Có thể nói bắt đầu từ những năm cuối thập niên 60’s cho đến năm 1975, nền kinh tế của Việt Nam Cộng Hòa phát triển rất mạnh mẽ và đã cho ra đời rất nhiều thương hiệu Việt vang danh khắp Châu Á . Cũng từ đây, Công ty Xe hơi Sài Gòn đã sản xuất hơn năm ngàn chiếc xe dân dụng La Dalat tại Việt Nam với mức độ nội địa hóa lên đến 40% , tuy thành công này ngắn ngủi nhưng cũng đã để lại cái gì đó đầy tiếc nuối sau biến cố 30/4/75.
Sự ra đời xe hơi “MADE IN VIETNAM”
Vào năm 1936, hãng chế tạo xe của Pháp Citroën đã thiết lập xưởng sản xuất đầu tiên ở Đông Dương với trụ sở ban đầu tại góc đường Lê Lợi – Nguyễn Huệ, ngày nay đã trở thành Caféteria Rex ở Sài Gòn. Sang đến thời Việt Nam Cộng hòa xưởng sản xuất được dời đi và đổi tên thành Công ty Xe hơi Citroën, tiếp đến là Công ty Xe hơi Saigon, sau Thế chiến thứ 2, để đáp ứng nhu cầu về phương tiện di chuyển của dân Pháp đương thời, hãng chế tạo xe Citroën đã tung ra thị trường chiếc xe 2CV. Sau đó hãng này tiếp tục cho ra đời loại xe Citroën Dyane 6 và Méhari lần lượt vào cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60. Xe Citroën La Dalat sản xuất ở Việt Nam là loại xe dựa trên kiểu Citroën Méhari, vào giữa thập niên 60, trước sức ép cạnh tranh từ các loại xe gắn máy 2 bánh: Honda, Suzuki, Yamaha, Kawasaki, Bridgestone…. cũng như các loại ô tô Toyota, Mazda, Mitsubishi, Nissan, Daihatsu… nhập khẩu từ Nhật Bản, hãng Citroën quyết định tung ra thị trường một loại xe thực dụng và rẻ tiền, loại xe mà các công ty sản xuất xe Nhật Bản không thể cạnh tranh được. Chiếc xe được đặt tên là La Dalat.
Xuất xưởng và đạt được thành công ngắn ngủi
Năm 1969, công ty Citroën mua bản quyền thiết kế của chiếc Baby Brousse từ công ty Ateliers et Forges de l’Ebrié, tiếp đó, các kỹ sư của chi nhánh Société Automobile d’Extrême-Orient tại Sài Gòn bắt tay vào sản xuất và lắp ráp ngay tại Việt Nam một chiếc xe tuy không sang trọng và mạnh như xe Mỹ, nhưng giá thành và chất lượng ăn đứt tất cả các loại xe của Nhật, và chiếc La Dalat ra đời với 4 kiểu dáng khác nhau có phần máy và hệ thống tay lái, bộ nhún, bộ thắng… nhập cảng từ Pháp, trong khi, các bộ phận như đèn, kén báo hiệu, ghế nệm, dàn đồng đóng bằng tôn, mui xe bằng lá thép uốn hoặc vải,… được thiết kế và sản xuất ngay tại Sài Gòn, tuy dựa theo thiết kế của chiếc Baby Brousse, nhưng La Dalat được cải tiến để có thể sản xuất hàng loạt mà không đến cần máy ép thép công nghiệp hạng nặng như Baby Brousse, lúc tung ra thị trường vào năm 1970, tỷ lệ bộ phận nhập cảng so với bộ phận nội địa là 75/25 và đến năm 1975 khi hãng Citroën ngừng hoạt động, tỷ lệ này là 60/40. Có tất cả là 4 kiểu La Dalat: loại 4 chỗ ngồi hoặc 2 chỗ ngồi với thùng chở hàng.
Ước tính từ năm 1970 cho đến 1975, Công ty Xe hơi Sài Gòn sản xuất hơn năm ngàn chiếc La Dalat, tức là hơn một ngàn chiếc mỗi năm! …
La Dalat được đánh giá là chiếc xe ít tốn xăng, dễ sửa chữa, dễ thay thế các bộ phận hỏng hóc, đặc biệt các bộ phận như cánh cửa, kính xe đều có thể “tự chế”, dễ làm hơn các loại xe Nhật và rẻ tiền. Các bộ phận rời được bán với giá phải chăng vì hoàn toàn được chế tạo tại Việt Nam, theo thiết kế, chiếc xe này sở hữu động cơ 4 thì, 602 phân khối, 2 xi-lanh đối ở 2 đầu nằm dẹp (flat twin), hộp số gồm 4 số tay, chuyền động ở trục bánh trước. Chiếc xe có chiều dài 3,5m; rộng 1,53m; cao 1,54m; nặng khoảng từ 480-590 kg tùy theo kiểu, tiền thân là gốc Pháp nhưng La Dalat đã để lại dấu ấn không hề nhỏ mang tên Việt Nam. Năm 1973, ngạc nhiên và hài lòng với thành công đáng ngờ của Công ty Xe hơi Sài Gòn, Citroën đã sang Việt Nam lấy 3 chiếc La Dalat về Pháp để mổ xẻ phân tích thiết kế, từ đó họ cho ra đời kiểu khung xe dễ sản xuất mà không đòi hỏi đầu tư nhiều công nghệ như chiếc Baby Brousse mui trần thế hệ thứ hai hay chiếc FAF.
Xe đò chạy than thường là xe Renaul, “nói nôm na là động cơ vẫn chẳng gì thay đổi, chỉ thay phần nhiên liệu : than củi được “hầm” cho nóng lên nhưng không cho cháy thành lửa ngọn mà bốc ra khí “ga” , dòng khí đốt này được dẫn tới bộ hòa khí nổ máy bình thường như xăng từ khi bỏ than củi vô thùng, nung nóng lên cho tới lúc bốc ra khí ga mất khoảng 1 giờ.
Hãy nhìn cái thùng đặt sau xe được làm bằng sắt, có đường kính 40 đến 50cm cao bằng 2 cái thùng “phuy”, treo đứng sau đuôi xe. Tên gọi là xe hỏa tiển, do đeo cái bình đốt than phía sau… Bên trong thùng này chứa than củi được đốt cho cháy trong điều kiện thiếu không khí để tạo ra một loại khí ga cháy được. khí này chạy qua 1 bầu lọc thô sơ rồi được hút vào xy lanh, sau khi xe đã nổ máy với xăng.
Để xe chạy liên tục do than phải cháy trong điều kiện thiếu không khí nên có xu hướng tắt dần. Sau một quãng đường, anh Lơ xe dùng một que sắt dài khều than, chọc tro…cho than cháy tiếp. Than vụn cùng tro rơi vãi dọc đường xe chạy… ai chạy xe máy mà bị nó tặng vài cục than đỏ rực trước mặt thì …phải biết..
Đây là công nghệ Wood Gas, hoặc Green Gas “thân thiện môi trường” chỉ có tàn phá rừng vì sử dụng cây gỗ làm than củi, đã phát triển ở Âu Châu thời thế chiến thứ hai
Tất nhiên xe chạy không mạnh tốc độ tối đa 30km/h nếu đường xá tốt, còn leo dốc thì cứ từ.. từ…. Loại xe chạy than đã giải quyết việc đi lại trên những cung đường khoảng 100km trong những năm 76 đến 82 Thế kỷ 20.
Bắt đầu tháng 12-1975, xăng dầu bắt đầu được cung cấp theo chế độ tem phiếu. Người dân phải “mang theo tờ khai gia đình, thẻ chủ quyền, thẻ căn cước, giấy giới thiệu của cơ quan hiện đang công tác, mang theo tiền lệ phí mỗi phiếu 0,04 đồng” để đăng ký lấy phiếu cung cấp xăng”.
Chính sách tập trung quản lý các nguồn nhiên liệu và độc quyền xuất nhập khẩu vào tay nhà nước đã làm cho tình trạng khan hiếm xăng dầu trở nên nghiêm trọng. Từ năm 1976, một phần xe cộ bắt đầu bị xếp xó vì không có nhiên liệu hoặc không có phụ tùng thay thế.
Những nhà trí thức lúc đó đã hướng dẫn áp dụng nhiều sáng kiến có giá trị trong sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân”. Sáng kiến đáng chú ý nhất là việc “độ chế thành công” xe ô tô chạy bằng than và củi: “Bộ phận lò hơi” của xe ô tô chạy than củi có thể sử dụng cho các loại máy bơm nước, máy tàu, máy điện
Cùng với chính sách cải tạo trong lĩnh vực kinh doanh vận tải, sự khan hiếm nhiên liệu cũng làm thay đổi địa vị con người. Hình ảnh hành khách được các lơ xe đón tận nơi, nâng từng túi hành lý, đỡ lên những chiếc xe của các hãng xe đò tư nhân đã nhanh chóng biến mất.
Mỗi khi có việc đi xa, người dân phải xếp hàng từ nửa đêm ở bến xe, nhưngsáng ra cũng không chắc có thể mua được vé. Lên xe rồi còn phải chịu sự hành hạ của những chuyến xe già nua, cũ nát không có phụ tùng thay thế; đường sá xuống cấp không có kinh phí bảo trì. Vô phúc đi trên những chiếc xe “cải tiến thành công” từ chạy xăng sang chạy than, nếu may mắn tới đích, thì ngoại trừ hai con mắt, từ đầu đến chân của mọi hành khách đều bị bọc trong khói bụi.
Có bác nào còn giữ những chiếc TV này không nhi? Một thời với bao kỷ niệm đó nha và trong đó có một sự thật cho tới ngày nay nhiều người sau 75 vẫn còn bùi ngùi…. Vì những chiếc TV này mà sau năm 75 có nhiều gia đình phải “bối rối”. Chuyện là khi bộ đội vào Sài Gòn, họ thấy những nhà có TV và anten thì cho đấy là nơi thông tin của “ngụy” nên sẽ bị bắt bớ tra xét…chắc chắn các bạn trẻ sẽ không tin, hãy về hỏi những người lớn tuổi hen.
Lược trích từ Fage: Sài Gòn Xưa
Hồi ức chiếc TV
Khi ba mở ti vi trong thùng ra, anh em tôi hét lên vang xóm và lập tức trẻ con trong hẻm chạy đến ngay, bu đầy cửa cái và cửa sổ.
