Category: Địa danh lịch sử

  • Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Dân miền Saigon chắc hẳn còn nhớ các tên nhà thương như nhà thương Chợ Rẫy, nhà thương Chợ Quán, Bình Dân, Nguyễn Văn Học, Từ Dũ, Hùng Vương hay nhà thương Hồng Bàng…

    Trên bảng hiệu thường dùng từ “bịnh viện” (hoặc “bệnh viện”), nhưng người dân miền Nam không gọi nhà thương là bệnh viện. Ở Saigon đôi lúc cũng có nghe người ta gọi nhà thương là bệnh viện nhưng những người đó không phải là dân gốc cố cựu miền Nam, thường là dân di cư năm 54.

    Tiếng “nhà thương” bắt nguồn từ ý nghĩa nhà chữa trị cho người thương tật bịnh hoạn. Nhưng dân miền Nam gắn liền nhà thương với tình thương và chánh phủ đã giúp vun bồi ý nghĩa, niềm tin đó.

    Ở những nhà thương công bệnh nhân đi khám bịnh, điều trị thì miễn phí, không tốn đồng xu nào. Vì vậy nó còn được gọi là nhà thương thí, (bố thí) cho người nghèo. Ở Sài gòn lúc trước người có tiền thì người ta đi nhà thương Đồn Đất, hay mấy nhà thương của bang hội người Hoa như Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Sùng Chính…

    Đương nhiên nhà thương công thì chật chội, không thoải mái tiện nghi, nhưng bù lại các ca bệnh nặng ngặt nghèo thì phải vô nhà thương công, sanh con so thì phải vô Từ Dũ hay Hùng Vương, vì đó là mấy nhà thương thực tập của trường y Saigon, tập trung các thầy, các cô, giáo sư, bác sĩ ưu tú của miền Nam. Thỉnh thoảng có người thân bịnh nhân la bài hải lên “đây là nhà thương chớ đâu phải nhà ghét” khi họ thấy y tá hằn hằn học nặng tay.

    Ngày nay tiếng “nhà thương” không còn sử dụng nữa.

    Một số “nhà thương” của SAIGON xưa:

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Đồn Đất Hospital – Sài Gòn 1940 – 1950 (nay Bệnh viện Nhi đồng 2, 14 Lý Tự Trọng, Bến Nghé, Quận 1)

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện Chợ Quán 1974 Lễ khánh thành Trung Tâm Y Khoa Hàn-Việt ngày 2-3-1974 do Hàn Quốc giúp xây dựng.

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện SAIGON – 1900s

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện Từ Dũ mặt đường Hồng Thập Tự (Nay là Nguyễn Thị Minh Khai)

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Chợ Rẫy Hospital – Chợ Lớn / Sài Gòn 1965 – Photo by Michael Mittelmann

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Bệnh viện Cơ Đốc, Ngã Tư Phú Nhuận góc Võ Tánh – Võ Di Nguy – Photo by Darryl Henley

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Saigon 1966: Station Hospital – Bệnh viện Hải Quân Mỹ trên đường Trần Hưng Đạo, đối diện KS Metropole

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Lễ khánh thành Bệnh Viện Vì Dân
    Bệnh viện Thống Nhất là một bệnh viện được thành lập vào ngày 04/09/1971 với tên gọi ban đầu là Bệnh viện Vì Dân

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Saigon 1965 – Bệnh viện Grall, nay là Nhi Đồng 2 Robert Gauthier’s Gallery

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Dưỡng Trí Viện Biên Hòa là nhà thương nổi tiếng điều trị bệnh về tâm thần, thường được gọi là “nhà thương điên”, sau 75 được đổi lại thành tên: Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương:

    Vì sao người Miền Nam xưa gọi “bệnh viện” là “nhà thương”?

    Theo Saigonvivu

  • Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Phóng viên ảnh nổi tiếng người Mỹ Bill Eppridge đã ghi lại những bức ảnh đặc sắc trong một chuyến bay dân sự ở sân bay Tân Sơn Nhất ngày 14/7/1965. 

    Trước 1975, Tân Sơn Nhứt có nhiều chuyến bay nhất Đông Nam Á, quỹ đất để mở rộng sân bay đến 3.600 ha, gấp 3 lần sân bay Changi của Singapore.

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Bảng chỉ dẫn hướng vào phi trường Tân Sơn Nhứt.



    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Các con đường dẫn vào sân bay Tân Sơn Nhất được kiểm tra an ninh nghiêm ngặt.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Xe buýt của sân bay đón khách.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Bên trong ga hành khách sân bay Tân Sơn Nhất.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Tại quầy làm thủ tục.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách bước vào khu phòng chờ sau khi làm xong thủ tục.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách chờ lên máy bay.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Nữ tiếp viên dẫn khách ra máy bay.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Một hành khách đặc biệt: Thiền sư Thích Nhất Hạnh (người quàng khăn tối màu).

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách phải đi bộ một quãng đường khá dài để lên máy bay.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Người khuyết tật cũng không phải là ngoại lệ.

     

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Hành khách mới hạ cánh xuống sân bay đi bộ vào nhà ga.

    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Toàn cảnh sân bay Tân Sơn Nhất năm 1966. Ảnh: Life


    Người Sài Gòn xưa đi máy bay như thế nào?

    Ngoài phục vụ dân sự thì sân bay còn là căn cứ của không quân chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Mỹ.

  • Tại sao có chữ “Gái bán hoa”?

    Tại sao có chữ “Gái bán hoa”?

    Vào năm 1920, “đội quân nhà Thổ” chuyên nghiệp từ Nhật Bản kéo sang Saigon hoạt động rất nhiều, mấy cô gái Nhật này chủ yếu phục vụ khách Du lịch từ Châu Âu và được huấn luyện rất kỹ. Tuy không xinh đẹp lắm, nhưng gái Nhật rất biết cách chiều chuộng đàn ông …. !

    Tại sao có chữ "Gái bán hoa" ?
    Gái bán hoa trong tiếng Nhật viết là 売春婦 (đọc là baishunpu) có nghĩa Hán Việt là “Mãi Xuân Phụ”

    Saigon Xưa có câu :
    ” Ăn cơm Tàu…Ở nhà Tây….Lấy vợ Nhật ” là vậy !
    Họ thuê hẳn một khu phố trên đường Rue Des Fleurs (Hải Triều) nối giữa Charner (Nguyễn Huệ) và De La Somme (Hàm Nghi) sau lưng Hotel Cosmopolitan (Cục Hải Quan bây giờ )….. Dân Saigon dùng danh từ ” Gái Bán Hoa ” (vì họ ở khu Đường Hoa ) để gọi những Kiều nữ xứ Phù Tang. Trên đường này còn có những cửa hàng bán hoa giấy, cũng có lẽ được du nhập từ Nhật. Sau 1975 những gia đinh này di tản ra nước ngoài. Nghề làm hoa giấy cũng mai một theo thời cuộc.

    @David Hà

  • Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc qua những bức ảnh xưa cho thấy một đô thị hiện đại được hình thành từ cuối thế kỷ 19 ở bên dòng sông Hồng góp phần tạo dựng một giai đoạn tiếp nối mới trong quá trình phát triển một nền văn minh sông Hồng từ trước đến nay.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Hồ Hoàn Kiếm năm 1940

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Toàn cảnh Hồ Gươm và khu phố phía Nam đã hình thành

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Nhà Thờ Lớn Hà Nội

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Bách hóa tổng hợp (có dòng chữ Grands Magasins Réunis trên cao , nay là Tràng Tiền Plaza)

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Buôn bán ở chợ đồng xuân

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố này bây giờ là Phạm Ngũ Lão, sau Nhà hát lớn, gần đường đê

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    y Cảnh sát – nay là trụ sở công an ở ngã tư Tràng Thi – Lê Thái Tổ – Bà Triệu

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Nhà bán hoa ven hồ góc đường Hàng Khay đối diện Bách hóa Tổng Hợp Hà Nội nay đã bị phá

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Dãy phố Hàng Khay sầm uất cửa các hàng

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    .Phố Hàng Khay toàn cảnh nhìn từ ngã tư Tràng Tiền.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Tràng Tiền 1897

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Bà Kiệu nằm ngay trước cổng đền Ngọc Sơn. Nay một phần của ngôi đền này trở thành tượng đài

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Rạp chiếu phim đầu tiên của Hà Nội – Palace, tại phố Nguyễn Xí

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Đài phun nước Con Cóc nằm cạnh khách sạn Metropole

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Cầu Long Biên (1958).

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Ga Hà Nội

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Khu Đấu Xảo nay là Cung Văn Hóa Hữu Nghị Việt-Xô năm 1923

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Nhà đấu xảo (trung tâm thương mại một thời), nay là Cung văn hóa Hữu nghị.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Nhà đấu xảo (trung tâm thương mại một thời), nay là Cung văn hóa Hữu nghị.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Trường Albert Sarraut

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Vườn hoa Canh nông, nay là công viên Lê Nin trên đường Trần Phú.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Con phố Ven Sông Hồng nối từ cầu Long Biên đi về phia Nhà Hát Lớn Hà Nội thời đó được coi như tuyến phố thương mại mới

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Từ những ngôi nhà cổ đã dần bị Âu hóa

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Những mái nhà cổ rồi xuất hiện thay thế dần bởi những mái nhà ngói Tây

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Mái nhà cổ phố Hàng Bạc (ảnh chụp năm 1956)_

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Mặt tiền các ngôi nhà phố đã được trang trí nhiều nét kiến trúc Pháp thuộc thời đó

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Bạc

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Bạc vẫn còn uốn theo thế đường khi xưa với những mái ngói lô xô.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Đường (rue du Sucre) những năm cuối 40 đầu 50, đã rõ nét kiến trúc mặt tiền giai đoạn Pháp thuộc.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Buồm (ảnh chụp năm 1940)_

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Gai với những thay đổi liên tục về phông cách kiến trúc khi những người ở đây kinh doanh tốt nên có tiền để xây mới, sang sửa.

