Category: Địa danh lịch sử

  • Vẻ đẹp kỳ vĩ của vịnh Vũng Rô

    Vẻ đẹp kỳ vĩ của vịnh Vũng Rô

    Do được bao quanh bởi ba dãy núi cao hiểm trở, vịnh Vũng Rô của Phú Yên là nơi có khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ khiến lòng người ngây ngất.

    Auto Draft

    Thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên, vịnh Vũng Rô là một thắng cảnh nổi tiếng của khu vực Nam Trung Bộ.

    Auto Draft

    Vịnh có diện tích 16,4 km² mặt nước, nằm tiếp giáp với biển Đại Lãnh thuộc vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa, được ba dãy núi cao che chắn là Đèo Cả, Đá Bia và Hòn Bà từ ba phía Bắc, Đông và Tây.

    Auto Draft

    Do được bao quanh bởi những dãy núi cao hiểm trở, vịnh Vũng Rô là nơi có khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ khiến lòng người ngây ngất.

    Auto Draft

    Phía Nam vịnh là đảo Hòn Nưa cao 105 m với những vách đá dựng đứng như một pháo đài. Trên đảo có ngọn đèn biển lớn.

    Auto Draft

    Ven bờ vịnh Vũng Rô có nhiều bãi cát vừa và nhỏ, trong đó có một số bãi đẹp như Bãi Chùa, Bãi Bàng, Bãi Lau.

    Auto Draft

    Trong lòng vịnh có nhiều loại tôm cá trú ngụ, là cơ sở cho sự phát triển của nghề nuôi trồng, đánh bắt hải sản ở nơi đây,

    Auto Draft

    Sự hiện diện với mật độ lớn của các nhà bè nuôi cá làm nên nét đặc trưng của vịnh Vũng Rô so với so với các vịnh biển khác ở Việt Nam.

    Auto Draft

    Không chỉ là thắng cảnh đẹp, vịnh Vũng Rô còn là một di tích lịch sử gắn với huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển.

    Auto Draft

    Từ năm 1964 – 1965, vịnh là địa chỉ tiếp nhận vũ khí bí mật từ miền Bắc chuyển vào Nam qua những chuyến tàu không số lịch sử.

    Auto Draft

    Trong giai đoạn này, Vũng Rô đã tiếp nhận bốn chuyến tàu cập bến an toàn, đưa được hàng ngàn tấn vũ khí đạn dược chi viện cho chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

    Auto Draft

    Ngày nay, tận dụng cảnh quan và vị trí địa lý thuận lợi của vịnh, nhiều loại hình du lịch đã được phát triển như tắm biển, thưởng thức hải sản ở nhà bè, khám phá vịnh bằng ca nô, lặn ngắm san hô…

    Auto Draft

    Ngoài tiềm năng du lịch, vịnh Vũng Rô là một trong ba địa điểm có điều kiện tự nhiên tốt nhất tại Việt Nam để xây dựng cảng biển lớn, bên cạnh vịnh Cam Ranh và vịnh Vân Phong của tỉnh Khánh Hòa.

    Auto Draft

    Nhằm khai thác lợi thế này, cảng Vũng Rô và khu kinh tế Nam Phú Yên đã được thành lập.

    Auto Draft

    Một số hình ảnh khác về vịnh Vũng Rô.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Theo KIẾN THỨC

  • Phục chế ảnh màu tuyệt đẹp về xứ Nam Kỳ năm 1946

    Dinh xã Tây ở Sài Gòn, Chùa Khmer Trà Vinh, tháp Hồi giáo Châu Đốc… là những hình ảnh tô màu hiếm có về xứ Nam Kỳ năm 1946 của người Pháp.

    Auto Draft

    Kênh Hàng Bàng (rạch Bãi Sậy) ở Chợ Lớn.

    Auto Draft

    Dinh xã Tây ở Sài Gòn, nay là Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

    Auto Draft

    Trong Thảo Cầm Viên ở Sài Gòn năm 1946.

    Auto Draft

    Bên ngoài khu điện thờ ở lăng Ông Bà Chiểu (lăng Lê Văn Duyệt), Sài Gòn.

    Auto Draft

    Đường Catinat ở Sài Gòn, nay là đường Đồng Khởi.

    Auto Draft

    Cổng chợ Củ Chi.

    Auto Draft

    Thảo nguyên sông La Ngà, Đồng Nai.

    Auto Draft

    Tháp cổ Bình Thạnh của văn hóa Óc Eo ở Trảng Bàng, Tây Ninh.

    Auto Draft

    Chùa Ông Mẹt (chùa Bodhisálaràja) của người Khmer ở Trà Vinh.

    Auto Draft

    Tháp giáo đường Hồi giáo (minaret) của người Chăm ở Châu Đốc, An Giang.

    Auto Draft

    Hai phụ nữ người Chăm Nam Bộ.

    Auto Draft

    Chợ cá Sóc Trăng.

    Theo KIẾN THỨC

  • Vua Bảo Đại về nước sau 10 năm du học ở Pháp

    Vua Bảo Đại về nước sau 10 năm du học ở Pháp

    Sau 10 năm du học ở Pháp, ngày 16/8/1932, vua Bảo Đại xuống tàu về nước. Ngày 8/9/1932 tàu chở vua về đến Đà Nẵng…Auto Draft

    Auto Draft

    Bộ ảnh vua Bảo Đại về nước gồm 40 tấm, do tiệm ảnh Thanh Ba ở Huế thực hiện.

    Auto Draft

    Đám đông đang chờ tàu Alerte chở vua Bảo Đại cập bến Đà Nẵng, 8/9/1932. Tên gọi chính thức của thành phố khi đó là Tourane.

    Auto Draft

    Đám đông quan sát tàu Alerte tiến vào cảng Đà Nẵng.

    Auto Draft

    Tàu Alerte khi chuẩn bị cập bến.

    Auto Draft

    Các thủy thủ neo tàu vào cảng.

    Auto Draft

    Hoàng đế Bảo Đại xuống tàu trên cầu tàu được trang hoàng.

    Auto Draft

    Hoàng đế Bảo Đại đi qua cầu tàu cùng đoàn tùy tùng.

    Auto Draft

    Toàn cảnh cầu tàu nhìn từ xa.

    Auto Draft

    Vua Bảo Đại bước ra từ cầu tàu.

    Auto Draft

    Vua Bảo Đại bước ra từ cầu tàu.

    Auto Draft

    Từ cảng, vua sẽ đến Tòa thị chính Đà Nẵng.

    Auto Draft

    Quan chức Pháp ra đón vua Bảo Đại trước Tòa thị chính.

    Auto Draft

    Quan chức Pháp ra đón vua Bảo Đại trước Tòa thị chính.

    Auto Draft

    Từ phía trước Tòa thị chính Đà Nẵng, hoàng đế Bảo Đại lên đường đi Huế bằng đoàn tàu hỏa đặc biệt.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương đến Huế. Đội quân danh dự tập trung trước nhà ga Huế để đón vua.

    Auto Draft

    Khâm sứ Pháp đến nhà ga.

    Auto Draft

    Cuộc gặp của vua Bảo Đại với ông Toàn quyền.

    Auto Draft

    Cuộc gặp của vua Bảo Đại với ông Toàn quyền.

    Auto Draft

    Cuộc gặp của vua Bảo Đại với ông Toàn quyền.

    Auto Draft

    Toàn quyền tiễn vua Bảo Đại ra xe.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương rời ga.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương bước vào xe của mình.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương đã lên xe.

    Auto Draft

    Hoàng thành Huế (phía sau Ngọ Môn) thời điểm vua Bảo Đại trở về.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương viếng thăm vua Bảo Đại tại điện Cần Chánh ở Hoàng thành.

    Auto Draft

    Toàn quyền Đông Dương viếng thăm vua Bảo Đại tại điện Cần Chánh ở Hoàng thành.

    Auto Draft

    Nghi lễ Đại bái để đón mừng vua về tại điện Thái Hòa ở Hoàng thành.

    Auto Draft

    Binh lính Pháp chào Toàn quyền Đông Dương theo nghi thức nhà binh trước Ngọ Môn.

    Auto Draft

    Quan toàn quyền và binh lính Pháp thực hiện nghi thức chào cờ và hát quốc ca Pháp ở trước Ngọ Môn.

    Auto Draft

    Quan toàn quyền và binh lính Pháp thực hiện nghi thức chào cờ và hát quốc ca Pháp ở trước Ngọ Môn.

    Auto Draft

    Hoàng đế Bảo Đại bước ra từ Ngọ Môn để tham gia lễ trao tặng huân chương cho những người có công.

    Auto Draft

    Những người được ban thưởng đứng thành hàng diện kiến hoàng đế.

    Auto Draft

    Những người được ban thưởng đứng thành hàng diện kiến hoàng đế.

    Auto Draft

    Hoàng đế Bảo Đại trao huân chương cho người đại diện.

    Auto Draft

    Sĩ quan Pháp nhận huân chương từ cấp trên.

    Auto Draft

    Sĩ quan Pháp nhận huân chương từ cấp trên.

    Auto Draft

    Lính Pháp đứng trước Kỳ đài của Hoàng thành Huế để chuẩn bị cho buổi duyệt binh.

    Auto Draft

    Thủy quân lục chiến Pháp trong buổi duyệt binh.

    Auto Draft

    Bộ binh thuộc địa trong buổi duyệt binh.

    Auto Draft

    Xe tăng Pháp trong buổi duyệt binh.

    Auto Draft

    Lính xe tăng Pháp bên những chiếc xe tăng của mình.

    Theo KIẾN THỨC

  • Hình ảnh Annam năm 1911

    “Trung Kỳ (Annam) khá khác với Nam Kỳ, nơi mà hệ thống đường sá, đường sắt và đường sông hoàn chỉnh đã làm cho việc đi lại trở nên rất dễ dàng. Nam Kỳ vốn được chiếm đóng (bởi người Pháp) rất lâu trước Trung Kỳ. Tài nguyên thiên nhiên và các giá trị kinh tế của nó đã ngay lập tức khiến người Pháp đứng ra thiết lập và tổ chức một hệ thống giao thông nhanh và hiệu quả. […] Trung Kỳ không có những lợi thế đó. Biển dường như là con đường giao thông duy nhất thuận lợi để đi từ nơi này đến nơi khác. Tuy thế, mặc dù có một dải bờ biển dài với những bến cảng tương đối an toàn, lượng giao dịch lại rất ít. Vận tải nội địa được thực hiện bằng những chiếc thuyền mà nếu dùng vào các hoạt động giải trí cho người Âu thì có lẽ thích hợp hơn, và chỉ trong điều kiện khi gió mùa thuận lợi. Trên mặt đất, có Đường Cái Quan (La Route Mandarin) dọc theo bờ biển từ bắc xuống phía nam; nhưng con đường này chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu đi lại.”

    Tạp chí Le Tour du Monde – trích cuốn sách “Ba Năm Của Tôi Ở Annam” – Tác giả: Gabrielle M. Vassal. 1911

    Một con đường ở Mũi Đại Lãnh (Le fameux Cap Varella), trên Đường Cái Quan (la Route Mandarine) sau thời gian dài khai phá và xây dựng. Nơi đây đã từng là biên giới thiên nhiên tưởng như không thể vượt qua.
    Một con đường ở Mũi Đại Lãnh (Le fameux Cap Varella), trên Đường Cái Quan (la Route Mandarine) sau thời gian dài khai phá và xây dựng. Nơi đây đã từng là biên giới thiên nhiên tưởng như không thể vượt qua.
    Hải Vân Quan (La porte d’Annam) trên Đường Cái Quan (la Route Mandarine), với độ cao 900 bậc, phía nam Hà Tĩnh, cách Huế 200km ; một tầm nhìn tuyệt vời !
    Hải Vân Quan (La porte d’Annam) trên Đường Cái Quan (la Route Mandarine), với độ cao 900 bậc, phía nam Hà Tĩnh, cách Huế 200km ; một tầm nhìn tuyệt vời !

    Auto Draft

    Auto DraftChùa Cầu (còn gọn là Cầu Nhật Bản) ở Hội An (Fai-Fo) năm 1911 và ngày nay.

    Auto Draft

    Auto DraftĐường phố Hội An năm 1911 và Chùa Cầu (ngày nay)

    Vịnh Nha Trang
    Vịnh Nha Trang

    Auto DraftVịnh Đà Nẵng (Tourane)

    Auto DraftĐường cái quan xuyên qua một rừng cọ

    Auto DraftMột khúc sông ở Huế

    Đập Bái Thượng ở Thanh Hoá (do người Pháp xây năm 1918 và là hệ thống thủy nông đầu tiên được xây dựng ở Trung Kỳ).
    Đập Bái Thượng ở Thanh Hoá (do người Pháp xây năm 1918 và là hệ thống thủy nông đầu tiên được xây dựng ở Trung Kỳ).

    Auto DraftBệnh viện ở Quãng Ngãi

    Auto DraftNhà máy vôi và xi-măng ở LongTho, gần thành phố Huế

    Auto DraftMột con đường ở Bình Giã (Bà Rịa – Vũng Tàu)

    Auto DraftMột bữa cơm nhà giàu.

    Auto DraftMột ông quan và các “đồ nghề” (điếu tráp, quạt…)

    Auto DraftBờ biển Đà Nẵng (Tourane)

    Auto Draft“Người Annam thích nước; giặt giũ là một trong những hoạt động thường xuyên của họ”

    Auto DraftThuyền binh.

    Auto DraftMột vở diễn

    Auto DraftGuồng quay đưa nước lên ruộng

    Auto DraftMột nghệ nhân đàn tam thập lục

    Auto DraftSản xuất đường

    Auto DraftMột người nông dân

    Auto DraftBức ảnh toàn cảnh về sinh hoạt bên trong một nhà giàu với nhiều hoạt động của nhiều thế hệ.

