Category: Kể chuyện lịch sử

  • Số phận của những vị “VUA TRẺ” trong sử Việt

    Số phận của những vị “VUA TRẺ” trong sử Việt

    “Vua trẻ con” dùng để chỉ những vị vua lên ngôi khi chưa 15 tuổi. Trong đó, có vua sau khi trưởng thành ghi dấu ấn trong lịch sử, nhưng cũng có vua mệnh mỏng, chết đi trước khi đủ lớn để tự khẳng định mình, và họ vĩnh viễn rời khỏi vũ đài chính trị với tư cách là những vị “vua trẻ con” mà thôi.

    Số phận của những vị "VUA TRẺ" trong sử Việt
    Số phận của những vị “VUA TRẺ” trong sử Việt

    .
    1. Đinh Phế Đế Đinh Toàn (974 – 1001): Vua trẻ con đầu tiên trong lịch sử phong kiến nước ta, lên ngôi khi 6 tuổi, làm vua chưa đầy 1 năm. Sau khi Lê Hoàn lên ngôi, Đinh Toàn được phong làm Vệ Vương. Năm 1001, trong dịp cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn, Đinh Toàn bị trúng tên, mất năm 27 tuổi.
    .
    2. Lý Nhân Tông Lý Càn Đức (1066 – 1127), là vị vua thứ 4 của triều Lý, lên ngôi khi 6 tuổi, trị vì tổng cộng 55 năm. Dưới thời trị vì của Nhân Tông “nước Việt phồn vinh, dân được giàu đông”.
    .
    3. Lý Thần Tông Lý Dương Hoán (1116 – 1138), là vị vua thứ 5 của nhà Lý, lên ngôi năm 11 tuổi. Thời Thần Tông nhân dân no đủ, nhưng ông cũng chỉ trị vì được 10 năm rồi mất khi còn rất trẻ.
    .
    4. Lý Anh Tông Lý Thiên Tộ (1138-1175), là vị vua thứ 6 của nhà Lý, lên ngôi khi mới 3 tuổi. Vua còn nhỏ, Lê Thái hậu nắm quyền nhiếp chính tư thông với Đỗ Anh Vũ làm triều chính đảo điên. Nhờ có các trọng thần như Tô Hiến Thành gánh vác, nếu không triều đình đã nát cmnr. Anh Tông làm vua được 37 năm, mất năm 40 tuổi.
    .
    5. Lý Cao Tông Lý Long Trát (1173 – 1210), là vị vua thứ 7 của nhà Lý, lên ngôi năm 3 tuổi. Khi còn nhỏ, Cao Tông tỏ ra ngoan hiền, chăm học hỏi, nhưng khi lớn lên ông càng ngày càng trở nên “bung lụa”, tin cậy hoạn quan, nhân dân đói khổ, nổi dậy khắp nơi, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy.
    .
    6. Lý Chiêu Hoàng Lý Phật Kim (1218-1278), là vị vua thứ 9 và cuối cùng của triều đại nhà Lý, lên ngôi khi 7 tuổi, tới 8 tuổi thì nhường ngôi cho Trần Cảnh.
    –> Triều Lý có 9 đời vua thì đã có tới 5 vị lên ngôi ngay từ khi còn ở tuổi thiếu niên, nhi đồng. Âu cũng là cái dở của nhà Lý.
    .
    7. Trần Thái Tông Trần Cảnh (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần, lên 7 tuổi được đưa vào cung làm hầu cận cho Lý Chiêu Hoàng, lên 8 tuổi được lấy nữ hoàng làm vợ và được nhường ngôi báu.
    .
    8. Trần Minh Tông Trần Mạnh (1300 – 1357), là vị vua thứ 5 của nhà Trần, lên ngôi lúc 14 tuổi. Trần Minh Tông tính tình nhân hậu, biết trọng người tài. Minh Tông được sử cũ khen ngợi là một ông vua sáng suốt, dù không phải là không có tỳ vết.
    .
    9. Trần Hiến Tông Trần Vượng (1319 – 1341), là vị vua thứ 6 của nhà Trần, lên ngôi khi 10 tuổi. Hiến Tông tuy cai trị trên danh nghĩa, nhưng việc điều khiển triều chính đều do cha là Thái thượng hoàng Trần Minh Tông xử lý. Hiến Tông mất sớm, khi mới 23 tuổi. Theo sử sách đánh giá, vua là một người “tư trời tinh anh và sáng suốt”.
    .
    10. Trần Dụ Tông Trần Hạo (1336 – 1369), là vị vua thứ 7 của nhà Trần, lên ngôi khi 5 tuổi. Dụ Tông thông minh, có học vấn, buổi đầu lại được những trung thần có tài giúp sức, nên chính sự tốt đẹp. Nhưng quãng đời về sau lại càng nát, bị bọn gian thần lũng đoạn.
    .
    11. Trần Thuận Tông Trần Ngung (1378 – 1398), là vua thứ 11 triều Trần, lên ngôi khi 11 tuổi. Vua chỉ làm bù nhìn vì mọi quyền lực đều nằm trong tay Hồ Quý Ly. Làm vua được 10 năm, 1 năm đi tu và bị Hồ Quý Ly giết năm 22 tuổi. Poor vua!
    .
    12. Trần Thiếu Đế Trần Án (1396 – ?), là vị vua thứ 12 và là vị vua cuối cùng của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, lên ngôi khi 3 tuổi ba năm sau thì bị Hồ Quý Ly bức phải nhường ngôi. Nhà Trần mất về tay nhà Hồ.
    .
    –> Vì triều Trần có lệ vua cha khi còn sống đã truyền ngôi cho con và mình lên làm thượng hoàng, vì vậy các vua Trần đều lên ngôi khi tuổi còn rất trẻ, hầu hết được đặt lên ngai vàng trong tình thế bất thường.
    .
    13. Lê Thái Tông Lê Nguyên Long (1423 – 1442), là vị vua thứ 2 của nhà Lê sơ, lên ngôi năm 11 tuổi, tự điều hành mọi công việc, được sử gia khen là “vua thiên tư sáng suốt, nối vận thái bình”. Ông làm vua đươc 9 năm rồi chết đột ngột khi mới 20 tuổi trong vụ án Lệ Chi Viên chấn động.
    .
    14. Lê Nhân Tông Lê Bang Cơ (1441 – 1459), là vị vua thứ 3 của nhà Lê sơ, lên ngôi khi mới 2 tuổi, 12 tuổi thì tự điều hành triều chính. Ông trị vì trong 17 năm rồi bị người anh cùng cha khác mẹ là Nghi Dân ám sát năm 19 tuổi.
    .
    15. Lê Chiêu Tông Lê Ý (1506 – 1526), là vị vua thứ 10 của nhà Lê Sơ, lên ngôi khi 11 tuổi trong bối cảnh đất nước loạn lạc. Triều chính nằm trong tay Mạc Đăng Dung. Lớn lên, Lê Chiêu Tông ngầm mưu triệt hạ phe cánh họ Mạc, việc bị lộ, vua bị giết khi mới 21 tuổi.
    .
    16. Lê Cung Hoàng Lê Xuân (1507 – 1527), là vị vua thứ 11 của nhà Lê sơ, lên ngôi khi 15 tuổi. Cung Hoàng lên ngôi bù nhìn, bị quyền thần Mạc Đăng Dung không chế, thực tế không hề có quyền hạn. Vận nước đã hết, tài năng Cung Hoàng lại không có, làm vua được 5 năm thì bị Mạc Đăng Dung giết chết năm 20 tuổi.
    –> Triều Lê sơ kéo dài 99 năm, trải qua 10 đời vua, có 4 vị lên ngôi khi còn độ tuổi thiếu nhi.
    .
    17. Mạc Anh Tổ Mạc Mậu Hợp (1560 – 1592) là vị vua thứ 5 của nhà Mạc, lên ngôi lúc mới 2 tuổi. Khi quân Nam triều dưới sự chỉ huy của Trịnh Tùng bắc tiến, Mạc Mậu Hợp thua chạy, đánh mất thành Đông Kinh. Sau đó, ông bị quân Nam triều bắt khi đang giả làm sư và bị Trịnh Tùng xử tử. Hưởng dương 32 tuổi.
    .
    18. Vũ An vương Mạc Toàn (? – 1593) là vua thứ 6 và là vua cuối cùng nhà Mạc. Mạc Toàn lên ngôi khi lực lượng nhỏ yếu, không được nhân tâm ủng hộ. Ông bị quân Trịnh bắt được và đem chém đầu cùng nhiều tông thất nhà Mạc. Mạc Toàn chỉ xưng hiệu được vài tháng, không rõ sống được bao nhiêu tuổi. Nhưng dựa vào chi tiết vua cha Mậu Hợp mất lúc mới 30 tuổi, nên có lẽ Mạc Toàn cũng lên ngôi khi còn trẻ con.
    .
    19. Lê Trung Tông Lê Duy Huyên (1535 – 1556), là vị vua thứ hai của nhà Lê trung hưng, lên ngôi khi 13 tuổi, và mọi việc do Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm đứng ra giúp đỡ. Dưới thời Trung Tông hoàng đế, vùng kiểm soát của nhà Lê tiếp tục được mở rộng, tiếng vang lan ra, hào kiệt, danh sĩ tứ phương tìm về theo nhà Lê ngày càng đông.
    .
    20. Lê Thế Tông Lê Duy Đàm (1567 – 1599), là vị vua thứ 4 của nhà Lê trung hưng, lên ngôi năm 7 tuổi. Nhà Mạc bị đánh bại, chạy lên Cao Bằng. Lê Thế Tông được đón về Thăng Long, nhưng quyền lực vua Lê bị thu hẹp bên cạnh sự bành trướng của phủ chúa Trịnh. Lê Thế Tông mất năm 33 tuổi.
    .
    21. Lê Kính Tông Lê Duy Tân (1588 – 1619), là vị vua thứ 5 của nhà Lê trung hưng, làm vua năm 11 tuổi. Khi trưởng thành, thấy thế lực chúa Trịnh lấn át quá đáng, Lê Kính Tông mưu giết Trịnh Tùng. Việc không thành, vua bị chúa Trịnh bức thắt cổ chết.
    .
    21. Lê Thần Tông Lê Duy Kỳ, lên ngôi năm 12 tuổi. Năm 36 tuổi ông nhường ngôi cho con, lên làm Thái thượng hoàng. Ai ngờ con chết sớm, Thần Tông được chúa Trịnh mời lên làm vua một lần nữa. Ông cũng là vị Vua Việt Nam duy nhất hai lần lên ngôi.
    .
    22. Lê Chân Tông Lê Duy Hựu (1630 – 1649), là vị vua thứ 7 của nhà Lê trung hưng, con trưởng của Thần Tông, lên ngôi năm 13 tuổi. Ngồi ngai vàng được 6 năm thì bị bệnh mất.
    .
    23. Lê Huyền Tông Lê Duy Vũ (1654 – 1671), là vị vua thứ 8 của nhà Lê trung hưng, con thứ hai của Lê Thần Tông, sau khi cha chết, lên nối ngôi khi mới 9 tuổi, mất sớm vào tuổi 18.
    .
    24. Lê Gia Tông Lê Duy Cối (1661 – 1675), là vị vua thứ 9 của nhà Lê trung hưng trong lịch sử, cũng là con thứ của Thần Tông, làm vua khi 12 tuổi, ở ngôi 3 năm rồi mất.
    –> Thời Lê trung hưng có 16 đời vua, có tới 7 đời vua trẻ con, trong đó một số chết yểu.
    .
    25. Cảnh Thịnh đế Nguyễn Quang Toản (1783 – 1802), là vị vua cuối cùng của nhà Tây Sơn, lên ngôi khi 9 tuổi. Cảnh Thịnh sau khi lên ngôi thì bị họ ngoại chuyên quyền, trong đó có Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Vua nhỏ tuổi, không có kinh nghiệm nên không giữ được việc triều chính, làm cho các đại thần giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục, triều chính sụp đổ. Cảnh Thịnh cùng hoàng thất Tây Sơn đều bị vua Gia Long dùng cực hình 5 voi xé xác. Khi bị hành hình, Cảnh Thịnh đế 19 tuổi.
    .
    26. Kiến Phúc đế Nguyễn Phúc Ưng Đăng (1869 – 1884), là vị vua thứ 7 của nhà Nguyễn, lên ngôi năm 14 tuổi, làm vua được 8 tháng thì bị đầu độc chết.
    .
    27. Hàm Nghi đế Nguyễn Phúc Ưng Lịch (1872 – 1943), là vị vua thứ 8 của nhà Nguyễn, lên ngôi năm 13 tuổi. Vua bị Pháp bắt khi 17 tuổi và bị đày sang Angiêri và qua đời tại đây năm 1943 vì bệnh ung thư dạ dày.
    .
    28. Thành Thái đế Nguyễn Phúc Bửu Lân (1879 – 1954), là vị vua thứ 10 của triều đại nhà Nguyễn, lên làm vua năm 10 tuổi. Đây là ông vua yêu nước, thương dân, có ý chí chống Pháp. Chính vì vậy, ông bị chính quyền Pháp ép phải thoái vị năm 28 tuổi và bị đi đày ở đảo Reunion.
    .
    29. Duy Tân đế Nguyễn Phúc Vĩnh San (1900 – 1945), là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn, lên ngai vàng khi 8 tuổi. Tuy nhiên, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với Pháp. Ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội dự định khởi nghĩa nhưng thất bại và Duy Tân bị bắt đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Trong cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, ông gia nhập quân Đồng Minh chống phát xít Đức rồi mất vì tai nạn máy bay ở Trung Phi, hưởng dương 45 tuổi.
    .
    30. Bảo Đại đế Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (1913 – 1997), là vị vua thứ 13 và là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn nói riêng và của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam nói chung, lên ngôi khi 13 tuổi.