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Gai vẫn đọng lại những nét kiến trúc cổ truyền

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Hàng Quạt lúc này vẫn còn giữ được không gian kiến trúc cảnh quan xưa

    Loạt ảnh Đô Thị Hà Nội giai đoạn Pháp thuộc

    Phố Mã Mây hay còn được gọi là Phố quân Cờ Đen cũng còn rất nhiều đoạn đặc trưng phố của người bản địa

    (36phophuong.vn)

  • Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lên ngôi vua, ấy là vua Gia Long, vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn. Gia Long chọn đóng đô ở Huế. Thăng Long sau đó được đổi thành tổng trấn Bắc Thành với 11 trấn trực thuộc. Nhà Nguyễn bấy giờ đặt quan tổng trấn Bắc Thành và trao quyền hành rất lớn, lại đặt ra các Tào, gần như cơ quan đại diện của các Bộ tại Thăng Long. Quan tổng trấn Bắc Thành được quyền tự quyết cắt đặt quan lại, bãi quan miễn chức, xét xử kiện tụng, sau khi tiến hành xong rồi mới tâu trình. Bởi vậy, quan phủ ở Thăng Long – Bắc thành bấy giờ gần như một triều đình thu nhỏ. Điều đó cho thấy, nhà Nguyễn vẫn đề cao tầm quan trọng của Thăng Long đến mức nào.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Bản đồ Hà Nội 1873

    Thành Hà Nội (thành) – vi.wikipedia.org Vua Gia Long cho phá dỡ Cấm thành Thăng Long, cho xây dựng lại một tòa thành mới hình vuông, mô phỏng theo kiểu Vauban của Pháp. Mỗi mặt thành được bố trí 2 pháo đài, mỗi góc đều có pháp đài góc. Thành ngoài được mở 7 cửa, trên mỗi cửa có lầu và cột đồng. Xung quanh thành đều có hệ thống hào được dẫn nước từ sông Tô Lịch. Cầu bắc qua hào để vào thành được xây bằng gạch nung chín. Nền thành rộng chừng 28m, mặt thành rộng khoảng 8m. Trên thành có xây tường nhỏ bằng gạch làm chỗ núp cho quân bắn xuống khi có chiến tranh. Vua Gia Long cho xây thêm tòa điện phía sau điện Kính Thiên làm hành cung, xây các cửa thành Đông Nam, Tây Nam, Đông, Tây và Bắc. Phía trước Hoàng thành Thăng Long cũ, vua Nguyễn cho xây cột cờ, gọi là Điền Đài, cao 100 thước. Tháng 7 năm 1820, vua Minh Mạng lại bổ sung thêm một số công trình ở Thăng Long. Vua Nguyễn cho dựng thêm các điện, đường hành cung và làm các quán dịch để tiếp sứ thần Trung Quốc từ Kinh Bắc lên tới Lạng Sơn. Phía trước điện Kính Thiên, vua Minh Mạng cho dựng điện Thị Triều và điện Cần Chánh. Ở bờ Nam sông Nhĩ đặt nhà tiếp sứ lợp ngói, bờ Bắc sông Nhĩ đặt các trạm sứ quán từ trạm Gia Quất đến Lạng Sơn cả thảy 7 trạm. Ở giữa trạm dựng một nhà ngói, các tòa nhà trước, sau và hai bên đều dùng gỗ tạp và lợp cỏ tranh.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Vị trí thành Thăng Long-Hà Nội qua các thời kỳ (Khảo sát thực địa -giả định)

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Bản đồ Thành cổ Hà Nội thời Pháp chiếm đóng

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cảnh tổng quát Thành Hà Nội, thủ phủ của Bắc Kỳ-1880, nhìn từ cửa phía Đông thành.

    Tới năm 1931, vua Minh Mạng thực hiện công cuộc cải cách hành chính với quy mô lớn. Cấp tổng trấn Bắc Thành và Gia Định Thành bị bãi bỏ. Vua Minh Mạng chia cả nước làm 30 tỉnh đặt dưới sự cai trị thống nhất của triều đình. Thủ phủ của Tổng trấn Bắc Thành, gồm khu vực Kinh thành Thăng Long các triều đại trước và mở rộng thêm, được cắt thành tỉnh Hà Nội. Bấy giờ, tỉnh Hà Nội được triều Nguyễn cắt đặt cho 4 phủ là Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa và Lý Nhân; 15 huyện là Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm, Thượng Phúc, Thanh Trì, Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An, Nam Xang, Duy Tiên, Bình Lục, Phú Xuyên, Kim Bảng và Thanh Liêm. Thành tỉnh Hà Nội trước đó được nhà Nguyễn dựng lại với chu vi 1.728m, cao 4,5m, hào bao quanh rộng khoảng 16m. Đến lúc vua Minh Mạng chia lại tỉnh hạt, bèn cho bạt bớt đi 1 thước 8 tấc cho phù hợp với quy chế thành của một tỉnh. Như vậy, đến thời Nguyễn, dù Kinh đô được đặt ở Huế, nhưng Thăng Long – Hà Nội vẫn tồn tại như một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội lớn, rất được triều đình coi trọng.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Sơ đồ vị trí các cổng thành Hà Nội

     

    Cửa Chính Bắc Vị trí và hình dáng Sử chép rằng Cửa Bắc được xây dựng từ thời Nguyễn, trên nền Cửa Bắc của thời Lê và hoàn thành năm 1805. Cửa Bắc được xây dựng theo kiến trúc vọng lâu: phía trên là lầu, phía dưới là thành.[1] Cửa Bắc nay nằm trên đường Phan Đình Phùng thuộc quận Ba Đình, Hà Nội. Cửa Bắc là một khối gần như vuông dạng hình thang, tường hai bên xoải ra. Lòng cửa là vòm cuốn xây gạch. Mép cửa kè đá hình chữ nhật, riềm trên bằng đá trang trí viền cánh sen. Trên nóc cửa có vọng lâu là một phương đình 8 mái. Phía bắc trán cửa có gắn tấm biển, ở giữa khắc nổi ba chữ Hán “Chính Bắc Môn” (正北門). Riềm cửa gắn biển đá trang trí nổi hoa dây. Bên cạnh phía phải gắn một tấm biển đá khắc ngày 25 tháng 4 1882,[2] đánh dấu ngày quân Pháp khai hỏa, bắn vào thành và chiếm lấy thủ phủ xứ Bắc Kỳ. Tường cửa còn nguyên dấu đạn đại bác của quân xâm lăng.[1] Trên lầu hiện là nơi thờ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu – hai vị Tổng đốc đã có công cùng nhân dân thành Hà Nội chống trả lại kế hoạch xâm chiếm thành của thực dân Pháp. Hai ông đều nhận lấy cái chết dầu [không] giữ được thành. (nguồn: wikipedia.org)

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Đây là cửa Chính Bắc của thành Hà Nội, do Emile Gsell chụp (khoảng năm 1880) trước khi thành bị tàu chiến Pháp khai hỏa bắn vào ngày 25 tháng 4 1882 trong trận chiến thành Hà Nội lần thứ hai, do vậy trong hình này tường của cửa thành còn nguyên vẹn chưa có dấu đạn đại bác như còn lại ngày nay.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cũng cửa thành Chính Bắc này, ảnh do BS Hocquard chụp khoảng 1884-85, đã sụp đổ điêu tàn

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa Bắc nhìn từ bên trong, kh. năm 1884-1885, sau khi quân Pháp đã chiếm thành Hà Nội.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa Bắc phía trước cổng thành đã lấp hào sông chạy quanh, tường thành bị hạ thấp .

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cổng thành Hà Nội trước năm 1896 càng rõ khi thấy khoảng đất bằng phẳng trước mặt.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Thành Cửa Bắc phía trên bị biến dạng xây dựng công trình cho mục đích sử dụng khác.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Vọng lâu bị phá

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Đã được cải tạo, phục hồi lại nguyên trạng

    Năm 1999 cũng tại đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện các phần còn lại của một bức tường xây bằng đá và gạch vồ, nền móng dày 1,2m và dấu tích của một kiến trúc khác thời Lê tại độ sâu từ 1,66m – 2,20m

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Vết đại bác trên cổng Bắc thành Hà Nội do pháo thuyền của Pháp bắn vào. Nguyên văn biển đá bằng tiếng Pháp: 25 avril 1882: Bombarde de la citadelle par les canonnières “Surprise” et “Fanfare”; nghĩa là Ngày 25/04/1882: Vết bắn phá thành của các pháo thuyền “Surprise” và “Fanfare”.

    Nguồn: Cửa Bắc vi.wikipedia.org

     

    Cửa Nam

    Phía nam thành Hà nội có hai cửa: cửa Tây Nam và cửa Đông Nam (cửa Đại Hưng), tất cả đã mất theo thời gian. Cửa Nam chỉ còn trong tên một con phố nơi có những tên đất như Đình Ngang (nơi dừng lại để soát xét giấy tờ, thẻ bài trước khi vào Hoàng Thành), Cấm Chỉ (dừng nơi khu cấm) và một góc cái vườn hoa thời Pháp thuộc có dựng tượng “Bà đầm xòe”.

     

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa Đông Nam thành Hà Nội-Bức ảnh này cho thấy hình ảnh Cửa Nam đổ nát, phía trong thấy rõ Kì Đài và Đoan Môn.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Phục dựng lai bằng 3D Cửa Đông Nam (cửa Đại Hưng), Cửa Nam thời Lý – Trần có tên là cửa Đại Hưng; nơi đây là cửa chính ra vào của các quan lại những ngày thiết triều, của các quan nhậm tại trấn ngoài có việc vào triều, nơi trần thiết lễ nghi mỗi khi Nhà nước có công việc quan trọng như tế lễ Giao, lễ Tịch Điền, nhà vua đi kinh lý các địa phương (thời Lý – Trần các vua năng đi tuần thú ra ngoài, vua Lê thì rất hiếm).

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Họa đồ thành Thăng Long thời Lê với sông Nhị chảy ở phía đông, tháp Báo Thiên ở giữa, vương phủ chúa Trịnh chếch ở phía nam tháp, hồ Tây ở phía bắc và thành Thăng Long gồm hai vòng lũy (và có Đại Hưng Môn, Chính Đông, cửa Tây ) nằm giữa hồ Tây và tháp Báo Thiên.

    Vấn đề vị trí các cửa thành trải qua các vương triều có cùng vị trí còn cần khảo cứu và có chứng cứ khảo cổ, tư liệu xác thực.

     

    Cửa Đông

    Chính Môn Đông (thành Cửa Đông) nằm phía Đông Hoàng Thành, dẫn vào khu cư dân sầm uất nhất kinh thành – khu phố cổ quận Hoàn Kiếm ngày nay. Cũng như Cửa Nam, Cửa Đông ngày nay chỉ còn là tên một con phố. Trước kia có một đường đi cũ trong thành từ cửa Đoan Môn ra đến Chính Môn Đông, qua cổng thành và dương mã thành, qua cầu bắc trên hào, để ra ngoài, tại đây con đường quặt về hướng Đông nam một quãng mới toả đi các phố của khu Cửa Đông. Bức ảnh này cho thấy Chính Môn Đông năm 1885 với phía trong là các khu nhà trại lính Pháp.

