Category: Ẩm thực Việt

  • Nguồn gốc của nước mắm Việt

    Nước mắm là đặc sản của Việt Nam (hiện nay gọi là nước mắm truyền thống), trải qua chiều dài lịch sử có thể đã tồn tại từ trước thời Chúa Nguyễn. Lịch sử đó thế nào, xin nhường lại cho những nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực. 

    Sử ghi, đời Tiền Lê cách nay hơn ngàn năm đã phải cống nạp nước mắm cho nhà Tống. Thời đó Đại Cồ Việt chỉ kiểm soát tới châu Hoan, châu Ái (Thanh – Nghệ). Mắm có thể đã xuất hiện lúc đấy, nhưng mắm là chính, nước mắm là sản phẩm phụ, là thứ nước tươm ra từ làm mắm (cái). Nước mắm được gọi là gì vào thời đó, “lệ ngư” chăng? Với tôi vẫn còn là dấu hỏi.

    Nước mắm Phan Thiết 1935. Tranh của học sinh Trường Vẽ Gia Định, Monographie dessinée de l’Indochine, NXB Paul Geuthner
    Nước mắm Phan Thiết 1935. Tranh của học sinh Trường Vẽ Gia Định, Monographie dessinée de l’Indochine, NXB Paul Geuthner

     

    Gần đây một số bài báo cho rằng, ông Bát Xì Trần Gia Hòa ở Phan Thiết là ông tổ của nước mắm Việt Nam. Nói thế là lộng ngôn.

    Đầu thế kỷ 17, thừa sai người Ý, Cristoforo Borri, được phái đến An Nam truyền giáo và lưu lại xứ này sáu, bảy năm. Ông mô tả về nước mắm trong quyển “Xứ Đàng Trong năm 1621” (1) như sau:

     Thực ra người Đàng Trong ăn cá nhiều hơn ăn thịt. Họ chuyên chú đánh cá chủ yếu là vì họ rất ham thứ nước “sốt” gọi là balaciam làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão ra trong nước. Đây là một thứ nước cốt cay cay tựa như mù tạt (moutarde) của ta, nhà nào cũng dự trữ một lượng lớn đựng đầy trong chum, vại như tại nhiều nơi ở châu Âu, người ta dự trữ rượu. Thứ nước cá này dùng một mình thì không nuốt được, nhưng được dùng để gợi nên hương vị, kích thích tì vị để ăn cơm vốn nhạt nhẽo và không có mùi vị nếu không có thứ nước đó…

    Giữa thế kỷ 18, khi Đàng Ngoài “lấn đất” Đàng Trong, Lê Quý Đôn được cử làm Hiệp trấn xứ Thuận Hóa (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Năm 1776 ông ghi trong  “Phủ biên Tạp lục” rằng, nơi đây đã thu thuế nước mắm thay cho thuế thân.

    Rất tiếc cả hai ông Cristoforo Borri và Lê Quý Đôn đều không nói dân Đàng Trong thời ấy làm nước mắm thế nào. Tuy nhiên, chi tiết “thu thuế dân làm nước mắm” cho thấy, thời đó nước mắm được dùng khá phổ biến, dù chỉ sản xuất ở quy mô gia đình, chứ không phải là hàng tinh túy, quý hiếm đựng trong các bình sang trọng như ở La Mã, Hy Lạp…

    Năm 1931, J. Guillerm trong bài báo Kỹ nghệ nước mắm ở Đông Dương đăng trên tạp chí Các  Viện Pasteur Đông Dương đã điểm sơ qua về lịch sử nước mắm, nói khá kỹ về kỹ nghệ làm nước mắm dưới góc độ khoa học, kể cả việc buôn bán nước mắm ở Đông Dương, các trò gian lận, và biện pháp của chính quyền thuộc địa nhằm ngăn chặn nạn nước mắm giả.

    Ông Bát Xì khởi nghiệp nghề nước mắm ở Phan Thiết đầu thế kỷ 20. Nói ông có công giúp phát triển nghề nước mắm ở Phan Thiết thì được, nhưng nói Bát Xì là ông tổ nghề nước mắm, không phải lộng ngôn thì là gì?