Đây là cái ti vi thứ hai của xóm mà ba tôi mua với giá 5.075 đồng tiền lúc đó, mua lại của một người quen đang cần tiền bán gấp. Trước đó, chỉ có nhà dượng Hai Mỹ, một ông chủ sự (trưởng phòng) tại Air VN làm việc ở sân bay Tân Sơn Nhất mới mua nổi.
Đến giờ, tôi vẫn nhớ những chương trình thật hay của Đài truyền hình Sài Gòn trong suốt tuổi thơ của mình. Đó là chương trình ca nhạc thiếu nhi Tuổi xanh của kịch sĩ Kiều Hạnh, chương trình Quê ngoại đậm đà tình quê hương của nhạc sĩ Bắc Sơn. Về ca nhạc có chương trình của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ với nhạc kịch Ả đào say, ban hợp ca Thăng Long với các ca khúc Ly rượu mừng, Ngựa phi đường xa… Cải lương thì ban Dạ Lý Hương, ban Thanh Minh – Thanh Nga… Xem qua đài Mỹ thì có các phim Wild wild west, Combat, Lạc trong không gian, Lỗ tai lừa… Thời sự chiến tranh hay các chương trình của người lớn thì lứa chúng tôi còn nhỏ nên không màng tới.
Sắm ti vi trở thành niềm mơ ước của nhiều gia đình miền Nam ..,“Máy truyền hình đã xuất hiện tại VN, lần đầu tiên, năm 1966. Một chiếc Denon, 12 inches, giá 16.500 đồng, 19 inches: 30.000 đồng… Mặc dù kỹ thuật còn lỉnh kỉnh, như: vô tuyến truyền hình (VTTH), chương trình cao su, hát nói nhiều hơn hình ảnh, ti vi – một danh từ mới – đã được “khán thính giả” VN chiếu cố kỹ. Nhà nhà đều có ti vi. Ai không có thì đi coi cọp. Ăng ten mọc như mắc cưởi, hướng loạn trên các mái nhà, nhất là ở các tỉnh. Chương trình được hâm mộ nhất là… cải lương và… đài Mỹ. Batman xuất hiện khắp hang cùng ngõ hẻm. Lúc đó điện còn yếu, mỗi nhà một survolteur cho ti vi”.
Phát sóng truyền hình từ máy bay đầu tiên tại Sài Gòn
Sau khi ông Diệm bị lật đổ, người Mỹ thiết lập hệ thống vô tuyến truyền hình cho quân đội của họ tại VN. Đồng thời họ giúp thành lập một đài truyền hình và đào tạo chuyên viên VN để tự điều hành các hoạt động, năm 1966, chính phủ VNCH khánh thành đài vô tuyến truyền hình đầu tiên, đồng thời thành lập Nha VTTH VN đặt tại Trung tâm điện ảnh. Nhiệm vụ của Nha là hằng ngày cung cấp các chương trình cho Đài VTTH Sài Gòn trên băng tần số 9, cần nhắc lại, trước đó, từ tháng 1.1966 đến tháng 12.1967, hệ thống VTTH Sài Gòn chỉ có một phim trường rất nhỏ tại Trung tâm điện ảnh số 15 Thi Sách, Sài Gòn. Trong thời gian này, các chương trình kể cả tin tức đều được thu vào băng từ (video tape) rồi được chuyển lên hai máy bay Super Constellation để phát theo hệ thống Flying station, vì thế hình ảnh thường bị rung, mờ, không rõ.
Buổi truyền hình đầu tiên phát vào ngày 29.1.1966. Trong buổi phát, máy bay vận tải Super Constellation bốn động cơ đặt tên là Ô-xanh 2 bay ở độ cao ổn định là 3.150 m. Mỗi tối máy bay này chở hàng tấn máy móc rời phi trường Tân Sơn Nhất lên tới độ cao nhất định tại một địa điểm phía đông nam Sài Gòn khoảng 32 km rồi từ đó bay theo một lộ trình không thay đổi, lặp lại mỗi đêm với tốc độ ổn định là 271 km/giờ. Máy bay bay suốt bốn giờ liên tục từ 19 giờ đến 23 giờ mới hạ cánh lại Tân Sơn Nhất. Từ 20 giờ máy bay phục vụ cho chương trình truyền hình thứ nhì loan tin và giải trí cho quân đội Mỹ đến 23 giờ. Trong máy bay có hai máy truyền hình mạnh 2.000 kW, hai máy thu hình và tiếng vào băng, hai hệ thống kiểm soát âm thanh, hai hệ thống vô tuyến điện ảnh dùng phim 16 ly. Các làn sóng điện đem theo hình ảnh và âm thanh có thể được tiếp nhận tới các nơi xa Sài Gòn như Campuchia (cách 120 km), Đà Nẵng (608 km), Cà Mau (206 km). Tuy nhiên Sài Gòn và tỉnh lân cận mới tiếp nhận hoàn hảo.
Vào khoảng cuối năm 1967, hệ thống này được mở rộng hơn, hai máy bay Super Constellation được thay bằng máy bay Blue Eagle. Đến tháng 3.1968, khi đài truyền hình mới đã được xây xong tại số 9 Hồng Thập Tự (nay là trụ sở Đài truyền hình TP.HCM) thì nhờ có trụ phát tuyến cao nên hình ảnh được rõ ràng, không còn mờ rung như khi phát hình bằng máy bay nữa. Từ đó các chương trình đầy đủ và phong phú hơn.
Đây là một trung tâm IBM ( International Business Machines), tức là tập đoàn máy tính điện tử quốc tế. Tập đoàn này đã thiết lập trong nền đệ nhị Cộng Hoà tại Sài Gòn 2 trung tâm điện toán lớn trong vùng Đông Nam Á vào thời đó.
Một được đặt trong Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và một đặt tại Bộ Giáo Dục, dùng trong việc chấm thi Tú Tài. Do đó các Tú Tài sau năm 1973 ở miền Nam VN, được mệnh danh là Tú Tài IBM. Cùng thời gian này tại Singapore chỉ có được một trung tâm IBM mà thôi!
Đây là hệ thống máy tính hiện đại nhất Đông Nam Á, nó quản lý tất cả nhân sự, quân trang, khí tài và vật liệu của 1,2 triệu quân Sài Gòn và bộ máy phục vụ chiến tranh.
Trong biến cố 30.4.1975, thì các dữ kiện quan trọng của trung tâm này được tháo gở và đem đi.
Cận kề ngày 30-4-1975, ông Chu Văn Hồ, lúc đó là đại tá làm việc ở Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn được lệnh đặt mìn để phá hủy Trung tâm Điện toán nhưng ông bất tuân và lệnh cho cấp dưới phải bảo vệ nó để chuyển giao cho chính quyền mới.
Nhóm biệt động vào tiếp quản Trung tâm Điện toán của BTTM quân đội Việt Nam Cộng hòa sáng 30-4-1975. Ảnh: http://phapluattp.vn
Đến năm 1996, Tập Đoàn IBM mới chánh thức trở lại VN và thiết lập một trung tâm mới ngày 5.2.2007 tại TP.HCM.
Chắc quý vị ai cũng biết ngày 1.11.1963, anh em nhà Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu bị đảo chính, phải chạy vào Nhà thờ Cha Tam trong Chợ Lớn tá túc, sau đó bị giết chết, và từ đây một sự kiện phát lộ một công trình đường hầm quy mô lớn dưới lòng đất ở Dinh Gia Long, có nhiều thông tin cho rằng đã nối thông tới Đại Thế Giới tại Chợ Lớn nay là Quận 5
1.Hầm bí mật gia đình
Dinh Gia Long rộng khoảng 2ha, ở trung tâm thành phố Sài Gòn, nằm giữa 4 con đường: Gia Long (trước), Lê Thánh Tôn (sau), Pasteur (bên phải) và Công Lý (bên trái), do Kiến trúc sư Pháp Alfres Foulhoux thiết kế, xây dựng từ năm 1885 đến năm 1890, kiến trúc đồ sộ và rất đẹp thời Pháp thuộc này lúc đầu dùng làm Bảo tàng Thương Mại, nhưng sau dành làm nhà ở cho Thống Đốc Nam Kỳ Hoefel ,khi dinh Độc Lập bị hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom hư hại nặng ngày 27.2.1962 … Ngô Đình Diệm và vợ chồng Ngô Đình Nhu dọn sang Dinh Gia Long ở tá túc, sao khi sửa xong Dinh Gia Long trở thành Dinh Tổng thống và dinh thất của gia đình họ Ngô tại Sài Gòn thời điểm đó ,năm 1962, trước đó nữa anh em nhà họ Ngô có biết rằng trước đó 17 năm, trong cuộc đảo chính 9/3/1945, quân đội Nhật đã vào dinh này bắt sống Thống đốc Nam kỳ Hoefel, theo sử sách trước đây của cụ Vương Hồng Sển thì thời đó dân Sài Gòn biết rất rõ, và cho rằng anh em nhà họ Ngô đem nhau vô Dinh Gia Long ở đã là một dấu hiệu không lành, theo tài liệu tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II, KTS Ngô Viết Thụ là người đã thiết kế xây dựng. Sau khi KTS Ngô Viết Thụ sang Mỹ, Kỹ sư Phan Đình Tăng- Giám đốc Nha Kiều lộ là người duy nhất được giao nhiệm vụ thi công, kiểm soát nghiên cứu lại đồ án và hoàn tất bản vẽ, hầm được nhà thầu Trương Đăng Khoa khởi công từ tháng 5.1962 và đến 30.10.1963 thì hoàn thiện với tổng kinh phí hơn 12 triệu đồng. Chi phí thi công cao hơn dự toán, do tường dày đến 1m hơn dự kiến 0,4 m, làm thêm cầu thang B, một hầm để máy phát điện, phòng truyền tin và một hầm nhỏ đựng các vật có mùi hôi hoặc cần được cất kín.
2.Bản vẽ
Bản vẽ thiết kế xây dựng đường hầm ,căn hầm này được xây dựng từ tháng 5/1962, hầm được đào sâu xuống mặt đất 4m, đúc bằng xi măng cốt sắt (170kg sắt/m3 bê tông), có tường dày đến 1m, từ trên xuống hầm theo 2 đường cầu thang A (hướng đường Nam Kỳ khởi nghĩa) và cầu thang B (hướng đường Pasteur), theo đường cầu thang A xuống gặp 2 phòng liền nhau: Phòng khách và phòng vệ sinh, theo đường cầu thang B xuống gặp phòng máy đèn. Từ phòng này đi xuống gặp ngay phòng của Ngô Đình Nhu và kế bên là phòng Ngô Đình Diệm với diện tích 17m2.
