Category: Địa danh lịch sử

  • Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay

    Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay

    Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay
    Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay
    Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay
    Ga Phủ Lý – Hà Nam xưa & nay

  • Ngập nước, kẹt xe ở Sài Gòn xưa

    60 năm trước ôtô xếp hàng dài, nước cũng ngập nửa bánh xe trên các tuyến đường ở trung tâm thành phố.

    Ngập nước, kẹt xe đang là vấn đề nhức nhối của TP HCM do dân số tăng cao nhưng hạ tầng không đáp ứng kịp. Tuy nhiên, 50-60 năm trước Sài Gòn cũng thường xảy ra ùn tắc.

    Trong ảnh là đường Lê Lợi gần chợ Bến Thành năm 1969. Ảnh do Cittmeyer chụp.

    Kẹt xe ở công trường Diên Hồng trước chợ Bến Thành mà nay là công trường Quách Thị Trang (quận 1). Nhiều người thời đó sợ nhất là qua khu vực này vào tầm 17-18h hằng ngày. Có đêm Noel bị kẹt 4 tiếng tại đây.

    Tuyến đường ken dày ôtô ở trung tâm. Ông Tạ Vũ Tốn (78 tuổi) sống ở Sài Gòn từ nhỏ cho biết việc kẹt xe ở thành phố ngày xưa thường diễn ra trong các dịp lễ, Tết.

    “Những dịp này bà con mình hay ra đường chơi lễ, ngắm phố phường nên mới kẹt. Một năm cũng đôi ba bận thôi. Xe kẹt chủ yếu quanh chợ Bến Thành, nơi nhộn nhịp nhất nhì thành phố hồi đó”, ông Tốn hồi tưởng.

    Ôtô xếp hàng dài vì không có lối đi ở đường Hồng Thập Tự năm 1969 (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay). Đường này hiện vẫn ùn ứ vì lưu lượng xe qua lại đông đúc.

    Đường phố Sài Gòn bị ngập khi mưa lớn từ 60 năm trước. Trong ảnh là góc đường Pasteur – Lê Lợi (quận 1).

    Người dân cưỡi xe vượt con đường Tổng Đốc Phương (nay là Hồng Bàng) đã biến thành sông.

    Nước ngập nửa bánh xe máy. Tuy nhiên tình trạng ngập ở thành phố 50 năm trước không nặng như hiện nay.

    “Ngập nước ở Sài Gòn xưa chủ yếu do mưa kết hợp triều cường nhưng ngập không gây ảnh hưởng nghiêm trọng như hiện nay. Ngày trước dân số thấp, đất đai còn nhiều nên việc thoát nước cũng tốt hơn”, một chuyên gia chia sẻ.

    TP HCM cũng có nhiều dự án, giải pháp để chống ngập, kẹt xe nhưng do tốc độ phát triển nhanh, dân số cao nên vẫn chưa giải quyết triệt để.

    Sơn Hòa

  • Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Bảo tàng chứng tích chiến tranh (quận 3) vốn là chùa Khải Tường – nơi vua Minh Mạng được sinh ra năm 1791, khi chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi.

    Theo sách Biên niên sử Phật giáo Gia Định – Saigon – TP HCM 1600-1992ấn hành năm 2001, Khải Tường là ngôi chùa tọa lạc trên gò cao tại ấp Tân Lộc, huyện Bình Dương, thuộc thành Gia Định xưa. Ban đầu, đây là am nhỏ do Thiền sư Phật Linh – Ý Nhạc lập năm 1744. Khải Tường và chùa Từ Ân gần đó (ở vị trí trong Công viên Tao Đàn hiện nay) là 2 chùa cổ của Sài Gòn, nổi tiếng vì là nơi vua Gia Long từng ẩn náu quân Tây Sơn. Trong đó, chùa Khải Tường chính là nơi hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng) chào đời.

    Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Chùa Khải Tường khoảng năm 1871-1874. Ảnh tư liệu.

    Năm 1788, nội bộ Tây Sơn có nhiều mâu thuẫn, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh giành lại được Gia Định để củng cố lực lượng cũng như xây dựng thành trì, biến nơi đây thành trung tâm chính trị của triều Nguyễn.

    Hai năm sau, trong lúc thành Gia Định mới được xây dựng, hoàng gia và bộ máy quan lại lúc này ở Gia Định phải tá túc ở hai ngôi chùa lớn nằm gần nhau là chùa Từ Ân và chùa Khải Tường. Theo một số tư liệu, ngày 25/5/1791, Nhị phi Trần Thị Đang (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu) sinh Nguyễn Phúc Đảm nơi hậu liêu chùa Khải Tường.

    Sau khi thống nhất đất nước và lên ngôi vua, năm 1802 vua Gia Long cho trùng tu hai ngôi chùa này. Để tạ ơn che chở, vua đã dâng cúng tượng Phật A-Di-Đà cao 2,5 m bằng gỗ mít, ngồi trên tòa sen, sơn son thếp vàng.

    Sách Lược Khảo Phật giáo sử Việt Nam của Vân Thanh, xuất bản tháng 3/1975, viết: “… chùa Khải Tường, Thôn Hoạt Lột, huyện Bình Dương, xây cất năm Tân Hợi (1791), hiện nay nền chùa là Trường Đại Học Y Khoa cũ, đường Trần Quý Cáp, do Nguyễn Vương Phúc Ánh kiến tạo để kỷ niệm nơi sinh Hòang tử Đởm (hay Đảm, tên vua Minh Mạng)”.

    Tương tự, nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển trong quyển Sài Gòn năm xưa cũng cho rằng “Chùa nầy có dật sử chính hoàng tử Đảm (sau lên ngôi là Đức Minh Mạng) sanh nơi hậu liêu vào năm Tân Hợi (1791) giữa cơn tị nạn Bình Tây Sơn. Qua năm 1804, Cao Hoàng nhớ tích cũ, để tạ ơn Phật dày công che chở mấy năm bôn tẩu nên gởi tặng chùa một cốt Phật Thích Ca thật lớn bằng gỗ mít, thếp vàng tuyệt kỹ”.

    Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Tượng phật A-Di-Đà vua Gia Long tặng chùa Khải Tường hiện được trưng bày ở bảo tàng lịch sử Việt Nam – TP HCM. Ảnh: Wikipedia

    Năm 1820 vua Gia Long Mất, Minh Mạng nối ngôi. Đến năm 1832, sau khi tìm kiếm được địa chỉ nơi cha mẹ từng ở và cũng là nơi sinh ra mình, vua Minh Mạng sai xuất 300 lạng bạc trùng tu chùa và đặt tên là Quốc Ấn Khải Tường, đồng thời cho “mộ sư đến ở, cấp ruộng tự điền” để lo việc lễ tiết hàng năm (Khải Tường là mở bày đều tốt lành. Ám chỉ nơi chốn vua sinh ra là vùng đất quý, phát phúc lâu dài, rộng rãi). Chùa Từ Ân gần đó cũng được phong Sắc Tứ Từ Ân.

    Quy mô của chùa Quốc Ấn Khải Tường từ ngoài vào trong gồm có lầu chuông trống ba gian hai chái; tiếp đến điện Phật ba gian; hai bên có hai hành lang dài nối với Tăng xá và nhà ăn đều ba gian hai chái. Chùa làm xong, thỉnh hai mươi nhà sư đến cư trú, ban cấp ruộng đất lấy hoa lợi lo việc thờ cúng hằng năm. Nơi đây có các vị Cao Tăng Trụ trì hoằng dương đạo pháp, được triều đình bảo hộ nên trở thành ngôi chùa tiêu biểu, ảnh hưởng rộng lớn đến quần chúng đạo Phật khắp Nam kỳ lục tỉnh.

    Năm 1859, quân Pháp tấn công Gia Định, sau khi chiếm được thành họ chiếm đóng chùa Khải Tường và các ngôi chùa lớn khác như Từ Ân, Kim Chương, Kiểng Phước, Mai Sơn… thiết lập phòng tuyến quân sự để chống lại các đợt tấn công của người Việt.

    Riêng chùa Khải Tường, đại úy thủy quân lục chiến Pháp tên Barbé nhận nhiệm vụ dẫn quân vào chiếm giữ. Barbé cho đem tượng Phật bỏ ngoài sân, cưỡng bức các sư phải rời chùa. Chiều 7/12/1860, quân Việt phục kích giết chết Barbé khi viên sĩ quan này cỡi ngựa đi tuần đêm từ chùa Khải Tường đến đền Hiển Trung (nay được cho là ngã ba Võ Văn Tần – Trần Quốc Thảo).

    Nơi vua Minh Mạng chào đời ở Sài Gòn

    Bảo tàng chứng tích chiến tranh ngày nay. Ảnh: Trung Sơn

    Theo nhà văn Sơn Nam, khoảng năm 1867 chùa Khải Tường trở thành trường sư phạm nam. Mười ba năm sau chùa bị tháo dỡ, trường dời qua cơ sở mới là trường Chasseloup Laubat xây cất xong khoảng 1877.

    Khi tháo dỡ, tấm hoành phi “Quốc ân Khải Tường tự” được chuyển về chùa Từ Ân (nay ở đường Tân Hóa, quận 6) cất giữ, còn tượng Phật A-Di-Đà phải dời đi nhiều nơi, sau cùng được trưng bày trong Viện bảo tàng Quốc gia Sài Gòn (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP HCM).