    Các chúa Nguyễn hùng cứ phương Nam từ thế kỷ 17, như vậy nước mắm – hiểu theo nghĩa, cách làm và hương vị gần giống như nước mắm ngày nay, muộn nhất đã có từ thời Chúa Nguyễn, và ắt hẳn xuất xứ từ vùng Nam Trung Bộ (Bình Thuận – Quảng Trị), với nước mắm Mỹ Thủy (Quảng Trị), Cửa Đại, Cửa Khe (Quảng – Đà), xuống đến tận Phan Thiết. Nơi nào mới là nguồn cội của nước mắm ngày nay?

    Nước mắm là đặc sản của Việt Nam (hiện nay gọi là nước mắm truyền thống), trải qua chiều dài lịch sử có thể đã tồn tại từ trước thời Chúa Nguyễn. Lịch sử đó thế nào, xin nhường lại cho những nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực. Chỉ xin lưu ý giùm: Garum có thể là “fish sauce”, nhưng không phải là nước mắm.

    Chú thích:

    (1) “Xứ Đàng Trong năm 1621”, bản dịnh của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị.

    (2) L’ Industrie du Nuoc Mam en Indochine của J. Guillerm, tạp chí Các Viện Pasteur Đông Dương năm 1931, bản dịch của Công Khanh.

    Vũ Thế Thành (trích “Chuyện đời nước nắm”, tái bản 2021)

  • Phép lịch sự trên mâm cơm Việt

    Phép lịch sự trên mâm cơm Việt

    Vấn đề dùng đũa

    * Không và quá 3 lần khi đưa bát cơm lên miệng.
    * Không gắp thức ăn đưa thẳng vào miệng mà phải đặt vào bát riêng rồi mới ăn.
    * Không dùng thìa đũa cá nhân của mình quấy vào tô chung.
    * Không xới lộn đĩa thức ăn để chọn miếng ngon hơn.
    * Không cắm đũa dựng đứng vào bát cơm.
    * Không nhúng cả đầu đũa vào bát nước chấm.
    * Phải trở đầu đũa khi muốn tiếp thức ăn cho người khác.
    * Không được cắn răng vào đũa, thìa, miệng bát, không liếm đầu đũa
    * Không vừa cầm bát vừa cầm đũa chỉ 1 tay cũng như không được ngậm đũa để rảnh tay làm các việc khác chẳng hạn như múc canh, đôi đũa chưa dùng đến phải đặt vào mâm hoặc đĩa bàn nếu ăn trên bàn có dùng đĩa lót bát, hoặc đồ gác đũa.

    Phép lịch sự trên mâm cơm Việt

    Khi ngồi ăn

    – Ngồi ăn dù trên chiếu hay trên ghế đều không được rung đùi, rung đùi là tướng bần tiện của nam, dâm dục của nữ, và cực kỳ vô lễ.
    – Không ngồi quá sát mâm hay bàn ăn nhưng cũng không ngồi xa quá.
    – Ngồi trên ghế thì phải giữ thẳng lưng. Ngồi trên chiếu thì chuyển động lưng và tay nhưng không được nhấc mông.
    – Không để tay dưới bàn nhưng cũng không chống tay lên bàn mà bưng bát và cầm đũa, khi chưa bưng bát thì phần cổ tay đặt trên bàn nhẹ nhàng.
    – Không ngồi chống cằm trên bàn ăn.
    – Tuyệt đối tránh cơm đầy trong miệng mà nói.
    – Không chu mồm thổi thức ăn nóng mà múc chậm phần nguội hơn ở sát thành bát đĩa.
    – Muỗng kiểu múc canh phải đặt úp trong bát không được để ngửa.
    – khi chấm vào bát nước chấm, chỉ nhúng phần thức ăn, không nhúng đầu đũa vào bát chấm, miếng đã cắn dở không được chấm.
    – Khi nhai tối kỵ chép miệng.
    – Không tạo tiếng ồn khi ăn [ví dụ húp soàm soạp]
    – Không nói, không uống rượu, không húp canh khi miệng còn cơm.
    – Không gõ đũa bát thìa.