Theo ước tính, căn hầm bí mật của Ngô Đình Diệm được xây dựng với tổng kinh phí là 12.514.114 đồng, một khoản tiền khổng lồ thời đó, nóc hầm được ngụy trang bằng nhiều chậu cây cảnh cùng hệ thống điện thắp sáng, nước sạch và cống dẫn thải đầy đủ để cho hầm được hoạt động thông suốt, theo thiết kế, hầm có thể chịu được cuộc oanh tạc của các loại trọng pháo và bom 500kg, tổng diện tích mặt bằng hầm là 1.392,3 m2 (30,6m x 45,5m), ở hai đầu tòa nhà chính của dinh là hai cầu thang dẫn theo bậc tam cấp xuống tầng hầm, hầm được chia làm 6 phòng và thông với nhau qua một hành lang thông thoáng, bên dưới tùy từng đoạn được tráng xi măng hoặc lót gạch bình thường như trên sàn nhà, và lối thoát ra đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Pasteur bằng hai lô cốt nhỏ, toàn bộ hầm có 6 cửa ra vào phòng được làm bằng sắt tấm đúc nguyên khối, đóng mở bằng cách xoay một bánh lái như cửa tàu thủy, phía trong còn có chốt sắt thật lớn để cài khi có sự cố, để bảo đảm bí mật, các giấy tờ liên quan đến việc xây dựng hầm đều không dùng từ “hầm” mà chỉ ghi là “công tác xây cất ở Dinh Gia Long”, hầm có cầu thang thông lên ngay phòng làm việc và tiếp khách, nên khi đang ngủ hay đang ăn, chỉ sau 5 phút là Tổng thống đã xuống được hầm với đầy đủ hệ thống thông tin liên lạc kết nối với bên ngoài để nắm bắt tình hình, trong những tấm ảnh ad vừa up lên quý vị thấy phòng tiếp khách ở khu vực trung tâm đường hầm của Tổng thống Ngô Đình Diệm gồm 1 bộ trường kỷ, 1 chiếc bàn nhỏ và 1 chiếc ghế mây dành cho khách, cho đến khi thời Đệ Nhứt Cộng Hòa của ông Diệm – Nhu sụp đổ, các vật dụng tiện nghi trong hầm vẫn chưa được trang bị đầy đủ, một hệ thống quan trọng là máy điều hoà không khí khi đó chưa được lắp, dù máy móc đã được nhập về Sở Nội dịch, đã có rất nhiều giai thoại ly kỳ xung quanh căn hầm bí mật dưới Dinh Gia Long, có lời đồn rằng căn hầm có nhiều đường thoát hiểm thông ra các địa điểm khác nhau trong thành phố, trên thực tế, phạm vi đường hầm mà ông Ngô Đình Diệm cho xây dựng chỉ là hầm cố thủ, giới hạn trong khuôn viên Dinh Gia Long, đề phòng những trường hợp bất trắc, đảo chính, chứ không phải đường thoát, có tư liệu còn khẳng định, công việc đào hầm được giao cho 200 tù binh chia thành 10 toán luân phiên đào, số tù binh này được đưa tới bằng xe bịt kín, bị bịt mắt cho tới khi vào điểm thi công, công việc đào hầm được thực hiện từ 12 giờ khuya để giữ bí mật tuyệt đối, rong bảng chiết tính chi phí xây dựng hầm, còn có số tiền trả nhân công là 150.000 $, cho thấy việc mô tả dùng tù binh xây hầm như các tài liệu nói trên là không có cơ sở.
—
3.Cuộc chạy trốn bất thành
Trong cuộc đảo chính ngày 1/11/1963, anh em Diệm – Nhu đã trú ẩn trong căn hầm này, 6h45 ngày 2/11/1963, Dinh Gia Long thất thủ, quân đảo chính đã tấn công vào hầm. Tại đây còn một lá cờ trắng, một số tài liệu viết tay ghi lại những cuộc điện đàm tại phòng của Ngô Đình Diệm, có thể trước khi đi ra vùng Chợ Lớn, Ngô Đình Diệm đã xuống hầm sử dụng hệ thống thông tin này để gọi các binh chủng và lực lượng bán quân sự đến tiếp cứu, vào thời điểm này, hai anh em họ Ngô đang ẩn náu tại nhà thờ Cha Tam, do có mật báo nên vài phút sau đó, quân đảo chính đã cho chiếc M.113 đến nhà thờ Cha Tam, Diệm – Nhu bị trói đưa lên xe và bị bắn chết.
Những hình ảnh và thông tin thú vị về xe xích lô máy Sài Gòn trước năm 1975
Một phương tiện di chuyển tương đối rẻ tiền tại Sài Gòn là xe xích-lô máy, thông thoáng dưới ánh nắng nóng nực của thành phố so với cung cách ngồi xe Taxi Renault 4CV không có máy điều hoà không khí, với tiếng nổ của động cơ 2 thì dùng xăng pha nhớt nhả khói – là hình ảnh đặc biệt khó quên của Sài Gòn, sau ngày thành phố được giải phóng vào tháng tư 1975, những chiếc xe xích-lô máy cũng biến mất như số phận của những chiếc xe Taxi Sài Gòn xưa.
Được sản xuất vào năm 1939 dựa trên kiểu xe mô-tô Peugeot 100cc Type 53, vì nhu cầu vận chuyển hàng hoá vào những con đường phố cổ chật hẹp mà xe ô-tô vận tải khó lưu thông và khối lương hàng hoá tương đối nhỏ, không cần đến những phương tiện vận tải lớn.
Xe mô-tô Peugeot 125cc kiểu 55 GLT 1932
Kiểu xe 3 bánh Triporteur Peugeot đầu tiên là kiểu 53 TN, vay mượn cổ máy 100cc 2-thì của xe Type 53 cùng nhiều cơ phận khác của xe nầy ngoại trừ bộ khung xe khác biệt. Động cơ được thiết kế đằng sau thùng chở hàng nên ngăn cản không khí làm mát máy, do đó trên cổ máy được thiết kế thêm một quạt máy nằm bên cạnh. Với sức mạnh 4 mã lực, hộp số gồm 3 số với cần sang số bên cạnh bình xăng, xe 3 bánh có thể chở 100 kilô hàng hoá với tốc độ tối đa 45 Km/giờ.
Kiểu xe 3 bánh Triporteur PeugeotKiểu xe Triporteur Peugeot 55TN sản xuất sau chiến tranh tại Pháp Quốc
Nhưng ưu điểm của xe Triporteur Peugeot so với những xe 3 bánh tải hàng hoá vào thời điểm ấy là bộ phận cơ khí tay lái điều khiển xe, được thừa hưởng từ thiết kế xe ô-tô Peugeot, bộ cơ khí tay lái điều khiển được đơn giản hoá với trục bánh trước độc lập rất tiện nghi và bẻ lái dể dàng. Về bộ khung trục bánh trước được thiết kế 2 vè chắn bùn bằng thép lá rập khuôn, ốp lấy thùng chở hàng hoá có cánh cửa mở về phía trước.
Triporteur Peugeot 55TNTriporteur Peugeot 55TN với 3 phiên bản khác nhau trong tài liệu của Peugeot
Sau Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945, việc sản xuất xe Triporteur Peugeot được khởi động lại một cách khiêm nhượng với kiểu xe biến cải đôi chút, kiểu xe 54 TN, nhưng phải chờ đến năm 1949 mới thấy xuất hiện kiểu xe với động cơ 125cc, Triporteur 55 TN.
Cổ máy 125cc vay mượn từ xe mô-tô Peugeot Type 55, với sức mạnh 4,5 mã lực cho phép xe 3 bánh tải một trọng lượng đến 150 Kg do đó bánh xe được nâng lên với kích cở 550×85 để chịu sức tải nặng và mầu sơn từ mầu xám xưa cũ chuyển sang mầu ngà.
Kiểu xe Triporteur Peugeot cuối cùng 57 TM năm 1954 Vài chi tiết kỹ thuật cơ khí: động cơ 125cc một xi-lanh 2-thì mát máy bằng quạt, hộp số gồm 3 số tay bên cạnh bình xăng, 4,5 mã lực với vòng quay máy 4.000 vòng/phút, bộ chế hoà khí Gurtner RN 17, bộ đánh lửa Volant SAFI SSY 40W, bánh xe 550×85, dài 2,35 mét, rộng 1,15 mét, cân nặng 120 Kilô.
Kiểu cuối cùng của loại xe Triporteur Peugeot là kiểu 57 TM được ra mắt vào cuộc triển lãm xe vào năm 1954 tại Pháp Quốc. Với động cơ vẫn là cổ máy 125cc nhưng bộ dàn xe với 2 vè chắn bùn phía trước được thiết kế bằng thép lá uốn thẳng góc, giúp cho việc chuyển vận hàng hoá dể dàng hơn, 2 đèn phía trước được thay bằng một đèn duy nhất lớn hơn và chiếu sáng hơn. Kiểu 57 TM được trình làng với 3 phiên bản: khung trơn không thùng chở hàng (57 TN), thùng chở hàng có cửa mở phía trước (57 TNO) hoặc thùng chứa hàng với nắp đậy (57 TNC).
Xe xích-lô máy tại Việt Nam
Tại Việt Nam sau khi quân đội Hoàng Gia Nhật Bản thua trận phải đầu hàng và rút về nước năm 1945, ở Sài Gòn quân đội Anh Quốc đến tiếp quản rồi giao lại cho chính quyền thuộc địa Pháp. Nhu cầu vận tải hàng hoá rất cần thiết nên đã nhập cảng những phương tiện chuyên chở mà chiếc xe 3 bánh Triporteur Peugeot đã được đưa vào Sài Gòn.