    Trên bức ảnh vẫn thấy rõ dấu tích cây cầu bắc qua hào. Khi Chính Môn Đông, tường thành và con hào bị phá bỏ, người Pháp cho mở một con đường mới thẳng từ Cổng Tỉnh (chiếc cổng sắt lớn thay cho Chính Môn Đông) ra khu phố cũ, con đường mới đó được đặt tên là Rue Général Bichot, nhân dân ta cứ quen gọi là phố Cửa Đông hoặc con đường Cổng Tỉnh. Bên ngoài Cổng Tỉnh luôn túc trực đông đảo một đội quân xe kéo, đáp ứng nhu cầu đi lại của binh lính Pháp từ trong thành vào khu 36 phố phường của Hà Nội. Quân đội Pháp biến Cấm Thành thành sở chỉ huy pháo binh, còn toàn bộ phía Đông Hoàng Thành (khu vực giữa hai con đường Nguyễn Tri Phương và Lý Nam Đế ngày nay) trở thành một trại lính khổng lồ.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Bản vẽ phục dựng khu vưc trước vửa Đông Hoàng Thành

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Nhìn vào phía trong thành từ Cửa thành phía Đông

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cổng Đông Thành Hà Nội năm 1885

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa Đông Thành Hà Nội năm 1890, lúc này đã bị hạ tầng lầu trên trên thành.

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Nhìn theo hướng khác năm 1898

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa Đông-chính Đông Môn

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Phố Cửa Đông, Hà Nội.

     

    Cửa Tây thành Hà Nội.

    (Cửa Tây – Dương Mã Thành – đời Nguyễn)
    Trong bài viết: “Những vết tích của Hoàng Thành Thăng Long trên mặt đất và dưới lòng đất” GS Trần Quốc Vượng tiết lộ: “Tôi cùng với ông Đỗ Văn Ninh và một cán bộ kỹ thuật (đo vẽ khảo cổ) được thu nhận vào theo dõi công việc đào móng xây dựng công trường Lăng Bác. Chúng tôi đã thấy gì? Thấy được Cửa Tây – Dương Mã Thành – đời Nguyễn cùng nhiều đoạn thành, nền là lớp đá ong rất dày, trên xây gạch Nguyễn lẫn lộn gạch vồ Lê. Thấy nhiều di vật (gạch, ngói lưu li xanh vàng, đồ gốm sứ Lý – Trần – Lê – Nguyễn…).

    Bản đồ, ảnh các Cổng Thành Hà Nội thời nhà Nguyễn

    Cửa thành Hà Nội nhìn từ phía đường Sơn Tây (Ảnh của Hocquard chụp khoảng 1885 -1886)

    Thấy những đống xương: Người, thú (trâu bò, lợn, gà…), có xương bả vai trâu có một đinh ba sắt xuyên qua (lễ hiến tế). Thấy một vài cái giếng xây bằng gạch “Giang Tây quân\’” (chữ in trên gạch, niên đại thuộc Đường thế kỷ VII – IX), có gạch in chữ “Lý gia đệ tam đế Long Thụy thái bình tứ niên tạo” (làm năm Long Thụy thái bình thứ tư, đời vua thứ ba nhà Lý – 1057) v.v… (thời ấy phải nghiêm ngặt tuân thủ định chế của công trường: Không được mang vào và mang ra bất cứ hiện vật gì, không được hỏi, được nói bất cứ cái gì mình biết và không biết, không được đi ra khỏi nơi quy định…)”.

    Đối chiếu bản đồ cũ với ảnh Google có thể thấy bốn con đường chạy quanh Hoàng Thành xưa hiện giờ là: Phan Đình Phùng (phía Bắc), Trần Phú (phía Nam), Lý Nam Đế (phía Đông) và Hùng Vương (phía Tây). Vẫn theo GS Trẫn Quốc Vượng: Về phía Tây Hoàng Thành Lê, thì còn chứng cứ: Khán Sơn.

    Toàn thư chép là ở góc Tây Bắc Hoàng Thành, nơi vua Lê Thánh Tông và các đại quan ngự xem quân sĩ tập trận. Thời Pháp thuộc, chính quyền Pháp sai san phẳng Khán Sơn làm nền, trên đó xây dựng trường trung học mang tên viên toàn quyền Albert Sarraut, nay được cải tạo, sửa thành trụ sở TƯ Đảng CSVN.

  • Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955

    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955

    Raymond Cauchetier là một nhà nhiếp ảnh nổi tiếng người Pháp sinh vào ngày 10 tháng giêng 1920 tại thủ đô Paris. Khi ông 31 tuổi (1951), ông cùng quân đội Pháp đến dán đảo Đông Dương và trong thời gian ông ở Việt Nam, ông đã thực hiện rất nhiều bộ ảnh về đời sống hàng ngày của lực lượng không quân Pháp cũng như những bộ ảnh về danh lam thắng cảnh và con người Việt Nam sau khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt.
    Năm 1955, ông đã cho xuất bản cuốn sách ảnh thứ hai có tên “Saigon” và những hình ảnh sau được trích từ quyển sách này của ông.

    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    NGƯỜI ĐẸP SÀI GÒN
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    MỘT ĐIỂM CHIẾU PHIM THOÁT Y Ở CHỢ LỚN (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    ĐẰNG TRƯỚC NHÀ HÁT LỚN SÀI GÒN (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    LÀM PHƯỚC Ở ĐỀN VÀ MỘ CỦA TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT HAY CÒN ĐƯỢC GỌI LÀ LĂNG ÔNG (BÀ CHIỂU) VÌ NẰM Ở KHU VỰC CHỢ BÀ CHIỂU (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    ĐỀN VÀ MỘ CỦA TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT HAY CÒN ĐƯỢC GỌI LÀ LĂNG ÔNG (BÀ CHIỂU) VÌ NẰM Ở KHU VỰC CHỢ BÀ CHIỂU (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    QUÁN HÀNG TRÀ Ở CHỢ LỚN (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    ĐI DẠO Ở VƯỜN BÁCH THẢO SÀI GÒN (1955) – NĂM 1956 VƯỜN BÁCH THẢO ĐƯỢC TU SỬA, TÁI THIẾT VÀ ĐỔI TÊN LÀ THẢO CẦM VIÊN SÀI GÒN
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    NGƯỜI ĐÀN BÀ BÁN THUỐT LÁ TRÊN VĨA HÈ (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    CẢNH NGƯỜI HÚT GIÓ Ở SÀI GÒN (1955)
    Nguồn: https://www.cochinchine-saigon.com/
  • Vài nét sinh hoạt của người Sài Gòn xưa

    Vài nét sinh hoạt của người Sài Gòn xưa

    Trong tác phẩm La geste française en Indochine (Thành tích của người Pháp tại Đông Dương), Georges Taboulet xác nhận rằng vào năm 1859, trước khi lọt vào tay quân Pháp, Sài Gòn chưa phải là một thành phố đúng nghĩa, mà chỉ là một khu vực quần tụ của 40 làng mạc nằm kề nhau và không có một tổ chức chung. Thực ra, trong tổ chức của chính quyền Đàng Trong, từ năm 1698, Sài Gòn đã ở trong một cơ cấu hành chính ổn định (thuộc huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn). Dù sao cách nhận định của Taboulet cũng cho ta ý niệm rằng sinh hoạt của người Sài Gòn trước thập niên 1860 còn rời rạc, thiếu tính chất quy mô, gắn bó của một cộng đồng có tổ chức chặt chẽ.

    Tháng 8 năm 1861, Đề đốc Bonard thay thế Phó Đô đốc Charner trong cương vị tư lệnh quân viễn chinh Pháp. Viên tướng hải quân này bắt tay vào việc chỉnh trang Sài Gòn theo một kế hoạch tương đối quy mô do một trung tá công binh thực hiện. Nhiều con đường lớn bắt đầu xuất hiện và từ sau năm 1863, nhiều kiến trúc kiên cố mọc lên như dinh Đổng lý Nội vụ – còn gọi là dinh Thượng thơ (1864), dinh Thống đốc (1868), Nhà thờ lớn (1877)… Đến năm 1865, Sài Gòn đã có 15,350km đường lộ, hai bên đường đều có trồng cây, thường là me, bàng hay tếch. Ban đêm, chính quyền thực dân cho thắp sáng các con đường bằng đèn dầu dừa.

    Theo nhận định của một số tác giả Pháp, nhờ mạng lưới sông ngòi chằng chịt, khả dụng quanh năm, Sài Gòn có một hệ thống thủy văn hoàn hảo nhất, giúp cho việc canh tác lúa và các hoa màu khác đạt hiệu quả cao, đồng thời cũng là phương tiện giao thông quan trọng từ các nơi khác đổ về. Đó cũng là lý do khiến một số khá lớn người dân Sài Gòn xưa sống chủ yếu ven sông rạch để tiện việc đi lại, mua bán. Trong những thập niên 1860-1870, phương tiện di chuyển chủ yếu của người Sài Gòn là ghe thuyền, đậu chật ních các bến sông. Phương tiện đường thủy này dùng chuyên chở hàng hóa từ các vùng xa đến Sài Gòn mua bán, một số dùng đưa rước khách sang sông hay di chuyển trên những quãng sông ngắn. Trên bộ, phần lớn cư dân đi bộ, những nhà giàu có sử dụng xe kiếng (malabare). Loại xe này không rõ bắt đầu xuất hiện từ năm nào nhưng đã thấy đề cập đến trong hồi ký Un an de séjour en Cochinchine (Một năm lưu trú ở Nam kỳ) của một dược sĩ Pháp tên là M. Delteil, xuất bản tại Paris năm 1887. Xe có bốn bánh, do một ngựa kéo, thùng xe bằng gỗ có cửa kính để khách ngồi trong xe có thể nhìn thấy quang cảnh trên đường đi; điều khiển xe thường là người Mã Lai, gọi là xà ích (sais, gốc tiếng Mã Lai). Đến cuối thập niên 1880, Sài Gòn, Chợ Lớn bắt đầu có xe kéo, làm phát sinh thêm một thành phần mới trong xã hội thuộc địa là phu xe kéo. Người ta còn đọc thấy trong biên bản họp của Hội đồng thành phố vào ngày 20.1.1888 một tờ trình cho viên đốc lý Sài Gòn, đề nghị cho lưu hành xe kéo tại Sài Gòn vì ở Chợ Lớn, chính quyền đã cho loại xe này hoạt động rồi.