    Những bức ảnh cực hiếm về cuộc đời Vua Bảo Đại

     

    Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm, truyền được 13 đời vua. Các vị “vua trẻ con” đều rơi vào thời kỳ Pháp đô hộ.

    FB/DAINAMBALL

  • 13 lần đại bại của giặc Trung Quốc trên đất Việt

    13 lần đại bại của giặc Trung Quốc trên đất Việt

    Lịch sử nước Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của giặc Tàu đã là những trang sử vàng kết tinh thành truyền thống yêu nước chống ngoại xâm ngàn đời của dân tộc. Giặc phương Bắc  đã nhiều lần xâm lược phương Nam, trong đó có 13 lần xua đại quân hùng hổ đánh phương Nam, hòng nuốt chửng nước ta, nhưng trong tất cả 13 lần đó,quân bành trướng Trung Quốc đều đại bại !

     Lần thứ 1 : Thời vua Hùng vương thứ 6 : Phù Đổng Thiên Vương thắng giặc Ân.

    Lần thứ 2 : Đại thắng giặc Trung Hoa Tần- An Dương Vương. 

    Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên của Trung Hoa, sai tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa. Nhưng mấy năm sau, Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, quân giặc chết quá nửa, Đồ Thư bị giết.

    Nỏ thần trong truyền thuyết

    Lần thứ 3 : Năm 181 TCN, đại thắng giặc Trung Hoa Tây Hán.
    Năm 181 TCN, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang xâm phạm Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. Theo sách vở Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam, nhiều người phải bịnh tật, bởi vậy phải thua chạy về bắc. Sau đó, triều Hán xét việc Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa.

    Lần thứ 4 : Năm 40 DL –  Đại thắng giặc Trung Hoa Đông Hán và tái chiếm toàn thể đất Việt Lạc – Trưng Nữ Vương.

    (DL: dương lịch)

    Năm 30 DL, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên vùng đất Việt Lạc. Do đó, toàn dân Việt vùng lên kháng chiến, và bầu Đức Trưng Trắc là Thủ Lãnh. Sau 10 năm, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.

    Thời gian qua, sách sử Trung Hoa đã giảm thiểu vùng đất và sức mạnh của dân Việt thời đó. Ngày nay, đã có đủ chứng cứ xác định vị trí, tình hình và vùng đất bao la của việc quân dân Việt đánh chiếm lại 65 thành, và đánh bại đại quân hùng hậu của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán.

    Thời đó, vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến của Trung Hoa, xuống tới Hải Vân… Và Hán Quang Vũ đã phải vận dụng toàn thể binh lực của ‘thiên triều’.

    Đức Trưng Nữ Vương đáng được tôn hiệu ĐAI ĐẾ ĐỒNG ĐÌNH LĨNH NAM

    Lần thứ  5 : Năm 541 , đại thắng Trung Hoa- nhà Lương, vua Lý Nam đế.
    Cuối năm 540, quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán đảo Hợp Phố đón đánh khiến quân xâm lược thảm bại, 10 phần chết đến 6-7 phần. Sau chiến thắng này, Lý Bí kiểm soát thêm quận Hợp Phố (thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay)

    Năm 541 Lý Nam Đế đánh đuổi nhà Lương, giành độc lập. Xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập ra nhà Tiền Lý. Đây là lần đầu tiên sách sử Trung Hoa ghi lại quốc hiệu và niên hiệu của dân ta. Nhà Tiền Lý kéo dài 61 năm, từ 541 tới 602 dl.

    Lần thứ 6 : Năm 938, đại thắng giặc Trung Hoa Nam Hán – Ngô Quyền.

    Từ năm 906 , Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người Trung Hoa. Truyền được 3 đời.  Năm 938, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử là Hoằng Thao kéo quân xâm lấn. Với trận cọc gỗ lim bọc sắt trên sông Bạch Đằng, đức Ngô Quyền đã đại thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Thao.

    Lần thứ 7: Năm 981, đại thắng giặc Tống, vua  Lê Đại Hành.

    Năm 981, vua Tống sai tướng Hầu nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo hai đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi, tức là Đức Lê Đại Hành. Với một trận Chi Lăng, quân ta phá tan đoàn quân Tàu, giết Hầu nhân Bảo. Đoàn quân giặc theo đường biển vội vàng rút lui.

    Lần thứ  8 : Năm 1076, đại thắng giặc Tống lần 2, vua Lý Nhân Tông – Danh tướng Lý Thường Kiệt.

    Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân sang xâm lấn nước ta.

    Lý Thường Kiêt đánh Tống bên kia biên giới. Tranh minh họa
    Lý Thường Kiêt đánh Tống bên kia biên giới. Tranh minh họa

     

    Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Quân Tống kéo tới hơn 30 vạn, chỉ còn gần 3 vạn trở về !

    LẦN THỨ 9 : Năm 1258, đại thắng giặc Nguyên – Mông lần thứ nhất, vua Trần Thái Tông

    Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai  đem 3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long, đốt phá và giết dân trong thành.

    Vua Trần thái Tông lo sợ, hỏi ý kiến thái sư Trần Thủ Độ. Trần thủ Độ khẳng khái : “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo !”.

    LẦN THỨ 10 : Năm 1284, đại thắng giặc Nguyên – Mông lần thứ 2, vua Trần Nhân Tông – Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

    Tranh truyền thân Hưng Đạo Vương
    Tranh truyền thân Hưng Đạo Vương

    Lần thứ 11: Năm 1287, đại thắng giặc Nguyên – Mông lần thứ 3: vua Trần Nhân Tông – Danh tướng Hưng Đạo Đại Vương.  

    Năm 1284, Hốt Tất Liệt sai con trai là thái tử Thoát Hoan cùng với các danh tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt. Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó, toàn thể quân Đại Việt chỉ có 20 vạn.
    – Hịch tướng sĩ do Trần Hưng Đạo viết cuối TK XIII, tố cáo tội ác của quân thù và khích lệ lòng căm thù giặc sâu sắc…
    – Binh sĩ lấy mực xăm vào tay hai chữ : “Sát Thát” (nghĩa giết quân Nguiyên- Mông ), và hết lòng chiến đấu chống giặc.
    – Vua Trần Nhân Tông triệu tập các bô lão trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn thể đồng thanh xin đánh!
    – Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn với câu nói nổi tiếng : Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã !”
    – Trần Bình Trọng: “Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc !”
    Tháng 5 năm 1285, tướng Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô ở cửa Hàm Tử.
    Tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra đánh, chiếm lại Thăng Long.
    Hưng Đạo Vương đem quân đánh ở Tây Kết, giết Toa Đô, bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.
    Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chặn mọi đường quân Nguyên
    Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chặn đánh tan tành.
     Lần thứ 12 :

    • Năm 1428, đại thắng giặc Trung Hoa Minh, vua Lê Thái Tổ( Lê Lợi).
    • Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua.
    • Năm 1418,  Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, gửi hịch kể tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân giặc cướp nước.
    • Năm 1426, sau 8 năm gian khổ, với nhiều lần nguy cấp, Bình Định Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan, Thăng Long.
    • Cuối năm 1427, cuộc kháng chiến thắng lợi, chấm dứt thời kỳ đô hộ của giặc Minh.

    Lần thứ 13:  Đại thắng giặc Trung Hoa Mãn Thanh, vua Quang Trung. 

    Năm 1789 (Kỷ Dậu) :Vua Quang Trung đại phá 29 vạn quân Thanh và nổi tiếng với câu nói hào sảng muôn đời bất hủ :

    “Đánh cho để dài tóc
     Đánh cho để đen răng.

     Đánh cho nó chích luân bất phản
     Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn   

     Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.

    Nghĩa là:
    “Đánh cho nó một cái bánh xe cũng không còn để quay về.
    Đánh cho nó một manh giáp cũng không còn lành lặn.
    Đánh để cho chúng biết nước Nam anh hùng là có chủ”.
    Trong mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc chúng ta đã 13 lần chiến thắng quân xâm lược phương Bắc. Cha ông chúng ta thắng giặc không phải vì quân nhiều, vũ khí tốt, đồng minh đông hay mạnh mà nhờ ở tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng, quyết giữ vững giang sơn, thà chết chứ không hàng giặc. Tình thần quyết chiến và quyết thắng ấy chính là chiếc Nỏ Thần đánh tan quân xâm lược, dù nước chúng to mạnh hơn, quân chúng đông hơn, tàn bạo hơn. Dân tộc ta chiến thắng vì có những lãnh đạo biết lắng nghe ý dân (thời xa xưa ấy, vua nước Việt đã biết hỏi ý dân: Nên hòa hay nên chiến). Dân tộc ta chiến thắng vì có những đại tướng như Hưng Đạo Vương hết lòng vì nước, quyết tâm bảo vệ non sông qua câu nói ghi vào sử sách “Bệ hạ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã”. Dân tộc chúng ta chiến thắng vì có những con dân sẳn sàng hy sinh tất cả để “Quyết Chiến”.

    Hình Ảnh Việt Nam.com Sưu tầm và chỉnh sửa từ nhiều nguồn

  • Lịch sử Ấu Dâm Việt Nam

    Lịch sử Ấu Dâm Việt Nam

     

    TỪ KHI NÀO ẤU DÂM TRỞ THÀNH TỘI ÁC?

    “Ấu dâm” (quan hệ tình dục với trẻ em) ĐÃ TỪNG LÀ một phần của “văn hóa truyền thống” Việt Nam kéo dài hàng ngàn năm cho mãi đến gần đây.

    Luận điểm gây shock này thực sự không có gì đáng ngạc nhiên khi xem xét lại lịch sử hôn nhân và gia đình người Việt, thậm chí, chỉ 40 năm trở về trước.

    Ở đây chúng tôi muốn đề cập đến một kiến thức nhân học cơ bản: tình dục cùng cấm kị tình dục ở những nền văn hóa khác nhau, là khác nhau. Nhiều hành vi tình dục ở một nền văn hóa được coi là bình thường, thì ở một nền văn hóa khác, lại bị coi là tội ác.

    Ngay cả trong nội bộ một nền văn hóa, ở những thời điểm khác nhau, tình dục và cấm kị tình dục cũng hoàn toàn khác biệt. Vào đời Lý và Trần, “loạn luân” là hành vi phổ biến và chấp nhận được. Song dưới thời Lê – Nguyễn, “loạn luân” là tội chết. “Ấu dâm” vẫn là chuyện HOÀN TOÀN BÌNH THƯỜNG và chấp nhận được về mặt văn hóa – đạo đức.

    Đại Việt sử ký toàn thư thậm chí còn ghi chép chuyện Lý Chiêu Hoàng lên ngôi khi 6 tuổi, thấy Trần Cảnh khi ấy mới lên 8 tuổi thì ưa. Hai người lấy nhau và thành vợ chồng. Một năm sau nhường ngôi cho chồng, được chồng yêu thương hết mực. Theo sử gia, Lý Chiêu Hoàng “hiếm muộn”, nên mãi ở tuổi 15 mới bắt đầu có con.

    Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép lại, thời nhà Trần, Trần Dụ Tông lấy vợ từ khi 13 tuổi, 15 tuổi mắc bệnh liệt dương, bà chị là công chúa Thiên Ninh (lấy chồng trước ông em 9 năm) lấy thân mình chữa bệnh cho em trai.

