    68. Ly, 1961
    69. Ch-Kopp (A-la-ba-na). 1963
    70. CS, 1964
    71. LK, 1964
    72. K O, 1965
    73. B.
    74. E Wan.
    75. K K V.
    76.Lonis-Berlin.
    77. Wau you. Bí danh dùng khi ở Hương Cảng.
    78. Loa Roi Ta.
    79. Paul.
    80. Dic-donc (Đi Đông)
    81. H C M. Mật bút viết 8 tài liệu, từ tháng 3 năm 1946 đến tháng 12 năm 1966.
    82. Lý Mỗ (李默), 1925.
    83. Trương Nhược Trừng (张弱惩) 1925.
    84. Vương Sơn Nhi (王山儿), 1925.
    85. Vương (王), tháng 5 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc).
    86. Mộng Liên (梦联), 1926.
    87. Tống Thiệu Tổ (宋绍祖), 1926.
    88. Vương Đạt Nhân (王达人), 1926.
    89. Tiết Nguyệt Lâm (节林月), 1930.
    90. Tống Văn Sơ (宋范初), 1931.
    91. Lâm Tam Xuyên (林三穿), 1939.
    92. Hồ Quang (濠光).
    93. Cúng Sáu Sán (朝六菌). 1941.
    94. Hồng Liên (紅联), 1953.
    95. Thu Sơn(秋山), 1942.
    96. Cheng Vang (郑旺Trịnh Vượng) 1923.
    97. Lucius, 1945.
    98. K T, 1948.
    99. K Đ, 1948.
    100. G, 1949.
    101. T T, 1949.
    102. Shangjian Kang (Thượng Kiện Khang – 尚健康)
    103. Din, 3 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1952 đến tháng 7 năm 1953. (hồ sơ khác ghi 1950).
    104. T L, 80 tài liệu từ tháng 4 nam 1950 đến tháng 6 năm 1969. (hồ sơ khác ghi 1950)
    105. CB,147 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1951 đến tháng 3 tháng 1957 (trên báo Nhân Dân)
    106. H, 1951.
    107. Ph K A, 1959.
    108. Jean Fort, 1960.
    109. V Quac.
    110. LW Vương.
    111. Pan.
    112. S Chon Vang.
    113. Jeng Man Huân. (Trịnh Hoan Vấn 郑欢文) Bí danh nữ tình nhân.
    114 – 115. Tuyết˗Lan, 1935˗1960.
    116. Thanh Lan, 1963.
    117. Ngô Tam, 1963.
    118. Thu Giang, 1959.
    119. Đ L Đ. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Cứu quốc.
    120. T R. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Cứu quốc.
    121. H L. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Nhân dân.
    122. H C. Bút danh ký dưới bài viết đăng trên báo Nhân dân.
    123. L. Bút danh ký dưới bài viết năm 1959.
    124. Lý Thụy (李瑞). 2 tài liệu từ ngày 18 tháng 12 năm 1924 đến ngày 6 tháng 1 năm 1926. (hồ sơ khác ghi 1925)
    125. Lý An Nam (李安男). 1924-1925
    126. Bình Sơn (平山), 10 tài liệu viết từ tháng 11 năm 1940 đến tháng 12 năm 1940.
    127. La Lập (啦立). Dùng 1 lần tại báo Nhân Dân số 4530 ngày 1 tháng 9 năm 1966.
    128. Vương Bạc Nhược (王白弱). Bí danh dùng khi hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc, năm 1925
    129. Trần Vương (陈王).
    130. Tân Sinh (新生). Dùng 1 lần tháng 1 năm 1948.?
    131. Trầm Lam.
    132. Ai QuaQue (爱过桂).
    133. Lý Tín Tống (李信宋).
    134. Nguyễn Hữu Văn.
    135. Nguyễn Hải Khách
    136. Nguyễn Lai.
    137. Chính.
    138. Tín.
    139. Văn Ba (khi làm phụ bếp trên tàu biển, 1911)
    140. Tất Thành.
    141. Ng.A.Q. Dùng 1 lần ngày 1 tháng 8 năm 1922. (có nơi ghi 1921-1926).
    142. Nguyễn Ái Quốc. Từ năm 1914 đến tháng 8 năm 1942. (có nơi 1919)
    143. Nguyễn.A.Q, 2 tài liệu ngày 14 tháng 10 năm 1921 và ngày 1 tháng 8 năm 1922.
    144. Nguyễn. 2 tài liệu từ tháng 4 năm 1924 đến tháng 8 năm 1928. (hồ sơ khác ghi 1923)
    145. Chú Nguyễn. Dùng 1 lần tháng 3 năm 1923.
    146. Ái Quốc, 1924
    147. N Ái Quốc, 1 tài liệu ngày 16 tháng 12 năm 1927.
    148.Ng. Ái Quốc, 1930
    149. Ông Lai, 1927
    150. Thọ, 1928
    151. Nam Sơn, 1928
    152. Chín (Thầu Chín) 1928.
    153. Ông Lý (李), 1930.
    154. Công Nhân, 1930.
    155. Đông Dương, 1931.
    156. Ông Lu, 1924.
    157. Ông Trần, 1940 .
    158. Già Thu, 1941.
    159. Kim Oanh, 1941.
    160. Bé Con, 1941.
    161. Ông Cụ, 1941.
    162. Hoàng Quốc Tuấn, 1941.
    163. Bác, 1941.
    164. Xung Phong, 1942.
    165. Hồ Chí Minh (胡志明). Từ tháng 8 năm 1942 đến 2 tháng 9 năm 1969.
    166. Hy Sinh, 1942.
    167. Cụ Hoàng, 1945.
    168. CM Hồ, 3 tài liệu viết từ tháng 7 năm 1945 đến tháng 8 năm 1945.
    169. Chiến Thắng, 8 tài liệu viết từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 10 năm 1945.
    170. Ông Ké, 1945.
    171. Hồ Chủ tịch, 1945.
    172. Hồ (胡). 7 tài liệu từ tháng 5 năm 1945 đến tháng 2 năm 1947. (hồ sơ khác ghi 1945)
    173. Trần Thắng Lợi. Dùng 1 lần ngày 18 tháng 1 năm 1949.
    174. Trần Lực, 1949.
    175. Lê Nhân. Dùng 1 lần tại bài “Thất bại và thành công”
    176. Lê Quyết Thắng, 1948.
    177. Xuân, 1946.
    178.Một người Việt Nam. 1946.
    179. Tân Sinh, 1947.
    180. Anh, 1947.
    181. Bác Hồ. Dùng tại 119 tài liệu viết từ 27 tháng 10 năm 1946 đến 21 tháng 7 năm 1969.
    182. Chí Minh, 1950.
    183. Đinh, 1950.
    184. Nguyễn Du Kích, 1951.
    185. Nguyễn Thao Lược, 1954.
    186. Lê. 1954.
    187. Tân Trào, 1954.
    188. Nhân dân, 1951.
    189. Nguyễn Tân, 1957.
    190. Chiến Sĩ. Dùng tại 128 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1945 đến tháng 7 năm 1969. (hồ sơ khác ghi 1958).
    191. Nguyễn Kim. 1963.
    192. Nguyễn Văn Trung, 1963.
    193. Dân Việt, 1964.
    194. Đinh Văn Hảo, 1964.
    195. Nguyên Hảo Studiant (Nguyên Hảo, sinh viên), 1959.
    196. Lê Ba. 1 tài liệu “Trả lời ông Menxphin thượng nghị sĩ Mỹ” ngày 20 tháng 4 năm 1966. (báo Nhân dân số 4407).
    197. Nói Thật, 1966.
    198. Chiến Đấu, 1967.
    199. Việt Hồng, 1968. Nữ gián điêp Vũ Thị Việt Hồng.
    200. Đinh Nhất, 1968.
    201. Trần Lam, 1960.
    202. Một người Việt kiều ở Pháp về, 1960.
    203. Lê Nông, 1964.
    204. Lê Thanh Long, 1963.
    205. Luật sư Th Lam, 1961. Bí danh nữ tình nhân, điệp viên Hoa Nam.
    206. Ông Lý Hồng Công.
    207. Nguyễn Lai.
    208. Trần Lực. Dùng tại 25 tài liệu từ tháng 3 năm 1949 đến tháng 1 năm 1961.
    209.Lan. (Mỹ Lan)
    210. Ông Trần.
    211. Trần.
    212. Nói Thật.
    213. Kỳ Viễn (期远).
    214. Lê Đinh. Ký trong một số bức điện gửi ra nước ngoài.
    215. Diệu Hương. Bút danh ký dưới bài đăng báo Thanh niên, năm 1926
    216. Tân Sinh. Viết cuốn “Đời Sống Mới”, bút danh và tác giả (Hồ Chí Minh). NXB: Uỷ ban Trung ương vận động Đời sống mới. 1947.
    217. T Lan.Viết cuốn “Vừa đi đường vừa kể chuyện” 1961.
    218. Trần Dân Tiên. Tác giả của “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch”. Tự viết đời mình.
    Sưu tầm, tổng hợp, lưu lại để tiện tra cứu
  • Giặc Ân là giặc nào trong truyền thuyết Thánh Gióng?

    Giặc Ân là giặc nào trong truyền thuyết Thánh Gióng?

    Hồi nhỏ đọc truyện Thánh Gióng, thấy giặc Ân tàn ác lắm. Rồi có người anh hùng bé tí nhưng đã máu lửa, ăn bao nhiêu là cơm với cà muối, xin con ngựa và gậy sắt, nhảy ra oánh cho một trận thất điên bát đảo. Nôm na thế.

    Giặc Ân là giặc nào trong truyền thuyết Thánh Gióng?
    Giáo sư Trần Văn Giàu viết
    Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỉ, quyển 1, tờ 3b và 4a), dựa vào sách Lĩnh Nam chích quái, tóm lược chuyện Phù Đổng Thiên Vương như sau : “Đời Hùng Vương thứ sáu, Ở làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh (nay thuộc Bắc Ninh – NKT), có nhà giàu nọ, sinh được một đứa con trai. Đứa trẻ ấy, mãi đến năm hơn ba tuổi, tuy ăn uống béo tốt, nhưng lại không biết nói cười. Bấy giờ gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, Nhà vua bèn sai Thiên sứ đi tìm người có thể đánh được giặc. Đúng ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng dưng nói được. Nó nhờ mẹ ra mời Thiên sứ vào rồi nói rằng : – Xin cho tôi một thanh gươm, một con ngựa. Vua không phải lo gì nữa. Vua liền ban cho gươm và ngựa. Đứa trẻ liền phi ngựa, vung gươm tiến lên. Quan quân theo sau. Giặc bị đánh tan ở núi Vũ Ninh (núi này, nay thuộc đất Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh – NKT). Chúng sợ, quay giáo đánh lẫn nhau, chết nhiều lắm. Bọn sống sót thì cúi rạp xuống mà lạy, rồi cùng tôn đứa trẻ ấy là Thiên tướng và đến xin hàng. Đứa trẻ phi ngựa lên trời mà đi. Vua liền sai sửa sang chỗ vườn nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, luôn năm cúng tế. Sau, vua Lý Thái Tổ (làm vua từ năm 1010 đến năm 1028 – NKT) phong làm Xung Thiên Thần Vương”. Lời bàn (Của giáo sư Trần Văn Giàu trong Việt sử giai thoại):Chuyện dân gian hẳn nhiên không phải là lịch sử, nhưng, bất cứ chuyện dân gian nào cũng đều phản ánh một cái lõi có thật nào đấy của lịch sử. Cái lõi có thật ấy, có thể chính là bản thân sự kiện hoặc nhân vật, nhưng có khi chỉ là một ý nguyện chân thành, gởi gắm qua cách nhìn nhận một sự kiện hoặc một nhân vật lịch sử nào đó. Không ai tin rằng một đứa trẻ lên ba lại có thể cưỡi ngựa vung gươm, dẫn đầu quan quân ra trận và đánh tan lũ giặc hung tàn, nhưng bất cứ ai cũng đều tin rằng, hễ có giặc thì hết thảy già trẻ gái trai nước Việt đều hăm hở ra chiến trường. Chí lớn và tài cao chẳng phải lúc nào cũng đi đôi với tuổi tác. Thắng trận rồi, đứa trẻ lẳng lặng bay lên trời, không bàn tâm suy tính công lao, chẳng băn khoăn gì về sự ân thưởng. Mới hay, lòng dân muôn đời vẫn vậy, bình thản lo đại nghĩa một cách vô tư. Người có công tạo lập và gìn giữ thái bình chẳng hề đòi hỏi bất cứ một điều gì cho riêng mình cả. Từ Lý Thái Tổ trở đi, các vua nối nhau đều phong thần cho đứa trẻ quê ở Phù Đổng. Chính hương khói của việc thờ phụng này đã góp phần không nhỏ vào việc tạo ra khí phách hiên ngang và sự vô tư lạ kì cho lớp lớp những thế hệ trẻ, vì nước quên than, vì dân quên mình. Kính thay!