    Thời trang của phụ nữ Sài Gòn xưa
    Thời trang của phụ nữ Sài Gòn xưa

    Điểm đáng lưu ý là sau khi Pháp đánh chiếm toàn bộ Nam kỳ và chính thức thuộc địa hóa vùng này bằng hòa ước Giáp Tuất 1874 ký với triều đình Huế, số người châu Âu, nhất là người Pháp, đến Sài Gòn ngày càng đông. Vào thập niên 1880, khách sạn nổi tiếng của Pháp ở Sài Gòn là Favre do một người Pháp tên là Favre khai thác. Khách sạn nằm trên đại lộ chính Catinat giới hạn bởi hai con đường Bonard và d’Espagne (Lê Lợi và Lê Thánh Tôn ngày nay), một trong những nơi náo nhiệt nhất Sài Gòn lúc bấy giờ.

     

    Sự hiện diện của một số người Âu sống trong khách sạn hoặc thuê nhà riêng làm phát sinh một số nghề mới trong cư dân bản xứ. Trước tiên là nghề giúp việc nhà và nghề làm bếp cho Tây. Giúp việc nhà thường là người Việt, tuổi khoảng 18-20, được chủ Tây gọi là “boy” (cậu con trai), nghe quen thành ra “bồi”. Công việc của người này là hầu bàn, lo nước tắm, dọn phòng và cả kéo quạt nữa, với mức lương từ 6 đến 8 đồng mỗi tháng, chỉ bằng 1/4 đến 1/5 tiền ăn hàng tháng tại khách sạn của một người Âu. Đầu bếp nấu ăn cho Tây thường là người gốc Hoa, lương từ 8 đến 10 đồng/tháng. Họ làm quen rất nhanh với cách nấu ăn của Tây và biết chiều theo sở thích của chủ. Thông thường người đầu bếp đến nhà của chủ làm những công việc theo thỏa thuận, đến chiều họ trở về nhà, sau khi nhận từ tay chủ khoản tiền đi chợ sáng hôm sau, vào khoảng 0,60 đồng đến 1 đồng cho hai người ăn. Nếu gia đình người Âu có con nhỏ cần người giúp việc là phụ nữ, họ liên lạc với trường Sainte-Enfance để các “sơ” (soeur) ở đây cung ứng người của trường. Những gia đình đông đúc, cần di chuyển thường xuyên sẽ sắm một xe kính và thuê một xà ích lương từ 12 đến 20 đồng/tháng, không ăn cơm chủ. Khách ở khách sạn thường được chào mời bởi một đội ngũ những người bản xứ làm nghề giặt là, cắt may, đóng giày,… Công giặt ủi (là) một bộ quần áo khoảng 2,5 đồng và nghề giặt ủi phát triển mạnh trên đường Catinat. Trong nghề may quần áo và đóng giày, người Tàu có nhiều ưu thế hơn người Việt. Một bộ complet thêm áo gilet, cả công may lẫn vải khoảng 8 đồng, được đánh giá là khá rẻ.

    Sinh hoạt của những người Âu vào cuối thế kỷ XIX khá đơn điệu. Họ dậy lúc 6 giờ sáng, làm vệ sinh và đi làm cho đến 10 giờ. Bữa ăn trưa diễn ra lúc 10 giờ 30 phút, dưới những chiếc quạt kéo, vì lúc đó trời đã bắt đầu nóng nực. Giữa trưa, họ lên phòng và kéo dài giấc ngủ trưa đến 2-3 giờ chiều. Lúc này, Sài Gòn rất yên lặng, cửa hàng đóng cửa im ỉm, cửa nhà cũng không mở. Từ 2-3 giờ chiều, thành phố thức giấc, mỗi người quay lại công việc đang chờ cho đến 5 giờ chiều mới trở về nhà. Đó là lúc mà thành phố tỏ ra náo nhiệt nhất.

    Sài Gòn thập niên 1880 có vẻ thích hợp với câu nói mà người ta thường gán cho Paris. Đấy là “thiên đường của phụ nữ và địa ngục của loài ngựa”. Thực vậy, chỉ riêng Sài Gòn lúc đó đã có đến 400 chiếc xe ngựa cho thuê! Bữa cơm tối của người châu Âu tại Sài Gòn bắt đầu lúc 19 giờ 30 phút, khi màn đêm đã buông xuống hoàn toàn. Sau đó, phần lớn thanh niên và những người độc thân đến các câu lạc bộ hay vào các quán cà phê, ngồi uống bia ướp lạnh và có khi vui chơi đến sáng. Từ khi tình trạng vệ sinh ở Sài Gòn được cải thiện, nhiều phụ nữ người Âu kéo sang Việt Nam sống cùng với gia đình; sinh hoạt ở các câu lạc bộ hay quán cà phê lắm lúc được chuyển về những gia đình hiếu khách. Ở đó, họ nghe nhạc, nói chuyện, đánh bài và thường thì buổi gặp gỡ kết thúc bằng một cuộc khiêu vũ kéo dài đến nửa đêm. Ngoài những buổi họp mặt thân mật như thế, hàng năm có một hoặc hai buổi khiêu vũ đông người, dành cho giới trẻ trong thành phố và một buổi khiêu vũ chính thức tổ chức tại dinh Thống đốc Nam kỳ.

    Tại sao gọi Sài Gòn là Hòn Ngọc Viễn Đông?

     

    Cuộc sống của người Âu là cả một thiên đường so với những người dân đang sống chen chúc trên các sông rạch hoặc dãi dầu trên ghe thương hồ rày đây mai đó. Số người kiếm được bơ sữa của Tây bằng nghề bồi bếp không bao nhiêu so với người dân Sài Gòn “đầu đội trời, chân đạp đất” kiếm sống hằng ngày. Đầu thế kỷ XX, có một phụ nữ Anh lấy chồng là bác sĩ thuộc địa người Pháp, chỉ sau đám cưới vài tuần lễ đã phải theo chồng sang công tác ở Viện Pasteur Nha Trang. Trong những ngày sống ở Sài Gòn chờ ra Nha Trang, bà Gabrielle M. Vassal đã có dịp quan sát sinh hoạt tại thành phố này và miêu tả trong tập hồi ký Mes trois ans d’Annam (Ba năm sống ở Việt Nam của tôi). Khi mới đến thành phố, Vassal đã di chuyển bằng xuồng tam bản và một trong những bối rối đầu tiên của bà là không làm sao phân biệt được giới tính của những người chèo xuồng. Họ ăn mặc gần như nhau, chỉ có những khác biệt nhỏ mà phải sau một thời gian, Vassal mới phân biệt được. Thời đó, người Sài Gòn, nam cũng như nữ, đều mặc quần dài và áo rộng, tóc cũng đều cuộn lại thành búi tó. Quan sát kỹ mới thấy ở phụ nữ, búi tó nằm ở vị trí cao hơn, phía trên đầu, chiếc áo rộng cũng dài hơn. Về vóc dáng người Sài Gòn đầu thế kỷ XX, đàn ông ít khi vượt quá 1,60m chiều cao, phụ nữ còn thấp bé hơn nữa. Mặc dù vậy, họ là những người chèo xuồng rất thiện nghệ. Các phu kéo xe cũng thế, họ có thể kéo dễ dàng một người Âu nặng gấp đôi trọng lượng cơ thể họ.
    Với sự hiện diện của nhiều người Âu, cảnh chợ búa ở Sài Gòn cuối thế kỷ XIX diễn ra khá náo nhiệt. Phía ngoài chợ là cửa hàng của người Ấn Độ mà có người gọi là Matabar. Họ bán đủ loại hàng hóa, nhất là vải vóc. Cách buôn bán của họ không giống người Tàu. Khách hàng của họ nhiều nhất là phụ nữ. Buổi sáng, chợ là một tập hợp của rất nhiều người, đủ mọi sắc tộc, các đầu bếp người Tàu và An Nam, người đổi tiền Ấn Độ…

    Để làm sạch đường phố trong mùa khô, chính quyền thành phố Sài Gòn cho xe đi tưới nước trên đường mỗi ngày hai, ba, thậm chí bốn lần. Đến thập niên 1880, đường phố Sài Gòn đã có 5 đại lộ, 39 đường và 3 bến tàu, dài tổng cộng 36,635km; so với năm 1865, đã tăng thêm hơn 20km. Trước năm 1878, nước uống của cư dân thường lấy từ các giếng đào cạn hay sông, rạch nên không đảm bảo vệ sinh. Sau này, chính quyền thực dân Pháp cho lấy nước từ một con suối, đưa vào bể lọc và cung cấp cho dân thành phố mỗi ngày 16.000m3 nước. Năm 1878, một tháp nước khổng lồ được xây dựng ở đầu đường Catinat, tại vị trí nay là Hồ Con Rùa. Tháp nước này tồn tại được 48 năm, đến năm 1921 thì bị phá hủy.

    Ở Sài Gòn đầu thế kỷ XX, mỗi chiều người ta thấy từng tốp công nhân bản xứ trên đường đi làm về. Nổi bật trong số họ là các “thầy thông ngôn”, không búi tó như hầu hết dân bản xứ. Họ đã húi tóc ngắn (như phong trào cúp tóc năm 1907), mặc quần dài trắng, mang giày tất ngắn, đầu đội khăn nhiều nếp. Các nông dân mặc quần dài trắng, áo rộng màu xanh sẫm, đôi khi vá chằng vá đụp. Họ đi hàng một bên đường, người này bước sau người kia, chân không mang giày dép gì cả. Một vài người cầm trên tay một đôi giày păng-túp (pantoufle) kiểu Tàu mà họ cố để dành cho những dịp trọng đại, tay kia cầm một chiếc dù che trên đầu. Đối với người nông dân ở Sài Gòn thời đó, có một chiếc dù, loại dành cho các quan lại khi xưa là một điều hãnh diện lớn. Còn công nhân làm ở các hãng xưởng thì thay cho chiếc khăn quấn quanh đầu như các thầy thông ngôn là một chiếc khăn mùi soa (mouchoir) hoặc một mảnh vải nhỏ quấn vụng về trên búi tó.