    an com ngay xua
    Cảnh một bữa ăn thời xưa ở một gia đình dư giả


    – Khi ăn món nước như canh, chè, xúp, cháo… nếu dọn bát nhỏ hay chén tiểu thì có thể bưng bát trên hai tay để uống nhưng không được kèm đũa thìa. Nếu dọn bát lớn hay đĩa sâu thì dùng thìa múc ăn, tới cạn thì có thể một tay hơi nghiêng bát đĩa sâu ra phía ngoài, một tay múc chứ không bưng tô to đĩa sâu lên húp như kiểu chén tiểu. Món canh có sợi rau nên dọn bát nhỏ, món gọn lòng thìa có thể dùng bát lớn, đĩa sâu.
    – Không ăn trước người lớn tuổi, chờ bề trên bưng bát lên mình mới được ăn. Nếu đi làm khách không gắp đồ ăn trước chủ nhà hay người chủ bữa cơm (trừ ra bạn được đề nghị gắp trước, trong một dịp nhất định).
    – Dù là trong khuôn khổ gia đình hay khi làm khách, tuyệt đối không chê khi món ăn chưa hợp khẩu vị mình. Điều này cực kỳ quan trọng vì không đơn thuần là phép lịch sự mà còn là một phần giáo dục nhân cách. Nếu không được dạy nghiêm túc, trẻ em từ chỗ phản ứng tự nhiên do khẩu vị sẽ tới chỗ tự cho mình quyền chê bai, phán xét, không trân trọng lao động của người khác. món không ngon với người này nhưng ngon với người khác và có được nhờ công sức của rất nhiều người.
    – Không gắp liên tục 1 món dù đó là món khoái khẩu của mình.
    – Phải ăn nếm trước rồi mới thêm muối, tiêu, ớt, chanh v.v…, tránh vừa ngồi vào ăn đã rắc đủ thứ gia vị phụ trội vào phần của mình.
    – Phải ăn hết thức ăn trong bát, không để sót hạt cơm nào.
    – Dọn mâm phải nhớ dọn âu nhỏ đựng xương, đầu tôm, hạt thóc hay sạn sót trong cơm…
    – Trẻ em quá nhỏ dọn mâm riêng và có người trông chừng để tránh gây lộn xộn bữa ăn của người già, tới 6 tuổi là ngồi cùng mâm với cả nhà được sau khi đã thành thục các quy tắc cơ bản.
    – Khi trẻ em muốn ăn món mà nó ở xa tầm gắp, phải nói người lớn lấy hộ chứ không được nhoài người trên mâm. Trong gia đình, khi trẻ em ngồi cùng mâm người lớn thì sắp cho bé một đĩa thức ăn nhỏ ngay bên cạnh với đồ ăn đã lóc xương và thái nhỏ. Với người cao tuổi cũng vậy, dọn riêng đĩa cá thịt đã lóc xương, thái nhỏ, hay ninh mềm hơn.
    – Không để các vật dụng cá nhân lên bàn ăn, trừ chiếc quạt giấy xếp có thể đặt dọc cạnh mép bàn. Ngày nay thì di động là vật bất lịch sự và mất vệ sinh.
    – Nhất thiết để phần người về muộn vào đĩa riêng, không khi nào để phần theo kiểu ăn dở còn lại trong đĩa.
    – Ăn từ tốn, không ăn hối hả, không vừa đi vừa nhai.
    – Khi ăn không được để thức ăn dính ra mép, ra tay hay vương vãi, đứng lên là khăn trải bàn vẫn sạch. Giặt thì giặt chứ dùng cả tuần khăn bàn vẫn trắng tinh không dính bẩn.
    – Nếu ăn gặp xương hoặc vật lạ trong thức ăn, cần từ từ lấy ra, không được nhè ra toàn bộ tại bàn.
    – Chỉ có người cao tuổi, 70 trở lên và trẻ nhỏ mà ợ khi ngồi ăn mới không bị coi là bất lịch sự.
    – Nếu bị cay thì xin phép ra ngoài hắt xỳ hơi, xỷ mũi.
    – Nhà có khách cần cẩn trọng khi nấu, chất cay để phụ trội bày thêm, tránh bất tiện cho khách khi họ không ăn được cay hay một vài gia vị đặc biệt.
    – Tránh va chạm tay với người cùng mâm, nếu thuận tay trái thì nói trước để chọn chỗ cho thuận tiện.
    – Phải chú ý tay áo khi gắp đồ ăn.
    – Nếu thấy thức ăn lớn nên xin cắt nhỏ để mọi người được thuận tiện
    – Khi đang ăn mà có việc riêng phải xin phép rồi mới rời mâm.
    – Nhất thiết nói cảm ơn sau bữa ăn dù là chỉ có hai vợ chồng nấu cho nhau. Đừng tiếc lời khen ngợi những món ngon.
    – Phong tục mời tùy theo gia đình, có gia đình thì người cao tuổi nhất nói đơn giản “các con ăn đi”, trẻ thì thưa “con xin phép”, nhưng có gia đình trẻ con phải mời hết lượt ông bà cha mẹ cô chú anh chị… Khi tới đâu thì quan sát gia chủ, không thể mang tập quán nhà mình vào bữa ăn nhà người ta.
    – Ăn xong cần tô son lại thì xin phép vào phòng vệ sinh, không tô son trên bàn ăn trước mặt người khác.
    – Ngồi đâu là theo sự xếp chỗ của chủ nhà, không tự ý ngồi vào bàn ăn khi chủ nhà chưa mời ngồi.
    – Ngày xưa, có lúc người giúp việc ăn cùng mâm với chủ nhà, khi gắp, chủ nhà để thế tay ngang nhưng người giúp việc thế tay úp. Nhìn là biết ngay.
    – Không được phép quá chén.
    – Nên thành thực nói trước về việc ăn kiêng, dị ứng [nếu có] khi được mời làm khách để tránh bất tiện cho chủ nhà.

  • Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Chuyên trang ẩm thực Việt Viet Street Food đã đăng tải những hình ảnh rất hấp dẫn kèm theo lời giới thiệu về các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Phở tất nhiên sẽ là món ăn đầu tiên được nhắc đến. Món ăn này xuất xứ từ miền Bắc Việt Nam, nhưng đã được đưa vào miền Nam và trở nên nổi tiếng toàn cầu.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Cơm tấm là món ăn đặc trưng của miền Nam, có thành phần chính là cơm nấu bằng hạt gạo vỡ ăn với chả, trứng, thịt, nước mắm và nhiều loại thức ăn khác kèm theo.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Xôi là món quà sáng tuyệt với nấu từ gạo nếp, có nhiều loại khác nhau tùy theo vùng miền. Trong ảnh là xôi ngô ngọt kiểu miền Bắc.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Xôi trắng ăn với thịt gà xé nhỏ.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Xôi ngọt phong cách miền Nam.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bánh mỳ cũng là một món ăn nổi tiếng thế giới của Việt Nam, trong đó ngon nhất phải kể đến bánh mỳ Sài Gòn. Nó gồm một chiếc bánh nhồi đủ thứ bên trong như giăm bông, pa tê, rau, dưa chua v..v.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bún là tên gọi chung của những món ăn có thành phần chính là sợi bún, làm bằng bột gạo. Có rất nhiều loại bún khác nhau, trong đó bún chả hay bún thịt nướng (trong ảnh) là một trong những loại được ưa thích nhất.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bún bò Huế có hương vị đậm đà và khá cay.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Bún riêu cũng rất phổ biến, với hương vị đặc trưng của thịt cua và nước dùng có vị chua.

    Các món ăn đường phố ngon nhất của Việt Nam

    Cùng là một món ăn, nhưng có hai phiên bản khác nhau ở hai miền, đó là bánh ướt miền Nam và bánh cuốn miền Bắc. Món ăn này làm từ bột gạo tráng mỏng, hấp lên và cuộn lại. Trong ảnh là bánh ướt miền Nam, thường được phục vụ trong các xe đẩy trên đường phố.

    Auto Draft

    Bánh cuốn miền Bắc khác ở chỗ có thêm nhân thịt lợn băm.