    Nay ở trên mạng có bác thắc mắc là cái bọn giặc Ân ấy nó ở đâu ra, kể cũng hay!

    -Giặc Ân là giặc nào? Bên Tàu xửa xưa có nhà Ân ở vế phía bắc sông Hoàng Hà, quá xa đối với nước Văn Lang ta. Ở bên xứ Khựa có một đền Thánh Gióng ở trấn Võ Ninh, cũng có tích y như bên ta, oánh giặc Ân. Sao thế nhỉ?

    Xứ Việt ta từ ngàn xưa, chẳng ai thống kê hết có bao nhiêu thứ giặc. Kể cũng phải, vị trí thuận lợi quá đi mất, như cái nhà mặt phố ở ngã tư Sở. Ai đi qua cũng dòm vào. Mở cửa hàng thì hút khách. Hút khách đông như cháo thí ắt có kẻ ghen ghét mà tính chuyện phá phách.

    Quay lại với lịch sử. Lịch sử Việt Nam có một phần gắn với sử Trung Quốc, và ngược lại, sử Trung Quốc có một phần gắn với lịch sử Việt Nam. Tích mẹ Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nhưng “tác giả” của cái bọc ấy, Lạc Long Quân nếu tra gúc-gồ thì Lạc Long Quân phát tích ở phía nam hồ Động Đình (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc). Bản thân ngay khi xem wiki tiếng Việt về trống đồng cũng thấy trống đồng được các nhà khảo cổ học tìm thấy lung tung cả ở Lưỡng Quảng, nhiều nhất là ở Đông Sơn, Thanh Hóa, nhưng ở Quảng Tây cũng có đến 3 chục cái. Kỳ lạ, là nơi đóng đô của Vua Hùng (Việt Trì, Phú Thọ) lại chẳng đào được cái nào. Lên Phú Thọ thấy biểu tượng chim lạc, rồi trống đồng nhan nhản, chẳng ngượng lắm ru?

    Vậy Âu Lạc (Âu Việt và Lạc Việt) có lãnh thổ từ nam hồ động đình vào đến tận Nghệ An ngày nay. Trải qua bao lần loạn lạc, đánh nhau, giặc giã… thì dân cư Âu Lạc mới bị người Hoa Hạ đẩy dần xuống phương Nam như ngày nay.

    Một trong những điều minh chứng rõ nhất của việc nước Việt là của người Việt là ở chỗ: người Việt định cư trên vùng có nhiều sông ngòi chằng chịt, nên không gọi Tổ quốc là quốc, mà gọi là NƯỚC. Tôi đi nước ngoài, mai tôi về nước; tôi yêu tiếng nước tôi….

    Người Việt Nam không thể bị đồng hóa là như thế, dù bọn nào và muốn đến mấy chăng nữa. Dù 80% ngôn ngữ của tao gốc của chúng mày, nhưng sau 1000 năm vẫn là từ Hán Việt. Bướng ra bướng!

    Về cái thời xa xưa đó, Trung Quốc cũng lờ mờ về lịch sử, chẳng cứ gì ta. Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, rồi Thuấn truyền ngôi cho Vũ… mỗi ông sống có đến trăm rưởi hai trăm năm, chẳng lờ mờ sao?

    Nôm na rằng, cũng giống như Hùng Vương của ta, cũng là mấy ông tù trưởng của thị tộc, bộ lạc. Nay gọi là vua, nhưng lãnh thổ bé tí ấy mà.

    Ân hay là Thương, một nhà trong sử Trung Quốc từ thế kỷ 14 đến 11 trước Công nguyên, chủ yếu là ở đâu đó trong cái tỉnh Hà Nam thuộc Trung Nguyên, không phải là thuộc Hà Nam Ninh (cũ) nhà ta đâu. Cách đây hơn trăm năm người ta đào được nhiều di vật, di chỉ ở An Dương (Hà Nam) thuộc về đời nhà Ân và Thương.

    Nguyễn Hiến Lê viết Theo Từ Hải và các bộ sử cũ thì nhà Thương bắt đầu từ khoảng 1766 trước công nguyên và chấm dứt năm 1122 trước công nguyên. Nhưng theo Eberhard (sách đã dẫn) thì những niên đại đã được ghi nhận là sai. Nhà Hạ chỉ dài khoảng 300 năm từ 1800 đến 1500 trước công nguyên (phỏng chừng) chứ không phải từ 2201đến 1760 trước công nguyên, và nhà Thương bắt đầu từ khoảng 1450, chấm dứt khoảng 1050 trước công nguyên

    Như vậy từ nhà Thương đến nhà ta khoảng 3000 năm.

    Nguyễn Hiến Lê viết tiếp
    Chúng ta chỉ biết đại khái rằng vua Thành Thang khi diệt vua Kiệt rồi, khai sáng nhà Thương, quy tụ được nhiều bộ lạc và đất đai nhà Thương gồm các tỉnh Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam ngày nay. Kinh đô mới đầu ở đất Bạc, sau bị các dân tộc du mục ở phía Tây lấn, phải dời chỗ bảy lần, lần cuối cùng tới Ân Khư (khư nghĩa là đồi) ở phía Đông, gần An Dương, đổi quốc hiệu là Ân, và thời đó phải chiến đấu rất thường xuyên với các bộ lạc chung quanh

    Hỏi Wiki tiếng Việt thì Hùng Chiêu hay Tiết Liêu hay còn gọi là Lang Liêu vốn nổi tiếng với món bánh chưng bánh dày, được truyền ngôi trở thành Hùng Vương đời thứ bảy, tại ngôi từ 1631 – 1431 trước công nguyên. Vậy thì bố của ông ta, Hùng Vương đệ lục cứ cho là trước đó 4, 5 chục năm, thì so với cái anh nhà Ân trên đây cũng là đúng tầm.

    Hỏi anh gúc-gồ mép thì từ Trịnh Châu (thủ phủ tỉnh Hà Nam) đến Trường Sa (thủ phủ tỉnh Hồ Nam) đường bộ khoảng 860 km. Không quá khó để giặc Ân tràn xuống đánh dân cư của cụ Lạc Long Quân. Ngày nay chạy ô tô tầm 1 ngày đường cao tốc, hồi đó kéo cả đạo quân một tháng, hai tháng, nửa năm một năm rồi cũng tới nơi.

    Nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc 
    Nhà Thương trong lịch sử
    Trung Quốc


    Như thế có thể nói địa bàn chiến trường của Đức Thánh Tản dễ thường cũng to ra phết. Ai cũng thừa biết đó là câu chuyện hoang đường. Đức Thánh Tản có thể không chỉ là một người, mà là cả một đạo quân, có không chỉ một mà vài đến nhiều chiến tướng, đã lập công trạng hiển hách chống cái bọn giặc Ân từ phương Bắc tràn xuống.
    Cũng không nhất thiết Thánh Gióng phải ở sân bay Nội Bài, núi Sóc Sơn bay lên giời, mà ở đâu đó giữa thủ đô Hà Nội to vật vã của chúng ta với cái hồ Động Đình trứ danh kia.

    Một trang sử hào hùng như thế trên địa bàn rộng lớn mà ngày nay đã thuộc về nước khác, cũng chẳng tội gì mà bỏ – và dân cư ở mỗi nơi đều cố kể những câu chuyện tương tự để mà tự hào – như những khảo dị của cụ Nguyễn Đổng Chi vậy. Dân Trung Quốc cũng kể chuyện Thánh Gióng âu cũng là lẽ thường tình.

    Vì thế, cần khẳng định rằng – dù ai nói ngả nói nghiêng – thì Thánh Gióng vẫn là người anh hùng của ta, của người Âu Lạc. Dù trước đây làng của Đức Thánh có ở đâu thì cũng kệ!

    Lịch sử vẫn đang chờ viết tiếp về những Thánh Gióng mới nện bọn tân giặc Ân trên biển Đông!

    Theo nguoilangthangcuoicung.net

  • Ảnh hiếm về vua Tự Đức

    Ảnh hiếm về vua Tự Đức

    Lâu nay trong các tài liệu lịch sử, chúng ta chỉ biết vua Tự Đức qua tấm chân dung bán thân nhưng nhìn nghiêng, không rõ mặt. Do quy định ngày xưa không ai được nhìn thẳng vào mặt Thiên tử. Ảnh nhìn nghiêng đó lâu nay cũng được thờ trong Thế Miếu.

    Thời của ông chưa có kỹ thuật nhiếp ảnh. Vì vậy đây là tấm chân dung được vẽ truyền thần, là tấm hình đặc biệt hiếm hoi của vị vua có 36 năm ngồi trên ngai vàng Nhà Nguyễn. Ảnh nầy do một tờ báo đương thời  của Pháp đăng lúc bấy giờ.

    Vua Tự Đức
    Vua Tự Đức

    Vua Tự Đức – người ta biết đến ông là vị vua thông minh, lãng mạn, có tâm hồn thi sĩ và đặc biệt rất có hiếu với cha mẹ. Trái với ông nội ông, là vua Minh Mạng có 146 người con nhưng vua Tự Đức lại không có người con nào! Ông phải chọn người cháu để kế vị và sau đó đất nước gặp nhiều rối ren như ta đã biết.

    “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
    Xếp tàn y lại để dành hơi”

    Tự Đức khóc Vương Phi

    Theo Blogger Ngô Bá Dũng

    Xem đầy đủ bộ ảnh chân dung vua chúa nhà Nguyễn tại : https://www.facebook.com/1463994257218590/photos/?tab=album&album_id=1959261287691882

     

  • 12 vị vua chúa giỏi cầm quân nhất trong sử Việt

    12 vị vua chúa giỏi cầm quân nhất trong sử Việt

    Nhiều vị vua chúa đã được lịch sử Việt Nam ghi danh vởi những chiến công quân sự xuất sắc, trước hoặc sau khi lên nắm quyền.

    12 vị vua chúa giỏi cầm quân nhất trong sử Việt

    An Dương Vương

    An Dương Vương, tên thật là Thục Phán, là vị vua đầu tiên và duy nhất của nhà nước Âu Lạc – nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam sau nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Theo sử cũ, ông làm vua trong khoảng thời gian từ 257 TCN đến 208 TCN.

    Vào thời kỳ đó, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất Trung Hoa và tiếp tục tham vọng xâm chiếm vùng đất phía Nam của các bộ tộc người Việt. Quân Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh thổ Trung Hoa.