    Auto DraftThuyền tam bản

    Auto DraftSản xuất đường : Rót mật vào khuôn

    Auto DraftChợ quê

    Đôi lời về tác giả: “Tôi” trong bài này là bà Gabrielle M. Vassal – một phụ nữ người Anh lấy chồng là sỹ quan quân y người Pháp J.J. Vassal. Khi ông được bổ nhiệm làm việc ở Viện Pasteur Nha Trang, bà đã theo ông và có thời gian 3 năm ở đây. Trong khi ông bận rộn với công vụ và việc nghiên cứu những chứng bệnh nhiệt đới sau này sẽ làm ông nổi tiếng, bà đã thu vén công việc và để bớt nỗi nhớ nhà, đã bỏ công nghiên cứu cuộc sống xung quanh mình, thích thú tìm hiểu cảnh vật và con người. Bà quan sát cảnh quan, phong tục người An Nam với cặp mắt tinh tường rồi thuật lại một cách rõ ràng sinh động. Không chỉ quan sát, bà còn lặn lội đến tận nơi những dân tộc thiểu số sinh sống mà từ trước đến giờ ít ai biết rõ. Bà Vassal là tác giả của một vài cuốn sách được xuất bản ở châu Âu kể lại về cuộc sống, đất nước, con người của những nơi bà đã đến (In and Round Yunnan FouOn and Off Duty in AnnamMes Trois Ans d’Annam). Cuốn Mes Trois Ans d’Annam đã được dịch ra tiếng Việt với nhan đề Ba Năm Ở An Nam Hay Nha Trang 100 Năm Trước

    Auto DraftChân dung bà Gabrielle M. Vassal (1880 – 1959)

    Nguồn: http://belleindochine.free.fr

  • Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa – Việt Nam

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa – Việt Nam

    Mặc dù bản đồ này không phải là không sai sót, nhưng tôi nghĩ rằng nó là, và có thể… tốt nhất và chi tiết nhất mà trước nay chưa hề xuất hiện

    – Giám mục Jean-Louis Taberd, Đại diện Tông Tòa Đàng Trong

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Một bản đồ hiếm hoi về Việt Nam vào thế kỷ XIX, ít được chú ý ở phương Tây, đang nhận được sự quan tâm đặc biệt ở Việt Nam. Bản đồ này xuất bản năm 1838, là một trong những tư liệu được trích dẫn để ủng hộ cho các tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, ý nghĩa của nó còn vượt xa hơn giá trị chứng lý trong cuộc đấu tranh hiện nay của Việt Nam đối với Trung Quốc về quần đảo Hoàng Sa. Nhìn rộng hơn, bản đồ này là một sự hợp nhất rất đáng chú ý giữa bản đồ hành chính truyền thống của Việt Nam và bản đồ phương Tây. Bản đồ này cũng cung cấp một bản chụp nhanh về Đông Dương trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khi triều nhà Nguyễn đang củng cố quyền lực cho một Việt Nam vừa mới thống nhất và trước khi thực dân Pháp xâm chiếm [Việt Nam] cũng trong thế kỷ này.

    Tấm bản đồ

    Tên của bản đồ là An Nam đại quốc họa đồ (Bản đồ của Đế quốc An Nam)[1] được in bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Hán mà học giới Việt Nam từng sử dụng, chữ Latin và chữ Quốc ngữ – một hệ thống Latin hóa [tiếng Việt] được phát triển bởi các nhà truyền giáo phương Tây và được sử dụng phổ biến ở Việt Nam ngày nay. Bản đồ này thể hiện quan điểm mở rộng bờ cõi của vương triều Nguyễn, bao gồm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, phần phía đông Campuchia, các tiểu quốc của Lào và một khu vực rộng lớn ở phía tây sông Mekong (nay là vùng đông bắc Thái Lan).

    Xuất bản tại Calcutta (Ấn Độ) bởi The Oriental Lith. Press, bản đồ có kích thước 84 x 45 cm với rất nhiều chi tiết, gồm nhiều địa danh được in bằng chữ Quốc ngữ của Việt Nam. Trong một mức độ nào đó, đây có lẽ là bản đồ [kiểu] châu Âu đầu tiên được xuất bản với nhiều dữ liệu địa lý tương đối chính xác về Việt Nam và các nước láng giềng (Hình 1).

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 1. An Nam đại quốc họa đồ [Bản đồ của Đế quốc An Nam], xuất bản như một phụ bản trong Dictionarium latino-anamiticum bởi Giám mục Jean-Louis Taberd, 1838. 84 x 45 cm. Nguồn: Sưu tập bản đồ của Thư viện Olin, Đại học Cornell) (G8005 1838 .T3)

    Đức Giám mục và cuộc đàn áp chống lại Công giáo tại Việt Nam

    Người được xem là “cha đẻ” của tấm bản đồ này là Giám mục Jean-Louis Taberd (1794 – 1840). Taberd sinh ra ở Saint-Étienne (Pháp), thụ phong Linh mục năm 1817 và ba năm sau đó thì đến Đàng Trong với tư cách là giáo sĩ thuộc Hội Thừa sai hải ngoại Paris [Société des Missions Étrangères de Paris (MEP)]. [2] Ông đến [Đàng Trong] vào thời kỳ khó khăn, ngay sau khi Gia Long (cầm quyền: 1802 – 1820), vị hoàng đế đầu tiên của triều Nguyễn thăng hà. Người kế vị là Minh Mạng (cầm quyền: 1820 – 1841) đã bắt đầu thời kỳ cai trị lâu dài của mình. Công giáo dưới triều Gia Long phát triển rất mạnh mẽ nhờ vai trò quan trọng của vị Đại diện Tông Tòa người Pháp là Pierre Pigneaux de Béhaine (Giám mục Bá Đa Lộc, 1741 – 1799) trong việc ủng hộ cuộc đấu tranh thống nhất Việt Nam của Gia Long. Tuy nhiên, Minh Mạng lại là người hẹp hòi, và vào giữa những năm 20 của thế kỷ XIX, Taberd bị cáo buộc đã sách nhiễu các giáo sĩ và các giáo dân ở địa phương.[3] Mặc cho hoàn cảnh hiềm khích ngày càng gia tăng, Taberd vẫn phục vụ tại nhiều địa phương khác nhau ở Đàng Trong, trước khi Minh Mạng triệu ông ra Huế vào năm 1827 để làm việc như một người phiên dịch, với một chủ ý rõ ràng nhằm ngăn cản hoạt động truyền giáo. Cũng trong năm này, những nỗ lực truyền giáo trước đó của Taberd đã được ghi nhận khi ông được bổ nhiệm làm Giám mục Isauropolis và là Đại diện Tông Tòa Đàng Trong (bổ nhiệm năm 1830).

    Taberd có thể đã đào thoát khỏi triều đình Minh Mạng [ở Huế] vào năm 1828 nhờ sự can thiệp của Lê Văn Duyệt, Phó vương cai quản vùng đất phía nam của Đàng Trong, từng là Tổng trấn Gia Định thành / Sài Gòn. Taberd trải qua những năm tiếp theo ở đây dưới sự che chở của Lê Văn Duyệt. Nhưng ngay sau khi Lê Văn Duyệt qua đời vào năm 1832, thì nơi đây đã nổ ra cuộc nổi dậy chống lại Minh Mạng, và nhà vua nghi ngờ người Công giáo địa phương đã trợ giúp cho cuộc nổi dậy này. Năm 1833 trở thành một năm tồi tệ với tất cả những người theo Công giáo – không chỉ với riêng giáo dân vùng Gia Định / Sài Gòn – khi vua Minh Mạng ban hành một sắc lệnh chống lại tất cả những người theo Công giáo trên toàn quốc. Vì vậy, Giám mục đã khôn ngoan rời khỏi Đại Nam. Sau thời gian tạm trú ngắn ở Xiêm (Thái Lan) và Penang (thuộc Malaysia), Taberd đến sống ở Calcutta (Ấn Độ) – nơi ông được bổ nhiệm làm Đại diện lầm thời Tông Tòa Bengal (Ấn Độ) vào năm 1838. Khi ở Calcutta, Taberd đã xuất bản hai bộ từ điển quan trọng [Nam Việt dương hiệp tự vị Tự vị Latinh Annam]Ông cũng đã tu chỉnh bộ Từ điển Việt – Latin [Dictionarium Latino Anamiticum (Tự vị Latinh Annam)] do Giám mục Pigneau de Béhaine khởi xướng trước đó, và biên soạn cuốn từ điển đầu tiên của chính mình, xuất bản tại Calcutta vào năm 1838. Tấm bản đồ của ông, An Nam đại quốc họa đồ, đã được đính kèm ở phần sau của quyển từ điển này. Cũng trong thời gian trên, có hai bài báo [của Taberd] được đăng tải trên tạp chí của Hội châu Á ở Bengal, mà Taberd đã khảo về địa lý xứ Đàng Trong và tấm bản đồ của ông.[4] Taberd qua đời ở Calcutta vào năm 1840, ngay sau sinh nhật lần thứ 46 của mình.

    Quần đảo Hoàng Sa

    Các cuộc xung đột về chủ quyền lãnh thổ hiện nay trên Biển Đông đã mang lại một danh tiếng mới cho bản đồ của Giám mục [Taberd], mà lúc này được coi là bằng chứng củng cố yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, đã bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974.[5] Rìa phía đông của tấm bản đồ này đã miêu tả Paracel seu Cát Vàng [Paracel còn gọi là Cát Vàng] nằm phía trên vĩ tuyến 16 (Hình 2). (Cát Vàng hay Golden Sands là một trong những cái tên sớm nhất mà người Việt đặt cho quần đảo Paracel, nay thường gọi là [quần đảo] Hoàng Sa). Bổ sung cho việc gộp những hòn đảo vào bản đồ của mình, Taberd đã viết rằng Gia Long tuyên bố các đảo này thuộc về Việt Nam từ năm 1816. Trớ trêu thay, theo nhìn nhận đương thời về những hòn đảo này, Taberd cho rằng quần đảo Hoàng Sa ít có giá trị và rằng không quốc gia nào muốn tranh chấp chủ quyền với Việt Nam:

    Pracel hay Paracels [quần đảo Hoàng Sa] là một mê cung đầy những đảo nhỏ, đá và bãi cát trải trên một khu vực đến 11 độ vĩ Bắc [không chính xác – Meinheit], 107 độ kinh Đông … Tuy quần đảo này không có gì ngoài đá tảng và những cồn lớn, nó hứa hẹn nhiều bất tiện hơn là thuận lợi, vua Gia Long vẫn nghĩ rằng ông sẽ mở rộng thêm lãnh thổ bằng cách chiếm thêm vùng đất đầy buồn chán này. Năm 1816, ông đã long trọng đến cắm cờ và chính thức chiếm hữu những hòn đảo này, mà dường như không một ai sẽ tranh giành với ông”.[6]

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 2. [chi tiết] Paracel seu Cát Vàng [Paracel hoặc Cát Vàng]. Quần đảo Hoàng Sa được hiển thị ở phía bên phải, phía trên vĩ tuyến 16. Taberd đã viết rằng Việt Nam đã sở hữu các hòn đảo trong một cuộc thám hiểm năm 1816, nhưng ông coi chúng là một sự mở rộng lãnh thổ buồn chán của Việt Nam mà không quốc gia nào khác muốn tranh chấp.

    Trên thực tế, Gia Long không đích thân đến mà cử một đội thám hiểm ra quần đảo Hoàng Sa vào năm 1816. Dường như các thông tin về quần đảo Hoàng Sa mà Taberd có được, có khả năng là từ cuốn hồi ký của Jean-Baptiste Chaigneau (1769 – 1832), một cựu sĩ quan hải quân người Pháp, phục vụ như là một công thần dưới triều Gia Long.[7]

    Việc mở rộng bờ cõi của đế chế An Nam

    Mặc dù sự miêu tả về quần đảo Hoàng Sa của Taberd trong tấm bản đồ của ông đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm ở Việt Nam hiện nay, nhưng các yếu tố khác của bản đồ này, mà trước đó ít nhận được sự chú ý, cũng càng trở nên đặc biệt quan trọng. Điều trước tiên, là tấm bản đồ này đã cung cấp một bức tranh tổng thể về mối quan hệ của triều Nguyễn ở Việt Nam với các nước láng giềng trong những năm đầu thế kỷ XIX. Sau khi chứng tỏ sức mạnh, Gia Long đã nhanh chóng khẳng định vai trò trung tâm của Việt Nam ở Đông Nam Á lúc bấy giờ, bằng cách sử dụng mô hình triều cống của Trung Hoa. Điều này đã khiến cho Việt Nam và nước Xiêm đang bành trướng bị đặt vào sự xung đột đối với các nước yếu như Campuchia và các tiểu quốc của Lào. Bản đồ của Taberd cho thấy “Đế chế Việt Nam” (An Nam quốc seu Imperium Anamiticum) đã mở rộng vượt ra ngoài biên giới của Việt Nam, bao gồm một nửa Campuchia, các tiểu quốc của Lào và một phần lãnh thổ đáng kể ở phía tây sông Mekong, mà ngày nay là vùng đông bắc Thái Lan (cao nguyên Korat).

    Campuchia: Campuchia từ lâu đã mất vùng lãnh thổ ở đồng bằng sông Mekong cho người Việt, nhưng trong những năm đầu thế kỷ XIX, sự cạnh tranh khốc liệt giữa Xiêm và Việt Nam [vẫn] đang diễn ra, khi cả hai quốc gia này đều hậu thuẫn các phe phái ở Campuchia trong việc kế vị. Ngoài việc điều khiển gián tiếp, Việt Nam thực sự đã tìm cách thôn tính Campuchia, hình thành bộ máy hành chính được tổ chức chặt chẽ, do quan lại và tướng lĩnh Việt Nam điều khiển, để thay thế cho hệ thống quyền lực kém hiệu quả hơn ở Campuchia và phần còn lại ở Đông Nam Á. Hệ thống hành chính của Việt Nam đã được thiết lập qua nhiều thời kỳ, với cấu trúc chưa hoàn thiện cho đến năm 1834, sau khi Taberd đã rời Việt Nam. Tuy nhiên, Taberd vẫn tìm hiểu về sự phát triển ở Đàng Trong và Campuchia. Từ Bengal, ông viết rằng vào năm 1835 hoặc đầu năm 1836, Đế chế An Nam tuyên bố Campuchia – Nam Vang – đặt dưới sự bảo hộ của Đế chế và ông cho rằng “[đế chế An Nam] đã biến đổi đất nước [Campuchia] thành các tỉnh” trên bản đồ của mình[8] (Hình 3).

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 3. [chi tiết] Campuchia dưới sự cai trị của Việt Nam. Bộ máy hành chính có tính tổ chức cao của Việt Nam (Trấn và Phủ) được thể hiện một phần. Địa danh trước đó của Khmer có tên tiếng Việt mới (Ví dụ. Phnom Penh gọi là Nam Vang thành). Các biên giới được đánh dấu cho thấy sự thống trị của Xiêm phía tây Campuchia. Trong những năm 1840, Việt Nam đã buộc phải từ bỏ tham vọng thôn tính Campuchia.

    Như mô tả trên bản đồ của Taberd, một đường ranh giới phân chia giữa Campuchia và Xiêm ở phía tây (Băt Tâm bâng, tức tỉnh Battambang) và ở phía đông, là “vương quốc Campuchia cổ đại” (Antiquum Regnum Cambodiӕ) đã bị chia thành các đơn vị hành chính Việt Nam. Hai đơn vị lãnh thổ ở khu vực phía đông được ghi là bảo hộ hoặc trấn (Nam Vang Trấn và Gò Sặt Trấn), và nhiều tỉnh hoặc phủ được xác định (chẳng hạn: Vịnh Thâm PhủPhố Phủ). Một số địa danh được gọi bằng tiếng Khmer và bằng tiếng Việt, như cảng Kompong Som (Com Pong Som hay Vũng Tôm). Cố đô (Udong) cũng được đánh dấu (Vịnh Lung – Locus antiquӕ Regiӕ) và kinh đô mới thiết lập dưới sự bảo hộ của người Việt (Phnom Penh) được ghi tên là Nam Vang thành. Mãi đến những năm 1840, vì những cuộc nổi dậy ở nhiều nơi, khiến Việt Nam phải rút lui, từ bỏ các công trình quân sự / chính trị hành chính mà họ đã thiết lập [ở Campuchia].

