Category: Địa danh lịch sử

  • Những nét văn hóa “rất Pháp” ở Miền Nam trước năm 1975

    Những nét văn hóa “rất Pháp” ở Miền Nam trước năm 1975

    Bộ ảnh này được nhiếp ảnh gia Pháp Jack Garofalo ghi lại năm 1974.

    Trong hình là những nét văn hóa mang hơi hướng Pháp ở miền Nam Vệt Nam.

    Những nét văn hóa Giao thông ở ngã tư Hàm Nghi – Tôn Thất Đạm. Những chiếc xe trong ảnh là của các hãng xe Pháp Renault và Citroën sản xuất.

    Những nét văn hóa

    Bánh mỳ baguette kiểu Pháp được bày bán bên lề đường.

    Những nét văn hóa

    Những người Pháp chơi bi sắt – bộ môn thể thao khai sinh ở Pháp – trong một câu lạc bộ ở Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Xưởng đóng tàu Caric của Pháp ở Thủ Thiêm, Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Quán rượu của một ông chủ người Pháp (người trong ảnh) sinh sống tại Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Ông chủ người Pháp của nhà hàng – quán bar ‘Le Colisée’ tạo dáng chụp ảnh với 3 nhân viên người Việt.

    Những nét văn hóa

    Rạp Vĩnh Lợi ở Sài Gòn với biển tên tiếng Pháp.

    Những nét văn hóa

    Nghĩa trang quân đội Pháp tại ngã tư Bảy Hiền, Sài Gòn.

    Những nét văn hóa

    Một người đàn ông Pháp hút thuốc trước cửa hiệu của mình ở Di Linh, Lâm Đồng.

    Những nét văn hóa

    Học sinh dân tộc thiểu số tại nhà thờ Cam Ly ở Đà Lạt. Nhà thờ này do linh mục người Pháp Boutary cho xây dựng cuối thập niên 1960.

    Những nét văn hóa

    Các thiếu nữ người dân tộc thiểu số trong gian bếp của một trường dòng do người Pháp sáng lập tại Đà Lạt.

    Những nét văn hóa

    Một nữ tu với các bệnh nhân bệnh phong trước mộ Giám mục Pháp Jean Cassaigne tại trại phong Di Linh, Lâm Đồng.

    Theo Tachcafe

  • Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang 1969

    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang 1969

    Honda SS90 hầm hố, Vespa thanh lịch, Yamaha Dame bình dị… là những mẫu xe máy xuất hiện phổ biến ở Nha Trang năm 1969.

    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Vẫn là một chiếc xe Yamaha Dame màu xanh dương, nhưng lần này người cầm lái là một thiếu nữ tân thời.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Một chiếc Honda SS50 “siêu tải” với hai vợ chồng và ba đưa con nhỏ.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Hai thiếu nữ áo dài trên chiếc Honda Dame C50 màu xanh lá.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Bà mẹ trổ tài chở bốn đứa con trên chiếc Honda Dame C50.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Ba chiếc Honda 67 cùng xuất hiện trong bức ảnh này.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Người đẹp áo dài đỏ trên chiếc xe Yamaha Dame màu xanh dương nhạt ở đường Duy Tân (nay là đường Trần Phú), Nha Trang năm 1969. Loạt ảnh đăng tải trên trang Flickr của một nhiếp ảnh gia người Mỹ có nick ElectroSpark.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Honda SS90 và Vespa sóng đôi trên một góc phố Nha Trang.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Hai quý bà ngồi Honda Dame C50 đi ngang qua các xe tải chở lính Mỹ.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Người đẹp mặc áo dài cùng tông màu với chiếc Honda Dame C50 của mình.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Hai bố con trên chiếc Honda Dame C50 đỏ.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Người đàn ông và ba em bé trên chiếc Honda Dame C50 màu đỏ.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Hai bố con trên xe Honda SS50.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Cao bồi phổ biến trên chiếc Honda SS90 hầm hố.
    Vài ảnh đời thường về xe máy ở Nha Trang
    Một gia đình trên chiếc Vespa.
  • Rue Catinat – con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Rue Catinat – con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Trong quyển “Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” (NXB. Đinh Thái Sơn, Sài Gòn, 1909), nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Việt Nam thời Pháp thuộc Nguyễn Liên Phong đã mô tả đoạn đầu đường Catinat (sau đổi tên thành Tự Do, và Đồng Khởi ngày nay) vào đầu thế kỷ 20 như sau:

    “Nhứt là đường Ca-ti-na,
    Hai bên lầu các, phố nhà phân minh
    ..Máy may mấy chỗ quá nhiều,
    Các tiệm tủ ghế dập dều phô trương
    Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương [đan]
    Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi
    ..Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
    Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son”

    “Rue Catinat” là tên gọi của đường Đồng Khởi ngày xưa. Nếu Sài Gòn đã tồn tại hơn 300 năm có lẻ thì ắt hẳn Catinat đã phải đồng hành cùng đô thị phồn vinh này hơn 2/3 chặng đường và chứng kiến vùng đất Gia Định xưa trải qua bao nhiêu biến động lịch sử.  Có lẽ cũng chẳng ngoa khi ví Đồng Khởi như một cầu nối thời gian giữa Sài Gòn hiện đại và cũ xưa. “630 thước vàng ngọc” đã qua nhiều lần đổi tên từ Rue 16, Rue Catinat đến Tự Do và cuối cùng nó chính thức mang tên Đồng Khởi.

    Theo nhiều tư liệu thì “Rue Catinat” được xem là con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn. Đây cũng là con đường đầu tiên được thiết lập khi Pháp quy hoạch lại thành phố sau khi chiếm được và phá thành Sài Gòn. Còn được gọi là “Rue no. 16” lúc ban đầu cho đến khi là con đường được tráng nhựa đầu tiên, “Rue Catinat” nhanh chóng trở thành trung tâm sinh hoạt thương mại của thành phố.

    Sau khi các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, xe lửa), công sở, cơ quan hành chánh và thương mại được thống đốc dân sự Le Myre de Vilers (1879 – 1883) năng động khởi công và thúc đẩy hoàn thành, Sài Gòn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sau hơn 35 năm bị Pháp chiếm đóng, đã trở thành một thành phố có cảnh quan được quy hoạch hài hòa, kiến trúc khu trung tâm có nhiều nét tương đồng các thành phố ở châu Âu. Thậm chí, các du khách đến từ Âu châu và Viễn Đông (chỉ các nước Đông Á) đã có cảm nhận chung Sài Gòn là “Perle de l’Orient” đối với người Pháp, hay “Paris of the East” đối với các du khách từ các quốc gia hay thuộc địa nói tiếng Anh trong vùng Viễn Đông.

    Để cảm nhận lại hơi thở Sài Gòn xưa trên Rue Catinat, ta có thể đi từ đầu đường, phía bờ sông Sài Gòn, đến phía cuối đường có dốc lên thoai thoải đến Nhà thờ Đức Bà (xưa kia vị trí này là trung tâm của thành Phiên An, tức thành Quy, thời vua Gia Long).

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Bức ảnh được chụp cuối thế kỷ 19 này ghi lại đoạn đầu đường Catinat. Vị trí ngôi nhà bên trái có người đàn ông đứng tựa cửa, cũng là số 1 đường Catinat, sau này sẽ là khách sạn Majestic.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Trong một bức ảnh của nhiếp ảnh gia Ludovic Crespin (có cửa tiệm “Photo Studio” ở số 136 đường Catinat) được cho là chụp vào khoảng cuối thập niên 1910 và đầu 1920, phía trái hình là hai tiệm đổi tiền của ba người Ấn (mà người Pháp gọi là “malabar”), số 1 đường Catinat của ông Mougamadou Abdoullah (1909), ông Mougamadou Oussaine (1910) và số 1bis của ông Mougamade Abdoullah (3) (theo niên giám Đông Dương 1909, 1910)

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Trong một bức ảnh được chụp sau đó, vị trí bên trái đầu đường Catinat là khách sạn “Hôtel d’Annam” (Nam Việt khách lầu) của ông Huỳnh Huệ Ký

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Ở phía đối diện là quán Cafe de la Rotonde nằm ở địa chỉ số 2 Catinat. Bên phải bức ảnh là đường Quai de Belgique (đường Tôn Đức Thắng ngày nay) với hai hàng cây ở một bên hè. Bức ảnh được chụp vào năm 1901, lúc này Sài Gòn vẫn dùng loại đèn thắp dầu để chiếu sáng.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Ngôi nhà số 1 Catinat sau đó bị phá bỏ để xây dựng khách sạn Majestic

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Khách sạn Majestic được xây dựng bởi công ty thuộc quyền sở hữu của thương gia người Việt gốc Hoa giàu có bậc nhất miền Nam Việt Nam thời bấy giờ là Hui Bon Hoa (hay còn gọi là Chú Hỏa)

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Khách sạn Majestic thuở ban đầu có 3 tầng lầu, 44 phòng ngủ do một kiến trúc sư người Pháp thiết kế