    Trước tình hình này An Dương Vương đã chỉ huy cuộc kháng chiến chống Tần của quân dân Âu Lạc. Khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, Thục Phán lãnh đạo nhân dân chống giặc. Quân Tần đi đến đâu, Nhân dân Việt làm vườn không nhà trống đến đó. Quân Tần dần lâm vào tình trạng suy yếu do thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã kiệt sức thì quân Âu Lạc xuất trận. Đồ Thư mất mạng, quân Tần thua to, phải bỏ chạy về phương Bắc.

    Sau chiến thắng, An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa nhằm củng cố thêm khả năng phòng thủ quân sự. Tòa thành này có cấu trúc độc đáo, theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, được củng cố bởi mạng lưới hào nước liên kết với nhau chạy dưới chân thành. An Dương Vương cũng phát triển thuỷ binh và cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế quân sự vững chắc cho Cổ Loa.

    Ít lâu sau, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc. Nhờ sự chuẩn bị quân sự tốt và ưu thế của thành Cổ Loa, An Dương Vương đã chống cự hiệu quả cuộc xâm lược này.

    Triệu Đà buộc phải dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.

    Lý Nam Đế

    Lý Nam Đế (503–548) tên thật là Lý Bí, còn gọi là Lý Bôn, sinh ra trong hoàn cảnh nước Việt bị nhà Lương đô hộ. Có tư chất thông minh, thể chất mạnh khỏe từ nhỏ, khi lớn lên Lý Bí trở thành một người văn võ song toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương.

    Ông được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay), nhưng do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác nên bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ.

    Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh và thu phục được nhiều nhân vật xuất chúng như tù trưởng Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, Tinh Thiều, lão tướng Phạm Tu…

    Lý Bí đã liên kết với các châu lân cận và cuối năm 541 chính thức khởi binh chống nhà Lương, khí thế rất mạnh. Tiêu Tư liệu không chống nổi quân Lý Bí, phải sai người mang của cải đến đút lót cho Lý Bí để được tha chạy thoát về Quảng Châu để quân của Lý Bí chiếm thành Long Biên.

    Tháng 4/542, vua Lương Vũ Đế sai quân từ phường Bắc kết hợp với quân của các châu còn kiểm soát ở phía Nam tạo thành gọng kìm đánh Lý Bí. Lý Bí đã chủ động ra quân đánh trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía Nam đánh lui cuộc phản công của nhà Lương, làm chủ toàn bộ Giao Châu.

    Cuối năm 542, quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán đảo Hợp Phố đón đánh khiến quân xâm lược thảm bại, 10 phần chết đến 6-7 phần. Sau chiến thắng này, Lý Bí kiểm soát thêm quận Hợp Phố (thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay).

    Trong khi Lý Bí bận đối phó với nhà Lương ở phía Bắc thì tại phía Nam, vua nước Lâm Ấp “đục nước béo cò”, đem quân đánh Giao Châu vào tháng 5/543. Lý Bí sai Phạm Tu cầm quân đánh Lâm Ấp và thắng lớn.

    Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi, tự xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội).

    Đến năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục.

    Triệu Việt Vương

    Triệu Quang Phục (?-571) là con Triệu Túc, tù trưởng huyện Chu Diên. Ông cùng cha theo Lý Nam Đế khởi nghĩa từ ngày đầu (541), có công lao đánh đuổi quân Lương về nước, được trao chức tả tướng quân nước Vạn Xuân.

    Năm 546, sau khi Lý Nam Đế thua trận phải lui về động Khuất Lạo, Triệu Quang Phục được ủy thác việc nước, điều quân đi đánh Trần Bá Tiên của nhà Lương.

    Tháng 1/547, ông lui về giữ đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể vào được. Nếu không quen biết đường đi thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết.

    Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, và dùng chiến thuật du kích, ban ngày tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên cướp lương thực vũ khí làm kế cầm cự lâu dài.

    Năm 550, nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, gọi Trần Bá Tiên về. Triệu Quang phục tận dụng thời cơ tung quân ra đánh. Quân Lương tan vỡ chạy về nước. Triệu Quang Phục vào thành Long Biên và xưng làm Triệu Việt Vương.

    Đến năm 571, một người cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 30 năm đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602.

    Ngô Quyền

    Ngô Quyền (898 – 944) sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm. Ông lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931.

    Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ để chiếm quyền, nhưng lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc nên đã cầu cứu nhà Nam Hán để bảo vệ quyền lực của mình.

    Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy.

    Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp.

    Khi cuộc chiến diễn ra, Ngô Quyền đã nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến. Kết quả, quân Nam Hán thua chạy, Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm lược.

    Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng vương, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ cho Việt Nam. Ông không có miếu hiệu và thụy hiệu, sử sách xưa nay chỉ gọi ông là Tiền Ngô Vương. Kinh đô của triều đại mới không nằm ở Đại La mà chuyển sang Cổ Loa, kinh đô của nước Âu Lạc từ thời An Dương Vương một nghìn năm trước.

    Đinh Tiên Hoàng

    Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924 ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình) vào thời kỳ đất nước bị nhà Ngô đô hộ. Ông là con của Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ. Từ bé ông đã mê đánh trận giả và tỏ ra là người có khả năng chỉ huy.

    Sau các biến động chính trị dồn dập, tình hình đất nước trở nên rối loạn và từ năm 966 hình thành 12 sứ quân cát cứ nhiều vùng, sử gọi là loạn 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư, cùng con trai là Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công tức Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình).

    Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác. Chỉ trong vài năm, ông lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng Vương.

    Sau khi xóa bỏ tình trạng cát cứ, năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, niên hiệu Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Ông là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.

    Đinh Tiên Hoàng ở ngôi đến năm 979 thì mất. Theo chính sử, một viên quan là Đỗ Thích mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Thái tử Đinh Liễn.

    Lê Đại Hành

    Lê Hoàn sinh năm 941, quê quán chưa được xác định rõ ràng. Mồ côi từ nhỏ, ông được một vị quan là Lê Đột nhận về nuôi, lớn lên đi theo đội quân của Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn, lập được nhiều chiến công.

    Sau khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi năm 968, Lê Hoàn được giao chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó ông mới 27 tuổi.

    Năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính cho Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Tranh chấp quyền lực đã xảy ra giữa phe của Lê Hoàn và một số đại thần thân cận của Đinh Tiên Hoàng. Lê Hoàn đã giết chết các đối thủ và củng cố sự kiểm soát triều đình.

    Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống ý định cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt, nhiều lần viết thư sang dụ và đe dọa triều Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng.

    Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga cùng các tướng lĩnh và triều thần đã tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi (sử thường gọi là Lê Đại Hành), lấy niên hiệu là Thiên Phúc.

    Đầu năm 981, vua nhà Tống phát quân sang đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành đã lãnh đạo quân dân đánh bại quân Tống ở các trận Bạch Đằng, Tây Kết, giết và bắt sống nhiều tướng giặc chủ chốt, khiến quân Tống phải tháo chạy về nước.

    Trong vòng 26 năm trị vì, Lê Đại Hành là người đặc biệt quan tâm đến vùng đất phía Nam. Ông đã tiến hành nhiều hoạt động quân sự lớn, đích thân cầm quân đánh dẹp sự nổi dậy của các thế lực cát cứ và xâm lấn, không chỉ bảo vệ vững chắc biên giới, mà còn trực tiếp chuẩn bị cho quá trình Nam tiến của người Việt. Lê Đại Hành mất năm 1005, thọ 65 tuổi.

    Lý Thánh Tông

    Lý Thánh Tông (1023 – 1072) là vị vua thứ ba của nhà Lý. Ông tên thật là Lý Nhật Tôn, là con trưởng của Lý Thái Tông, mẹ là Kim Thiên thái hậu Mai Thị. Không chỉ nổi tiếng là một minh quân có nhiều đức độ trong lịch sử Việt Nam, ông còn là một nhà quân sự lỗi lạc.

    Trong thời kỳ trị vì của vua cha Lý Thái Tông, Lý Nhật Tôn đã nhiều lần cầm quân đi dẹp loạn, bảo vệ biên cương và lập nhiều chiến công, được sử sách ghi nhận như dẹp bạo loạn ở Lâm Tây năm 1037, khi mới 15 tuổi, đánh châu Văn năm 1042, châu Ái năm 1043.

    Sau khi Lý Thái Tông băng hà năm 1054, Lý Thánh Tông lên ngôi, tiếp tục ổn định tình hình trong nước và chú trọng mở rộng cương thổ. Quân đội dưới thời gian ông trị vì được tổ chức rất chặt chẽ và quy củ, có tiếng thiện chiến, nhiều lần đánh đuổi quân Tống ở biên cương phía Bắc vào các năm 1059-1060, khiến nhà Tống phải nể sợ.

    Do nước Chiêm Thành phía Nam hay sang quấy nhiễu, năm 1069 vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh. Đánh lần đầu không thành công, ông đem quân trở về. Đi nửa đường vua nghe thấy nhân dân khen bà Nguyên phi Ỷ Lan (vợ thứ của vua) ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, liền nghĩ bụng: “Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm sao?”. Vua lại đem quân trở lại đánh và bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ.

    Chế Củ đã phải dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (ngày nay thuộc các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị) cho Đại Việt để chuộc tội.

    Trần Nhân Tông

    Vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), tên thật Trần Khâm, là vị vua thứ ba của nhà Trần. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, được vua cha nhường ngôi vào năm 1278.

    Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam, là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và có vai trò lãnh đạo quan trọng trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và 3.

    Trong cả 2 lần kháng chiến vào các năm 1285 và 1288, vua Trần Nhân Tông đã đóng vai trò của một ngọn cờ đoàn kết dân tộc, lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt nhiều thời khắc khó khăn, đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi cuối cùng. Trong các cuộc chiến này, nhà vua đã nhiều lần trực tiếp cầm quân đánh trận như một vị tướng dũng cảm, vừa đưa ra được những quyết sách đúng đắn trong vai trò của một nhà chiến lược tài giỏi.

    Ngoài cuộc đối đầu với người Mông Cổ, vào năm 1290, nhà vua cũng thân chinh đi đánh dẹp quân Ai Lao, những kẻ thường hay quấy nhiễu biên giới, bảo vệ vững chắc bờ cõi phía Tây.

    Vua Trần Nhân Tông qua đời năm 1308 tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh.

    Lê Thái Tổ

    Lê Lợi sinh năm 1385 ở vùng đất Lam Sơn, Thanh Hóa, vào cuối đời nhà Trần – giai đoạn lịch sử rối ren của đất nước. Năm 1400, Hồ Quý Ly phế Truất nhà Trần, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ. Năm 1407 nhà Hồ sụp đổ trước sự xâm lược của quân Minh, nước Việt một lần nữa nằm dưới sự đô hộ của phương Bắc.

    Năm 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng chính thức phất ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược Minh cứu nước.

    Trong những năm đầu tiên, cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, Lê Lợi và nghĩa quân thường phải lẩn trốn trong rừng núi. Năm 1424, khi quân lực được củng cố, Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Sau nhiều trận thắng, đến cuối năm 1425, ông làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành của đối phương đều bị bao vây.

    Từ tháng 8/1426, Lê Lợi cho quân tiến ra Bắc. Đội quân của ông thắng lớn ở Tốt Động, Chúc Động và vây hãm thành Đông Quan.

    Cuối năm 1427, vua Minh điều một lực lượng viện binh lớn sang nước Việt. Lê Lợi chủ động đánh chặn các đạo quân này và giành thắng lợi lớn trong trận Chi Lăng – Xương Giang. Các cánh viện binh còn lại nghe tin, hoảng hốt rút về phương Bắc.