    Trần Dụ Tông chữa liệt dương bằng phương thuốc quái đản
    Hình minh họa

    “Ấu dâm” bắt đầu được đề cập đến như một “vấn nạn xã hội” (chứ không phải TỘI ÁC) ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX. Thời gian này, những người Pháp ở Việt Nam chú ý đến hiện tượng phụ nữ Việt Nam thông thường có quan hệ tình dục từ rất sớm. Nguyên nhân là do xã hội chấp nhận hiện tượng kết hôn sớm, và sự phổ biến của hành vi “xâm hại tình dục trẻ em” thời kỳ này (theo góc nhìn của người Pháp, người Việt Nam trước đó không có khái niệm “xâm hại tình dục trẻ em”) (Nguyễn Thùy Linh 2016, 23)

    Ghi chép của người Pháp cho rằng: cơ quan sinh dục nữ của phụ nữ Việt Nam rất nhỏ. Và phụ nữ Việt Nam thường dậy thì ở tuổi 12. Cô ta được công nhận là người trưởng thành khi được 16 tuổi 4 tháng (Nguyễn Thùy Linh 2016, 23)

    Trong sách “L’amour aux colonies”, Dr. Jacobus X cho biết phụ nữ Việt Nam đã bắt đầu khám phá cơ thể họ khi họ lên 10 tuổi. Thậm chí, ngay cả trước khi họ hành kinh lần đầu tiên. “Những cô gái An Nam bé nhỏ bị phá trinh khi họ 10 tuổi bởi những cậu trai thường hay chơi với họ” (dẫn theo Nguyễn Thùy Linh 2016, 23)

    Bác sĩ Mondière khi phỏng vấn 234 phụ nữ Việt Nam, ông nhận rằng quá nửa những người phụ nữ này có quan hệ tình dục trước khi họ tròn 15 tuổi. “Thông thường, trung bình một người phụ nữ An Nam có quan hệ tình dục lần đầu tiên khi họ 14 tuổi 10 tháng” (Nguyễn Thùy Linh 2016, 23)

    Những người Pháp đồng thời cũng nhận thấy rằng văn hóa người Việt lúc đấy chấp nhận cả những hành vi cấm kị như loạn luân và lạm dụng tình dục trẻ em nữ ở độ tuổi dậy thì (trong mắt người Pháp). Thậm chí ông Mondière này còn phải than rằng: “Nếu một cô gái An Nam mà còn trinh, thì chắc chắn cô ấy không có anh trai hoặc ông bố” (bởi họ sẽ “lạm dụng tình dục” cô ấy và khiến cô ấy mất trinh) (Nguyễn Thùy Linh 2016, 23)

    Người Pháp đã đem quan niệm của họ về tình dục và cấm kị tình dục vào Việt Nam và thay đổi hoàn toàn cách chúng ta nhìn về tình dục.

    Tại sao người Pháp có quan niệm sợ hãi tình dục vị thành niên?

    Vào cuối thế kỉ XIX, dưới ảnh hưởng của “khoa học tình dục”, ở Pháp và các nước châu Âu, người ta BẮT ĐẦU tìm mọi cách chứng minh rằng hành vi tình dục ở “người chưa trưởng thành” sẽ gây những ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý và sức khỏe của một đứa trẻ.

    Song vấn đề lớn nhất mà không nhà khoa học nào trả lời được: “thế nào là một người trưởng thành?”. Và họ cãi nhau ỏm tỏi để về việc quy định số tuổi được coi là “trưởng thành”. Cho đến tận bây giờ, ở một số nước độ tuổi đấy là 12, 14, 15, 16, 18, 20 tùy vào “khoa học tình dục” của từng nước.

    Hệ thống luật pháp và những nhà khoa học khắp thế giới cố gắng chứng minh một cá nhân trước một độ tuổi nhất định thì còn là trẻ em, ngây thơ vô tội, và KHÔNG CÓ ý niệm về tình dục. Sau đó dù chỉ một ngày, thì cá nhân đó đột nhiên có thể trở thành người thành niên, với ĐẦY ham muốn tình dục. (xem Gayle Rubin 1993)

    Và kiến thức “khoa học tình dục” của thế kỷ XIX này từng khiến mọi người ở châu Âu sợ hãi đến mức cha mẹ phải trói bọn trẻ con lại vì lo rằng bọn trẻ sẽ thủ dâm khi ngủ. Các bác sĩ thời kỳ này còn thực hành CẮT ÂM HẠCH của các bé gái để hạn chế chúng không có hành vi tình dục quá sớm nhằm bảo vệ chúng (xem BarkerBenfield, 1976; Marcus, 1974; Weeks, 1981; Zambaco, 1981).

    Thời kỳ này, ở châu Âu bắt đầu hình thành tâm lý về sự sợ hãi đối với hành vi tình dục giữa người trưởng thành và trẻ em. Những câu chuyện kinh hoàng về tấn công và lạm dụng tình dục “trẻ em” liên tục được tô đậm trên báo chí, truyền thông.

    Báo chí và truyền thông có xu hướng tô đậm những hành vi, trường hợp hiếp dâm lòi ruột, xuất tinh vào mặt vào mồm miệng cùng tai, làm hư vòm họng, tan nát âm hộ của trẻ em như là hậu quả của MỌI quan hệ tình dục giữa người trưởng thành và trẻ em. Dù rằng những việc đó TRÊN THỰC TẾ hoàn toàn có thể xảy ra với cả người trưởng thành lẫn trẻ em.

    Tất cả nhằm tô đậm rằng trẻ em HOÀN TOÀN KHÔNG PHÙ HỢP về mặt sinh học cho hành vi tình dục. Khái niệm”trẻ em” ở đây giao động liên tục giữa nhiều nấc tuổi: 12, 14, 15, 16, 18, 20 tùy vào từng thời điểm và chẳng dựa trên một cơ sở “khoa học” nào. Họ cố gắng chứng minh rằng dưới độ tuổi nhất định nào đó thì đó là trẻ em ngây thơ trong sáng, vô tội về mặt tình dục và một độ tuổi nào đó trở lên thì lại là người lớn. Điều này hoàn toàn phi lý tính và thực tế.

    Dưới tấm biển “khoa học tình dục” thì cho mãi đến những năm 1970s của thế kỉ XX, trên thế giới người ta mới bắt đầu TỘI ÁC HÓA và TÂM THẦN HÓA hoạt động tình dục trẻ em dựa trên những “căn cứ, bằng chứng khoa học” mà phần nhiều là không thể chứng minh.

    Tính từ thời gian này, ở Mỹ, người lớn (kể cả bố mẹ) chụp ảnh nude của trẻ con đem ra công khai/hoặc không công khai mà bị phát hiện có thể đi tù đến 15 năm. Vì thế, trên nguyên tắc, việc phổ biến hình ảnh con em thổ dân ở truồng trong sách nghiên cứu dân tộc học, hay đưa ảnh nude của con em lên Facebook cũng là nguyên nhân để đưa bố mẹ vào tù. Thực tế có rất nhiều trường hợp đi tù như vậy xảy ra trên khắp thế giới tính từ năm 1978 trở lại đây (xem Gayle Rubin 1993)

    Khoảng 30 năm trở lại đây, thực hành “ấu dâm” ở Việt Nam mới bắt đầu bị TỘI ÁC HÓA dưới ảnh hưởng ngày càng sâu đậm của kiến thức của y học phương Tây về sức khỏe sinh sản của trẻ em gái và “nhãn quan đạo đức phương Tây. Khoa học hay đạo đức có thể ĐÚNG, có thể SAI nhưng tay “ấu dâm” chắc chắn “lãnh đủ”.

    Ở Việt Nam mãi đến ngày 11 tháng 05 năm 1976, Tòa án nhân dân tối cao mới bắt đầu ghi nhận việc quan hệ tình dục với người dưới 16 tuổi là một TỘI hình sự. Đến năm 1985, điều 114 của Bộ Luật Hình sự mới chính thức có quy định về “Tội giao cấu với người dưới 16 tuổi”.

    Bộ Luật hình sự sau này qua rất nhiều lần chỉnh sửa đổi, quy định cụ thể hơn về các hình thức bị coi là xâm hại tình dục của trẻ em nói chung và tội giao cấu với người dưới 16 tuổi nói riêng. TỘI này nhanh chóng được quy định chặt chẽ hơn, mức xử phạt cũng tăng cao và nghiêm khắc hơn, có thể lên đến tử hình!

    < Website HinhanhVietNam xin lược bỏ 1 phần cuối, có chút cảm tính của tác giả. Phần nguyên gốc  xin xem ở cuối link bài này! >

    —————————
    Về mặt tư liệu: Tất cả tài liệu được nói đến trong bài viết đã được công bố trên Thư viện Nhân học.

    On Paedophilia (March 2010) Schinaia Cosimo (PDF)
    Gayle Rubin (1993) Thinking Sex Notes for a Radical Theory of the Politics of Sexuality nằm trong sách Social Perspectives in Lesbian and Gay Studies A Reader (September 2013) Nardi, Peter M.Schneider, Beth E.   Theo

    Nguyen Phuc Anh – Nhanhoc.org https://www.facebook.com/anhnp86/posts/831888886949404
  • Những lần quân Việt tiến qua biên giới đánh quân Tàu

    Những lần quân Việt tiến qua biên giới đánh quân Tàu

    Những lần trong lịch sử nước Việt, chúng ta  tiến qua biên giới đánh quân Tàu

    Đám đông thường được tinh thần dân tộc dẫn dắt theo cùng một hướng “cứ địch là toàn sang đánh ta, còn cứ ta thì chống trả và đánh lại”. Lịch sử cho thấy còn có những trường hợp ngoại lệ hơn chục lần quân Việt đã tấn công qua biên giới phía Bắc, được nêu dưới đây như một vài sự kiện cần nghiên cứu sâu hơn để làm rõ…

    Lý Thường Kiêt đánh Tống bên kia biên giới. Tranh minh họa
    Lý Thường Kiêt đánh Tống bên kia biên giới. Tranh minh họa

    Các thời Nam Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh vì lòng tham đã xâm chiếm, uy hiếp đã bị người Giao Chỉ đánh cho hao binh tổn tướng, khiếp hãi dăm bẩy phen. Các bậc anh hùngNgô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Huệ đã làm các triều đại bên Tàu phải chịu đớn hèn.

    Tổ tiên ta cũng từng dăm phen nuôi chí đánh sang Trung Quốc. Tiền nhân coi Triệu Đà (Nam Việt Vũ Đế – vua nước Nam Việt) là vua nước ta, đóng đô ở Phiên Ngung, thành Quảng Châu ngày nay. Đến triều Đông Hán năm 43, đánh bại Hai Bà Trưng, tướng Mã Viện bèn dựng cột trụ đồng phân giới nhà Hán Giao Chỉ, khắc chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng đổ thì người Giao Chỉ tuyệt diệt). Theo sách An Nam chí lược đời Trần thì Cột đồng nằm ở Khâm Châu, trước thuộc Quảng Đông nay thuộc Quảng Tây. Bởi vậy, các tiền nhân ôm mộng kéo Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) trở về với người Việt.

    *) Lần 1: Theo Đại Việtsử ký toàn thư. Năm 542, vua Lương sai 2 tướng Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đem quânsang xâm lược nước ta. Hai tướng giặc sợ nên chỉ tiến quân dùng dằng, tốc độ rất chậm. Khi chúng mới kéo đến quận Hợp Phố (Quảng Đông) thì bị Lý Bí (tức Lý Nam Đế) đã cho quân chủ động sang tận Hợp Phố tấn công, khiến quân Lương mười phần chết đến sáu, bảy nên tan rã và phải bỏ mộng xâm lược. Chiến thắng đã giúp Lý Bí kiểm soát được toàn bộ Giao châu cộng thêm quận Hợp Phố (Quảng Đông)

    *) Lần 2: Vào thời Tiền Lê, năm 995, hơn 100 chiến thuyền của Đại Cồ Việt đã tiến sang bờ biển nướcTống, đánh vào trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu, sau đó rút quân. Khi nhà Tống gửi thư trách, vua Lê Đại Hành đã trả lời đầy thách thức rằng: “Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc biển ở cõi ngoài, hoàng đế có biết đó không phải là quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên Nhung,thứ đến đánh Mân Việt, há chỉ dừng ở trấn Như Hồng mà thôi?”.

    *) Lần 3: Đến mùa hè năm 995, 5.000 hương binh châu Tô Mậu (Lạng Sơn) của Đại Cồ Việt đã tấn côngvào Ung Châu rồi lui binh.

    *) Lần 4: Đến nhà Lý, năm 1022 vua Lý Thái Tổ đã sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh dẹp giặc Đại Nguyên Lịch. Quân Đại Việt đã đi sâu vào trấn Như Hồng của đất Tống, đốt kho tàng kẻ thù rồi rút về.