    Thời gian sau, trên nền chùa bỏ hoang này, người Pháp cho xây một dinh thự dành cho quan chức trong bộ máy cai trị. Trước năm 1963 dùng làm Trường Đại học Y dược, sau khi chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các tướng lãnh cho các cố vấn quân sự đến trú đóng. Sau ngày năm 1975, nơi đây được dùng làm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh.

    Trung Sơn

    Theo vnexpress

  • Bất ngờ với sự đổi thay của Hà Nội Xưa và Nay

    Loạt ảnh Hà Nội xưa & nay

    60 năm đã qua kể từ ngày quân ta vào tiếp quản Thủ đô, mở ra một thời kỳ tự do, phát triển cho Hà Nội. Nhiều bức ảnh tư liệu được ghi lại vào thời điểm ấy ở các công trình đến nay vẫn còn hiện diện.

    Mời bạn đọc cùng  ngắm lại những địa danh lịch sử ấy của Hà Nội sau 60 năm phát triển cùng đất nước:

    (Ảnh sưu tầm)
    Cổng Đoan Môn
    (Ảnh sưu tầm)
    Phố Tràng Tiền dẫn thẳng ra Nhà Hát Lớn Thành phố Hà Nội.
    (Ảnh sưu tầm)
    Đường dẫn lên Cầu Long Biên
    (Ảnh sưu tầm)
    Cột cờ Hà Nội
    (Ảnh sưu tầm)
    Nhà Hát Lớn Thành phố Hà Nội
    (Ảnh sưu tầm)
    Cầu Long Biên – nơi chứng kiến những lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội.
    (Ảnh sưu tầm)
    Bốt Hàng Trống (Trung tâm chỉ huy của cảnh sát Pháp ở Hà Nội) – nay là trụ sở Công an quận Hoàn Kiếm.
    (Ảnh sưu tầm)
    Đài phun nước tại Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
    (Ảnh sưu tầm)
    Một góc Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục.

    Xuân Phú

  • 10 công trình nổi bật của Việt Nam

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Tòa nhà Quốc hội, Keangnam, Lotte, Bitexco tower, sân Mỹ Đình… là những dự án được đầu tư lớn, kiến trúc hiện đại, sánh ngang các công trình nổi tiếng trên thế giới.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Nhà Quốc hội trên đường Độc Lập (quận Ba Đình) có diện tích sàn trên 60.000 m2, được xây dựng trên nền tòa Nhà Quốc hội cũ nằm cạnh quảng trường Ba Đình, trong khuôn viên khu di tích Hoàng thành Thăng Long – trung tâm chính trị, lịch sử, văn hóa của đất nước. Tòa nhà cao 39 m, kiến trúc hình vuông, có 3 tầng hầm với sức chứa hơn 500 ôtô, cùng đường hầm dài 60 m nối với Bộ Ngoại giao.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Trung tâm Hội nghị Quốc gia Việt Nam trên đường Phạm Hùng (Hà Nội) là tổ hợp công trình đa năng lớn nhất thủ đô – rộng 60.000 m2. Đây là khối nhà 5 tầng có phòng họp chính sức chứa 3.800 chỗ ngồi ở tầng 2, bãi đỗ nổi và ngầm có sức chứa gần 1.100 ôtô.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Sân vận động quốc gia Mỹ Đình (Hà Nội) khánh thành năm 2003, có sức chứa 40.192 chỗ ngồi – lớn thứ nhì Việt Nam – sau sân vận động Cần Thơ 50.000 chỗ. Ngoài sân vận động chính, tại khu Liên hợp Thể thao Quốc gia này còn có nhiều nhà thi đấu, trung tâm huấn luyện VĐV, bệnh viện Thể thao…

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Keangnam Hanoi Landmark Tower (đường Phạm Hùng, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) là khu phức hợp khách sạn, văn phòng, căn hộ, trung tâm thương mại cao nhất Việt Nam. Với 72 tầng (cao 336 mét), khi vừa hoàn thành, đây là tòa nhà cao thứ 17 trên thế giới.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Lotte Center Hanoi cao 65 tầng (267m) trở thành công trình cao thứ nhì ở Việt Nam. Tổ hợp văn phòng, căn hộ, khách sạn, trung tâm thương mại này có tổng vốn đầu tư hơn 400 triệu USD.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Bitexco Financial Tower (TP HCM) gồm 68 tầng, cao 262 m có sân đỗ trực thăng mang biểu tượng búp sen vươn lên bầu trời. Đây là nơi lý tưởng để ngắm Sài Gòn từ trên cao. Bitexco là nơi đặt trụ sở, văn phòng của nhiều công ty quốc tế, ngoài ra còn có rạp chiếu phim, trung tâm thương mại…

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Trung tâm hành chính TP Đà Nẵng cao 34 tầng, diện tích sàn hơn 21.000 m2 được đầu tư hơn 2.000 tỷ đồng. Tòa nhà cao gần 170 m ven sông Hàn là nơi làm việc của lãnh đạo thành phố và các sở, ngành.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Trung tâm hành chính Bình Dương cao 23 tầng, diện tích sàn hơn 100.000 m2 đặt tại trung tâm thành phố mới Bình Dương (Bình Dương New City). Công trình nằm trong Khu liên hợp công nghiệp dịch vụ và đô thị 4.196 ha, tổng vốn đầu tư 1.400 tỷ đồng. Tòa nhà có bãi đỗ 640 ôtô, 2.000 xe máy cùng sân đỗ trực thăng trên nóc.

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Royal City (đường Nguyễn Trãi) là tổ hợp chung cư, khu vui chơi giải trí và trung tâm mua sắm dưới lòng đất lớn nhất châu Á. Ngoài ra, tại thủ đô còn có nhiều khu đô thị hiện đại khác như Times City, Ecopark, The Manor, Ciputra…

    10 công trình nổi bật của Việt Nam

    Phú Mỹ Hưng rộng 750 ha, toạ lạc ở phía nam TP HCM. Khu đô thị kiểu mẫu của Sài Gòn là nơi tập trung sinh sống của những người có thu nhập cao, đồng thời là tổ hợp trung tâm tài chính, giáo dục, công nghiệp, khoa học, giải trí.

    Khánh Huyền (tổng hợp)

  • Nguồn gốc tên gọi các địa danh ở Sài Gòn

    Nguồn gốc tên gọi các địa danh ở Sài Gòn

    Đây là album giải thích những tên gọi Sài Gòn từ xưa. Các địa danh khá phổ biến như: Bến Nghé, Cầu Bông, Thị Nghè… nhưng ít ai hiểu được hết ý nghĩa tên gọi của chúng.

    #ToiladanSaiGon #SaiGon
    ————————————–
    Theo The VOIR

    Đakao – tên gọi mà biết bao người Sài Gòn đã quen mặt, một cái tên gây ấn tượng mạnh mẽ khi vừa nghe thì giống tên Việt Nam nhưng khi viết thì lại mang đậm dáng dấp phương Tây. Lịch sử đằng sau cái tên “nửa người nửa ta” này có gì đặc biệt? Thời xưa, có giai đoạn hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn được sáp nhập lại thành “Địa phương Sài Gòn – Chợ Lớn” (Région de Saigon – Cholon) với tổ chức bên dưới là các hộ (quartier), tương đương cấp tổng ở các tỉnh. Người đứng đầu một hộ gọi là Hộ trưởng (Chef de quartier). Tên gốc của vùng đất Đakao ngày nay là Đất Hộ (đất của hộ hoặc đất do hộ quản lí). Trong sách báo và các văn bản thời trước, người Pháp đã phiên âm địa danh Đất Hộ thành Đakao. Trên thực tế, địa danh Đakao chỉ phổ biến rộng tại Sài Gòn từ thập niên 1950 – 1960 trở về sau.
    Đakao – tên gọi mà biết bao người Sài Gòn đã quen mặt, một cái tên gây ấn tượng mạnh mẽ khi vừa nghe thì giống tên Việt Nam nhưng khi viết thì lại mang đậm dáng dấp phương Tây. Lịch sử đằng sau cái tên “nửa người nửa ta” này có gì đặc biệt?
    Thời xưa, có giai đoạn hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn được sáp nhập lại thành “Địa phương Sài Gòn – Chợ Lớn” (Région de Saigon – Cholon) với tổ chức bên dưới là các hộ (quartier), tương đương cấp tổng ở các tỉnh. Người đứng đầu một hộ gọi là Hộ trưởng (Chef de quartier). Tên gốc của vùng đất Đakao ngày nay là Đất Hộ (đất của hộ hoặc đất do hộ quản lí). Trong sách báo và các văn bản thời trước, người Pháp đã phiên âm địa danh Đất Hộ thành Đakao. Trên thực tế, địa danh Đakao chỉ phổ biến rộng tại Sài Gòn từ thập niên 1950 – 1960 trở về sau.

     

    Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Bà sinh ra vua Thiệu Trị rồi qua đời sau đó 13 ngày.  Bà là người đức tốt nhưng yểu mệnh. Cha chồng là vua Gia Long rất thương mà ra lệnh kiêng kỵ chữ Hoa trong tên bà, trở thành câu một câu chuyện nổi tiếng, dẫn đến việc đổi tên hàng loạt của các địa danh trong nước, cho đến tận ngày nay.
    Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Bà sinh ra vua Thiệu Trị rồi qua đời sau đó 13 ngày.
    Bà là người đức tốt nhưng yểu mệnh. Cha chồng là vua Gia Long rất thương mà ra lệnh kiêng kỵ chữ Hoa trong tên bà, trở thành câu một câu chuyện nổi tiếng, dẫn đến việc đổi tên hàng loạt của các địa danh trong nước, cho đến tận ngày nay.