    Sau thất bại này, quân Minh xin giảng hòa để rút quân. Lê Lợi muốn giữ hòa khí nên đồng ý để quân xâm lược về nước và sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáođể báo cáo cho thiên hạ biết về việc đánh quân Minh.

    Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế năm 1428, tức là vua Lê Thái Tổ, chính thức dựng lên vương triều nhà Lê. Ông khôi phục quốc hiệu Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long và đổi tên Thăng Long thành Đông Kinh vào năm 1430. Lê Thái Tổ băng hà năm 1433, hưởng thọ 49 tuổi.

    Lê Thánh Tông

    Lê Thánh Tông (1442 – 1497) tên thật là Lê Tư Thành, là vị hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê. Tư Thành là con thứ 4 của vua Lê Thái Tông và bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Ông lên ngôi năm 1460, sau cuộc đảo chính do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu, giết chết vua Lê Nghi Dân.

    Trong thời gian trị vì, Lê Thánh Tông nổi tiếng là vị minh quân, người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông đã để lại nhiều dấu ấn trên phương diện quân sự trong lịch sử Việt Nam.

    Sau khi lên ngôi, vua ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội để tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. Ông thường thân chinh đi tuần phòng ở các vùng biên ải xa xôi, trở thành tấm gương tốt cho các quan phụ trách võ bị.

    Vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, do vốn có các kỹ thuật và sáng chế cùng kĩ năng chế tạo vũ khí cực kì tinh xảo của Đại Việt thời nhà Hồ, kết hợp với số vũ khí khá tân tiến thu được trước đây trong cuộc kháng chiến với nhà Minh.

    Đó là cơ sở để vua Lê Thánh Tông giành những thắng lợi quan trọng trong các hoạt động quân sự của mình. Đó là công cuộc Nam tiến, mở mang bờ cõi Đại Việt bằng cách đánh chiếm kinh đô của vương quốc Chiêm Thành năm 1471, sáp nhập một phần lãnh thổ Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân toàn thắng về phía Tây đất nước vào năm 1479.

    Năm 1497 vua Lê Thánh Tông băng hà vì lâm bệnh nặng.

    Chúa Nguyễn Hoàng

    Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) là con trai thứ hai của An Thành Hầu Nguyễn Kim, sinh ra ở Thanh Hóa. Ông là vị chúa đầu tiên trong số 9 chúa Nguyễn trước khi nhà Nguyễn hình thành.

    Dưới triều Lê trung hưng, Nguyễn Hoàng là một tướng tài lập nhiều công lớn. Năm 1545, cha ông là Nguyễn Kim bị Dương Chấp Nhất đầu độc, quyền lực trong triều rơi vào tay anh rể ông là Trịnh Kiểm. Sau này, anh ruột của ông là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết.

    Do lo sợ bị sát hại, Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ ở Thuận Hoá (khu vực từ Quảng Bình đến Thừa Thiên-Huế ngày nay). Năm 1558, ông cùng gia quyến và một số người dân Thanh – Nghệ đi vào Nam. Ông xưng chúa, lập thủ phủ ban đầu là xã Ái Tử, huyện Đăng Xương (nay thuộc huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị.

    Từ đó cho đến đầu những năm 1600, Nguyễn Hoàng lo phát triển và củng cố lực lượng, từng bước trở thành một thế lực độc lập với họ Trịnh.

    Để mở rộng bờ cõi, năm 1611 ông đã thực hiện cuộc Nam tiến, chiếm đất từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa) của vương quốc Chăm Pa đang suy yếu, lập thành phủ Phú Yên. Trong thời gian Nguyễn Hoàng tiến hành Nam tiến, giang sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh) tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), bây giờ là vùng cực Nam Phú Yên.

    Các sử gia đời sau coi Nguyễn Hoàng là người tiên phong trong việc mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía Nam, mở đầu cho việc hùng cứ phương Nam của 9 chúa Nguyễn, tạo tiền đề cho việc thành lập vương triều nhà Nguyễn.

    Năm 1613, ông lâm bệnh nặng và qua đời. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái tổ Gia Dụ hoàng đế.

    Hoàng đế Quang Trung

    Quang Trung – Nguyễn Huệ (1753 – 1792) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn. Ông cùng hai người anh Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ là con của Nguyễn Phi Phúc một người chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt.

    Năm 1771, lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ cất binh khởi nghĩa, xây dựng căn cứ chống chính quyền chúa Nguyễn tại Tây Sơn. Nguyễn Huệ đã chứng tỏ được tài quân sự xuất chúng của mình trong cuộc chiến này, giúp quân Tây Sơn đánh bại Chúa Nguyễn đầu những năm 1780.

    Dưới danh nghĩa “Phù lê diệt Trịnh”, quân của Nguyễn Huệ cũng tiến ra Bắc lật đổ tập đoàn họ Trịnh, chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía Nam.

    Sau các thất bại lớn, Nguyễn Ánh cầu cứu quân Xiêm dẫn đến Trận Rạch Gầm – Xoài Mút đầu năm 1785. Đây là một trận đánh lớn trên sông giữa liên quân Xiêm-Nguyễn và quân Tây Sơn tại khúc sông Rạch Gầm-Xoài Mút (Tiền Giang) với kết quả toàn thắng thuộc về quân Tây Sơn.

    Sau khi Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà”, đưa quân Thanh về cướp nước, ngày 22/12/1788, Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và ngay hôm sau thực hiện một cuộc hành quân thần tốc ra miền Bắc để đánh quân Thanh. Quân Tây Sơn tiến như vũ bão và đánh bại kẻ thù trong trận quyết chiến ở Ngọc Hồi – Đống Đa vào đầu xuân Ký Dậu 1789.

    Sau khi đẩy lùi quân xâm lược phương Bắc, hoàng đế Quang Trung dốc sức cho cuộc chiến cuối cùng với Nguyễn Ánh để thống nhất đất nước. Kế hoạch này đã không bao giờ được hoàn thành do ông đột ngột qua đời năm 1792 ở tuổi 40. Sau cái chết của hoàng đế Quang Trung, nhà Tây Sơn suy yếu và nhanh chóng sụp đổ

    Chưa từng biết đến thất bại trên chiến trận, hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ được ghi nhận như một trong những nhà quân sự lỗi lạc nhất của lịch sử Việt Nam.

    Theo KIẾN THỨC

  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những câu nói để đời

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những câu nói để đời

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh là vị tu sĩ Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên thế giới, những câu nói của thầy luôn có giá trị cao

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh là vị tu sĩ Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên thế giới, những câu nói của thầy luôn có giá trị cao
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh là vị tu sĩ Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên thế giới

    “Nhiều người nghĩ rằng sự phấn khích là hạnh phúc… Nhưng khi bạn đang phấn khích, bạn không bình yên. Hạnh phúc thật sự được dựa trên sự bình yên”.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những câu nói để đời

    “Đôi khi niềm vui của bạn là nguồn gốc của nụ cười của bạn, nhưng đôi khi nụ cười của bạn có thể là nguồn gốc của niềm vui của bạn”.

    “Mọi người thường xem xét việc đi trên mặt nước hoặc trong không khí mỏng một phép lạ. Nhưng tôi nghĩ rằng phép lạ thực sự không phải là đi bộ hoặc nước hoặc trong không khí, mà là bước đi trên trái đất. Mỗi ngày chúng ta đang tham gia vào một phép lạ mà chúng ta thậm chí không nhận ra: một bầu trời xanh, mây trắng, lá xanh, màu đen từ đôi mắt tò mò của một đứa trẻ – đôi mắt của chính chúng ta. Tất cả là một phép lạ. “

    “Hãy mỉm cười, hít thở và đi từ từ”.

    “Bởi vì bạn đang sống, tất cả mọi thứ là có thể”.

    “Thức dậy buổi sáng này, tôi mỉm cười. Hai mươi bốn giờ mới trước mắt tôi. Tôi nguyện sống trọn vẹn trong từng thời điểm và xem xét tất cả chúng sinh với đôi mắt của lòng từ bi. “

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh và những câu nói để đời

    “Thông qua tình yêu của tôi dành cho bạn, tôi muốn bày tỏ tình yêu của tôi đối với toàn bộ vũ trụ, toàn bộ nhân loại, và tất cả chúng. Bằng cách sống chung với bạn, tôi muốn tìm hiểu để yêu thương tất cả mọi người và mọi loài. Nếu tôi thành công trong yêu thương bạn, tôi sẽ có thể yêu thương tất cả mọi người và tất cả các loài trên trái đất … Đây là thông điệp thực sự của tình yêu. “

    “Cuộc sống chỉ có trong giây phút hiện tại”.

    “Cảm giác đến và đi như những đám mây trên bầu trời lộng gió. Ý thức về hơi thở là nơi nương tựa của tôi. “

    “Hy vọng là quan trọng bởi vì nó có thể làm cho giây phút hiện tại không khó để chịu đựng. Nếu chúng ta tin rằng ngày mai sẽ tốt hơn, chúng ta có thể chịu đựng khó khăn hôm nay. “

    “Nhiều người nghĩ rằng sự phấn khích là hạnh phúc… Nhưng khi bạn đang phấn khích, bạn không bình yên. Hạnh phúc thật sự được dựa trên sự bình yên. “

    “Uống trà của bạn từ từ và cung kính, như thể nó là trục trái đất trên thế giới xoay chậm, đều, không vội vã hướng tới tương lai”.

    “Đi bộ như thể bạn đang hôn trái đất với bàn chân của mình”.

    “Tôi hứa với bản thân mình rằng tôi sẽ tận hưởng từng phút của ngày hôm đó cho tôi sống”.

    “Giữ cơ thể khỏe mạnh là một biểu hiện của lòng biết ơn đối với toàn bộ vũ trụ – những cây, những đám mây, tất cả mọi thứ”

    “Quá khứ đã qua, tương lai thì chưa đến, và nếu chúng ta không quay trở lại với chính bản thân mình trong thời điểm hiện tại, chúng ta không thể bắt nhịp với cuộc sống”.

    “Nếu bạn yêu ai đó, món quà quí nhất bạn có thể tặng họ là sự có mặt của mình”.

    “Từ bi là một động từ”.

    “Vì bạn cười, bạn làm cuộc sống này đẹp hơn”.

    “Người ta nói rằng Thiên Chúa đã tạo ra người đàn ông trong hình ảnh của mình. Nhưng sự thật có thể là nhân loại đã tạo ra Thiên Chúa trong hình ảnh của nhân loại. “

    “Sự hiểu biết có nghĩa là vứt đi kiến thức của bạn”.

    S.T

     

  • Ảnh thật của các vị vua chúa Việt Nam thời nhà Nguyễn

    Bạn muốn biết diện mạo thực sự của các vua chúa Việt Nam  thời nhà Nguyễn ra làm sao không?

    Bộ sưu tập gồm các bức ảnh chụp, duy chỉ có chân dung của vua Gia Long và Hoàng tử Cảnh là tranh vẽ truyền thần.