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Năm 1948 Sở Du lịch và Triển lãm Đông Dương (The Indochina Tourism & Exhibition Department do ông Franchini Mathieu – một người Pháp – điều hành) mua lại toàn bộ tầng trệt và lầu 1 khách sạn và thuê 44 phòng trong thời hạn 30 năm.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Cũng như Bảo tàng Mỹ thuật hay Nhà khách Chính phủ, khách sạn Majestic được xây dựng theo phong cách Baroque rất được ưa chuộng thời bấy giờ và ngay cả hiện nay. Nó mang dáng vẻ kiến trúc cổ châu Âu thời phục hưng, cổ kính và sang trọng bậc nhất Sài Gòn ngay khi xây xong vào năm 1925.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Khách sạn Majestic sở hữu tầm nhìn thoáng rộng ra sông Sài Gòn

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Bến sông sau đó được cải tạo thành công viên

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Lúc này đường Catinat được đổi tên thành Tự Do. Từ sau 1975, đường Tự Do được đổi tên thành Đồng Khởi.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Khách sạn Majestic được xếp hạng 5 sao vào năm 2007. Khu mới (trên đường Nguyễn Huệ) của khách sạn Majestic được khởi công xây dựng vào tháng 7.2011, sẽ bao gồm 2 khối tháp cao 24 tầng và 27 tầng, 4 tầng hầm, với 353 phòng mới. Sau khi hoàn thành, khách sạn Majestic mới sẽ có tổng cộng 538 phòng.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Một chiếc xe kéo đoạn đầu đường Catinat. Theo nhiều tài liệu thì xe kéo xuất hiện đầu tiên tại Hà Nội vào năm 1883 do Toàn quyền Bonnal cho đem từ Nhật qua. Gần 15 năm sau Sài Gòn mới biết tới loại xe kéo này (trước đó đây phương tiện di chuyển duy nhất ở đây là xe ngựa).

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Tòa nhà ngay góc ngã tư Catinat – Vannier (Ngô Đức Kế ngày nay). Đây cũng là ngã tư đầu tiên của đường Catinat.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Ngày 24.10.1930, ông Henry Edouard Charigny de Lachevrotière – Tổng biên tập của một tờ báo Pháp có được giấy phép chính thức mở Grand Hotel Saigon. Khi đó nó chỉ là một cửa hàng nước giải khát nhỏ nằm ở góc đường Catinat và Vannier (Ngô Đức Kế)

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Năm 1937 Grand Hotel đổi tên thành Saigon Palace

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

     

    Tên gọi “Saigon Đại Lữ Quán” có từ năm 1958

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

     

    Nằm ở số 130 Catinat là quán cà phê kiêm khách sạn Café de la Terrace, bên cạnh quảng trường Francis Garnier (quảng trường Nhà hát Lớn, tức Nhà hát Thành phố ngày nay)

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Cạnh khách sạn và quán Café de la Terrace nổi tiếng, ở số 128 Catinat là tiệm tạp hóa của bà Wirth. Ngoài bán hàng, bà Wirth còn sản xuất và thương mại hóa các ảnh “cartes postales” từ cuối thế kỷ 19 với các ảnh xưa ở Sài Gòn, quý hiếm trong giai đoạn đó cho đến đầu thế kỷ 20.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

     

    Cạnh ngôi nhà đầu đường, ở số 157bis Catinat là một tiệm bánh ngọt (patisserie) của ông Marius Rousseng

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Năm 1923 Sài Gòn khai thác tuyến xe điện đầu tiên (trước đó, từ năm 1881, người Sài Gòn đã gọi các tramways là tàu điện dù thực chất đó là tàu hỏa chạy bằng dầu và than). Café de la Terrase trong bức ảnh này đã đổi thành L’information d’Extreme-Orient.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Sài Gòn những năm 1950s. Lúc này, L’information d’Extreme-Orient (vị trí cũ của Café de la Terrase) đã đổi thành tên thương hiệu thuốc Aspirine – Usines du Rhône

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Trạm xe điện ngay trước vị trí của Café de la Terrase trước kia

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Năm 1957 trên khu đất trước đây là Cafe de la Terrase đã khởi công xây dựng khách sạn Caravelle bởi các nhà đầu tư lớn của Air France và chính phủ Úc. Khách sạn chính thức khai trương vào đêm Giáng sinh 1959.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài Gòn

    Khách sạn Caravelle đặt theo tên một loại máy bay của hãng hàng không Air France. Hãng này có văn phòng ở tầng trệt của khách sạn. Điều thú vị là ngày nay văn phòng bán vé Air France vẫn còn duy trì hoạt động ở tầng trệt Caravelle.

    Rue Catinat - con đường xưa và nổi tiếng nhất Sài GònKhách sạn Caravelle ngày trước

    Nguồn: saigonamthuc.thanhnien.com.vn

  • Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Khu dinh thự của Trần Lệ Xuân – Ngô Đình Nhu ở Đà lạt tráng lệ đến khó tin, được bảo vệ nghiêm ngặt không thua kém gì những cơ sở quân sự trọng yếu.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Nằm trên một ngọn đồi ở phía Tây TP Đà Lạt, biệt điện Trần Lệ Xuân là một di tích lịch sử đặc biệt gắn với cuộc đời Trần Lệ Xuân, người phụ nữ quyền lực nhất của thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Khu biệt điện vợ chồng Trần Lệ Xuân – Ngô Đình Nhu cho xây dựng năm 1958 trên một khuôn viên rộng tới 13.000m2. Đây là một quần thể kiến trúc gồm nhiều hạng mục công trình khác nhau, trong đó các công trình chính là 3 ngôi biệt thự mang những cái tên mỹ miều: Bạch Ngọc, Lam Ngọc và Hồng Ngọc.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Biệt thự Bạch Ngọc (trong ảnh) là nơi giải trí của gia đình Trần Lệ Xuân và các sĩ quan cao cấp thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Biệt thự này có một bể bơi nước nóng ở rất rộng ở phía trước. Đây là bể bơi nước nóng duy nhất của toàn miền Nam thời điểm đó.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Biệt thự Lam Ngọc là tư gia của Trần Lệ Xuân – Ngô Đình Nhu. Ông bà Nhu thường nghỉ ở đây mỗi khi đáp máy bay lên Đà Lạt vào dịp cuối tuần.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Phía sau biệt thự Lam Ngọc là một vườn hoa tuyệt đẹp do các kỹ sư đến từ Nhật Bản thiết kế, nên được gọi là vườn hoa Nhật Bản. Trong vườn hoa có một hồ nước, khi bơm đầy nước thì mặt hồ sẽ tạo thành hình địa đồ Việt Nam.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Để đề phòng bị tấn công bất ngờ, trong biệt thự Lam Ngọc còn có một căn hầm trú ẩn được thi công bằng loại thép đặc biệt, có thể chống đỡ sức công phá của hỏa lực hạng nặng. Trong căn hầm này có một đường hầm thoát hiểm.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Biệt thự Hồng Ngọc, biệt thự cuối cùng của khu biệt điện được Trần Lệ Xuân xây dựng để tặng cha mình là ông Trần Văn Chương – thời điểm đó đang là đại sứ Việt Nam cộng hòa tại Mỹ. Tuy vậy, ông Chương chưa kịp ở thì chế độ Diệm – Nhu đã bị lật đổ.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Ba ngôi biệt thự Bạch Ngọc, Hồng Ngọc, Lam Ngọc không chỉ có những nét kiến trúc độc đáo riêng mà còn kết hợp hoàn hảo với nhau qua những lối đi và khu vườn được thiết kế rất đẹp trong khung cảnh thơ mộng của đồi thông xứ Lang Biang.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Dược coi là “sân sau” của gia đình quyền lực nhất VNCH thời điểm đó nên khu biệt điện được huy động tối đa trí lực, nhân lực và vật lực cho việc xây dựng. Sau khi hoàn thành, nơi đây được bảo vệ nghiêm ngặt không thua kém gì những cơ sở quân sự trọng yếu.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Tuy nhiên, sự tồn tại của biệt điện Trần Lệ Xuân chỉ kéo dài được 5 năm đến khi cuộc chính biến 1963 xảy ra. Dưới thời Nguyễn Văn Thiệu, tòa biệt điện được trưng dụng làm Bảo tàng Sắc tộc Tây nguyên.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Đến năm 1975, trong cuộc tháo chạy của chế độ cũ, rất nhiều tài sản có giá trị của biệt điện, gồm các đồ dùng của gia đình Trần Lệ Xuân cũng như các cổ vật của bảo tàng sắc tộc Tây Nguyên đã bị đưa ra nước ngoài. Chỉ còn một số ít hiện vật cồng kềnh hoặc ít có giá trị còn được lưu giữ.

    Loạt ảnh dinh thự tráng lệ của Madame Trần Lệ Xuân

    Sau 1975, chính quyền mới đã tiếp quản và gìn giữ nơi này như một phần tài sản quốc gia. Đến năm 2007, khu biệt lịch sử chính thức trở thành Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, nơi lưu giữ và trưng bày Mộc bản triều Nguyễn cùng nhiều tư liệu lịch sử về chủ quền biển đảo phục vụ như cầu tham quan, nghiên cứu của các tầng lớp nhân dân..