    Lào / vùng trũng sông Mekong: Vương quốc Lào được xác định trên bản đồ [của Taberd] nằm trong biên giới rộng lớn của Đế chế An Nam, nhưng khác hẳn với Campuchia, Lào duy trì tình trạng của họ là những “vương quốc” tách biệt (Regio Laocensis), kiểu như là thuộc quốc[9] (Hình 4). Tình trạng của Luang Prabang (Mường Luong Pha Ban) và vương quốc Vientiane (Vạn Tượng Quốc) được thể hiện rõ trên bản đồ.[10]

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 4. [chi tiết] Các khu vực Lào và vùng trũng sông Mekong. Các tiểu quốc thuộc Lào được mô tả như là một phần của Đế chế vĩ đại Việt Nam (An Nam) (Imperium Anamiticum) nhưng vẫn giữ được tính toàn vẹn của họ như là nước chư hầu (Regio Laocensis). Ba tiểu quốc chính thuộc Lào chính trong những năm đầu thế kỷ XIX là Luang Prabang (Mường Long Pha Ban), Vientiane (Vạn Tượng Quốc) và Champassak hoặc Bassac (Thành Lào ba thác) – được xác định rõ. Đế chế An Nam được thể hiện mở rộng đến vùng đất nay là đông bắc Thái Lan.

    Trong miêu tả về Lào, sông Mekong và phần lớn của vùng đông bắc Xiêm của bản đồ, có thể Taberd đã vẽ dựa vào những thông tin thu thập mới nhất về Việt Nam trong cuộc khủng hoảng chính sách đối ngoại quan trọng mà Việt Nam phải đối mặt trong những năm cuối thập niên 1820. Taberd đã tham dự như là một người phiên dịch tại triều đình Huế trong cuộc xung đột vào những năm 1827 – 1828, bị châm ngòi khi Chao Anu, người cai trị ở vương quốc Vientiane [Viên Chăn], đã phát động một cuộc tấn công chống lại người Xiêm. Những cuộc chinh phạt sau đó của Xiêm trên đất Lào khiến Chao Anu phải cầu viện Minh Mạng, mở đường cho người Việt tham chiến. Các họa đồ của Việt Nam thời ấy, mà bản đồ của Taberd đã trích dẫn như là một trong những nguồn tư liệu của ông, rất có thể là một phần trong phản ứng của Việt Nam với cuộc khủng hoảng. Sự ảnh hưởng của bản đồ Việt Nam có thể được nhìn thấy trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ, bản đồ của Taberd chính xác hơn các bản đồ trước đó trong việc mô tả kích thước thực tế của Lào. Bản đồ phương Tây trước đây đã cho thấy Lào như là một vùng lãnh thổ khá hẹp, nhưng bản đồ Taberd đã cho thấy nó lớn hơn nhiều.[11] Ngoài ra, một số địa điểm quân sự quan trọng cũng được xác định trên bản đồ. Chúng bao gồm hai địa điểm chiến lược ở Nghệ An Trấn – những đồn ải ở Qui Hợp, có vai trò như là một tiền đồn cho hoạt động quân sự và tình báo của Việt Nam trong cuộc nổi dậy của Chao Anu, còn huyện biên giới Kỳ Sơn thì được tăng cường phòng thủ để chống lại sự xâm nhập của Xiêm[12]  (Hình 5).

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 5. [chi tiết] Qui Hợp. Các đồn biên phòng của Việt Nam tại Qui Hợp là căn cứ quân sự và tình báo quan trọng trong cuộc nổi dậy Chao Anu (1827 – 1828) tại Lào. Nó cũng kiểm soát con đường buôn bán lâu dài giữa các vùng trũng sông Mekong, thành phố Vinh, và cảng Hội Thống ở Biển Đông.

    Sự hiện hữu của những “họa đồ” Việt Nam ở vùng trũng sông Mekong cũng đóng góp cho một sự thể hiện chính xác hơn về các dòng sông lớn trên bản đồ của Giám mục. Taberd tự hào với các miêu tả của ông về sông Mekong như là một yếu tố quan trọng để phân biệt bản đồ của ông với các bản đồ trước đó về Đông Dương. Ông ghi chú rằng, [các] bản đồ của châu Âu trước đó thể hiện sông Mekong ít nhiều như một đường thẳng cho đến khi nó chảy vào [địa phận] Đàng Trong. Tuy nhiên, Tabert đã miêu tả một bức chân dung thực tế hơn đối với các sông lớn, dựa trên “hai bản đồ mà tôi đã có được vẽ bởi các kỹ sư của đất nước [Việt Nam]… Họ thông hiểu, họ đến đó mỗi ngày và đã đo tất cả các khúc uốn lượn của dòng sông…”.[13] Ngoài ra, một số thị tứ ven sông Mekong vẫn có thể nhận biết, mặc dù cách viết hơi khác nhau. Đó là Mukdahan (Mục đà hản), That Phanom (Tháp ba canon), Bassac (Thành Lào ba thác) và Nakhon Phanom (ghi theo tên cũ là Lạc Khon hoặc Lakhon). [14]  Mặc dù Taberd vẽ sông Mekong có phần chính xác hơn, nhưng phải cần thêm nhiều thập kỷ nữa trước khi dòng sông được điều tra một cách chính xác bởi các cuộc thám hiểm sông Mekong của người Pháp trong những năm 1866 – 1868.

    Lãnh thổ Lào trên bản đồ, hiển thị như một phần của Đế chế An Nam, kéo dài đến cao nguyên Khorat [Kò rạt] ở hữu ngạn sông Mekong. Trong lịch sử, khu vực này đã được đặt dưới sự thống trị của vương quốc Lan Sang của nước Lào cổ. Do sự sụp đổ của Lan Sang, khu vực này cùng với dân cư Lào cổ, đã trở thành một vùng đệm giữa Xiêm và ba vương quốc kế tục của Lào là Luang Prabang, Vientiane và Champassak. Từ cuối thế kỷ XVIII trở đi, thế lực của Xiêm ở phía đông bắc mở rộng đáng kể nhờ việc sáp nhập những khu tự trị nhỏ vào sự quản lý của Bangkok. Chịu ảnh hưởng bởi cuộc tranh giành giữa Việt Nam và Xiêm vào cuối những năm 1820, bản đồ của Taberd phản ánh quan điểm của ông dựa trên nguồn [sử liệu] từ Việt Nam (và có thể từ Lào), và chỉ cho thấy một phần nhỏ [ảnh hưởng] của chính quyền Xiêm ở khu vực này. Nghiên cứu sâu hơn là điều cần thiết để xác định phần lớn các địa danh ở trên cao nguyên Khorat. Tuy nhiên, khu vực được tăng cường công sự của vùng đất có tên là Lào Phiên pháo, có thể liên quan đến một căn cứ quân sự của Xiêm trong cuộc nổi dậy Chao Anu.[15] Ngoài ra, Cà Lạ Thiến thanh có lẽ là thị trấn Kalasin, một khu định cư quan trọng của Lào có lịch sử từ lâu đời.[16]

    Taberd nói về bản đồ học Việt Nam

    Trong tác phẩm của mình, Giám mục Taberd đưa ra một số ý kiến khá thú vị về bản đồ học Việt Nam.[17] Như thể hiện trong bản đồ của ông, Taberd đã sử dụng hiệu quả [thành tựu] bản đồ học truyền thống của Việt Nam và có ghi nhận sự đóng góp của các “kỹ sư và thợ của triều đình”. Tuy nhiên, ông cũng phàn nàn những hạn chế của họ, khi viết rằng người Việt chỉ dựa vào dây thừng và la bàn mà không đo đạc theo vĩ độ và kinh độ của các địa điểm:

    Khi bản vẽ bản đồ của mình, họ sử dụng những bản đồ do người châu Âu thực hiện, mà họ hoặc là giảm hoặc mở rộng quy mô; sau đó họ bổ sung thêm các địa điểm khác nhau mà những người châu Âu bỏ qua hoặc chưa biết đến”.

    Nhưng Taberd khẳng định những hạn chế của thợ vẽ bản đồ người Việt đều không phải là lỗi của họ, mà là do thái độ hẹp hòi của các hoàng đế Gia Long và Minh Mạng. Taberd so sánh những ngăn trở từ các vị vua này so với hoàng đế Khang Hi ở Trung Quốc – người đã bảo trợ cho các nhà truyền giáo thực hiện những bản đồ rất khoa học về các tỉnh thành của Trung Quốc trong phần tư đầu thế kỷ XVIII. Để chứng minh cho luận điểm của mình, Taberd dẫn một câu chuyện về chuyến thăm của một tàu khu trục Pháp, tàu Le Henri, vào năm 1818 hoặc năm 1819. Con tàu thả neo gần Huế, các thuyền viên trên tàu đã được vua Gia Long tiếp đón. Tuy nhiên, khi họ muốn điều chỉnh máy đo thời gian của họ và lên bờ để chuẩn bị một đường chân trời giả định, vua Gia Long đã nói với đình thần của ông: “Có vẻ thuyền viên của tàu khu trục đang thực hiện một bản đồ nước ta. Lệnh cho họ phải chấm dứt hoạt động này”. Thái độ của Minh Mạng đối với người châu Âu thậm chí còn hẹp hòi hơn so với Gia Long, Taberd than thở: “… làm sao chúng tôi còn có thể thích nghi tốt hơn với nội tình của nước này nếu như mọi thứ vẫn trong tình trạng này”.

    Mặc dù có những khó khăn, Taberd tin tưởng nỗ lực của ông trong việc kết hợp bản đồ Việt Nam và phương Tây sẽ cho ra đời “[tấm bản đồ] tốt nhất và chi tiết nhất từ trước đến nay”. Đề cập đến các nguồn tài liệu của mình, Taberd dẫn nguồn là một bản đồ cổ và một bản đồ hiện đại được vẽ bởi “kỹ sư của triều đình”, cũng như kiến thức của ông về Đàng Trong. Đối với vùng bờ biển, ông sử dụng các biểu đồ của Jean-Marie Dayot, một sĩ quan hải quân Pháp đã cùng Giám mục Pigneaux de Béhaine hỗ trợ cho cuộc chinh chiến nhằm thống nhất Việt Nam của nhà Nguyễn.[18] Giữa những năm 1790 và 1795, Dayot đã thực hiện những cuộc khảo sát chính xác nhất về bờ biển của Đàng Trong cho đến thời điểm này. Chúng đã trở thành dữ liệu cho nhiều nhà vẽ bản đồ người Pháp và người Anh khác vào thế kỷ thứ XIX.[19]

    Bản đồ hành chính

    Bình luận của Taberd về những thợ vẽ bản đồ người Việt Nam chỉ dựa vào dây thừng và la bàn, tưởng như có vẻ chỉ ra những hạn chế của họ, nhưng thực sự lại thừa nhận đó là một trong những điểm mạnh của họ. Việt Nam học hỏi mô hình hành chính Trung Hoa, khoảng từ thế kỷ XV, nên cần những tấm bản đồ cho quản lý nhà nước. Dây thừng và la bàn là kỹ thuật quan trọng của những người vẽ bản đồ Việt Nam, đặc biệt là trong các cuộc điều tra địa chính làng xã và việc xác định ranh giới các tỉnh. Chính quyền mới vào năm 1802 tiếp tục và mở rộng bản đồ truyền thống bao trùm toàn bộ lãnh thổ mới của mình, trải dài từ biên giới Trung Quốc đến bán đảo Cà Mau ở phương nam xa xôi. Gia Long chia đất nước thành 23 trấn và 4 doanh. Các cấp thấp hơn của chính quyền bao gồm các phủ, huyện, châu (huyện miền núi), tổngxã. Năm 1831, Minh Mạng cải cách bộ máy hành chính, chuyển đổi các trấndoanh dưới triều Gia Long thành các tỉnh.[20]

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 6. [chi tiết] Chi tiết hành chính và dân tộc thiểu số. Hoàng đế nhà Nguyễn đầu tiên, Gia Long, chia đất nước mới thống nhất thành Trấn. Hai trấn được hiển thị ở đây là Bình Hòa (hoặc Nha Trang) và Bình Thuận. Thủ đô (dinh hoặc thành) được xác định như là các bưu trạm hoặc dịch trạm dọc theo tuyến đường chính Bắc – Nam. Đảo và các thực thể ven biển được ghi nhận, trong đó có vịnh Cam Ranh nổi tiếng. Một ký hiệu nhắc nhở người xem rằng lãnh thổ này đã từng là một phần của vương quốc Champa (Olim Ciampa), và một biểu tượng tháp Chàm ở phía nam của vịnh Cam Ranh. Một số nhóm dân tộc thiểu số Tây Nguyên (Mọi bồ nông, Mọi bồ vun, và Mọi Vị) ở về phía tây của dãy núi An Nam.

    Bản đồ của Taberd sử dụng định danh hành chính của triều Gia Long trước đó, phân chia đất nước thành [các] trấn[21] (Hình 6). Một số đơn vị hành chính cấp thấp hơn cũng được định danh [trên bản đồ] được mô tả, và các thực thể như: cảng, bến cảng, lỵ sở hành chính hoặc các dịch trạm dọc theo tuyến đường chính Bắc – Nam cũng được thể hiện (Hình 7). Một yếu tố mà Taberd mượn từ bản đồ Việt Nam là việc ghi tên nhiều con sông và cửa biển dọc theo bờ biển dài của Việt Nam.[22] Các tuyến đường giao thông hoặc thương mại cũng được thể hiện từ Việt Nam đi qua Campuchia và Lào. Ví dụ, các quan ải chiến lược tại Qui Hợp như đã đề cập ở trên, được thể hiện trên các tuyến đường thương mại lịch sử nối thung lũng sông Mekong với Vinh và cảng Hội Thống nhộn nhịp trên Biển Đông[23]  (Hình 5). [Bản đồ] cũng mô tả những con đường xuyên qua núi như đèo Cù Mông và đèo Cả nối liền vùng bờ biển với Tây Nguyên.

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 7. [chi tiết] Chú dẫn. Chú dẫn cung cấp sự tiện ích cho bản đồ, liệt kê các ký hiệu sử dụng và cách dịch các thuật ngữ tiếng Việt sang tiếng Latin, tiếng Pháp và tiếng Anh.

    Sự quan tâm của Taberd đến lịch sử của Việt Nam được thể hiện rõ ràng trên bản đồ của ông. Điều này xuất hiện trong những chỉ dẫn về thời kỳ dài phân cách do cuộc nội chiến giữa các chúa Nguyễn ở phương Nam với các chúa Trịnh ở phương Bắc, mà cả hai đều tự xưng là đại diện cho vua Lê bù nhìn. Bức tường chia cách chúa Nguyễn Đàng Trong và chúa Trịnh Đàng Ngoài [Lũy Thầy] được hiển thị nổi bật (Lũi Sầy seu Murus magnus separans olim utrumque regnum). [Hình 8] Ngoài ra, việc phân chia mang tính lịch sử được phản ánh trong việc ghi tên chúa Nguyễn Đàng Trong là Annam Đàng Trong (Inner Annam) và Bắc Hà là Đàng Ngoài (Outer Annam). Nơi phát sinh cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nắm quyền kiểm soát Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XVIII cũng được ghi nhận (Tây Sơn thượng) ở phía tây của Bình Định Trấn. Xa hơn về phía bắc, Cao Bằng Trấn được ghi nhận là các lãnh địa của tiền triều (olim Regnum). (Những tàn dư của cuộc nổi dậy của họ Mạc xuất phát từ Cao Bằng cho đến khi bị triều Lê – Trịnh đánh bại vào giữa thế kỷ XVII).