    Vua Gia Long, người thành lập Triều đại nhà Nguyễn (1802-1820):

    Hoàng tử Cảnh (hình vẽ bên Pháp bởi họa sĩ Maupérin vào năm 1787)

    Vua Minh Mạng (1820-1840)

    Di ảnh vua Hàm Nghi

    Vua Đồng Khánh (1885-1889)

    Còn đây là một số hình ảnh sinh hoạt xã hội dưới các triều đại nhà Nguyễn…

     

    Ấn của vua Minh Mạng



    Lăng vua Minh Mạng ở Huế

    3.Vua Tự Ðức (1847-1883)

    Các bà vợ vua Tự Ðức sống đến đầu thế kỷ thứ 20 :

    4. Vua Hàm Nghi (1884-1885)

    Ðám cưới vua Hàm Nghi ở Algérie (1904)

    Dân chúng chờ đợi xe đám cưới

    Ngôi mộ của vua Hàm Nghi ở làng Thonac (France)

    5.Vua Ðồng Khánh (1885-1889)

    6. Vua Thành Thái (1889-1907)

    Từ trái sang phải, 3 hoàng tử: Bửu Lũy, Bửu Trang và Bửu Liêm.
    Các em của Vua Thành Thái (1891)

    Hai người vợ của vua Thành Thái

    Các anh em của vua Thành Thái và các ông thầy (phụ đạo)

    Vua Thành Thái trong triều phục

    Hình ảnh Việt Nam sưu tầm từ ddth.vn

  • Thâm cung nội chiến: Nếu sử Việt lên ngôi

    Thâm cung nội chiến: Nếu sử Việt lên ngôi

     

    Thâm cung bí sử :
    Hình minh họa

    Lịch sử Việt Nam không thiếu chuyện hậu cung tranh sủng thâm sâu ngàn lớp, độc kế trùng trùng, chẳng thua các chuyện được nhà làm phim Trung Quốc khai thác triệt để như Cung Tâm Kế, Chân Hoàn Truyện hay gần đây là Võ Mị Nương Truyền Kỳ. Chẳng qua, vì nền phim ảnh truyền hình nước ta còn yếu mỏng, nên đa phần khán giả trẻ chỉ nghe sơ sài về án oan Lệ Chi Viên, Thái hậu Dương Vân Nga, hay cuộc đời truân chuyên của Hoàng hậu Nam Phương. Chính sử Việt Nam còn dày và truyền cảm hứng nhiều hơn thế!

    #1: Lưỡng triều Thái hậu Dương Vân Nga

    Nhiều sử gia cho rằng Dương Vân Nga là người nữ nhân đẹp nhất thời kỳ phong kiến Việt Nam. Gương mặt bà bầu bĩnh như khuôn trăng song vẫn có nét thanh tú, cao sang như áng mây bồng bềnh. Bà là Hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng, có với vua ba con trai, một con gái. Nhưng sau khi Đinh Tiên Hoàng qua đời, là một thái hậu “thức thời”, bà đã gá nghĩa kết hôn với Lê Đại Hành để tìm chỗ dựa cho triều đình trong lúc giặc ngoại xâm đang hăm he xâu xé. Vì vậy, Dương Vân Nga trở thành Hoàng hậu đầu tiên của triều Tiền Lê, là người phụ nữ đầu tiên của sử Việt trở thành Hoàng hậu của hai vị hoàng đế hùng mạnh, mưu lược.

    Thâm cung bí sử :
    Hình minh họa

    #2: Nguyên phi Ỷ Lan từ thôn nữ thành Thái hậu hai lần buông rèm nhiếp chính

    Nguyên phi Ỷ Lan là vợ vua Lý Thánh Tông, được vua tuyển nhập cung trong một lần vua về viếng thăm chùa Dâu và bắt gặp nàng. Khi ấy, dân làng ai cũng nô nức ra xem thánh giá, chỉ có một cô thôn nữ nhan sắc thanh tú vẫn tiếp tục hái dâu, hờ hững như không. Thấy thế, vua vời đến hỏi thì biết nàng xuất thân nghèo khó nên dặn bản thân phải chăm làm, không muốn xem lễ hội. Tuy nhiên, đời sau nhiều người lại bảo đấy là “chiêu thức” của nàng Nguyên Phi đặng khiến bản thân nổi bật gây chú ý. Sau khi vua chồng mất, là mẹ đẻ của vua con lại là người tinh thông chính trị, Nguyên Phi Ỷ Lan hai lần buông rèm nhiếp chính, giúp đem lại một thời thái bình thịnh trị. Nhưng chính sử vẫn luận tội Ỷ Lan ngầm hãm hại Dương Thái Hậu vốn là vợ chính của vua chồng, sai khiến vua con đày Dương Hậu vào lãnh cung rồi xử chết cùng 72 cung nữ để bản thân được thỏa mộng quyền lực.

    Thâm cung bí sử :
    Hình minh họa

    #3:  Lý Chiêu Thánh & Lý Thuận Thiên – tình em duyên chị

    Lý Chiêu Thánh và Lý Thuận Thiên là hai công chúa cuối cùng của nhà Lý, con gái Lý Huệ Tông và Hoàng hậu Trần Thị Dung. Khi Lý Huệ Tông băng hà, truyền ngôi lại cho con gái thứ là Chiêu Thánh trở thành Nữ hoàng (duy nhất của lịch sử Việt Nam). Thái hậu Trần Thị Dung cấu kết cùng Thái sư Trần Thủ Độ gả Nữ hoàng Chiêu Thánh cho cháu mình là Trần Cảnh, rồi năm sau ép Chiêu Thánh nhường ngôi cho chồng – vương triều Lý chính thức khép lại, mở ra triều nhà Trần. Trần Cảnh lên ngôi thành Trần Thái Tông, lập Chiêu Thánh thành Hoàng hậu. Câu chuyện không dừng ở đó. Chị của Chiêu Thánh là Công chúa Thuận Thiên vốn được gả cho anh trai của Trần Cảnh là Trần Liễu từ năm 6, 7 tuổi. Nhưng Chiêu Thánh mười năm trong cung không có con khiến Thái sư Trần Thủ Độ và Công chúa Trần Thị Dung lo lắng không có hậu duệ nương tựa nên đã bày kế ép Thuận Thiên đang mang thai phải bỏ anh lấy em, vào cung thành Hoàng hậu mới của Trần Cảnh để sinh ra thừa tự. Hoàng hậu Chiêu Thánh bị phế và biếm khỏi cung, phải lên chùa tu một thời gian. Có tích nói ở tuổi 40, bà bị triều đình đem gả làm món quà cho một danh tướng có công là Lê Phụ Trần.

    Thâm cung bí sử :
    Hình minh họa

    #4: Lê Thái Tông & Tam cung tranh sủng

    Lê Thái Tông có năm người vợ nổi bật là Dương Thị Bí, Nguyễn Thị Anh, Ngô Thị Ngọc Dao. Sủng phi Dương Thị Bí xinh đẹp sinh được hoàng tử trưởng Lê Nghi Dân nên địa vị trong cung rất cao, được vua nhất mực yêu chiều. Được sủng ái sinh cao ngạo, Dương Thị tỏ thái độ với cả vua chồng khiến bản thân bị chán ghét, phế xuống thành Chiêu nghi. Thái Tông lập Nguyễn Thị Anh là mẹ của Hoàng tử Lê Bang Cơ làm Hoàng hậu. Nhưng rồi, lại có dị nghị rằng Nguyễn Thị Anh vào cung chỉ sáu tháng đã sinh con nên Bang Cơ không phải cốt nhục hoàng gia, cùng lúc ấy Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao cũng sinh con trai. Nguyễn Thị Anh sợ Ngô Tiệp dư sẽ tranh sủng tranh quyền, nên đã sát hại vua Thái Tông rồi đổ cho vợ chồng Nguyễn Trãi, thành án oan Lệ Chi Viên nổi tiếng đời đời mà vẫn nhiều uẩn khúc chưa thể kết luận.

    Thâm cung bí sử :
    Nam Phương Hoàng Hậu

    Chính sử Việt Nam thời phong kiến còn rất nhiều những câu chuyện ly kỳ được sách vở truyền tụng và nhân dân nhiều đời thêu dệt, như hai Công chúa Đông Đô thành Hoàng hậu Phú Xuân (Lê Ngọc Hân và Lê Ngọc Bình), Công chúa Ngọc Vạn và hành trình trở thành Vương hậu Chân Lạp, Công chúa Huyền Trân cắt duyên đầu chấp nhận gả xa để mở mang bờ cõi… Hy vọng, những nhà làm phim Việt và các thế hệ đạo diễn trẻ có thể tìm về lịch sử nước nhà mà xây dựng những bộ phim hoành tráng, vừa là mồi nhử cho lớp trẻ tìm tòi lịch sử, vừa có thể đem sử Việt đi khuấy động châu Á như các bộ phim Trung, Hàn đang làm.

    LANA (lanasomething) Bài viết gốc có tiêu đề : Thâm cung nội chiến: Nếu sử Việt lên ngôi .

  • Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc “bó tay”!

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc “bó tay”!

    Ví như đổi được đất, dân Việt sinh ra ở phương Bắc, châu Âu đã không bị kỵ binh Mông Cổ giày xéo cả vạn dặm – Nếu như trời sinh thiên tài này ở nhà Tống, thì lịch sử Trung Quốc trước đây đâu có chuyện bị triều đại nhà Nguyên độ hộ một trăm năm.

    Đó là câu đối chưa biết tên tác giả mà cố giáo sư Lưu Trung Khảo đọc trong một buổi ra mắt sách tại Hoa Kỳ.

    Nguyên văn tiếng Trung của câu đối là:

    地 轉 我 種 越 居 北 方, 歐 洲 境 內 無 蒙 騎 樅 橫 千 萬 里

    天 生 此 良 材 於 宋 室, 中 國 史 前 免 元 朝 都 護 一 百 年

    Dịch Hán Việt là:

    Địa chuyển ngã chủng Việt cư Bắc phương, Âu châu cảnh nội vô Mông kỵ tung hoành thiên vạn lý.

    Thiên sinh thử lương tài ư Tống thất, Trung Quốc sử tiền miễn Nguyên Triều đô hộ nhất bách niên.

    Diễn nghĩa là:

    Ví như đổi được đất, dân Việt sinh ra ở phương Bắc, châu Âu đã không bị kỵ binh Mông Cổ giày xéo cả vạn dặm

    Nếu như trời sinh thiên tài này ở nhà Tống, thì lịch sử Trung Quốc trước đây đâu có chuyện bị triều đại nhà Nguyên độ hộ một trăm năm

    Câu đối này ý chỉ một vị tướng tài đã lãnh đạo người Việt đánh bại quân Nguyên, đó là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ông đã làm được điều mà cả châu Âu và Trung Quốc không ai làm được.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Ảnh minh họa)

    Vậy vì sao mà cả châu Âu và Trung Quốc đều muốn có được Trần Hưng Đạo? Chúng ta hãy cùng quay về lịch sử, thời điểm vó ngựa quân Mông Thát tung hoành khắp nơi để tìm câu trả lời.

    “Vó ngựa quân Mông Cổ đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó”

    Tại châu Âu, sau một thời gian tung hoành chiếm hết trung Á, vó ngựa Mông Cổ dồn dập tiến vào châu lục này, các thành phố lớn như Moscow đều bị đốt cháy.

    Liên quân châu Âu được thành lập nhắm chống lại quân Mông Cổ cũng bị đập tan. Nhiều nước mong muốn cầu hòa và cống nạp cho quân Mông Cổ.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Tranh mô tả Trận Legnica năm 1241, diễn ra ở khu vực nay thuộc Ba Lan, giữa quân Mông Cổ và liên quân châu Âu: Quân Mông Cổ được ví như cưỡi trên những con ngựa có cánh. Họ còn nổi tiếng với việc cắt tai người làm chiến lợi phẩm (Ảnh minh họa)

    Khi các Vương công nước Nga chịu thần phục, quân Mông Cổ cho ván để lên đầu các vương công Nga để đặt bàn tiệc ăn mừng. Sáu Vương công bị đè đến chết.