  • Lịch sử chùa Tĩnh Lâu ( chùa Sải )

    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu ( chùa Sải )

    Chùa Sải, tên chữ Tĩnh Lâu tự, tồn tại từ thế kỷ 16, được công nhận Di tích lịch sử – văn hóa theo Quyết định số 1460/QĐ-VH ngày 28-6-1996 của Bộ Văn hóa – Thông tin.
    Địa chỉ: góc phố Trích Sài – Võng Thị, thuộc làng Hồ Khẩu, phường Bưởi, quận Tây Hồ, tp Hà Nội. Toạ độ: 21°3’0″N 105°48’46″E, cách Hồ Gươm khoảng 6km về hướng tây-bắc; gần các bến xe bus số 13, 25, 55 dừng trên phố Lạc Long Quân và số 45 dừng trên phố Thuỵ Khuê.
    Lược sử
    Chùa Tĩnh Lâu tọa lạc trên một khu đất cao ở cuối làng Hồ Khẩu (Miệng hồ), mặt chính điện nhìn về phía sông Hồng ở hướng đông-bắc. Dưới thời Lê, nơi đây thuộc huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên, kinh thành Thăng Long. Tương truyền ban đầu chỉ có một am nhỏ thờ các vương tôn quí tộc thời Lý, về sau am mới trở thành chùa thờ Phật. Vì do sư sãi trông coi nên còn có tên là chùa “Sãi”, lâu dần dân làng gọi chệch ra chùa “Sải”.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Tam quan chùa Tĩnh Lâu trong dịp Tết. Photo NCCong ©1-2012
    Theo văn bia để lại, năm Mậu Ngọ (1618) khi Hà Đông có hạn lớn, các quan nội phủ theo lệnh chúa Trịnh Tùng đã về chùa làm lễ cầu đảo được linh ứng. Năm Canh Thân (1620), Trịnh Tùng xuống chiếu ban vàng bạc và thu hồi 10 công mẫu đất hương hoả của chùa làng đã bị một số người có thế lực chiếm dụng để trả lại cho hai chùa Chúc Thánh, Thanh Lâu.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Tượng Phật A Di Đà ở sân trước tiền đường chùa Tĩnh Lâu. Photo NCCong ©1-2012
    Chùa từng mang tên chữ là “Thanh Lâu tự” trong suốt hơn hai thế kỷ, trên quả chuông chùa đúc năm Cảnh Thịnh thứ 7 (1799) và tấm bia hậu dựng năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) đều vẫn khắc tên như thế. Nhưng trên một tấm bia khác ghi việc tu bổ chùa vào năm Tự Đức thứ 14 (1862) đã thấy thay bằng chữ “Tĩnh Lâu tự” và tên đó được dùng cho đến ngày nay.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Chùa Tĩnh Lâu nhìn từ vệ tinh
    Kiến trúc
    Tam quan chùa được làm theo kiểu vòm cuốn với kiến trúc hai tầng, tám mái lợp ngói ống giả, đầu đao cong thanh thoát nhẹ nhàng dưới tán lá xanh của một cây bồ đề to lớn bên bờ Hồ Tây mênh mông. Sau tam quan là một sân rộng, ở giữa có một pho tượng Phật A Di Đà trắng toát trong tư thế kiết già toạ sen trên bệ cao đặt trước giả sơn. Bên trái sân là vườn tháp mộ và ngõ vào khu vực phía sau chùa. Từ sân lên hiên tiền đường có hai bậc thềm rộng, ở giữa là một thềm nghiêng với đôi rồng đá chầu hai bên.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Vườn tháp cạnh ngõ vào chùa Tĩnh Lâu. Photo NCCong ©4-2014
    Năm 2006, Ni sư trụ trì Thích Đàm Chung làm lễ khởi công xây mới tòa Tam bảo với qui mô hai tầng. Toà nhà có kết cấu theo kiểu truyền thống hình chuôi vồ, gồm năm gian tiền đường và bốn gian hậu cung. Vật liệu xây dựng chủ yếu là bê tông cốt thép làm sàn và hơn 100m3 gỗ lim làm khung. Giảng đường, nhà ăn, trường học nằm ở tầng dưới, điện Phật đặt ở tầng trên. Khung đỡ gồm 20 cột gỗ lim đường kính 0,4m, cao 5m. Lan can gồm 42 trụ đá được chạm khắc hình tứ linh, tứ quý, thể hiện 42 thủ ấn của đức Quán thế âm Bồ tát.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Toà Tam bảo chùa Tĩnh Lâu nhìn từ giả sơn. Photo NCCong ©4-2014
    Mái toà Tam bảo lợp ngói mũi hài, bờ nóc ở hai đầu kìm đắp hai dấu vuông, bờ dải phía dưới xây theo kiểu tam cấp, ở trên trang trí các hoa văn hình chữ triện. Phía trước hiên có hai cột trụ xây nối liền với tường hồi của gian tiền đường, trên đỉnh cột có đắp đôi nghê chầu. Dưới con nghê là mui luyện, lồng đèn và các hình đầu rồng, hổ phù, hoa lá… Thân trụ hình vuông, các mặt có đề câu đối chữ Hán. Sau lưng toà Tam bảo là một sân rộng, hai bên có nhà thờ Mẫu và Trai đường. Hậu đường nằm ở cuối sân, bao gồm hai nếp nhà xây theo hình chữ Nhị. Năm 2014 chùa bắt đầu sửa sang khu vực này và xây tường bao toàn bộ khuôn viên chùa.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Khu vực phía sau chùa Tĩnh Lâu. Photo NCCong ©4-2014
    Di vật
    Trên tam quan chùa có đôi câu đối:
    “Hộ thượng Tĩnh Lâu thuý trúc hoàng hoa giai Phật tử
    Môn tiền sạn phát trường tùng tế thảo thị chân thư”.
    Tạm dịch là:
    “Trên gác Tĩnh Lâu, trúc biếc cúc vàng đều Phật tử
    Trước cửa thờ tự, tùng già cỏ mịn chính chân thư.”
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Tam quan chùa Tĩnh Lâu nhìn từ trong ra. Photo NCCong ©4-2014
    Trong chùa hiện lưu giữ được những hiện vật quý hiếm, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 16-17. Các pho tượng Phật giáo được tạo tác công phu, trau chuốt, đường nét thanh thoát, kế thừa tinh tuý của nền điêu khắc thời Lê-Mạc. Đặc biệt ở chính điện có tòa Cửu Long trông như chiếc lọng che (bảo cái), được xem là một tác phẩm độc đáo, khác với hình dáng thường thấy.
    Lịch sử chùa Tĩnh Lâu, chùa Sải
    Tiền đường chùa Tĩnh Lâu. Photo NCCong ©4-2014
    Ba pho tượng Phật Tam thế trong chính điện được tạc gần bằng kích cỡ của người thật, trong tư thế ngồi kiết già trên đài sen ba lớp với khuôn mặt thon thả, sống mũi thẳng, miệng hơi mỉm cười và đôi mắt khép hờ như đang nhìn xuống. Ngoài ra còn có 38 pho tượng nữa, trong đó bộ tượng Phật A Di Đà cao 1,34m là lớn nhất.
    Chùa Tĩnh Lâu còn lưu giữ được một số di vật có giá trị khác. Ngoài 15 tấm bia đá cùng nhiều hoành phi và câu đối cổ, tại cửa ra vào có treo quả chuông đồng đề chữ “Thanh Lâu thiền tự”, do thiền sư Hải Vĩnh và một nữ hội chủ (thế danh Đồng Thị Đính, pháp hiệu Diệu Nương) hưng công cho đúc vào năm Cảnh Thịnh thứ 7 dưới thời Tây Sơn./.

    Theo vanhien.vn

  • Sài Gòn xưa và mốt thời trang vượt thời gian

    Sài Gòn xưa và mốt thời trang vượt thời gian

    So với miền Bắc và các vùng nông thôn Việt Nam thời kỳ đó, trang phục của các quý cô Sài Gòn đã có nhiều thay đổi, phóng khoáng hơn, “Tây” hơn và nhiều màu sắc hơn. Trên đường phố Sài Gòn thời điểm đó không thiếu bóng dáng những chiếc váy suông, váy xòe hay bó sát gợi cảm. Phái đẹp ngày ấy cũng đã biết cách phối đồ váy áo với phụ kiện, giày dép khá cầu kỳ.

    Thiếu nữ Sài Gòn trước năm 1975 đã diện mốt chân váy ôm kết hợp cùng sơ mi sát nách như những cô gái công sở ngày nay

    Hai trang phục xưa cũ và giản dị nhất là chiếc áo bà ba truyền thống và áo dài chiết eo trứ danh. Áo bà ba xuất hiện không nhiều ở thành thị, thường chỉ những người già hoặc người làm công việc lao động chân tay như bán hàng rong vỉa hè hay trong các khu chợ mới thường mặc.