    Sài Gòn xưa và mốt thời trang vượt thời gian

     

    Phụ nữ Sài Gòn xưa cũng như đàn ông, không bao giờ đi sóng đôi trên đường. Từ chợ về, họ gánh hai chiếc giỏ cân bằng nhau nên bước chân vẫn nhẹ nhàng. Để đổi chiếc đòn gánh qua vai khác, họ chậm bước chân lại, cúi đầu xuống và đưa chiếc đòn qua cổ, ít khi chịu đặt quang gánh xuống đất. Những phụ nữ bản xứ có mức sống cao thì ngồi xe kéo, đầu đội một chiếc khăn bằng lụa màu nhạt hoặc dùng một cái trâm bằng vàng cài lên chiếc búi tó đen nhánh. Khi mặt trời đã ngã về Tây, các gia đình người Việt ở Sài Gòn tụ họp trước ngôi nhà nhỏ, bên cạnh mâm cơm. Nếu bữa cơm đạm bạc chưa được người nội trợ lo xong thì người cha hay người đàn ông trong gia đình lo việc bồng ẵm đám trẻ nhỏ. Lúc trời đã tối mịt, người ta đốt đèn dầu trên các bàn thờ và thắp hương. Tất cả vào nhà đóng cửa lại. Sự im lặng của khu xóm thỉnh thoảng bị phá vỡ bởi tiếng khóc của một đứa trẻ và lời ru nhè nhẹ của người mẹ.

    SG, 29.11.2017

    Nguồn: Trích từ sách ĐẤT SÀI GÒN VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI SÀI GÒN XƯA

  • Vẻ đẹp bề thế, cổ kính của lăng Minh Mạng

    Nằm trên núi Cẩm Khê ở cố đô Huế, lăng Minh Mạng gây ấn tượng mạnh với những công trình kiến trúc tráng lệ hòa hợp tuyệt vời với khung cảnh thiên nhiên.

    Lăng Minh Mạng còn được gọi là Hiếu Lăng, có bố cục kiến trúc đối xứng với các công trình nằm dọc theo trục đường thần đạo. Cổng chính của lăng là Đại Hồng Môn, chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng. Sau đó, việc ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.

    Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, một khoảng sân rộng 45m x 45m lát gạch Bát Tràng, hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu

    Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn.

    Bên trong Bi Đình có bia “Thánh đức thần công” bằng đá ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha Minh Mạng.

    Sau Bi Đình là khoảng sân triều lễ được chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc.

    Cuối sân triều lễ là Hiển Đức Môn, cánh cổng mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng cho mặt đất.

    Điện Sùng Ân nằm ở trung tâm khu vực tẩm điện.

    Trong điện thờ bài vị của vua Minh Mạng và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu, chính thất của vua.

    Ở phía trước, đối xứng hai bên bên trái và bên phải điện Sùng Ân có Tả, Hữu Phối Điện, phía sau có Tả, Hữu Tùng Phòng.

    Khu tẩm điện kết thúc với Hoằng Trạch Môn.

    Bước qua Hoằng Trạch Môn là bắt đầu một không gian đầy thi vị với hồ Trừng Minh và và những hàng cây xanh tốt xung quanh.

    Ba chiếc cầu Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh đưa du khách đến Minh Lâu, một tòa lầu nằm trên quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.

    Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát. Đây là công trình mang giá trị kiến trúc nổi bật của khu lăng.

    Tòa nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông, thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa..

    Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi vĩnh hằng.

    Từ Minh Lâu đi xuống sẽ gặp cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt để dẫn vào Bửu Thành, tòa thành bảo vệ nơi yên nghỉ của nhà vua.

    Hồ Tân Nguyệt là hồ nước được tạo hình như trăng non, là yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành – biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật.

    Mộ vua nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn.

    Hình tròn của Bửu Thành nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng Trái Đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố

    Từ chân Khải Trạch Sơn có 33 bậc cấp dẫn lên cổng của Bửu Thành, cánh cổng dẫn vào thế giới vĩnh hằng của người đã khuất.

    Ngoài các công trình chính nằm dọc đường thần đạo, lăng Minh Mạng còn có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn, Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn, Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn, Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn, Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn, Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn…

    Tiếc rằng do sự tàn phá của thời gian, các công trình này chỉ còn là phế tích.

    Theo đánh giá của giới nghiên cứu, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, đã tạo nên nét đẹp riêng cho lăng Minh Mạng.

    Bố cục kiến trúc đăng đối hoàn hảo của các hạng mục chính đã đem lại vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ vua chúa.

    Bên cạnh đó, sự hài hòa giữa các công trình nhân tạo và cảnh quan thiên nhiên cũng đem lại giá trị kiến trúc đặc sắc cho lăng Minh Mạng.

    Điều này thể hiện qua những con đường đi dạo quanh co vòng quanh các hồ nước lớn và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh

    Điều này làm cho toàn bộ quần thể lăng dù uy nghiêm tột bậc nhưng vẫn gợi lên cảm giác thư thái do sự mềm mại của thiên nhiên.

    Ngoài ra, lăng Minh Mạng còn sở hữu một giá trị văn hóa nổi bật là gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu. Đây là những tuyệt tác vô giá, một “bảo tàng thơ” chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.

     

    Ngược dòng lịch sử. Tháng 2/1820, vua Gia Long băng hà. Hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi, lấy niên hiệu là Minh. Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình.

    Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành sông Hương. Phát mất 14 năm cân nhắc, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này.

    Vua Minh Mạng đã cho đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4/1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu.

    Không lâu sau đó, vua Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào tháng 1/1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại.

    Tháng 8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất.

    Vậy là, từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động và óc sáng tạo của con người, một tuyệt tác kiến trúc đã hình thành, trở thành di sản vô giá để lại cho hậu thế…

    Theo KIẾN THỨC

  • Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Các hình khắc trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn được coi là một cuộc triển lãm những tác phẩm mỹ thuật tuyệt vời, mang tính biểu tượng cho sự giàu đẹp của nước Việt. Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào mùa đông năm 1835 và khánh thành vào ngày 1/3/1837, gồm 9 chiếc đỉnh bằng đồng, lấy ý tưởng từ Cửu đỉnh của nhà Hạ ở Trung Hoa.

    Đỉnh hay vạc vốn là đồ để nấu ăn thời xưa, được đúc bằng kim loại, thường có hai quai và ba chân, nhưng được các bậc vua chúa tôn lên là tượng pháp để tượng trưng cho quyền lực thống trị của nhà nước quân chủ. Trước khi có Cửu Đỉnh, các vua chúa nhà Nguyễn từng cho đúc nhiều đỉnh đồng để xác định quyền uy của triều đại.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Cửu Đỉnh được đặt ở trước Hiển Lâm Các theo một hàng ngang, đối diện với Thế Miếu, ứng với án thờ của các vua nhà Nguyễn trong Thế Miếu. Mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một thụy hiệu của mỗi vị hoàng đế triều Nguyễn, lần lượt là Cao đỉnh, Nhân đỉnh, Chương đỉnh, Anh đỉnh, Nghị đỉnh, Thuần đỉnh, Tuyên đỉnh, Dụ đỉnh, Huyền đỉnh.

    Nhìn chung, cả chín chiếc đỉnh đều có dáng chung giống nhau: bầu tròn, cổ thắt, miệng loe, trên miệng có hai quai, dưới bầu có ba chân. Ở phần cổ đỉnh, bên phải ghi năm đúc đều là “Minh Mạng thập lục niên Ất Mùi” tức là năm 1835. Nhưng mỗi đỉnh cũng có nét riêng, thể hiện ở kiểu dáng quai, vành miệng, vai, chân và đáy.

    Đặc biệt, mỗi đỉnh được chạm khắc 17 bức họa tiết và 1 bức họa thư, gồm các chủ đề về vũ trụ, núi sông, chim thú, sản vật, vũ khí… Các bức chạm này tập hợp thành bức tranh toàn cảnh của đất nước Việt Nam thống nhất thời nhà Nguyễn.

    1. Cao đỉnh

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Trong Cửu Đỉnh nhà Nguyễn, Cao đỉnh nặng 2.603kg, được đặt ở vị trí trung tâm, ứng với khám thờ vua Gia Long trong Thế Miếu ở hoàng thành Huế. So với 8 đỉnh còn lại, Cao đỉnh được đặt nhích về phía trước 3 mét với hàm ý tôn vinh vị vua sáng lập triều đại.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chính giữa của Cao đỉnh là chữ “Cao đỉnh”, chính là thụy hiệu của vua Gia Long.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng trên, phía trái của chữ Cao đỉnh là hình tượng “Long”, nghĩa là con rồng, biểu tượng cho quyền lực của hoàng đế.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Kế đến là hình tượng “Ba la mật”, nghĩa là cây mít, loài cây ăn quả quen thuộc ở các làng quê Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hình tượng “Canh” là cây lúa tẻ, nông sản gắn liền với nền sản xuất của người Việt từ xa xưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

     Hình tượng “Thông” nghĩa là cây hành, loại rau gia vị quen thuộc của người Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tử vi hoa” là hoa tường vi, một loài hoa mọc thành chùm màu tím rất đẹp.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Trĩ” là chim trĩ, loài chim rừng có họ với gà, sở hữu bộ lông màu sắc rực rỡ.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng giữa, bên trái chữ “Cao đỉnh” là “Đông Hải”, nghĩa là Biển Đông, vùng biển gắn với chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Vĩnh Tế hà” là kênh Vĩnh Tế, con kênh đào vĩ đại ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long được vua Gia Long cho khởi công vào năm 1819.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Nhật” nghĩa là mặt trời.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Ngưu Chữ giang” là kênh Bến Nghé, một huyết mạch giao thông đường thủy ở Sài Gòn – Gia Định.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Thiên Tôn Sơn” là núi Thiên Tôn ở thôn Gia Miêu, Thanh Hóa, nơi phát tích của vương triều Nguyễn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng dưới, bên trái chữ “Cao đỉnh” là “Thiết mộc”, tức cây gỗ lim, loại cây cho gỗ rất cứng và bền, thường được dùng làm cột đình, chùa, cung điện.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hổ” là con hổ, loài vật biểu tượng cho sức mạnh, phân bố trong hầu khắp các khu rừng rậm ở Việt Nam xưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Đa tác thuyền” là tên nhà Nguyễn gọi thuyền buồm, loại thuyền đi biển đường dài có xuất xứ phương Tây.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Đại bác” là sùng đại bác, hỏa khí chủ lực trong quân đội nhà Nguyễn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Trầm hương”: Cây trầm hương, một loài cây cho gỗ có mùi thơm rất quý hiếm.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Miết” là con ba ba, một thủy sản có giá trị được khai thác tại nhiều sông hồ của Việt Nam.