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 8. [Chi tiết] Lũi Sầy seu Murus magnus separans Olim utrumque Regnum (Lũi Sầy [Lũy Thầy] hoặc các trường thành lớn ngăn cách các vương quốc cũ). Những “bức tường” được xây dựng vào thế kỷ XVII để bảo vệ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong khỏi các cuộc tấn công định kỳ của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Nó xuất hiện trên nhiều bản đồ đầu châu Âu và chạy từ biển lên núi, ngay phía bắc của khu phi quân sự ngăn cách Bắc và Nam Việt Nam 1954 – 1975.

    Dân tộc thiểu số

    Có một yếu tố quan trọng khác trên tấm bản đồ của Taberd làm nó trở nên khác biệt so với bản đồ Việt Nam truyền thống. Bản đồ Việt Nam thế kỷ XIX thường thể hiện vùng cao nguyên, vùng có dân tộc thiểu số (thường được gọi là châu) nhưng nhìn chung đều không xác định được các nhóm dân tộc thiểu số theo tên gọi. Chỉ có ngoại lệ duy nhất là Đá Vách (người Hrê) tại tỉnh Quảng Ngãi, nơi mà những bản đồ Việt Nam vào thế kỷ XIX thể hiển một bức tường, do Tướng quân Lê Văn Duyệt cho xây dựng vào năm 1819 để bảo vệ những thôn làng của người Việt khỏi các cuộc tấn công của người thiểu số vùng cao.[24]

    Bản đồ của Taberd thể hiện một bước tiến trong các nỗ lực của phương Tây để thiết lập bản đồ các dân tộc cao nguyên ở Việt Nam bằng cách sử dụng các tên cụ thể (Hình 6). Những bản đồ phương Tây trước đó, bắt đầu là những bản đồ của Alexandre de Rhodes, vẽ vào năm 1650 và năm 1653, chỉ đơn giản gọi người dân vùng cao là Kemoy hoặc Rumoi (Mọi là từ tiếng Việt để chỉ “người man rợ”).[25] Nhưng trong thế kỷ XIX, cụm từ này xuất hiện trên nhiều bản đồ phương Tây, chẳng hạn như Bản đồ những vương quốc Xiêm La và Đàng Trong của John Crawfurd vào năm 1828 – một bản đồ được xuất bản bởi Cha Charles-Émile Bouillevaux vào năm 1851, có thể là bản đồ đầu tiên của Pháp hiển thị các tên chuẩn của các bộ tộc ở cao nguyên [của Việt Nam].[26] Tuy nhiên, bản đồ của Taberd là một tiền thân cho bản đồ của Bouillevaux về một nỗ lực xác định các nhóm [thiểu số] vùng cao dựa theo tên gọi, mặc dù những cái tên dường như không khớp với cái tên hiện nay của các nhóm dân tộc thiểu số vùng cao đó.[27]

    Thêm một tấm bản đồ quý giá về chủ quyền Hoàng Sa - Việt Nam

    Hình 9. [chi tiết] Nước Stiêng. Chưa bao giờ là một quốc gia hay một vương quốc riêng biệt, Stiêng là một nhóm bộ lạc sinh sống tại khu vực biên giới Campuchia – Việt Nam ngày nay. Họ là mục tiêu của một nỗ lực truyền giáo không thành công trong những năm cuối thế kỷ XVIII. Bản đồ cho thấy các tuyến đường được thực hiện bởi các nhà truyền giáo đến từ thị tứ ven sông Mekong – “Che Long” (Chhlong hiện đại) – vào lãnh thổ Stiêng. Làng Saat, không được hiển thị, được cho là nơi định cư quan trọng nhất của người Stiêng. Xác định Thành Tĩnh xương vẫn còn là một bí ẩn. Nguồn: Thư viện Quốc hội Mỹ.

    Vương quốc bí ẩn của người Stiêng: Một nhóm dân tộc thiểu số được nổi lên bất thường trên bản đồ của Taberd được xác định như là một quốc gia riêng biệt hay một đất nước, Nước Stiêng (Hình 9). (Từ điển định nghĩa từ Nước trong tiếng Việt là một quốc gia, dân tộc, hoặc nhà nước; chú thích trên bản đồ của Taberd định nghĩa nó là một Royaume hay “vương quốc”). Vương quốc Stiêng hiện hữu trên bản đồ [của Taberd] tách khỏi bảy nhóm [người thiểu số] liền kề xâm lấn biên giới Đàng Trong. Ngày nay, Stiêng là một nhóm dân tộc thiểu số vùng cao nhỏ sống dọc biên giới hiện nay giữa Việt Nam và Campuchia. Họ chưa bao giờ được xem là một vương quốc thống nhất. Tuy nhiên, trong phần tư cuối thế kỷ XVIII, nhóm thiểu số này là đặc biệt quan trọng đối với các nhà truyền giáo Pháp, vì người Stiêng trở thành đối tượng cho nỗ lực đầu tiên nhằm truyền bá Kitô giáo cho các nhóm bộ tộc ở Tây Nguyên và vùng đông bắc Campuchia. Các giáo sĩ đã tường thuật đầy phấn khích trong các báo cáo của họ, khi tuyên bố rằng “đã khám phá ra một vương quốc mới có tên Stiêng” và tiếp tục đề cập đến lãnh thổ Stiêng như một vương quốc trong thư tịch của họ.[28] Tuy nhiên, chuyến viếng thăm ngắn ngủi của Cha Julien Faulet tới lãnh thổ Stiêng trong những năm 1775 – 1776, đã giảm thiểu những ý tưởng phóng đại về một vương quốc Stiêng thống nhất. Trong báo cáo của mình, Faulet gọi khu vực này là một vùng “man rợ của đất nước” chứ không phải là một vương quốc và ông nói rằng Stiêng không có vua.[29] Nếu không có đủ nhân sự để theo dõi, nỗ lực truyền giáo bị thất bại và bị chỉ trích mạnh mẽ bởi lãnh đạo của Hội Thừa sai ở Paris.[30] Mặc dù có một linh mục khác từ Sài Gòn đến khu vực này vào năm 1791, nhưng ông ấy đã không lưu lại nơi này, và dường như đã không có thêm cuộc tiếp xúc nào giữa người Stiêng với các nhà truyền giáo Pháp trong hơn nửa thế kỷ.

    Tại sao tấm bản đồ năm 1838 của Taberd, tiếp tục làm nổi bật người Stiêng và ghi nhận học như là một quốc gia hay một vương quốc riêng, vẫn còn là một bí ẩn! Tương tự, [địa danh] Thành hay Tĩnh xương trong lãnh địa Stiêng đã không còn xuất hiện trên các bản đồ sau này. Có lẽ, Taberd chỉ đơn giản là bày tỏ sự tôn trọng đối với họ bằng việc thừa nhận những gì đã từng là một dự án lớn của vị Đại diện Tông Tòa Pigneaux de Béhaine [thực hiện trước đây]. Cũng có thể là trong những năm đầu thế kỷ XIX, các nhà truyền giáo đã quan tâm đến việc làm mới những nỗ lực trước đó của họ với với người Stiêng.[31]

    Vì sự nhấn mạnh quá mức của Taberd đối với nhóm này, [nên] Stiêng thường được thể hiện trên các bản đồ bằng tiến Pháp vào cuối thế kỷ XIX, mặc dù đây không phải là một quốc gia riêng biệt hoặc một thực thể chính trị.

    Tấm bản đồ nhiều mục đích

    Bản đồ của Giám mục Taberd, trong khi không công khai tôn giáo, lại có một ứng dụng thực tế ngay lập tức cho các nhà truyền giáo ở Đông Dương và những sứ mệnh phục vụ nơi đó. Nhưng Taberd cũng có một mục đích trí tuệ lớn hơn trong tâm trí – phục vụ “lợi ích của khoa học” – bằng cách làm ra tấm bản đồ chính xác nhất về bán đảo Đông Dương.[32] Sự tiếp cận với một đối tượng rộng hơn và sự chú ý của các nhà làm bản đồ châu Âu sẽ dường như bị hạn chế vì cách xuất bản tấm bản đồ, [do việc bản đồ này được] chèn vào phần sau cuốn Từ điển Latin – Việt lớn của Taberd, vốn là nguồn [tài liệu] không dễ tiếp cận. Tuy nhiên, sự hỗ trợ cho Taberd từ Hội châu Á ở Bengal, đặc biệt là từ James Prinsep, thư ký của Hội, đã giúp cho bản đồ của Taberd được lan truyền đến cộng đồng học thuật rộng lớn hơn. Năm 1848, TS. Karl Gutzlaff, một nhà truyền giáo nổi tiếng người Đức (1803 – 1851), người đã phục vụ [giáo hội] ở Đông Nam Á và Trung Quốc, đã bị cuốn hút mạnh bởi công việc của Taberd, bằng một bài nghiên cứu đọc trước Hội Địa lý hoàng gia London (Anh). Gutzlaff đã mô tả bản đồ của Taberd là “tấm bản đồ cao cấp và chính xác nhất, [giúp] chúng tôi có toàn bộ dữ liệu về Đế chế An Nam…”.[33]

    Bản đồ của Taberd đã phục vụ cho một mục đích chính trị rộng lớn hơn trong diễn trình của thế kỷ XIX. Đó là một nguồn [dữ liệu] chính, tương đối chính xác về thông tin hành chính và địa lý ở bán đảo Đông Dương, khi mà áp lực với các thuộc địa của châu Âu ở Đông Nam Á gia tăng, trước khi các quan chức thực dân người Pháp bắt đầu nỗ lực lập bản đồ rộng lớn của họ trong thế kỷ XIX. Một phần tư thế kỷ sau khi được công bố, bản đồ Taberd có vị thế mới. Bản đồ đã được tái bản tại Paris vào năm 1862, cùng năm mà Pháp đã ký một hiệp ước với triều đình Huế [Hiệp ước Nhâm Tuất], mà sau đó là sự hiện diện của thực dân Pháp ở Sài Gòn và đồng bằng sông Mekong, và người Pháp đã chuyển mối quan tâm của họ về hướng Campuchia. Bản đồ của Taberd đã được tái bản theo chỉ thị của Prosper de Chasseloup-Laubat, Bộ trưởng Bộ Hàng hải và Thuộc địa Pháp, người ủng hộ mạnh mẽ nhất hoạt động thực dân ở Đông Dương trong nội các của Napoleon III.

    Và trong thế kỷ XXI hiện nay, bản đồ của Giám mục Taberd lại đảm nhiệm một vai trò chính trị trong bối cảnh có những tuyên bố chủ quyền đối lập ở Biển Đông.

    H.E.M.

    Lời cảm ơn

    Một lần nữa, tôi xin cảm ơn Boris Michev, Thư viện Bản đồ & Thông tin không gian địa lý tại Đại học Cornell (Hoa Kỳ), đã cung cấp một sự hỗ trợ vô giá với những tư liệu từ sưu tập bản đồ thuộc Thư viện Olin. Riêng Hình 9 là do Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ cung cấp.

    Dịch sang tiếng Việt: Ngô Hoàng Đại Long – Trần Thị Kim Nguyên

    Hiệu đính: Trần Đức Anh Sơn

    * Harold E. Meinhiet là cựu viên chức Bộ Ngoại giao Mỹ, từng làm việc tại các cơ quan ngoại giao của Mỹ ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Ông hiện là thư ký của Hội Bản đồ Washington (Mỹ).

    * Bản tiếng Anh của bài nghiên cứu này được in trên The Portolan, tạp chí của Hội Bản đồ Washington (Mỹ). Số 97, Mùa Đông 2016. Ban biên tập tạp chí Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng cám ơn tác giả Harold E. Meinheit và tạp chí The Portolan đã đồng ý chúng tôi dịch bài nghiên cứu này sang tiếng Việt để in trên số 88 (Tháng 4.2017) của tạp chí.

    ** Những chữ in nghiêng trong ngoặc đơn () là chú dẫn hoặc trích nguyên văn của tác giả Harold E. Meinheit. Những chữ trong ngoặc vuông [] là của người hiệu đính.

    Chú thích

    [1] An Nam là tên mà người châu Âu thường gọi Việt Nam. Tên này xuất xứ từ Trung Quốc hàm ý “phương Nam yên ổn”. Trong suốt thế kỷ XIX, những nhà cầm quyền Việt Nam đều gọi nước mình là Đại Nam (nước Nam vĩ đại).

    [2] Đàng Trong là một Hạt đại diện Tông Tòa thuộc thẩm quyền của Giáo phận Ma Cao, được dẫn dắt bởi một vị Đại diện Tông Tòa, thường là một Giám mục danh nghĩa, được bổ nhiệm danh nghĩa. Khi Taberd được bổ nhiệm làm Đại diện Tông Tòa vào năm 1828, ông cũng được phong Giám mục danh nghĩa của Isauropolis. Các hạt đại diện Tông Tòa Đàng Trong bao phủ một khu vực từ tỉnh Quảng Bình (khoảng 17o30 vĩ độ Bắc) ở miền Trung Việt Nam đến đồng bằng sông Mekong ở miền Nam. Nó cũng bao gồm một phần của Campuchia. Tiểu sử của Giám mục Taberd có thể tìm thấy trong văn khố MEP [Hội Thừa sai hải ngoại ở Paris], tại http://archives.mepasie.org/notices/notices-biographiques/taberd.

    [3] Jacob Ramsay, “Sự bóp nghẹt và chèn ép trong chiến dịch của nhà Nguyễn chống lại Công giáo vào những năm 1830 – 1840 ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Tập 35, Số 2, Tháng 6.2014 2004, tr. 315.

    [4] Jean-Louis Taberd, “Ghi chép về địa lý của Đàng Trong”, Tạp chí của Hội châu Á ở Bengal, Tập  VI, Phần II, Số 69, Tháng 9.1837, tr. 737-745. (http://hdl.handle.net/2027/chi.20428348?urlappend=%3Bseq=251) Bài viết thứ hai của Taberd là: Jean-Louis Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, Tạp chí của Hội châu Á ở Bengal, Tập VII, Số 76, Tháng 4.1838, tr. 317-324. (http://hdl.handle.net/2027/mdp.39015028150624).

    [5] Xem: Nguyễn Đình Đầu, Chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông và Hoàng Sa – Trường Sa, TP.HCM: Nxb Đại học Quốc gia, 2014, tr. 122-123 và tr. 125; Xem thêm: Trần Đức Anh Sơn (Chủ biên), Tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, TP.HCM: Nxb Văn hóa – Văn nghệ, 2014, tr. 433.

    [6] Taberd, “Ghi chép về địa lý Đàng Trong”, tr. 745. Taberd viết rằng các đảo “trải rộng lên đến 11 vĩ độ Bắc”. Tuy nhiên bản đồ của ông cho thấy những đảo này nằm ở khoảng vĩ tuyến 16. Hoặc là có một lỗi đánh máy trong bài của Taberd, hay là sự nhầm lẫn về vị trí của quần đảo Hoàng Sa với quần đảo Trường Sa vốn ở nằm xa hơn về phía Nam.

    [7] Tôi mượn nhận định này của TS. Trần Đức Anh Sơn, người đã chỉ dẫn tôi tới cuốn Le Memoire sur la Cochinchine (công bố năm 1820) của Chaigneau. Chaigneau đã viết: “C’est seulement en 1816, que l’Empereur actuel a pris possession de cet archipel” (Chỉ đến năm 1816, vị Hoàng đế hiện tại [tức vua Gia Long của Đại Nam] mới sở hữu quần đảo này. “Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille” (Jean-Baptiste Chaigneau và gia đình) của A. Salles, Bulletin des Amis du Vieux Hué (Tập san của Hội Đô thành hiếu cổ), Hà Nội, Tập 10, Số 1, 1923, tr. 257.