     

    Đây là nút giao thông quan trọng thuộc phường 4 (quận Tân Bình), điểm giao của 4 đường lớn gồm Trường Chinh, Cách Mạng Tháng Tám, Lý Thường Kiệt và Hoàng Văn Thụ.  Về tên gọi, theo Lê Minh Quốc trong sách "Người Quảng Nam", Bảy Hiền là tên của ông già bán cà phê "cóc" sinh thứ Bảy, tên Hiền. Người này cũng cai quản các đồn điền cao su của Nam Phương hoàng hậu, tức Nguyễn Hữu Thị Lan - phu nhân vua Bảo Đại.  Khoảng năm 1940 người Sài Gòn gọi "ngã tư ông Bảy Hiền" dần dần từ "ông" mất chỉ còn "ngã tư Bảy Hiền". Sau này, nguyên khu vực quanh ngã tư được gọi thành "Bảy Hiền".  Trước năm 1954, khu vực này vẫn còn là vùng ngoại ô của Sài Gòn, bao gồm một đồn điền cao su và những cánh đồng lúa chạy theo con đường lên miệt Tây Ninh. Một vài gia đình sinh sống bằng nghề làm ruộng và chăn nuôi ngựa.   Vùng Bảy Hiền nổi tiếng với làng dệt do những cư dân Quảng Nam vào đây lập nghiệp (sau năm 1954). Trên đường Nguyễn Bá Tòng, thuộc phường 12 có một ngôi chợ chuyên bán các món ăn của xứ Quảng - chợ Bà Hoa.
    Đây là nút giao thông quan trọng thuộc phường 4 (quận Tân Bình), điểm giao của 4 đường lớn gồm Trường Chinh, Cách Mạng Tháng Tám, Lý Thường Kiệt và Hoàng Văn Thụ.
    Về tên gọi, theo Lê Minh Quốc trong sách “Người Quảng Nam”, Bảy Hiền là tên của ông già bán cà phê “cóc” sinh thứ Bảy, tên Hiền. Người này cũng cai quản các đồn điền cao su của Nam Phương hoàng hậu, tức Nguyễn Hữu Thị Lan – phu nhân vua Bảo Đại.
    Khoảng năm 1940 người Sài Gòn gọi “ngã tư ông Bảy Hiền” dần dần từ “ông” mất chỉ còn “ngã tư Bảy Hiền”. Sau này, nguyên khu vực quanh ngã tư được gọi thành “Bảy Hiền”.
    Trước năm 1954, khu vực này vẫn còn là vùng ngoại ô của Sài Gòn, bao gồm một đồn điền cao su và những cánh đồng lúa chạy theo con đường lên miệt Tây Ninh. Một vài gia đình sinh sống bằng nghề làm ruộng và chăn nuôi ngựa.
    Vùng Bảy Hiền nổi tiếng với làng dệt do những cư dân Quảng Nam vào đây lập nghiệp (sau năm 1954). Trên đường Nguyễn Bá Tòng, thuộc phường 12 có một ngôi chợ chuyên bán các món ăn của xứ Quảng – chợ Bà Hoa.

     

    Tên Bến Nghé, ban đầu là tên của một bến nước, sau chỉ một con sông, cuối cùng dùng chỉ một địa phương (vùng trung tâm TP.HCM hiện nay).  Theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn “Phương Đình dư địa chí” (1900) thì tương truyền, sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế (nghé tức trâu con). Sách “Đại Nam nhất thống chí”, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự. Còn theo học giả Trương Vĩnh Ký, Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer – Kompong có nghĩa là bến, Kon Krabei có nghĩa là con trâu. Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ý rằng: Bến Nghé là cái bến mà “người ta thường cho trâu, bò ra tắm” vì có nhiều địa danh cấu tạo bằng “bến + tên thú” như: rạch Bến Nghé (Nhà Bè), rạch Bến Tượng (Sông Bé).
    Tên Bến Nghé, ban đầu là tên của một bến nước, sau chỉ một con sông, cuối cùng dùng chỉ một địa phương (vùng trung tâm TP.HCM hiện nay).
    Theo phó bảng Nguyễn Văn Siêu trong cuốn “Phương Đình dư địa chí” (1900) thì tương truyền, sông này nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu rống, cho nên gọi tên như thế (nghé tức trâu con). Sách “Đại Nam nhất thống chí”, phần tỉnh Gia Định, cũng chép tương tự.
    Còn theo học giả Trương Vĩnh Ký, Bến Nghé có nguồn gốc từ tiếng Khmer – Kompong có nghĩa là bến, Kon Krabei có nghĩa là con trâu. Nhà địa danh học Lê Trung Hoa cũng đồng ý rằng: Bến Nghé là cái bến mà “người ta thường cho trâu, bò ra tắm” vì có nhiều địa danh cấu tạo bằng “bến + tên thú” như: rạch Bến Nghé (Nhà Bè), rạch Bến Tượng (Sông Bé).

     

    Là nút giao thông lớn ở cửa ngõ phía Đông của TP HCM, Hàng Xanh là địa danh rất quen thuộc với người Sài Gòn. Vùng Hàng Xanh, bao gồm một phần địa bàn các phường 24, 25 (quận Bình Thạnh), còn có chợ Hàng Xanh, ngã tư Hàng Xanh.  Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả Nguyễn Thanh Lợi (trong quyển Sài Gòn - Đất và Người) qua nhiều tài liệu cũ, địa danh này viết đúng phải là Hàng Sanh. Theo sách Đại Nam quốc âm tự vị của nhà ngôn ngữ học Huỳnh Tịnh Của, Sanh "là thứ cây lớn, nhánh có tua, về loại cây da, mà lá nhỏ". Ngày trước, dọc theo hai bên đường nay là Bạch Đằng có 2 hàng cây sanh, dân thường gọi là Hàng Sanh. Nên có thể kết luận, Hàng Xanh do đọc chệch từ Hàng Sanh mà ra.
    Là nút giao thông lớn ở cửa ngõ phía Đông của TP HCM, Hàng Xanh là địa danh rất quen thuộc với người Sài Gòn. Vùng Hàng Xanh, bao gồm một phần địa bàn các phường 24, 25 (quận Bình Thạnh), còn có chợ Hàng Xanh, ngã tư Hàng Xanh.
    Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả Nguyễn Thanh Lợi (trong quyển Sài Gòn – Đất và Người) qua nhiều tài liệu cũ, địa danh này viết đúng phải là Hàng Sanh. Theo sách Đại Nam quốc âm tự vị của nhà ngôn ngữ học Huỳnh Tịnh Của, Sanh “là thứ cây lớn, nhánh có tua, về loại cây da, mà lá nhỏ”. Ngày trước, dọc theo hai bên đường nay là Bạch Đằng có 2 hàng cây sanh, dân thường gọi là Hàng Sanh. Nên có thể kết luận, Hàng Xanh do đọc chệch từ Hàng Sanh mà ra.

     

    Nút giao thông lớn thuộc phường 3 (quận Gò Vấp) nay có tên gọi khác là Ngã Sáu Gò Vấp. Đây là điểm giao nhau của đường Nguyễn Kiệm, Nguyễn Oanh, Quang Trung, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Văn Nghi, Trần Thị Nghĩ. Thời Pháp thuộc, giao lộ này được gọi là Ngã năm Hàng Điệp vì dọc theo năm tuyến đường chéo nhau bấy giờ có trồng những cây điệp lớn. Sau 1954, chính quyền cũ cho xây trường huấn luyện quân khuyển tại đây. Từ đó, người Sài Gòn đặt cho giao lộ này cái tên gần gũi: Ngã năm Chuồng Chó.  Năm 1966, trường này được nâng cấp thành Trung tâm huấn luyện và bổ sung Quân khuyển với quy mô mở rộng, kỹ thuật huấn luyện cũng được cập nhật từ Mỹ. Các chú chó nghiệp vụ này được luyện đánh hơi để kiêm thêm công việc tuần tiễu. Có thời, tất cả các căn cứ quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á đều sử dụng quân khuyển do nơi này huấn luyện.
    Nút giao thông lớn thuộc phường 3 (quận Gò Vấp) nay có tên gọi khác là Ngã Sáu Gò Vấp. Đây là điểm giao nhau của đường Nguyễn Kiệm, Nguyễn Oanh, Quang Trung, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Văn Nghi, Trần Thị Nghĩ.
    Thời Pháp thuộc, giao lộ này được gọi là Ngã năm Hàng Điệp vì dọc theo năm tuyến đường chéo nhau bấy giờ có trồng những cây điệp lớn. Sau 1954, chính quyền cũ cho xây trường huấn luyện quân khuyển tại đây. Từ đó, người Sài Gòn đặt cho giao lộ này cái tên gần gũi: Ngã năm Chuồng Chó.
    Năm 1966, trường này được nâng cấp thành Trung tâm huấn luyện và bổ sung Quân khuyển với quy mô mở rộng, kỹ thuật huấn luyện cũng được cập nhật từ Mỹ. Các chú chó nghiệp vụ này được luyện đánh hơi để kiêm thêm công việc tuần tiễu. Có thời, tất cả các căn cứ quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á đều sử dụng quân khuyển do nơi này huấn luyện.

