Tập tài liệu cực quý giá về nhà Bank Đông Dương ,đây là nhà Bank đầu tiên tại Saigon! Nay tọa lạc ở gần Cầu Móng – Tp.HCM.
Ngân hàng Đông Dương ra đời tại Sài Gòn năm 1875, trong thời điểm nền kinh tế Nam Kỳ đang gặp nhiều khó khăn và sự túng thiếu về mặt tài chính của Chính phủ Pháp. Chính vì ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt này, nên Ngân hàng Dương Dương có được nhiều đặc quyền, đặc lợi hơn so với các ngân hàng khác để phô diễn nền kỹ – nghệ Pháp ở Viễn Đông. Ngân hàng Đông Dương được gọi là Ngân hàng Chúa tể nước Pháp – Banque Imperiale de Françe.
1.Tóm tắt sơ lược
Ngân hàng Đông Dương (Banque de I’Indochine, viết tắt là BIC) được thành lập theo sắc lệnh của tổng thống Pháp ngày 21 tháng 1 năm 1875. Chính quyền Pháp có ý định xây dựng Ngân hàng Đông Dương thành một ngân hàng phát hành, cho vay và chiết khấu có đặc quyền trong 20 năm, với một đặc quyền hơn hẳn các ngân hàng thuộc địa khác: quyền phát hành đồng bạc Đông Dương, vào thời điểm đó Nam kỳ tuy đã trở thành thuộc địa của Pháp, vẫn sử dụng đồng tiền cổ truyền của người Việt cùng đồng bạc Mexico lưu hành từ trước khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha mở cuộc xâm lược Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương ra đời với nhiệm vụ phát hành đồng bạc Đông Dương để thay thế các loại tiền cũ cùng để người Pháp điều khiển kinh tế xứ thuộc địa mới này, Trụ sở chính của ngân hàng đặt ở Paris và một chi nhánh ở Sài Gòn. Sau khi Pháp mở rộng cuộc xâm lược Việt Nam thì Ngân hàng Đông Dương mở thêm chi nhánh tại Trung kỳ và Bắc kỳ từ năm 1885. Hai năm sau khi thành lập Liên bang Đông Dương năm 1887, ngân hàng lại mở thêm chi nhánh trên toàn cõi Đông Dương và các thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ nhằm tạo thuận lợi cho việc mua thuốc phiện vốn chủ yếu xuất phát từ Ấn Độ.
Năm 1898, Bộ Ngoại giao Pháp yêu cầu Ngân hàng Đông Dương mở rộng phạm vi hoạt động sang Trung Quốc và Thái Lan để hỗ trợ cho các hoạt động ngoại giao. Bộ Tài chính Pháp tán thành chủ trương trên và tăng vốn pháp định của ngân hàng lên 24 triệu franc. Theo chính sách đó năm 1899, Ngân hàng Đông Dương mở chi nhánh đầu tiên ở Hong Kong, năm sau mở tiếp ở Thượng Hải, rồi ở Hán Khẩu và Quảng Châu (1902), ở Thiên Tân và Bắc Kinh (1907) và Mông Tự (1913), ngân hàng Đông Dương tham gia một số hoạt động quan trọng ở Trung Quốc trong đó có việc xuất ngân cho vay khoản tiền xây dựng đường sắt Quảng Châu – Hán Khẩu, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Ngân hàng Đông Dương đã trở thành một công cụ tài chính mạnh của Pháp với khoảng 20 chi nhánh, trong đó có sáu ở Đông Dương và sáu ở Trung Quốc, số còn lại ở các thuộc địa Pháp tại Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương và châu Á.
2.Ngân hàng Đông Dương chấm dứt hoạt động
Sau năm 1953, Ngân hàng Đông Dương ở Việt Nam bị giải thể. Nhiệm vụ phát hành giấy bạc được chuyển cho Viện Phát hành Quốc gia Việt, Miên, Lào (Institut d’Emission des Etats du Cambodge, du Laos et du Viet-Nam) kể từ năm 1951 rồi giao lại cho Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, tức ngân hàng trung ương của Việt Nam Cộng hòa vào năm 1955, tức 1 năm Pháp rút toàn bộ Saigon, phần thương vụ thì chia cho Ngân hàng Việt Nam Thương tín (thành lập năm 1956) và hậu thân của Ngân hàng Đông Dương là Ngân hàng Pháp Á, tuy vắng mặt ở Việt Nam sau năm 1953, Ngân hàng Đông Dương tái hoạt động vào năm 1958 ở những nơi khác ở Á Châu, trước ngày 30/4.1975 thì nhập với Banque de Suez et de L’Union des Mines với tên mới: Banque Indosuez suốt từ đó và đến năm 2001 thì nhập vào Alliance Banking Group, hoạt động chính ở Malaysia
3.Tờ tiền đầu tiên xuất hiện tại Saigon
Loạt giấy bạc đầu tiên phát hành năm 1887 mang mệnh giá 5, 20 và 100 piastre. Người Việt ở Nam Kỳ nơi loại tiền này lưu hành trước nhất gọi tờ 5 đồng là tờ “ngẫu” và tờ 20 đồng là tờ “hoảnh”, ngoài ra tờ giấy bạc trị giá 20 piastre tức đồng bạc Đông Dương do Ngân hàng Đông Dương phát hành đầu tiên năm 1898, Sài Gòn Ngân hàng Đông Dương đảm nhiệm việc phát hành đồng bạc Đông Dương với lượng hối đoái dựa trên ngân bản vị, vào thời điểm năm 1930 thì một đồng bạc Đông Dương (piastre) được ấn định hàm giá 27 gr bạc. Hối xuất giữa đồng bạc Đông Dương và quan Pháp là 10 quan Pháp ăn một đồng Đông Dương.
Nằm ở một vị trí thuận lợi tại trung tâm thành phố, nhà hát được xem là nhà hát trung tâm, đa năng chuyên tổ chức biểu diễn sân khấu nghệ thuật đồng thời cũng được sử dụng để tổ chức một số sự kiện lớn. Đây cũng là nhà hát thuộc loại lâu đời theo kiến trúc Flamboyant và được xem như một địa điểm du lịch của thành phố này, tọa lạc trên con đường đắt đỏ trung tâm thành phố Sài Gòn bên cạnh là hai khách sạn lớn Caravelle và Continental.
Nhà hát thành phố có kiến trúc cổ kính, uy nghi với 1 tầng trệt, hai tầng lầu, 1800 ghế, không khí thoáng, hệ thống âm thanh ánh sáng hiện đại, là nơi tổ chức biểu diễn sân khấu chuyên nghiệp như: biểu diễn kịch nói, cải lương, ca nhạc, múa Balê, dân tộc, Ôpêra cho tất cả các đoàn nghệ thuật trong và ngoài nước.Ngoài ra, những đêm trình diễn thời trang đã thu hút bao khách thanh lịch ở Sài Gòn và nước ngoài, đặc biệt những nhà trình diễn thời trang quốc tế cũng chọn nhà hát Thành Phố làm nơi phô diễn những kiểu quần áo đặc sắc đang được thế giới ưa chuộng. Tại đây có thể tổ chức những buổi mít tinh, kỷ niệm những ngày lễ lớn, các hội thảo chuyên đề…
Ngay từ năm 1863 đã có những đoàn hát từ Pháp sang trình diễn cho quân viễn chinh Pháp xem, lúc đầu họ trình diễn tại ngôi nhà bằng gỗ của vị Ðô Ðốc tại Công trường Ðồng Hồ (Place de L’Horloge) ở góc Nguyễn Du- Ðồng Khởi hiện nay, sau đó một nhà hát tạm được lập ở vị trí khách sạn Caravelle ngày nay. Nhà hát lớn (Nhà hát Thành phố ngày nay) được khởi công xây dựng từ năm 1898. Ðầu năm 1900, nhà hát được khánh thành trọng thể. Mặt tiền của nhà hát được trang trí bằng nhiều tượng và tượng đắp nổi (như ở tòa nhà Ủy ban nhân dân thành phố) theo kiểu cách kiến trúc thời bấy giờ, giữa chiến tranh thế giới lần thứ I và chiến tranh thế giới lần thứ II, để đưa các đoàn hát từ Pháp sang trình diễn, thành phố phải trợ cấp nhiều. Vì thế nhiều người đã phản đối và có ý muốn biến nhà hát thành nhà hòa nhạc (salle de concert). Mặt tiền nhà hát bị đánh giá là quá rườm rà. Dự án sửa đổi đã được đưa ra vào năm 1943, sau đó mặt tiền nhà hát được sửa chữa lại như ta thấy ngày nay, sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, do hoàn cảnh chiến tranh, nhà hát không được tu bổ nhiều.
Kiến trúc của nhà hát lớn Sài Gòn là một đối trọng về mặt kiến trúc với Nhà hát lớn Hà Nội (cất năm 1911, kiến trúc theo mẫu Opéra Garnier tại Paris, 900 chỗ ngồi, kiến trúc sư Broger et Harloy). Nhà hát Sài Gòn giữ riêng nét đặc thù có một không hai. Tác giả của tòa kiến trúc này là các kiến trúc sư Félix Olivier, Ernest Guichard và Eugène Ferret xây dựng năm 1900 theo lối kiến trúc “flamboyant” của thời Đệ tam cộng hòa Pháp. Cửa mặt tiền chịu ảnh hưởng nghệ thuật khá rõ nét của Petit Palais cất cùng năm tại Pháp. Thiết kế bên trong tân tiến với đầy đủ thiết bị cho âm thanh và ánh sáng. Ngoài tầng trệt còn 2 tầng lầu tổng cộng 1800 chỗ ngồi. Toàn bộ các mẫu trang trí, phù điêu mặt tiền và nội thất đều được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ 19 và gửi từ Pháp qua ,tuy vậy, về phần trang trí ở mặt tiền nhà hát cũng có nhiều lời chỉ trích theo phong cách Pháp (sau được trang trí thêm theo phong cách Beaux Arts, rồi giản tiện hóa kiểu Art Deco), mặt tiền nhà hát được trang trí nhiều phù điêu và tượng đắp nổi (giống như Tòa Thị chính), nên bị chỉ trích là khá rườm rà và rối rắm. Vì vậy vào năm 1943, một số chi tiết trang trí này đã bị dỡ bỏ nhằm trẻ trung hóa phong cách kiến trúc.