    *) Lần 5: Năm 1052, thủlĩnh Nùng Trí Cao của người dân tộc Tráng (Tày – Nùng) ở Cao Bằng đem quân đánh vào miền Nam Trung Quốc, khiến vua Tống lo sợ. Vua Lý Thái Tông gửi chiếu đề nghị đưa quân sang giúp nước Tống, nhưng tướng Địch Thanh của nhà Tống can ngăn vì sợ người Việt lợi dụng việc này mà lấn chiếm lãnh thổ.

    Tháng 10/1053, lấy danh nghĩa là ứng cứu cho nhà Tống, quân Đại Việt tiến vào đất Tống để tiếp ứng cho Nùng Trí Cao, nhưng tới nơi thì Nùng Trí Cao đã thua nên đành rút quân về.

    *) Lần 6:  Mùa xuân năm 1059, vua Lý Thánh Tông cho quân đánh Khâm Châu nước Tống, khoe binh uy rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc, khiến quân Tống nể sợ.

    Năm 1060, vua Lý sai châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đánh vào đất Tống, bắt được tướngTống là Dương Bảo Tài và quân lính, trâu ngựa đem về. Quân tống phản công nhưng thất bại, đành phái sứ giả sang điều đình. Tuy nhiên, phía Đại Việt quyết không trả tù binh.

    *) Lần 7:  Năm 1073, vua Thần Tôn nhà Tống cử Thẩm Khởi làm Tri châu Quế Châu cốt mưu toan việc đánh lấy nước Nam ta, vì nghe lời một quan biên thần dâng sớ về tâu nên chiếm Giao Chỉ: “Một vạn quân đem đánh đủ lấy được Giao Chỉ dễ dàng như chơi”.

    Thẩm Khởi đến Quế Châu, đêm ngày lo việc luyện quân đóng thuyền, rèn luyện thủy chiến, sửa soạntấn công nước ta; lại dung nạp bọn Nùng Thiện Mỹ là tù trưởng dân Mường ở mạn ngược ta cho sang bên Tàu ở, chủ ý để dò binh tình và địa thế, phòng nay mai đi đánh thì dùng bọn ấy làm hướng đạo.

    Vua Tống thấy Khởi làm hấp tấp, lộ chuyện quá liền vội bãi chức gọi về và sai Lưu Di xuống thay. Lưu Di muốn lập công nhanh chóng nên càng hăng hơn, ngoài việc xây đắp đồn lũy, dò la tình thế, lại đóng cửa biên giới, không cho dân sở tại vãng lai buônbán với ta…

    Đầu năm 1075 ,Nhân Tôn bàn việc với Thái sư Lý Đạo Thành:

    Quân Tống thế thì láo thật. Dễ thường nó nghĩ nước ta không có gươm sắc để chặt bay đầu chúng nó chẳng? Việc này mẫu hậu và Thái sư định đối phó thế nào?

    Thái sư Lý Đạo Thành tâu xin cho quân lên án ngữ biên giới, hễ binh nhà Tống ngó thấy ta phòngbị, tất không dám manh tâm quấy nhiễu ta nữa.

    Nhân Tôn gạt mưu kế ấy:

    –   Không! Chúng nó đã rắp tâm đánh ta thì ta đánh nó trước. Sang tận nhà chúng nó mà đánh một chuyến cho biết tay. Xin mẫu hậu nghe con, Trung Quốc chỉ to xác đông người,chứ binh lực nhà Tống chưa chắc hơn ta.

    Ỷ Lan Thái Phi nghĩ thầm con mình thông minh anh dũng, bàn có lẽ phải, bèn hỏi Lý ĐạoThành:

    Ta cũng nghĩ thế: phải đánh Tống một phen, cho họ bớt thói ngạo nghễ khinh khi tiểu quốc đi. Trong các võ thần nước ta, nên chọn ai đi làm tướng, theo ý ta quan Thái sư Lý Thường Kiệt được chăng?

    Lý Đạo Thành tâu:

    –  Tướng tài nước ta hiện nay trừ Lý Thường Kiệt không ai đương nổi trọng nhậm này.

    Năm 1075-1076, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản khởi binh mười vạn, chia làm ba đạo quân kéo sang nước Tàu đánh đòn phủ đầu.

    Đạo thứ nhất, nhì đánh hai châu Khâm, Liêm đất Quảng Đông.

    Đạo thứ ba đánh Ung Châu đất Quảng Tây.

    Lý Thường Kiệt đánh có mấy ngày, chiếm luôn cả Liên Châu và Khâm Châu, giết quân Tống và thổdân hơn tám nghìn người, tiêu hủy các thành lũy, phá kho lương dự trữ. Kéo tiếp một cánh quân chặn đánh viện binh nhà Tống ở Ải Côn Luân (gần Nam Ninh nay) phávỡ tan hoang và chém chết tướng địch Trương Thủ Tiết giữa trận.

    Đạo binh Tôn Đản tiến đánh Ung Châu, vây Ung Châu hơn 40 ngày rồi trèo lên Thành Võ, Tháithú Tô Đạm tự thiêu mà chết, thành Ung Châu bị hạ.

    Sử ta chép rằng từ tháng 10 năm trước đến tháng 5 năm sau, lính và dân Tàu bj chém giết tửthương hơn 10 vạn, bắt sống mấy trăm dân ba châu đem về. Đạo binh ung dung kéo về, quân Tống khiếp vía không dám đuổi theo, binh lực suy yếu.

    *) Lần 8: Sang đờinhà Trần, năm 1241, vua Trần Thái Tông thấy một số tộc người ở nước Tống thường hay quấy nhiễu biên giới đã sai đốc tướng Phạm Kính Ân đem quân vượt biên giớiđánh vào hang ổ của chúng rồi về.

    Cũng trong năm này 1241, vua thân chinh cầm quân vượt qua châu Khâm, châu Liêm đi đánh cáctrại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống phía đường bộ. Vào địa phận nước Tống, vua tự xưng là Trai Lang, bỏ thuyền lớn ở trong cõi, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ. Người châu ấy không biết là ai, đều sợ hãi chạy trốn. Đến sau biết là vua Việt,mới chăng xích sắt giữa sông để chặn đường thủy. Khi trở về, vua sai nhổ lấy vài chục cái neo đem về, rồi ung dung đi theo đường bộ về nước mà không sợ hãi lúng túng.

    *) Lần 9: Đến mùa hạnăm 1242, vua Trần Thái Tông lại sai tướng Trần Khuê Bình đem quân trấn giữ biên giới phía Bắc, đánh vào lộ Bằng Tường của nước Tống để dẹp loạn.

    *) Lần 10: Vào đời vua Trần Thánh Tông, đầu năm 1266, thủy quân Đại Việt tấn công rồi đánh đến tận núi Ô Lôi ở phía Đông Nam huyện Khâm (Quảng Đông), nhờ đó biết được quân Nguyên cóâm mưu xâm lược nước ta.

    *) Lần 11: Sử nhà Nguyên ghi rằng, vào năm 1313, hơn 3 vạn quân Đại Việt đánh vào Vân Động, châu Trấn Yên, sau đó tấn công các xứ Lôi Động, Tri Động và châu Quy Thuận, cuối cùng là châu Dưỡng Lợi (nay thuộc Quảng Tây). Về sau nhà Nguyên phải cho sứ đến thương lượng quân Đại Việt mới rút lui.

    *) Lần 12: Theo sử nhà Minh, năm 1438, thổ quan châu Tư Lang của Đại Việt đem quân đánh hai châu An Bình và Tư Lăng (nay thuộc Quảng Tây), vua Minh phải sai sứ sang nước ta thương thuyết.

    *) Lần 13: Năm 1480, tổng binh tri Bắc Bình của Đại Việt là Trần Ao sai Đào Phu Hoán đem 600 quân đánh vào Cảm Quả, chiếm được ải Thông Quang (thuộc Quang Lang, Ôn Châu, Trung Quốc)rồi tiến vào Ban Động dựng rào chắn, sau đó tâu về triều đình. Vua Lê ThánhTông sau đó cho người lên biên giới “biện bạch phải trái với nhà Minh”.
    *) Lần 14: Cuối đời Minh Sùng Trinh, nhà Minh suy vi, loạn lạc lan tràn khắp đất Tàu. Nhà Đại Thanhở Mãn Châu nhân đấy tràn qua dẹp loạn đồng thời lật nhà Minh giành quyền thống trị. Dòng dõi chót nhà Minh là Quế Vương cùng cựu thận về Triều Khánh (QuảngTây) dựng triều đình Vĩnh Lịch Đế. Quân Thanh rượt theo triệt hạ buộc vua Vĩnh Lịch trốn về Quế Lâm, rồi Vân Nam. Khoảng 1646-1647, Vĩnh Lịch Đế muốn nhờ binh lực nước ta nên phong vua Lê Thân Tông làm An Nam quốc vương, Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng làm Phó vương, làm mồi hư danh để cầu viện binh An Nam.

    Chúa Trịnhtuy chẳng thừa binh lực nhưng cũng suy xét nhân cơ hội này có quyết toán được khoản nợ hơn nghìn năm: thu lại Lưỡng Quảng về nước ta không?

    Đầu tháng 6 năm Đinh Tỵ (1647) ở Phủ Liêu có cuộc họp mặt quan trọng. Trịnh Tráng đặt vấn đề:

    Có phải bờ cõi nước ta nguyên xưa gồm cả Quảng Đông, Quảng Tây không? Ấy thế mà xưa nay không ai nghĩ đến sự thu phục đất cũ đó về cho nước nhà! Nay nhà Minhs uy vi, nước Tàu rối loạn, ta định thừa cơ lấy lại Lưỡng Quảng, các ngươi tínhsao?

    Tiền quận công Lê Văn Hiếu nói:

    –  Điện hạ làm được việc này sẽ ghi công nghiệp với quốc gia, hậu thế thật không phải nhỏ.

    Tướng quân Trịnh Đào lắc đầu:

    – Nhưng đất Quảng Tây hiện còn Vĩnh Lịch Đế nhà Minh đóng đô, chả lẽ ta vừa mới thụphong lại giở mặt chiếm lấy chỗ đất dung thân của vua”

    Chúa Trịnh chấpnhận:

    – Thôi hãy để Quảng Tây đó cho vua nhà Minh dung thân, sau này sẽ tính. Nhưng còn QuảngĐông, ta nên thừa cơ quân Thanh chưa xuống đến nơi mà lấy ngay đi mới được.

    Ninh quận công Trịnh Toàn, con Chúa Trịnh can ngăn:

    -Con tưởng không nên, cứ xem sự thể Trung Quốc tất về Thanh triều làm chủ, rồi họ lấyuy lực trách vấn ta việc ấy, e đến sinh sự lôi thôi, thì làm thế nào.

    Chúa Trịnh nói:

    -Việc đời cứ “tiên phát chế nhân” (Nắm trước để ngăn người ta) là hơn. Khi quân Thanhxuống đến nơi, thấy sự dĩ nhiên, có lẽ phải chịu. Mà nếu họ muốn lôi thôi trách vấn ta chăng nữa, ta cũng có lý sự để phân giải. Họ bất quá là người ở bộ lạcTường Bạch trên Mãn Châu, bỗng thừa thời tràn xuống chiếm cả Trung Quốc, còn được thay huống hồ khi tay lấy một xó Quảng Đông mà chỉ là thu lại đất cũ của ta.

    Trịnh Toàn lại nói:

    –  Bẩm kể lý sự thì đành như thế, nhưng còn sức mạnh nữa. Từ khi quân Thanh kéo vào cửaải, quân dân tướng sĩ nhà Minh theo hàng tấp nập. Con thiết tưởng đất QuảngĐông lúc này cũng đã có kẻ giữ hộ quân Thanh rồi. Việc thật khó khăn, cúi xinphụ vương suy nghĩ lại cho kỹ.

    Trịnh Tráng quắc mắt trả lời cương quyết:

    –    Ta há không biết là việc khó khăn ư? Ở đời cứ thấy việc khó không làm thì cổ laibao nhiêu việc khó ai chịu làm bao giờ! Ý ta đã quyết rồi, không ai được bàn lảng ra. Ta cứ sai mấy đạo binh thuyền đi liệu để lấy được thì lấy, không thì kéo quân về, phỏng có làm sao?

    Liền Chúa Trịnh hạ lệnh cho 2 tướng lĩnh Trịnh Lãm và Ngô Sĩ Vinh đem quân sĩ và ba trăm binh thuyền ra cửa Vân Đồn. Dù không lấy được toàn tỉnh cũng thu phục mấy châu quận ven biển, gần biên giới ta hơn hết.