    [8] Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, tr. 318.

    [9] Taberd khẳng định rằng ông coi hầu hết các tiểu quốc nhỏ ở Lào như các thuộc quốc của “đế chế Đại Nam”. Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, tr. 322-323.

    [10] Một sự vắng mặt đáng chú ý là tiểu quốc Xieng Khouang (Xiêng Khoảng) của Lào (tiếng Việt: Trấn Ninh), được liệt kê như là một trong các chư hầu của Việt Nam vào năm 1805, nhưng hiện diện trong cuộc tranh giành quyền lực giữa Xiêm và Việt Nam trong cuộc nổi dậy của Chao Anu.

    [11] Mayoury Ngaosrivathana và Pheuiphanh Ngaosrivathana, “Ấn tượng ban đầu của người châu Âu về Lào”, in trong: Mayoury Ngaosrivathana và Kennon Breazeale (Chủ biên), Thuở hồng hoang trong lịch sử Lào: Những nhận định về khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX, Chiang Mai: Silkworm Books, 2002, tr. 141.

    [12] Những nguồn tư liệu Việt Nam liên quan đến cuộc xung đột năm 1827 giữa triều đình Xiêm La và các công quốc của Lào: tạp chí về các hành động triều đình của Việt Nam về các biến cố liên quan đến Vương quốc Vạn Tượng, Mayoury và Pheuiphanh Ngaosrivathana giới thiệu và chú giải, Tokyo: Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Đông Á của UNESCO, Toyo Bunko, 2001, Tập 1, tr. 112-113.

    [13] Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, tr. 319.

    [14] Hơi khó hiểu là vị trí của thành phố Vientiane (Bàn chăn hoặc Viên Chănk) nằm ở hữu ngạn sông Mekong, thuộc vùng hạ lưu của vương quốc Vientiane. Người Xiêm đã phá hủy hoàn toàn thành phố Vientiane (ngoại trừ một số tu viện Phật giáo) vào năm 1828 và chuyển nhiều cư dân [của thành phố này] đến sống trong lãnh thổ của Xiêm. Có lẽ vị trí của thành phố Vientiane trên bản đồ có ý thể hiện sự ép buộc giảm thiểu dân số của thành phố, với việc nhiều người Lào di chuyển đến các khu vực xung quanh thành phố Nong Khai hiện nay. Hoặc có lẽ nó chỉ đơn giản là một sai sót. Trong bản đồ của mình vào năm 1858, Edward Weller (FRGS), dường như đã bị ảnh hưởng bởi sự thể hiện của Taberd về sông Mekong nên cũng định vị Vientiane ở hữu ngạn [sông này]. Xem: Burmah, Siam, Anam & c. (1858?),  http://nla.gov.au/nla.obj-231866668.

    [15] Xem: Những nguồn tư liệu Việt Nam liên quan đến cuộc xung đột năm 1827, Tập. 1, tr. 73, chú thích 212. Các vị trí cũng được viết theo nhiều cách khác trong các nguồn tài liệu, ví dụ: Phan-phao, Phien-Bao,…

    [16] Charles F. Keyes, Isan: Chủ nghĩa khu vực ở đông bắc Thái Lan, Báo cáo tạm thời Dự án Cornell Thái Lan, Số 10, Chương trình Đông Nam Á, Thư tịch 65, Ithaca: Cornell University, 1967, trang 8.

    [17] Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, tr. 319-320.

    [18] Như trên, tr. 319.

    [19] Gilles Palsky, “La Cartographie française des Côtes cochinchinoises à la Fin du 18e Siècle: Jean-Marie Dayot et le Pilote de Cochinchine” (Bản đồ của Pháp về bờ biển Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVIII: Jean- Marie Dayot và tác phẩm Pilote de Cochinchine), Imago Mundi, Tập 41, Số 1, tháng Giêng, 1989, tr. 59-69.

    [20] Alexander Barton Woodside, Việt Nam và khuôn mẫu Trung Hoa: Một nghiên cứu so sánh về chính quyền dân sự giữa nhà Thanh và nhà Nguyễn trong nửa đầu của thế kỷ XIX, Cambridge: Harvard University Press, 1971, tr. 141-143.

    [21] Taberd vẫn còn ở Việt Nam khi vua Minh Mạng bắt đầu của cải cách hành chính của mình. Ông đã đề cập đến cuộc cải cách này trong tác phẩm Ghi chép về địa lý Đàng Trong của mình (tr. 744). Tuy nhiên, nhưng bản đồ được dùng trong sách này là của triều Gia Long. Trong tác phẩm Ghi chép về địa lý Đàng Trong của ông được xuất bản bằng tiếng Anh, Taberd đã dùng lối dịch khác nhau cho các đơn vị hành chính của Việt Nam. Chẳng hạn, ông dịch trấn là prefecture, thay vì pretectorate như bản dịch của Woodside và những người khác. (Prefecture thường được dùng để dịch chữ phủ trong tiếng Việt). Có một số khác biệt nhỏ khác giữa chú giải của Taberd và chính tấm bản đồ. Để rõ hơn, tôi đã tham khảo các bản dịch được dùng bởi Woodside và học giả Việt Nam hiện đại.

    [22] Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu đã liệt kê tất cả 57 cửa sông và nhiều yếu tố khác dọc theo đường bờ biển dài của Việt Nam trên bản đồ của Taberd. Nguyễn Đình Đầu, Sđd, tr. 123 và tr. 127.

    [23] Trần Văn Quý, “Thư tịch Quỳ Hợp: Quan hệ Việt – Lào phản ánh trong tài liệu về các đồn ải, từ 1619 đến 1880”, in trong: Mayoury Ngaosrivathana và Kennon Breazeale (Chủ biên), Sđd, tr. 239-259.

    [24] Harold E. Meinheit, “Một góc nhìn về cuộc chiến ở Việt Nam thế kỷ XIX”, The Portolan, Số 73, Mùa đông 2008, tr. 21. Taberd mô tả [Mọi] Đá Vách là “các giống dân man rợ khủng khiếp nhất chiếm toàn bộ dãy núi bao quanh vương quốc”. Taberd, “Ghi chép về địa lý Đàng Trong”, tr. 741.

    [25] Harold E. Meinheit, “Khám phá Việt Nam: Bản đồ của Alexandre de Rhodes”, The Portolan, Số 65, Mùa xuân 2006, tr. 28-41.

    [26] Henri Maitre, Les Jungles Moi (Rừng người Thượng), Paris: Emile LaRose, 1912, tr. 555.

    [27] Các nhóm là: Mọi đá rách, Mọi đá vách, Mọi đá hàn, Mọi bồ nông, Mọi bồ vun, Mọi Vị, và Mọi bà ria. Như đã chú thích, Đá Vách là một nhóm sắc tộc có thể nhận diện. Bồnông cũng có thể là [tộc người] Phnong hay Mnong.

    [28] Thư của Cha Jean Steiner, Procure, Giáo phận Macau, ngày 21.8.1774 (tiếng Pháp). Tường thuật về cái chết u buồn của Cha Juguet ở tuổi 30, Steiner viết: “Ce missionnaire, peu de temps avant sa mort, avait découvert un nouveau royaume, appélé Stiêng…” (Nhà truyền giáo này, ngay trước khi qua đời, đã khám phá ra một vương quốc mới gọi là Stiêng). Pigneaux de Béhaine cũng báo cáo về “vương quốc mới của Stiêng” (“Regnum novum vocatum Stiêng”) trong một lá thư ngày 05.01.1775. Cả hai bức thư này đều được in trong: Adrien Launay, Histoire de la mission de Cochinchine, 1658-1823: documents historiques (Lịch sử công vụ ở Đàng Trong, giai đoạn 1658-1823), Paris: Missions étrangères de Paris: savantes Indes, Tập 3 (1771 – 1823), 2000, tr. 60- 61.

    [29]  Thư của M. Faulet gửi M. Steine ngày 24.6.1776. In trong: Launay, Sđd, tr. 64.

    [30] Frédéric Mantienne, Pierre Pigneaux: eveque d’Adran et mandarin de Cochinchine (1741 – 1799) (Pierre Pigneaux: Giám mục d’Adran và quan chức Đàng Trong), Paris: Les Indes savantes, 2012, tr. 70-72.

    [31] Mối quan tâm truyền giáo được tiếp tục trong tộc người này thể hiện ở việc thành lập một phái bộ [truyền giáo] trong cộng đồng người Stiêng ở Brelam vào thập niên 1850. Tuy nhiên, phái bộ này đã bị hủy hoại trong cuộc nổi dậy Pu Kombo vào năm 1866.

    [32] Taberd, “Ghi chép bổ sung về địa lý Đàng Trong”, tr. 319, 320.

    [33] Tiến sĩ Karl Gutzlaff, “Địa lý của Đế quốc An Nam”, Tạp chí của Hiệp hội Địa lý Hoàng gia London, Tập 19 (1849), tr. 85-143.

    Nguồn: Trần Đức Anh Sơn’s blog

  • Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay

    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay

    Bộ ảnh được đăng trên báo Mỹ do một thanh niên Việt Nam chịu khó thực hiện. Qua các bức ảnh so sánh xưa-nay, ta thấy những sự biến đổi hết sức mạnh mẽ mà dòng thời gian gieo lên các công trình kiến trúc!

    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Nhiếp ảnh gia Khánh Hmoong đang sống và làm việc tại thành phố biển Nha Trang. Những tác phẩm của ông được Business Insider, có trụ sở tại New York, Mỹ đăng trong bài viết có tiêu đề Những bức ảnh thú vị về Việt Nam xưa và nay.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Bức ảnh chụp một con phố ở Nha Trang trong giai đoạn 1966 đến 1968 và khung cảnh thành phố ngày nay. Nha Trang là nơi tác giả bộ ảnh đang sống.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Bức ảnh tư liệu của Alfred Eisenstaedt chụp bãi biển thơ mộng của Nha Trang năm 1968 và hình ảnh về nó gần 5 thập niên sau đó.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Phố cổ Hội An giữa quá khứ và hiện tại.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Ảnh chụp thành cổ Quảng Trị năm 1968 và hiện trạng di sản ngày nay.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Cung đình Huế thập niên 20 của thế kỷ trước.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Lính gác nơi kinh đô triều Nguyễn những năm 1910.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Cổng Hiển Nhơn, Huế thập niên 20 của thế kỷ 20.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Nữ sinh đi học trên cầu Trường Tiền, Huế trong những năm 1960.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Một góc nhìn khác về cầu Trường Tiền giữa hiện tại và quá khứ.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Quân lính bên ngoài kinh thành Huế cuối thập niên 40 của thế kỷ 20.
    Góc ảnh so sánh Việt Nam xưa và nay
    Quân giải phóng tiến vào Huế năm 1968 và hình ảnh du khách tới tham quan ngày nay.
  • Loạt ảnh hiếm: Đám cưới bên “bờ” vĩ tuyến 17 năm 1969

    Loạt ảnh hiếm: Đám cưới bên “bờ” vĩ tuyến 17 năm 1969

    Trang web Vietvet.com của các cựu chiến binh Mỹ đã đăng tải một bài viết có tiêu đề Đám cưới truyền thống của những người theo Phật giáo Việt Nam (Traditional Vietnamese Buddhist Wedding) kèm theo loạt ảnh độc đáo về một đám cưới ở tỉnh Quảng Trị, phía Nam vĩ tuyến 17 vào năm 1969. Tác giả của bài viết là Jim Ritter, một sĩ quan thuỷ quân lục chiến Mỹ từng phục vụ tại Việt Nam vào các năm 1968 – 1969. Dưới đây là nội dung bài viết:

    Trong tháng 6/1969, tôi được chỉ định làm người tham dự đám cưới một trong những thông dịch viên của Tiểu đoàn. Theo đề xuất của cô dâu và chú rể, quà cưới sẽ là một thùng Coca.

    Đám cưới được tổ chức ở gia trang của cha mẹ cô dâu chú rể. Nơi này nằm ở phía Tây  của một căn cứ quân sự tại Quảng Trị. Buổi lễ bắt đầu đám rước của gia đình nhà chú rể đến nhà cô dâu. Tại đây, họ sẽ làm lễ trước bàn thờ gia tiên. Sau đó là đám rước của gia đình cô dâu đến nhà của chú rể.

    Tôi đến nhà chú rể trước khi gia đình của cô dâu đến. Trong những bức ảnh đầu tiên, người đứng đầu của gia đình cô dâu là cụ già cầm chiếc ô lớn màu đen. Tiếp theo đám rước là những phụ nữ mặc áo dài rất đẹp. Cô dâu đi phía cuối đám rước.

    Sau nghi lễ trước bàn thờ tổ tiên, mọi người bắt đầu ăn cỗ. Đây là một bữa tiệc có nhiều món ăn kỳ lạ. Tôi chỉ nhận ra được cơm và tiết canh bò, những món khác thì chịu.

    Mọi người rót cho tôi một chất lỏng từ chai Pepsi cũ. Nó khiến tôi cháy cổ họng sau khi uống một ngụm. Điệu bộ của tôi có lẽ giống như một thằng hề, và người Việt Nam đổ lại thứ chất lỏng gắt như axit này vào chai.

    Sau đó họ pha chúng với Pepsi và lại mời tôi uống. Nhưng phản ứng của tôi cũng không khá hơn lần trước.