     

    Đa số tên gọi cho các con đường, cây cầu, phường, chợ… ở Sài Gòn đều lấy tên những người có công với đất nước, thành phố hoặc đơn giản là chỉ với người dân của khu vực đó. Có vẻ như Thủ Thiêm không phải là một cái tên được đặt theo công thức trên. Trước đây, “thủ” là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông. Vì khá phổ biến thời trước nên “thủ” đã đi vào một số địa danh hiện nay như Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An) hay Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa được cho là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm việc. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.
    Đa số tên gọi cho các con đường, cây cầu, phường, chợ… ở Sài Gòn đều lấy tên những người có công với đất nước, thành phố hoặc đơn giản là chỉ với người dân của khu vực đó. Có vẻ như Thủ Thiêm không phải là một cái tên được đặt theo công thức trên.
    Trước đây, “thủ” là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông. Vì khá phổ biến thời trước nên “thủ” đã đi vào một số địa danh hiện nay như Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An) hay Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa được cho là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm việc. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.

     

    Xa lộ Đại Hàn là cách gọi dân gian cho đoạn quốc lộ 1A từ ngã ba Thủ Đức (ngã ba Trạm 2) đến ngã ba An Lạc, quận Bình Tân, đi qua địa phận Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương, dài 43,1 km.  Xa lộ này được công binh quân đội Đại Hàn Dân Quốc xây dựng năm 1969 - 1970 sau sự kiện Tết Mậu Thân trong Chiến tranh Việt Nam với tư cách là đồng minh của Việt Nam Cộng Hoà nhằm làm đường vành đai bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài Gòn và ngăn cách giữa Sài Gòn với quân cách mạng ở Củ Chi, Hóc Môn.
    Xa lộ Đại Hàn là cách gọi dân gian cho đoạn quốc lộ 1A từ ngã ba Thủ Đức (ngã ba Trạm 2) đến ngã ba An Lạc, quận Bình Tân, đi qua địa phận Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương, dài 43,1 km.
    Xa lộ này được công binh quân đội Đại Hàn Dân Quốc xây dựng năm 1969 – 1970 sau sự kiện Tết Mậu Thân trong Chiến tranh Việt Nam với tư cách là đồng minh của Việt Nam Cộng Hoà nhằm làm đường vành đai bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài Gòn và ngăn cách giữa Sài Gòn với quân cách mạng ở Củ Chi, Hóc Môn.

     

    Là tên gọi của quận vùng ven tại TP HCM. Theo các nhà nghiên cứu, đúng ra phải là Gò Vắp vì đây vốn là vùng đất cao có trồng nhiều cây vắp. Loại cây thân gỗ rất cứng thuộc họ măng cụt, hiện vẫn trồng nhiều nơi tại TP HCM như khuôn viên vườn Tao Đàn, khu vực đường Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương gần đó.
    Là tên gọi của quận vùng ven tại TP HCM. Theo các nhà nghiên cứu, đúng ra phải là Gò Vắp vì đây vốn là vùng đất cao có trồng nhiều cây vắp. Loại cây thân gỗ rất cứng thuộc họ măng cụt, hiện vẫn trồng nhiều nơi tại TP HCM như khuôn viên vườn Tao Đàn, khu vực đường Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương gần đó.

     

    Theo một số tài liệu thì địa danh “Hóc Môn” xuất hiện muộn nhất là từ đầu thể kỷ XIX. Đến năm 1915, Hóc Môn là một trong bốn trạm hành chính của tỉnh Gia Định. Năm 1917 có quyết định đổi là quận Hóc Môn. Từ năm 1976 gọi là huyện Hóc Môn. Ngày 6-1-1997, bảy xã của Hóc Môn được tách ra để thành lập quận 12.  “Có người giải thích: “hóc” là chỗ xa xôi, vắng vẻ; “môn” là cây môn nước. Như vậy, ban đầu Hóc Môn chỉ vùng đất xa xôi, vắng vẻ, nơi trồng nhiều cây môn nước, sau đó trở thành địa danh hành chính: huyện Hóc Môn... Cách giải thích khác: “Môn” đúng là cây môn nước, vì ở TP.HCM có nhiều địa danh mang yếu tố này: “rạch Môn” (Thủ Đức); cầu và rạch “Bàu Môn”, xóm “Bưng Môn” (Củ Chi)... Còn “hóc” đồng nghĩa với từ xép, có nghĩa là “dòng nước nhỏ”. Ở thị trấn Hóc Môn còn con rạch nhỏ mang tên “Hóc Môn”. Rất nhiều khả năng tên rạch Hóc Môn có trước tên vùng Hóc Môn vì tên sông, rạch là những địa danh rất cổ. Tóm lại, tên gọi “Hóc Môn” để chỉ vùng có con rạch nhỏ với nhiều cây môn” (Hỏi đáp về Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh, nhiều tác giả, Tập 1, NXB Trẻ, 2006, trang 66).
    Theo một số tài liệu thì địa danh “Hóc Môn” xuất hiện muộn nhất là từ đầu thể kỷ XIX. Đến năm 1915, Hóc Môn là một trong bốn trạm hành chính của tỉnh Gia Định. Năm 1917 có quyết định đổi là quận Hóc Môn. Từ năm 1976 gọi là huyện Hóc Môn. Ngày 6-1-1997, bảy xã của Hóc Môn được tách ra để thành lập quận 12.
    “Có người giải thích: “hóc” là chỗ xa xôi, vắng vẻ; “môn” là cây môn nước. Như vậy, ban đầu Hóc Môn chỉ vùng đất xa xôi, vắng vẻ, nơi trồng nhiều cây môn nước, sau đó trở thành địa danh hành chính: huyện Hóc Môn… Cách giải thích khác: “Môn” đúng là cây môn nước, vì ở TP.HCM có nhiều địa danh mang yếu tố này: “rạch Môn” (Thủ Đức); cầu và rạch “Bàu Môn”, xóm “Bưng Môn” (Củ Chi)… Còn “hóc” đồng nghĩa với từ xép, có nghĩa là “dòng nước nhỏ”. Ở thị trấn Hóc Môn còn con rạch nhỏ mang tên “Hóc Môn”. Rất nhiều khả năng tên rạch Hóc Môn có trước tên vùng Hóc Môn vì tên sông, rạch là những địa danh rất cổ. Tóm lại, tên gọi “Hóc Môn” để chỉ vùng có con rạch nhỏ với nhiều cây môn” (Hỏi đáp về Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh, nhiều tác giả, Tập 1, NXB Trẻ, 2006, trang 66).

     

    Điểm qua tên của một số địa danh, kênh rạch, phường ở khu vực quận 1, người ta sẽ dễ dàng nghe đi nghe lại cái tên Thị Nghè, có khi xuất hiện dưới tên của một con rạch, cây cầu, lại có khi xuất hiện như một ngôi chợ, một nhà thờ.  Ngoài ra, phần địa giới gồm một phần các phường 17, 19, 21 thuộc quận Bình Thạnh cũng được gọi là Thị Nghè. Theo quyển “Gia Định thành thông chí”, mục “Trấn Phiên An”, Thị Nghè là tên dân gian của bà Nguyễn Thị Khánh – con gái quan Khâm sai Nguyễn Cửu Vân, và là vợ một viên thư kí. Bà Nguyễn Thị Khánh có chồng là thư kí mỗ, nên người đương thời gọi là Bà Nghè mà không xưng tên. Sở dĩ có tên ấy là do bà đã có công cho khai hoang đất ở và bắc cầu để tiện việc đi lại cho dân chúng. Cảm phục bà, người ta quyết định gọi cây cầu là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè.  Cho đến ngày nay, cái tên Thị Nghè vẫn còn được giữ lại như một cách hậu thế ghi nhớ công đức của bà Nguyễn Thị Khánh.
    Điểm qua tên của một số địa danh, kênh rạch, phường ở khu vực quận 1, người ta sẽ dễ dàng nghe đi nghe lại cái tên Thị Nghè, có khi xuất hiện dưới tên của một con rạch, cây cầu, lại có khi xuất hiện như một ngôi chợ, một nhà thờ.
    Ngoài ra, phần địa giới gồm một phần các phường 17, 19, 21 thuộc quận Bình Thạnh cũng được gọi là Thị Nghè.
    Theo quyển “Gia Định thành thông chí”, mục “Trấn Phiên An”, Thị Nghè là tên dân gian của bà Nguyễn Thị Khánh – con gái quan Khâm sai Nguyễn Cửu Vân, và là vợ một viên thư kí. Bà Nguyễn Thị Khánh có chồng là thư kí mỗ, nên người đương thời gọi là Bà Nghè mà không xưng tên. Sở dĩ có tên ấy là do bà đã có công cho khai hoang đất ở và bắc cầu để tiện việc đi lại cho dân chúng. Cảm phục bà, người ta quyết định gọi cây cầu là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè.
    Cho đến ngày nay, cái tên Thị Nghè vẫn còn được giữ lại như một cách hậu thế ghi nhớ công đức của bà Nguyễn Thị Khánh.