    Còn áo dài lại được phụ nữ Sài Gòn khi ấy coi là một thứ váy áo mặc hàng ngày chứ không phải một “bộ cánh” chỉ được trưng diện những dịp trọng đại một năm vài lần. Họ có thể mặc áo dài đi tiệc, đi làm hay đi học, và cả khi xách giỏ đi chợ. Áo dài trước năm 1975 được may kiểu phom dáng không quá ôm khít cơ thể như bây giờ, với cổ cao kín đáo và đường chiết eo “trứ danh” nhằm tôn lên vẻ đẹp thắt đáy lưng ong của người phụ nữ.

    Áo bà ba, áo dài dành cho những phụ nữ ưa phong cách ăn mặc truyền thống, kín đáo và đầy nữ tính. Còn váy ngắn, váy xòe hay trang phục ôm sát dành cho những quý cô chuộng nét đẹp phương Tây hiện đại, thời thượng và gợi cảm.

    Phụ nữ Sài Gòn xưa chuộng mốt áo tân thời thắt eo, ngực nhọn

    Những phụ nữ bán hàng, chạy chợ quen thuộc với chiếc áo bà ba, nón lá giản dị

    Với thời trang nam lúc bấy giờ, những đôi tông Lào hay dép quai hậu nhựa dẻo đang rất thịnh hành

    Thiếu nữ Sài Gòn sành điệu với mốt phối kính mát cùng các loại trang phục, từ áo phông, quần bó khỏe khoắn đến áo dài mềm mại

    Những phụ nữ chuộng vẻ đẹp phương Tây ưa thích kiểu tóc ngắn đánh bồng phồng cao, còn các cô gái truyền thống giản dị với tóc xõa hay cột gọn gàng với chiếc kẹp ba lá

    Mốt “xuyên thấu” gợi cảm cũng đã manh nha xuất hiện trên phố Sài Gòn những năm 60, 70

    Bà Tuyết Mai (mẹ của MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên) và nữ diễn viên Kiều Chinh trong tà áo dài được cách tân phần cổ áo năm 1961

    Cách phối áo dài truyền thống với băng đô đồng màu vẫn được nhiều cô gái Việt Nam thời hiện đại ưa chuộng

    Hai thiếu nữ Sài Gòn xưa rất biết cách phối đồ khi mặc nguyên “cây” đỏ cực “chất” hay chiếc váy suông không tay hoa văn xanh kết hợp cùng sandals ton – sur – ton

    Dáng váy suông đuôi cá nhiều màu sắc trên phố Sài Gòn xưa (trái)

    Thiếu nữ Việt Nam hơn 40 năm về trước (trái) đã diện áo ngắn mang dáng dấp crop top, tay đeo đồng hồ, tóc đánh bông hiện đại kết hợp cùng kính mát tối màu sành điệu

    Kiểu dáng mũ bê rê từng xuất hiện tại Sài Gòn xưa cũng vẫn được các cô gái trẻ ngày nay yêu thích.

    Xưa chưa bao giờ là cũ. Điều này trong thời trang luôn luôn đúng. Đừng vội nghĩ rằng là thời nay mình thật sành điệu và các bà các mẹ thật lỗi thời bởi ngay từ xưa, những bậc sinh thành của chúng mình vốn cũng từng “chất” và oách chẳng kém gì chúng mình bây giờ đâu.

    Nếu bạn nghĩ rằng các bà các mẹ của chúng mình thật “lỗi thời” thì xin thưa rằng, họ cũng đã từng có lúc sành điệu chẳng kém gì chúng ta bây giờ. Thậm chí nhiều xu hướng hiện tại mà chúng ta áp dụng vốn đã được ưa chuộng từ tận nửa thế kỷ trước.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Không tin ư, hãy cùng nghía qua một số xu hướng dưới đây từ Sài Gòn xưa những năm 60, để rồi bạn sẽ thấy là, đúng là giống thật!

    Váy suông ngắn

    Cứ mỗi khi hè về là các nàng lại lao ngay ra shop, mua về một cơ man nào là váy suông và váy dáng chữ A thoải mái. Đúng là rất hợp mốt, nhưng câu chuyện về những chiếc váy ngắn đầy nữ tính như thế này đã bắt đầu từ thời bà và mẹ của chúng mình cơ.

    Nhắc đến thời trang những năm 50s-60s, đặc biệt là những năm cuối của thập niên này thì chắc hẳn không thể không nhắc đến những chiếc váy dáng suông rộng rãi – trang phục vốn được coi là một sự cách tân mang tính lịch sử trong ngành thời trang lúc bấy giờ. Kiểu váy này mang lại cho người mặc cảm giác vô cùng thoải mái, mà vẫn thanh lịch và mang chút cổ điển.

    Ngày nay váy suông được biến tấu với đủ chất liệu và chi tiết bắt mắt, nhưng nhìn chung, chúng cũng không quá khác biệt so với kiểu dáng ngày xưa là mấy.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Block heels

    Từ trước khi nhường chỗ cho những đôi giày gót nhọn hoắt đầy gợi cảm, giày đế thô là phụ kiện mang tính “quốc dân” của phụ nữ Sài Gòn xưa. Kiểu giày này đi rất vững chân mà trông lại cá tính vô cùng.Ngày nay, giày đế thô đã được cách tân với phần đế loe ra để trông “mềm dáng” và mới lạ hơn.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Kitten Heels với váy ngắn/quần loe

    Từ năm 2013, cả thế giới phát cuồng lên vì những đôi giày kitten heels với phần mũi nhọn,gót thấp và nhỏ nhắn. Kiểu giày này chinh phục giới thời trang bởi nét xinh xắn, trẻ trung nhưng lại sang chảnh và khá dễ diện đồ. Mẫu giày huyền thoại này đã được phát triển thành nhiều kiểu dáng đa dạng hơn, với đủ thiết kế từ tối giản cho quý cô thanh lịch cho đến phá cách cùng chi tiết đinh tán, color block, in họa tiết… cho những cô nàng mạnh mẽ.

    Thực chất kitten heels cực thịnh vào những năm 60. Cứ sải bước ra phố ở Sài Gòn là lại bắt gặp các quý cô ăn vận chỉnh tề, thong dong sải bước trong đôi kitten heels. Cũng chính vì gắn liền với thời gian đó nên mỗi khi nhắc đến kitten heels thì ấn tượng đầu tiên luôn là “vintage”.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Kính râm

    Nếu được bình chọn xem đâu là món phụ kiện “bất ly thân” của các tín đồ thời trang Sài Gòn xưa thì đó ắt là kính râm. Hơn 50 năm trước, các bà các mẹ chúng ta không thể ra đường nếu không có một đôi kính râm thật oách trên khuôn mặt. Kiểu kính mà họ đeo cũng rất gần gũi với hiện tại, đủ kiểu dáng từ gọng vuông, tròn, mắt mèo và thậm chí có cả họa tiết.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Ngọc trai

    Dior và Chanel đang lăng xê “điên đảo” những món phụ kiện ngọc trai, và bạn thấy chúng quả đáng mê từ cái nhìn đầu tiên. Các bà các mẹ của chúng mình ở Sài Gòn xưa cũng thế đấy. Không cần cầu kỳ trong khoản phụ kiện, chỉ cần một chiếc vòng ngọc trai đeo sát quanh cổ là đã chứng nhận độ “sang” của các tín đồ thời trang lúc bấy giờ. Ngọc trai được phối từ trang phục dạo phố, áo dài cho đến cả… bikini.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Kẻ mắt mèo

    Trang điểm mắt khá đơn giản với một đường eyeliner màu đen và cong về phía đuôi mắt, thêm một chút phấn nâu để tán ở vùng chữ V hốc mắt. Điểm nhấn tập trung chủ yếu ở hàng mi cong vút, cặp chân mày được tô đậm nhưng mảnh và được vẽ cao hơn bình thường. Đây chính là cách kẻ mắt mèo của phụ nữ Sài Gòn xưa.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Lông mày rậm

    Kiểu lông mày rậm đang được cho là xu hướng “hot” của năm 2016. Lông mày rậm khiến cho đôi mắt bạn sâu và sắc nét hơn. Kiểu làm đẹp này vốn đã được nhiều nữ minh tinh, ca sỹ của thập niên 60 như Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương áp dụng.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh

    Tóc Pin-up

    Sấy phồng mái tóc, kết hợp với kẻ mắt mèo và son đỏ là bạn sẽ trở thành một “Pin-up girl” chính hiệu. Kiểu tóc này ngày nay không còn được áp dụng rộng rãi vì nó hơi tốn thời gian và cũng bởi sự xuất hiện của… mũ bảo hiểm. Tuy nhiên nhiều người đẹp vẫn thích chọn tóc Pin-up khi tham dự các bữa tiệc. Ngay cả các ngôi sao nổi tiếng thế giới như Katy Perry vẫn còn mê mệt kiểu tóc này.

    Loạt ảnh

    Loạt ảnh
    HinhanhVietnam tổng hợp
  • Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Cuộc sống ở Hà Nội năm 1992 hiện lên trong ảnh của nhiếp ảnh gia người Australia Peter Charlesworth với những nét đơn sơ, mộc mạc, đánh thức ký ức của nhiều người… Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992
    Những chiếc xe lu thế hệ cũ “diễu hành” trên phố Hàng Bài, gần hồ Hoàn Kiếm.