    Dưới đây là những bức ảnh tôi còn giữ từ buổi đám cưới đáng nhớ ấy. Mỗi khi xem lại, tôi luôn tự hỏi điều gì sẽ xảy đến với những con người trong ảnh khoảng thời gian sau đó, khi cuộc chiến khốc liệt sẽ còn kéo dài thêm 5 năm…

    Đám rước của gia đình cô dâu đã tới.
    Đám rước của gia đình cô dâu đã tới.
    Ông cụ cầm chiếc ô lớn màu đen là người đứng đầu nhà cô dâu. Phía sau là những người đàn ông lớn tuổi trong họ.
    Ông cụ cầm chiếc ô lớn màu đen là người đứng đầu nhà cô dâu. Phía sau là những người đàn ông lớn tuổi trong họ.
    Kế đến là các cô phù dâu mặc những chiếc áo dài rất đẹp.
    Kế đến là các cô phù dâu mặc những chiếc áo dài rất đẹp.
    Cô dâu là người mặc áo hồng, đi giữa hai phụ nữ mặc áo dài tím.
    Cô dâu là người mặc áo hồng, đi giữa hai phụ nữ mặc áo dài tím.
    Các cụ bà bên nhà cô dâu.
    Các cụ bà bên nhà cô dâu.
    Tất cả phụ nữ mặc áo dài, và dường như là không có chiếc nào giống chiếc nào.
    Tất cả phụ nữ mặc áo dài, và dường như là không có chiếc nào giống chiếc nào.
    Những trẻ em hiếu kì đi theo đám rước.
    Những trẻ em hiếu kì đi theo đám rước.
    Tiếc cưới rất ngon miệng, dù nhiều món tôi không biết phải gọi là gì.
    Tiếc cưới rất ngon miệng, dù nhiều món tôi không biết phải gọi là gì.
    Cô dâu và chú rể ngượng nghịu chụp ảnh kỷ niệm. Sau lưng họ là những bao cát quân sự.
    Cô dâu và chú rể ngượng nghịu chụp ảnh kỷ niệm. Sau lưng họ là những bao cát quân sự.
    Cha mẹ của chú rể.
    Cha mẹ của chú rể.
    Chị của chú rể và cậu con trai.
    Chị của chú rể và cậu con trai.
    Chú rể là thông dịch viên trong tiểu đoàn trinh sát của chúng tôi.
    Chú rể là thông dịch viên trong tiểu đoàn trinh sát của chúng tôi.
    Em trai chú rể, có biệt danh là Joe, một đứa trẻ lanh lợi.
    Em trai chú rể, có biệt danh là Joe, một đứa trẻ lanh lợi.
    Hai đứa trẻ bên nhà cô dâu.
    Hai đứa trẻ bên nhà cô dâu.
    Mẹ chú rể bên các cô phù dâu.
    Mẹ chú rể bên các cô phù dâu.
    Bố của chú rể, một quý ông đẹp lão.
    Bố của chú rể, một quý ông đẹp lão.
    Cô dâu và các cô phù dâu đứng tán gẫu.
    Cô dâu và các cô phù dâu đứng tán gẫu.
    Joe và tôi - một người đi dự đám cưới với đầy đủ súng đạn trên người.
    Joe và tôi – một người đi dự đám cưới với đầy đủ súng đạn trên người.
    Joe và các đứa em họ chờ đợi được ăn cỗ.
    Joe và các đứa em họ chờ đợi được ăn cỗ.
    Đoàn của nhà cô dâu rời khỏi nhà chú rể sau đám cưới.
    Đoàn của nhà cô dâu rời khỏi nhà chú rể sau đám cưới.

    theo Đất Việt

  • Loạt ảnh Hà Nội năm 1959

    Loạt ảnh Hà Nội năm 1959

    Hà Nội cách đây hơn 50 năm khác rất nhiều so với Hà Nội của hiện tại. Dù có là người con sinh ra, lớn lên ở Hà Nội, bạn cũng khó có thể nhận ra những con đường, tuyến phố, khu chợ xuất hiện trong ảnh.
    Bộ ảnh ghi lại nhịp sống ở Hà Nội năm 1959, do nhiếp ảnh gia Rév Miklós thực hiện.

    Rév Miklós (1905-1998) là một nhiếp ảnh gia, ông được xem như “bậc thầy” của trường phái nhiếp ảnh báo chí Hungary. Miklós từng theo học trường Cao đẳng nghệ thuật chuyên nghành thiết kế nội thất, nhưng sau đó ông quyết định theo đuổi đam mê nhiếp ảnh, trở thành phóng viên ảnh tự do.

    Loạt ảnh Hà Nội năm 1959
    Ành: Rév Miklós

     

    Nếu bạn cho rằng thật để tưởng tượng cuộc sống ở Hà Nội không có xe máy sẽ ra sao, như thế nào, thì đây, cùng “du lịch về quá khứ” qua bộ ảnh chụp Hà Nội năm 1959 của tác giả Miklós.

    Loạt ảnh Hà Nội năm 1959
    Ành: Rév Miklós

     

    Loạt ảnh Hà Nội năm 1959

    Trong chuyến đi tới Hà Nội năm 1959, Miklós đã dành khá nhiều thời gian lang thang, khám phá phố phường, cảm nhận cuộc sống của người dân và ghi lại khoảnh khắc đẹp. Bằng mắt quan sát tinh tế, “bậc thầy” của nhiếp ảnh báo chí đã thu vào ống kính những góc rất đời.

    Bộ ảnh gồm cả ảnh màu và ảnh đen trắng, cho độc giả thấy phần nào đặc trưng về văn hóa, kiến trúc, sinh hoạt thường ngày của người Hà Nội thời bấy giờ. Bộ ảnh là tư liệu quý, giúp thế hệ sau được nhìn lại những gì đã qua trong quá khứ.

    Loạt ảnh Hà Nội năm 1959

    Loạt ảnh Hà Nội năm 1959

    Loạt ảnh Hà Nội năm 1959

    Loạt ảnh Hà Nội năm 1959

    Loạt ảnh Hà Nội năm 1959Loạt ảnh Hà Nội năm 1959Loạt ảnh Hà Nội năm 1959Loạt ảnh Hà Nội năm 1959Loạt ảnh Hà Nội năm 1959Loạt ảnh Hà Nội năm 1959Loạt ảnh Hà Nội năm 1959Loạt ảnh Hà Nội năm 1959Loạt ảnh Hà Nội năm 1959Loạt ảnh Hà Nội năm 1959Loạt ảnh Hà Nội năm 1959

    Theo Phương Lâm/ Đời sống & Pháp lý

  • Trẻ con ngày xưa “sướng” hơn ngày nay!

    Trẻ con ngày xưa “sướng” hơn ngày nay!

    Những đứa trẻ còng lưng đeo cặp sách, mở khóa Iphone, Ipad nhoay nhoáy nhưng không biết xới cơm, buộc dây giày. Đó chính là sự khác biệt giữa trẻ con thời nay và những đứa trẻ thời xưa.

     

    Trẻ con ngày xưa

    Nếu ngày nào bạn cũng ra rả điệp khúc: “Trẻ con chúng mày thời nay sướng, thời xưa của bố mẹ khổ lắm” với con cái của mình thì làm ơn nghĩ lại đi. Thời xa xưa thiếu thốn thật, nhưng chưa chắc trẻ con thời xưa đã khổ bằng đám trẻ thời nay đâu.

    Thời xưa, tối đến là đám trẻ chạy như giặc ra đường. Một góc chơi đồ (một trò đuổi bắt), một góc chơi trốn tìm, góc khác thì ô ăn quan, banh đũa, nhảy dây, song phi… Đường xá thời đó tối đến là vắng hoe, dựng gạch đá bóng giữa đường thi thoảng lắm mới có chiếc xe chạy qua.

    Chơi xong, về tới nhà là đứa nào đứa nấy mồ hôi mồ kê toát rã, mệt nhưng vui. Sau này lớn lên, chính những trò chơi tuổi thơ lại là chất keo gắn kết những đứa trẻ năm xưa mỗi khi chúng có dịp gặp lại nhau.

    Trẻ con ngày xưa
    Ô ăn quan – trò chơi “huyền thoại” một thời

    Hơn thế nữa, trẻ con thời xưa chơi toàn môn vận động nên sức khỏe đứa nào cũng tốt. Có dính tí mưa, tí gió máy, thậm chí đá bóng sứt chân, dẫm phải mảnh thủy tinh thì cũng vài ngày là liền.

    Trẻ con thời nay tối đến là ngồi chết dí trong nhà, nếu không phải è cổ học hết môn trên lớp tới môn phụ đạo, thì cũng cắm mặt vào Iphone, Ipad chơi điện tử hoặc xem hoạt hình.

    Hàng xóm láng giềng ít giao lưu, trẻ con chỉ biết duy nhất bố mẹ hoặc cùng lắm thì họ hàng, bạn cùng lớp. Lớn lên, những ký ức tuổi thơ của chúng sẽ là gì đây?

    Thi thoảng bố mẹ cho ra công viên chơi, lỡ gặp hôm trái gió trở giời thì y rằng mũi họng lại tậm tịt. Nhẹ thì sổ mũi, viêm họng, nặng thậm chí còn viêm phổi.

    Sức đề kháng của trẻ con thời nay kém rất xa so với trẻ con thời xưa một phần vì chúng ít vận động, phần vì các đô thị lớn đều ô nhiễm nặng.

    Trẻ con ngày xưa
    Thời nay, cả thế giới của trẻ thu nhỏ vừa bằng cái Ipad

     

    Trẻ con thời xưa chạy đâu cũng có chỗ chơi. Đường phố bình yên, bố mẹ có thả con ra đường chơi cả tối cũng chẳng cần lo lắng nhiều. Trẻ con thời nay biết chơi ở đâu?

    Công viên thì xa, lắm tệ nạn. Đường xá thì xe cộ chạy suốt ngày, vỉa hè bị chiếm dụng, ra đường ngay ngáy lo bị bắt cóc. Quanh đi quẩn lại cũng chỉ chui vào trung tâm thương mại, đi một vòng ăn cái xúc xích, ngắm ít quần áo, chơi game rồi về.

    Trẻ con thời nay tí tuổi đầu mà cái gì cũng biết. Iphone của mẹ, Ipad của bố mở nhoay nhoáy, tự tìm vào Youtube, tự tìm phim ngồi xem vài tiếng.

    Trẻ con thời xưa ngố đặc. Đầu phố có ông mua được cái tivi màu, cả lũ kéo đến xem Tôn Ngộ Không. Ông già rồi nên đi ngủ sớm, dặn lũ trẻ xem xong thì tắt tivi hộ ông. Cả lũ ngố tàu xem xong không biết tắt thế nào, cứ ngồi đực ở đó đến khuya bố mẹ sang gọi mới về.

    Trẻ con ngày xưa
    Ngày ấy, già trẻ lớn bé xem chung chiếc TV là chuyện… bình thường

     

    Nhưng trẻ con thời xưa được bố mẹ dạy kỹ năng sống rất tốt. 5, 6 tuổi là tự biết buộc dây giày, biết dọn mâm phụ bố mẹ, biết xới cơm, biết tự tắm rửa, tự đánh răng. Bố mẹ đi làm cả ngày, ở nhà tự chăm sóc bản thân, không mè nheo.

    Trẻ con thời nay Iphone biết mở, nhưng đôi giày không biết buộc dây. Đi học lớp 1 mà cơm vẫn chưa tự xúc. Đọc vanh vách các kiểu tóc hợp mốt, nhưng tóc thậm chí còn không biết chải, biết buộc.

    Trẻ con thời xưa được bố mẹ mua cho món quà gì thi coi như báu vật.

    Trẻ con thời nay dư thừa vật chất, đồ chơi mới dùng được 3 bữa là vứt, đòi cái mới hơn.

    Trẻ con thời xưa đến Tết mới có quần áo mới mặc. Quý lắm, ôm bộ quần áo đi ngủ, mặc mãi không chịu thay.

    Trẻ con thời nay quần áo đẹp mặc quanh năm. Tết đến có mặc đồ mới hay cũ cũng chẳng quan trọng nữa.

    Trẻ con thời xưa thiếu thốn, nhưng cuộc sống luôn đầy màu sắc và những niềm vui đi theo suốt cuộc đời.

    Trẻ con thời nay năng động hơn, thông minh hơn, đẹp hơn, nhưng học hành cũng vất vả hơn, hiểu biết về giá trị cuộc sống cũng thấp hơn.

    Ai nói thời xưa khổ hơn nào?

     

    Theo Thời Đại

  • Quản lý vỉa hè xưa ở Hà Nội

    Quản lý vỉa hè xưa ở Hà Nội

    Quản lý vỉa hè xưa ở Hà Nội

    Trong quy hoạch một đô thị văn minh, vỉa hè là khoảng công cộng dành cho người đi bộ. Còn theo kiến trúc, vỉa hè là đường diềm, trang trí cho phố phường tạo ra sự hài hòa giữa đường và nhà mặt phố.

    Người Pháp đã làm những điều đó ở Hà Nội từ cuối thế kỷ 19.

    Cho thuê vỉa hè, dân mặt phố phải dọn vệ sinh

    Sau khi chiếm được thành Hà Nội năm 1882, chiếm Hà Nội năm 1883, Công sứ Bonnal đưa ra chủ trương cải tạo khu vực quanh hồ Gươm. Việc đầu tiên, Bonnal cho làm con đường quan trọng từ khu nhượng địa Đồn Thủy (nay tương ứng khu vực phố Phạm Ngũ Lão) vào thành để chở vũ khí, lương thực cho binh lính Pháp đóng ở đây. Con đường bắt đầu từ Đồn Thủy qua Hàng Khảm (nay là Tràng Tiền và Hàng Khay), Tràng Thi đến Cửa Nam rồi vào thành. Đường hoàn thành cuối năm 1885, rộng hơn 10 m, riêng đoạn Tràng Tiền hai bên có vỉa hè được lát gạch, trồng phượng để giảm bớt nắng nóng vào mùa hè ở xứ Bắc kỳ. Và vỉa hè Tràng Tiền là vỉa hè đầu tiên theo kiểu phương Tây ở Hà Nội.

    Công việc cải tạo và xây dựng khu phố phía nam hồ Gươm cần nhiều thời gian và tiền bạc. Vì thế đến năm 1889 mới chỉ vài phố quanh hồ Gươm có vỉa hè, song để Hà Nội nề nếp và quy củ, Thống sứ Bắc Kỳ đã ra nghị định quản lý đô thị (đăng trên Công báo ngày 21.4.1890), trong đó điều 1 ghi rõ: “Những phố hiện có và sẽ được tạo nên có chiều rộng lòng đường và vỉa hè được chỉ định”, kèm theo là phụ lục gồm các phố đã có và các phố sẽ mở. Với các phố ở khu vực “36 phố phường”, vỉa hè hẹp nhất cũng phải 3 m, một số phố sẽ là 4 m. Với các khu phố ở phía đông và phía nam hồ Gươm như: Ngô Quyền, Lê Phụng Hiểu, Hàng Bài, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo… vỉa hè tối thiểu phải rộng 5 m, phố rộng nhất là 7,5 m.

    Để nhà mặt phố hài hòa với vỉa hè, trong Quy chế lục lộ ban hành ngày 21.9.1891 ghi cụ thể: “Vỉa hè rộng 3 m thì bậc cửa ra vào chỉ được phép cao 10 cm, vỉa hè rộng 5 m thì bậc cửa là 15 cm và vỉa hè rộng 7,5 m thì bậc cửa cao 20 cm…”. Bên cạnh đó còn có quy định về chiều cao, cửa sổ, ban công… rất chi tiết. Quy chế cũng quy định: “Tất cả chủ nhà mặt phố, người thuê phải có trách nhiệm dọn vệ sinh hè phố trước cửa nhà, khơi thông rãnh thoát nước, nếu không thực hiện sẽ bị phạt theo các điều của bộ luật Hình sự nước Pháp”. Cũng theo quy chế thì cánh cửa ra vào nhà mặt tiền phải mở vào trong, không được mở ra ngoài để tránh gây thương tích cho người đi lại.

    Quy định về vật liệu làm vỉa hè rất cụ thể: “Vỉa hè được lát bằng đá hình vuông khổ 30 x 30 cm, dày 3 cm, trên mặt khía chéo để tránh trơn trượt cho người đi đường. Mép hè là đá xanh chôn sâu xuống mặt đường vừa làm bờ rãnh thoát nước vừa làm vật chắn phòng xe ngựa lao lên hè gây thương tích cho người đi bộ”. Trên vỉa hè bao quanh nhà Godard (nay là Tràng Tiền Plaza), trước lối vào có dòng chữ tiếng Pháp “Khu vực cấm để xe đạp” bằng đá trắng gắn chìm vào vỉa hè.