Vào năm 1998, nhân dịp kỷ niêm 300 thành lập Thành phố Saigon chính quyền đương thời phục hồi chức năng cũ là nhà hát thành phố cũng như đã cho phục hồi một số trang trí như tượng 2 nữ thần nghệ thuật, các dây hoa, hai cây đèn… trong đợt cải tạo và nâng cấp nhà hát. Tổng kinh phí trùng tu phục chế vào khoảng 25 tỉ đồng thời giá bấy giờ.
Giữa hai cuộc Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai, việc đem gánh hát từ Pháp sang đây biểu diễn hoàn toàn do sự trợ cấp của chính quyền thành phố. Tuy có dự định nơi đây sẽ trở thành một khu trung tâm giải trí dành riêng cho những nhân vật sang trọng, nhưng Nhà Hát Tây càng ngày càng mất khách, vì các tay ăn chơi bị các hộp đêm, các quán ăn có nhạc và khiêu vũ giúp vui thu hút hầu hết… Sau thời gian đầu hoạt động sôi nổi, nhà hát chỉ còn sinh hoạt cầm chừng với các buổi ca hát, hòa nhạc và cải lương. Do có nhiều chỉ trích về kiến trúc rườm rà và chi phí tổ chức tốn kém, nên chính quyền thành phố đã từng có ý định chuyển nhà hát thành nơi hòa nhạc (Salle de Concert). Tuy nhiên, ý định này đã không được thực hiện. Thay vào đó, năm 1943 phần trang trí, điêu khắc ở mặt tiền nhà hát bị xóa bỏ (tượng nữ thần nghệ thuật, các dây hoa, hai cây đèn…) nhằm trẻ trung hóa phong cách kiến trúc. Tuy nhiên, vào năm 1944, nhà hát bị phi cơ Đồng Minh oanh tạc, làm hư hại hại nặng, phải ngưng hoạt động.
Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, do hoàn cảnh chiến tranh, nhà hát không được tu bổ nhiều. Năm 1954, nơi đây được sử dụng làm nơi ở tạm trú cho các thường dân Pháp từ miền Bắc di cư vào Nam theo Hiệp định Genève năm 1954. Năm 1955, nhà hát được tu bổ cải tạo nhưng lại được sử dụng với chức năng tòa Trụ sở Quốc hội (sau gọi là Hạ nghị viện) của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Sau năm 1975, Nhà hát được trả lại chức năng ban đầu là tổ chức biểu diện nghệ thuật. Năm 1998, nhân dịp 300 năm khai sinh Thành phố Sài Gòn, chính quyền thành phố đã cho tu bổ lớn với phương châm bảo tồn phong cách kiến trúc ban đầu, với một số trang trí, điêu khắc nổi ở mặt tiền nhà hát như tượng nữ thần nghệ thuật, các dây hoa… được phục chế.
Đấy! Các bạn cứ bảo phô da khoe thịt là đẹp đi.Chúng tôi thì yêu những cô gái có vẻ đẹp cổ điển như vầy.
Chà, nói gì thì nói, những quần ống loe, những váy chữ A hay chính những mái tóc pin up đậm chất hoài cổ không dưng mà trở thành tượng đài thời trang thời bấy giờ. Con gái Việt Nam, vốn dĩ đã rất xinh, thời nào cũng vậy 😉
“Ơi cô em đầu ngõ sáng nay
Tóc em bóng tựa như bồ kết
Má em hây hồng chăng phấn nụ?”…
(www.facebook.com/rinbebe)
Hình Ảnh Việt Nam chỉ sưu tầm và chỉ giữ lại một số dòng chú thích, phần còn lại xin dành cho bạn đọc!
Mãi về sau này, Thẩm giai nhân vẫn là biểu tượng huyền thoại của nhan sắc Sài Gòn, cho cả kiếp đa truân của một giai nhân thượng thặng. Nàng có một lòng mến chuộng đặc biệt với mỹ phẩm và không bao giờ cho phép bản thân xuất hiện trước công chúng khi khuôn diện chưa được sửa soạn cầu kì, từ mái tóc dày đen nhánh bới beehive, hai lọn tóc mai uốn nếp đến đôi mắt viền sắc sảo và làn môi căng bóng quyến rũ. Người đẹp họ Thẩm cũng là một trong những tín đồ đầu tiên của thuật giải phẫu thẩm mỹ, định hình một cái đẹp ấn định cho mọi thế hệ mỹ nhân phương Nam về sau, với cặp môi mọng, chiếc cằm chẻ, sống mũi dọc dừa và khuôn ngực phồn thực.
Vũ nữ Cẩm Nhung người gốc Hà Nội, có một khuôn mặt cực đẹp và làn da trắng hồng của con gái xứ Bắc, đôi mắt lẳng lơ, cùng thân hình quyến rũ và đôi chân điệu nghệ nhất trong các vũ điệu cuồng say tại vũ trường Kim Sơn.
Do giao du nhiều, đời tư của người đẹp này xảy ra rất nhiều biến động, được báo chí khai thác triệt để như vụ “đại úy Ngô Bằng cưỡng hiếp ca sỹ Minh Hiếu”, vụ tự sát bằng cách uống nguyên một lọ hơn 20 viên thuốc ngủ Euquinol (nhưng được cứu sống kịp thời). Sau nhiều giai thoại tình trường, Minh Hiếu đã trở thành vợ của Vĩnh Lộc – người thuộc dòng dõi hoàng tộc Nguyễn, uy quyền không kém vua Bảo Đại.
Nhắc đến những kỳ nữ ở VietNam trước 1975, không thể không kể tới Thẩm Thúy Hằng. Bà là minh tinh màn bạc của điện ảnh thương mại miền Nam Việt Nam giai đoạn cuối thập niên 1950 đến cuối thập niên 1970. Tên tuổi của bà không chỉ nổi tiếng tại Việt Nam mà còn được biết tới tại nhiều nước trong khu vực châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Hongkong, Đài Loan…America soldier boy with Vietnamese dancer girl
Xuất thân từ gia đình một ông hớt tóc nghèo hèn, ca sĩ Minh Hiếu nổi danh khắp miền Nam vì vừa có tài lẫn nhan sắc mặn mà hiếm có. Nhờ vẻ đẹp mong manh cuốn hút và giọng hát đắm say lòng người, cô nhanh chóng trở thành ngôi sao sáng tại các phòng trà và là mục tiêu theo đuổi của không ít tay chơi khét tiếng.
Bà Trần Lệ Xuân
Mãi về sau này, Thẩm giai nhân vẫn là biểu tượng huyền thoại của nhan sắc Sài Gòn, cho cả kiếp đa truân của một giai nhân thượng thặng. Nàng có một lòng mến chuộng đặc biệt với mỹ phẩm và không bao giờ cho phép bản thân xuất hiện trước công chúng khi khuôn diện chưa được sửa soạn cầu kì, từ mái tóc dày đen nhánh bới beehive, hai lọn tóc mai uốn nếp đến đôi mắt viền sắc sảo và làn môi căng bóng quyến rũ. Người đẹp họ Thẩm cũng là một trong những tín đồ đầu tiên của thuật giải phẫu thẩm mỹ, định hình một cái đẹp ấn định cho mọi thế hệ mỹ nhân phương Nam về sau, với cặp môi mọng, chiếc cằm chẻ, sống mũi dọc dừa và khuôn ngực phồn thực.
Vũ nữ Cẩm Nhung người gốc Hà Nội, có một khuôn mặt cực đẹp và làn da trắng hồng của con gái xứ Bắc, đôi mắt lẳng lơ, cùng thân hình quyến rũ và đôi chân điệu nghệ nhất trong các vũ điệu cuồng say tại vũ trường Kim Sơn.
Do giao du nhiều, đời tư của người đẹp này xảy ra rất nhiều biến động, được báo chí khai thác triệt để như vụ “đại úy Ngô Bằng cưỡng hiếp ca sỹ Minh Hiếu”, vụ tự sát bằng cách uống nguyên một lọ hơn 20 viên thuốc ngủ Euquinol (nhưng được cứu sống kịp thời). Sau nhiều giai thoại tình trường, Minh Hiếu đã trở thành vợ của Vĩnh Lộc – người thuộc dòng dõi hoàng tộc Nguyễn, uy quyền không kém vua Bảo Đại.
Nhắc đến những kỳ nữ ở VietNam trước 1975, không thể không kể tới Thẩm Thúy Hằng. Bà là minh tinh màn bạc của điện ảnh thương mại miền Nam Việt Nam giai đoạn cuối thập niên 1950 đến cuối thập niên 1970. Tên tuổi của bà không chỉ nổi tiếng tại Việt Nam mà còn được biết tới tại nhiều nước trong khu vực châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Hongkong, Đài Loan…America soldier boy with Vietnamese dancer girl
Xuất thân từ gia đình một ông hớt tóc nghèo hèn, ca sĩ Minh Hiếu nổi danh khắp miền Nam vì vừa có tài lẫn nhan sắc mặn mà hiếm có. Nhờ vẻ đẹp mong manh cuốn hút và giọng hát đắm say lòng người, cô nhanh chóng trở thành ngôi sao sáng tại các phòng trà và là mục tiêu theo đuổi của không ít tay chơi khét tiếng.