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Một chiếc xe bò trên phố Lê Duẩn, gần chợ Cửa Nam. Đây là phương tiện vận tải phổ biến ở Hà Nội đầu thập niên 1990.

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Cảnh tượng nhộn nhịp ở phố Lê Duẩn.

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Người cảnh sát điều khiển giao thông ở khu phố cổ Hà Nội.

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Kiều nữ Hà thành bị cảnh sát tuýt còi cùng chiếc Honda Cub huyền thoại.

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Tượng đài lãnh tụ cách mạng V. I. Lê-nin tại vườn hoa Lê-nin.

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Những người phụ nữ bán khoai lang trên một con phố vắng.

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Nét “quê” của Hà Nội năm 1992.

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Những người phụ nữ quẩy đòn gánh ra chợ.

    Ảnh cực chất về cuộc sống ở Hà Nội năm 1992

    Cậu bé nông dân trên cánh đồng ngoại ô Hà Nội.

    Theo KIẾN THỨC

  • Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975

    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975

    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975 đến bây giờ vẫn khiến bạn chết thèm khi ngắm ảnh

    Những bức ảnh ẩm thực vỉa hè Sài Gòn xưa cho thấy sự “trường tồn” của các món quà vặt tiêu biểu ở thành phố này như phá lấu, cuốn bò bía hay những cốc chè, ly mía đá.

    Được mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông, Sài Gòn từ trước đến nay luôn hấp dẫn, năng động và có nhiều điều để nhớ nhung. Đối với người Sài Gòn, đặc biệt những người con xa quê, một trong những nhớ nhung, khắc khoải ấy chính là ẩm thực Sài Gòn mà đặc trưng nhất là những hàng quán ven đường, xe đẩy bán hàng rong.

    Thực tế những hàng quán ven đường, trên vỉa hè được xem là nét đặc trưng của Sài Gòn. Rất đơn giản, chúng chỉ là những gánh phở, xe kem, thùng tào phớ, tiệm bún, xe bò bía, gánh mận, những cốc si rô xanh đỏ…  Và chính những thứ tưởng như quá đơn giản và bình dị ấy lại bao chùm được tất cả bản sắc ẩm thực vỉa hè thú vị của thành phố này.

    Cùng ngắm bộ ảnh về ẩm thực vỉa hè Sài Gòn để khám phá thêm về Sài Gòn xưa .

    Xem thêm: Người Sài Gòn xưa giải khát thế nào?

     

    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Sài Gòn phá lấu có nhiều thứ đáng nhớ nhưng nhớ tới nhớ lui lại nhớ cái mâm nhôm của mấy người Hoa đội trên đầu, cái ghế xếp đeo vai và tiếng kéo lách cách thay cho tiếng rao hàng… – ( Ảnh: ttvnol.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Bò bía – món khoái khẩu của học sinh Sài Gòn xưa và nay – ( Ảnh: flickr.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những xe bò bía với nguyên liệu đơn giản luôn đắt khách.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Người Sài Gòn xưa hẳn sẽ chẳng quên được xe mực nướng thơm lừng ven đường mỗi buổi chiều – ( Ảnh: saigonocean.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Mía ghim món ăn vặt rất được yêu thích ở Sài Gòn.  ( Ảnh: skyscrapercity.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
     Một cậu bé với khay mía ghim ở khu trung tâm -( Ảnh: tiengsonghuong )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những sọt bánh mì to đùng, thơm phức ở chợ Cũ đường Hàm Nghi -( Ảnh: skyscrapercity.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Xe bánh mì chả ở chợ hoa Tết, trên đường Nguyễn Huệ.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Chậu chè chuối nguyên quả hấp dẫn này sẽ khiến nhiều người phải nuốt nước miếng vì thèm  – ( Ảnh: 2saigon.vn )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Củ đậu sắn gọt sẵn, để trong tủ kính, sẵn sàng phục vụ thực khách – ( Ảnh: tccl )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một tiệm bán bánh ở Chợ Bình Tây. – ( Ảnh: David Staszak )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một gánh trái cây trên đường phố Sài Gòn – ( Ảnh: Dr. William Bolhofer )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Siro ướp lạnh, món giải khát lý tưởng của thành phố có 2 mùa: nóng và rất nóng – ( Ảnh: vulep-photo )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Chùm ruột, xoài ngâm là những thức quà lúc nào cũng được ưa chuộng – ( Ảnh: saigoneer.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một gánh bún trên đường Phan Châu Trinh, cửa tây chợ Bến Thành -( Ảnh: Flickr )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Quầy măng cụt ăn ngay tại chỗ.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Gánh hàng nem nướng ở góc đường Nguyễn Huệ – Ngô Đức Kế.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Cháo gà và chiếc lon Guigoz – vỏ sữa bột đựng đũa “huyền thoại”.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Các chị, các cô thời thượng không ngại ngồi hàng quán vỉa hè  – ( Ảnh: allanfurtado.com )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Một gánh xôi gà hấp dẫn – ( Ảnh: Tom Briggs )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Ứa nước miếng khi trót lạc vào tiệm vịt heo quay, xá xíu, lạp xưởng… – ( Ảnh: ttvnol )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Không thể không nhắc đến những xe nước mía – món đồ uống vô cùng được ưa chuộng ở Sài Gòn – ( Ảnh: tuxtini )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những gánh trái cây tươi ngon.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Những xe chè thế này từng rất phổ biến ở Sài Gòn. Đến thập niên 90 vẫn còn vài chiếc xe chè, nước ngọt như chiếc này, nhưng đó trở di thì gần như đi vào dĩ vãng.
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Cà phê vỉa hè là một phần quan trọng của ẩm thực Sài Gòn xưa. Thong dong ngồi trên ghế nhâm nhi ly cà phê mỗi sáng hay chiều tan sở là thói quen rất Sài Gòn của nhiều người Sài Gòn. – ( Ảnh: Flick )
    Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975
    Xe đẩy bán rau má, nước ngọt – những món đồ giải nhiệt không thể thiếu của Sài Gòn xưa – ( Ảnh: tommy japan )

    (Tổng hợp) : Bleu / Trí Thức Trẻ

  • Những hàng cây trăm năm xưa cũ ở Sài Gòn

    Những hàng cây trăm năm xưa cũ ở Sài Gòn

    Những hình ảnh hàng cây được trồng bên hai vệ đường từ thời Pháp thuộc cho thấy từ ngày xưa cây xanh ở Sài Gòn đã được quy hoạch và trồng một cách bài bản.

    Nhiếp ảnh gia Tam Thái là người đã có công sưu tầm những tư liệu quý về cây xanh ở vùng đất Sài Gòn xưa. Ngoài ra, chính ông cũng đã chụp lại nhiều hình ảnh cây xanh trong thành phố, trong đó một số cây hiện đã không còn nữa.

    Mời bạn xem những hình ảnh về cây xanh được trồng trong đô thị xưa của Sài Gòn.

    Cây xanh trên đường Duy Tân (nay là đường Phạm Ngọc Thạch).

    Bức ảnh “Thu về”, được chụp năm 1901. Mọi người đang dạo chơi trên một nẻo đường của phố Sài Gòn.

    Bức ảnh “La Route de Saigon” chụp đầu thế ỷ 20, nay là đường Nguyễn Trãi.

    Đường Chasseloup-Laubat, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai.

    Cây xanh được trồng trên đường Rue de Bankok, nay là đường Mạc Đĩnh Chi.

    Cây xanh trên đường Paul Blanchy, nay là đường Hai Bà Trưng. Ảnh chụp năm 1906.

    Hàng me trên đường Gia Long, nay là Lý Tự Trọng.

    Quảng trường trước Nhà hát thành phố nhìn ra đại lộ cây xanh Bonnard (nay là đường Lê Lợi, quận 1). Hàng cây cổ thụ bên phải, nằm trước hành lang Eden.

    Công viên Gia Định vào đầu thế kỷ 20.

    Hàng cây phượng vỹ trên đường đến cầu Bình Lợi vào đầu thế kỷ 20. Đây cũng là đường Thiên lý Bắc Nam trước thập niên 1950.

    Kênh Bonnard, hay còn gọi là kênh Hàng Bàng vì trên bờ sông có trồng nhiều loại cây bàng.

    Hàng cây xà cừ trên đường Nguyễn Thị Minh Khai. Ảnh chụp năm 2005.

    Đường An Dương Vương, quận 10. Ảnh chụp năm 2006.

    Cây xà cừ trên đường Tôn Đức Thắng. Ảnh chụp năm 2013.

    Đại thụ chùa Hạnh Phú, quận 12. Năm 2012 đã không còn vì nhường đất cho dự án ven sông. Ảnh chụp năm 2000.

    Đại thụ chùa Hạnh Phú, quận 12. Năm 2012 đã không còn vì nhường đất cho dự án ven sông. Ảnh chụp năm 2000.

    Ảnh: tư liệu của nhiếp ảnh gia Tam Thái
    Theo Phạm Hữu/Thanh niên

  • Tại sao gọi Sài Gòn là Hòn Ngọc Viễn Đông?