    Chúa Trịnh dặn riêng 2 tướng: – Hai ngươi đến đó, nếu thấy quân Thanh phòng bị rồi thế là họn hanh chân đến trước thì ta nên tìm lối nói khéo mà lui quân, đừng sinh sự tranh chiến…

    Tướng Trịnh Lãm thưa: –   Chúa thượng cho phép chúng tôi vì quốc thể, giao chiến với quân Thanh một phen,không lẽ gặp họ chưa chi mình đã tự lui? Chúng tôi có binh lực trong tay không phải ít.

    Chúa Trịnh lắc đầu: – Không được, hai người trung dũng can đảm như thế, thật đáng ngợi khen, nhưng phải biết quân mình ở xa đến, vạn nhất đánh mà bất lợi, thêm thù oán với nhà Thanh sẽ liên lụy cho nước ta không nhỏ. Hiện nay họ Mạc trên Cao Bằng chưa trừ xong, mà họ Nguyễn Đàng Trong tất phải đánh tới, trong nước đã có haimũi giáo bên nách rồi, ta không thể rước thêm một mũi giáo ở ngoài đến, nhất lànhà Thanh. Vậy hai ngươi phải thể tất ý ta làm việc này cho cẩn thận nghe!

    Sáng hôm sau,hơn ba trăm chiếc thuyền Việt Nam kéo buồm ra khơi rời bến Vân Đồn nhằm hướng Liêm Châu. Lịch triều hiến chương quyển 48 của Phan Huy Chú ghi chép rằng: “…Bọn Lãm đi qua Tây Đông ba thôn rồi đến Liêm Châu. Không ngờ nhà Thanh đã sai đô đốc đến làm tổng trấn ở đó rồi… Binh ta bèn rút về trước…”

    *) Lần 15: Sau khi đuổi xong quân Thanh, vua Quang Trung nghĩ đến việc chuẩn bị binh lực, mưu sang đánhTrung Quốc. Ông nói với Ngô Thời Nhiệm: “Đánh xong trận này, ta muốn phiền ông sang dùng lời nói sao cho khéo để chỉ việc chiến tranh. Đợi mười năm nữa nướcta dưỡng sức phú cường rồi, bấy giờ ta không cần sợ nó nữa…

    Quang Trung trực tiếp chăm nom, tuyển binh bắt linh, rèn đúc binh khí, tập luyện chiến trận. Nhân giặc Tầu đảng Thiên Địa Minh “Phản Thanh, phục Minh”, ông hỗ trợ cho quấy rối quân Thanh vùng giáp ranh. Năm Nhân Tí (1792), mọi việc chuẩn bị xong xuôi, Quang Trung sai sứ đem lễ vật sang Bắc Kinh cầu hôn một công chúa Mãn Thanh và xin trả lại Việt Nam đất tỉnh Lưỡng Quảng làm của hồi môn.

    Cố nhiên, đó là cớ để danh chính ngôn thuận khởi binh, chỉ chờ sứ bộ là Võ Huy Tấn trở về làphát lệnh tiên phát. Không may, nhà vua bất ngờ lâm bệnh rồi thăng hà, thọ bốnmươi tuổi. Dự định ấp ủ cũng bị xấu số trôn vùi.

    *) Lần 16: Chiến dịchThập Vạn Đại Sơn là một chiến dịch quân sự diễn ra trong thời gian từ tháng 6 đếntháng 10 năm 1949 do liên quân giữa bộ đội Việt Nam và Quân Giải phóng nhân dânTrung Quốc thực hiện tại  khu biện giớiViệt – Quế chống lại quân đội của Quốc Dân Đảng.

    Mục tiêu củachiến dịch là mở rộng vùng giải phóng tại khu vực dãy núi Thập Vạn Đại Sơn tại3 huyện Ung Châu, Long Châu và Khâm Châu giáp biên giới với vùng Đông Bắc Việt Nam, tạo điều kiện phát triển lực lượng phối hợp với đại quân của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc khi đó đang ào ạt tiến về phía Nam.

    Lực lượng Việt Minh tham gia liên quân là theo đề nghị của phía Trung Quốc. Năm 1949, theo đềnghị của đại diện Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tư lệnh Biên khu Việt – Quế (QuảngĐông – Quảng Tây), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân ViệtNam phái một lực lượng vũ trang sang giúp Trung Quốc “xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung–Long – Khâm liền với biên giới Đông Bắc ta, thông ra bể, tạo điều kiện khuếch trương lực lượng, đón Đại quân Nam Hạ” (Mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 23-4-1949).

    Chiến dịch có hai hướng: Khâm Châu và Long Châu.

    Trên hướng Long Châu, bộ đội Việt Nam đánh chiếm Bằng Tường, Thuỷ Khẩu (ngày 12 tháng 6),Hạ Đống (ngày 13 tháng 6). Ngày 18 tháng 6, diệt viện binh Quốc dân Đảng từ Long Châu xuống và tiến đánh Ninh Minh.

    Trên hướngKhâm Châu, trong thời gian từ ngày 3 đến ngày 9 tháng 7, liên quân Trung-Việtđánh thị trấn Trúc Sơn (Zhushan) (trên đường Đông Hưng – Phòng Thành) nhưng không thành công. Ngày 25 tháng 7, liên quân chuyển sang tấn công quân Quốc dânĐảng tại Voòng Chúc, Mào Lêng, rồi tiến sát Phòng Thành. Quân Quốc dân Đảng phảirút khỏi các đồn bốt nhỏ, tập trung về các thị trấn Long Châu, Nà Lương, PhòngThành, Đông Hưng.

    Chiến dịch kết thúc vào tháng 10 khi cánh quân từ phía bắc của Quân Giải phóng Trung Quốc đánh chiếm Nam Ninh. Đến đây, liên quân Trung-Việt đã chiếm được 10 trên 12 vị trí thuộc 3 huyện Long Châu, Khâm Châu, Phòng Thành, mở rộng vùng kiểm soát, tạo điều kiện thuận lợi cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đánh chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.
    Nguồn tham khảo:
    1- Wikipedia
    2- Con trời ngã xuống bùn đen, NXB Người Bốn Phương, Hà Nội 1941, Đào Trinh Nhất

    Nguồn: Bùi Quang Minh

  • Chuyện hưởng thụ khoái lạc của vua Minh Mạng và Bảo đại

    Chuyện hưởng thụ khoái lạc của vua Minh Mạng và Bảo đại

    Vua Minh Mạng không chỉ nổi tiếng ở tài thao lược, mà còn vang danh hậu thế nhờ có sức khoẻ hơn người. Nhà vua hoạt động chăn gối về đêm đều đặn nhưng hằng ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt. Không chỉ có thế, Vua thường thức đến tận canh ba để làm việc. Điều đó cho thấy Vua Minh Mạng có một “thể chất tiên thiên” – cường tráng bẩm sinh. Chính sự khỏe mạnh đó đã góp phần không nhỏ vào sự vượng con của vị vua này.

    Một số tài liệu cũng cho thấy, Hoàng đế Minh Mạng có số lượng con nhiều nhất trong 13 đời vua Nguyễn. Ông để lại cho đời 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa. Sách Kể chuyện các vua Nguyễn viết: Trong đời sống thường nhật, có lẽ Vua Minh Mạng là người được hưởng nhiều vui thú nhất trong các vua Nguyễn ở chốn phòng the. Nhà vua có sức khỏe phục vụ tam cung lục viện, một đêm có thể “chiều” đến 5 – 6 cung tần. Tuy nhiên, thông thường, mỗi đêm, Vua chấm cho thái giám gọi 5 bà vào hầu, mỗi canh một bà. Trong số các bà ấy thì có khi đã có ba bà thụ thai.

    Chuyện hưởng thụ khoái lạc của vua Minh Mạng và Bảo đại

    Có giai thoại rằng, để cẩn thận “tìm” đúng con vua, thái giám phải chuyển danh sách năm bà ấy cho Tôn nhơn phủ; phủ này lại chuyển một danh sách khác cho Quốc sử quán. Sau này, khi bà nào mãn nguyệt khai hoa, Quốc sử quán có trách nhiệm rà soát, đối chiếu xem thử từ ngày vua “đòi” đến kỳ sinh nở có đúng ngày đúng tháng không.

    Vậy, làm thế nào mà Vua Minh Mạng có “sức đàn ông” phi thường? Theo sử sách, các ngự y trong triều đã ngày đêm nghiên cứu, bào chế những bài thuốc có tính năng tráng dương bổ thận cho thiên tử dùng. Và nhờ “bồi bổ” Minh Mạng thang, gồm hai toa thuốc: Nhất dạ ngũ giao và Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử – được thầy thuốc căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của nhà vua để lập ra thang thuốc rượu, mà đấng quân vương nhà Nguyễn trở thành chiến binh dũng mãnh chốn phòng the.

    Tuy nhiên, các nhà y học hiện đại cho rằng, “phép thần thông” mà người ta đồn đại về Minh Mạng thang không hoàn toàn đúng 100%. Vua Minh Mạng là người có thực lực tính dục bẩm sinh, hứng thú ân ái. Những toa thuốc vua dùng chỉ mang tính trợ lực, chứ không phải đóng vai trò chủ trì quyết định. Ngoài ra, có một bằng chứng đơn giản, nếu Hoàng đế Minh Mạng có bài thuốc thần diệu như vậy thì tại sao Vua Tự Đức (cháu nội) lại không áp dụng được mà vẫn bị bất lực, không con?

    Chuyện hưởng thụ khoái lạc của vua Minh Mạng và Bảo đại

    Cũng có đời sống tình dục phóng khoáng trong số các vị vua triều Nguyễn, Bảo Đại nổi tiếng là vị vua đa tình và ăn chơi khét tiếng một thời. Theo sách Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam của tác giả người Pháp Daniel Grandclément, sở thích hàng đầu của Hoàng đế Bảo Đại là đuổi theo những người đàn bà đẹp. Ông từng thẳng thắn bộc lộ sự ham muốn sắc dục của mình: “Luôn có nhu cầu đối với đàn bà, một thứ nhu cầu thường xuyên không thể dập tắt được như đồ ăn thức uống. Từ khi đến tuổi lớn, đêm nào cũng phải có một người đàn bà nằm bên, mỗi đêm một người”.

    “Con người Bảo Đại có một phần mười của Farouk, hai phần mười của Machiavel và bảy phần mười của Hamlet… Ông đã dan díu với đủ hạng người, từ cô hầu phòng bình thường, vợ của các gia nhân đày tớ, hoa hậu Đông Dương đến gái nhảy, thậm chí gái điếm…”, một người thân thiết của cựu hoàng đã bình phẩm.

    Không chỉ thử “cảm giác” với người đẹp ở quê hương, ông hoàng Bảo Đại còn có đàn bà Trung Hoa, Hong Kong, Pháp, Nhật Bản, Zaire….

    Theo Dantri

  • Vua Minh Mạng xử quan lại tham ô, nghiêm khắc là đây!

    Vấn đề tham quan ô lại, triều đại nào trị vì cũng đều được đặt ra và xử lý hết sức nghiêm ngặt.
    Khi đọc lịch sử thời Minh Mạng, một ông vua nổi tiếng là nghiêm khắc chúng ta thấy hai sự kiện đáng chú ý trong bộ Đại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, do NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 1963, tập IV. Hai đoạn sử cho thấy thái độ kiên quyết của vua Minh Mạng trị tội bọn tham quan.
    anh-vua-minh-mang
    Ảnh vẽ truyền thần Vua Minh Mạng
    Bị chém đầu vì trộm hơn 1 lạng vàng
    Trong Bộ luật Gia Long có một điều khoản quy định cách xử tội những người ăn cắp tài sản của nhà nước. Điều 229 của bộ luật có đoạn viết: “Kho của vua gọi là Nội phủ, nó ở trong cấm địa của Hoàng thành. Hễ lấy trộm món gì ở đó dù nhiều hay ít đều bị tội chém đầu”.
    Dưới thời vua Gia Long trị vì (1802 – 1819) đã xảy ra một vụ gian lận, lấy cắp tài sản chứa trong nội phủ và những thủ phạm đã bị chém đầu. Đến thời vua Minh Mạng trị vì (1820 – 1840) lại diễn ra cảnh hoàng kim hắc thế tâm (vàng làm đen tối lòng người). Vào tháng 5/1823, một ông quan làm việc tại phủ nội vụ, tên là Lý Hữu Diệm lấy trộm hơn một lạng vàng. Việc bị phát giác, bộ Hình đưa ông Diệm ra xét xử. Thay bằng tuyên án chém đầu, bộ Hình thấy đây là một ông quan đã ít nhiều có công trạng nên giảm xuống thành tội bắt đi đày viễn xứ. Vụ án được tâu lên vua, vua Minh Mạng không chấp nhận đề nghị của bộ Hình là giảm án và nhà vua ra lệnh cho bộ Hình đem can phạm ra trước chợ Đông Ba chém đầu, cho mọi người trông thấy mà sửa mình. Đoạn văn ấy được ghi như sau:
    “Thư lại Nội vụ phủ là Lý Hữu Diệm lấy trộm hơn một lạng vàng. Bộ Hình nghĩ xử tội chém chuẩn làm tội đồ. Án tâu lên, vua dụ rằng: Khoảng năm Gia Long, bọn Nguyễn Đăng Được thông đồng với thợ bạc là bọn Nguyễn Khoa Nguyên đúc trộm ấn giả, để trộm đổi ấn cất ở kho, đều xử chém ngay. Nay Hữu Diệm ở đấy cân vàng mà còn dám công nhiên lấy trộm, huống chi của kho thì sao?
    Thế là trong mắt hắn không có pháp luật. Chi bằng theo đúng tội danh mà định tội để răn người sau. Lý Hữu Diệm phải giải ngay đến chợ Đông, chém đầu cho mọi người biết. Hồ Hữu Thẩm phải truyền cho bọn viên lại Nội vụ phủ cùng đến xem, hoặc giả mắt thấy lòng sợ mà tự khuyên răn nhau để khỏi mắc tội, há chẳng là một phương thuốc hay cho bọn người sao?”.