    Vó ngựa quân Mông Cổ gây kinh hoàng khắp châu Âu, biên niên sử còn ghi lại rằng: “Vó ngựa quân Mông Cổ đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó”.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Quân Mông Cổ tại châu Âu (Ảnh minh họa)

    Tại châu Á, khi quân Mông Cổ đánh Trung Quốc là vào thời kỳ nhà Tống, quân Tống bị đại bại, phải bỏ kinh thành rồi tháo chạy hết lần này tới lần khác, quân Mông Cổ truy đuổi theo.

    Năm 1258, quân Mông Cổ lần thứ nhất thất bại ở Đại Việt trong việc tìm cách mở một hướng từ phía Nam để đánh vào lãnh thổ Nam Tống. Trận đánh lần thứ nhất này quân Mông Cổ chưa thật sự dành nhiều tinh lực vào Đại Việt, mà chỉ muốn thôn tính nốt nhà Nam Tống. Cuối cùng, vào năm 1279, Nam Tống hoàn toàn bị Mông Cổ thôn tính.

    Trận đánh cuối cùng giữa quân Mông Cổ và quân Tống là trận Nhai Môn trên biển. Quân Tống có 20 vạn người, nhưng phần lớn trong đó là hoàng thân quốc thích, và quân phục dịch chạy trốn giặc Mông Cổ. Quân Mông Cổ ít hơn rất nhiều những vẫn bao vây tấn công quân Tống.

    Thần phụ chính Lục Tú Phu thấy tình thế tuyệt vọng ôm Vua Tống còn nhỏ nhảy xuống biển tự vẫn, người Tống nhìn thấy cảnh này đều khóc than rồi lần lượt nhảy xuống biển chết theo vua, khung cảnh thật bi thương. 7 ngày sau, hàng trăm ngàn xác người nổi đầy khắp mặt biển, đây được xem là một trong những sự kiện bi thương nhất trong lịch sử Trung Quốc.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Thần phụ chính và vua Tống nhảy xuống biển (Ảnh minh họa)

    Nhà Tống bị diệt vong, Đại Hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt của nhà Nguyên trở thành Hoàng đế Trung Hoa, Trung Quốc bị đô hộ suốt 100 năm. Đó quả là thời kỳ đen tối trong lịch sử Trung Quốc.

    Sau khi đánh tan nhà Tống, quân Nguyên tiếp tục mưu đồ tràn xuống phía Nam. Ngay từ tháng 8 năm 1279, sau khi diệt nhà Tống, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.

    Năm 1285, Hốt Tất Liệt phong cho con trai Thoát Hoan là Trấn Nam Vương dẫn hàng chục vạn quân tiến đánh Đại Việt lần thứ hai. Thế nhưng đến đây, vó ngựa đại quân Nguyên Mông vốn đã giày xéo khắp nơi từ Á sang u đã bị chặn lại bởi Trần Quốc Tuấn, vị Quốc Công Tiết Chế lừng danh sử Việt và thế giới.

    Lúc xuất quân Thoát Hoan hùng hổ bao nhiêu thì lúc chạy thục mạng về nước nhục nhã bấy nhiêu. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh tên của quân dân Đại Việt rồi bắt lính khiêng chạy trối chết về nước.

    Quân Mông Cổ chạy về đến đất Nguyên ở Trung Quốc rồi, quân Đại Việt vượt qua cả biên giới tiến sâu vào châu Tư Minh của Trung Quốc để tiêu diệt giặc, khiến quân Nguyên hoảng sợ, chạy thoát rồi vẫn chưa hết run, tối ngủ không được vì ác mộng.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Đại thắng trên sông Bạch Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, và là thắng lợi tiêu biểu nhất của Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. (Ảnh minh họa)

    Ngày 25/12/1287, lần thứ ba quân Nguyên sang đánh Đại Việt, vẫn là Trấn Nam Vương Thoát Hoan cùng hàng chục vạn hùng binh, thế nhưng Quốc Công Tiết Chế Trần Quốc Tuấn rất điềm nhiên “năm nay đánh giặc nhàn”. Quả nhiên lần này hùng binh của quân Nguyên bị đánh cho đại bại, thêm một lần nữa nhục nhã rút về nước.

    Có thể có người cho rằng đâu chỉ có Đại Việt đánh thắng quân Nguyên, vì Nhật Bản, Chiêm Thành và Miến Điện cũng đánh thắng quân Nguyên. Nhưng chiến thắng của Nhật Bản có được còn nhờ sự đóng góp quan trọng của “Thiên thời”. Ngoài tinh thần cảm tử của quân Nhật ra, hai lần bão tố và thiên tai đã giúp người Nhật đánh chìm nhiều chiến thuyền Nguyên Mông. Trong cuộc chiến với quân Nguyên tại Chiêm Thành và Miến Điện, về mặt quy mô và tinh lực của quân Nguyên, thì không có lần nào có thể so với lần xâm lược thứ hai và thứ ba trên đất Việt cả. Cuộc chiến với quân Nguyên tại Chiêm Thành cũng nhờ có Đại Việt cử viện binh tiếp ứng.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Quân Mông Cổ tràn vào Nhật Bản (Ảnh minh họa)

    Trong khi đó, chiến thắng của Đại Việt là nhờ sự đồng lòng của người dân và vua quan nhà Trần, cùng tài thao lược của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

    Vây làm thế nào mà Trần Quốc Tuấn có thể đánh bại quân Nguyên hùng mạnh khiến cả châu Á và châu Âu đều run sợ?

    Kế sách của Trần Quốc Tuấn

    Quân Nguyên đánh thắng khắp nơi từ Á sang Âu, nhưng chưa ở đâu gặp phải kế sách từ ngoại giao cho đến đánh trận như ở Đại Việt.

    Đầu tiên, trước khi tiến binh, quân Nguyên đã quen với việc uy hiếp nước khác bằng cách dùng sứ giả khuyên hàng. Thế nhưng khi sứ giả quân Nguyên đến thì nhà Trần bắt phải quỳ trước mặt Vua theo đúng phép tắc.

    Kế sách của Trần Quốc Tuấn khi đánh quân Nguyên có thể gói gọn trong mấy chữ: vườn không nhà trống, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh, dùng đoản binh phá trường trận.

    Khi đánh nước khác, quân Nguyên thích đánh vào kinh thành, vì nơi đây tập trung đa phần quân chủ lực. Đánh kinh thành thì cũng tiêu diệt được quân chủ lực đối phương, lại có thể cướp bóc lương thực và nhu yếu phẩm.

    Thế nhưng khi đánh Đại Việt thì quân Đại Việt lại chủ động rút khỏi kinh thành, thực hiện “vườn không nhà trống”. Điều này khiến cho quân Nguyên dù chiếm kinh thành vẫn không gặp được quân chủ lực của Đại Việt, kinh thành lại trống không nên không thể cướp bóc được gì.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Ngoài kế sách trên bộ, kế sách tuyệt diệu khác của Hưng Đạo Vương là trận địa cọc trên sông Bạch Đằng (Ảnh minh họa)

    Quân Nguyên tiến đánh với sách lược đánh nhanh thắng nhanh, nhưng quân chủ lực của ta lại rút đi nhằm bảo toàn lực lượng, khiến quân Nguyên không thể đánh nhanh thắng nhanh được. Trần Quốc Tuấn lại cho các toán quân nhỏ liên tục chặn bước tiến của địch, đánh để tiêu hao sinh lực và phá hủy lương thực rồi rút ngay. Quân Nguyên truy kích không tìm thấy các toán quân này vì không thông thạo địa thế.

    Quân Nguyên không gặp được quân chủ lực Đại Việt để đánh, cũng không biết quân chủ lực rút về đâu mà đuổi theo. Lâu ngày quân sĩ lại mệt mỏi vì phải liên tục chống đỡ các cuộc tập kích của các cánh quân nhỏ vẫn diễn ra hàng ngày.

    Dần dần tình hình quân Nguyên lương thực đã cạn, quân sĩ mệt mỏi không muốn tiếp tục cuộc chiến nữa, sĩ khí không còn. Lúc này Trần Quốc Tuấn mới điều động đội quân chủ lực phản công đánh thẳng vào quân Nguyên.

    Trước sức mạnh tấn công của Đại Việt, quân Nguyên hoảng sợ, không hiểu các cánh quân ở đâu hiện ra nhiều không kể xiết. Do tâm lý mệt mỏi, quân Nguyên không thể thắng được sĩ khí của Đại Việt nên đại bại, rút chạy về nước.

    Trần Quốc Tuấn vực dậy tinh thần cho quân dân Đại Việt

    Trước sức mạnh của đội quân làm run sợ khắp nơi trên thế giới, Đại Việt cũng không ít người xuống tinh thần. Lúc đó, Trần Quốc Tuấn đã làm “hịch tướng sĩ” để vực dậy tinh thần kháng Nguyên của quân sĩ.

    Khi các tướng sĩ lo lắng Trần Quốc Tuấn có hiềm khích với nhà Trần, anh em không thể hòa thuận, ông đã tắm cho em họ của mình là Trần Quang Khải trên chiến thuyền trước sự hò reo của ba quân.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Trần Quang Khải (Ảnh minh họa)

    Khi quân ta rút khỏi Thăng Long, người rời đi sau cùng là Trần Quốc Tuấn.

    Khi quân ta phải rút lui trước sức mạnh của giặc, nhà Vua hội họp các tướng rồi dò hỏi: “Hay là nên hàng”, Trần Quốc Tuấn đã khẳng khái nói ngay: “Xin bệ hạ hãy chém đầu thần trước đã rồi hẵng hàng”.

    Từ đó mọi niềm tin và ánh mắt của triều đình đều dồn cả vào Trần Quốc Tuấn, ông trở thành trụ cột của Nhà Trần trong 2 lần đánh quân Nguyên Mông (lần thứ 2 và thứ 3).

    Tấm lòng trung sáng tỏ như đôi vầng nhật nguyệt

    Cũng giống như ông, dưới trướng của Trần Quốc Tuấn đều là những người tài giỏi như Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trương Hán Siêu.

    Khi nhiều người nhắc lại mối thù nhà, ông hỏi hai gia nô cũng là tướng giỏi lúc đó là Yết Kiêu và Dã Tượng về chuyện này, hai vị tướng này đáp rằng: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu”. Nghe xong Quốc Tuấn rất cảm động.

    Vị tướng người Việt làm được điều mà cả Châu Âu và Trung Quốc
    Trần Quốc Tuấn (Ảnh minh họa)

    Sau đó con ông là Trần Quốc Tảng có nhắc lại lời trăn trối của An Sinh Vương Trần Liễu, muốn cùng ông cướp ngôi vua, ông nổi giận rút gươm toan chém đứa con này. Dưới sự can ngăn của mọi người, ông thay đổi ý định nhưng từ đó kiên quyết không gặp Quốc Tảng, thậm chí dặn dò sau này ông chết, đậy nắp quan tài rồi mới cho Tảng vào viếng.

    Ví như đổi được đất, dân Việt sinh ra ở phương Bắc, châu Âu đã không bị kỵ binh Mông Cổ giày xéo cả vạn dặm

    Nếu như trời sinh thiên tài này ở nhà Tống, thì lịch sử Trung Quốc trước đây đâu có chuyện bị triều đại nhà Nguyên đô hộ một trăm năm.

    Câu đối trên cho thấy châu Âu và Trung Quốc đều muốn có con người này đến thế nào. Thế nhưng Trời xanh đã đặt định cho Trần Quốc Tuấn trở thành con dân của Đại Việt.

    Trong dân gian có truyền thuyết rằng mẹ của Trần Quốc Tuấn nằm mơ thấy có một vị thiên thần tinh vàng tướng ngọc, tự xưng là Thanh Tiên Đồng Tử sẽ xuống đầu thai. Lúc Trần Quốc Tuấn vừa được sinh ra đã có hào quang toả sáng rực cả nhà.