Từ chiếc xe 3 bánh chở hàng hoá, xe Triporteur Peugeot được cải tiến thành xe xích-lô máy
Đa số kiểu xe được sử dụng tại Sài Gòn là kiểu Triporteur Peugeot 55 TN với động cơ 125cc – thoạt đầu được sử dụng để vận tải hàng hoá nhưng sau đó được biến cải thành xe xích-lô máy. Trong thập niên 1930, Sài Gòn đã có những chiếc xích-lô đạp thay thế cho những phu xe kéo, qua thập niên 1940 đã có khoảng trên 6.500 xe xích-lô đạp nhưng số dân cư Sài Gòn ngày một tăng lên, xe xích lô đạp không đáp ứng lại nhu cầu vận chuyển vì lẽ dùng sức người, tốc độ chậm và quảng đường ngắn – trong khi xe Taxi đáp ứng lại nhu cầu về tốc độ và khoảng cách xa nhưng giá cả khá cao, khách đi xe xót ruột khi thấy đồng hồ taximètre cứ nhảy số tiền phải trả ngay cả khi xe dừng ở đèn lưu thông…
Xe xích-lô máy và Taxi Renault 4CV là 2 biểu tượng của Sài Gòn xưaXích-lô máy là một phương tiện di chuyễn nhanh chóng và mát mẽ dưới nắng Sài Gòn
Do đó từ một xe 3 bánh chở hàng hoá – gọi theo tiếng việt thời ấy là xe ba-gác máy (từ chử bagages = hành lý) – đã được cải tiến thành xe xích-lô máy. Rập theo cấu trúc của xích-lô đạp, người ta đặt lên khung xe một cái nôi bằng thép uốn với băng ghế nệm, dưới ghế nệm biến thành khoang chứa dụng cụ bảo trì xe cùng xăng nhớt, ruột lốp xe và tấm bạt để che phía trước hành khách khi trời mưa. Bên cạnh 2 hông ghế là bộ khung thép bọc mái che bằng vải dầu gấp xếp lại được, dùng để che nắng và mưa.
Hình ảnh quen thuộc xe xích-lô máy chạy quanh Công trường Diên Hồng xưa, trước trạm xe buýt Công Quản Chuyên Chở Công Cộng đối diện với Chợ Bến Thành
Trong cuối thập niên 1940 qua đầu thập niên 1950, có khoảng 1.800 xe xích-lô máy hoạt động quanh Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định và là biểu tượng duy nhất của thành phố Sài Gòn không có nơi nào khác.
Dòng xe xích-lô máy Sài Gòn biến mất dần sau ngày miền nam Việt Nam được giải phóng vào tháng tư 1975, xăng dầu vào lúc ấy trở thành khan hiếm và được xem là “vật tư chiến lược” của chính quyền mới, những xe xích-lô máy cũng cùng số phận với những xe Taxi Sài Gòn xưa.
Hình ảnh xe xích-lô máy Sài Gòn theo thời gian
Xích-lô máy và ông Pierre Coupeaud, ngưới sáng chế xe xích-lô đạp đầu tiên ở Phnom Penh trước nhà hàng khách sạn Continental Sài GònHai bà “đầm” trên một xe xích-lô máybiến cải từ xe Triporteur Peugeot 54 TNHai người lính gendarmes Pháp ở Sài GònMột thiếu nữ Pháp kiều tại Sài GònMột bến xe xích-lô máyChờ khách…Một lính Mỹ thích thú trên xe xích-lô máy Sài Gòn
Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp QuốcHình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp QuốcHình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp QuốcVài xe Triporteur Peugeot được tân trang và trưng bày trong các lể hộiMột người bán hạt dẻ rang nóng trên đường phố Paris
Nỏ Cổ Loa với lẫy nỏ được tán bằng đồng6 lưỡi kiếm của nghĩa quân Lam Sơn đào được ở Tân Kì-Nghệ An.
Theo phong tục Việt Nam “hồn” có ba phần: Tinh, Khí và Thần. Người làm kiếm, đao, hoạc gươm làm lễ cúng Thần và đọc chú đem Khí vào. Cái Khí đó được hấp thụ bởi từ người làm, từ Khí của nhân liệu, của củi hay nhân liệu dùng đốt, của đất và nước dùng, của cách Cúng và Kiến trong lúc làm. Vì thế “Binh Khí” là vật linh thiên. Vì thế trong kiếm, roi hai các binh khí của Việt Nam, binh khí pháp có cách thức Kiến Roi (thí dụ) để nhập Thần và Khí của Tiên Tổ trước khi tập. Đây là văn hóa tinh túy của Việt Nam theo phong tục Tứ Trụ Văn Hóa Việt (là Đình Đền Chùa Miếu).
Kiếm người Kinh thật ra giống Japanese Jokoto thời Cổ. Người Việt dùng một lưỡi từ thời Đông Sơn. Hơn 1000 năm sau người Việt dùng thêm kiếm của Nhật.
Vũ khí người Việt cổVũ khí người Việt cổVũ khí người Việt cổVũ khí người Việt cổVũ khí người Việt cổRìu đồng – văn hóa Đông SơnRìu đồng – văn hóa Đông SơnSúng cầm tay, 1 vũ khí thời vua Quang TrungVũ khí Đông Sơn: dao găm- đoản kiếmVũ khí người Việt cổMô hình nỏ thần An Dương VươngCọc gỗ Bạch Đằng – Hưng Đạo Đại Vương diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằngcâu liêm – vũ khí người Việt cổSúng lệnh thời Quang TrungKhiên, giáo chống Tàulưỡi qua là phát minh đặc trưng của người Việt và đc người TQ sử dụng rất nhiều trên chiến trườngKhuôn đúc mũi tên đồng tìm thấy trong hố khai quật Đền Thượng, Cổ LoaVũ khí bằng đồng trong văn hóa Đông SơnBao chân, bao tay bằng đồng giai đoạn Đông SơnNhững chiếc mũi tên đồng thường có cấu tạo độc đáo ba cạnh với khả năng sát thương rất lớn. Kẻ bị bắn trúng mũi tên này sẽ không dám rút mũi tên ra bởi chúng sẽ xé nát thịt, gây mất máu và dẫn đến tử vong nhanh.Các tấm che ngực có hình vuông hay hình chữ nhật, có hoa văn trang trí đúc nổi thời Hùng VươngKhẩu súng thần công của Việt Nam đúc năm 1659
Có thể nói xe đạp và xe gắn máy là phương tiện di chuyển chiếm đa số tại miền Nam trước 1975 và cho đến nay, xe gắn máy vẫn là phương tiện di chuyển được nhiều người sử dụng nhất . Bài này xin nhắc lại một số xe gắn máy đã hiện diện tại miền Nam trước 1975.
Nói đến xe gắn máy thì chắc là mọi người sống tại miền Nam trước đây đều biết đến xe Mobylette. Vì Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên hãng Motobécane của Pháp, chế tạo ra chiếc Mobylette, đương nhiên là hiện diện trên thị trường Việt Nam. Nhưng nhiều người biết đến tên Mobylette hơn là Motobécane. Xe Mobylette ở Việt Nam có loại Mobylette vàng và Mobylette xanh. Cả hai đều dùng động cơ 49,99cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái, nhưng Mobylette vàng thì nhỏ hơn, chỉ có ống nhún phía trước, còn Mobylette xanh thì lớn, nặng hơn có ống nhún ở cả bánh trước lẫn bánh sau nên đi êm hơn và giá cao hơn .
Một thời đáng nhớ – Xe gắn máy tại miền Nam trước 75
Có thể nói xe đạp và xe gắn máy là phương tiện di chuyển chiếm đa số tại miền Nam trước 1975 và cho đến nay, xe gắn máy vẫn là phương tiện di chuyển được nhiều người sử dụng nhất . Bài này xin nhắc lại một số xe gắn máy đã hiện diện tại miền Nam trước 1975.
Nói đến xe gắn máy thì chắc là mọi người sống tại miền Nam trước đây đều biết đến xe Mobylette. Vì Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên hãng Motobécane của Pháp, chế tạo ra chiếc Mobylette, đương nhiên là hiện diện trên thị trường Việt Nam. Nhưng nhiều người biết đến tên Mobylette hơn là Motobécane. Xe Mobylette ở Việt Nam có loại Mobylette vàng và Mobylette xanh. Cả hai đều dùng động cơ 49,99cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái, nhưng Mobylette vàng thì nhỏ hơn, chỉ có ống nhún phía trước, còn Mobylette xanh thì lớn, nặng hơn có ống nhún ở cả bánh trước lẫn bánh sau nên đi êm hơn và giá cao hơn .
Xe Mobylette ở Việt NamXe Mobylette trong thập niên 1950 thân là những ống tuýp hàn lại
Xe Mobylette xem chừng ra không thay đổi nhiều lắm qua nhiều năm. Xe Mobylette trong thập niên 1950 thân là những ống tuýp hàn lại. Qua thập niên thì thân làm bằng tôn ép. Màu sắc cũng ít thay đổi. Có lúc Mobylette vàng đổi thành Mobylette xám. Xe Mobylette được chế tạo để dễ sử dụng. Xe không cần sang số mà dùng embrayage automatique, vặn ga lớn thì xe chạy nhanh, vặn ga nhỏ lại thì xe chạy chậm và đứng lại. Khi muốn nổ máy thì chỉ cần đạp cho nhanh là xe nổ máy. Đạp hoài không nổ thì chỉ gần gạt môt cái chốt ở đĩa có dây couroie ăn vào động cơ để tách rời động cơ và bánh sau thì có thể đạp bộ về nhà.
Xe velosolexXe Velo Solex 1951
Nếu có khi nào trong lúc bạn đạp xe đạp rồi nghĩ bụng sao không gắn một cái động cơ nhỏ lên xe đạp để khỏi phải đạp thì ý nghĩ đó đã có người nghĩ đến và chế tạo ra chiếc Vélosolex. Xe Vélosolex là một
chiếc xe đạp có gắn động cơ lên bánh trước. Động cơ này làm lăn một cục đá tròn phía dưới . Khi người lái kéo cái cần trước mặt thì cục đá dở hổng lên khỏi bánh trước và có thể đạp như xe đạp. Khi đạp đến một tốc độ nào đó, hạ cần xuống thì tốc độ của xe làm cho động cơ nổ máy và động cơ kéo chiếc xe đi bằng bánh trước. Khi xe đã chạy ngon trớn thì người lái có thể rút chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe mà ngồi một cách thoải mái. Từ một ý kiến rất giản dị phát xuất giữa thế kỷ 20, xe Vélosolex vẫn còn tồn tại qua đến đầu thế kỷ 21.
Quảng cáo xe MobiletteHình xe Mobylette trên tem thư Cộng Hòa Pháp
Vì cách sử dụng giản dị, trọng lượng nhẹ nhàng nên các xe Mobylette, Vélosolex thông dụng trong giới sinh viên, học sinh và phái nữ.