    Vua Minh Mạng xử quan lại tham ô nghiêm khắc là đây
    Ảnh minh họa. 

    Chặt tay vì lấy trộm thùng nhựa thơm
    Vụ gian lận thứ hai xảy ra vào tháng 11 năm 1831. Toàn văn đoạn sử này như sau:
    Lũ Nguyễn Đức Tuyên, tư vụ Nội vụ phủ, ăn bớt nhựa thơm. Việc phát giác. Vua dụ rằng: “Lai dịch các kho phần nhiều là kẻ tham lam hèn mạt, bớt xén, dối trá, chẳng thiếu cách gì. Xảy ra đến đâu trừng phạt đến đấy, đã chiếu luật làm tội nặng, lại nhiều lần truyền dụ, dạy bảo hầu đến rát cổ họng. Cốt muốn cho kẻ gian đổi lòng đổi dạ, trở thành lương thiện, thế mà không ngờ lòng người khác xưa, ngày thêm gian giảo! Năm nay có vụ án (ăn cắp) sơn ở Vũ khố, đã đem nhẹ thành nặng vì khinh nhờn pháp luật, lừa dối vua. Kẻ phạm tội ấy đã bị xử tử, lại phải chặt một tay để treo ở cửa kho.
    Gần đây lại xảy ra vụ án mất trộm sa đoạn và hổ phách, hiện đương sai tra xét rất khẩn cấp. Nay sai dâng nhựa thơm thì ra lũ Nguyễn Đức Tuyên đã ăn bớt từ trước, lại dám lấy mật trộn lẫn vào để ít hóa nhiều, ý định lừa gạt che giấu. Trước còn chối cãi, đến lúc cả kho xưng ra, mới chịu thổ lộ thực tình, thì những người tai nghe mắt thấy ai mà không ghét. Vả lại vụ mất sơn chưa nguôi, án sa đoạn, hổ phách còn nóng hổi, chúng nó mù điếc, sao lại mất hết lương tâm, cố ý phạm tội như thế. Đáng lẽ cho trói đem ra chợ Cửa Đông chém đầu, nhưng lần này tạm chặt một bàn tay thủ phạm Nguyễn Đức Tuyên đem treo, xóa tên trong sổ làm quan, để lại cho nó cái đầu, khiến nó suốt đời hối hận và nhờ đó để làm cho mọi người đều biết tỉnh ngộ, răn chừa. Thế cũng là một cách trừng trị kẻ gian”.
    Khi thụt một lạng vàng, lấy cắp trong kho một thùng nhựa thơm mà vua Minh Mạng đã bắt chém đầu, chặt tay thủ phạm. Đọc lại những ghi chép trong sử sách đáng để cho chúng ta luận cổ suy kim.
    Theo Kienthuc.Net
  • Chuyện về Hậu cung triều Nguyễn

    Với 143 năm tồn tại (1802-1945), hậu cung triều Nguyễn và những câu chuyện thâm cung bí sử hầu như không được sử sách ghi chép nhưng lại được biết qua những câu chuyện truyền miệng của các nhân vật đã từng sống cùng thời điểm hoặc sống trong hậu cung.

    Ở Huế từng truyền tụng câu ca dao:

    Ngọ Môn năm cửa chín lầu,

    Một lầu vàng tám lầu xanh,

    Ba cửa thẳng hai cửa quanh,

    Sinh em ra làm phận gái,

    Chớ nên hỏi chốn kinh thành mà làm chi.

    Đã mang thân phận nữ nhi thì không nên biết đến chốn kinh thành, hay chính xác hơn là không nên vì vinh hoa phú quý, quyền cao chức trọng mà như những con thiêu thân lao vào hậu cung của các bậc đế vương để đổi lấy một cuộc sống lắm tai ương, bất trắc. Bước vào hoàng cung là những thiếu nữ thanh xuân, tuổi trẻ, thiện lương còn bỡ ngỡ trước cuộc đời. Tuy nhiên, cuộc sống đầy âm mưu thủ đoạn của chốn cung cấm đã biến những thiếu nữ thanh thuần trở thành những người lắm mưu, nhiều kế, tay dính máu tanh. Thậm chí là một cuộc sống cô đơn, buồn bã, đánh mất cả tuổi thanh xuân vì không được ân sủng của nhà vua.

    Cung phi của các vị vua triều Nguyễn hầu hết đều là con gái của các vị quan trong triều đình. Sự hậu thuẫn của gia tộc cũng chính là một trong những nguyên nhân để các bà trong cung Nguyễn nhận được sự sủng ái của các bậc đế vương. Những cuộc hôn nhân này cũng chính là sự cân bằng quyền lực giữa các thế lực trong triều, nhằm ổn định tình hình chính trị của quốc gia. Cho dù mục đích phía sau của những cuộc hôn nhân này là gì, thì hầu hết những cô gái này đã đánh đổi tuổi thanh xuân và nước mắt của họ để đổi lấy một cuộc sống hoặc là quyền cao chức trọng, mẫu bằng tử quý, hoặc là cô đơn, phòng không gối chiếc cho đến cuối cuộc đời. Những người con gái một khi đã bước chân vào cung cấm thì chỉ có đi mà không thể trở lại. Cả cuộc đời, cả số phận, dù hạnh phúc hay bất hạnh, dù quyền cao chức trọng hay cô đơn chiếc bóng, ảo não u buồn… tất cả chỉ phụ thuộc vào một người duy nhất: Hoàng đế!

    “Một ngày dựa mạn thuyền rồng

    Cũng bằng muôn kiếp sống trong thuyền chài”

    Cũng bởi ước mong được một ngày dựa mạn thuyền rồng, mà những bi kịch, những tiếc nuối và cả những ai oán của các nữ nhân chốn hậu cung vẫn cứ mãi tiếp diễn. Có những người được vua sủng ái thì hưởng tột đỉnh vinh quang, hạnh phúc nhưng cũng có những người mang nỗi buồn cô đơn, không thể than thở cùng ai. Những phi tần dù được nhà vua sủng hạnh hay chưa được sủng hạnh, nhưng khi vua băng hà cũng phải theo nhà vua đến nơi an nghỉ cuối cùng để phụng thờ hương khói cho đến cuối cuộc đời.

    Chuyện về Hậu cung triều Nguyễn

    Bên trong khu mộ 15 liếp.

    Ở Huế còn có câu thành ngữ “đưa con vô Nội” để chỉ thân phận của các cô gái chốn cung cấm, một khi đã bước vào cung thì không mong ngày trở ra. Đưa con vô Nội lâu ngày đã trở thành một câu nói cửa miệng của người Huế khi nói đến một sự việc có đi mà không có lại, cũng giống như đưa con vô Nội là không mong có ngày gặp lại. Có một số cung phi chỉ thực sự bước chân ra khỏi cung cấm sau khi triều Nguyễn cáo chung và sống lặng lẽ cho đến cuối cuộc đời. Một số sau khi ra khỏi cung tuy vẫn là gái tân nhưng tuổi trẻ và thời thanh xuân thì đã gởi lại trong Tử Cấm Thành.

    Nhà Nguyễn cũng đặt ra các quy định chăm sóc sức khỏe cho các cung nữ. Khi đau yếu, bệnh tật, họ phải ra khỏi hoàng cung để dưỡng bệnh tại Bình An Đường. Hiện nay, trong hệ thống kiến trúc triều Nguyễn có hai nhà Bình An Đường, một ở bên ngoài, góc Đông Bắc Hoàng thành (đường Đặng Thái Thân) và một ở bên ngoài lăng Tự Đức, gần cửa Vụ Khiêm. Hai nhà Bình An Đường này là nơi dưỡng bệnh (nếu bệnh nhẹ) và chờ chết (nếu bệnh nặng) của các thái giám và cung nữ chốn hậu cung thời kỳ nhà Nguyễn. Bình An Đường bên ngoài Hoàng thành đã được trùng tu vào năm 2003 nhưng Bình An Đường của Lăng Tự Đức hiện chỉ còn dấu vết của la thành và một cổng vào còn khắc dòng chữ Bình An Đường môn.

    Chuyện về Hậu cung triều Nguyễn

    Xem triển lãm ảnh cung nữ triều Nguyễn.

    Phía sau khuôn viên Bình An Đường Lăng Tự Đức, hiện vẫn còn 15 ngôi mộ của các bà vợ vua Tự Đức với nhà bia và la thành bao quanh, dân địa phương gọi đây là khu lăng mộ 15 Liếp (hay mộ các bà). Khu lăng mộ này hầu như bị bỏ hoang, hương khói của khu lăng mộ đều do người dân chung quanh phúng viếng, thỉnh thoảng cũng có thân nhân và người trong hoàng tộc Nguyễn đến thăm viếng. Trong 15 ngôi mộ ở tại đây, chỉ có 2 ngôi mộ là được thân nhân đến tu sửa, bảo dưỡng. Hương tàn, khói lạnh là thực trạng của khu lăng mộ các bà theo phụng thờ hương khói khi vua Tự Đức băng hà. Sống thì phòng không gối chiếc, chết lại mồ hoang cỏ lạnh là số phận của không ít nữ nhân chốn hậu cung thời Nguyễn.

    Sử sách Việt Nam hầu như không ghi chép về những cuộc tranh giành quyền lực ở chốn hậu cung. Hiếm hoi lắm chúng ta mới thấy được một đoạn hồi ký của Michel Đức Chaigneau trong cuốn Souvenir de Hué cho biết một vài chi tiết sinh động về mối quan hệ giữa các phi tần trong cung cấm dưới thời vua Gia Long. Nữ nhân ở hậu cung thời điểm bấy giờ chưa phải là nhiều lắm (nhà vua có 21 bà vợ có con và được ghi chép vào Nguyễn Phúc tộc thế phả), nhưng cũng làm cho nhà vua đau đầu, đến nỗi nhà vua phải than thở “Trị nước thật dễ dàng, không khó nhọc bằng trị chốn nội cung của mình”. Trong một cuộc gặp gỡ với Michel Đức Chaingeau, nhà vua đã tâm sự: “Khanh tưởng rằng sau khi bãi triều, thanh toán xong mọi việc chính trị và hành chính trong ngày là công việc của trẫm đã xong và thế là trẫm có thể nghỉ ngơi trong hậu cung sao? Khanh lầm đó. Khanh không thể tưởng cái gì đang chờ đợi Trẫm ở đấy (vua chỉ về phía hậu cung) sau khi trẫm ra khỏi nơi này. Ở đây, trẫm hài lòng vì được nói chuyện với những người hiểu biết, họ lắng nghe trẫm, hiểu biết trẫm và khi cần thì vâng lời trẫm! Vào trong ấy, trẫm gặp phải những con quỷ dữ. Chúng gây gổ, đánh đập nhau, cấu xé nhau… rồi sau cùng kéo nhau đến đòi trẫm phân xử. Nếu làm đúng thì trẫm phải trị tội cả bọn họ, vì trẫm không biết ai sẽ nhường nhịn ai trong cơn giận dữ!”