     

    Với bề dày lịch sử hơn 100 năm, cây cầu Chà Và bắc qua kênh Tàu Hủ đã góp phần thông thương vùng Chợ Lớn giữa quận 8 và quận 5.  Cầu Chà Và có chiều rộng khoảng 30m, chiều dài 190m, có thêm 2 nhánh phụ lên xuống đại lộ Đông Tây, đảm bảo các phương tiện đi trên cầu không giao cắt nhau nhằm hạn chế tối đa kẹt xe. Thật ra, Chà Và là cách người Việt phát âm chữ Java – tên một hòn đảo ở Indonesia. Chà Và dùng để chỉ người đến từ đảo Java, về sau dùng để gọi tất cả những người có màu da ngăm như Chà Bom Bay (Bombay, Ấn Ðộ), Chà Ma Ní (Manila, Philippines). Thế mới rõ vì sao khu vực cầu Chà Và từng là phố chợ của người gốc Ấn Độ chuyên bán vải lại được gọi thành Chà Và. Ngoài ra, ở đầu cầu Chà Và về phía quận 8 có rạp hát Phi Long nổi tiếng, thường xuyên chiếu phim Ấn Độ phục vụ cư dân quanh vùng.
    Với bề dày lịch sử hơn 100 năm, cây cầu Chà Và bắc qua kênh Tàu Hủ đã góp phần thông thương vùng Chợ Lớn giữa quận 8 và quận 5.
    Cầu Chà Và có chiều rộng khoảng 30m, chiều dài 190m, có thêm 2 nhánh phụ lên xuống đại lộ Đông Tây, đảm bảo các phương tiện đi trên cầu không giao cắt nhau nhằm hạn chế tối đa kẹt xe.
    Thật ra, Chà Và là cách người Việt phát âm chữ Java – tên một hòn đảo ở Indonesia. Chà Và dùng để chỉ người đến từ đảo Java, về sau dùng để gọi tất cả những người có màu da ngăm như Chà Bom Bay (Bombay, Ấn Ðộ), Chà Ma Ní (Manila, Philippines).
    Thế mới rõ vì sao khu vực cầu Chà Và từng là phố chợ của người gốc Ấn Độ chuyên bán vải lại được gọi thành Chà Và. Ngoài ra, ở đầu cầu Chà Và về phía quận 8 có rạp hát Phi Long nổi tiếng, thường xuyên chiếu phim Ấn Độ phục vụ cư dân quanh vùng.

     

    Tọa lạc tại số 1, đường Vũ Tùng thuộc phường 1, quận Bình Thạnh, Lăng Ông Bà Chiểu nằm tĩnh lặng và trầm mặc ngắm nhìn thành phố trẻ ngày một náo nhiệt, hiện đại hơn. Và nếu có ai đột ngột hỏi bạn rằng Lăng Ông Bà Chiểu thờ ai, vì sao lại có tên gọi như vậy, bạn có trả lời được không? Lăng Ông Bà Chiểu (gọi tắt là Lăng Ông, còn có tên gọi khác ít phổ biến hơn là Thượng Công Miếu) là khu lăng mộ của Tả Quân Lê Văn Duyệt. Chính vì tên gọi đặc biệt mà nhiều người thường hiểu lầm rằng lăng này được lập ra để thờ Ông và thờ Bà tên Chiểu.  Thật ra, đây là lăng thờ Tả Quân Lê Văn Duyệt và do tục lệ kiêng cử tên, cho nên thường gọi là Lăng Ông. Lăng lại nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu, và đó là nguồn gốc ra đời của cái tên Lăng Ông Bà Chiểu.
    Tọa lạc tại số 1, đường Vũ Tùng thuộc phường 1, quận Bình Thạnh, Lăng Ông Bà Chiểu nằm tĩnh lặng và trầm mặc ngắm nhìn thành phố trẻ ngày một náo nhiệt, hiện đại hơn.
    Và nếu có ai đột ngột hỏi bạn rằng Lăng Ông Bà Chiểu thờ ai, vì sao lại có tên gọi như vậy, bạn có trả lời được không?
    Lăng Ông Bà Chiểu (gọi tắt là Lăng Ông, còn có tên gọi khác ít phổ biến hơn là Thượng Công Miếu) là khu lăng mộ của Tả Quân Lê Văn Duyệt. Chính vì tên gọi đặc biệt mà nhiều người thường hiểu lầm rằng lăng này được lập ra để thờ Ông và thờ Bà tên Chiểu.
    Thật ra, đây là lăng thờ Tả Quân Lê Văn Duyệt và do tục lệ kiêng cử tên, cho nên thường gọi là Lăng Ông. Lăng lại nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu, và đó là nguồn gốc ra đời của cái tên Lăng Ông Bà Chiểu.

     

    Với tổng chiều dài 22km, vắt ngang giữa TP.HCM và trải dài trên địa bàn 8 quận huyện, kênh Tàu Hủ khiến không ít người thắc mắc về nguồn gốc cái tên “nghe thôi đã thèm” trong khi quanh khu vực này không hề có truyền thống làm tàu hủ? Theo học giả Trương Vĩnh Ký (viết năm 1885) và Huỳnh Tịnh Của (viết cuối thế kỷ 19), thì đoạn phố đi ngang qua rạch Chợ Lớn được gọi là Tàu Khậu, đó là cách người Triều Châu phát âm từ “thổ khố” (khu nhà gạch), sau trại âm thành Tàu Hủ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, nhìn kinh nước đen và những “món phụ gia” trôi nổi trên ấy, rất hôi thối, mà người dân liên tưởng đến tương chao, tàu hủ cho có phần… thi vị, nên gọi như vậy.  Kênh Tàu Hủ chưa bao giờ mang vẻ đẹp thơ mộng làm say đắm người nhìn, nhưng nó vẫn nằm sâu trong tiềm thức của người Sài Gòn với hình ảnh thuyền lớn thuyến nhỏ buôn bán tấp nập và cả một giai đoạn lịch sử đặc biệt .
    Với tổng chiều dài 22km, vắt ngang giữa TP.HCM và trải dài trên địa bàn 8 quận huyện, kênh Tàu Hủ khiến không ít người thắc mắc về nguồn gốc cái tên “nghe thôi đã thèm” trong khi quanh khu vực này không hề có truyền thống làm tàu hủ?
    Theo học giả Trương Vĩnh Ký (viết năm 1885) và Huỳnh Tịnh Của (viết cuối thế kỷ 19), thì đoạn phố đi ngang qua rạch Chợ Lớn được gọi là Tàu Khậu, đó là cách người Triều Châu phát âm từ “thổ khố” (khu nhà gạch), sau trại âm thành Tàu Hủ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, nhìn kinh nước đen và những “món phụ gia” trôi nổi trên ấy, rất hôi thối, mà người dân liên tưởng đến tương chao, tàu hủ cho có phần… thi vị, nên gọi như vậy.
    Kênh Tàu Hủ chưa bao giờ mang vẻ đẹp thơ mộng làm say đắm người nhìn, nhưng nó vẫn nằm sâu trong tiềm thức của người Sài Gòn với hình ảnh thuyền lớn thuyến nhỏ buôn bán tấp nập và cả một giai đoạn lịch sử đặc biệt .
  • Giải mã thứ bậc thầy Hai, con Tám… của Sài Gòn xưa

     Công chức, người có học là thầy Hai, người Hoa buôn bán là chú Ba, đại ca giang hồ là anh Tư, lưu manh là anh Năm… người lao động nghèo xếp thứ Tám, chị em ta buôn bán “vốn tự có”  thứ Chín… 

    Giải mã thứ bậc thầy Hai, con Tám... của Sài Gòn xưa
    Quán cà phê, nơi người Sài Gòn xả stres và “tám” đủ chuyện trên đời với kiểu ngồi rất Nam bộ, Sài Gòn sông nước: co chân lên ghế – Ảnh: M.C.

    Chiều muộn hôm qua có cậu bạn đi công việc ghé ngang nhà rủ làm ly cà phê tán dóc. Nói chuyện lan man một hồi, tự nhiên anh chàng kể công ty em có ông già gác cửa rất hay nói câu “bỏ qua đi Tám”…

    “Em chả hiểu, có lần hỏi thì ổng nói đại khái là dùng khi can ngăn ai bỏ qua chuyện gì đó, nhưng sao không phải là Sáu hay Chín mà lại là Tám thì ổng cũng không biết”, cậu bạn thắc mắc.

    Dựa vào những câu chuyện xưa cũ, những giai thoại, nên kể ra đây chút nguyên cớ của câu thành ngữ có lẽ sắp “thất truyền” này,  biết đâu có dịp nào đó anh em có thể dùng để “buôn dưa lê” lúc “trà dư tửu hậu”.

    Trước hết, phải biết là câu này phát sinh ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn từ thời Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ 20. Thời đó, cách xưng hô thứ bậc trong xã hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xã hội, giai cấp… một cách khá suồng sã và dễ chấp nhận.

    Đứng trên hết là các “quan lớn” người Pháp hoặc các quan triều nhà Nguyễn, thành phần này thì không “được” xếp thứ bậc vì giới bình dân hầu như không có cơ hội tiếp xúc đặng xưng hô hay bàn luận thường xuyên.

    Kế đến là các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều là dân có học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với các thủ tục với chính quyền, hoặc đó là thành phần trí thức, đó là các “thầy Hai thông ngôn”, hay “thầy Hai thơ ký”…

    Hàng thứ Ba là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và truyền thống “bang hội” tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các “chú Ba Tàu” nghiễm nhiên là 1 thế lực đáng vị nể trong mắt xã hội bình dân Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó.