    2. Nhân đỉnh

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Trong Cửu Đỉnh nhà Nguyễn, Nhân đỉnh nặng 2.515kg, được đặt bên trái Cao đỉnh, ứng với khám thờ vua Minh Mạng trong Thế Miếu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chính giữa của Nhân đỉnh là chữ “Nhân đỉnh”, thụy hiệu của vua Minh Mạng.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng trên, phía trái của chữ Nhân đỉnh là hình tượng “Ngô đồng”, nghĩa là cây ngô đồng, loài cây thân gỗ được trồng khá nhiều ở kinh thành Huế.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hình tượng “Kỳ nam” là gỗ kỳ nam, loại trầm hương phẩm chất cao nhất, hết sức quý hiếm.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Nọa” là cây lúa nếp, giống lúa dẻo và thơm song hành cùng lúa tẻ trên các ruộng lúa Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Nam trân” là cây bòn bon, loài cây cho quả từng trở thành nguồn thực phẩm cứu sống chúa Nguyễn Ánh khi phải ẩn náu trong rừng để tránh sự truy lùng của quân Tây Sơn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Liên hoa” là hoa sen, loài hoa tượng trưng cho sự cao quý bất chấp nghịch cảnh, đồng thời cũng là một loài hoa của đạo Phật.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Khổng tước” là chim công, loài chim có bộ lông rực rỡ được mệnh danh là nữ hoàng của các loài chim.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng giữa, bên trái chữ “Nhân đỉnh” là “Nam Hải”, nghĩa là vùng biển phía Nam nước Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Phổ Lợi hà” là sông Phổ Lợi, con sông do vua Minh Mạng cho đào năm 1835, nối sông Hương với cửa biển Thuận An, có vai trò giao thông và thủy lợi quan trọng với kinh thành Huế xưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Nguyệt” là mặt trăng.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hương giang” là sông Hương, dòng sông biểu tượng chảy qua kinh thành Huế.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Ngự Bình sơn” là núi Ngự Bình, có hình dáng như bức bình phong, cùng với sông Hương tạo thành cảnh quan đặc trưng của Huế: Sông Hương núi Ngự.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng dưới, bên trái chữ “Nhân đỉnh” là “Nhân ngư”, một cách gọi cá voi, loài cá thiêng phù trợ người đi biển theo quan niệm của người dân miền biển Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Cửu” là cây hẹ, một loài cây gia vị gần gũi với hành.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Lâu thuyền” là thuyền lầu, loại thuyền nhiều tầng thường được dùng cho nhà vua, người hoàng tộc và các quan đại thần, binh sĩ hộ giá đi lại trên sông Hương.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Luân xa pháo” là súng đại bác đặt trên xe, phiên bản cơ động, thường có kích thước nhỏ của súng đại bác.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Báo” là con báo, loài vật họ mèo chỉ đứng dưới con hổ về độ “hổ báo” trong rừng rậm Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Đại mạo” là con đồi mồi, loài rùa biển có mai đẹp, thịt ngon, là sản vật quý thường được dùng tiến vua.

    3. Chương đỉnh

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chương đỉnh là chiếc đỉnh thứ ba trong Cửu Đỉnh nhà Nguyễn, nặng 2.099kg, được đặt bên phải Cao đỉnh, ứng với khám thờ vua Thiệu Trị trong Thế Miếu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chính giữa của Chương đỉnh là chữ “Chương đỉnh”, thụy hiệu của vua Thiệu Trị.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng trên, phía trái của chữ Chương đỉnh là hình tượng “Mạt lị”, nghĩa là hoa nhài, loài hoa thơm được trồng phổ biến trong các khu vườn của người Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hình tượng “Am la” là cây xoài, một loài cây ăn trái quen thuộc của Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Đậu khấu” là cây đậu khấu, loại cây có quả được sử dụng làm vị thuốc quý trong Đông dược.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Lục đậu” là cây đậu xanh, loại ngũ cốc có vai trò quan trọng trong nền ẩm thực Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Giới” là cây kiệu, loại rau gia vị có họ với hành, hẹ.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Kê” là con gà, loài gia cầm gắn liền với mọi xóm làng của người Việt.
    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng giữa, bên trái chữ “Chương đỉnh” là hình tượng “Thượng sơn”, nghĩa là núi Thượng, tức núi Kim Phụng, một danh thắng nằm ở Hương Trà, Huế.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Lợi Nông hà” là sông Lợi Nông, tức sông An Cựu, chi lưu của sông Hương ở phía Nam kinh thành Huế.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Mộc tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh, Kim tinh, Thủy tinh” là sao Mộc, sao Hỏa, sao Thổ, sao Kim, sao Thủy, các tinh tú có vai trò quan trọng trong thiên văn cổ phương Đông.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Linh Giang” là sông Gianh, dòng sông ở Quảng Bình từng là ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài thời Trịnh – Nguyễn phân tranh.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tây Hải” là vùng biển phía Tây nước Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng dưới, bên trái chữ “Chương đỉnh” là hình tượng “Thuận mộc”, nghĩa là cây gỗ huỳnh, hay gỗ sưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Ngạc ngư” là con cá sấu, loài bò sát khổng lồ sinh sống tại nhiều vùng ngập nước ở Nam Bộ thời xưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Mông đồng thuyền” là mẫu thuyền chiến cơ động có đáy nông, nhiều tay chèo, trang bị nỏ mạnh, có mái gỗ để che tên đạn của nhà Nguyễn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Điểu thương” là loại súng hỏa mai được sử dụng phổ biến trong quân đội nhà Nguyễn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tê” là con tê giác, loài động vật quý hiếm ngày nay đã tuyệt chủng ở Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Linh quy” là rùa thiêng, một linh vật trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

    4. Anh đỉnh

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chiếc đỉnh thứ tư trong Cửu Đỉnh nhà Nguyễn là Anh đỉnh, nặng 2.576kg, được đặt bên trái Nhân đỉnh, ứng với khám thờ vua Tự Đức trong Thế Miếu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chính giữa của Anh đỉnh là chữ “Anh đỉnh”, thụy hiệu của vua Tự Đức.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng trên, về phía trái của chữ “Anh đỉnh” là hình tượng “Thiền”, nghĩa là con ve, loài côn trùng gắn liền với mùa hạ ở Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tô hợp” là cây tô hợp, loài cây thuốc quý trong Đông y.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Uất kim” là cây nghệ, loài cây cho củ vừa dùng làm gia vị, vừa là dược liệu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tân lang” là cây cau, loài cây thường được trồng làm cảnh và thu hoạch quả ở vùng quê Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Khôi hạc” là chim hạc, một loài chim được coi là có tính cách của người quân tử theo quan niệm truyền thống.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Mai khôi hoa” là cây hoa hồng, loài cây cho hoa thơm và đẹp, được trồng phổ biển trong các khu vườn xưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng giữa: Bên trái chữ “Anh đỉnh” là hình tượng “Ngân hán”, nghĩa là dải ngân hà.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Mã giang” là sông Mã, một con sông lớn ở miền Bắc.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Bắc Đẩu” là sao Bắc Đẩu, chòm sao gồm 7 ngôi sao nằm ở phương Bắc, được người xưa dùng làm dấu mốc xác định phương hướng vào ban đêm.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Lô hà” là sông Lô, phụ lưu tả ngạn của sông Hồng ở khu vực miền núi phía Bắc.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hồng sơn” là núi Hồng Lĩnh, dãy núi nổi tiếng được coi là hồn thiêng của xứ Nghệ.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng dưới, bên trái chữ “Anh đỉnh” là hình tượng “Mã”, nghĩa là con ngựa, loài gia súc được sử dụng làm phương tiện vận chuyển thời xưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tang” là cây dâu tằm, loài cây gắn liền với nghề dệt của người Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Kỳ” là lá cờ.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hồ điệp tử” là đạn bươm bướm, loại đạn đại pháo khi nổ bung ra tứ phía trông như tổ kén của con bướm.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Nhiêm xà” là con trăn, loài bò sát dạng rắn khổng lồ sinh sống trong nhiều vùng rừng rậm của Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tử mộc” là cây gỗ kiến, loài cây được sử dụng để sản xuất sơn cánh kiến, một nguyên liệu quý dùng để quét lên gỗ nhằm tạo độ bóng và tăng độ bền.

    5. Nghị đỉnh

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chiếc đỉnh thứ năm trong Cửu Đỉnh nhà Nguyễn là Nghị đỉnh, nặng 2.542kg, được đặt bên phải Chương đỉnh, ứng với khám thờ vua Kiến Phúc trong Thế Miếu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chính giữa của Nghị đỉnh là chữ “Nghị đỉnh”, thụy hiệu của vua Kiến Phúc.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng trên, về phía trái của chữ “Nghị đỉnh” là hình tượng “Mai”, nghĩa là cây hoa mai, loài cây nằm trong bộ Tứ quý Tùng, Cúc, Trúc, Mai theo quan niệm truyền thống của người Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Tiếp theo là hình tượng “Đàn mộc”, nghĩa là cây hoàng đàn, loài cây cho gỗ có mùi thơm đặc biệt quý hiếm, thường được dùng làm tượng thần, phật hoặc các đồ dùng sang trọng.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Quế” là cây quế, loài cây được trồng để khai thác vỏ và gỗ với nhiều công dụng như làm gia vị, dược liệu, đồ mỹ nghệ…

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Biển đậu” là cây đậu ván, loài cây ngũ cốc họ đậu được trồng phổ biến ở Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hải đường hoa” là hoa hải đường, loài hoa tượng trưng cho phú quý, thường được trưng trong nhà vào dịp Tết theo văn hóa truyền thống của người Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hồ da tử” là con đuông dừa, loài côn trùng đặc sản của Nam Bộ.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng giữa, bên trái chữ “Nghị đỉnh” là hình tượng “Quảng Bình quan”, nghĩa là cửa ải Quảng Bình, một cửa ải án ngữ đường thiên lý Bắc Nam thuộc hệ thống lũy Thầy, có từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Cửu An hà” là sông Cửu An, một con sông có vai trò quan trọng với nông nghiệp ở khu vực Hài Dương, Hưng Yên.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Nam Đẩu” là sao Nam Đẩu, một mảng sao gồm sáu ngôi nằm ở hướng Nam, ngược hướng với chòm sao Bắc Đẩu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Bạch Đằng giang” là sông Bạch Đằng, dòng sông gắn với những chiến thắng huyền thoại của người Việt trước quân xâm lược phương Bắc.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Thuận An hải khẩu” là cửa biển Thuận An, cửa biển có vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng với kinh thành Huế.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng dưới, bên trái chữ “Nghị đỉnh” là hình tượng “Lục hoa ngư”, nghĩa là cá lóc, loài cá nước ngọt kích cỡ trung bình, cho thịt ngon, được đánh bắt tại nhiều vùng miền của Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Giới” là cây rau cải, loài rau được trồng phổ biến, dùng để chế biến nhiều món ăn khác nhau hoặc muối dưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Trường thương” là giáo dài, một loại vũ khí cơ bản của quân đội nhà Nguyễn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hải đạo” là loại thuyền chèo rất linh hoạt phục vụ hoạt động chiến đấu trên biển.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Uyên ương” là chim uyên ương, loài chim nước nổi tiếng với bộ lông đẹp và sự thủy chung.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tượng” là con voi, loài vật khổng lồ có vai trò quan trọng trong biên chế quân đội nhà Nguyễn.