    Sau một hồi im lặng, vua Gia Long nói tiếp: “Này đây, một chốc nữa, trẫm sẽ phải đứng giữa một bầy quỷ cái, chúng nó sẽ gào thét làm trẫm điếc cả tai” (Michel Đức Chaigneau, Souvenirs de Hué, Éditions typhon, Shanghai 1941, pp. 98-99).

    Những vấn đề mà vua Gia Long đã tâm sự ở trên chỉ là những việc cãi vã công khai (minh tranh) để tranh giành sự sủng ái của các bậc đế vương. Phía sau những cuộc cãi vã này hẳn là không thiếu những thủ đoạn độc ác, tinh vi (ám đấu) nhằm loại trừ nhau của những bóng hồng nhiều tham vọng muốn làm chủ chốn hậu cung. Để minh chứng phần nào cho nhận định này, chúng tôi đã làm một thống kê nhỏ qua Nguyễn Phước tộc thế phả (Nguyễn Phúc tộc Thế phả, Nhà Xuất bản Thuận Hoá Huế 1993) và thấy như sau:

    Vua Gia Long có 31 người con (13 hoàng tử và 18 công chúa) thì số lượng mất sớm là 06 người (01 tảo thương, 05 mất sớm), chiếm tỷ lệ 19,35%. Vua Minh Mạng có 142 người con (78 hoàng tử và 64 công chúa) thì có đến 30 người mất khi đang còn là bào thai hoặc lúc tuổi còn nhỏ (13 tảo thương, 17 mất sớm), chiếm tỷ lệ 21,12%. Vua Thiệu Trị có 64 người con (29 hoàng tử và 35 công chúa) thì số lượng con mất sớm là 28 người (05 tảo thương, 23 mất sớm), chiếm tỷ lệ 43,75%. Và đến đời Tự Đức thì nhà vua thể chất yếu nhược, không có khả năng sinh con nối dõi và cũng đến thời điểm này, sự truyền thừa của dòng trưởng (con vợ chính) triều Nguyễn xem như chấm dứt.

    Chỉ tính riêng 3 vị vua đầu triều Nguyễn, ở vào thời thịnh trị nhất, ta thấy hiện tượng các hoàng tử, công chúa chết non khi đang còn là bào thai (tảo thương) hoặc mất sớm, theo thời gian ngày càng tăng. Liệu rằng trong những số phận bất hạnh ấy, có ai là nạn nhân của những vụ “ám đấu” để tranh giành quyền lực ở chốn hậu cung?

    Sau khi vua Tự Đức băng hà (ngày 19 tháng 7 năm 1883), triều đình nhà Nguyễn bước vào giai đoạn khủng hoảng. Pháp đã đặt xong nền móng của chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam, ngai vàng và các vua kế vị cũng gặp nhiều thay đổi. Chỉ trong 4 tháng (từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1883), ngai vàng triều Nguyễn đã 3 lần đổi chủ: Dục Đức – Hiệp Hòa – Kiến Phúc. Đây là thời điểm kinh đô Huế tồn tại hai chính thể cai trị – thực dân Pháp và triều đình phong kiến Nguyễn và cũng là giai đoạn mà các vị vua nối ngôi liên tục thay đổi.

    Do sự bất ổn về triều chính, hậu cung triều Nguyễn giai đoạn này cũng im hơi lặng tiếng. Các bậc đế vương về sau như Khải Định (chỉ có duy nhất một con trai), Bảo Đại khi ở ngôi vua chỉ có duy nhất một bà vợ là Nam Phương hoàng hậu nên sự đấu đá tranh giành chốn hậu cung xem như chấm dứt.

    Hậu cung triều Nguyễn trong suốt 143 năm tồn tại, tuy chỉ là những hoạt động mặt sau của vương triều nhưng những hoạt động của chốn hậu cung này lại góp phần quyết định cho việc sản sinh ra một thế hệ lãnh đạo của triều đình phong kiến Nguyễn và trong một chừng mực nhất định nào đó cũng góp phần không nhỏ đến sự bình ổn chính trị vào thời điểm bấy giờ.

    Theo Net Cố Đô.

  • Vua Minh Mạng ‘giải vây’ cho tàu Anh mắc cạn ở Hoàng Sa

    Vua Minh Mạng ‘giải vây’ cho tàu Anh mắc cạn ở Hoàng Sa

    Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ cho biết: Vào tháng 12/1836 thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người được nhà Nguyễn cứu sống đưa vào bờ biển Bình Định.

    Trong thời kỳ làm hoàng đế, vua Minh Mạng và vương triều Nguyễn đã có những việc làm thiết thực để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.

    Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 104, năm Minh Mạng thứ 14 (1833) chép: “Vua bảo bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.

    Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 154, năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chép: “Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có cái giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lí ba bình” (tức là muôn dặm sóng êm).

    Cồn Bạch Sa có chu vi 1070 trượng, tên cũ  là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái (tức năm 1834) vua toan dựng miếu lập bia chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được.

    Vua Minh Mạng ‘giải vây’ cho tàu Anh mắc cạn ở Hoàng SaBản dập Mộc bản triều Nguyễn phản ánh vua Minh Mạng cho giúp đỡ tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa.

    Đến đây, mới sai Cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về”.

    Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 176, trang 1, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) chép: “Mùa đông, tháng 12, thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình Định.

    Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và  gạo. Lại phái thị vệ  thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ  ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt. Phái viên về tâu, vua nói: “Họ, tính vốn kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn chẩn tuất, bỗng cảm hoá, đổi được tục man di. Thật rất đáng khen”. Sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải; các người tuỳ tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.

    Từ những việc làm như trồng cây, lập miếu thờ ở  Hoàng Sa hay cho cứu vớt tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa đã cho thấy vương triều Nguyễn có chủ quyền riêng ở quần đảo này. Bên cạnh đó, Mộc bản triều Nguyễn và các sách lịch sử khác chưa hề phản ánh việc các nước khác tranh chấp với triều Nguyễn trên quần đảo Hoàng Sa.

    Theo Báo Đất Việt

  • Chuyện vi hành “bi hài” của vua Việt

    Chuyện vi hành “bi hài” của vua Việt

    Xưa, các đấng quân vương ngoài việc thiết triều bàn nghị việc nước, điều khiển việc quốc gia đại sự, nhiều vị bởi muốn hiểu nhân tình thế thái thế nào nên vi hành vào chốn nhân gian. Trong sử Việt, những cuộc vi hành của vua chúa không được ghi lại nhiều. Nhưng qua những tài liệu cóp nhặt được từ sử cũ, chúng ta cũng biết được dăm ba điều về các cuộc vi hành ấy, và cũng có những sự khác lạ nhất định.
     
    Vua vi hành, dân gặp cướp 
    Vua Tự Đức, cũng đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng thời Nguyễn, trong Việt sử tổng vịnh, phần Đế vương, khi viết về vua Lý Cao Tông nhà Lý, ngài đã nhận xét về tiền nhân rất nghiêm phê: “Trong thời gian tại vị, Lý Cao Tông xây dựng dinh thự không ngớt, và Đế vui chơi không có chừng mực; giặc giã và trộm cướp trong nước nổi lên như ong, nhân dân đói khát khổ sở gấp bội những năm khác. Cơ nghiệp nhà Lý bắt đầu suy đốn từ đấy”. Lại có thơ rằng:
    Cưỡng bão bi tần dĩ tự do,
    Cố tương dân mịch phụng bàn du.
    Chiêm Thành khúc lý đa ai oán,
    Quy Hóa giang đầu thuỷ bất lưu.
    Tạm dịch:
    Khăn tã tự do thỏa ý trời,
    Hại dân chẳng kể, kể rong chơi.
    Chiêm Thành khúc hát, lời ai oán,
    Quy Hóa đầu sông nước chẳng trôi. 

    Nhận xét nghiêm khắc của một đấng quân vương dành cho đấng quân vương ở cùng địa vị “thiên tử”, là tấm gương soi chính xác đối với vị vua thứ bảy của nhà Lý. Trị vì đất nước 35 năm (1175 – 1210), là một trong những vị vua trị vì lâu nhất của nhà Lý (chỉ kém vua Lý Nhân Tông) cũng như chế độ phong kiến Đại Việt, nhưng công trạng, sự nghiệp Lý Cao Tông để lại cho hậu thế gần như chẳng có gì. Có chăng là tiếng xấu về sự ham chơi bời, tiêu phí sản nghiệp quốc gia cho những thú vui chơi vô bổ của vua. Nào là ưa phương thuật, sự lạ, tin tài sai bảo hổ của sư Tây Vực năm Đinh Mùi (1187), hay uy trị sấm của Nguyễn Dư năm Bính Dần (1206). Lại chăm việc thổ mộc, xây dựng cung Nghiêm Thiềm năm Đinh Tỵ (1197), dựng gác Kính Thiên năm Quý Hợi (1203)… Đặc biệt, vua rất ưa vi hành, nhưng không phải là quan tâm muôn dân trăm họ, mà để thỏa chí tò mò, sự ham vui chơi của bản thân, như lời Đại Việt sử ký toàn thư thuật lại: “Vua ngự đi khắp núi sông, phàm ngự đến đâu mà có thần linh đều cho phong hiệu và lập miếu để thờ”… “vua xây dựng không ngớt, ngao du không chừng mực”.

     

    Chuyện vi hành
     Vua Lý Cao Tông lên ngôi từ năm 3 tuổi. Nguồn: Internet.

     

    Cũng vì cái sự ngao du ấy, có lần vua gặp cảnh “bất bình chẳng tha” (trích lời Lục Vân Tiên trong truyện thơ Nôm cùng tên của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu), nhưng đấng kim thượng lại nhắm mắt làm ngơ. Ấy là vào năm Bính Dần (1206) niên hiệu Trị Bình Long Ứng năm thứ hai theo ghi chép của Đại Việt sử lược, việc xảy ra ngay tại kinh thành, khi vua 37 tuổi ta.
    Năm đó, trong nước đã loạn lạc dữ lắm, mà vua thích đi chơi, nhưng đường xá không thông được, vua bèn sai làm hành cung Ứng Phong, Hải Thanh ở đầm Ứng Minh, hàng ngày cùng bọn cung nữ đi chơi bời làm vui. Lại lấy thuyền to làm thuyền ngự, lấy các thuyền bé chia làm hai đột, sai bọn cung nữ, phường tuồng chèo thuyền, vua dẫn bọn tả hữu bắt chước nghi vệ thiên tử như khi vua ngự đi chơi đâu vậy. Lại còn lấy sáp ong bọc những tấm lụa và các thứ hải vật thả xuống ao rồi sai người lội xuống mò lên giả làm đồ vật dưới Long Cung đem dâng. Bá quan văn võ thấy vua rong chơi vô độ đều sợ hãi không dám nói.
    Một hôm, vua ngự giá đi chơi ở đầm Ứng Minh như mọi khi. Đang lúc cùng bọn hầu cận, cung nữ vui đùa, bỗng nghe từ ngoài thành vọng lại những tiếng kêu thảm thiết. Lại nói thời bấy giờ, đói kém liên miên, bọn giặc cướp có mặt ở khắp nơi, giết người cướp của ngang nhiên như chốn không người. Để ý, cả đoàn mới biết là tiếng người bị ăn cướp đang hô hoán kêu cứu. Mặc dù đủ cả cấm binh vây quanh đến vài lớp, tiếng kêu cứu rõ mồn một, nhưng Lý Cao Tông chỉ ngỡ ngàng một chút, rồi lại cười nói, đùa vui như trước, giả vờ không nghe thấy gì, mặc cho dân đen, con đỏ của mình chẳng có ai giúp đỡ, đành gào thét vì bị cướp của giữa thanh thiên bạch nhật. Thật là:
     
    Vui chơi nào có biết gì, 

    Thờ ơ phó chuyện an nguy mặc trời.

    (Trích Đại Nam quốc sử diễn ca)
    Vua siêng đi chơi, bị đá rơi đầu 

    Đó là trường hợp của vị vua thứ tư nhà Trần: Trần Anh Tông (1293 – 1314). Vua vi hành bị bọn vô lại ném đá, nhưng đó là quãng thời gian khi vua mới lên ngôi còn ham chơi bời. Xét cả thời trị vì 21 năm của vị vua đặt duy nhất niên hiệu Hưng Long này, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí đã ca ngợi công đức của vua là: “Vua khéo nối nghiệp trước, thương dân, lập chính, đời được yên vui, chính trị tốt đẹp, chế độ rực rỡ, đáng khen”. Hay thời Nguyễn, Thái Hà Diên Mậu Hoàng Cao Khải khi viếtViệt sử yếu, cũng nhận xét thời vua Trần Anh Tông: “Nhân tài xuất hiện ngày càng nhiều, đạo học chấn hưng ngày càng thịnh, triều vua Trần Anh Tông thật là triều thịnh trị nhất về đời nhà Trần”.