Xe VespaXe Lambretta
Ở một hạng cao hơn là các xe scooter của Ý: Vespa, Lambretta. Các xe scooter này vì lòng máy lớn hơn 50 cc, nhỏ nhất là 125 cc hoặc 150 cc hoặc 200 cc tùy theo kiểu, nên không còn được xếp vào loại vélomoteur. Người sử dụng phải trên 18 tuổi và phải có bằng lái. Vì thế, những người đi xe Vespa, Lambretta thường là ở tuổi trung niên và có đời sống cũng tương đối khá vì xe scooter đắt hơn. Xe Vespa hàng chục năm nay không thay đổi mấy. Thân xe làm băng tôn ép. Có lẽ vì thế nên làm hình tròn như quả trứng để chịu lực tốt hơn. Máy được đặt ở chỗ phình bên phải, còn bên trái là ngăn để chứa đồ. Vì thế xe Vespa khi chạy hơi nghiêng về phía phải vì bên này nặng hơn. Xe Lambretta tuy trông bề ngoài giống Vespa nhưng cấu tạo lại khác. Khung xe bằng ống sắt hàn lại, máy đặt ở giữa khung và che bên ngoài bằng lớp vỏ sắt. Xe Lambretta hồi đâu thập niên 1960 có đường nét cong. Cuối thập niên 60, qua đầu thập niên 70 thì kiểu dáng thẳng, theo như mốt của thời đó, nên trông thanh nhã. Cả hai đều sang số bằng tay, bóp embrayage vào và vặn để đổi số.
Vespa Sprint 1974Xe Lambretta 1974
Từ cuối thập niên 1950, miền Nam cũng nhập cảng các xe gắn máy Đức như Goebel, Sachs, Puch. Các xe này đều có chung đặc điểm là có bình xăng đặt trước người lái, sang số bằng tay, có ống nhún cả trước lẫn sau, và máy đều là 50cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái. Mỗi xe lại có những đặc điểm riêng như máy xe Puch luôn luôn được bọc trong lớp vỏ bằng nhôm, có quạt chạy để làm mát. Như thế có lợi điểm là máy xe được làm mát ngay cả khi ngừng đèn đỏ. Vì là xe có sang số nên tuy chỉ có 50cc, xe gắn máy Đức có sức kéo mạnh hơn các xe Mobylette ở số 1, 2, nên cũng được dùng để kéo xe lôi, có thể kéo được thêm được bốn năm hành khách và hàng hóa phía sau. Hãng Puch và Sachs ngày nay vẫn còn tồn tại.
Xe GoebelXe PuchXe SachsPuchmopedGoebelXe 3 bánh gắn máy Sachs/Goebel
Vào khoảng 1965 thì thấy nhắc đến tên Honda, với một số kiểu xe mới lạ xuất hiện. Một số xe Honda đầu tiên do người Mỹ mua đem sang Việt Nam để đi làm việc rồi khi họ về nước thì để lại, lọt ra ngoài thị trường người Việt mua được. Một trong những công dụng của xe Honda là các phi công Mỹ dùng để di chuyển giữa chỗ đậu phi cơ và doanh trại. Từ doanh trại ra chỗ đậu thường xa, đi bộ cũng mất vài phút đến vài chục phút. Có xe Honda phóng thì thu ngắn thời gian nhất là khi có báo động thì phóng xe Honda ra máy bay nhanh hơn là chạy bộ. Xe Honda S90 có lẽ là chiếc được ưa chuộng nhất trong số các xe Honda trước 1965 vì kiểu đẹp và máy mạnh, tiếng nổ ròn. Các kiểu xe kia là C110, S65 (thường được gọi là S50), P50, C50. Xe P50 có cấu tạo đặc biệt với máy nằm ở sát bánh sau và truyền động thẳng vào bánh chứ không qua dây xích. Cách đặt máy này có lợi là khỏi bị mất lực khi truyền qua dây xích và giảm bớt số bộ phận nhưng có khuyết điểm là xe dễ bị mất thăng bằng vì đầu nhẹ, đuôi nặng. Lại thêm khi đi xuống ổ gà vì không có ống nhún nên sức va chạm có thể làm vỡ răng cưa ở vành bánh xe. Xe Honda dame C50 trước 1965 có chiếc đã có bộ đề bằng điện, khỏi cần đạp. Trong khi chiếc Honda dame nhập cảnh hàng loạt sau này phải đạp máy nổ bằng chân.
Honda Dame C50Honda P50 1967Honda PC50 1968
Chiếc xe Honda được chính thức nhập cảng để bán cho người tiêu thụ là xe Honda Dame năm 1965. Hãng Honda thì gọi là kiểu C50, nhưng mọi người thường gọi là Honda Dame. Có Honda Dame nhưng không ai gọi Honda Homme, mà gọi là Honda đàn ông. Những chiếc xe Honda Dame đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn thu hút được sự chú ý của người đi đường. Những ngày đầu tiên xe bán ra ngoài, trên các nẻo đường phố người ta nhìn thấy các chiếc xe Honda Dame màu đỏ hay xanh lá cây nhạt. Có người bị tắt máy xe, hý hoáy nhìn xuống chân vì chưa quen với cách sang số bằng chân. Sang lộn số có thể làm xe tắt máy. Khi thấy có một số người dắt xe Honda đi bên đường, có người nói hãng Motobécane của Mobilette thuê người dắt xe Honda Dame đi khắp các đường phố để người dân thấy xe Nhật dở, bị chết máy hoài, sợ không dám mua. Không biết là có đúng hay không. Một số người lúc đó nói là hàng Nhật không bền, chỉ vài năm là hỏng và tiên đoán rằng chừng năm mười nữa thì các xe gắn máy Pháp, Đức vẫn còn chạy, còn xe Nhật thì lúc
Honda SS90
đó vứt đi. Những người đó có lẽ căn cứ vào phẩm chất hàng hóa của Nhật trước thập niên 1960. Nhưng qua thập niên 1960, các hãng xe gắn máy Nhật đã trải qua những năm cạnh tranh khốc liệt trong nước. Vào đầu thập niên 1960, nhiều hãng xe gắn máy ào ạt ra đời tại Nhật, cuối cùng theo luật thư hùng đào thải chỉ có những hãng có khả năng cải tiến mới sống còn. Lúc xe Nhật sang Việt Nam cũng là lúc các hãng xe gắn máy Nhật bắt đầu tung ra thế giới với nhiều cải tiến làm cho phẩm chất xe Nhật vượt hẳn các xe Tây phương.
Honda SS50 69-72
Xe Honda Dame được làm để cho phái nữ đi nên dùng ambrayage tự động, khi sang số chân không cần phải bóp embrayage tay mà chỉ cần giảm ga. Các hiệu xe Suzuki Dame, Yamaha Dame cũng giống thế. Còn các xe gắn máy Nhật kiểu đàn ông được vẽ kiểu giống như những chiếc mô tô phân khối lớn ở chỗ không có pédale mà có cần đạp cho nổ máy, hai bên có thanh ngang để chân, bên phải là thắng chân, bên trái là cần sang số, embrayage tay trái, thắng trước tay phải, bình xăng phía trước. Các xe này còn giống mô tô ở chỗ hai bên bình xăng có hai miếng cao su để đầu gối áp vào cho êm. Điều đáng kể là yên xe thấp vừa với chiều cao người Á Châu khiến cho việc leo lên xe, chống xe dễ dàng hơn khi sử dụng các xe gắn máy Tây phương. Tay ga vặn nhẹ nhàng chứ không nặng như xe Tây phương. Máy đạp nhẹ nhàng và dễ nổ. Nói tóm lại, các nhà chế tạo Nhật khiến cho các chiếc xe gắn máy sử dụng dễ dàng, tiện nghi hơn khiến cho người dùng thấy rất thoải mái khi đi xe.
Sau chiếc xe Honda Dame là sự xuất hiện của Honda đàn ông 66 (SS50). SS là chữ viết tắt của Super Sport. Chiếc Honda 66 xuất hiện vào năm 1966, với màu đỏ hay đen, tay lái ngắn ngủn để người lái thu hẹp khoảng cách hai tay, giảm tiết diện cản gió, xe không có đèn signal, hộp số có năm số và có thể đạt đến tốc độ tối đa đáng nể là 90km/giờ đối với một chiếc xe máy 50 cc. Đó là một chiếc xe được vẽ kiểu với các đặc tính của xe đua. Tuy nhiên chiếc xe này không tiện dụng trong thành phố vì tay lái quá ngắn nên khó điều khiển. Sang năm 1967, Honda sửa lại kiểu xe cho tay lái rộng hơn, hộp số có năm số, sơn đen hoặc đỏ, có đèn signal, ống nhún trước có bọc cao su, tốc độ tối đa 80k/ giờ. Kiểu xe 67 (SS50E) đã đi vào lịch sử vì máy mạnh, chạy nhanh, được nhiều người ưa chuộng và có lẽ là được sử dụng nhiều nhất tại miền Nam cùng với xe Honda Dame. Về sau Honda có ra các kiểu khác nhưng Honda 67 vẫn được nhiều người biết đến nhất. Vì máy mạnh nên chiếc Honda 67 được dùng để kéo xe lôi thay cho các hiệu xe Đức trước đây.
Honda Dame C50Honda SS50 – 1967
Cả tứ đại gia của làng xe gắn máy Nhật, Honda, Yamaha, Suzuki, Kawasaki đều có mặt tại miền Nam lúc đó. Hãng Suzuki tung ra kiểu xe nam M15 và M12 và xe Suzuki Dame, M31. Hai kiểu xe nam đại khái giống nhau, dùng cùng một động cơ nhưng kiểu thể thao có ống pô vắt cao và vè trước ngắn để trông có vẻ thể thao hơn.
Hãng Yamaha có hai kiểu xe đàn ông, trong đó có kiểu YF5, và một kiểu Yamaha Dame. Xe Yamaha đàn ông kiểu đẹp, nhiều bộ phận xi bóng loáng. Yamaha Dame sơn màu xanh da trời, với đường cong dịu dàng, trông rất mỹ thuật. Các xe Yamaha xem ra không được ưa chuộng bằng Honda vì máy không mạnh bằng.
Yamaha YL1 1968Yamaha Dame
Xe Suzuki Dame và Yamaha Dame đèn trước thấp hơn xe Honda Dame, trông vẻ nhu mì thích hợp với các cô mặc áo dài.