    6. Thuần đỉnh

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Trong Cửu Đỉnh nhà Nguyễn, Thuần đỉnh nặng 1.952kg, được đặt bên trái Anh đỉnh, ứng với khám thờ vua Đồng Khánh trong Thế Miếu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chính giữa của Thuần đỉnh là chữ “Thuần đỉnh”, thụy hiệu của vua Đồng Khánh.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng trên, về phía trái của chữ “Thuần đỉnh” là hình tượng “Đào”, nghĩa là cây đào, loài cây vừa cho hoa đẹp vào mùa xuân, vừa cho quả ngon.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Kế đến là “Súc sa mật”, nghĩa là cây sa nhân, loài cây có hạt dùng làm gia vị, là, hạt và quả dùng làm dược liệu trong y học cổ truyền.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hương nhu” là cây hương nhu, cũng là một dược liệu quen thuộc của người Việt xưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hoàng đậu” là cây đậu nành, một loài cây ngũ cốc họ đậu khác xuất hiện trên Cửu đỉnh bên cạnh đậu xanh (Chương đỉnh) và đậu ván (Nghị đỉnh).

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Quỳ hoa” là cây hoa hướng dương, được trồng để lấy hoa làm cảnh và lấy hạt làm thực phẩm, dược liệu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hoàng anh” là chim vàng anh, một loài chim đẹp có bộ lông màu vàng rực rỡ.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng giữa. bên trái chữ “Thuần đỉnh” là hình tượng “Tản Viên sơn”, là núi Tản Viên hay núi Ba Vì, ngọn núi thiêng gắn với truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh của người Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Vĩnh Định hà” là sông Vĩnh Định, con sông đào vua Minh Mạng cho khởi công ở Quảng Trị năm 1824.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Phong” là gió.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Thạch Hãn giang” là sông Thạch Hãn, con sông có vai trò quan trọng về giao thông và thủy lợi ở Quảng Trị.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Cần Giờ hải khẩu” là cửa biển Cần Giờ, cửa ngõ đường biển trọng yếu của thành Gia Định (Sài Gòn).

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng dưới, về phía trái chữ Thuần đỉnh là hình tượng “Đăng sơn ngư”, nghĩa là cá rô ta, loài cá sống nhiều ở ruộng đồng, có biệt tài vượt cạn, là món ăn dân dã quen thuộc của người Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Bạng” là con ngao, một hải sản được khai thác ở hầu khắp các vùng ven biển của Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

     “Bài đao” là giá gác đao, vật dụng thể hiện tinh thần võ học của người Việt xưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Đỉnh” là loại thuyền thon nhỏ, nhiều tay chèo, vừa dùng để đua trong các lễ cầu mưa, các ngày lễ hội, vừa dùng trong chiến đấu được trang bị cho quân đội nhà Nguyễn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Nam mộc” là cây gỗ chò, loại gỗ có độ bền cao được người Việt ưa chuộng trong xây dựng, làm đồ nội thất.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Ly ngưu” là con bò tót, loài bò hoang dã có hình thể lớn và sức khỏe địch được cả hổ báo.

    7. Tuyên đỉnh

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Trong Cửu Đỉnh nhà Nguyễn, Tuyên đỉnh nặng 2.068kg, được đặt bên phải Nghị đỉnh, ứng với khám thờ vua Khải Định trong Thế Miếu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chính giữa của Tuyên đỉnh là chữ “Tuyên đỉnh”, thụy hiệu của vua Khải Định.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng trên, về phía trái của chữ “Tuyên đỉnh” là hình tượng “Tần cát liễu”, nghĩa là chim yểng, loài chim cảnh nổi tiếng với khả năng nhại tiếng người.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Yến oa” là tổ yến, một sản vật tiến vua quý giá thường được khai thác ở các vách đá cheo leo bên bờ biển.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Long nhãn” là cây/quả long nhãn, cũng là một sản vật tiến vua thời xưa.
    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Trân châu hoa” là hoa sói trắng, loài hoa nhỏ mọc thành chùm như chuỗi hạt trân châu, mùi thơm dịu, thường được dùng để ướp trà.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Địa đậu” là cây lạc hay đậu phộng, một loại ngũ cốc quen thuộc ở Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Bá” là cây trắc bá diệp, loài cây vừa được trồng làm cảnh, vừa là loại dược liệu đa dụng trong Đông y.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng giữa, bên trái chữ “Tuyên đỉnh” là hình tượng “Duệ sơn”, tức núi Duệ hay núi Lễ, là một danh thắng của đất Hương Trà ở xứ Huế.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Nhĩ hà” là sông Nhĩ, tức sông Hồng, hệ thống sông lớn nhất của miền Bắc.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Vân” nghĩa là mây.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Đại Lãnh” là mũi Đại Lãnh, một mỏm núi đâm ra biển, danh thắng của đất Phú Yên.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Lam giang” là sông Lam, dòng sông cùng với núi Hồng Lĩnh được coi là biểu tượng của xứ Nghệ.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng dưới, bên trái chữ “Tuyên đỉnh” là hình tượng “Hậu ngư”, tức là con sam, một hải sản quý được khai thác ở một số vùng biển của Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Khương” là cây gừng, loài cây được trồng lấy củ làm gia vị hoặc dược liệu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Nỗ” là cái nỏ, một loại vũ khí tầm xa được quân đội nhà Nguyễn sử dụng.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Lê thuyền” là một loại thuyền có 12 tay chèo, được đóng khá nhiều dưới thời vua Gia Long, Minh Mạng.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Thỉ” là con lợn, một gia súc được nuôi lấy thịt rất quen thuộc ở vùng nông thôn Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Ngoan” là con vích, loài rùa biển cỡ nhò thường được khai thác để lấy thịt làm thực phẩm và lấy mai làm đổ mỹ nghệ.

    8. Dụ đỉnh

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chiếc đỉnh thứ tám trong Cửu Đỉnh nhà Nguyễn là Dụ đỉnh, nặng 2.020kg, được đặt bên trái Thuần Đỉnh, đối diện khám thờ vua Hàm Nghi trong Thế Miếu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chính giữa của Dụ đỉnh là chữ “Dụ đỉnh”. Khám với các đỉnh trước, tên của Dụ đỉnh không phải là thụy hiệu của bất kì vị vua nào triều Nguyễn, do các vị vua sau thời Khải Định đều không có thụy hiệu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng trên, về phía trái của chữ “Dụ đỉnh” là hình tượng “Anh vũ”, nghĩa là chim vẹt, cũng là loài chim rất giỏi nhại tiếng người như chim yểng trên Tuyên đỉnh.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Phù lưu” là cây trầu, loài cây được trồng lấy lá, gắn bó mật thiết với tục ăn trầu của người Việt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Bạch đậu” là cây đậu trắng, loài ngũ cốc họ đậu thứ năm xuất hiện ở Cửu đỉnh, bên cạnh đậu ván, đậu xanh, đậu nành và lạc.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Thuần hoa” là cây hoa dâm bụt, loài cây có hoa đỏ rất đẹp thường được trồng làm hàng rào ở nông thôn Việt xưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tùng” là cây tùng, loài cây lá kim tượng trưng cho sự trường tồn, vỉnh cửu theo quan niệm Á Đông.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng giữa, bên trái chữ “Dụ đỉnh” là hình tượng “Hải Vân quan”, nghĩa là cửa ải Hải Vân, một cửa ải quan trọng trấn giữ đường thiên lý Bắc – Nam, có từ thời Lê, được củng cố và mở rộng dưới thời vua Minh Mạng.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Vĩnh Điện hà” là sông Vĩnh Điện, con sông chảy qua đất Quảng Nam – Đà Nẵng.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Lôi” là sấm.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Vệ giang” là sông Vệ, một con sông nằm ở Quảng Ngãi.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Đà Nẵng hải khẩu” là cửa biển Đà Nẵng, chính là cửa Hàn, cửa biển có vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng của Đà Nẵng.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng dưới, bên trái chữ “Dụ đỉnh” là hình tượng “Thạch thủ ngư”, tức cá mú, một loài cá biển có thịt ngon được khai thác tại nhiều vùng biển của Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tử tô” là cây tía tô, loài cây bụi có lá màu tím, được dùng làm gia vị và dược liệu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Ô thuyền” là loại thuyền đi biển sơn màu đen, cánh buồm cũng đen, có 12 tay chèo, thường trang bị cho quân tuần tiễu dọc bờ biển.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Phác đạo” là loại đao có cán dài, thường được trang bị cho binh lính trận mạc và lực lượng hộ giá vòng ngoài của triều đình nhà Nguyễn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Cáp” là con sò, loài hải sản có họ với con ngao (trên Thuần đỉnh), được khai thác ở các vùng ven biển Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Dương” là con dê, loài gia súc được nuôi nhiều tại một số vùng núi đá của Việt Nam.

    9. Huyền đỉnh

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Là chiếc đỉnh cuối cùng trong Cửu Đỉnh nhà Nguyễn, Huyền đỉnh nặng 1.935kg, được đặt bên phải Tuyên đỉnh, đối diện khám thờ vua Duy Tân trong Thế Miếu.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Chính giữa của Huyền đỉnh là chữ “Huyền đỉnh”. Cũng giống như Dụ đỉnh, tên của Huyền đỉnh không phải là thụy hiệu của bất kì vị vua nào trong triều Nguyễn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng trên, về phía trái của chữ “Huyền đỉnh” là hình tượng “Ngũ diệp lan”, nghĩa là cây ngọc lan, một loài cây thân gỗ thường được trồng trong vườn lấy bóng mát, có hoa rất thơm.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Kế tiếp là hình tượng “Lệ chi”, nghĩa là cây vải, loài cây trồng lấy quả làm đặc sản tiến vua của một số địa phương ở đồng bằng sông Hồng.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Toán” là cây tỏi, cây gia vị có họ với cây hành, hẹ, kiệu từng xuất hiện trên ba chiếc đỉnh khác của Cửu đỉnh.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Nam sâm” là cây sâm ta, một dược liệu quý của Việt Nam.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Miên” là cây bông, loài cây trồng lấy sợi phục vụ nghề dệt.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Thốc thu” là chim phù lão hay chim già đẫy, một loài chim trọc đầu trông giống như ông già, sinh sống tại các vùng ngập nước Nam Bộ.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng giữa, bên trái chữ “Huyền đỉnh” là hình tượng “Hồng”, nghĩa là cầu vồng.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hậu giang, Tiền giang” là sông Tiền và sông Hậu, hai dòng sông chính của đồng bằng sông Cửu Long.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Vũ” là mưa.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hoàng sơn” là đèo Ngang, con đèo nằm ở ranh giới Hà Tĩnh và Quảng Bình, một thắng cảnh nổi tiếng của miền Trung Việt Nam. Trên đèo có một cửa ải gọi là Hoành Sơn Quan án ngữ đường qua đèo.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    Hàng dưới, bên trái chữ “Huyền đỉnh” là hình tượng “Thao hà”, tức sông Thao, dòng sông lớn có vai trò quan trọng với giao thông và thủy lợi ở đất tổ Phú Thọ.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Quế đố” là con cà cuống, loài côn trùng lớn sống dưới nước, được khai thác lấy tinh dầu làm gia vị.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Xa” nghĩa là xe.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Mãng xà” là con mãng xà, theo quan niệm dân gian là loài rắn lớn nhất, vua của các loài rắn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Hỏa phún đồng” là ống phun lửa, một loại hỏa khí của quân đội nhà Nguyễn.