    Dù truyền thuyết đẹp đó có thật hay chỉ xuất phát từ sự kính ngưỡng Hưng Đạo Đại Vương mà thành, thì người ta vẫn không khỏi suy ngẫm rằng: Phải chăng Thiên Thượng đã phái Trần Quốc Tuấn xuống giúp nước Nam đánh bại quân Nguyên Mông, lưu lại giai đoạn lịch sử xán lạn cho con dân Đại Việt?

    Trần Hưng ( Trí Thức Việt Nam)

  • Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp

    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp

    Bộ ảnh về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1975.

    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm một đơn vị bộ đội diễn tập năm 1957. Ảnh: TTXVN.
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp với các anh hùng miền nam tại khu vườn Phủ Chủ tịch ngày 15/11/1965. Ảnh: TTXVN
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen ngợi nhân dân địa phương và anh chị em công nhân đội vận tải Sông Gianh, Quảng Bình đã góp phần tích cực vận chuyển hàng ra tiền tuyến năm 1968. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp”.
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp và trung tướng Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam quan sát Đại đội 6, Trung đoàn 233, Đoàn Cao xạ Đống Đa huấn luyện vào Tết Mậu Thân 1968. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp”.
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng thăm thương, bệnh binh ở Quân y Viện 108 nhân ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7/1969. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp”
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh miền Nam và Tư lệnh trưởng Bộ đội Trường Sơn Đồng Sĩ Nguyên bàn kế hoạch tác chiến, chuẩn bị chiến dịch Đường 9 Nam Lào tại một cánh rừng Trường Sơn năm 1971. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp”.
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng duyệt phương án đánh B52 của Mỹ tập kích vào Hà Nội năm 1972 tại Sở Chỉ huy Quân chủng Phòng không – Không quân. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp”.
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Trong chuyến kiểm tra vùng biển Quảng Ninh sau chiến dịch phá thủy lôi năm 1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Quyết tâm bảo vệ toàn vẹn vùng biển, hải đảo của tổ quốc”. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp”
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng nghiên cứu bản đồ tuyến vận tải chiến lược của bộ đội Trường Sơn trên đường đi thăm đoàn 559 vào tháng 3/1973. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp”
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm đơn vị lão dân quân Hoằng Hóa, Thanh Hóa, đơn vị bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng trường, tại lễ duyệt binh nhân ngày Quốc khánh 2/9/1973. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp”
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Tháng 12/1974 đến tháng 1/1975, Bộ Chính trị quyết định Tổng tiến công giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đại tướng Võ Nguyên Giáp thuộc tổ thường trực Bộ Tổng tham mưu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Trong bức điện mật ngày 7/4/1975 gửi các đoàn quân đang tiến về Sài Gòn, đại tướng viết: “…Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa…”. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp”
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Quân ủy Trung ương đang theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Trong ảnh, từ trái sang phải là Đại tá Lê Hữu Đức (Cục trưởng Cục tác chiến), Thượng tướng Hoàng Văn Thái (Phó Tổng tham mưu), Thiếu tướng Vũ Xuân Chiêm (Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần), Thượng tướng Song Hào (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị), Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Tổng tư lệnh, Bộ trưởng Quốc phòng, Bí thư Quân ủy Trung ương) và Trung tướng Lê Quang Đạo (Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị). Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp”
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Ngày 10/3/1977, Đại tướng dẫn đầu một phái đoàn quân sự của Việt Nam thăm Liên Xô theo lời mời của Nguyên soái Dmitry Ustinov. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp”.
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Tháng 7/1980, Đại tướng cùng anh hùng Phạm Tuân (ngoài cùng bên trái) thăm Trung tâm Huấn luyện Gagarin ở Liên Xô. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp”.
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng trong một buổi nói chuyện nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (1954-1984) tại Hà Nội. Ảnh: Alex Bowie
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Tướng Giáp tại nhà riêng ở số 30 Hoàng Diệu, Hà Nội, hồi năm 1994. Đây là lúc ngay trước khi ông lên đường tới Điện Biên Phủ để kỷ niệm 40 năm chiến thắng chấn động địa cầu. Ảnh: Catherine Karnow
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng được bà con địa phương chào đón khi ông trở lại Điện Biên Phủ. Ảnh: Catherine Karnow
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Tướng Giáp bên một di tích chiến tranh ở Điện Biên Phủ năm 1994. Ảnh: Catherine Karnow
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp có cuộc gặp lịch sử với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara, đối thủ một thời của ông trên chiến trường, ngày 23/6/1995, khi McNamara tới Hà Nội dự hội nghị chuyên đề lịch sử về chiến tranh Việt Nam. Ảnh: AP
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Tướng Giáp ngồi chờ tàu ở ga Geneva để đến Zurich (Thụy Sĩ) năm 1996. Ảnh: Trần Tuấn
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2006, Tổng thống Venezuela Hugo Chavez đã tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp một bản sao thanh gươm quý của anh hùng Simon Bolivar, nhà cách mạng nổi tiếng, người lãnh đạo các phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ 19. Ảnh: AFP
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng đi bộ trên đường phố. Đây là môn thể dục ưa thích của ông. Ảnh: Sách ảnh “Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp”
    Ảnh hiếm về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1954 - 1975)
    Đại tướng và cháu trai Võ Thành Trung. Ảnh: Duy Anh

    Nhật Nam (tổng hợp)

    Nguồn:  VNEXPRESS.NET

  • Mai An Tiêm bị lưu đày ở đảo nào?!

    Mai An Tiêm bị lưu đày ở đảo nào?!

    Không chỉ là lời kể truyền khẩu, câu chuyện về Mai An Tiêm còn được nhiều thư tịch cổ đề cập tới dù có khác biệt đôi chút nhưng nhìn chung nội dung tương đồng.

    Theo như Lĩnh Nam chích quái liệt truyện thì ngày xưa, đời Hùng Vương có một người ngoại quốc, mới được 7 tuổi theo thuyền buôn từ phương Nam đến nước Văn Lang, vua Hùng mua về làm đầy tớ.

    Khi trưởng thành, cậu bé ngày nào nay đã là một chàng trai cao lớn, diện mạo đoan chính, thông minh, tuấn tú; vua Hùng rất yêu mến mới nhận làm con nuôi và đặt tên là Mai Yến, tên chữ là Mai An Tiêm và chọn một cô gái xinh đẹp, hiền thục gả cho làm vợ, sau sinh được một trai.

    Nhờ được vua yêu, tin dùng nên dần dần Mai An Tiêm thành phú quý, ai cũng muốn lấy lòng, thường đến dâng lễ vật không thức gì là không có; từ đó Mai An Tiêm sinh ra kiêu mạn, thường tự bảo rằng: “Của cải này là vật tiền thân của ta, ta không cần nhờ vào sự ban ơn của vua”.

    Hùng Vương nghe được, nổi giận nói rằng:

    “Làm thần tử mà nó không biết ơn chúa, sinh ra kiêu mạn, nói rằng của cải đều là vật tiền thân của nó. Bây giờ ta đem bỏ nó ra ngoài biển, ra nơi không có người sinh sống để coi thử nó có còn cái vật tiền thân nữa hay không?”.

    Nói rồi ra lệnh đày Mai An Tiêm và vợ con ra một hòn đảo hoang ở ngoài cửa biển Nga Sơn, bốn phía không có dấu chân người, chỉ cấp cho lương thực đủ dùng trong 4-5 tháng mà thôi, ăn hết là chết đói.

    Vào ngày nọ, bỗng thấy một con bạch hạc lớn từ phương tây bay lại, đậu lên mỏm núi cao, kêu lên ba bốn tiếng thì 6-7 hạt màu đen rơi trên mặt cát, một thời gian sau hạt đơm hoa kết trái; chim chóc kéo đến mỏ khoét để ăn.

    An Tiêm thấy thế mừng rỡ nói: “Chim ăn được tất người ăn được. Đây chính là thứ mà trời ban cho để nuôi ta đó”.

    Quả thật, trái đó ăn vào mùi vị thơm tho ngọt ngào, mát ruột vô cùng. Mỗi năm trồng tỉa thêm, ăn không hết thì đem đổi cho các thuyền buôn qua lại vùng biển đảo đó lấy lúa gạo nuôi vợ con. Có người hỏi Mai An Tiêm đây là quả gì, chợt nhớ đến chuyện chim tha hạt từ phương Tây đem đến nên đặt tên là quả Tây qua.

    Mai An Tiêm bị lưu đày ở đảo nào?!

    Lâu ngày, Hùng Vương nhớ đến người con nuôi của mình bèn sai người đến chỗ hòn đảo nơi Mai An Tiêm ở để xem có còn sống hay không. Người ấy về tâu lại mọi chuyện với vua. Vua Hùng than thở hồi lâu mới nói rằng:

    – Lời nói của nó năm xưa tuy tự mãn nhưng quả thực là đúng như vậy!

    Sau đó vua Hùng cho gọi Mai An Tiêm về, trả quan chức lại và ban cho thêm của cải, lại đặt tên chỗ vợ chồng Mai An Tiêm ở là “An Tiêm Sa Châu”.

    Hòn đảo nơi Mai An Tiêm bị đày đến sau này dần dần được bồi đắp trở thành đất liền, người dân đến sinh sống ngày một đông, dựng thành làng ấp và đặt tên là làng Mai An, còn gọi là Mai Thôn (nay thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa).

    Tương truyền vì là vùng đất gốc nên là nơi trồng dưa ngon nhất nước; người dân ở đây tôn vợ chồng Mai An Tiêm là “Bố Cái dưa hấu” hay “ông bà tổ dưa tây”. Sách Lĩnh Nam chích quái liệt truyện cho biết khi lễ bái đều lấy quả dưa Tây qua làm đồ tế tự.

    Còn về xuất xứ tên gọi, quả dưa ban đầu có tên là Tây qua vì được chim tha từ phía Tây đến. Chuyện xem chừng không có gì đáng lưu ý nhưng thực ra xét theo khoa học là hoàn toàn có lý và logic vì nguồn gốc của loại quả này ở vùng Tây Á có tên Ả-rập là Baticha, tiếng Pháp là Pasteque.

    Còn về sau được gọi là dưa hấu, theo một số bản chép về câu chuyện này thì khi được về đất liền, Mai An Tiêm đã dâng lên vua Hùng một thuyền đầy dưa, vua ăn thấy ngọt mát thấu dạ nên truyền đặt là dưa thấu, chữ thấu ở đây còn hàm ý vua đã thấu hiểu được sự cố gắng và tấm lòng của Mai An Tiêm. Dưa thấu sau được đọc chệch gọi là dưa hấu.

    Lời bình

    Ý nghĩa của về Mai An Tiêm và sự tích quả dưa hấu chính là lời ngợi ca bản lĩnh, ý chí vượt khó khăn để sinh tồn. Bằng trí tuệ và sức lao động con người thời Hùng Vương, mà Mai An Tiêm là hình tượng tiêu biểu đã xây dựng, vun đắp lên một đời sống vật chất đầy đủ, sung túc.

    Theo trithuctre

  • An Dương Vương trong tâm thức người Việt

    An Dương Vương trong tâm thức người Việt

    An Dương Vương là ai: Tiểu sử, sự nghiệp, cuộc đời và dấu ấn cá nhân?