Kawasaki là hãng nhỏ nhất trong các hãng xe Nhật lúc đó, chỉ đưa sang một kiểu xe đàn ông. Xe Kawasaki chạy tuy tốt nhưng bị chê là nặng và máy yếu. Xe Kawasaki đem sang Việt Nam là kiểu dùng sườn của xe 80 cc, thay vào đó bằng động cơ 50 cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng lái.
Kawasaki 1960’sBridgestone 1968
Hiệu xe ít người nhớ đến có lẽ là Bridgestone. Bridgestone là hãng chuyên chế tạo vỏ bánh xe nhưng lúc đó cũng có một phân bộ chuyên sản xuất xe mô tô để đua. Kiểu Bridgestone đem sang Việt Nam năm 1966 có máy 65 cc. Vì thế xe Bridgestone vọt rất mạnh. Đặc điểm của Bridgestone là hộp số có bốn số quay vòng giống như các xe đua, nghĩa là sang đến số bốn thì nhấn thêm sẽ trở về số một mà không phải trả số ngược lại. Xe Bridgestone chìm vào quên lãng của người Việt khi phân bộ xe mô tô của hãng đóng cửa năm 1967 vì lý do là nếu sản xuất xe đua thì các hãng xe gắn máy Nhật khác không muốn mua vỏ xe của hãng kình địch với mình trong các cuộc đua.
Không như các hãng xe châu Âu giữ các kiểu xe y nguyên nhiều năm, các hãng Nhật ào ạt tấn công thị trường Việt Nam với các kiểu xe mới ra mỗi năm. Qua 1968, Honda tung ra xe CL50. CL là chữ viết tắt của Scrambler. Đó là kiểu xe được chế tạo để chạy các đường đất lồi lõm nên chỉ có bốn số, xe kéo mạnh ở số một và số hai, nhưng tốc độ tối đa kém xe Honda 67. Ống pô vắt cao để khỏi va chạm vào mô đất hay ngập nước. Qua 1969, Honda tung ra kiểu SS50M. Cũng dùng cùng máy và sườn như xe Honda 67 nhưng bình xăng dài hơn cho có vẻ thể thao. Qua năm 1970, Honda đưa sang kiểu CD50. Xe này cũng dùng cùng loại sườn và động cơ như SS50 nhưng bình xăng và hộp đựng đồ phụ tùng vẽ kiểu khác nên trông bề ngoài khác hẳn. Xe được chế tạo để chạy trong thành phố nên chỉ có bốn số với các số đầu kéo mạnh, thích hợp với cách chạy xe trong thành phố phải luôn luôn dừng lại đèn đỏ rồi lại bắt đầu vọt lên. Cùng là kiểu SS50E, đến 1971, 1972, Honda tung ra kiểu xe với sơn đỏ metal và vè xi bóng, ghi đông cao kiểu sừng bò trông rất hấp dẫn. Honda thay đổi hình dáng bề ngoài thu hút thêm khách hàng mới. Năm 1969, Suzuki cũng tung ra kiểu xe mới AS50 trông rất thể thao và rất đẹp. Ngoài các kiểu xe Honda chính thức nhập cảng, trên đường phố Sài Gòn thỉnh thoảng xuất hiện một số kiểu xe Honda lạ như Honda Monkey, nhỏ xíu như xe con nít, hoặc Honda CT50, CT70, với chữ T là viết tắt của Trail, loại xe Honda dùng để đi dạo chơi ở đồng quê, trên các đường mòn nhưng tại Việt Nam trở thành phương tiện để đi học, đi làm tuốt luốt.
Trong tất cả các loại xe Nhật, chỉ có Honda là dùng loại động cơ bốn thì, với xăng và nhớt chứa riêng còn các hãng kia dùng loại động cơ hai thì, chạy xăng pha nhớt.
Với các đủ loại xe tung vào thị trường, đường phố miền Nam trở nên nhộn nhịp với các loại xe đủ màu sắc. Đường phố Sài Gòn náo nhiệt với các coureurs cúi rạp trên con ngựa sắt ra sức phóng, lạng, máy nổ ròn, đinh tai nhức óc. Đúng ra máy xe Honda chạy rất êm. Nhưng vì nhiều người đã tháo bỏ ốm tiêu hãm thanh gắn ở đầu ống khói nên máy nổ lớn. Ống này nhỏ như ống tiêu, với thân có đục nhiều lỗ, dài khoảng gang tay. Chỉ cần tháo con vít nhỏ ở đầu ống khói là kéo ông tiêu ra được. Lý do tháo ốm hãm thanh là vì người dùng thấy xe chạy vọt hơn.
Sài Gòn nhiều xe hơn và cũng nguy hiểm hơn vì các xe Nhật đều chạy nhanh, vọt mạnh. Vì thế, một số phụ huynh lo ngại không muốn mua cho con mình chiếc xe quá mạnh. Hãng Honda tung ra loại xe PC50, cũng dùng động cơ 50 cc nhưng không cần sang số, và không vọt mạnh như các loại xe có sang số. Tốc độ khi chạy nhanh cũng có thể đến 60 km/giờ. Xe PC50 là kiểu P50 cải tiến lại với động cơ đặt vào giữa cho xe được thăng bằng hơn và có nhún cả ở bánh trước lẫn bánh sau. Cách sử dụng xe PC50 cũng giản dị như xe Mobylette chỉ cần đạp nổ máy rồi vặn ga phóng đi.
Mini Cady 1969
Hãng Motobécane cũng tung ra kiểu xe Cady nhỏ nhắn thích hợp với giới học sinh. Cái tên Cady có lẽ từ chữ Cadet, cho biết đây là kiểu em út trong gia đình Motobécane. Tuy cũng dùng động cơ 50 cc nhưng xe chỉ chạy được tối đa 40km/giờ. Chạy chậm có vẻ là một khuyết điểm của xe cộ nhưng đây lại là ưu điểm vì nó là lý do để các bậc phụ huynh chọn mua xe cho con mình để được an tâm hơn. Với khuynh hướng design nhiều màu sắc vào đầu thập niên 1970, xe Cady lúc đầu sơn nâu, hay xám, về sau sơn các màu xanh đỏ vàng sặc sỡ. Cùng với sự xuất hiện của mini jupe, đường phố Sài Gòn thấy xuất hiện xe mini Cady với hai bánh xe nhỏ trông rất xinh xắn, đồng thời mini xe đạp cũng xuất hiện và các cô nữ sinh áo dài mini trông trẻ trung, tươi tắn tung tăng trên các loại xe mini đủ màu sắc.
Xa lộ Biên Hòa, ngày nay gọi là xa lộ Hà Nội, thời đó còn rất ít xe nên trở thành đường thử và đua xe gắn máy. Các loại xe gắn được đem ra chạy hết tốc độ vào giờ ít xe. Tuy không có tạp chí phê bình, điểm các loại xe gắn máy nhưng ưu khuyết điểm của các loại được truyền miệng rộng rãi. Các loại xe máy hai thì tuy có thể chạy nhanh nhưng khi chạy với tốc độ cao nhiều giờ thì máy bị yếu đi, tốc giảm đi. Chỉ trừ có xe Honda là được khen là càng nóng máy, càng chạy mạnh. Đúng ra chỉ có xe Honda sau 1965 mới chạy lâu không bị giảm tốc độ vì Honda cải tiến hệ thống phun nhớt, làm cho nhớt phun rất nhiều khiến cho khi máy nóng không bị sức ma sát làm giảm tốc độ. Còn các loại Honda S65, C110, tuy có thể chạy được đến tốc độ hơn 100km/giờ nhưng khi nóng máy thì cũng bị chậm lại.
Để tăng sức mạnh của xe, xi lanh được xoáy cho rộng thêm từ 50 cc thành ra 60 cc, 70 cc. Xe xoáy xi lanh chạy nhanh hơn, có thể đến hơn 100km/giờ nếu máy được chỉnh cho đúng.
Một trò chơi đánh cá thời đó của các yêng hùng xe gắn máy, gọi chệch từ chữ anh hùng vì đua xe là can đảm nhưng không phải là đáng khen, là lách dưới xe be. Xe be là xe kéo các xúc gỗ dài năm, bẩy mét. Một đầu khúc gỗ được cột vào xe vận tải phía trước, đầu phía sau gắn vào remorque sau, còn giữa xe vận tải và remorque sau không có gì ràng buộc. Chiều cao từ thân cây đến mặt đường chi hơn một mét. Các tay đua đánh cá xem ai dám lạng chui dưới gầm xe be từ bên này qua bên kia. Vì khoảng cách thấp nên không thể chạy thẳng đầu mà người lái phải lạng cho xe nghiêng đi thì mới đủ thấp mà chui qua. Nếu tính sai thời gian, người lạng có thể bị hai bánh sau chạy tới đụng và cán chết.
saigon70s
Xe gắn máy là phương tiện di chuyển, nhưng cũng là niềm say mê tốc độ của tuổi trẻ và sự hấp dẫn của màu sắc, kiểu dáng, tiếng nổ. Niềm say mê này đã ghi vào ký ức của nhiều người miền Nam lúc đó và tồn tại không phai nhạt với thời gian.
ovv’s 1966-Honda-CB150
Nó trở thành kỷ niệm đẹp mỗi khi nhớ lại giây phút dắt chiếc xe mới toanh đi về nhà và những ngày tháng rong ruổi trên những con ngựa sắt.
Máy bay đó có tên là “Tiền Phong 001” có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, tên là “Tiền Phong 001”, vì dự định sau đó sẽ chế tạo thêm Tiền Phong 002, Tiền Phong 003 và 004 v.v.
Kỹ sư trưởng của công trình này là ông Nguyễn Tú.
Máy bay dùng để huấn luyện căn bản các phi công Việt Nam, vì vậy loại máy bay này được chế tạo theo kiểu máy bay cánh thấp giống khu truc, máy bay có hai ghế ngồi gần nhau với hai cần điều khiển song hành và có khả năng nhào lộn nhẹ nhàng thích hợp cho một chiến đấu cơ căn bản.
Chuyến bay thử nghiệm được thực hiện vào ngày 01/7/1972 (hoặc 1973), phi công đầu tiên bay thử là ông Võ Xuân Lành và ông Nguyễn Tú, máy bay đã bay nhiều vòng trên bầu trời Sài Gòn.
Chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo tại Việt Nam, nó được sản xuất ở 3 căn cứ khác nhau và được ráp khâu cuối ở Tân Sơn Nhất.Buổi giới thiệu chiếc máy bay đầu tiên do Không quân Việt Nam chế tạo.