    Để có nguồn vốn bảo trì vỉa hè mà không dùng ngân sách, ngày 20.12.1889, Đốc lý Hà Nội Landes đã ban hành một nghị định cho thuê vỉa hè để dân mở cửa hàng hay bán cà phê với giá 40 xu/m2/năm. Cùng với đó, chính quyền cũng đánh thuế ban công, thuế ô văng. Với biển quảng cáo, nếu là biển phẳng áp vào tường không gây nguy hiểm cho người đi bộ sẽ miễn thuế, nhưng nếu làm nhô ra sẽ thu thuế theo diện tích, số tiền này cũng được đưa vào quỹ bảo trì. Với cây xanh, sở lục lộ chọn cây thân thẳng, rễ cọc, chiều cao trên 10 m mới tỏa tán để đảm bảo tính mạng, tránh thương vong cho người trong mùa mưa bão. Hằng ngày, cảnh sát lục lộ đi tuần, họ đạp xe quanh các phố, nếu phát hiện vi phạm thì xử phạt, nếu không có tiền sẽ đưa về bót.

    Quản lý vỉa hè xưa ở Hà Nội
    Vỉa hè phố Hàng Khay thập niên 1930 – 1940

    Đầu thế kỷ 20, số khách sạn hạng sang xuất hiện ngày càng nhiều quanh khu vực hồ Gươm thì chủ khách sạn đã thuê vỉa hè mở quán cà phê dọc theo mái hiên. Không chỉ người Pháp sống ở Hà Nội, khách du lịch châu Âu đến thành phố này rất thích thú khi ngồi uống cà phê vỉa hè ngắm phố.

    Thập niên 1930, dân số lúc này đã tăng lên 300.000 người, số lượng xe kéo tăng vọt, xe đạp xuất hiện trên phố nhiều hơn và trở thành phương tiện giao thông cá nhân chủ đạo. Trước sự lộn xộn của phương tiện này, ngày 25.5.1933, Đốc lý Louis Frédéric Eckert ra quy định: “Trước các cửa hàng phải có giá để xe đạp cho khách” (giá làm bằng sắt, hình bán nguyệt, để đưa bánh trước vào). Quy hoạch cũ đã lạc hậu, không còn phù hợp, năm 1936 Toàn quyền Đông Dương Silvestre quyết định cho quy hoạch lại Hà Nội. Trong bản quy hoạch Henri Ceruti được phê duyệt năm 1943, có một phần bắt buộc các trung tâm thương mại phải có chỗ đậu xe cho khách hàng, các bãi đất trống làm bãi đậu xe công cộng. Tuy nhiên, lúc này quân đội Nhật đã chiếm Đông Dương nên quy hoạch không được thực hiện.

    Vỉa hè thành “chợ” từ khi nào?

    Sau năm 1954, các quy định cũ về quản lý đô thị Hà Nội bị bãi bỏ, nhưng người dân cơ bản vẫn tự giác vệ sinh vỉa hè trước nhà theo nếp đã hình thành trước đó. Việc cho thuê vỉa hè cũng không còn và từ tài sản công do thành phố quản lý vỉa hè đã trở thành tài sản của nhân dân.

    Khi Mỹ ném bom miền Bắc năm 1964, vỉa hè đẹp đẽ bắt đầu gánh vác một sứ mạng mới. Người ta cho đào các hầm trú bom cá nhân trên hè phố, mỗi hầm rộng khoảng 6 – 8 m. Người đang đi trên đường nếu nghe còi báo động từ nóc Nhà hát Lớn sẽ chui xuống hầm này tránh mảnh bom. Tháng 1.1973, Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ phải rút quân khỏi VN và miền Bắc được sống trong hòa bình thì các hầm trú ẩn đa phần bị lấp. Ở các phố trung tâm, xí nghiệp quản lý vỉa hè cho láng xi măng lấp dấu vết hầm nhưng các phố khác thì nó trở thành hố trũng đọng nước mỗi khi trời mưa. Rồi nước sạch dùng cho sinh hoạt thiếu trầm trọng, nước từ đường ống chính không chảy nổi vào các vòi trong nhà nên dân hàng phố đua nhau đào bể trên vỉa hè lấy nước từ đường ống chính. Vỉa hè thành chỗ rửa rau vo gạo, giặt giũ quần áo, tắm táp vào mùa hè, luộc bánh chưng vào Tết Nguyên đán, là khách sạn “đờ la hiên” cho các bác xích lô quê. Vỉa hè các phố xa hồ Gươm lồi lõm, chỗ trơ đất, chỗ còn gạch, lở loét như bị nhiễm trùng.

    Suốt thời bao cấp, buổi sáng vỉa hè là chỗ ngồi của mấy bà bán phở gánh, bán bún ốc, bán bánh cuốn, “đầu hè trung tá bơm xe, cuối hè thiếu tá bán chè đậu đen”, là nơi các ông chữa xe đạp chiếm cứ dưới chân cột điện, góc ngã ba ngã tư. Vỉa hè thực sự trở thành nơi họp chợ, vì thế dân gian mới có câu: “Hàng Bè chợ của thương nhân/Vỉa hè chợ của nhân dân anh hùng”. Từ tài sản của nhân dân, vỉa hè dần dần bị các nhà mặt phố cát cứ, biến thành lãnh địa riêng.

    Trong lịch sử, vỉa hè Hà Nội không chỉ dành cho người đi bộ mà còn là nơi kiếm sống của tầng lớp thị dân. Dĩ nhiên, xưa dân số Hà Nội ít, phương tiện giao thông không nhiều còn nay thì khác. Đó là một bài toán không dễ cho cơ quan quản lý.

    Nguyễn Ngọc Tiến – báo Thanh Niên

  • Đà Nẵng – lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích…

    Đà Nẵng được xem như “Yết hầu của vùng Thuận Quảng”, Quảng Nam với ý nghĩa rộng là vùng đất mở rộng về phương Nam, cùng với sự kiện năm 1471 vua Lê Thánh Tông lập Quảng Nam Thừa tuyên đạo gồm 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn. Cư dân đầu tiên ở đây là cư dân Sa Huỳnh.

    Tourane là tên của Đà Nẵng trong thời Pháp thuộc. Do sức ép của Pháp, năm 1888 vua Đồng Khánh phải ra một Đạo dụ nhượng Đà Nẵng (Hà Nội và Hải Phòng ) bao gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây, thường gọi là “ngũ xã”. Bộ máy cai trị do viên Đốc lý người Pháp đứng đầu và các cơ quan giúp việc.

    Theo đó các phố tây và công sở phần lớn nằm trên các trục đường chính như Quai Courbet (Bạch Đằng), Jules Ferry nối dài Rue de Musée (Trần Phú ), Francis Garnier nối dài Marc Pourpe (Lê Lợi và Phan Châu Trinh) và khu dân cư bản xứ ở phía tây.

     Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đà Nẵng 1859 -Tranh vẽ của J Minot cho nhãn của thương hiệu chocola nỗi tiếng lúc bấy giờ
    (Chocolat Lombart) về cuộc kháng chiến của quân dân Đà Nẵng trước sức tấn công của liên
    quân Pháp – TBN. Tranh vẽ về thành Điện Hải bị bốc cháy trong cơn giao chiến.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Tranh vẽ Đà Nẵng 1860 của Gravure về một chợ tạm của người Pháp và TBN ở vùng tạm chiếm trên
    bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Chợ tạm được hình thành chỉ trong vòng hơn một năm khi liên quân
    Pháp -TBN nổ súng tấn công Đà Nẵng vào năm 1858… Qua bức tranh cho thấy những người buôn
    bán ở chợ này là người châu Âu và một vài người Trung Hoa. Hàng hóa rất ít dường như là khoáng
    sản, lâm sản quý, ngọc trai…,
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Tranh vẽ Đà Nẵng xưa ở bến tàu Courbet với những xe kéo của người bản xứ phục vụ một cặp vợ
    chồng người Âu. Dưới sông là những chiếc ghe bầu đang cập cầu tàu để buôn bán, bốc dỡ hàng
    hóa (cầu tàu này là tiền thân của chiếc cầu chữ T trước mặt UBND thành phố hiện nay).
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Trên đường Courbet 1912 . Xe chở nước, có lẽ họ lấy nước sạch từ sông Hàn để phân phối cho
    cư dân lân cận.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Vua Thành Thái vi hành Đà Nẵng bằng tàu Hỏa (người đang dắt một Hoàng tử từ tàu hỏa bước xuống). Bên dưới là những cận thần lo việc bảo vệ. Trông dáng vua có chiều cao rất khiêm tốn (điều nầy phù
    hợp với sử sách) .
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Thuyền của nhà vua đi thăm cửa Hàn
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đà Nẵng, đón rước vua Thành Thái đi kinh lý và thăm một ngôi chùa. Ảnh cho thấy binh lính tất bậc
    với cờ, kiệu, lọng, dù. Hộ giá đức Vua. Cổng ngôi chùa này giống với chùa An Long (một ngôi chùa
    cổ, tọa lạc gần cổ viện Chàm- có trong album nầy)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Ga chính của Đà Nẵng xưa, được xây dựng vào năm 1905 trên đường Lagtie (nay là đường Hải Phòng), Gare principale de Tourane – Old
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường rail hỏa xa và Ga phụ chạy dọc sông Hàn. Tàu hỏa chuyển hàng hóa và khởi hành tại đây. Tàu chạy bằng than, phun khói mù mịt, thỉnh thoảng có kèm theo tro lửa nên dân ta quen gọi “tàu lửa”.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    “Cảnh mô vui bằng cảnh đất Hàn
    Dưới sông tàu chạy, trên đàng hỏa xa”
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Tàu lửa từ Đà Nẵng đi Huế. Những nhân viên hỏa xa đang tất bật cho chuyến khởi hành. Thị dân
    Đà Nẵng phần lớn đi chân đất, nam nữ đều đội nón lá có vành rộng, đi hoặc đứng đều có thói quen
    chắp tay phía sau!
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Hỏa xa ở Đà Nẵng (trên đường Bạch Đằng ngày nay)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Cầu Nam Ô (chủ yếu phục vụ tàu lửa, ô tô chỉ đi “ké”)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Cầu Nam Ô, một cây cầu đẹp, không thua gì cầu Tràng Tiền ở Huế. Vùng này có sản phẩm nước mắm
    và món gỏi cá rất nổi tiếng – Liên Chiểu Đà Nẵng (old photo)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường hầm tàu lửa Hải Vân Đà Nẵng – Huế được hoàn thành vào năm 1906 với sức người là chính. Đã có hàng trăm phu phen bỏ mạng khi đường hầm được hoàn thành. Tàu chạy qua đây mỗi ngày chỉ có 2 chuyến nên “Sếp hầm” thả chó đi rông và ngồi chơi luôn ở đây!
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đèo Hải Vân (old) với đường đèo rất hẹp chỉ đủ cho xe lưu thông một chiều nên phải chờ rất lâu. Đường đèo hẹp lại quanh co hiểm trở, không có lan can phòng hộ như bây giờ!
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Những công nhân điện tín đầu tiên của Đà Nẵng vào năm 1906. Có tên gọi nôm na là nhà dây thép ! Tiền thân của Bưu điện Đà Nẵng bây giờ! VNPT Đà Nẵng nên tìm con cháu của những người nầy để sử dụng…cũng là cách trả ơn tiền nhân.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Những ngư dân đánh cá đầu tiên ở Đà Nẵng- Những tiền hiền nghề biển của các ngư dân Sơn Trà ngày nay( hữu ngạn sông Hàn ), trông họ rất khỏe mạnh, vạm vỡ và đen nắng. Ảnh chụp cho thấy sinh hoạt, nhà cửa chủ yếu bằng tranh tre, có mái rất thấp để tránh bão tố khắc nghiệt thường xuyên của vùng nầy.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Tòa Thị chính (cũ) – sưu tầm từ bưu thiếp

     

     