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Tất mộc” là cây sơn, nguyên liệu làm sơn ta, một vật liệu quý thường được dùng để sơn phủ đồ gỗ, có khả năng chống thấm nước, chịu nhiệt, ngăn ngừa chuột bọ…

    Ý nghĩa các hình tượng trên Cửu Đỉnh nhà Nguyễn

    “Sơn mã” là con mang, một loài hươu nhỏ sinh sống trong nhiều khu rừng ở Việt Nam.

    Theo KIẾN THỨC

  • Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Quan Tượng Đài – đài thiên văn của triều Nguyễn – là một điểm tham quan thú vị dành cho những người muốn khám phá kiến trúc, lịch sử của kinh thành Huế xưa.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt NamVào năm 1827, dưới triều vua Minh Mạng, Quan Tượng Đài đã được xây dựng ở kinh thành Huế để làm nơi quan sát thiên văn, khí tượng, khí hậu, thời tiết của triều đình nhà Nguyễn.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Đài thiên văn này thuộc sự quản lý của Khâm Thiên Giám, là cơ quan có chức năng xem thiên văn, dự báo khí hậu thời tiết, làm lịch, coi đất, chọn ngày tốt… cho các hoạt động của triều đình cũng như dân chúng.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Vị trí của Quan Tượng Đài nằm ở thượng thành (mặt trên thành) góc Tây Nam Hoàng thành, thuộc phạm vi pháo đài Nam Minh (hiện thuộc địa phận phường Thuận Hoà, thành phố Huế).

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Công trình có hai phần chính: phần nền đài và kiến trúc bên trên có tên là đình Bát Phong.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Nền đài gồm hai phần, phần trước là khối kiến trúc hình tứ giác có dạng tương tự như một pháo đài, phần sau là dãy bậc cấp thoai thoải dẫn lên trên mặt nền.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Đình Bát Phong nằm trên nền đài, là một tòa đình có 8 cạnh, hai tầng mái, được chống đỡ bằng 12 cột gỗ.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Từ nơi đây, các nhà chiêm tinh của cơ quan Khâm Thiên Giám sẽ dùng kính thiên văn để quan sát mặt trời, trăng và các tinh tú.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Các hiện tượng thời tiết thông thường như mưa, nắng, gió và bất thường như hạn hán, lũ lụt cũng được ghi nhận từ đây rồi báo cáo về cho vua nhằm có kế hoạch ứng phó trong triều đình và dân chúng.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Quan Tượng Đài là công trình dạng đài thiên văn thứ hai được ghi nhận trong lịch sử phong kiến Việt Nam, và là công trình duy nhất còn lại dấu tích.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Trước đó, vào thời Hậu Lê, ở Kinh đô Thăng Long đã có một đài thiên văn và cơ quan Khâm Thiên Giám, nhưng đã mất hoàn toàn dấu vết. Những gì còn lưu lại chỉ là một tên phố Khâm Thiên.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Cho tới những năm 1960, Quan Tượng Đài ở Huế vẫn còn tương đối nguyên vẹn. Sau đó, vì bị bỏ hoang và chịu tác động từ chiến tranh, công trình đã xuống cấp, hư hại nặng nề.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Từ tháng 10/2012 – 9/2013, Quan Tượng Đài đã được tu bổ phục hồi, trong đó, đình Bát Phong được phục dựng mới hoàn toàn theo kiến trúc cũ.

    Đài thiên văn cổ duy nhất còn tồn tại ở Việt Nam

    Ngày nay, nơi đây là một điểm tham quan thú vị dành cho những người muốn khám phá kiến trúc, lịch sử của kinh thành Huế xưa.

    Theo KIẾN THỨC

  • Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Giữa trung tâm Sài Gòn từng tồn tại một pháp trường đặc biệt, nơi các vụ hành quyết diễn ra công khai trước sự chứng kiến của công chúng…

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Năm 1965, tình hình Miền Nam Việt Nam hết sức rối ren, các cuộc đảo chính, biểu tình và tấn công vũ trang diễn ra thường xuyên. Cùng với điều đó là nạn đầu cơ, lũng đoạn thị trường của giới thương gia. Trước tình hình này, chính quyền VNCH đã dựng lên phía trước chợ Bến Thành một pháp trường để hành quyết công khai các phạm nhân nhằm mục đích răn đe.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Mới đầu, pháp trường giữa trung tâm thành phố này chỉ được bố trí để xử bắn một người. Về sau nó đã được mở rộng để có thể hành quyết cùng một lúc ba người. Hoạt động của pháp trường đã bị truyền thông quốc tế lên án mạnh mẽ, buộc chính quyền phải dẹp bỏ nó sau một thời gian.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Khung cảnh trên pháp trường ngày 6/10/1965, khi ba phạm nhân bị hành quyết cùng lúc vì những tội danh khác nhau.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Một vụ hành quyết nổi tiếng trong thời gian pháp trường hoạt động là vụ xử nhà tài phiệt Tạ Vinh, một người Việt gốc Hoa 34 tuổi. Ông bị kết tội đầu cơ phá hoại kinh tế và chịu án tử ngày 14/3/1966.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975
     
    Tạ Vinh gục xuống sau loạt đạn, trên người vẫn mặc bộ vest lịch sự.
    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Vợ ông Tạ Vinh đã liều mạng lao về phía chồng và bị cảnh sát chặn lại.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Bên cạnh các tội phạm hình sự, kinh tế, nhiều nhân vật đấu tranh chống chính quyền VNCH cũng bị hành quyết công khai.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Sinh viên Lê Văn Khuyên bị xử bắn ngày 29/1/1965, thời điểm Sài Gòn đang chấn động sau các cuộc biểu tình và nổ bom.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Cái chết của chàng trai 20 tuổi Lê Văn Khuyên.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Một chiến sĩ biệt động bị chính quyền VNCH xử bắn ngày 22/6/1965.

    Cảnh hành quyết công khai khủng khiếp ở Sài Gòn trước 1975

    Cột hành quyết sau khi bản án tử được thi hành, ảnh của phóng viên Nhật bản Akimoto Keiichi.

    Theo KIẾN THỨC

  • Phu Văn Lâu, di tích được in trên tờ tiền 50.000 Đồng

    Được coi như một trong những biểu tượng của Cố đô Huế, hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000 phát hành năm 2003.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Nằm trên trục chính của Hoàng thành Huế, ở phía trước Kỳ Đài và phía sau Nghênh Lương Đình, Phu Văn Lâu là một công trình kiến trúc đặc sắc trong quần thể kiến trúc Cố đô.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tên gọi Phu Văn Lâu nghĩa là cái lầu trưng bày văn thư của triều đình, Côn trình được xây dựng vào năm 1819 dưới thời vua Gia Long để dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Đây là một tòa lầu hai tầng hai tầng duyên dáng, cao 11,67m, có hệ thống lan can bao xung quanh. Công trình được chống đỡ bằng 16 cột sơn màu đỏ sậm, gồm 4 cột chính xuyên suốt cả hai tầng, 12 cột quân.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Mặt trước và hai mặt bên của Phu Văn Lâu có bậc cấp dẫn lên nền tầng dưới. Bấc cấp phía trước có lan can hình rồng.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Không gian tầng dưới Phu Văn Lâu hoàn toàn để trống, có cầu thang dấn lên tầng trên, bên ngoài có lan can bằng bê tông.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tầng hai có bốn mặt đều dựng đố bản, kiểu đồ lụa khung tranh, mặt trước có cửa sổ chữ nhật, hai bên trổ cửa sổ tròn, lan can bên ngoài bằng gỗ. Trên của sổ mặt tiền có treo hoành phi sơn son thếp vàng, trang trí dây lá cách điệu “lưỡng long triều nguyệt”.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Mái phu văn lâu lợp ngói ống tráng men vàng.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Hai bên mặt trước Phu Văn Lâu có đặt hai khẩu súng thần công nhỏ bằng đồng hướng vào nhau.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Dưới thời vua Thiệu Trị, triều đình cho dựng ở hai bên hai tấm bia đá khắc 4 chữ “khuynh cái hạ mã”, nghĩa là ai đi qua đều phải cởi mũ và xuống ngựa.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Gần bên phải Phu Văn Lâu còn có tấm bia trên khắc bài thơ “Hương giang hiểu phiếm” nói về cảnh đẹp của sông Hương, cũng được dựng dưới thời vua Thiệu Trị.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Không chỉ là nơi niêm yết văn bản, Phu Văn Lâu còn là nơi diễn ra nhiều hoạt động khác của triều đình.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Năm 1829, vua Minh Mạng dùng nơi đây làm địa điểm tổ chức cuộc đấu giữa voi và hổ. Năm 1830, nhà vua dùng Phu Văn Lâu làm nơi tổ chức cuộc vui chơi yến tiệc suốt 3 ngày để mừng sinh nhật của mình.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Trong gần 200 năm tồn tại, Phu Văn Lâu được trùng tu khoảng 10 lần, lần sớm nhất vào năm 1905, lần gần đây là vào năm 2015-2016, sau khi một phần cồng trình bị sụp đổ do mối mọt năm 2014.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Tuy đã được tu bổ nhiều lần nhưng công trình vẫn giữ nguyên cốt cách đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Được coi như một trong những biểu tượng của Cố đô Huế, hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000 đồng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành từ năm 2003.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Một số hình ảnh khác về Phu Văn Lâu.

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    hình ảnh Phu Văn Lâu đã được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000

    Theo KIẾN THỨC