    Auto Draft

    Gỏi (nộm) bò là món ăn vặt được ưa thích, có thành phần chính là đu đủ thái sợi ngâm dấm cay, ăn cùng lạc, rau sống, thịt bò…

    Auto Draft

    Bánh canh là một loại mỳ sợi lớn, có xuất xứ từ miền Trung, ngày nay rất phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Trong ảnh là bánh canh cua kiểu Huế.

    Auto Draft

    Gỏi (nem) cuốn được đánh giá là 1 trong 50 món ăn ngon nhất thế giới. Nó gồm các thành phần khác nhau như bún, thịt lợn, tôm, rau, trứng… cuộn trong một tấm bánh tráng.

  • Chuyện ăn uống của các vua Nguyễn

    Chuyện ăn uống của các vua Nguyễn

    Tiếp theo bài viết đặc sản tiến Vua của người Việt xưa. Hình ảnh Việt Nam xin giới thiệu một bài viết rất hay trình bày những vấn đề về cung cách ăn uống của vua triều Nguyễn.

    Ông cố và ông nội tôi (cụ Nguyễn Đắc Tiêu) suốt đời ở trong ban Nhạc chánh của Nam triều. Đời bác tôi (ông Ngũ Vọng) , lại làm Thị vệ cho vua Khải Định và ông vua cuối cùng Bảo Đại. Lúc nhỏ tôi được gần ông nội tôi và bác tôi. Để giải buồn, ông tôi và bác tôi hay kể chuyện trong Nội cho tôi nghe. Những chuyện đó cứ được kể đi kể lại đã làm cho nhiều người khó chịu và chúng cũng đã hằn sâu trong tâm trí tôi. Không ngờ, nững nếp hằn đó đã trở thành những cơ sở đầu tiên cho cuộc đời nghiên cứu Huế của tôi sau này.

    Ẩm thực cung đình Huế
    Ẩm thực cung đình Huế

    Nhân nói chuyện ăn Tết năm nay, tôi xin trình bày đôi nét về chuyện ăn uống của các vua Nguyễn.

    Trong cung Nguyễn có hai bộ phận lo chuyện bếp núc.

    Bộ phận Lý Thiện : Người phục vụ trong bộ phận này phần lớn là dân làng Phước An (Thừa Thiên-Huế) phụ trách nấu nướng cỗ bàn cho những yến tiệc, kỵ giỗ của triều đình. Đầu đường Lê Huân phía cột cờ có một con đường nhỏ mang tên Lý Thiện. Đó là nơi ăn ở và làm việc của bộ phận Lý Thiện ngày xưa.

    Bộ phận Lý Thiện : Ở ngay trong Đại Nội (phía phải của Nhà hát cung đình Duyệt Thị Đường). Thượng Thiện hằng ngày đi chợ mua thực phẩm cho vua và gia đình nhà vua. Bộ phận này là bếp chính của vua.

    Mẹ tôi đã từng được bác Ngũ Vọng đưa vào xem bếp Thượng Thiện và được nghe lính Thượng Thiện giải thích cặn kẽ chuyện bếp núc của nhà vua.

    Bếp Thượng Thiện lo nấu nướng cho vua ăn có đến mấy chục người. Mỗi người phụ trách một việc như : vót đũa, vót tăm, quết thịt nạc, làm nem, làm chả, làm tré, người đi chợ, người nấu các món ăn (mỗi người chỉ nấu được một vài món / 35 món).

    Nấu cơm và thức ăn cho vua đều dùng nồi trách bằng đất nung sản xuất ở làng “Đột Đột” huyện Phong Điền. Đồ đất mới đưa vào Nội liền được thả vào một chảo nước chè xanh đậm đặc đang sôi sùng sục, ninh đến khi nào các đồ đất mới ấy được mạ một lớp men xanh mới vớt ra và cất vào kho để dùng dần. Mỗi bữa ăn dùng một cái om nấu cơm, vua ăn xong đập bể, bữa sau lại dùng cái khác.