    Xếp thứ Tư là các “đại ca” giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm chém và hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và “vô thiên vô pháp” nhưng khá “tôn ti trật tự (riêng)” và “có đạo nghĩa” chứ không tạp nhạp và thiếu nghĩa khí như các băng nhóm “trẻ trâu” hiện đại. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần, vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới bình dân (và cũng không ít tiểu thư khuê các) thời đó.

    Thứ đến là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn dưa, móc túi giật giỏ, hay làm cò mồi mại dâm…

    Bị giới bình dân ghét hơn đám lưu manh côn đồ là các “thầy Sáu phú-lít (police)”, “thầy Sáu mã tà”, “thầy Sáu lèo”. Chức trách là giữ an ninh trật tự, chuyên thổi còi đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng bình dân, nhưng các “thầy Sáu” này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn “hối lộ” của họ để “nhẩm xà” (uống trà).

    Và trong giới buôn bán thì không thể thiếu chuyện vay vốn làm ăn, mặc dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và “quy củ” nhất ở cấp độ trung – cao khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó là các “anh Bảy Chà và”, các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít bị “ghét”, vừa ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại làm ăn đúng luật lệ, ít thừa cơ bắt chẹt lãi suất nên khá được giới kinh doanh tín nhiệm.

    Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xã hội bình dân bấy giờ: họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lục làm vốn nuôi miệng, từ bốc vác, gánh nước bồng em, đến “sang” hơn chút xíu là phu xe kéo…

    Tuy đông nhưng lại yếu thế nhất vì thất học, không có tiền như thầy Hai, anh Ba, cũng hiền lành chứ không bặm trợn phản kháng bạt mạng như các anh Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía. Cách để yên thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn, quên đi để sống: “Bỏ qua đi Tám”, bây giờ chắc là đã dễ hiểu rồi.

    Không còn liên quan nữa, nhưng nhân tiện sẵn nói luôn về thứ bậc chót cùng trong xã hội thời đó: các cô, các chị Chín xóm Bình Khang chuyên “kinh doanh” bằng “vốn tự có”.

    Dài dòng tí để trình bày chút kiến giải về một câu thành ngữ đang dần bị quên lãng dùng để bày tỏ thái độ khuyên người hoặc tự an ủi mình hãy đừng để ý những chuyện không vui, hay bị ai đó “chơi không đẹp”.

    Nếu lỡ đọc thấy không có gì thú vị thì thôi, “bỏ qua đi Tám”!

    Theo Tuoitre Online

  • Giọng nói người Sài Gòn

    Giọng nói người Sài Gòn

    Giọng nói người Sài Gòn không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế Thần Kinh, cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào của sông nước Nam Bộ, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ!” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương

    ganh hang rong sai gon
    Ai sống ở Sài Gòn này mà có thể quên tiếng rao vặt của những cô gánh hàng rong ..

    Có dạo đọc trong một bài viết về Sài Gòn – Gia Định của nhà văn Sơn Nam, có thấy ông viết giọng Sài Gòn, cũng như văn hóa và con người Sài Gòn là một sự pha trộn và giao thoa đến hợp nhất của nhiều nơi. Đó là những người Chăm bản địa, những người khách Hoa, những người miền Trung đầu tiên đến đất Gia Định…Từ đó hình thành một loại ngôn ngữ vừa bản địa, vừa vay mượn của những người đi mở đất…
    Giọng người Sài Gòn được xem là giọng chuẩn của miền Nam, cũng như giọng người Hà Nội được xem là giọng chuẩn của người miền Bắc. Giọng chuẩn tức là giọng không pha trộn, không bị cải biến đi qua thời gian. Như nói về giọng chuẩn của người Hà Nội, người ta nói đến chất giọng ấm nhẹ, khi trầm khi bổng, khi sắc khi thanh, và chẳng ai phủ nhận người Hà Nội nói chuyện rất hay và “điêu luyện”. Cái “điêu luyện” ấy như thuộc về bản chất của người Hà Nội mà chỉ người Hà Nội mới có được. Nếu nói là người Việt Nam nói như hát, thì đúng ra chỉ có người Hà Nội là “nói như hát” mà thôi, họa chăng chỉ có giọng Huế của người con gái Huế trầm tư mới cùng được ví von thế…Người Sài Gòn thì khác, giọng Sài Gòn cũng khác. Không ngọt ngào …mía lùi như một số người dân Tây Nam Bộ ven vùng sông nước mênh mang chín rồng phù sa, không nặng nề cục mịch như người miền Đông Nam Bộ nóng cháy da thịt, giọng người Sài Gòn cũng ngọt, nhưng là cái ngọt thanh hơn, nhẹ hơn. Đó là chất giọng “thành thị” đầy kiêu hãnh của người Sài Gòn, chẳng lẫn vào đâu được mà dù người khác có bắt chước cũng khó lòng. Dường như qua nhiều năm cùng với đất Gia Định – Sài Gòn phù hoa trong nhịp sống, trong đổi mới và phát triển, thì giọng nói của người Sài Gòn cũng trở nên “cao sang” hơn. Dù vậy, có cái “thanh” của một vùng đất một thời là thủ phủ Nam Bộ, nhưng cũng chẳng mất đi đâu cái mộc mạc không bỏ được của cái gốc chung Nam Bộ.
    Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng không cao như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang sang sảng riêng…Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu… Người miền khác có khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này. Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “Thôi, tôi dìa nghen!” – Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dìa hen!”. Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!” “thôi” ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên “Hay hén mậy?” bằng giọng điệu thoải mái…
    Giọng người Sài Gòn đôi khi diễn đạt cùng một câu nói, nhưng lại bằng nhiều cung bậc giọng điệu khác nhau lại mang ý nghĩa khác nhau. Đám nhỏ quậy, nghịch phá, người chị mắng, giọng hơi gằn lại và từng tiếng một, có chút hóm hỉnh trong đó “Dzui dzữ hen!”. Đám bạn cùng tuổi, ngồi chơi chung, cười đùa, một người nói giọng cao cao vui vẻ “Dzui dzữ hen!”…Người Sài Gòn có thói quen hay “đãi” giọng ở chữ cuối làm câu nói mang một sắc thái khác khi hờn giận, khi đùa vui như “Hay dzữuuu”, “Giỏi dzữưưu…!” Nghe người Sài Gòn nói chuyện, trong cách nói, bắt gặp “Thôi à nghen” “Thôi à!” khá nhiều, như một thói quen và cái “duyên” trong giọng Sài Gòn.
    Người Sài Gòn nói chuyện, không phát âm được một số chữ, và hay làm người nghe lẫn lộn giữa âm “d,v,gi” cũng như người Hà Nội phát âm lẫn các từ có phụ âm đầu “r” vậy. Nói thì đúng là sai, nhưng viết và hiểu thì chẳng sai đâu, đó là giọng Sài Gòn mà, nghe là biết liền. Mà cũng chẳng biết có phải là do thật sự người Sài Gòn không phát âm được những chữ ấy không nữa, hay là do cách nói lẫn từ “d,v,gi” ấy là do quen miệng, thuận miệng và hợp với chất giọng Sài Gòn. Ví như nói “Đi chơi dzui dzẻ hen mậy!” thì người Sài Gòn nói nó… thuận miệng và tự nhiên hơn nhiều so với nói “Đi chơi vui vẻ hen!”. Nói là “vui vẻ” vẫn được đấy chứ nhưng cảm giác nó ngường ngượng miệng làm sao đó.
    Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ “dạ” khi nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ “vâng”. Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ “vâng”. Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói “vâng!” là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt. Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ “dạ” vào mỗi câu nói. “Mày ăn cơm chưa con ? – Dạ, chưa!”; “Mới dìa/dzề hả nhóc? – Dạ, con mới!”… Cái tiếng “dạ” đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó “thương” lạ…dễ chịu mà gần gũi, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng “dạ” là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẳn hay.
    Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói “Từ bữa đó đến bữa nay”, còn người Sài Gòn thì nói “Hổm nay”, “dạo này”…người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. (Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ “ghê” phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ghê” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là “nhiều”, là “lắm”. Nói “Nhỏ đó [” nghĩa là khen cô bé đó lắm vậy.) Lại so sánh từ “hổm nay” với “hổm rày” hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ “hổm rày, miết…” là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất Nam Bộ chung mà.
    Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem…”Nhỏ đó [ lắm!”, “Nhỏ đó ngoan!”…Tiếng “nhỏ” mang ý nghĩa như tiếng “cái” của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi “nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên” thì cũng như “cái Thuý, cái Uyên, cái Lý” của người Hà Nội thôi.
    Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu “Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề…nhìn phát bực!” Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi “Ê, nhóc lại nói nghe!” hay gọi người bán hàng rong “Ê, cho chén chè nhiều nhiều tiền ít coi!”… “Ê” là tiếng Sài Gòn đó, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Sài Gòn. Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường “quên” mất từ “bán”, chỉ nói là “cho chén chè, cho tô phở”… “cho” ở đây là mua đó nghen. Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này “Lấy cái tay ra coi!” “Ngon làm thử coi!” “Cho miếng coi!” “Nói nghe coi!”… “Làm thử” thì còn “coi” được, chứ “nói” thì làm sao mà “coi” cho được nè ? Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ “coi” cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy mà. Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?” – Mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta?” “Sao rồi ta?” “Được hông ta?”…Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà…hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà.
    Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!”