    Cụm từ “Hòn ngọc Viễn Đông” đầu tiên sử dụng cho toàn cõi vùng đất Đông Dương, sau này không ít người ghép nó với danh xưng Sài Gòn là vùng đất đầu tiên người Pháp chiếm được ở Đông Dương giữa thế kỷ 19.

    Ăn chơi về đêm tại Sài Gòn – “Hòn ngọc Viễn Đông” thời Pháp.

    Từ tham vọng ban đầu của các đề đốc hải quân Pháp muốn biến Sài Gòn thành một tiền đồn thịnh vượng, kinh qua hai cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, thành phố mang tên mới Hồ Chí Minh đang vượt lên thành trung tâm kinh tế lớn nhất Việt Nam và đang có xu thế hình thành một đại đô thị nằm tại ngã ba đường giao thương quốc tế hàng đầu ở Đông Nam Á.

    Tôi vào học ở Sài Gòn giữa những năm 1950. Ở khu trung tâm thành phố, các ngôi biệt thự vẫn là các villa kiểu Pháp giống như ở Đà Nẵng hoặc Huế nơi tôi lớn lên, nhưng thật sự tôi choáng ngợp trước các tòa dinh thự công quyền đồ sộ và uy nghi của một thủ phủ, to lớn hơn rất nhiều công trình đã từng nhìn thấy trước đó, với các đại lộ rộng, trồng cây thẳng tắp, ngăn nắp, trật tự, công viên xinh đẹp có mặt khắp nơi…

    Đây cũng là lần đầu tiên tôi nghe đến danh xưng và phần nào cảm nhận hết ý nghĩa của nó: Sài Gòn “Hòn ngọc Viễn Đông”.

    “Hòn ngọc Viễn Đông”?

    Trước tiên thử xét đến cụm từ “Hòn ngọc Viễn Đông”. Trong quyển sách France in Indochina: Colonial Encounters (Nước Pháp ở Đông Dương: các cuộc đụng đầu thuộc địa), xuất bản năm 2001, tiến sĩ Nikki Cooper, Đại học Bristol, giải thích quá trình Pháp chiếm Đông Dương làm thuộc địa như sau:

    “Quá trình thực dân hóa nhiều vùng lãnh thổ khác nhau mà sau này tạo nên xứ Đông Dương thuộc Pháp diễn ra trong nhiều năm.

    Người Pháp trước tiên chinh phục ở phần đất phía nam tại Nam kỳ trong thập niên 1860. Suốt 30 năm tiếp theo, nước Pháp đã vững vàng tiến lên phía bắc, chiếm thêm Trung kỳ, Bắc kỳ và cả Campuchia lẫn Lào. Các vùng đất này đã được chính thức gộp chung lại dưới tên gọi “Đông Dương thuộc Pháp” vào năm 1885.

    Mong muốn tạo lập một đế chế thuộc Pháp tại Đông Nam châu Á ấy, đã phần nào tạo động lực ganh đua với đế quốc Anh. Đông Dương thuộc Pháp được dự kiến sẽ cạnh tranh với Ấn Độ thuộc Anh.

    Pháp tạo ra “Hòn ngọc Viễn Đông” để đối ứng với Ấn Độ mà Anh “tấn phong” là “viên châu báu trên vương miện”.

    Như vậy cụm từ “Hòn ngọc Viễn Đông” đầu tiên sử dụng cho toàn cõi vùng đất Đông Dương, sau này không ít người ghép nó với danh xưng Sài Gòn là vùng đất đầu tiên người Pháp chiếm được ở Đông Dương giữa thế kỷ 19.

    Danh xưng có lẽ muốn vừa nói đến thực chất tươi đẹp và thịnh vượng của Sài Gòn, cũng vừa mang tính chất tượng trưng lẫn định hướng phát triển.

    Ý đồ ban đầu của thực dân Pháp là đầu tư mạnh mẽ vào Sài Gòn, có quy hoạch xây dựng phù hợp để thành phố này trở thành thủ phủ của Đông Dương; nhưng thật sự là không có căn cứ nào để nói Sài Gòn từng là thành phố được đánh giá số 1 của cả khu vực Đông Nam Á vào thời điểm đó.

    Logo (huy hiệu) của TP Sài Gòn từ năm 1870.

    Bừng sáng giữa vùng rừng ngập nhiệt đới

    Xưng tụng Sài Gòn là “Hòn ngọc Viễn Đông” còn mang nhiều yếu tố tâm lý của khách lữ hành phương Tây.

    Anh bạn kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn có lối lý giải khá độc đáo: “Sau chuyến hải hành kéo dài cả tháng trời, từ hải cảng Marseille miền nam nước Pháp qua Địa Trung Hải, xuyên kênh đào Suez vượt Ấn Độ Dương sóng to gió lớn, lách qua eo biển Malacca vào vịnh Ghềnh Rái, không khó để suy ra tâm trạng mệt nhọc, buồn chán của khách lữ hành, cả tháng ròng chỉ thấy trời và nước.

    Cung cuối chặng đường khi trạng thái rã rời đã lên đến đỉnh điểm, chuyến hải trình theo sông Lòng Tàu xuyên qua rừng đước Cần Giờ, một thứ rừng ngập mặn nhiệt đới mà nhiều người châu Âu chưa gặp bao giờ, cảm giác xa lạ tưởng như càng đi càng xa thế giới văn minh phương Tây quen thuộc.

    Trong tâm trạng cùng cực của cô đơn ấy, bỗng một chiều bừng sáng một thành phố mang nét phương Tây ngay khi tàu cập cảng Sài Gòn.

    Ngủ khách sạn Continental, khách sạn Majestic, ăn thịt bò beefsteak, uống rượu chát vùng Bordeaux, thưởng thức xì gà La Habana, săn bò rừng, lấy da cọp, hút thuốc phiện và chơi gái xuân thì, với thủy thủ tàu viễn dương và đám thực dân đến từ Viễn Tây, Sài Gòn được ngợi ca là “Hòn ngọc Viễn Đông” đâu có gì lạ…

    Dĩ nhiên, nó hoàn toàn không là hòn ngọc với thợ thuyền xưởng đóng tàu Ba Son, cu li bốc vác cảng Sài Gòn, phu xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình bản án nô lệ, kẻ mất nước!

    Vậy thì “Hòn ngọc Viễn Đông” với những dấu ấn thuộc địa chẳng có gì đáng tự hào sao lại là mơ ước của một Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh năng động ngày hôm nay, từng tạo nên những giá trị tiền đề cho công cuộc đổi mới đất nước cách đây 30 năm?”.

    Như vùng đất hứa

    Huy hiệu Sài Gòn đã nói lên ý hướng phát triển của thành phố thời thuộc địa Pháp. Huy hiệu (logo) đó khắc hình con cọp và cây cảnh Sài Gòn, dưới ghi câu tiếng Latin “Paulatim Crescam” (“Từ từ tôi sẽ phát triển lên”) do Hội đồng thành phố Sài Gòn duyệt năm 1870, làm phù điêu treo ở phòng khánh tiết Dinh xã Tây (Tòa thị chính Sài Gòn) vào năm sau đó. Từ ấy, Sài Gòn không chỉ phát triển từ từ, mà còn phát triển vượt bậc vào hàng nhất nhì trong số các thương cảng thuộc địa Pháp.

    Thời gian này nước Pháp đang kinh qua đế chế Napoleon III với nhiều tham vọng thi đua cùng các cường quốc châu Âu khác như Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan, Bỉ… chiếm lĩnh thuộc địa.

    Ý đồ này càng mạnh mẽ hơn với sự trỗi dậy của tầng lớp tư sản công nghiệp thời cộng hòa khát khao các nguồn nguyên liệu, thị trường các năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.

    Một khi đã chiếm lĩnh toàn bộ Đông Dương, người Pháp xây dựng Sài Gòn thành thủ phủ phía Nam, chủ yếu nhằm khai thác nguồn tài nguyên, nhân lực và thị trường rộng lớn một vùng đất gồm Đông Dương, Đông Nam Á và cả miền Hoa Nam của Trung Quốc. Sài Gòn đón nhận những con người năng động nhất đến từ khắp nơi, tìm cách làm giàu ở thương cảng lớn này.

    Vết tích kiến trúc nhà cửa của họ hiển hiện khắp nơi: từ mạng lưới ngõ xóm của người Việt, nhà dãy dạng “shophouse” (nửa ở nửa buôn bán) của Hoa kiều Hong Kong, Singapore, Hoa Nam, phố “bazaar” (cửa hàng buôn và ở) của người Chà Chetty (Nam Ấn Độ), rồi người Java, Mã Lai, người Tagal (Philippines), phố Tây, đặc biệt là dạng villa vườn của người Pháp, người Bỉ, người Đức…

    Sài Gòn từ thuở ban đầu đã được thể hiện như một khát vọng, một ý chí vươn lên của đế quốc Pháp. Mong rằng hiện nay “Hòn ngọc Viễn Đông” sẽ không còn là mong ước, ảo vọng mà trở thành một mục tiêu để hướng tới của người TP.HCM!