AI ĐÃ HỦY HOẠI CON ĐƯỜNG SẮT HUYỀN THOẠI KHÔNG CHỈ CỦA VIỆT NAM MÀ LÀ CỦA CHÂU Á VÀ CỦA THẾ GIỚI: CON ĐƯỜNG SẮT RĂNG CƯA THÁP CHÀM – ĐÀ LẠT?
Gọi là con đường huyền thoại vì đây là một trong hai tuyến đường sắt răng cưa leo núi của Thế giới: một của Việt nam và một của Thụy sĩ. Con đường của VIệt nam kỳ vĩ hơn vì nó vừa dài lại có độ độ dốc lớn hơn con đường của Thụy sĩ.( VN dài 84 km, trong đó có tới 43 km đường răng cưa; Thụy sĩ chỉ có gần 25 km ở đoạn vượt qua đèo Furka trên dãy Alpes)
Con đường sắt răng cưa nối liền Phan Rang – Đà Lạt được bắt đầu thi công vào năm 1908
( có tàii liệu nói sớm hơn vài năm) theo lệnh của Toàn quyền Paul Doumer. Sau nhiều năm gian khổ xây dựng, đến năm 1932 chính thức hoạt động.
Con đường sắt này một thời là cầu nối hữu ích và thơ mộng giữ miền biển Nam Trung bộ với thành phố du lịch Dalat trên cao nguyên Lâm viên.
Nhưng vì “ chiến sự ác liệt” nên đến năm 1972 con đường sắt huyền thoại này phải ngừng hoạt động!?
Sau khi “giải phóng miền nam”, lẽ ra người ta phải khôi phục lại con đường sắt đặc biệt quý giá này, thì vào năm 1986 Liên hiệp Đường sắt Việt nam đã cho tháo ray và tà vẹt để phục vụ cho việc sửa chữa đường sắt Thống nhất. Những đoạn đường ray răng cưa hiếm hoi và giá trị, cùng những cái gì gọi là sắt đều bị người ta bán làm sắt vụn dần dần từ năm 1980- 2004 thì hết sạch ( cả cây cầu đường sắt Đ’ran đẹp như trong tranh cũng bị tháo ra bán nốt!?). Cứ vậy mà từ một con đường sắt dài gần 100km, nay chỉ còn lại một phần ngắn ngủn là hoạt động, đó là đoạn từ Dalat đi Trại mát.
Câu chuyện đau buồn này chưa dừng lại ở đây. Sau khi tuyến đường sắt gần như bị khai tử, thì ngay sau đó Cục Đường sắt VN đã hạ bút ký bán lại cho công ty DFB của Thuy sĩ 7 đấu máy hơi nước + một số toa hạng nhất với cái giá rẻ mạt là 650 000 USD? Người ta gọi đây là chiến dịch “Back To Switzerland “. Chiến dịch kết thúc, những người Thụy sĩ khôn ngoan đã mang món hàng quá hời này về nước tu sửa lại. Rồi từ đó những đầu máy hơi nước độc đáo và hiếm hoi này ngày ngày rong ruổi vuợt dãy Alpes, hót bạc đổ vào túi các ông chủ của công ty DFB!?( 60 USD/vé). Trong khi đó ở VN, tại ga DL, chì còn lại một đầu máy hơi nước để phơi nắng mưa cùng tháng năm và là chỗ để cho thiên hạ thoải mái leo trèo lên để chụp hình kỷ niệm? Mấy toa tàu hạng bét được kéo bằng đầu máy chạy điện, ngày ngày lọc xọc đưa khách du lịch chạy đi chạy lại từ Dalat đi Trại Mát!?
Chiếc đầu máy hơi nước của Nhật Bản chế tạo ( không phải của Thụy sĩ hay Đức chế tạo ) được ga Dalat trưng bày ,ngày tháng nằm phơi nắng mưa và là chỗ cho du khách thoải mái leo lên chụp hình kỷ niệm?Một đoạn đường sắt leo nú : Đường răng cưa nằm giữa 2 đường sắt bình thường ). Xây dựng đường sắt kiểu này rất khó khăn và tốn kém.Đại úy Baudesson và đoàn tùy tùng lên cao nguyên Lâm Viên khảo sát địa hình cho tuyến đường sắt Phan Rang – Dalat.Nắm 1908 tuyến đường sắt chính thức được khởi công xây dựng. Vì địa hình đồi núi phức tạp, lắm dốc cao, lại phải xây dựng thêm đường răng cưa ở giữa 2 đường trơn, nên việc xây dựng tuyến đường này cực kỳ khó khăn.Năm 1932 toàn tuyến đường sắt dài gần 100 km chính thức hoàn thành và được đưa vào sử dung. Đây là tuyến đường sắt răng cưa dài nhất và độc đáo nhất kg chỉ của Việt Nam mà là của Thế giới.Độ dốc của nhiều đoạn trong tuyến đường này rất lớn ,lên tới 12 phần trăm.( độ dốc tuyến đường ở đèo Furka bên Thụy sĩ tối đa là 11,8 phần trăm ) Để vượt được độ dốc này, người Pháp đã cho nhập loại đầu máy HG 4/4 của Thụy Sĩ là loại tuy cổ nhưng lại có công suất lớn.( bên Thụy Sĩ, để vượt đèo Furka, người ta chỉ cần dùng loại đầu máy HG thôi )Vua Bảo Đại và Toàn Quyền Pháp Rene Robin khánh thành tuyến xe lửaNhững chuyến tàu thời hoàng kim hối hả đi về giữa Dalat và Phan rangHành khách trên chuyến xe lửa rất độc đáo này. Việc đi lại giữa Dalat cùng vùng cao nguyên với miền biển rất thuận tiện.Tàu đang qua cầu Đ’ Ran.Rau quả từ Dalat được đưa lên tàu chuyển về miền biển; ngược lại hải sản, vật liệu xây dựng …được chuyển lên cao nguyên. Vậy mà vì “chiến sự ác liệt ” , tuyến đường sắt thơ mộng và hữu ích này đã bị khai tử!?Sau khi tuyến đường sắt ngưng hoạt động, các đầu máy quý giá này ( được chế tạo tại Thụy Sĩ ) bị bỏ lăn lóc quanh khu vực ga Dalat.Rồi bị người ta chuyển lại bán cho Thụy Sĩ ( nơi trước kia chế tạo ra những đầu máy này ) với cái giá rẻ mạt.Những đầu máy đã được tập kết về Thụy Sĩ và được tu sửa lại rất hoành tráng!
Rồi rong ruổi trên đất Thụy Sĩ!?Các chuyến xe độc đáo chuẩn bị vượt đèo Furka ở Thụy sĩ. Tiếc thật!Rồi ngày ngày có vài toa hạng bét chạy lọc cọc chở khách Tây ưa của hiếm và những hành khách hoài cổ Việt Nam chạy đi, chạy lại giữa Dalat và Trại Mát.Hình ảnh nhà ga xe lửa Dalat.. Đậy là một nhà ga được xếp vào loại đẹp nhất Đông Nam Á . Nhà ga được thiết kế giống với hình dáng ngọn núi Lang Bian trên cao nguyên Lâm Viên, đồng thời mang cốt cách giống như các nhà ga ở miền Nam nước Pháp. Đây là kiệt tác của hai KTS Moncet và Reveron. Nhà ga này được xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938 thì hoàn thành.
Bổ sung từ chính tác giả:
Kính gửi : Việt Nam xưa và nay.
Tôi là Nguyễn Bảo Châu, người viết bài : Đường sắt răng cưa Phan Rang – đà lạt. Bài viết của tôi đã được nhiều người quan tâm .Trang ” Việt Nam xưa và nay ” cũng đưa lên trang wed .Tôi rất vui mừng . Nhưng thưa quý trang, trong bài viết của tôi có chút ít nhầm lẫn vế chiếc đầu máy hiện đang được đặt ở ga Dalat. Tôi nghĩ rằng ( nhiều người khác cũng vậy ) chiếc đầu máy đó là đầu máy răng cưa đươc chế tạo ở Thụy sĩ hoặc Đức mà ga Dalat để lại sau vụ bán mua giữa VN và Thụy Sỹ. Hóa ra lại không phải thế .Sau khi bán 7 đầu máy hơi nước leo núi quý giá cho Thụy Sỹ, đường sắt VN đã thế vào đó một đàu máy mua từ Trung Quốc có nguồn gốc ở Nhật Bản. Việc làm mập mờ này khiến bao người lầm tưởng là ĐSVN vẫn giữ lại được một đầu máy leo núi của TS?
Nguồn gốc của chiếc xe kéo cũng như quá trình cải tiến thành xe xích lô.
Vào đầu thế kỷ thứ 21 nầy, bất cứ người du khách nào đến Hà-Nội hay Sàigon lần đầu tiên đều bị ấn tượng bởi sự lưu thông dầy đặt trong trung tâm thành phố.
Thật là một cảnh tượng khó quên khi nhìn diễn cảnh những chiếc xe Honda, xe đạp qua lại không ngừng như những vạt sóng biển, bên cạnh những chiếc xe xích-lô và xe hơi. Trong hoàng cảnh này, khó mà tưởng tượng được vai trò đóng góp lớn lao của chiếc xe kéo – nay đã vào dĩ vãng – và kẻ nối nghiệp của nó là chiếc xe xích-lô trong sự văn minh hóa của nước Việt Nam.
Người ta thường cho rằng xe kéo đã ra mắt chào đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị của Nhật bổn, năm 1868 : khi những người lớn tuổi được người làm kéo đi như thế trong lúc cần di chuyển. Từ đó, dưới cái tên Rickshaw hay Rickish, nó trở thành một phương tiện lưu thông mà người thực dân Anh ở Hồng Kông rất thích và nó từ từ lan tràn khắp Đông Nam Á tới tận Ấn-Độ và vùng biển Ấn-Độ-Dương.
Người ta thường cho rằng xe kéo đã ra mắt chào đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị của Nhật bổnTừ xe kéo đến xe xích-lô
Ở Đông Dương, vài chiếc xe kéo được xuất hiện lần đầu tiên tại Hà-Nội năm 1883 do Ông Toàn Quyền Đệ Nhất Bonnal đã cho phép đem từ bên Nhật qua. Gần 15 năm sau Sài Gòn mới biết tới loại xe kéo nầy, ở đây phương tiện di chuyển duy nhất là chiếc xe ngựa kéo mà người Pháp gọi là Malabar hay Boîte d’allumettes.