    Nguồn Operablog

  • Những người con nổi tiếng của Quảng Trị

    Những người con nổi tiếng của Quảng Trị

    Đây là những người con của mãnh đất Quảng Trị, mỗi người một lĩnh vực và để lại dấu ấn trong nước Việt Nam. Bạn đã biết hết những người đó chưa. cùng Tôi yêu Quảng Trị tìm hiểu về các nhân vật đó nhé.

    1. Tổng bí thư Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7 tháng 4 năm 1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong một gia đình nông dân

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1976 đến 1986. Ông là Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam có tổng thời gian tại vị lâu nhất với 25 năm, 303 ngày

    2. Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 (tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
    là một nhà thơ, nhà văn hiện đại nổi tiếng ở Việt Nam.
    Bài thơ nỗi tiếng “NGƯỜI ĐI TÌM HÌNH CỦA NƯỚC”
    Đất nước đẹp vô cùng.
    Nhưng Bác phải ra đi
    Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác!
    Khi bờ bãi dần lui,làng xóm khuất,
    Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre.

    Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.
    Bài thơ Mèo con đi học do Phan Thị Vàng Anh viết năm 1975 từng được đưa vào sách Tập đọc lớp 1 của Việt Nam.
    Hôm nay trời nắng chang chang.
    Mèo con đi học chẳng mang thứ gì.
    Chỉ mang một cái bút chì.
    Và mang một mẩu bánh mì con con.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    3. Đồng chí Trần Trọng Tân, nguyên Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương

    Đồng chí Trần Trọng Tân (tên thật là Trần Trọng Hoãn) quê quán tại xã Tân Mỹ, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, tham gia cách mạng từ năm 10 tuổi.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    4.Ca sĩ Như Quỳnh

    Như Quỳnh có tên khai sinh là Lê Lâm Quỳnh Như (9/9/1970) quê gốc ở Đông Hà, Quảng Trị. Như Quỳnh cùng với Phi Nhung là một trong 2 nữ ca sĩ nhạc vàng nổi tiếng nhất thập niên 90.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    5.Ca sĩ Vân Khánh
    Vân Khánh sinh ra và lớn lên ở Vĩnh Thành, Vĩnh Linh, Quảng Trị, là nữ ca sĩ nổi tiếng với dòng nhạc dân ca, quê hương.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    6.Ca nhạc sĩ Duy Khánh
    Tên thật Nguyễn Văn Diệp(1936 – 2003), còn có nghệ danh Tăng Hồng, Hoàng Thanh. Ông sinh ra ở Triệu Phong – Quảng Trị

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    7.Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (sinh 16 tháng 7 năm 1929 – mất 23 tháng 9 năm 2001) quê quán Bích Khê,Triệu Phong là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông nổi tiếng tại miền Nam trước 1975 với những bài hát ca ngợi quê hương, đất nước, con người Việt. .

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng
    8.Nhạc sĩ Trần Hoàn (1928-2003) Ông tên thật là Nguyễn Tăng Hích, sinh năm 1928, quê quán Hải Lăng,Quảng Trịlà tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng nhưSơn nữ ca (1948), Tìm em, Lời người ra đi (1950), Lời Bác dặn trước lúc đi xa (1998), Thăm Bến nhà rồng (1990), Kể chuyện người cộng sản, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm… Ông còn từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin Việt Nam.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    9.Đại tướng Đoàn Khuê (1923–1999), bí danh Võ Tiến Trình; là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Bộ trưởngBộ Quốc phòng; Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1991 đến năm 1997. sinh ngày 29 tháng 10 năm 1923; Mất ngày 16 tháng 1 năm1999; Quê quán: Thôn Gia Đẳng, Xã Triệu Tân, Huyện Triệu Phong, TỉnhQuảng Trị (nay là Xã Triệu Lăng, Huyện Triệu Phong, Tỉnh Quảng Trị).

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    10.Thiếu Tướng Lê Hữu Thoả quê thôn Nại Hiệp, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong,
    Là một trong những người có công rất lớn trong việc giải phóng tỉnh Quảng Trị.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng
    11. Nhà thơ Phan Văn Dật sinh ngày 17 tháng 8 năm 1907 chánh quán của ông ở làng Đạo Đầu, xã Triệu Trung huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

    Tập thơ nỗi tiếng “Bâng Khuâng”
    Tôi không hay hưởng cùng cái hiện tại.
    Hững hờ, tôi thường để nó đi qua.
    Chuyện ngày nay sau tôi sẽ xót xa,
    Tôi chỉ tiếc những giờ không trở lại.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    12.Nhà văn Tạ Nghi Lễ sinh ngày 8-10-1951, tại làng Lâm Xuân, xã Gio Mai, huyện Gio Linh, Quảng Trị là nhà văn, nhà thơ với bút danh: Tạ Tấn, Hoàng Nguyên, Mai Tấn, Ái Nghi33 nổi tiếng với bài thơ “Quê Mình”. Tạ Nghi Lễ còn tham gia đóng phim và được xếp vào hàng kỷ lục Việt Nam4!

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    13. Trần Hữu Dực (1910-1993) là một cựu chính khách Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại biểu Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    14.Hoạ sĩ Lê Bá Đảng (27 tháng 6 năm 1921 tại làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. – 7 tháng 3 năm 2015 tại Paris) là một hoạ sĩ Việt Nam. Ông là một trong nhiều họa sĩ Việt Nam thành danh trên đất Pháp theo trường phái nghệ thuật đặc sắc Việt Nam

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    15.Trưởng bản Kỳ Ne Hồ Văn A ( huyện Đakrông, Quảng Trị).
    Kỳ Ne là một trong bảy bản người đồng bào Pakô của xã giáp biên giới Ango( huyện Đakrông, Quảng Trị). Mới hai năm trước, đốt phá rừng làm rẫy là nghề chính của toàn xã.
    Kỳ Ne là bản đầu tiên trong 3 xã vùng biên không còn phá rừng làm rẫy nữa. Thay vào đó bàn con đã biết làm ruộng một năm 2 vụ, mỗi sào ruộng (5000m2) bình quân một vụ cho 15 gùi (khoảng 300kg/sào). Cả bản đã có 5 chiếc ti vi, cả 32 nhà đều có tua-bin nước phát điện. Tất cả trẻ con trong bản đều được đi học, không phải bỏ học đi rẫy nữa.
    16.Tiến sĩ Bùi Dục Tài (sinh năm Đinh Dậu (1477). Ông là danh thần đời Lê Túc Tông (1487-1504), người xã Câu Nhi, thôn Câu Lãm, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

    Người khai khoa Tiến sĩ đầu tiên năm 1502 của xứ Đàng Trong, được “Sắc tứ vinh quy”, được đề danh ở bia đá Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội)

    17. Cục trưởng: Thiếu tướng Hồ Thanh Tự

    cục trưởng cục chính trị, bộ tổng tham mưu quân đội
    18. Nhà văn Ngô Thảo sinh năm 1941, quê gốc Vĩnh Linh, Quảng Trị. Hiện sống tại Hà Nội. Nguyên Tổng biên tập Tạp chí Sân khấu; Giám đốc NXB Sân khấu. Hiện là cố vấn nghệ thuật Công ty BHD và Hãng phim Việt.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

     

    19. Nhà văn HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG :Ông sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937,quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

    là một nhà văn của Việt Nam
    Bút ký nỗi tiếng “Ai đã đặt tên cho dòng sông”

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    20.Nhà văn Lê Thị Mây tên thật là Phạm Thị Tuyết Bông., sinh năm 1949 tại An Mô, Triệu Long, Triệu Phong, Quảng Trị.
    Học xong phổ thông, Lê Thị Mây tham gia Thanh niên xung phong chống Mỹ. Sau giải phóng, bà học Trường viết văn Nguyễn Du. Làm báo từ năm 1970, từng là Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt
    Thơ nỗi tiếng
    Tặng riêng một người (Văn học, 1990) – được Hôi Nhà văn Việt Nam trao thưởng năm 1991

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng
    21.Nhà văn Xuân Đức (1947-) là một nhà văn Việt Nam, được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007
    Ông tên thật là Nguyễn Xuân Đức, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1947, tại xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
    Tiểu thuyết nỗi tiếng “người không mang họ”

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

     

    22.Ông Nguyễn Khánh Toàn (thượng tướng) thứ trưởng bộ công an

    Ông sinh ngày 15 tháng 7 năm 1945, quê quán tại xã Hải Tân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức ngày 27 tháng 7 năm 1967

    Nguyễn Khánh Toàn (sinh năm 1945) là Tiến sỹ Luật, Đại biểu Quốc hội khóa XI; là một tướng lĩnh Công an Nhân dân Việt Nam – hàm Thượng tướng. Ông từng giữ chức Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an Việt Nam, Phó Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

     

    23. Vũ Soạn (1923) là một nhà hoạt động cách mạng và chính khách Việt Nam, Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể trong 2 cuộc chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ góp phần cho công cuộc thống nhất đất nước. Ông từng giữ chức quyền Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Trị, Khu ủy viên Khu ủy Trị Thiên Huế và Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên.

    Vũ Soạn tên thật là Võ Hữu Kim , ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1923 tại xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông hiện đang ngụ tại Phường Vĩnh Ninh, Thành phố Huế

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

     

    24. Điệp viên Z.23 – Cuộc đời hơn 40 năm phục vụ ngành tình báo

    Người dong dỏng cao, khuôn mặt hiền hậu, giọng nói nhỏ nhẹ khiến cho những người lần đầu gặp mặt không thể tin được đây là một sĩ quan tình báo đã từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm treo giải thưởng cho ai chỉ điểm và bắt được ông. Ông là Vũ Trọng Thành, bí danh Hồng Quang, bí số Z.23- nguyên đại tá, Trưởng khoa Điệp báo quân sự chiến lược của một trường đào tạo tình báo.