Về Sài Gòn lại nhớ những tiếng rao cũ “Quê hương trên đôi vai gầy” và hiện nay có một sự thật là Sài Gòn bây giờ có thể đã vắng nhiều những tiếng rao, nhất là về đêm, không thiếu gì người bán hàng rong vẫn quang gánh kĩu kịt từng con hẻm quanh co nhưng tiếng rao của họ đã bị vô số tiếng ồn xe cộ, TV, âm nhạc lấn áp, ngày trước, mỗi khi nghe tiếng rao quen thuộc là người Sài Gòn có thể biết giờ mà khỏi cần coi đồng hồ. Tiếng rao trở thành thân thuộc đến nỗi khi vắng nó một vài hôm đã khiến người ta lo lắng cho sức khoẻ của người bán dạo. Để rồi khi được nghe lại tiếng rao thì bồi hồi như thể vừa gặp lại người quen! Tiếng rao Sài Gòn có sắc thái riêng. Bây giờ, tiếng rao có khi được thay bằng những thanh âm khác: tiếng lóc cóc của xe mì gõ lúc nửa đêm, hay tiếng xoành xoạch của anh chàng đấm bóp…
Một xe đẩy bán nước bên cạnh một quầy cà phê nhỏ trên vỉa hè Sài Gòn
1.Những tiếng rao quen thuộc về Sài Gòn
Cuộc sống Sài Gòn như đầy đặn hơn trong những con hẻm nhỏ. Chỗ lày là quán cà phê cóc, kế bên là quán cơm bình dân, đối diện là quán bún bò nằm cạnh quán phở… Ăn uống ở những quán này, giá cả rất bình dân mà chất lượng cũng… chấp nhận được! Với những người tỉnh lẻ lên Sài Gòn ở trọ vài năm thì chắc chắn những tiếng rao của cái đô thị này đã ngấm vào ký ức. Sài Gòn là vậy, hối hả, ồn ào nhưng rất dễ thương dễ nhớ. Nhớ tiếng rao, là một phần hồn của Sài Gòn, ai đã đến rồi đều mang theo khi tạm biệt. Đó là một phần đặc trưng, một phần bản sắc của Sài Gòn vậy!..,sáng tinh mơ Sài Gòn đã quen với tiếng rao “bánh mì nóng giòn…”, “báo mới đây…”,. Sau những “thức điểm tâm” đó là một ngày làm việc với: “ve chai, đồ điện hư cũ bán hông…” vào buổi trưa, “bánh bò bánh tiêu bánh cuốn”, “xôi khúc bánh tét bánh giò” vào buổi chiều kéo tận đến khuya. Đêm Sài Gòn không thể thiếu tiếng lóc cóc của đội quân xe mì gõ suốt hai mùa mưa nắng … Gần đây, dân nhập cư, nông nhàn đổ về thành phố ngày càng đông. Tiếng rao cũng “phong phú” nhiều mặt hàng hơn: ve chai, khoai lang, khoai mì, đậu phộng nấu, bắp nấu…,bước trên đường phố Sàigòn náo nhiệt và sống động, ta có thể nghe thấy khắp các đường, hẻm những tiếng rao “tiếp thị”. Đường phố thì ồn ào, nhà ở thì cao tầng, tiếng rao dường như không còn ngân nga như trước. Người rao cố vươn dài cổ, hét thật to để át đi những âm thanh hỗn độn của cuộc sống.
Tiếng rao Sài Gòn tựa như một bài hát có âm, có điệu, có vần nghe thật hấp dẫn. Nhưng đằng sau những âm thanh đó là nếp sinh hoạt người dân chốn thị thành từ lâu đời, chống chọi với gian khổ để giành lấy cuộc sống bản thân!
Tiếng lóc cóc của những xe hàng rong đi qua
Mùi thơm đánh thức cả con hẻm nhỏ
Náo nức những tiếng rao buổi sáng
“Báo đê… ê… , bánh mì nóng, xôi vò đê…ê!”
—
Nụ cười hồn nhiên của cô bé bán nước bên bờ kênhNhững xe bán nước dạo trên đường phố Sài Gòn những năm 40
2.Tiếng Rao “SÀI GÒN” ngày nay
Sài Gòn hôm nay có những tiếng rao mới: “Thịt ngon, cá tươi, rau xanh các bác ơi!”… Đó là âm thanh của tiếng rao vào sáng sớm trong các khu phố bình dân. Người rao là những cô gái trẻ quê phía Bắc. Các cô cột hai cái rổ sắt hai bên yên sau chiếc xe đạp, chứa vài thứ thực phẩm tươi sống: thịt, cá, rau củ quả… Thật tiện lợi, mang chợ đến tận nhà! Đi theo “sau lưng” các cô là những anh chàng mà tiếng rao được “hiện đại hoá” bằng băng cassette, phát ra liên tục, đều đều: “Bánh mì Sài Gòn đặc ruột thơm bơ một ngàn một ổ”… Xen kẽ theo “bánh mì đặc ruột”, là các cô, các bà cưỡi xe đạp, chở phía sau một nồi xôi rất… Bắc Kỳ và cất tiếng rao: “Xôi khúc đây!”..,rồi tiếng rao buổi sáng trên các hẻm hóc Sài Gòn sẽ được nâng lên “cao trào” khi xuất hiện những anh chàng đạp xe, cùng chiếc loa phát ra lời rao lanh lảnh từ máy cassette: “Keo dính chuột sản xuất bằng công nghệ hóa màu đã được kiểm nghiệm cực kỳ khoa học, không gây độc hại cho người!”… Keo dính chuột có thể không gây hại, nhưng tiếng rao oang oang của anh ta có thể đã lập tức gây “ngộ độc” màng nhĩ của bà con trong xóm! Rồi sẽ xuất hiện từ đầu hẻm một người đẩy chiếc cân sức khỏe, cao nghễu nghện đi vào với lời rao tự động: “Cân nặng 55 kg, chiều cao 1m60, sức khỏe tốt…”,buổi trưa và chiều Sài Gòn những tiếng rao vẫn tiếp tục cất lên nhằm “giới thiệu sản phẩm”: bò bía, bột chiên, hủ tiếu gõ, trái cây… cả tiếng rao mài dao mài kéo!
Sài Gòn về đêm làm cho người ta ít nhiều có những ký ức mông lung gợi nhớ… Những tiếng rao đêm như xói vào lòng người. Xe mì gõ nơi góc đường bốc hơi nghi ngút toả hương thơm cả một quãng phố dài. Tiếng gõ lóc cốc của thằng bé bán mì vang đi khắp xóm. Tiếng gõ nhịp vang lên trong từng con hẻm – như một tiếng rao đêm nhẹ nhàng mà da diết – khi mọi người đã say trong giấc ngủ thì có ai còn thao thức bởi những con người này không? Saigon về đêm vẫn còn ẩn chứa biết bao điều…,ngồi trên căn gác xép, người Sài Gòn đêm đêm lại nghe văng vẳng đâu đó một mớ âm thanh hỗn độn: tiếng rao đêm, tiếng chổi của những người quét rác, tiếng bước chân người qua lại, tiếng gõ phát ra từ những xe hủ tiếu mì… Những âm thanh ấy ngày càng nhỏ dần và rơi vào khoảng không vô tận, hun hút của màn đêm
Đêm càng khuya, tiếng rao càng nhỏ, nhưng lại vang xa, ngân dài từ đầu phố đến cuối phố, nhẫn nại và chậm chạp. Tiếng rao nối những con phố dài vắng lặng hun hút ánh đèn, làm cho đêm như sâu hơn. Tiếng rao đêm lanh lảnh của ai kia văng vẳng vọng về. Bên ngoài kia còn biết bao người lam lũ vất vã… Thành phố phát triển có những đổi thay xa lạ với chính nó. Điều này quá hiển nhiên như bây giờ ít được nghe tiếng rao đêm của người bán ăn khuya vì ở ngã tư kia giờ đã có hàng quán sáng ánh điện suốt đêm, ký ức thỉnh thoảng vẫn vọng lại tiếng rao đêm, ánh đèn dầu….
Có tiếng rao như lời Mẹ tôi, như lời chị tôi
Mang quê hương trên đôi vai gầy
Những trái ổi sẻ, những trái me
Ðậu phộng luộc, đòn gánh tre
Ai mua, ai không mua, ai mua
Trường Quốc Học (thường gọi là Quốc Học hay Quốc Học-Huế; tên chính thức hiện nay: Trường Trung học Phổ thông Chuyên Quốc Học) là một ngôi trường nổi tiếng ở cố đô Huế, Việt Nam.
Trường được thành lập vào ngày 23 tháng 10 năm 1896 theo chỉ dụ của vua Thành Thái giao cho ông Ngô Đình Khả làm trưởng giáo (Hiệu trưởng).
Quốc Học Huế là ngôi trường trung học phổ thông lâu đời thứ ba tại Việt Nam.
Quốc Học được xây dựng trên nền của Dinh Thủy sư (nơi huấn luyện binh lính đường thủy của quân đội triều Nguyễn), ban đầu trường được xây dựng theo kiểu cũ, nhà tranh vách đất, tổng cộng có ba tòa nhà. Địa điểm của trường nằm xoay ra đường Jules Ferry (sau năm 1955 là đường Lê Lợi).
Công trình kiến trúc được xây dựng theo kiểu Pháp vào đầu thế kỷ 20.
Quốc Học Huế còn nổi tiếng bởi những lãnh đạo chính trị của Việt Nam đã từng theo học tại đây, trong đó có Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm.
Hiện nay, trường được chính phủ Việt Nam chọn để xây dựng thành một trong ba trường phổ thông trung học chất lượng cao của Việt Nam.
Thời kỳ mới thành lập, ông Ngô Đình Khả làm trưởng giáo, trường được xây dựng theo kiểu cũ, nhà tranh vách đất.Thời kỳ mới thành lập, trường được xây dựng theo kiểu cũ, nhà tranh vách đất, quanh trường nhiều cây cối, cỏ mọc rậm rạp.Trường được xây dựng theo kiểu cũ, nhà tranh vách đất, so với ảnh trước cây đã lớn hơn, phía trước lớp học có đường đi sạch sẽ.Vào đầu thế kỷ 20 trường được xây mới, công trình kiến trúc được xây dựng theo kiểu Pháp.
Sang đến thời kỳ “một trăm năm đô hộ giặc Tây”. Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng đã trở thành thuộc địa của Pháp. Cũng vì thế, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội của người Việt. Tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ Bảo hộ và trong giảng dạy ở nhà trường, bên cạnh đó là các loại sách báo thâm nhập đời sống thường ngày của người dân.
Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651), với mục đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt. “Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp.
Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này.
Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juliet. Người ta có thể dùng tiếng Tây “bồi” nhưng lại không cảm thấy xấu hổ vì vốn liếng tiếng Pháp của mình vốn chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Để tả con cọp, người ta có thể dài dòng văn tự: “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng (jaune), một chút màu đen (noir), nó ăn thịt ông (monsieur), nó ăn thịt cả tôi (moi).