    “Chết thì bỏ con bỏ cháu

    Sống thì không bỏ mồng Sáu tháng Giêng”

    Câu ca với những lời lẽ quả quyết nhưng lại rất mộc mạc, hồn nhiên ấy là nói về tình cảm thiết tha với ngày Hội làng của dân xã Cổ Loa và 7 xã xung quanh, thuộc huyện Đông Anh, ngoại ô Hà nội. Tâm điểm của lễ hội là tòa Thành ốc (Cổ Loa) và tâm linh của lễ hội hướng về An Vương Vương. Đó là những di tích và nhân vật gắn liền với một thời đoạn lịch sử vẫn còn chất đầy huyền thoại tiếp nối thời đại các vua Hùng cũng vần vũ những đám mây ngũ sắc của những huyền thoại.

    An Dương Vương là ai

    Nếu thời đại các vua Hùng còn định vị đuowjc bởi địa danh Phong Châu mà các thế hệ sau tôn phong là Đất Tổ và xây dựng ngôi Đền thờ Tổ thì tên tuổi của An Dương Vương còn lại một chứng tích vật chất đầy sức thuyết phục, cũng là chứng tích vật chất về một cái mốc đầu tiên ghi nhận Hà Nội hôm nay bao gồm cả vùng đất từng là kinh đô trước khi  Lý Công Uẩn định đô ở Thăng Long hơn một thiên niên kỷ.

    Về An Dương Vương, “Từ điển bách khoa Việt Nam” viết một cách ngắn gọn: “tên thật là Thục Phán, người sáng lập và là vua nước Âu Lạc. Có giả thiết cho là thủ lĩnh người Tây Âu ở vùng núi phía Bắc đã từng xung đột với vua Hùng và cũng là người chống Tần thắng lợi (214 – 208 trước CN), nối ngôi vua Hùng, hợp nhất Tây Âu và Lạc Việt thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Tục truyền An Dương Vương được rùa thần giúp đỡ cho móng làm lẫy nỏ rất hiệu nghiệm, nên đã đánh bại nhiều lần xâm lược của Triệu Đà. Sau đó Triệu Đà dùng mưu (cho con trai là Trọng Thủy sang cầu hôn với con gái An Dương Vương là Mỵ Châu) lấy cắp lẫy nỏ thần rồi mới đem quân sang đánh (179 trước CN) An Dương Vương thua chạy đến Nghệ An, nhảy xuống biển tự tử”

    Lời giảng nghĩa ngắn ngủi ấy cố gắng khẳng định một nhân vật có thật và một thời đại có thật trong lịch sử dân tộc ta là cái gạch nối giữa thời đại các vua Hùng với những thời đại sau đó trong dòng mạch liên tục của một quốc gia tự chủ và đã tạo dựng  được một nền văn minh có bản sắc riêng biệt bên cạnh một nền văn minh lớn cũng là một mối thử thách thường trực và khủng khiếp từ phương Bắc tràn xuống. Nhưng trong lời giảng nghĩa ấy vẫn phải nhắc đến những từ “giả thiết”,  “tục truyền”…

    Bởi lẽ, từ nhiều thế kỷ trước trong các cuốn sách như “Viện điện u linh”; “Lĩnh Nam chích quái”, “đại Việt sử ký toàn thư” hay các tác phẩm của Nguyễn Trãi (Dư địa chí). Phan Huy Chú (lịch triều hiến chương loại chí) đều nhắc tới An Dương Vương họ Thục tên Phán là con của vua Thục (đất Tứ Xuyên – Trung Quốc ngày nay) vì xung khắc của tổ phụ với Hùng Vương của nước Văn Lang mà mang quân đánh chiếm, lập nước Âu Lạc, xưng vương và xây thành Cổ Loa. Nhưng rồi cuối thế kỷ XIX, một số sử thần lại cho rằng Âu Lạc và người đứng đầu Thục Vương không dính dáng gì đến nước Ba Thục mà chỉ là một thế lực ở lân cận “gắn liền với nước Văn Lang”. Sang đầu thế kỷ XX, có học giả còn cực đoan hơn khi cho rằng” nước Nam không có An Dương Vương nhà thục” (Nguyễn Văn Tố” còn một số sử gia người Pháp lại khẳng định “Trước nhà hán không có lịch sử An Nam”…

    Nhưng trong tâm thức của nhiều người Việt Nam nhất là của dân “bát xã hộ nhi” (tám làng thờ cúng và tham gia tế lễ trong ngày hội ở Chùa Thượng) thì An Dương Vương chính là Vua Chủ ăn sâu vào

                       (Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm – Số 4/2001)

    An Dương Vương xây thành Cổ Loa

    Sau chiến thắng vĩ đại đánh thắng 50 vạn quân Tần, Thục Vương quyết định xây thành Cổ Loa.

    Tục truyền rằng Thục An Dương Vương xây thành nhiều lần nhưng đều đổ. Sau có thần Kim Quy hiện lên, bò quanh bò lại nhiều vòng dưới chân thành. Thục An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân Rùa vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa. Sự thực truyền thuyết đó như thế nào?
    Thời ấy, tổ tiên ta chưa có gạch nung. Bởi vậy thành Cổ Loa được xây bằng đất ở chính địa phương. Thành có 9 vòng. Chu vi ngòai 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1.6km… Diện tích trung tâm lên tới 2km2 . Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5m, có chỗ 8-12m. Chân lũy rộng 20-30m, mặt lũy rộng 6-12m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Xem vậy công trình Cổ Loa thật đồ sộ, trong khi khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu. Chính vì vậy, việc xây dựng thành Cổ Loa cực kỳ khố khăn. Thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Nhưng điều đáng tự hào là cuối cùng thành đứng vững. Thục An Dương Vương đã biết dựa vào những kinh nghiệm thực tế để gia cố nền, móng khắc phục khó khăn. Vết chân rùa thần chính là bí mật tổ tiên khám phá, xử lý. Ngày nay, khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học thấy rõ chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính15cm, hòn lớn 60cm. Cần bao nhiêu đá để xử lý cho công trình? Kỹ thuật xếp đá? Đây quả là một kỳ công.

    Thành Cổ Loa chẳng những là một công trình đồ sộ, cổ nhất của dân tộc mà còn là công trình hoàn bị về mặt quân sự. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dầy đặc, Tạo thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê – Hòang Giang thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả Cảm (Hà Bắc) thông với sông Hồng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Bởi vậy, ngay sau khi xây thành, Thục An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phướng đóng thuyền chiến.

    Với thuật đi sông vượt bể vốn là sở trường của người Lạc Việt, chẳng mấy chốc, các đầm phá quanh thành Cổ Loa biến thành quân cảng. Rồi nhân dân được điều tới khai phá rừng đa ( Gia Lâm), rừng Mơ (Mai Lâm), rừng dâu da (Du Lâm)v.v… thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện. Bên côn, kiếm, dáo, mác đủ loại, bàn tay sáng tạo của cha ông ta đã chế tạo ra mỏ liên châu, mỗi phát bắn hàng chục mũi tên. Cũng tại Cổ Loa, kỹ thuật đúc đồng cổ đã được vua Thục khuyến khích. Hàng chục vạn mũi tên đồng, những mũi tên lợi hại, có độ chính xác cao, kỹ thuật tinh vi, dùng nỏ liên châu đã được bàn tay thợ tài hoa sản xuất tại đây.

    Với vị trí thuận lợi ấy, với cách bố trí thành có 9 lớp xoáy trôn ốc, 18 ụ gò cao nhô hẳn ra chân lũy để có thể từ cao bắn xuống, với vũ khí nỏ thần và những mũi tên đồng lợi hại, sức mạnh quân sự tổng hợp của Cổ Loa thời ấy thật đáng sợ.
    Thành Cổ Loa là sự đúc kết tuyệt vời về trí tuệ của cha ông, là công trình sáng tạo kỳ vĩ của dân tộc.

  • Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Đệ nhất ân Phi Hồ Thị Chỉ là vợ vua Khải Định. Bà Chỉ nổi tiếng là nhan sắc mặn mà, thông minh, đàn hay, thông thạo tiếng Pháp, Hán Văn, Việt Ngữ. Bà Chỉ là con của Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung và bà Châu Thị Ngọc Lương quê ở làng Chuồn (xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế)
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Chân dung hai hoàng hậu Tiên Cung (vợ trước) và Thánh Cung (vợ sau) của vua Đồng Khánh

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Công chúa Thuyên Hoa, em gái vua Thành Thái có vẻ đẹp hiện đại
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Công chúa Mỹ Lương, Trưởng nữ của vua Dục Đức, chị cả của vua Thành Thái
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Cô Nguyễn Thị Cẩm Hà – thường gọi là Mệ Bông, con của Công chúa Mỹ Lương với vẻ đẹp dịu dàng

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Hoàng thái hậu Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức có nét đẹp rất hiền từ. Bà rất thương dân. Do trong dân gian thường gọi nhầm là Từ Dũ nên tên Từ Dũ sau này cũng vì thế được đặt cho bệnh viện phụ sản lớn nhất Sài Gòn từ trước năm 1975 cho đến nay
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Hoàng thái hậu Tự Cung – là Hoàng thái hậu cuối cùng của triều Nguyễn rất đẹp, sắc sảo. Bà Từ Cung là vợ vua Khải Định và cũng là người duy nhất trong số 12 người vợ có con trai là hoàng đế Bảo Đại say này

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Bà Từ Cung (giữa) cùng các người thân trong hoàng tộc
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Bà Nguyễn Thị Định, là thứ phi của vua Thành Thái, mẹ vua Duy Tân, ảnh chụp khi bà đã lớn tuổi nhưng nét đẹp một thời vẫn còn trên khuôn mặt

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Một ảnh chụp khác của Vương phi Mai Thị Vàng, vợ yêu của vua Duy Tân lúc về già
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Hình ảnh Nam Phương hoàng hậu lúc được tấn phong – vợ của vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng triều đại phong kiến tại Việt Nam
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Nam Phương quê ở Tiền Giang, con của một gia đình rất giàu có. Bà 3 năm liền đoạt giải Hoa hậu Đông Dương, lấy vua Bảo Đại khi vừa 19 tuổi

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Thứ phi Mộng Điệp người Hà Nội rất được vua Bảo Đại sủng ái

    Sinh năm 1924 tại Bắc Ninh, khác với nhiều cung tần mỹ nữ thời trước, Mộng Điệp là phụ nữ đã có chồng và con. Tuy nhiên, nhan sắc mặn mà của người phụ nữ Kinh Bắc đã “đốn ngã” trái tim Bảo Đại mà ông từng tưởng rằng chỉ thuộc về duy nhất Nam Phương hoàng hậu.

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Nhan sắc của Mộng Điệp trở thành đề tài của rất nhiều bậc tài tử thời bấy giờ. Theo nhiều tài liệu lịch sử cho biết, trước khi lấy chồng nhà Mộng Điệp không thể đếm xuể bao nhiêu người qua lại ngỏ ý. Vẻ đẹp mặn mà, duyên dáng của cô gái Kinh Bắc dễ dàng làm siêu lòng bất kỳ chàng trai nào thời đó.

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Bức ảnh ghi lại khoảnh khắc rất tình cảm của thứ phi Mộng Điệp với cựu hoàng Bảo Đại (ảnh tư liệu của nhà nghiên cứu Huế – Nguyễn Đắc Xuân)
    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Hoàng hậu Nam Phương sau khi sinh con vẫn giữ được nét đẹp quý phái

     

    Những phụ nữ quyền thế và xinh đẹp nhất triều Nguyễn
    Hoàng hậu Nam Phương và các hoàng tử, công chúa con của mình với nét đẹp chuẩn mực. Đây cũng là hoàng hậu cuối cùng của triều đại phong kiến cuối cùng của việt Nam đóng đô tại Huế với nhiều quá khứ vàng son (1802-1945)