    Những mốc lịch sử

    1698: Chúa Nguyễn cho lập phủ Gia Định,  dinh Phiên Trấn.

    1772: Xây lũy Bán Bích ngăn quân Xiêm ở mạn Tây, đào kênh Ruột Ngựa nối liền đồng bằng sông Cửu Long.

    1790: Xây dựng Gia Định thành theo kiểu phòng thủ Vauban.

    1859: Quân Pháp hạ thành Gia Định.

    1862: Phương án quy hoạch Coffyn cho thành phố Sài Gòn.

    1868: Xây cất Dinh thống soái Nam kỳ.

    1923: Kiến trúc sư Hébrard chỉnh lý quy hoạch 
 Sài Gòn.

    1930: Sáp nhập Chợ Lớn vào thành phố Sài Gòn.

    1954-1975: Sài Gòn, thủ đô chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

    1975: Thành phố được giải phóng.

    1976: Sài Gòn đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh, rộng trên 2.000km2, bao gồm cả Sài Gòn – Chợ Lớn và tỉnh Gia Định cũ.

    Theo KTS Nguyễn Hữu Thái/Tuổi trẻ

  • Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

     Không một bưu ảnh, bưu thiếp xưa nào lẫn các văn bản xưa của người Pháp ghi tên chợ Bến Thành trên cả ngôi chợ hiện nay lẫn ngôi chợ cũ trên đường Nguyễn Huệ

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Một bưu ảnh chợ Bến Thành cũ  trên đại lộ Charner (nay là Nguyễn Huệ) cuối thế kỷ 19. Lúc này, kinh Lấp (kinh Charner) đã bị lấp (1887) và thay bằng đường rầy xe điện (tramway). Xa xa là tòa nhà trụ sở UBND TP.HCM hiện nay. Góc phải nhà thờ Đức Bà đã có hai tháp chuông nhọn (gắn năm 1895). bưu thiếp ghi marché (chợ) – boulevard (đại lộ) – Ảnh tư liệu

    Khu chợ Bến Thành cũ trên đường Nguyễn Huệ hiện nay, người Pháp gọi là chợ trung tâm, chợ chính (marché central). Thậm chí chỉ ghi chợ.

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Mặt sau của chợ Bến Thành cũ trên Hồ Tùng Mậu hiện nay năm 1908, dù chỉ 2, 3 năm sau chợ đã dẹp, sau gần 50 năm hoạt động (từ 1860), trên góc bưu ảnh vẫn chỉ ghi trống không “(khu vực) cạnh, gần chợ” (près marché) – Ảnh tư liệu

    Nhưng vẫn có một vài tấm “mạnh dạn” ghi chợ Sài Gòn như trong ảnh dưới đây, khi chỉ ít lâu sau nó sẽ bị dẹp để chuẩn bị sang vị trí ngôi chợ Bến Thành hiện nay đang chuẩn bị xây dựng.

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Ảnh chụp năm 1910, những ngày cuối cùng khi dẹp ngôi chợ cũ này, tấm bưu ảnh hiếm hoi này ghi tên “Chợ Sài Gòn” (Le marché de SAIGON)

    Kỳ lạ hơn là ngay từ khi mở chợ năm 1914 đến 1954 thời thuộc Pháp, chưa bao giờ trước cửa chợ Bến Thành hiện nay lẫn ngôi chợ cũ trên đường Nguyễn Huệ có bảng ghi tên chợ, trừ một giai đoạn ngắn sau năm 1963 có bảng ghi tên chợ Quách Thị Trang (!).

    Việc do dự càng rõ khi mới mở chợ Bến Thành hiện nay (1914), có bưu ảnh ngôi chợ mang tên rất chung chung: tòa nhà trung tâm (Les Halles Centrales), có khi là chợ lớn (grand marché – không viết hoa kiểu tên riêng).

    Nhưng đa số ghi cẩn thận một cách… chung chung: Marché Central (chợ trung tâm, hay chợ chính).

    Xin nói rõ: đây là tên gọi trên bưu ảnh, bưu thiếp chứ cổng chợ không hề treo bảng tên như các chợ khác lúc ấy và hiện nay.

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Bưu ảnh chợ Bến Thành năm 1921 vẫn ghi Tòa nhà trung tâm (Les Halles Centrales)

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Bưu ảnh chợ Bến Thành thập niên 1920 ghi “Sài Gòn, một ngày ở Chợ Lớn ” (A Saigon, un jour de grand marché) – Ảnh tư liệu

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Dòng chữ trên bưu ảnh thập niên 1940: Sài Gòn – chợ trung tâm/chợ chính – Ảnh tư liệu

    Càng kỳ lạ hơn là sau khi tiếp quản ngôi chợ Bến Thành hiện nay từ người Pháp, chính quyền Sài Gòn cho đến năm 1975 cũng vẫn không hề treo bảng tên chợ ở cổng chợ.

    Chỉ một thời gian ngắn sau khi lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, chính quyền Sài Gòn lúc ấy đặt các bảng hiệu tạm bốn cạnh của đông, tây, nam bắc chợ Bến Thành với tên chợ là Quách Thị Trang để ghi nhận cô nữ sinh Quách Thị Trang đã ngã xuống trong phong trào chống chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.

    Nhưng rồi bảng tên chợ Quách Thị Trang bị lặng lẽ gỡ đi lúc nào không rõ…

    Và ngôi chợ lớn nhất Sài Gòn này lại tiếp tục không có bảng tên chợ như hồi nó mới khai thị.

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Mặt tiền chợ Bến Thành trước năm 1975 không hề có bảng tên chợ – Ảnh tư liệu

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Có một thời gian ngắn sau khi lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, chính quyền Sài Gòn đặt một bảng hiệu tạm với tên chợ là chợ Quách Thị Trang (bảng tên màu trắng trên cổng chợ năm 1965 –Ảnh tư liệu

    Nghĩa là dường như người Pháp lẫn chính quyền Sài Gòn vẫn khá rụt rè đặt tên và gọi tên ngôi chợ lớn nhất Sài Gòn này.

    Thế là tên chợ được ghi chép đủ tên trên văn bản lẫn trong các bưu thiếp, bưu ảnh: nào là chợ Charner (vì nằm trên đường Charner), chợ trung tâm, tòa nhà trung tâm, chợ Sài Gòn, thậm chí cả chợ Vải (kênh Charner trước khi lấp dân gọi là kênh Chợ Vải), chợ (trống không -!)… trừ chợ Bến Thành.

    Bí ẩn ở đây là gì?

    Người Sài Gòn – Gia Định xưa vẫn gọi là chợ Bến Thành

    Có một điều cần khẳng định: ngôi chợ cũ trên đường Charner lẫn chợ Bến Thành hiện nay không hề xây dựng lại trên nền chợ Bến Thành xưa mà là những ngôi chợ được xây mới trên vị trí mới hoàn toàn.

    Và chủ đầu tư xây dựng cũng không bao giờ gọi gọi cả hai ngôi chợ (cũ và mới) này là chợ Bến Thành.

    Tên thiệt của Chợ Bến Thành xưa là gì?

    Vị trí chợ Bến Thành cũ trong bản đồ Sài Gòn (Nam kỳ) năm 1878. Bản đồ này cuối đường Charner chưa có tòa nhà trụ sở UBND TP.HCM hiện nay (lúc ấy chưa xây dựng) và khu vực chợ Bến Thành hiện nay còn là ao/đầm Bồ Rệt – Đồ họa: T.Thiên

    Bất chấp điều này, người Sài Gòn – Gia Định xưa vẫn gọi đó cả ngôi chợ cũ trên đường Nguyễn Huệ đến ngôi chợ mới hiện nay mà chúng ta biết với tên gọi: chợ Bến Thành, một tên gọi đi vô ca dao hẳn hoi.

    Cụ thể năm 1904, Sài Gòn gặp một cơn “bão năm Thìn” nổi tiếng rất lớn, chết hàng ngàn người, ca dao xưa đã gọi tên chợ Bến Thành chỉ ngôi chợ trên đường Charner: Bến Thành nóc chợ cũng bay – đèn khí (xưa người ta thắp đèn trên đường phố ban đêm bằng sáng bằng khí đá) nó ngã nằm ngay cùng đường.

    Rồi khi ngôi chợ trên đường Charner dời sang khu vực hiện nay năm 1914, ca dao xưa ghi nhận: Chợ Bến Thành dời đổi – Người sao khỏi hợp tan – Xa gần giữ nghĩa tào khang – Chớ ham quờn quới (quyền quý) mà đá vàng phụ nhau.

    Và một câu ca dao nhiều người biết khi nói đến tiếng còi tàu gần chợ Bến Thành: Mười giờ tàu lại Bến Thành – Xúp lê còi thổi bộ hành lao xao.

    … Có khá nhiều ca dao xưa nhắc tên chợ Bến Thành như vậy. Và lòng người thuở ấy đã ghi lại bằng văn thơ hẳn: trong Nam kỳ phong tục diễn ca (xuất bản năm 1909 – trước khi dời chợ sang nơi mới), tác giả Nguyễn Liên Phong đã dành hơn 50 câu thơ nói về ngôi chợ này: Bến Thành chợ rộng tứ vi – Mấy cửa hàng xén ở thì quanh năm – Chỗ ăn, chỗ ở chỗ nằm….