    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Quai Courbet ngày xưa nơi có tuyến đường sắt đi Huế
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Bến Sông Hàn (Tourane)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Tourane – bến tàu Courbet (đoạn ngả ba Bạch Đằng – Quang Trung bây giờ)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Thương lượng giữa các quan chức bản xứ và thương nhân thuyền buôn nước ngoài. Người ngồi kiệu, lọng che, với râu dài có lẽ tương đương chức Chủ tịch UBND thành phố bây giờ – Tourane 1749 by Charles Fouqueray – (đây có lẽ là bức tranh xưa nhất về Đà Nẵng)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Khách sạn MORIN de Tourane (do anh em nhà Morin) ở Đà Nẵng ngày xưa sáng lập. Nay là Khách sạn Bạch Đằng (Morin có một chuỗi các khách sạn tại Việt Nam gồm Huế – Đà Nẵng và Bà Nà )
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường Độc Lập 1965. Nơi đây có rạp chiếu phim Kinh Đô.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Bến sông Bạch Đằng 1964
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Ngư dân cào nghêu ở bãi biển Thanh Bình 1960
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Buổi sớm ở Thọ Quang
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Làng Thanh Khê xưa (ven đường xe lửa) Nhà cửa thấp, hầu hết bằng tre, lợp lá hoặc rơm rạ.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường Bạch Đằng 1963
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    100 năm trước Jules Ferry và nay là đường Trần Phú, con đường sầm uất của Đà Nẵng ngày nay. (Tòa nhà lớn là bệnh viện quân đội Pháp)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Trong lịch sử đạo Thiên chúa ở Việt Nam, Đà Nẵng là vùng đất truyền giáo thuộc loại sớm nhất. Hồi đầu, cả thành phố chỉ có một nhà thờ trong khu vực thành Điện Hải do quân Pháp chiếm đóng (ảnh trong album này). Năm 1923 nhà thờ chính tòa mới được xây dựng trên Rue du Mussé. Bức ảnh này cho thấy giáo dân Đà Nẵng đang đón mừng Noel khi chưa có nhà thờ. Có lẽ tấm ảnh này được chụp vào những năm đầu của TK XX.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Nhà thờ Chánh tòa ( còn gọi nhà thờ Con Gà) do trên nóc có biểu tượng con gà trống Gaulois. Nhà thờ nằm trên Rue du Mussé (đường Trần Phú ngày nay)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Nhà thờ Chánh tòa – ảnh chụp 1925
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Bên trong nhà thờ Chánh tòa xưa. Người có râu dài có lẽ là cha cố đạo Vallet, người phác thảo tổng thể về kiến trúc của ngôi nhà thờ này.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Bên trong nhà thờ Tourane (nhà thờ chính) trong ngày lễ trọng 14 tháng 9 năm 1924.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường Bạch Đằng ( rue Courbet ) – Trụ sở của hãng Liên hiệp thương mại Đông Dương và Phi Châu (L’U.C.I.A) lập năm 1904- Về sau là trụ sở Tổng lãnh sự Hoa Kỳ trước 1975 – Sau năm 1975 là nhà trưng bày chứng tích tội ác ĐQM – Ngày nay là tòa nhà khách sạn Indochina River side – Ảnh cho thấy đây là con đường trung tâm của thành phố Đà Nẵng, nơi có bến tàu, đường hỏa xa và các tòa nhà lớn của các công ty thương mại. Một chiếc Renault 1927 của hãng Staca đang chở khách trên đường. Phía xa là những chiếc xe kéo và những cư dân lao động buôn gánh bán bưng trên vỉa hè. – OLD
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Trại lính Pháp xưa- BCH Thành Đội Đà Nẵng bây giờ
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Tòa Thị Chính Đà Nẵng 1970
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Tòa Thị Chính và trụ sở Cty Shell xưa – Tòa nhà làm việc của UBND & HĐND thành phố Đà Nẵng bây giờ
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Chợ Cồn – Được xây dựng những khoảng năm 1940, trên một cồn đất cao giữa lòng thành phố, nơi đây nguyên là bãi phóng uế công cộng nằm trước Kho Đạn, cồn đất này sau đó được san bằng để làm ngôi chợ. Đây là ngôi chợ vào loại lớn, buôn bán sầm uất của Tp Đà Nẵng. Năm 1984 chính quyền thành phố đã cho xây lại chợ với tên là Trung tâm Thương nghiệp Đà Nẵng nhưng nhân dân vẫn quen gọi là Chợ Cồn. Ảnh cho thấy cổng chợ nằm trên mặt tiền đường Khải Định (Ông Ích Khiêm bây giờ).
     Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Chợ Cồn, Đà Nẵng 1949
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Chợ Cồn
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Bên trong chợ Cồn
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đà Nẵng 1945 – Trước chợ Hàn.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Chùa Pháp Lâm Đà Nẵng xưa
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Chùa Vu Lan xưa, một ngôi cổ tự. Ngày nay chùa tọa lạc tại 84 Núi Thành, quận Hải Châu, tp. Đà Nẵng.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Tòa nhà này hiện nay vẫn còn giữ được kiến trúc như ban đầu (đường Bạch Đằng)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Nhà thờ và bệnh viện trong khuôn viên thành Điện Hải xưa.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Thành Điện Hải được xây dựng kiên cố vào năm 1823 (Minh Mạng) theo kiểu vauban, có thành cao 12 mét, nơi đây vào năm 1858 đã xẩy ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa quân dân Đà Nẵng (do Thống chế Lê Đình Lý, rồi đến Thống chế Nguyễn Tri Phương chỉ huy) với liên quân Pháp – Tây Ban Nha .
    Nhà thờ và Bệnh viện xưa (trong ảnh) được xây trên nền của thành Điện Hải – Ngày nay nhà thờ không còn nữa. Phần đất thấp, kế nhà thờ, nay là Công viên Phần mền và thành Điện Hải đang được trùng tu. Tại khu vực nầy khi xây dựng, người ta đã phát hiện nhiều loại vũ khí xưa.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Trẻ con trên vùng cát _ Sơn Trà ngày xưa! Không áo, không quần. Suốt ngày rông chơi trên cồn cát.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đà Nẵng – lớp tiền bối.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Những người thợ điêu khắc gỗ ở làng Kim Bồng xưa – Những nghệ nhân tài hoa đất Hội An (Faifoo-Tourane)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Khách sạn Bưu chính và Điện tín trên đường Courbet (nay là Bạch Đằng) – Tòa nhà này mới đây đã bị phá bỏ và thay vào đó là một khách sạn cao tầng trên đường Bạch Đằng
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Ngã tư Republique – Ferry – OLD (Hùng Vương – Trần Phú bây giờ)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường Courbet
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    “Ai đi trên đường cái Quan !” Route Mandarine – Nay là Quốc lộ số 1A, là con đường huyết mạch từ Bắc vào Nam – ảnh chụp năm 1908
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Ải Vân Quan – chốt chặn quan trọng trên đường ra kinh thành Huế.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Một “ông Ba mươi” săn được ở chân núi Ải Vân.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Núi Ngũ Hành Sơn (ảnh chụp cách đây ngót 100 năm) với quang cảnh chùa cổ Tam Thai
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Ngũ Hành Sơn (hòn Hỏa Sơn) – Ngày xưa, núi đá “chìm” dưới những đụn cát.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Xẻ đá ở Ngũ Hành Sơn !
    Rất may chính quyền đã có chủ trương cấm khai thác đá ở đây từ năm 1998, nếu không thì đến nay chắc chỉ còn “nhị hành sơn” cũng nên!
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đình làng Phước Ninh xưa ( đường Lê Đình Dương). Xưa kia nơi đây nhà tranh vách đất, dân thưa thớt. Cư dân sống bằng nghề làm muối, trồng trọt.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    rue Republique – Nay là đường Hùng Vương
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường Champeaux về sau đổi là Republique, nay là Hùng Vương – Khu vực trong ảnh bên trái là chợ vườn Hoa, nay là khu đất “vàng” đang xây dựng bãi đổ xe ngầm và khu đất bên phải là khu triễn lãm 84 Hùng Vương nay cũng đang được xây dựng thành khu cao ốc của thành phố Đà Nẵng.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường Hà Nội xưa! nay là đường Hùng Vương, con đường buôn bán sầm uất nhất nhì Đà Nẵng.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đà Nẵng xưa
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Nhà thông tin *đường Hùng Vương ngày nay.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Trụ sở của ủy viên cộng hòa thuộc đoàn đại biểu Đà Nẵng – Tòa nhà nằm ở góc ngả tư Yên Bái – Hùng Vương bây giờ
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đình làng An Hải
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Rạp hát Hòa Bình về sau được xây dựng lấy tên nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh * trên đường Phan Châu Trinh- Old
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Nhà hàng trên bến Bạch Đằng trước 1975 – OLd
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Chà Và Ấn Độ- Những thương nhân nước ngoài có cửa hiệu tại Đà Nẵng (Chủ yếu buôn bán vải)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường làng
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đình làng Hải Châu 1950 (ảnh sưu tầm)
    So với đình làng Hải Châu ngày nay đã khác rất nhiều! Rất tiếc! – Old photo –
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đình làng Hải Châu, chụp năm 1952. – Old photo- Nơi thờ tự các tộc họ, nguyên quán từ thôn Hiếu Hiền, xã Hải Châu, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, đã theo vua Lê Thánh Tôn vào Nam bình Chiêm từ năm 1471 và định cư ở luôn lại đây. Những cư dân đầu tiên nầy và con cháu họ đã có công lớn trong việc hình thành thành phố Đà Nẵng như ngày nay.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Hội đồng kỳ mục của làng – Các cụ chuyên “ăn trên, ngồi trước”
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Bàn tay của kẻ Sĩ thời xưa, với những móng tay rất dài, để chứng tỏ họ là tầng lớp trên, không phải lao động vất vả. Vì vậy có câu thơ rằng:
    “Nhất Sĩ, Nhì Nông
    Hết gạo chạy rông
    Nhất Nông, Nhì Sĩ”
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Bờ đông sông Hàn trước năm 1985
    Vietnam — Image by © moodboard -Old
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Ga Chợ Hàn (Gare de Tourane Marché) ( Old photo ) được xây dựng trong những năm 40, nhằm thuận lợi cho việc bốc dỡ hàng hóa đi các nơi trong nước. Đến những năm 90 ga nầy bị phá bỏ để làm con đường Bạch Đằng đẹp như ngày nay.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đà Nẵng – Những năm 80 vẫn còn nhà ga phụ.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Viện Bảo tàng Cham được lập vào năm 1919. Bức ảnh nầy cho thấy thời kỳ nầy chưa có bảo tàng Cham. Những hiện vật được người Pháp tập trung về đây (vườn trưng bày) vào khoảng năm 1900 trong đó có vật linh, bò Nandin, con vật tín ngưỡng của người Cham – Old photo-
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    100 năm trước- Phòng Thương mại & Nông nghiệp thời Pháp thuộc- Old
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    100 năm sau vẫn còn giữ kiến trúc cũ- present….Nhưng nay vừa mới bị đập phá vào tháng 12/2010 để xây trường mẫu giáo ABC !
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Cercle de Tourane nay là CLB thanh niên, số 30 đường Bạch Đằng
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Bưu điện Đà Nẵng xưa (old photo)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Kiệu quan lớn đi chơi Bà Nà
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Bà Nà xưa, một du khách bản xứ với áo dài, khăn đóng đang tần ngần dừng bước để tìm đường đi lên
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Bà Nà xưa, đường đi phải qua nhiều “cầu khỉ”- “quan san” cách trở. Chỉ có những phu phen người Việt nầy mới đảm đương việc cán võng, gồng gánh cho khách tây mà thôi.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường lên Bà Nà!
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường lên Bà Nà- phu phen phải gồng gánh hàng hóa cho người nước ngoài trong điều kiện đường sá cách trở.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Mỏ than Nông Sơn – old photo
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Mỏ vàng Bồng Miêu
    “Từ ngày Tây lại cửa Hàn
    Đào sông Câu Nhí, đắp đàng Bồng Miêu”
    vè Quảng Nam – Đà Nẵng – old photo
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Tháp Chàm Bằng An (Điện Bàn – 1910)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đà Nẵng – Trận bão lớn năm 1916- Trên bến tàu Courbet cây cối gãy đổ, lác đác vài chiếc tàu bị chìm.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Trận bão lớn 1916
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Đường Bạch Đằng
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Xử án – người có tội thời xưa bị “nọc” ra giữa công đường và bản án được thi hành ngay.
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Diễn tuồng ngoài bụi chuối (Hình như để phục vụ nhiếp ảnh, vì lúc bấy giờ chưa có flash)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    “Mát xa” cũng là nghề có sớm ở Đà Nẵng xưa ? ( old photo)
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Một số cư dân Đà Nẵng xưa
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Phu kéo xe – Những cư dân lao động của Đà Nẵng xưa.- Old
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Xe Dodge “nhà binh” được đóng thùng, cải tiến thành xe chở khách – Một phương tiện đi lại quen thuộc trên các tuyến Quế Sơn – Tiên Phước – Hiệp Đức – Đà Nẵng trước 1975- Nhiều xe trên tuyến đường nầy thường bị “dính mìn” tan tác – ảnh CORBIS –
    Đà Nẵng - lịch sử hình thành, ảnh xưa cũ, di tích...
    Quân Pháp trở lại Đà Nẵng 1946- Diễu binh trước Tòa Thị chính

     

  • Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm

    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm

    Không ít người nhìn những bức ảnh xưa về Sài Gòn mà lòng ngậm ngùi….

    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Học sinh ăn bò bía trên đường phố Sài Gòn những năm 1950.

    Quyển sách ảnh 150 hình bóng sài Gòn (NXB Trẻ, 2015) là thành quả của 10 năm sưu khảo, biên soạn những bức ảnh Sài Gòn xưa của NSNA Tam Thái, để kể lại câu chuyện vùng đất phồn hoa đô hội từ khi người Pháp đặt chân đến đô hộ, rồi đi qua thời mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông, cho đến tận ngày hôm nay.

    Tam Thái kể lại rằng có cụ già từ Đà Lạt xuống Sài Gòn xem triển lãm ảnh, biết tin quyển sách bèn tìm mua. Khi lật từng trang sách, cụ già xúc động, rưng rưng nước mắt. Hay có những người mua luôn 5 – 7 cuốn, không những cho mình mà cho luôn bạn bè, người thân như một món quà san sẻ kỷ niệm vùng đất Sài Gòn – Gia Định xưa.

    Cùng tìm về ký ức, nghệ sĩ nhiếp ảnh Tam Thái tiếp tục chia sẻ thêm một số bức ảnh Sài Gòn – Gia Định mà anh đã sưu tập và giới thiệu trong sách.

    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Đường xe lửa Sài Gòn – Gò Vấp năm 1910. Người Pháp từng xây tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho, Sài Gòn – Chợ Lớn, Sài Gòn – Gò Vấp – Lái Thiêu – Thủ Dầu Một. Đến thời Ngô Đình Diệm, vì vắng khách nên các tuyến đường sắt ngưng hoạt động. Ga trung tâm của các tuyến đường sắt này nằm ở khu vực chợ Bến Thành ngày nay.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Con đường nối Sài Gòn – Chợ Lớn vào thế kỷ 19, thuở ấy còn rất hoang sơ, nay là đường Nguyễn Trãi.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Một chợ heo khu vực Phú Lâm cuối thế kỷ 19.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Vòng xoay Lăng Cha Cả thập niên 1950. Lăng thờ giám mục người Pháp Bá Đa Lộc, người có công giúp Nguyễn Ánh đánh triều Tây Sơn, nằm trên con đường Sài Gòn đi Cao Miên (đường Cộng Hòa ngày nay). Trước năm 1975, đây là một di tích văn hóa. Nhưng sau năm 1975, lăng bị giải tỏa, hài cốt giám mục Bá Đa Lộc được đưa về Pháp an táng.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Quang cảnh sân bay Tân Sơn Nhất đón chuyến bay cấp cứu vua Bảo Đại – vị vua cuối cùng của Việt Nam, năm 1938. Trong một lần săn bắn ở Tây Nguyên, ông bị té gãy chân và được máy bay đưa về Sài Gòn cấp cứu.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Triển lãm mô hình phát triển Thủ Thiêm. Thời Ngô Đình Diệm, nhận thấy nếu phát triển khu trung tâm sẽ phá vỡ kiến trúc cũ thuộc địa, làm đảo lộn đời sống người dân nên chính quyền thời đó định bắc cầu, phát triển khu hành chính mới qua Thủ Thiêm. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh nên dự án này không thực hiện được. Hiện nay, quy hoạch phát triển Thủ Thiêm là khu hành chính mới đã được thành phố thông qua. Đoạt giải Nhất kiến trúc quy hoạch Thủ Thiêm là một công ty Nhật Bản.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Thuyền chiến của triều Nguyễn trên sông Sài Gòn thế kỷ 18, tranh vẽ của người Pháp. Thời kỳ này, giao thông đường bộ Bắc Nam còn hiểm trở, cho nên giao thông đường thủy là chính. Tư liệu cho thấy cả triều Tây Sơn và Nguyễn Ánh đều có lực lượng thủy binh hùng mạnh, tiếp thu kỹ thuật đóng thuyền phương Tây. Những trận thủy chiến giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh trên đầm Thị Nại (Quy Nhơn) đáng được xem là những trận thủy chiến ác liệt nhất của lịch sử. Hằng năm, cứ khi trời trở gió nồm thì thủy binh Nguyễn Ánh từ Gia Định lại dong buồm ra miền Trung đánh quân Tây Sơn, đến khi gió bấc thì lại rút quân về. Dân gian có câu: “Lạy trời cho cả gió nồm/Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra”.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Bến Bạch Đằng năm 1956.
    Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
    Logo Sài Gòn năm 1870. Khi chiếm Sài Gòn, người Pháp đã sáng tác ra logo này. Hình ảnh hai con cọp trong logo thể hiện đây là vùng đất hoang sơ. Nhưng dòng chữ Latinh Paulatim Crescam có nghĩa là : “Cứ từ từ, tôi sẽ phát triển”. Hình ảnh con tàu hơi nước ở giữa logo cho biết đây là vùng đất nhiều kênh rạch. Phía trên có vương miện 5 cánh như thông báo Sài Gòn sẽ giao thương với năm châu bốn biển. Logo Sài Gòn 1870 thể hiện cách nhìn hoang sơ và triển vọng Sài Gòn của người Pháp. Hiện nay, TP.HCM dù đã tổ chức các cuộc thi những vẫn chưa tìm được một logo chính thức cho thành phố hôm nay.

    “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng…” – khi xưa nhà vua Tự Đức nhớ thương người vợ mà viết nên câu thơ tha thiết. Vậy với những ai mơ bóng Sài Gòn, lần theo những bức ảnh này để có một hành trình kỷ niệm ngược thời gian chăng?

    Theo TTO