Nhân đây cũng xin nói thêm về những đại danh từ nhân xưng như toa (anh, mày – toi), moa hay mỏa (tôi, tao – moi), en hay ẻn (cô ấy, chị ấy – elle), lúy hay lủy (anh ấy, hắn – lui), xừ hay me-xừ (ông, ngài – monsieur)… Học trò trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những kẻ tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng vì thế có một câu mang tính cách châm chọc: “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải đái trên đầu toa” (toa ở đây có 2 nghĩa: toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi (anh) trong tiếng Pháp).
Nói thêm về hỏa xa, người Pháp xây dựng đường xe lửa đầu tiên ở Việt Nam tại Sài Gòn từ năm 1881. Đây là đoạn đường ray (rail) từ Cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn, dài 13km. Mãi đến năm 1885 chuyến xe lửa đầu tiên mới được khởi hành và một năm sau, tuyến đường Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71km bắt đầu hoạt động. Sau đó, mạng lưới đường sắt được xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam, dùng kỹ thuật của Pháp với khổ đường ray 1 mét. Tính đến năm 1975 miền Nam có khoảng 1.240km đường ray nhưng vì chiến cuộc nên chỉ được sử dụng khoảng 60%.
Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép… Nhân nói về ga tưởng cũng nên nhắc lại động từ bẻ ghi (aiguiller) tức là điều khiển ghi (aiguille) cho xe lửa chuyển sang đường khác. Trong tiếng Việt, bẻ ghi còn có nghĩa bóng là thay đổi đề tài, chuyển từ chuyện mình không thích sang một đề tài khác.
Xe lửa ngày xưa
Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng vì lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su (caoutchouc), một loại cây công nghiệp được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền tại miền Nam. Ngôn ngữ tiếng Việt rất linh động trong cách dùng từ ngữ cao su qua các biến thể như giờ cao su (giờ giấc co dãn, không đúng giờ), kẹo cao su (chewing-gum), bao cao su (còn gọi là “áo mưa” dùng để tránh thai hoặc tránh các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục)…
Nhà băng (banque) là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày còn xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon. Ở miền Bắc, xà bông được cải biên thành xà phòng, là chất dùng để giặt rửa, chế tạo bằng cách cho một chất kiềm tác dụng với một chất béo. Nổi tiếng ở Sài Gòn xưa có xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền, dùng dầu dừa làm nguyên liệu chính.
Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lãnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy (thực đơn – menu) trong đó có những món như bít-tết (chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak), những thức uống như bia (rượu bia – bière, được chế biến từ cây hốt bố hay còn gọi là hoa bia – houblon), rượu vang (rượu nho – vin)…
Về thịt thì có xúc-xích (saucisse), pa-tê (paté), giăm-bông (jambon), thịt phi-lê (thịt thăn, thịt lườn – filet). Các món ăn thì có ra-gu (ragout), cà-ri (curry)… Khi ăn xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa (tiền thưởng – pourboire). Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ.
Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét (loại bánh mì nhỏ, dài – baguette), bánh pa-tê-sô (một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon – pathé chaud), bánh croát-xăng (hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant).
Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la (trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat), trứng ốp-lết (trứng tráng – omelette) hoặc trứng la-cóc (trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque).
Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê (café). Cà phê phải được lọc từ cái phin (filtre à café) mới đúng điệu. Người miền Bắc ít uống cà phê nên sau năm 1975 vào Sài Gòn nhiều người đã mô tả cái phin cà phê một cách rất “gợi hình”: “cái nồi ngồi trên cái cốc”.
Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi (chemise), cổ tay có cài khuy măng-sét (manchette). Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo vét (vest) hay bộ vét-tông (veston) kèm theo chiếc cà-vạt (cravate) trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc gi-lê (gilet) và hai tay mang găng (gants) cho ấm.
Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ trên thì mang xú-chiêng (nịt ngực – soutien-gorge) dưới thì có xì-líp (slip). Nam giới thì mặc áo may-ô (maillot) bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya (dây nịt – ceinture) và khi trời nóng thì mặc quần sóc (quần ngắn, tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts).
Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông (vải bông – coton) hoặc bằng len (làm từ lông cừu – laine). Trên đầu có mũ phớt (feutre, một loại mũ dạ), mũ be-rê (béret, một loại mũ nồi)… dưới chân là đôi dép săng-đan (sandales), sau này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa-bô (sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc).
Đi lính cho Tây thì được phát đôi giày săng-đá (giày của lính – soldat). Loại lính nhảy dù, biệt kích (ngày nay là đặc công) gọi là còm-măng-đô (commando). Một đoàn xe quân sự có hộ tống được gọi là công-voa (convoi, trông cứ như con voi trong tiếng Việt!). Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông.Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên: mã-tà (xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui), sen đầm (gendarme), phú-lít (police), ông cò (commissaire)… Lực lượng thuế quan (ngày nay gọi là hải quan) được gọi là đoan (douane), lính đoan còn có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp thuộc. Nông phẩm thì có đậu cô-ve (còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert), đậu pơ-tí-poa (đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois), bắp sú (bắp cải – chou), súp-lơ (bông cải – chou-fleur), xà lách (salade), cải xoong (còn gọi là xà lách xoong – cresson), cà-rốt (carotte), ác-ti-sô (artichaut)…
Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano (dương cầm), violon (vĩ cầm), kèn harmonica (khẩu cầm)… Ở các đăng-xinh (khiêu vũ trường – dancing) luôn có ọc-két (ban nhạc – orchestre) chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve (gái nhẩy – cavalière). Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó.
Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ (beurre), pho-mát (fromage), kem (crème)… Nổi tiếng ở Sài Gòn có hai nhãn hiệu sữa Ông Thọ (Longevity) và Con Chim (Nestlé) như đã nói ở phần trên.
Có người cắc cớ thắc mắc, đàn ông mà lại là ông già thì làm sao có sữa? Xin thưa, hình tượng “Ông Thọ chống gậy” trên hộp sữa chỉ muốn nói lên tuổi thọ (longévité) của người dùng sữa. Trường hợp của Nestlé cũng vậy. Con Chim thì làm gì có sữa? Thực ra thì logo của Nestlé là một tổ chim (gồm chim mẹ và 2 chim con) nhưng người Việt mình cứ gọi là sữa Con Chim cho tiện.
Cũng vì thế mới có nhiều câu chuyện khôi hài về sữa Con Chim. Chú Ba Tàu, chủ tiệm “chạp phô”, giải thích vì sao sữa Con Chim lại bán với giá mắc hơn những sữa khác: “Sữa con bò vì có nhiều vú nên rẻ, sữa mẹ chỉ có 2 vú nên đắt nhưng Con Chim nhỏ chút xíu, vắt được 1 lon sữa là quý lắm thì phải mắc tiền nhất chớ!”.
Các ông lại giải thích một cách hóm hỉnh khi các bà thắc mắc Con Chim làm gì có sữa: “Tại mấy bà không để ý đấy thôi, con chim khi hứng chí cũng tiết ra một thứ sữa màu trắng đục, đó không phải là sữa thì là gì?”.
Thế mạnh của Nestlé là các sản phẩm sữa bò khác như Núi Trắng (Lait Mont-Blanc) và sữa bột Guigoz. Ngày xưa, những gia đình trung lưu đều nuôi con bằng sữa bột Guigoz. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi ăn vụng một thìa Guigoz của em út: vừa bùi, vừa béo, những hạt sữa nhỏ ly ty như tan ngay trong miệng.
Sữa bột Guigoz được chứa trong một cái lon bằng nhôm, cao 15cm, có sọc ngang, bên trong lại có sẵn thìa để giúp người pha dễ đo lường. Khi dùng hết bột, các bà nội trợ không vứt lon như những loại sữa khác vì lon Guigoz có nắp đậy rất kín nên được “tái sử dụng” trong việc đựng đường, muối, tiêu, bột ngọt…
Những người thiết kế lon Guigoz chắc hẳn chưa bao giờ nghĩ cái lon lại có nhiều công dụng sau khi sữa bột ở bên trong đã dùng hết. Lon Guigoz đã theo chân những tù nhân cải tạo như một vật “bất ly thân”. Những người “tưởng đi học có 10 ngày” mang theo lon Guigoz để đựng các vật dụng linh tinh như bàn chải, kem đánh răng, vài loại thuốc cảm cúm, nhức đầu để phòng khi cần đến.
Sửa Bột Rau – Guigoz
Lon Guigoz thường được chúng tôi gọi tắt là “lon gô”. Học tập càng lâu lon gô càng tỏ ra “đa năng, đa hiệu”. Muốn múc nước từ giếng lên thì dùng gô làm gàu, buổi sáng thức dậy dùng gô làm ly đựng nước súc miệng, nhưng gô còn tỏ ra đặc biệt hữu ích khi dùng như một cái nồi để nấu nước, thổi cơm, luộc măng (lấy ở trên rừng), luộc rau, luộc khoai mỳ (“chôm chỉa” khi đi “tăng gia sản xuất”)… nghĩa là làm được tất cả mọi công việc bếp núc.
Chúng tôi ở trong một căn cứ cũ của Sư đoàn 25 tại Trảng Lớn (Tây Ninh) nên có cái may là còn rất nhiều vỏ đạn 105 ly. Người cải tạo săn nhặt những vỏ đạn về và chế thành một cái lò “dã chiến” và lon gô để vào trong lò vừa khít, tưởng như 2 nhà thiết kế vỏ đạn và lon gô đã ăn ý với nhau “từng centimét” ngay từ khâu thiết kế ban đầu! Ai chưa có lon gô thì nhắn gia đình tìm để đựng đồ ăn mỗi khi được vào trại “thăm nuôi”.
Sau 30/4/75 lon gô trở nên hữu dụng vì công nhân, sinh viên, học sinh dùng lon gô để đựng cơm và thức ăn cho bữa trưa. Người Sài Gòn thường đeo một cái túi đựng lon gô khi đi làm, một hình ảnh không thể nào quên của “thời điêu linh” sau 1975.
Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô (xe hơi – auto, automobile). Xe xưa thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven (manivelle) đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ (khởi động – démarreur). Sau khi đề (demarrer), xe sẽ nổ máy, sốp-phơ (người lái xe – chauffeur) sẽ cầm lấy vô-lăng (bánh lái – volant) để điều khiển xe… Về cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê (chìa vặn – clé), mỏ-lết (molete), đinh vít (vis), tuốc-nơ-vít (cái vặn vít – tournevis), công-tơ (thiết bị đồng hồ – compteur), công tắc (cầu dao – contact)…
Bây giờ nói qua chuyện xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông (thanh tay lái – guidon), dưới chân có pê-đan (bàn đạp – pedale), săm (ruột bánh xe – chambre à air) và phía sau là bọc-ba-ga (để chở hàng hóa – porte-bagages).
Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… Tây rặc. Có dây sên (dây xích – chaine), có líp (bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre), rồi phanh (thắng – frein) ở cả bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ như gạc-đờ-bu (thanh chắn bùn – garde-boue) và gạc-đờ-sên (thanh che dây xích – garde-chaine).
Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm (pompe) để phòng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô (dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm). Tôi còn nhớ khi tháo tung một cái dynamo cũ thấy có một cục man châm gắn vào một trục để khi trục quay sẽ sinh ra điện.
Hồi xửa hồi xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn! Sài Gòn xưa có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling… Đó là những chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn xưa
Cách đặt tên đường ở Sài Gòn trước 1975 rất hay, rất có dụng ý rất có ý nghĩa . Người đi từ cửa ngõ vào tới trung tâm Sài Gòn, nếu để ý bạn sẽ thấy cả một chiều dài văn minh 4000 năm lịch sử của nước Việt trên từng bước chân.
+ Khởi đầu từ Bến xe Miền Tây ta sẽ có Hồng Bàng, An Dương Vương, Triệu Đà… Bà Triệu… rồi thì có Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục… Tiếp đến là Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh…Lý Chiêu Hoàng. Nhà Trần thì Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo và các tướng quây quần Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư…
+ Các bến sông gồm có Vạn Kiếp, Hàm Tử… Bến cảng lớn nhất thì đặt tên Bạch Đằng…
+ Cứ thế vào càng gần trung tâm thì càng tiệm cận đến hiện tại như Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi… rồi tới nhà Nguyễn lại càng gần trung tâm hơn nữa như Nguyễn Hoàng, Minh Mạng, Tự Đức cùng các tướng lãnh như Võ Tánh, Lê Văn Duyệt…
+ Chệch qua phía bắc khu trung tâm (phía Quận 3) ta có triều Tây Sơn và các nhà văn, nhà thơ, học sĩ: Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương… cùng với các võ tướng Tây Sơn: Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu…
Phải nói rằng một người đi từ bến xe vào trung tâm nếu thuộc Sử Việt và để ý tên đường thì rất dễ hình dung mình đang ở khu vực nào trong Thành phố.
Đường phố Sài Gòn xưa
Tân định thì nhà Trần Cát cứ.
Phan Chu Trinh & Phan Bội Châu thì ở Chợ Bến Thành
Con đường nhỏ hơn một chiều, chạy ngang Toà án và cổng chính Dinh mang tên Công Lý (Công Lý thì không thể nào 2 chiều được!). Hai con đường song song với Đại Lộ Thống Nhất được mang tên của hai danh nhân đã tạo ra chữ viết của Việt Nam là Hàn Thuyên và Alexandre de Rhodes với hàm ý biết ơn sâu sắc… đó cũng là cách giáo dục Lịch Sử cho Quốc Dân
Chỉ cần am hiểu lịch sử bạn sẽ không bao giờ đi lạc.
Cách đây vài tháng ad đã có làm một bài về “Tiếng Lóng” của người dân Sài Gòn Xưa ,nay đang rảnh rổi lang thang búa lua xua nên làm tiếp tập 2 cho quý vị đọc nha ,nhằm ghi nhớ lại những từ mà ngày xưa người Saigon hay dùng như: “Mèn ơi, Nghen, Hén, Hen, Tà Tà, Thềm ba, Cà rịch cà tang, tàn tàn,…”, và những câu thường dùng như : “Kêu gì như kêu đò Thủ Thiêm, làm nư, cứng đầu cứng cổ, tháng mười mưa thúi đất, cái thằng trời đánh thánh đâm…v…v…”, sẵn đây quý vị trong Sài Gòn Xưa ai còn nhớ những từ nào thì hãy chung tay góp nhặt ngỏ hầu lưu lại những tiếng gọi, câu nói thân thương của người Saigon và miền Nam trước đây, vì sợ “E RẰNG” một ngày nào đó nó sẽ mai một trong tương lai.
Hot Girl Sài Gòn đi xe Vespa
1.Tiếp tục của chương 1 nha
Giọng nói, sự pha trộn của ngôn ngữ miền Bắc di cư vào những năm 1950 hòa cùng ngôn ngữ Saigon, miền Tây đã tạo nên thêm một phong cách, giai điệu mới … và bài “Này cô em Bắc Kỳ nho nhỏ“, hình ảnh cô gái chạy xe chậm rãi tỏ ra bất cần mấy anh chàng theo sau năn nỉ làm quen không biết đã bao nhiêu lần làm bâng khuâng xao xuyến lòng người nghe. Nhất là cái giọng người Bắc khi vào Nam đã thay đổi nó nhẹ nhàng, ngang ngang như giọng miền Nam thì tiếng lóng miền Nam càng phát triển. Dễ nghe thấy, người Bắc nhập cư nói từ “Xạo ke” dễ hơn là nói “Ba xạo”, chính điều dó đã làm tăng thêm một số từ mới phù hợp với chất giọng hơn. Chất giọng đó rất dễ nhận diện qua những MC như Nam Lộc, Nguyễn Ngọc Ngạn mà các Anh Chị đã từng nghe trên các Video chương trình Ca nhạc, kể chuyện, ….,đặc biệt trong dịch thuật, nếu không am hiểu văn nói của Saigon miền Nam nếu dùng google dịch thì “qua biểu hổng qua qua qua đây cũng dzậy” (câu gốc: Hôm qua qua nói qua qua mà qua hỏng qua, hôm nay qua nói qua hỏng qua mà qua qua)nó dịch ra như vầy “through through through through this gaping expression too” Ông Tây đọc hiểu được ý thì chịu chết… Hay như câu “giỏi dữ hôn” thì google dịch cũng ngất ngư con lạc đà… Trong văn nói, người Miền Nam hay dùng điệp từ cùng nguyên âm, hay phụ âm, hoặc dùng hình tượng một con vật đễ tăng cấp độ nhấn mạnh: như bá láp bá xàm, cà chớn cà cháo, sai bét bèng beng (từ bèng beng không có nghĩa),… sai đứt đuôi con nòng nọc,… chắc là phải cả pho sách mới ghi lại hết….Phong cách sử dụng từ như vậy Trường mong sẽ có một dịp nào đó viết một bài về nó, hay và lạ hơn, cách dùng những tựa hay lời bài hát để thành một câu nói thông dụng có lẽ phong cách này trên thế giới cũng là một dạng hiếm, riêng Miền Nam thì nhiều vô kể ví dụ : Khi nghe ai nói chuyện lập đi lập lại mà không chán thì người nghe ca một đoạn: ” Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi!”, hoặc khi sắp chia tay thì lại hỏi : “Đêm nay ai đưa em về !” người ngoại quốc ai không biết cứ tưởng là người đó đang ca chứ hổng phải đang hỏi mình, như khi nghe ai nói chuyên mà chuyện này ai cũng biết rồi thì lại nói: “Xưa rồi diễm….” với cái giọng Iễm kéo dài tha thướt .
Tuy nhiên, do những từ này được trình bày bằng chữ nghĩa nên cách xài nhấn âm, lên giọng của người Miền Nam không thể biểu lộ hết cái hay của nó, ví dụ như riêng câu: “thằng cha mầy, làm gì mà mồ hôi đổ ướt hết áo dậy?” cụm từ “thằng cha mầy” kéo dài hơi lại có nghĩa là gọi yêu thương chứ không phải la mắng, tương tự khi mấy cô gái nguýt (nói): ” Xí! Hổng chịu đâu”,”Xí! Cha già dịch nè !”, ” Sức mấy!, “Ông nói gì tui ưa hổng nổi nha!”, “Cha già khó ưa! ” với cách nhấn giọng thì nghe rất dễ thương và dịu dàng nhưng khó gần lắm à nghen, nhưng đến khi nghe câu ” tui nói lần cuối, tui hổng giỡn chơi với Ông nữa đâu đó nghen! ” thì coi chừng … liệu hồn đó, thật ra không phải người Saigon ai cũng xài hết mấy từ này, chỉ có người bình-dân mới dám xài từ như Mả cha, Tổ mẹ để kèm theo câu nói mà thôi. Dân nhà trí thức ít ai được Ba Má cho nói, nói ra là vả miệng không kịp ngáp luôn, giáo dục ngày xưa trong gia đình rất là khó, nhất là mấy người làm bên nghề giáo dạy con càng khó dữ nữa. Ra đường nghe mấy đứa con nít nói “DM” thậm chí còn không hiểu nó nói gì, về nhà hỏi lại chữ đó là gì, chưa gì đã bị cấm tiệt không được bắt chước, lúc đó chỉ nghe Ba Má trả lời: “Đó là nói bậy không được bắt chước đó nghen!”. Chưa kể tới chuyện người lớn đang ngồi nói chuyện mà chạy vô xầm xập hỏi thì cũng bị la rầy liền : “Chổ người lớn nói chuyện không được chen vô nhớ chưa?”. Đến năm 1980 thì giáo dục cũng khác hẳn ngôn ngữ bắt đầu đảo lộn ở cấp tiểu học… tiếng Saigon dần dần bị thay đổi, đến nay trên các chương trình Game Show chỉ còn nghe giọng miền Nam với câu nói: “Mời anh trả lời ạ” “các bạn có thấy đúng không ạ”, ạ… ạ …ạ… cái gì cũng ạ….làm tui thấy lạ. Thêm nữa, bây giờ mà xem phim Việt Nam thì hình như không còn dùng những từ ngữ này khi kịch bản phim, hay tiểu thuyết đặt bối cảnh vào thời điểm xưa mà dùng ngôn ngữ hiện đại lồng vào, nên khi coi phim thấy nó lạ lạ làm sao đâu …
2.Nhớ đâu viết đấy …
À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha)
Anh em cột chèo
Áo thun ba lá = Áo thun ba lổ, Áo May Ô (bắc)
Áp phe = trúng mánh, (chiều qua trúng áp phe đã nha!)
Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
Ăn hàng = ăn uống (sau này trộm cướp cũng xài từ ăn hàng, tức là đi giựt dọc, cướp bóc B4-1975)
Âm binh = Cô hồn, các đảng, phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách),…
Ba đía : xạo
Bà chằn lữa = người dữ dằn (dữ như bà chằn)
Ba ke, Ba xạo
Bá Láp Bá Xàm =Tầm xàm – Bá láp
Bá chấy bù chét
Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa)
Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường
Bảnh tỏn
Banh ta lông = như hết chuyện (gốc từ cái talon của vỏ xe)
Banh xà lỏn
Bành ki = bự
Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng)
Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi
Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn
Bất thình lình = đột ngột, Bất tử
Bầy hầy : bê bối, ở dơ
Bẹo = chưng ra, Bệu (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa)
Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên, ứa gan
Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể
Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con bên bển đó!)
Biết đâu nà, biết đâu nè, = biết đâu đấy
Biết sao hôn !
Biệt tung biệt tích = không thấy hiện diện
Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo
Bít bùng
Bình thủy = phích nước
Bình-dân = bình thường
Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít)
Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình)
Bỏ thí = bỏ
Bồ = gọi bạn thân thiết ( Ê chiều nay bồ rãnh tạt qua nhà chở tui đi luôn nghen)
Bồ đá = bị bạn gái bỏ
Bồn binh = Bùng binh, vòng xoay (nay)
Bội phần, muôn phần = gấp nhiều lần
Buồn xo = rất buồn ( làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy? )
Buột = cột
Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về/bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi?)
Cà chớn cà cháo = không ra gì
Cà chớn chống xâm lăng. Cù lần ra khói lửa.
Cà kê dê ngỗng = dài dòng.
Cà Na Xí Muội = chuyện không đâu vào đâu
Cà nhõng = rãnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhõng tối ngày), có khi gọi là nhõng nhõng
Cà giựt : lăng xăng, lộn xộn
Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang
Cà rem = kem
Cà rịt cà tang = chậm chạp.
Cà tàng = bình thường, quê mùa,….
Cà tưng cà tửng
Cái thằng trời đánh thánh đâm
Càm ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây
Cảo dược
Còn ai trồng khoai đất này = chính là tôi
Coi được hông?
Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh … (thằng này cù lần quá!)
Cua gái = tán gái
Cụng = chạm
Cuốc = chạy xe (tui mới làm một cuốc từ Hocmon dzia Saigon cũng được trăm hai bỏ túi!)
Cứng đầu cứng cổ
Chà bá , tổ chảng, chà bá lữa = to lớn, bự
Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi ( Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi! )
Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi! ” (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông?)
Chả = không ( Nói chả hiểu gì hết trơn hết trọi á ! )
Chạy u đi
Chằn ăn trăn quấn = dữ dằn
Chậm lụt = chậm chạp, khờ
Chém vè (dè)= trốn trốn cuộc hẹn trước
Chén = bát
Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên
Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không
Chì = giỏi (anh ấy học “chì” lắm đó).
Chiên = rán
Chình ình = ngay trước mặt ( Nghe tiếng gọi thằng Tư quay đầu qua thì đã thấy tui chình ình trước mặt)
Chịu = thích, ưa, đồng ý ( Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn)
Chói lọi = chói sáng
Chỏ mũi, chỏ mỏ= xía, xen vào chuyện người khác
Chỏng mông = mệt bở hơi tai (làm chỏng mông luôn đây nè)
Chổ làm, Sở làm = hãng xưỡng, cơ quan công tác
Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt
Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chổ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chổ dậy? )
Chưn = chân
Chưng hững = ngạc nhiên
Chưng ra = trưng bày
Còn khuya
Có chi hông? = có chuyện gì không?
Cô hồn, các đảng
Dạ, Ừa (ừa/ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ
Dạo này = thường/nhiều ngày trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! /thường)
Dấm da dấm dẵng
Dây, không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó
De kêu = quá , xạo de kêu
Dễ tào = dễ sợ
Dì ghẻ = mẹ kế
Dĩa = Đĩa
Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng)
Diễu dỡ =????
Dzọt lẹ
Dỏm (dởm), dỏm đời, dỏm thúi, đồ lô (sau 1975, khi hàng hóa bị làm giả nhiều, người mua hàng nhầm hàng giả thì gọi là hàng dởm, đồ “lô” từ chữ local=nội địa)
Dô diên (vô duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’ chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi)
Dô Mánh
Du ngoạn = tham quan
Dù = Ô
Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng”)
Dùng dằng = ương bướng
Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất ( giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: “Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răn đe nặng hơn )
Dzìa, dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy ngữ điệu lên xuống người nói)
Dzừa dzừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá
Đá cá lăn dưa = lưu manh
Đa đi hia = đi chổ khác.
Đã nha! = Sướng nha!
Đài phát thanh = đài tiếng nói
Đánh đàn đánh đọ = Đánh đàn (học thì lo học không “đánh đàn đánh đọ” nhe hông) một cách để chê việc đánh đàn bằng cách ghép thêm hai từ láy đánh đọ phía sau
Đàng = đường
Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?)
Đầu đường xó chợ
Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen
Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của NA9
Đi bang bang = đi nghênh ngang
Đi bụi
Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí
Đi mần = đi làm
Địa cớm
Đó = đấy , nó nói đó = nó nói đấy
Đồ bỏ đi = đồ hết xài (người gì xài hổng dô, đúng là đồ bỏ đi mà)
Đồ già dịch = chê người mất nết
Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo
Đờn = đàn
Đùm xe = Mai-ơ
Đừng có mơ,
Được hem (hôn/hơm) ? = được không ? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm
Già dịch = Già dê
Gần xịt = thiệt là gần
Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê
Ghê = rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê
Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích
Giục giặc, hục hặc = đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc! )
Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp
Hay như = hoặc là
Hầm = nóng (trời hầm quá ngồi không mà người nó đổ mồ hôi ướt nhẹp)
Hầm bà lằng (gốc tiếng Quảng Đông);
Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn
Héo queo
Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết)
Hết trơn hết trọi = chẳng, không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á! )
Hờm = chờ sẵn ( tui hờm sẵn rồi chỉ chờ thằng kia nó chạy ra là tui cho nó một đá cho nó lăn cù mèo luôn)
Hớt hơ hớt hãi = hấp tấp và sợ hãi ( nó hớt hơ hớt hãi chạy vào báo tin …. )
Hồi nảo hồi nào = xưa ơi là xưa
Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay
Hổng có chi! = không sao đâu
Hổng chịu đâu
Hổng thích à nhen!
Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài
Hợp gu = cùng sở thích
Ì xèo = tùm lum, …
năn nỉ ỉ ôi
Kẻo = coi chừng (Trời ui ui! giờ không đi sớm kẻo trời nó mưa là ướt chèm nhẹp luôn đó nhe)
Kể cho nghe nè! = nói cho nghe
Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời,….
Không thèm = không cần (làm gì dữ dạ tui đâu có thèm đâu mà bày đặt nhữ qua nhữ lại trước mặt tui? )
Khỉ đột
Khỉ khô
Khỉ gió
Lanh chanh
Lạnh xương sống
Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm
Làm (mần) dzậy coi được hông?
Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích tùy theo ngữ cảnh
Làm gì mà toành hoanh hết zậy
Làm nư = lì lợm, Làm cho lợi gan
Làm um lên = làm lớn chuyện
Láng coóng
Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu
Lặc lìa lặc lọi = ?
Lăn cù mèo = lăn long lóc, té ngữa
Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chổ nào)
Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây?)
Lấy le = khoe đồ
Lắm à nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen)
Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai ( đi lẹt đẹt! Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy)
Lao-tổn (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
Lên bờ xuống ruộng
Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha!
Liệu = tính toán
Liệu hồn = coi chừng
Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu (gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt)
Lộn = nhầm (nói lộn nói lại)
Lộn xộn = làm rối
Lục cá nguyệt: sáu tháng. Ví dụ: Nộp báo cáo sáu tháng một lần: Nộp báo cáo lục cá nguyệt.
Lụi hụi = ???? (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi nè!)
Lùm xùm = rối rắm,
Lụt đục = không hòa thuận (gia đình nó lụt đục quài)
Lừng mặt = quen quá không còn sợ nữa (Chơi với nó riết nó lừng mặt mình luôn nhen)
Má = Mẹ
Ma lanh, Ma le
Mã tà = cảnh sát
Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa
Mari sến = sến cải lương
Mát trời ông địa = thoải mái
Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ
Mắc cười = buồn cười
Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bởn cợt.
Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm
Mần ăn = làm ăn
Mần chi = làm gì
Mậy = mày ( thôi nghen mậy = đừng làm nữa)
Mè nheo = Mèo nheo
Mét = mách
Miệt = kèm theo để chỉ một vùng đất, địa danh Miệt Hóc Môn, Miệt dưới, Miệt vườn
Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…. 10.
Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên)
Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm (hài) = mò
Mồ tổ! = câu cảm thán
Mả = Mồ
Muỗng = Thìa, Môi
Mút mùa lệ thủy = mất tiêu
Nam Tàu Bắc Đẩu
Nào giờ = từ trước tới nay
Niềng xe = vành xe
Ngang Tàng = bất cần đời
Nghen, hén, hen, nhen
Nghía gái
Ngó lơ = làm lơ, nhìn chổ khác không để ý tới ai đó
Ngoại quốc = nước ngoài
Ngon bà cố = thiệt là ngon
Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén)
Ngồi chồm hỗm = ngồi co chân ….chỉ động tác co gập hai chân lại theo tư thế ngồi … Nhưng không có ghế hay vật tựa cho mông và lưng … (Chợ chồm hổm – chợ không có sạp)
Ngủ nghê
Nhá qua nhá lại
Nhan nhãn = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt
Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi
Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia
Nhiều chiện = nhiều chuyện
Nhí nhảnh
Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau
Nhóc, đầy nhóc : nhiều
Nhột = buồn
Nhữ qua nhữ lại = đưa qua đưa lại cái gì đó trước mặt ai (tương tự nhá qua nhá lại nhưng cấp độ mạnh hơn)
Nhựt = Nhật
Ngựa đực, Ngựa cái = xãnh xẹ
Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm
Nổ banh xác = nói láo
Nổ dữ dội= quăng lựu đạn (ngày xưa có chuyện hay chọi “lụ đạn” vô chợ khủng bố dân lành)
Nước lớn, nước xuống, nước rồng (thủy triều)
Ớn ăn
Ồng Cò = cảnh sát
Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói (ông ấy nói)
Ông bà bô = ba má
Ông bà ông giải
Phê = mệt
Phi cơ, máy bay = tàu bay
Quá cỡ thợ mộc…= làm quá,
Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình
Qua bên bển, vô trong trỏng, đi ra ngoải,
Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá! )
Quá xá quà xa = quá nhiều
Quắc cần câu = nhậu say hết biết đường
Quăng lựu đạn (ngày xưa hay có chuyện quăng “lựu đạn” vô chợ khủng bố dân lành)
Quần què = ????
Quấy = làm sai – dùng cho con nít thì lại khác, có ý là vừa quậy phá vừa khóc (thằng nhóc này hay khóc quấy quá!)
Quê một cục
Quê xệ
Quởn,
Rành = thành thạo, thông thạo, biết (tui hồng rành đường này nhen, tui hổng rành (biết) nhen)
Ráo = hết
Rạp = nhà hát(rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới)
Rân trời = Rần trời, um sùm
Rốp rẽng (miền Tây) = làm nhanh chóng
Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả
Ruột xe = xăm
Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai!
Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng
Sạp = quầy hàng
Sến = cải lương màu mè (mặt đồ gì sến quá trời dậy cha?) nhạc sến lại có ý nghĩa khác không phải là nhạc cải lương
Sến hồi xưa là người làm giúp việc trong nhà. Mary sến cũng có nghỉa là lèn xèn như ng chị hai đầy tớ trong nhà.
Sên xe = xích
Sếp phơ = Tài xế
Sống lây lất qua ngày
Sức mấy,
Sườn xe = khung xe
Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ
Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi
Tàng tàng = bình dân
Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… chuyện tầm xàm bá láp = vớ vẫn
Tàu hủ = đậu phụ
Tạt qua = ghé qua
Tả Pín Lù : Hầm bà lằng (gốc Quảng Đông)
Tầm xàm bá láp
Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi
Té (gốc từ miền Trung)= Ngã
Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư
Tía, Ba = Cha
Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền …!
Tò te tí te = Nói chuyện – “Coi đó! nó xẹt qua tò te tí te với tui mấy câu thì xẹt đi mất tiêu”
Tòn teng = đong đưa, đu đưa
Tổ cha, thằng chết bầm
Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản)
Tới chỉ = cuối (Hôm nay chơi tới chỉ luôn!)
Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính
Tốp nhỏ = nhóm người nhỏ tuổi ( thường chỉ có người lớn tuổi gọi như vậy “Tốp nhỏ tụi bây coi dẹp đồ chơi cho lẹ lo rữa tay rồi lên ăn cơm nhen”)
Tui ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi ( trong đó tui = tôi )
Tui, qua = tôi
Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó
Tức cành hông = tức dữ lắm
Tháng mười mưa thúi đất
Thảy hàng
Thầy chạy
Thắng = phanh
Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ
Thậm thụt
Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng tùy ngữ cảnh và âm điệu của người nói
Thấy gớm = thấy ghê, tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà gớm” âm mà bị câm)
Thấy gớm = thấy ớn
Thèo lẽo = mách lẽo ( Con nhỏ đó chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó! )
Thêm thắc
Thềm ba, hàng ba
Thí = cho không, miễn phí, bỏ ( thôi thí cho nó đi!)
Thí dụ = ví dụ
Thí cô hồn
Thiệt hôn? = thật không?
Thọc cù lét, chọc cù lét = ??? làm cho ai đó bị nhột
Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó
Thôi hén!
Thơm = dứa, khóm
Thúi = hôi thối,
Thưa rĩnh thưa rãng = lưa thưa lác đác
Trà = Chè
Trăm phần trăm = cạn chén- (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly là 100%)
Trật chìa, trật đường rầy, trật dây nịt = sai giờ giấc ( Hẹn cho đã rồi không ra làm trật chìa hết trơn hết trọi)
Trển = trên ấy (lên trên Saigon mua đi , ở trển có bán đồ nhiều lắm)
Trọ trẹ = giọng nói không rỏ ràng
Trời ui ui = trời hơi tối tối
trụi lũi = nhẵn thín ( cạo râu trụi lũi)
Trừ phi
Trực thăng = máy bay lên thẳng
Um xùm
Ướt chèm nhẹp
Ướt như chuột lội
Ứa gan = chướng mắt
Vè xe = chắn bùn xe
Vỏ xe = lốp
Xả láng sáng về sớm = Cứ thoải mái không lo gì hết
Xà lỏn, quần cụt = quần đùi
Xà quần
Xài = dùng, sử dụng
Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu
Xe cam nhông = xe tải
Xe hơi = Ô tô con
Xe nhà binh = xe quân đội
Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh)
Xe Honda = xe gắn máy ( có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?)
Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng ( Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết)
Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh)
Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh
Xí = hổng dám đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo)
Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ
Xía = chen vô (Xí! cứ xía dô chiện tui hoài nghen! )
Xĩa răng = không đủ chi phí (Làm muốn chỏng mông mà hổng đủ xĩa răng nữa)
Xĩa xói = châm chọt
Xiên lá cành xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình ???? (gốc từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải)
Xiết = nổi ( chịu hết xiết = chịu hổng nổi = không chịu được)
Xỏ lá ba que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu: “đừng có xỏ lá ba que nhe mậy”
Xỏ xiên = đâm thọt, đâm bị thóc chọc bị gạo,… (ăn nói xỏ xiên)
Xụi lơ
Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa TCS)
Có ai còn nhớ những tấm pano quảng cáo Sài Gòn xưa không nè ..
Những biển quảng cáo không thể thiếu trong đời sống người dân Sài Gòn chúng ta thời đó, từ thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa (1954 – 1975), ngành hoạt động quảng cáo nở rộ như nấm mọc sau mưa, ngoài đất dụng võ trên các trang báo hay những biển quảng cáo ngoài trời, quảng cáo còn đi vào khai thác trong các lãnh vực “tinh vi” như phát thanh, truyền hình, phim ảnh.
Bên cạnh đó còn có cách quảng cáo “thô sơ” theo kiểu “sơn đông mãi võ” thường được áp dụng tại các vùng xa xôi, những nơi chưa được tiếp xúc với các tiện nghi văn minh, cũng là một hình thức quảng cáo mà sau này người ta thường thấy trong thể thao, Sài Gòn xưa có đội xe đạp Euquinol của dược sĩ Nguyễn Chí Nhiều tham gia cuộc đua đường trường mang tên Vòng Cộng Hòa từ năm 1956 trở đi. Các cua-rơ mang áo Euquinol để quảng cáo thuốc ban nóng dạng bột dành cho trẻ em mang tên Euquinol, sự kết hợp giữ thể thao và kinh doanh mang lại một hiệu quả tốt đẹp: các cua-rơ Euquinol rong ruổi trên khắp miền Nam đã tạo một ấn tượng tốt đối với những người xem đứng hai bên đường. Cũng từ đó, thuốc Euquinol có mặt trong hầu hết các gia đình có trẻ nhỏ, hình thức quảng cáo này, ngày nay đã trở thành phổ biến trong thể thao, người ta sẵn sàng bỏ ra khoản tiền lớn để có một hợp đồng với các đội bóng mặc áo mang tên doanh nghiệp hoặc tài trợ cho các giải thi đấu….
Vài Biển quảng cáo quen thuộc trên đường phố Sài Gòn Người Sài Gòn không thể nào quên cái tên BGI trong ngành rượu bia đã một thời làm bá chủ lãnh vực nước giải khát. Tiền thân của BGI là cái tên Brassèries et Glacières de L’Indochine (Nhà máy làm nước đá ở Đông Dương) của ông chủ Victor Larue, người Pháp, nổi tiếng từ năm 1909. Cũng vì thế trên nhãn của BGI còn ghi hàng chữ Pháp: Bière Larue.