    Sinh ra trên miền quê nắng cát Quảng Trị, con đường đến với cách mạng của ông như là sự tất yếu đối với đa phần thanh niên Việt Nam sống trong nỗi nhục mất nước. Ông kể: “Nhà tôi nghèo, quanh năm chỉ biết cày thuê cuốc mướn cho bọn nhà giàu để sống lay lắt qua ngày. Do tôi bình sinh vóc người mảnh khảnh, ốm yếu nên được cha mẹ và anh chị em dành dụm cho đi học quốc ngữ ở trường làng đến khi đỗ sơ học yếu lược (ngang với lớp 3 bây giờ) lại về quê cày thuê kiếm sống…”.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

     

    25. Ông Nguyễn Quân Chính là Phó chủ tịch tỉnh Quảng Trị – đã từng là chủ tịch của huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Ông quê ở Vĩnh Trung, Vĩnh Linh, Quảng Trị. Một cán bộ mẫu mực vì dân vì nước, nói như các cụ là: “Người cán bộ xưa nay hiếm”.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng
    26.“Thần đồng” Phan Đăng Nhật Minh

    Hải Thọ- Hải Lăng- Quảng Trị.
    giành giải nhất cuộc thi ‘Chinh phục’ .

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

     

    27. Văn Viết Đức
    thôn Long Hưng, xã Hải Phú, Hải Lăng (Quảng Trị)
    nhà vô địch cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia năm 2015

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    28. Ca Sĩ Minh Thùy Vietnam Idol
    Nói đến Minh Thùy, người ta nhớ ngay tới một ca sĩ có ngoại hình mũm mĩm nhưng sở hữu giọng ca đầy nội lực ở cuộc thi tìm kiếm tài năng ca hát Vietnam Idol – Thần tượng âm nhạc mùa 2003/2004.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

     

    29. VĐV Hồ Thị Huế:Hiện là Chánh văn phòng Hội người khuyết tật tỉnh Quảng Trị

    Hồ Thị Huế đã có vinh dự mang về chiếc huy chương (HC) vàng đầu tiên cho Đội tuyển bơi Việt Nam (VN) tham dự Para Games.
    HCB Paragames, HCV Châu Á Thái Bình Dương.Busan (Hàn Quốc)(2012)

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    30. VĐV Trần Thị Bé
    Ở Đại hội thể thao người khuyết tật toàn quốc đang diễn ra tại Hà Nội, chị Trần Thị Bé – người từng để lại nhiều ấn tượng qua vai Hảo trong phim Đời cát – đã bất ngờ giành được một Huy chương bạc và một Huy chương đồng

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

     

     

    31. Ca sĩ Cáp Anh Tài
    Tên đầy đủ : Cáp Xuân Anh Tài
    Sinh ngày : 12/11
    Quê: Thành phố Đông Hà -Quảng Trị
    Cao : 1m73
    Là cựu trưởng ban Văn nghệ trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng. Trưởng nhóm
    nhạc mang tên “Trẻ”. Giải nhất các nhóm nhạc Đà Nẵng.
    Các giải thưởng: Giải nhất tiếng hát truyền hình Quảng Trị.
    Huy chương vàng tiếng hát Miền Trung
    Giải nhất Cuộc thi tiếng hát HSSV Đà Nẵng.
    Nhiều giải thưởng khác.

    Đã phát hành 2 album:
    Vol 1: Như chưa bao giờ Năm 2008. Được khán giả yêu thích các ca
    khúc “Ngày hôm qua” của Yen Lam; “Xa lộ tình yêu” của Cáp Anh Tài sáng
    tác ;
    Vol 2 : Chơi vơi Năm 2009. Được khán giả yêu thích các ca khúc như :
    Mây bay về đâu và Nụ hôn tiễn đưa của Cáp Anh Tài sáng tác. Hoa tím ngoài sân của Thanh Tùng, 36 sợi phố của Trúc Giang.

    Cáp Anh tài hát được nhiều thể loại nhạc với giọng hát truyền cảm và phong
    cách trình bày cháy lửa.
    Ngoài các ca khúc viết riêng cho mình, Cáp Anh Tài cũng đã sáng tác nhiều nhạc
    phẩm cho các đơn vị khác như: SBJ- Sacombank bài “SBJ Lấp lánh mùa xuân”,
    Tạp chí Beauty & Hair; Tạp chí Cẩm nang mua sắm, Công ty DQ…

    Ngoài năng khiếu âm nhạc, Cáp Anh Tài còn là Biên đạo múa, biên kịch, đạo
    diễn event…

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    32. Ca Sĩ Đinh Hương

    Nổi lên từ cuộc thi Giọng hát Việt năm 2012 sau khi giành ngôi vị Á quân, Đinh Hương là một trong những nữ ca sĩ trẻ người Quảng Trị nổi bật trong thời gian gần đây.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

     

     

    33. ca sĩ Tùng Dương, tên thật Nguyễn Tùng Dương, (sinh 18 tháng 9 năm 1983tại Bắc Ninh)1 là một ca sĩ Việt Nam. Anh được biết đến từ cuộc thi Sao Mai điểm hẹn năm 2004, trong đó anh đã giành chiến thắng với giải thưởng do Hội đồng nghệ thuật bình chọn

    Tùng Dương là người gốc Quảng Trị, sinh tại quê ngoại Bắc Ninh. Anh là con một trong gia đình, bố là doanh nhân, mẹ từng mở cửa hàng trang điểm, chụp ảnh – nên về sau trở thành người thiết kế trang phục cho Tùng Dương. Dù bố mẹ anh không theo nghề hát, nhưng từ nhỏ Tùng Dương đã được tiếp xúc với âm nhạc, đặc biệt chịu ảnh hưởng từ ông trẻ là cố nhạc sĩ Trần Hoàn. Ngoài ra, nhà thơ Phạm Hổ và nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ là em trai của bà nội anh.Năm Tùng Dương học lớp ba, bố mẹ anh đi Nga làm ăn, để lại Tùng Dương cho hai bác ruột nuôi nấng. Ở Nga, bố mẹ anh thường tìm gửi những đĩa nhạc mới về cho con trai. Anh tiếp xúc với nhạc jazz từ lúc còn rất nhỏ tuổi, điều đó giúp góp phần định hình phong cách của anh sau này.

    Những người con Quảng Trị nổi tiếng

    Đang cập nhật thêm./

  • Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn

    Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn

    Một trang mạng Trung Quốc đăng ảnh vài mẫu bút tích của một số vị vua Nhà Nguyễn. Mời bạn xem và cho ý kiến!

    Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn

    Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn Bút pháp Hán tự của các vị Vua nhà Nguyễn

  • Ảnh đời thường Hà Nội những năm 90

    Ảnh đời thường Hà Nội những năm 90

    Những thứ rất đời thường , giờ trở thành vô giá
  • Những cây cầu ngói đẹp ở Việt Nam

    Được xây dựng đã lâu nhưng các cây cầu độc đáo ở Huế, Hội An, Nam Định… vẫn giữ được nét đẹp kiến trúc thuở ban đầu.

    Chùa Cầu được chọn là biểu tượng của thành phố Hội An, xuất hiện trên tờ 20.000 đồng. Đây là công trình do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Việt Nam xây dựng vào thế kỷ 17. Cầu dài khoảng 18 m, vắt qua lạch nước chảy ra sông Thu Bồn.

    Hai đầu cầu có tượng thú bằng gỗ đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đầu là tượng khỉ. Ở gian chính giữa có tượng Bắc Đế Trấn Vũ – thần chuyên trấn trị lũ lụt.

    Ở làng Bình Vọng (xã Văn Bình, Thường Tín, Hà Nội) có cây cầu 5 gian lợp ngói bắc qua ao đình.

    Trên cầu, hai bên là dãy bục gỗ để cho khách bộ hành nghỉ chân.

    Cầu ngói ở xã Hải Anh (Hải Hậu, Nam Định) được xây dựng vào thế kỷ 16.

    Cầu có 9 gian uốn cong được dựng trên 18 cột trụ đá vững chắc, có phần hành lang hai bên để cho khách bộ hành nghỉ chân.

    Ở khu vực chùa Thầy (Hà Nội) có hai cây cầu ngói do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602.

    Cầu Nhật Tiên dẫn vào đảo giữa hồ, trên có đền Tam Phủ.

    Cầu Nguyệt Tiên nối với con đường lên núi.

    Cùng với nhà thờ Đá, cầu ngói Phát Diệm cũng là công trình kiến trúc dân gian đặc sắc ở vùng Kim Sơn (Ninh Bình).

    Cầu dài 36 m, rộng 3 m với 3 nhịp, mỗi nhịp có 4 gian.

    Cầu ngói Thanh Toàn (thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên – Huế) cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7-8 km. Thân cầu được làm bằng gỗ, phía trên lợp mái ngói ống tráng men.

    Cầu dài khoảng 17 m, rộng 4 m và được chia làm 7 gian với gian giữa là nơi thờ bà Trần Thị Đạo, người góp tiền xây cầu cho dân làng tiện đường qua lại vào thế kỷ 18.

    Lê Bích – KTS Nguyễn Phú Đức