    Đũa vua dùng vót từ một loại tre già, vót sao cho chiếc đũa có một đầu to, một đầu nhỏ. Vót xong dùng dăm tre chuốt cho thật bóng láng và bỏ vào nồi hấp rồi phơi khô trước khi nhập kho. Tăm vua dùng gọi là “tăm bông” cũng vót từ một thứ tre già. Chiếc tăm dài bằng cây bút bi. Đầu nhỏ giống đầu tăm thường dùng xỉa răng. Đầu lớn bằng mút đũa được người vót dùng sống rựa đập nhè nhẹ cho tuơ ra, cái xơ tre thật mịn mới được dùng. Cái đầu xơ loe ra giống như một cái bông vạn thọ, nhà Nguyễn kiêng chữ “hoa” nên gọi là “tăm bông”. Các cụ nhuộm răng đen, sau khi ăn cơm xong, xỉa răng uống nước cho sạch miệng rồi dùng đầu tăm bông chà sạch răng. Cuối cùng chấm đầu bông ấy vào thuốc rỏi (đen như mực) để rỏi lại hàm răng, giữ cho hàm răng luôn luôn bóng đẹp, nhất là phái nữ.

    Vua ăn cơm gọi là hoàng đế “ngự thiện” hoặc “Ngài ngự thiện”. Trừ vua Duy Tân và vua Bảo Đại “ngự thiện” với vợ con, các ông vua khác thường ngồi ăn cơm một mình. Khi cần có người nói chuyện cho vui trong khi ăn, vua cho hai trực thần (quan văn từ tứ phẩm, quan võ từ tam phẩm trở lên) vào ngồi gần hầu chuyện, gọi là “chầu thiện”. Vua ” ngự thiện” trên bàn hoặc trên sập, hai quan “chầu thiện” ngồi chênh chếch đối diện với một khoảng cách có thể đối thoại với nhau bằng giọng bình thường. Nếu có những vị quan nào được vua quý trọng, vua sẽ “ban thiện” bằng cách sai thị vệ dọn thêm một mâm riêng và mâm cơm được đặt ở một khoảnh cách nhất định để vị quan đó vừa ăn cơm vừa hầu chuyện.

    Trong lúc vua ăn, ban nhạc cung đình ngồi ở xa xa hòa nhạc giúp cho không khí bữa ăn bớt phần tẻ nhạt.

    Mỗi bữa “ngự thiện” có 35 món. Các món chính đựng trong vịm bịt giấy và buộc lạt cẩn thận. Tên thức ăn được viết trên một cái nhãn dán bên ngoài vịm. Vua thích món ăn nào thì bảo thị vệ mở món đó. Trước khi ăn, nhà vua thường ban bớt thức ăn cho các bà phi được nhà vua sủng ái nhất.

    Trong 35 món ngự thiện không phải món nào cũng thuộc loại cao lương mỹ vị mà thực ra có nhiều món rất bình dân như : dưa môn kho, ruốc sả, dưa cải, rau muống chấm nước tôm kho … Vua Duy Tân lúc nhỏ rất thích ăn cơm với cá bống kho khô, khi lên làm vua, bữa “ngự thiện” nào cũng có món ăn dân tộc ấy. Cơm “ngự thiện” đầy đủ như thế, nhưng nhiều khi nhà vua không thích ăn mà chỉ húp một chén cháo trắng rồi đứng dậy.

    Vua ăn xong, thị vệ bèn bưng vào một khay thức ăn tráng miệng gồm có các loại chè, bánh, kẹo, mứt, trái cây. Những món này được những bàn tay “cực kỳ tinh tế ” của các bà trong cung Nguyễn tự làm hay gửi mua. Bởi thế, dù không muốn ăn nhà vua cũng cố gắng nhón tay lấy một vài món bỏ vào miệng ăn để vừa lòng các bà. Các bà có món ăn được vua chọn lấy làm hãnh diện. Những món nhà vua không dùng hết, vua để riêng ban cho các quan. Vua cho ai món gì thì giao cho thị vệ sai lính thượng thiện bỏ vào quả sơn đỏ để vào siểng phủ khăn điều và che lọng xanh rước đến tận nhà người đó. Tại đây, chủ nhà phải có mặt để đón “ân vua, lộc nước”.