Vào năm 1884, một nhà thầu Pháp cho chế tạo khoảng 50 chiếc xe kéo cho cả miền Bắc. Từ đó chiếc xe kéo đã từ từ trở thành một bộ mặt quen thuộc trong thành phố Hà-Nội. Nó xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi Âu Châu đầu tiên và một năm trước xe tramway kéo bằng ngựa. Liền sau đó, một nhân viên thuế vụ từ miền Nam tới đã nghĩ ra thành lập một hảng cho thuê xe kéo. Theo trí nhớ của các người xưa thì chuyện đó là một thành công rực rở : dù mướn giờ hay mướn ngày, cũng phải giữ chổ trước một ngày nếu muốn được chở đi.
Ngay cả sau Đệ Nhất Thế Chiến cũng chỉ có khoãng 30 chiếc xe kéo công cộng trong cả thành phố Hà-Nội. Chỉ có vài nhân viên Pháp và quan lớn của Hà-Nội mới có đủ phương tiện mua riêng một chiếc xe kéo. Đa số người Hà-Nội chỉ biết đi bộ -nghĩa là đi chân không- là phương tiện di chuyển tiện nhất. Lúc đó chiếc xe kéo được kéo bởi một người «cu-li» và đôi khi được thêm hai người khác đẩy. Nếu là quan lớn thì thường có người trẻ đi kế bên người phu kéo, tay cầm ống thuốc lào hoặc một khay trầu nếu người ngồi trên xe là phụ nữ.
Chiếc xe kéo đầu tiên có bánh xe bằng sắt, cho nên chạy không được yên lắm. Dù vậy phương tiện nầy biểu hiệu cho sự giàu có và uy quyền của chủ xe. Lúc nào cảnh người phu kéo ông chủ ngồi trên xe đi qua cũng gây ra sự hiếu kỳ cho đám đông. Vào thời đó, tất cả những gì do Tây đem tới đều được dân chúng cho là văn minh. Những cô thiếu nữ Hà-Nội không dám ngồi trên xe kéo vì sợ miệng đời chê là Me Tây, có nghĩa là lấy chồng Tây. Với sự tiến bộ, sau đó bánh xe bằng xắt được thay thế bằng bánh xe cao-su đặc, tiện nghi hơn cho người ngồi trên xe. Chỉ lúc bấy giờ những cô thiếu nữ Hà-Nội mới dám xài xe kéo với bánh xe bằng sắt, còn loại tân tiến với bánh xe bằng cao-su thì dành riêng cho người Việt lấy Tây. Và những xe kéo lỗi thời với bánh xe sắt đã từ từ bị đẩy ra vùng ngoại ô Hà-Nội. Ngay cả những xe kéo với bánh cao-su cũng chia ra làm hai loại, loại bình thường và loại của nhà hành OMIC. Loại nầy có chổ ngồi bằng aluminium trắng bóng và có nệm lò xo cũng được bọc vải trắng, dĩ nhiên đi xe loại nầy thì mắc tiền hơn là đi xe loại thường.
Nhiều năm sau Đệ Nhất Thế Chiến, mọi người đều ngạc nhiên khi thấy chiếc xe đạp –nhập từ Saint Etienne- lần đầu tiên trong trung tâm thành phố : Cái dụng cụ gì kỳ quá ? Không có ngưạ kéo cũng không cần cu-li đẩy ! Chỉ cần đạp vài cái là nó chạy một cách yên lặng không mệt nhọc. Có người lanh trí đã nghĩ ra cách gắn nó vào phía sau của chiếc xe kéo, thế là chiếc xe xích-lô đã ra đời : việc nầy không làm cho chiếc xe kéo biến liền, nhưng xe xích-lô đã nối nghiệp xe kéo, đóng vai trò quan trọng trong sự có mặt của văn minh.
Từ xe kéo đến xe xích-lôTừ xe kéo đến xe xích-lô
Tượng trưng cho một nền văn minh ngoại nhập, chiếc xe kéo cũng như kẻ nối nghiệp của nó là là xe xích-lô đều là sản phẩm của một xã hội dựa trên sự phân biệt chủng tộc và giai cấp. Cả hai loại xe đều tồn tại tới năm 1945, năm mà chánh phủ cách mạng miền Bắc cấm bỏ lối vận chuyển nầy vì coi đó là hình thức người bóc lột người của dân thuộc địa. Sau bao năm khói lửa, chiếc xe xích-lô xuất hiện trở lại trên thị trường nhưng nó đã bị chiếc xe hơi chiếm đi cái hình ảnh tiến bộ mà nó đã có lúc trước.
Tạm lánh khỏi những lớp sóng dồn của lịch sử ấy mà mạo muội mạn đàm tới góc độ nhỏ của văn hoá, cụ thể là ô tô, xe hơi, cỗ máy cơ khí xa lạ với người An Nam thời bấy giờ, nhưng là một phần của phương Tây hiện đại tới Việt Nam lần đầu tiên tại Nam Kỳ năm 1907. Chiếc xe thứ nhất xuất xưởng mang số 1 về tay một người Pháp. Vậy ai là người Việt Nam đầu tiên có xe hơi? Theo tư liệu do người pháp lưu giữ thì Người An Nam đầu tiên có xe hơi được ghi lại trong sử sách chính là Thầy Năm Tú, sở hữu chiếc xe số 2 vào Việt Nam, chỉ sau người Pháp. Ông Châu Văn Tú, có tên Tây Pierre Tú, biệt danh “Thầy Năm Tú”, gốc gác Mỹ Tho là người “An Nam” sắm xe hơi đầu tiên ở Nam Kỳ năm 1907.
Ông là người đầu tiên ở Mỹ Tho lập gánh hát cải lương mang tên “Ban hát Thầy Năm Tú – Mỹ Tho” một thời gây sôi nổi khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Giữa lúc đường phố Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ còn nhan nhản xe kéo tay, đào kép danh tiếng nay đã tìm lối “chơi sang” riêng cho mình, tiếp theo gương “thầy Năm Tú”, chiếc số 7 và số 8 về xứ “An Nam” là của ông Nguyễn Minh Tho ở Gò Công, số 10, số 11 và 12 là của ông Lê Phát Tân. Ông Tân là em ruột ông Lê Phát Đạt biệt danh “Huyện Sĩ”, ông ngoại của Nam Phương Hoàng hậu, vợ vua Bảo Đại. Thời đó, Báo Phụ Nữ Tân Văn số 207 ngày 6.7.1933 viết: “… Coi bộ trong ba người “An Nam” sắm xe hơi trước nhứt thì cũng đã thấy nhà giàu Nam Kỳ ta xài lớn. Xe mới có mà ông Tho mua một lần hai cái, ông Tân lại mua tới 3 cái một lần, xài lớn thiệt”.
Xe tay bên cạnh xe Tây ở Sài Gòn,đấy là những “anh Hai” chơi xe đầu tiên ở Nam Kỳ. Trung Kỳ có xe hơi năm 1913, người đầu tiên mua xe hơi đất Trung Kỳ là ông Nguyễn Văn Đương ở Thanh Hóa. Đây cũng là năm chiếc xe hơi đầu tiên xuất hiện tại Bắc Kỳ. Ông Bạch Thái Bưởi ở Hà Nội là người đầu tiên có xe hơi xứ Bắc, xe hơi làm quen với vựa lúa Đông Dương đầu tiên là hiệu Clément rồi mới tới các hãng: Peugeot, Comtal, Griffon, Cottereau, Bolide, Panhard, Aleyon, Darracq, Diérich, Richard, De Dion, Berliet, Foullaren, Saving, Zidel…Cho đến năm 1920 thì hãng Citroen mới biết xứ Nam Kỳ và theo một số tài liệu còn lưu giữ lại, “… Năm mới có xe hơi ở đất Nam Kỳ thì trọn năm đầu bán được lối 14 cái. Năm thứ nhì lối 60 cái. Năm thứ ba lối 30 cái, năm thứ tư khoảng 50 cái. Mấy năm đầu thì cũng không lên xuống gì mấy. Qua tới năm 1919 là lúc vừa xong cuộc Âu chiến lần thứ nhứt, thì số xe hơi nhập vào Sài Gòn bốc lên như lửa cháy. Đang ở số mấy chục, bỗng nhảy lên số mấy trăm. Năm 1920 tại Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ tính chung bán cũng được khoảng ba bốn trăm cái. Đến năm 1926, thì toàn cõi Đông Dương (Việt, Miên, Lào) cũng chưa tới một ngàn chiếc xe.”
Nói về thú chơi xe, vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn và cũng là của nước Việt Nam, tỏ ra “sành điệu” hơn cả, là một con rối về chính trị, nhưng Bảo Đại rất thành thạo các lĩnh vực ăn chơi, từ nhảy đầm, đánh gôn, đến sưu tầm ôtô, máy bay, du thuyền. Daniel Grandclément, tác giả cuốn Bảo Đại – Hay Những Ngày Cuối Cùng Của Vương Quốc An Nam hóm hỉnh so sánh sở thích của Vua Louis XVI nước Pháp với ông vua cuối cùng của triều Nguyễn: “Louis XVI thì mê các ổ khóa, còn Bảo Đại thì thích hí hoáy hàng giờ với động cơ ôtô”, bộ sưu tập ôtô của Bảo Đại thời đó toàn những xe đắt tiền, ấn tượng và hiện đại nhất: 1chiếc Mercedes lớn, nặng 4 tấn, có kính dày 3 cm, vỏ chống được đạn 8 ly của tiểu liên và súng máy; 4 chiếc Limouzin; 1 chiếc Citrôen động cơ bánh trước; những chiếc xe thể thao hiệu Ferrari hay Bentley. Ngoài ra ông còn là chủ sở hữu của nhiều máy bay và du thuyền.
Ông là người có năng khiếu, lái xe giỏi và nhanh, thoải mái, bình tĩnh mỗi khi tăng tốc độ, biết sử dụng tính năng của động cơ, không mất thời gian để gây ấn tượng như những tay chơi kiểu cách nhưng đôi khi cũng suýt gây tai nạn khi quành một chỗ rẽ.”
Trên đường phố “ngựa người, người ngựa”, những những phu xe oằn mình kéo xe tay, ông hoàng An Nam đã có Mercedes tung hoành, thế mới biết, chơi xe, sưu tập xe đâu chỉ là chuyện ở phương Tây mà đã nở rộ ở Việt Nam từ thời kỳ Pháp thuộc.