     

    Chuyện vi hành
     Vua Anh Tông bỏ tục xăm mình. Nguồn: Internet.

     

    Quản nước tốt đẹp là thế, nhưng không phải lúc nào vua Trần Anh Tông cũng nghiêm cẩn sửa mình như lời dặn của thượng hoàng Trần Nhân Tông:
    Thủ thành nối nghiệp gian nan,
    Hễ là tửu sắc lòng toan đã chừa.
    (Trích Việt sử diễn âm)
    Khi vua mới lên ngôi, tuổi độ thanh niên mới lớn, nên tính bồng bột, ham chơi bời, lại có Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông bên mình trị nước, do đó mà chính sự có phần lơ là. Có lần, vì ham uống rượu xương bồ mà suýt bị Thượng hoàng truất ngôi thiên tử bởi giận. May sao có văn nhân Đoàn Nhữ Hài hay thơ làm biểu tạ lỗi mới được vua cha bỏ qua cho lỗi ấy. Ngoài việc thích uống rượu, do tuổi trẻ thích tìm hiểu, nên Anh Tông thỉnh thoảng cũng hay cùng bọn quân hầu vi hành ra ngoài nhân gian thăm thú dân tình, vui chơi thả sức. Khổ nỗi, đi đêm lắm có ngày gặp ma, sự thể ấy được Việt sử cương mục tiết yếu cho hay.
    Tính vua thích vi hành, ban đêm thường cải trang làm công tử con quan, lên kiệu cùng hơn chục tên hầu cận rong ruổi khắp kinh thành Thăng Long, nào ngắm tửu quán đông vui, nào xem người qua lại nhộn nhịp, lại mắt liếc tay đưa những bóng hồng lướt qua. Cứ thế cả đoàn đi đến khi gà gáy mới về lại cung cấm. Ấy rồi có đêm khi đến một phường nọ trong kinh thành, bọn thanh niên hư đốn tính hay ghen ghét, tưởng kiệu Anh Tông là công tử con quan nhà ai diễu phố nên thấy ngứa mắt, mới hùa với nhau cầm gạch ném vào kiệu. Bọn người đi theo hầu hoảng hốt lắm, chẳng cần giấu bí mật vua vi hành nữa, mới thét lên cho bọn kia nghe thấy:
    – Kiệu của vua đấy!
    Nghe đến thiên tử, bọn thanh niên vô lại cả đám chạy tan sợ bị tội. Đến khi xem lại, thì đầu vua đã bị trúng mảnh gạch ném vào, chảy cả máu, cả chục ngày vết thương mới liền sẹo.
    Sau, Thượng hoàng Trần Nhân Tông thấy vết sẹo ấy, mới hỏi nguyên do vì sao lại bị thế. Vua Trần Anh Tông cứ thực thà mà tâu lại. Thượng hoàng Nhân Tông bực mình lắm, lắc đầu, tặc lưỡi mãi mới thôi.
    Kể ra chuyến vi hành ấy, may mà mới bị ném đá, nếu có ẩu đả nữa, không biết mệnh vua có được bảo toàn. Cũng sau lần bị nạn vi hành, vua Anh Tông ngày càng trở nên thận trọng, nghiêm cẩn hơn trong vui chơi, trị nước, giúp dân cường, nước thịnh, triều đại thêm thịnh đạt, được Việt sử diễn âm hết lời thi tán:
    Khiêm xung hiếu hữu bản sinh tri, 
    Cải quá chung hình tuyệt ẩm thì.
    Nghiệp kế thủ văn xưng thịnh chúa,
    Nội tu lễ nhạc ngoại thương di.
    Nghĩa là:
    Hiếu hữu khiêm toàn đức bẩm sinh,
    Rượu chừa lỗi sửa bỏ phồn hình.
    Trọng văn kế nghiệp đời khen thịnh,
    Lễ nhạc tôn súng bốn bể thanh. 
    Vua hiền gặp trộm giỏi

    Thời Lê sơ, vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) được biết đến là một ông vua cai trị sáng suốt, tạo nên đỉnh cao thịnh trị cho bản thân và triều đại. Nói đến vua, đức trị cũng giỏi, pháp trị cũng hay. Thế nên trong Việt sử yếu mới nhận xét rằng: “Bàn về nền quân chủ ở Việt Nam ta, được xưng tụng về văn trị và võ công cực thịnh không lúc nào bằng triều đại Hồng Đức (Lê Thánh Tông)”.

     

    Chuyện vi hành
     Vua Lê Thánh Tông, tranh của Vũ Huyên. Nguồn: Internet.

     

    Để yên nghiệp nước, vua không chỉ chăm lo việc giáo hóa, nông tang, mà còn chú trọng tới luật pháp để xã hội đi vào quy củ, Quốc triều hình luật ra đời từ lý do đó. Một trong những trọng tội vua Thánh Tông muốn bài trừ ở mọi góc độ là nạn tham ô, nhũng lạm, nhất là đối với quan lại. Giai thoại dưới đây đề cập tới vấn đề xử tệ nhũng lạm, có liên quan tới chuyến vi hành của vị vua sáng.
    Thời vua Thánh Tông trị vì, ở Thăng Long có một tay đạo chích rất giỏi nghề. Nhưng khác với những kẻ chôm chỉa thường thấy khác, hắn hay trộm của nhà giàu chia cho dân nghèo, mà chỉ lấy của những kẻ giàu có bất chính. Do thoắt ẩn, thoắt hiện, ra tay nhanh như chớp nên nhiều người gọi hắn là Quận Gió.
    Đúng vào dịp Tết nọ, vua Thánh Tông cải trang vi hành đón giao thừa. Biết tiếng Quận Gió, vua sai người tìm ra nơi Gió đang ở, rồi tự mình giả cách làm học trò trường Giám (Quốc Tử Giám) vào gặp. Chàng giám sinh hờ nói với Quận Gió:
    – Tôi ở Thanh Hóa Thừa tuyên, làm học trò trường Giám, năm hết tết đến muốn về quê mà trong tay không còn cắc bạc nào. Dám xin ông giúp cho lộ phí đi đường.
    Nghe chàng giám sinh than thở, Quận Gió cảm động. Nói:
    – Chẳng giấu gì nhà anh, tôi là Quận Gió, chắc anh đã biết tiếng. Anh nghèo, tôi sẽ giúp. Tiền không có sẵn, nhưng tôi sẽ lấy của mấy tay trọc phú giúp anh. Vậy, bây giờ anh định lấy của nhà ai?
    Chàng giám sinh hồ hởi:
    – Trộm của phú ông ở cửa Tây thành được không?
    – Không được! Ông ấy giàu nhờ cày sâu, cuốc bẫm, lao động vất vả quanh năm suốt tháng – Quận Gió lắc đầu.

    – Vậy trộm của chủ cửa hiệu vàng bạc ở phố cửa Đông thành? – Chàng giám sinh lại tiếp.

    Quận Gió lại lắc đầu, đáp:
    – Ông ấy người ngay thẳng. Có của là nhờ buôn bán, tích cóp. Giờ anh đợi ở đây, tôi đến nhà lão quan coi kho bạc nhà vua ở phố cửa Bắc chôm cho ông vài nén. Lão ấy có lắm vàng ròng, bạc nén trong nhà. Đó là những thứ không phải của hắn.

    Nói xong, Quận Gió nhanh như chớp đã mất hút trong đêm đen. Chưa đầy một khắc, Quận Gió đã quay lại với hai nén bạc trên tay, mỉm cười với chàng giám sinh:

    – Hai nén bạc này, anh có đủ tiền làm lộ phí và còn để dùng vào việc sôi kinh, nấu sử. Mong rằng sau này anh đỗ đại khoa, nhớ đừng có bòn rút xương máu, công sức của dân mà hãy làm một ông quan liêm.
    Chàng giám sinh gật đầu cảm tạ, lại soi hai nén bạc dưới ánh nến, thấy đề bốn chữ: “Quốc khố chi bảo”. Không nghi ngờ gì nữa, đây là bạc trong kho của nhà nước.
    Sáng mùng một Tết, chàng giám sinh ấy đã ngự trên ngai vàng, dưới sân điện, các quan tung hô chúc Tết. Khi ấy, vua Thánh Tông mới kể về chuyến vi hành đêm giao thừa, lại cho mọi người chuyền tay nhau hai nén bạc “Quốc khố chi bảo”. Viên quan coi kho mặt cắt không còn giọt máu, bị lột bỏ hết mọi tước vị. Gia sản bị tịch thu, thân bị lưu đày vì tội nhũng lạm quốc khố nhà nước. Còn Quận Gió sau đó được vua cho vời vào cung ban hiệu là “quân tử đạo chích” và ban thưởng rất hậu. Giai thoại vi hành trên của vua phần nhiều mang tính hoang đường, nhưng việc xử nghiêm tệ tham nhũng thì sử sách còn ghi lại nhiều lắm.
    Bạn có thể xem thêm các bài bình luận chuyện vua chúa tại Facebook: Kể chuyện vua chúa
    Theo kienthuc.net.vn
  • Trận pháo kích đầu tiên trong lịch sử Đại Việt

    Trận pháo kích đầu tiên trong lịch sử Đại Việt

    Thực ra sử dụng từ “Pháo kích ” với nghĩa là “tấn công bằng pháo” là không chính xác vì bài viết này chỉ muốn đề cập đến trận đánh có sử dụng hỏa khí đạt hiệu quả cao đầu tiên trong lịch sử nước ta.

    Năm 1390, vua Champa ( Chiêm Thành ) là Che Bonguar ( Chế Bồng Nga ) sử dụng một lực lượng thủy quân lớn xâm chiếm nước Đại Việt theo đường sông Hồng.
    Trước đó, vị vua người Chăm này đã ba lần tiến quân vào cướp phá kinh thành Thăng Long khiến cho vương triều nhà Trần lúc đó đang ở giai đoạn cuối vô cùng khốn đốn.

    Trước nguy cơ Thăng Long bị tàn phá lần thứ tư trong vòng hai mươi năm (1371- 1390), Thượng hoàng Trần Nghệ Tông đã giao gánh nặng cứu quốc lên vai vị tướng trẻ Trần Khát Chân.

    Tháng 1 năm 1390, tại sông Hải Triều (khúc sông Luộc chảy qua huyện Phù Tiên, Hải Hưng và huyện Hưng Hà, Thái Bình ngày nay) , thuyền của vua Chiêm bị rơi vào trận phục kích của quân Việt. “Tướng Trần Khát Chân liền ra lệnh các cây hỏa súng nhất tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền, Bồng Nga chết tại trận”. ( Đại Việt sử kí toàn thư ). Quân Champa mất chủ tướng liền hỗn loạn bỏ chạy. Sau chiến công này, Trần Khát Chân được phong làm Long Tiệp Bổng thần Nội vệ Thượng tướng, tước Vũ tiết quan Nội hầu.

    Chiến thắng năm 1390 có thể coi là lần đầu tiên trên chiến trường nước ta hỏa khí được sử dụng đạt hiệu quả cao. Thứ “hỏa súng” được sử dụng trong trận này là một loại hỏa khí sơ khai có nòng bằng kim loại, nhồi thuốc súng cùng mảnh gang, sắt, mũi tên… để khi châm ngòi sẽ bắn vãi lửa và văng mảnh vào quân địch.
    Có nhiều cỡ từ loại to như súng đại bác sơ khai đến loại bé để một hoặc hai người cầm ( hand cannon)
    Hình dạng có lẽ như thế này :

    Hình dạng súng pháo thời phong kiến

    Trận “pháo kích” năm 1390 đã đánh dấu sự tiến bộ trong công nghệ chiến tranh của nước ta. Tuy vậy vẫn phải đến nửa cuối thế kỉ 15, dưới triều vua Lê Thánh Tông, hỏa khí mới trở thành chủ lực trong quân đội. Sức mạnh vượt trội của các loại súng, pháo thời đó đã góp phần đưa Đại Việt trở thành một trong những cường quốc số một Đông Nam Á.

    Đính kèm tranh vẽ Hồ Quý Ly và Hồ Nguyên Trừng. Liệu những khẩu pháo trên kia có phải là nguyên bản mà Hồ Nguyên Trừng sẽ dùng để cải tiến về sau này không?

    ho quy ly - ho nguyen trung
    Thời đại nhà Hồ được biết đến bởi Những cải cách mới và nhất là sự phát minh súng thần cơ (hỏa pháo cải tiến) và thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng)

    HìnhảnhViệtNam.com tổng hợp