Xà bông là mặt hàng được sản xuất tại Việt Nam rất sớm do ông Trương Văn Bền (1883 – 1956) một kỹ nghệ gia đồng thời là một chính trị gia gầy dựng qua nhãn hiệu Xà bông Việt Nam hay còn gọi là Xà bông Cô Ba. “Cô Ba” là một bức ảnh bán thân của người phụ nữ búi tóc theo kiểu miền Nam, in nổi trên mỗi cục xà bông, trụ sở và xưởng sản xuất xà bông nổi tiếng của ông Trương Văn Bền trong những thập niên giữa thế kỷ 20 nằm ngay trên đường Kim Biên (rue de Cambodge) nơi có chợ Kim Biên trong Chợ Lớn ngày nay Lối quảng cáo của Savon Vietnam rất bình dị qua cách hành văn xưa: “Trên 20 năm danh tiếng – Ai cũng công nhận TỐT HƠN HẾT”. Hai bên bức hình một cục xà bong có dòng chữ “Bọt nhiều” và “Ít hao”, phía dưới cùng là câu “CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CHẾ TẠO”, từ quảng cáo các mặt hàng tiêu dùng như sữa, rượu bia, thuốc lá, thuốc tây, thuốc cao đơn hoàn tán, xà bong… ngành quảng cáo còn mạnh dạn tung ra một mặt hàng mà ít người dám nói đến chứ chưa nói gì đến việc quảng cáo rùm beng. Đó là việc mua hòm cho thân nhân khi mãn phần của Nhà hòm Tobia.Quảng cáo Hòm Tobia trên báo Không những quảng cáo trên báo, hòm Tobia còn xuất hiện trên xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn. Giữa các sản phẩm như Thuốc xổ Nhành Mai, Thuốc lá Jean Bastos người ta còn thấy dòng chữ “Hòm Tobia danh tiếng nhất” ngay trên đầu xe (*). Quả là một bước ngoặt ngoạn mục trong ngành quảng cáo của Sài Gòn xưa. Quảng cáo hòm Tobia trên đầu xe điện Nổi bật nhất trên thị trường quảng cáo trên báo chí lẫn quảng cáo ngoài trời phải nói đến các loại kem đánh răng, trong đó có Hynos, Perlon và Leyna… Kem đánh răng Hynos với hình ảnh anh Bảy Chà da đen, miệng cười hết cỡ khoe hàm răng trắng tinh xuất hiện khắp nơi.Quảng cáo Hynos ngoài trời. Ngoài các hình thức quảng cáo trên báo chí, quảng cáo ngoài trời, dùng loa phóng thanh hoặc dùng phim ảnh, Sài Gòn xưa còn có lối quảng cáo mà người ta gọi là “sơn đông mãi võ”. Họ là những nhóm người đi về những miền xa xôi để bán các loại “cao đơn, hoàn tán”… những lời quảng cáo thuốc được phụ họa bằng từng hồi trống và phèng la, để thu hút đám đông, họ luôn luôn có những màn trình diễn võ thuật, biểu diễn nội công xen kẽ giữa những màn quảng cáo bán thuốc. Con nít xem trầm trồ thán phục và người lớn bỏ tiền ra mua thuốc để phòng khi trái nắng trở trời. Đám “sơn đông mãi võ” di chuyển nhiều nơi và cuộc đời của họ phiêu linh khắp chốn cũng vì miếng cơm manh áo. Họ chính là những “quảng cáo viên” đích thực!
Quảng cáo của Hynos trên báo Cái khéo của Hynos là thực hiện thêm nhiều biển quảng cáo ngoài trời tại những nơi có đông người qua lại nên đạt hiệu quả rất cao. Vào dịp Tết Nguyên Đán, tại chợ Bến Thành, lúc nào gian hàng Hynos cũng vang lên điệp khúc “Hynos cha cha cha, cha cha cha Hynos…” át hẳn gian hàng của khô nai Ban Mê Thuột, khô cá thiều Phú Quốc với lời phóng đại “nướng bên này đường, bên kia đường uống rượu cũng thấy ngon”!, hơn thế nữa, ông Nghĩa còn đi đầu trong việc làm phim quảng cáo kem đánh răng Hynos. Ông bỏ tiền làm một đoạn phim ngắn tại Hồng Kông, ký hợp đồng với tài tử ăn khách nhất Hồng Kông thời bấy giờ là Vương Vũ. Phim chỉ vài phút diễn cảnh các nhân vật đi “bảo tiêu” một thùng hàng, khi mở ra trong thùng chỉ chứa… toàn kem đánh răng Hynos với hình anh Bảy Chà cười toe toét! Phim được chiếu tại các rạp ciné trước khi vào xuất chính và khán giả thích thú dù biết đó là phim quảng cáo.A.Bia Larue Khởi đầu, BGI thâm nhập miền Nam vào cuối thập niên 1900 chỉ với mục đích sản xuất nước đá để tiêu thụ tại một xứ nhiệt đới. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, BGI bắt đầu chuyển sản xuất bia và nước giải khát. Nhà máy BGI nổi tiếng nhất và lâu đời nhất là Nhà máy bia Chợ Lớn và Usine Belgique được xây dựng từ năm 1952.B.Quảng cáo Bia 33 của hãng BGI Sở dĩ có cái tên “Bia 33” vì dung tích chai đựng bia là 33 centilitres, một cách đặt tên khá thú vị và thiết thực của BGI. Sau khi Sài Gòn đổi tên, chính quyền tịch thu tài sản của chủ Pháp và Nhà máy bia Chợ Lớn trở thành Bia Sài Gòn và Usine Belgique cũng đổi thành Chương Dương, nhưng vẫn là các nhà máy sản xuất nuớc giải khát.F.Thuốc Cotab Nếu Mélia được coi là “sang trọng” thì Cotab được quảng cáo là “thuốc của giới ưu tú” (La cigarette de l’élite) còn Bastos “xanh” và Mic được coi là loại thuốc “đen”, nặng của giới lao động, thợ thuyền.E.Thuốc Batos “xanh” Thuốc lá ngày xưa chưa được phát hiện có hại cho sức khỏe nên được quảng cáo rầm rộ, trong khi quảng cáo các loại sữa cũng xuất hiện với mức độ ít hơn. Sài Gòn xưa có các loại sữa bột như Guigoz, SMA và sữa đặc có đường như Con Chim (Nestlé), Ông Thọ (Longevity), Bông Trắng (Cal-Best)… Cái tên Cal-Best là chữ tắt của California’s Best xuất hiện trễ nhất, được quảng cáo là “Giúp cho trẻ em mạnh khỏe và chóng lớn”.Mẫu quảng cáo của BGI. BGI có lịch sử từ năm 1927, ngoài Bia 33, BGI còn sản xuất các loại bia mang nhãn hiệu Bière Royale, Bière Hommel (bia nhẹ) và Tiger Beer (người ta thường gọi là “bia con cọp” vì có nhãn hiệu hình con cọp) …BGI đã tự hào là “Một loại bia 5 châu lục” thông qua việc xuất cảng Bia 33 ra khắp thế giới. Trong mẫu quảng cáo dưới đây ta thấy chữ “Bia” được hiển thị qua nhiều ngôn ngữ: Bière (tiếng Pháp), Beer (tiếng Anh), Bier (tiếng Đức), Bir (tiếng Indonesia), Birra (tiếng Ý)… .Bia 33 và 5 châu lục. Nếu bia là độc quyền của BGI tại miền Nam, thuốc lá lại là mặt hàng có nhiều nhà sản xuất và được quảng cáo rất mạnh vì luôn ở tư thế cạnh tranh giành thị phần. Ngoài các loại thuốc lá ngoại nhập như Pall Mall, Salem, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston, Marlboro… có rất nhiều nhãn hiệu thuốc được sản xuất tại Sài Gòn.Mélia “vàng” Mélia “vàng”, còn gọi là “Mélia Jaune”, là một trong những nhãn hiệu thuốc lâu đời nhất. Vào lúc mới tung ra sản phẩm, mỗi gói thuốc Mélia đều có một tấm hình chụp một cặp Tây Ðầm hôn nhau rất tình tứ, đó cũng là một cách tiếp thị! Chỉ có các ông Giáo sư và các thầy Thông, thầy Phán có tiền rủng rỉnh mới hút thứ thuốc “sang trọng” đó.Một số quảng cáo “HÒM TOBIA” chắc quý vị còn nhớ. Ông chủ trại hòm Tobia cũng khéo đặt tên cho dịch vụ chăm sóc người chết vì Tobia vốn là tên một nhân vật giàu lòng nhân ái trong Kinh Thánh Cựu Ước, chuyên lo việc hậu sự. Trại hòm của ông nằm tại số 114 đường Hai Bà Trưng, phía bên kia nhà thờ Tân Định, những người yếu bóng vía thường có cảm giác sờ sợ mỗi khi đi ngang qua đây. Đó cũng là lẽ thường tình, ai mà chẳng sợ chết! Trại hòm Tobia nhấn mạnh trong mục quảng cáo: “Lòng hiếu thảo của dân Việt: SỐNG MỘT CÁI NHÀ, THÁC MỘT CÁI HÒM”. Có điều chưa thấy xuất hiện quảng cáo… “mua một tặng một”!
“Các bạn có thấy sợi dây đen sau lưng bà không? Cụ đang để đại tang đấy, ba năm mới bỏ ,áo xống không được màu mè, lệ của người miền Bắc xưa đấy. (Mẹ tôi đã từng để tang ông Nội tôi như thế) ” Theo FB/Nguyễn Ngọc Điệp : https://www.facebook.com/profile.php?id=100009056557619
Saigon 1965. Xe nước giải khát góc Gia Long – Đồn Đất, phía trước nhà thương Grall (BV Đồn Đất). Robert Gauthier’s Gallery. Phía bên trái của hình Thư viện Trung tâm Văn Hóa Pháp, đường Gia Long.
Đậu đỏ bánh lọt, sương sa, sương sáo, nước ngọt con Cọp, …
Còn nhớ câu :
” Nước ngọt con Cọp ở đâu ”
” Đây nguồn khỏe mạnh ”
” Sống lâu, yêu đời ”
Một tấm hình thiệt đẹp. Xe chè sạch sẽ, trang trí tranh kiếng điển tích truyện Tàu (thường là Tam Quốc), dòm là muốn ăn. Người phụ nữ Bắc bên mặt tính ra tới thời điểm này là 11 năm kể từ năm di cư mà vẫn chưa quên gốc gác qua cánh áo the, đầu vấn khăn, tay cái bóp đầm… giản dị mà lịch sự. Và cô bán chè cũng thiệt là đẹp !
Mưa Sài Gòn trước năm 75 ,xem lại vài hình coi có khác với thời nay hay không…
Sài Gòn cái gì cũng nhanh, ngay cả những cơn mưa cũng vậy, nhanh đến mà cũng nhanh đi. Tưới mát cho Sài Gòn độ khoảng nửa giờ hoặc có thể ngắn hơn, mưa tạnh, trời lại trở về với cái nắng thường thấy ở Sài Gòn. Đường lại ráo như mưa chưa từng đến.
Ngập lụt trước Bưu điện Q.1, góc Lê Lợi-Pasteur.
Một tuyến đương bị ngập sau mưa vào năm 1967. Ảnh của Donald Jellema.
Tổng hợp từ Nam Ròm, Google,…
Mời bạn đóng góp để làm phong phú thêm nguồn tài liệu ảnh mưa Sài Gòn xưa! email của nhóm admin: Hinhanhvietnam84@gmail.com !