    Thậm chí, khi dời sang nơi mới hiện nay, người dân gọi ngay đó là chợ Bến Thành: Chợ Bến Thành mới – Kẻ lui người tới – Xem tứ diện rất xinh – Thấy em tốt dáng tốt hình – Chẳng hay em có chốn duyên tình hay chưa?

    Xin nói rõ: đó là cách gọi tên của người Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn xưa về buổi đầu tiên của hai ngôi chợ.

    Phải chăng đó là cách người Sài Gòn – Gia Định xưa lưu luyến một ngôi chợ có thật trong buổi đầu Sài Gòn – Bến Nghé – Gia Định xưa?

    Nhiều người sinh ra và lớn lên sau này, nhất là những người xứ khác đến Sài Gòn một thời gian (tức người nhập cư), cũng nói tên chợ thông qua cách gọi của người Pháp và cho tới năm 1975 đã gọi đó là chợ Sài Gòn: Chợ Sài Gòn cẩn đá – Chợ Rạch Giá cẩn xi mon (ximăng) – Giã em ở lại vuông tròn – Anh về xứ sở không còn ra vô (hoặc: Anh về ngoài nớ, khó còn ra vô).

    Hoặc: Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy – Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa – Viết thơ thăm hết nội nhà – Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em.

    Hoặc: Chiều nay chắc áo xa bâu (túi áo) – Chợ Sài Gòn anh ở, còn huyện Tổng Châu em về.

    Đến năm 1975, người Sài Gòn cũng như các nơi cũng quen gọi phần sót lại của ngôi chợ trên đường Nguyễn Huệ là chợ Cũ và chợ Bến Thành là chợ Mới;  sau này khi tên chợ Bến Thành ít nhiều phôi phai theo thời gian thì gọi là chợ Mới Sài Gòn hoặc chợ Sài Gòn.

     

    CÙ MAI CÔNG/TTO

  • Du lịch khám phá kinh thành Huế

    Du lịch khám phá kinh thành Huế

    Nét trầm mặc cổ kính, đêm Hoàng Cung huyền diệu tái hiện lịch sử của chốn lầu son hay những lời ca ngọt ngào trên sông Hương đã tạo nên một Huế mộng mơ hấp dẫn du khách.

    1. Di tích cung đình còn nguyên vẹn nhất ở Việt Nam

    Nếu bạn từng đến cố đô Hoa Lư (Nình Bình), Cổ Loa, Thăng Long (Hà Nội), những nơi từng là kinh đô của nước Việt Nam, giờ đã trở thành phế tích, sẽ thấy quần thể di tích cố đô Huế vẫn còn được bảo tồn một cách nguyên vẹn nhất. Với cung điện, thành trì, đàn miếu, lăng tẩm, chùa chiền và nhiều nhà vườn có tuổi đời vài trăm năm… cố đô Huế mang trong mình vẻ đẹp thanh bình, yên tĩnh.

    Cố đô Huế lung linh trong đêm. Ảnh: Quang Nguyên

    Du khách đến Huế sẽ được chiêm ngưỡng những kiệt tác nghệ thuật của cung điện vàng son, đền đài lăng miếu lộng lẫy, lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam thắng cảnh trầm mặc. Bên cạnh đó, Huế cũng không kém phần nhộn nhịp đông đúc, là nét hấp dẫn khi muốn tìm một chốn thanh tịnh nhưng không quá u buồn.

    2. Công trình kiến trúc quân sự

    Kinh thành Huế được xây dựng dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng, toạ lạc ở phía Bắc sông Hương, mặt quay về hướng Nam. Kinh thành Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc kiến trúc truyền thống Việt Nam, tư tưởng triết lý phương Đông với thuyết âm dương ngũ hành cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng kiến trúc quân sự phương tây.

    3. Lăng tẩm vua chúa độc đáo nhất

    Lăng tẩm của các vua triều Nguyễn tuân theo đúng nguyên tắc phong thủy như: sông, núi, ao, hồ, khe suối. Bố cục mặt bằng khu lăng tẩm nào cũng chia làm hai phần chính: phần lăng và phần tẩm. Khu vực lăng chôn thi hài nhà vua, khu vực tẩm là chỗ xây nhiều miếu, điện, lầu gác, đình….để nhà vua lúc còn sống thỉnh thoảng rời hoành cung lên đây tiêu khiển. Chính vì vậy, mỗi lăng tẩm Huế, chẳng những là di tích lịch sử văn hoá mà còn là một thắng cảnh, một đoá hoa nghệ thuật kiến trúc độc đáo, riêng biệt giữa chốn núi đồi xứ Huế.

    4. Hệ thống báu vật cung đình quý giá nhất còn được lưu giữ

    Nằm trong Thành Nội, Bảo tàng cổ vật cung đình Huế được thành lập vào năm 1923, với tên đầu tiên là Musee’ Khải Định. Sau đó, nó đã năm lần được thay đổi tên và đến năm 1993, được đổi tên thành Bảo tàng cổ vật cung đình Huế.

    Tại bảo tàng này, bạn sẽ được chiêm ngưỡng và tìm hiểu về hàng nghìn hiện vật gồm đồ gốm sứ, gỗ , đồng, pháp lam, đá, xương, ngà, sừng, điêu khắc trên đá… được trưng bày tại đây.

    5. Phục dựng thành công một số lễ hội cung đình đặc sắc

    Lễ tế xã tắc được tái hiện ở Huế. Ảnh: thethaovanhoa.

    Lễ hội cung đình ở Huế xưa kia là những cuộc lễ mang tính quốc gia, do nhà nước đứng ra tổ chức và thực hiện. Có hàng chục lễ hội lớn nhỏ khác nhau được cử hành hàng năm ở đất thần kinh. Chúng đã được triều đình quy định rất chặt chẽ và nghiêm túc, thậm chí được ghi thành điều lệ. Từ vua quan đến dân chúng, từ hoàng gia đến dân chúng đều phải tuân thủ những điều lệ nghiêm ngặt ấy. Ngày nay, du khách đến Huế sẽ được xem những màn tái hiện lại một số lễ hội cung đình.

    6. Nhã nhạc cung đình

    Nhã nhạc cung đình, một trong những nét đẹp văn hoá nghệ thuật độc đáo của xứ Huế đã được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Đây là dòng nhạc cung đình truyền thống phương đông còn bảo lưu duy nhất ở cố đô này. Du khách có thể thưởng thức những tài năng âm nhạc với những nhạc khí được chế tạo công phu được trình diễn ở Huế.

    Trước đây, thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến này được biểu diễn vào các dịp lễ hội như vua đăng quang, vua băng hà hay các lễ hội tôn nghiêm khác trong 5 triều đại nhà Nguyễn.

    7. Đêm hoàng cung

    Vào mỗi dịp Festival Huế, thành cũ, mái đình rêu phong cổ kính của Đại Nội – Huế về đêm được thắp lên ánh sáng lung linh huyền ảo. Từ cửa Ngọ Môn, cổng chính của khu vực Đại Nội (Hoàng thành Huế), du khách sẽ thấy cờ xí được bày trí, đèn lọng uy nghiêm, hàng lính cấm vệ trong sắc phục truyền thống… Đó là sự tái hiện cuộc sống phồn hoa của chốn hoàng cung khi màn đêm buông xuống. Du khách sẽ được thả hồn mình vào một không gian huyền ảo khói sương với mùi trầm hương nghi ngút, như được sống trong không gian hoàng cung đầy huyền hoặc.

    8. Ca Huế trên sông Hương

    Ca Huế là một món ăn tinh thần quý giá, một thú vui tao nhã mà bất cứ du khách nào đến Huế cũng đều muốn có dịp được được thưởng thức. Du thuyền lướt nhẹ trên sông Hương dưới ánh trăng thơ mộng hay dưới ánh đèn thắp sáng lung linh ở hai bên bờ sông, còn gì tuyệt vời khi được nghe ca Huế.

    Đêm ca Huế trên sông Hương thường được bắt đầu từ 7h tối. Đò nghe ca Huế được thả trên sông đoạn từ Phu Văn Lâu đến cầu Tràng Tiền, đi ngang qua kinh thành để du khách có dịp trải nghiệm những góc nhìn độc đáo về văn hóa lịch sử ở đất cố đô.

    9. Ẩm thực cung đình

    Những món ăn màu sắc được trình bày rất hấp dẫn. Ảnh: A. Thư

    Nói đến ăn uống xứ Huế, người ta thường nghĩ đến lối ăn cung đình, một phong cách ẩm thực được hình thành để phục vụ triều đình nhà Nguyễn trong hơn một thế kỷ đóng đô ở đây. Nền ẩm thực cung đình Huế luôn biểu hiện sự tinh túy, cầu kỳ, trang nhã và thanh cao. Người Huế vẫn giữ được một phần hình ảnh ăn uống chốn cung đình xưa, vì vậy đến Huế bạn sẽ được thưởng thức những tinh hoa của ẩm thực.

    Theo Vne