    Việc nấu nướng ăn uống của vua lâu ngày ảnh hưởng đến các quan và dần dần ảnh hưởng đến dân gian. Đến nay, triều Nguyễn đã chấm dứt gần nửa thế kỷ mà cái ảnh hưởng đó vẫn còn. Và nó đã được xem là di sản văn hóa vật chất của trung tâm văn hóa Huế.

    Nguyễn Đắc Xuân
    1994
  • Đặc sản tiến Vua của người Việt xưa

    Đặc sản tiến Vua của người Việt xưa

    Bạn có muốn biết Vua ăn gì không?

    Nền ẩm thực phong phú của Việt Nam từ thời xa xưa đã sản sinh ra hàng trăm, hàng ngàn món ăn đặc sắc. Một phần nhỏ trong số những món ăn đó hưởng vị trí trang trọng đặc biệt khi được đưa vào cung đình để cung tiến các bậc vua chúa. Tiêu chí lựa chọn là: có giá trị dinh dưỡng cao và hương vị tuyệt vời hiếm thấy.

    Dưới đây là một số đặc sản tiến vua nổi tiếng ở Việt Nam:

     Sá sùng

    Ít ai biết rằng, từ thời xưa, sá sùng được khai thác để làm cống vật cho vua, quan hay chỉ có những người giàu có mới đủ điều kiện sử dụng bởi công dụng đặc biệt trong việc tăng cường sinh lực.
    Tuy nhiên, loài vật thân mềm này chỉ sống tại những bãi cát ven biển trên đảo Quan Lạn và Minh Châu (Quảng Ninh) và chỉ được khai thác vào tháng 3 đến tháng 7.

    Khi còn tươi, sá sùng có độ dài khoảng 5 – 10cm. Cá biệt có con dài đến 15 – 40cm, nặng từ 1- 3kg. Khi bị bắt lên khỏi mặt biển, chúng thu mình lại, tròn như một quả bóng, cái miệng bé như lỗ van bơm hơi. Lớp da sá sùng thay đổi màu sắc tùy theo môi trường ở, nếu dùng tay sờ vào thấy mềm và mát.


    Sá sùng có hình dạng na ná như một con giun khổng lồ, sống trong những hang đá, khe cát. 

    Ngoài công dụng chữa bệnh, sá sùng còn được dùng để chế biến thuốc hay nấu nước phở cho ngọt, nấu nước dùng ngon cho nhiều món trong dịp Tết.
    Tuy nhiên, việc khai thác sá sùng không phải đơn giản, bởi chỉ những người phụ nữ mới có thể khai thác được thứ của hiếm này – chứ nam giới bắt sá sùng tự nhiên mất hút.
    Bên cạnh đó, cư dân biển chỉ có thể dùng mai để đào, chứ không dùng được các loại máy móc hỗ trợ nào. Có lẽ chính bởi nguồn khai thác không lớn và thủ công nên giá của một kg sá sùng dao động khoảng 3,5 – 4 triệu đồng/kg.

    Bánh Phu thê

    Là nơi phát tích của vương triều nhà Lý, Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) thường được gọi là đất vua. Đây cũng vùng đất của một đặc sản nổi tiếng, đã được đưa vào tận kinh đô Huế để tiến vua, đó là bánh phu thê. Đúng như tên gọi của mình (phu thê nghĩa là vợ chồng), món bánh này không lẻ chiếc mà đi theo cặp. Phía sau những lớp là chuối, chiếc bánh hiện ra với lớp vỏ làm bằng bột nếp óng ánh màu vàng tươi. Nhân bánh là đỗ xanh giã nhuyễn, nhào đường, có thể cho thêm dừa. Hương vị của bánh ngọt ngào như duyện vợ chồng.

    Sâm cầm hồ Tây

    Sâm cầm hồ Tây là món ăn nổi tiếng, đã đi vào câu ca dao “Dưa La, húng Láng, ngổ Đầm/Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây” của đất Thăng Long. Quan niệm dân gian cho rằng loài chim này di trú từ phương Bắc về phương Nam, chúng đào ăn nhân sâm trên đỉnh các núi cao ở Trung Quốc, Hàn Quốc nên được gọi là sâm cầm. Đó là lý do thịt Sâm cầm được cho là một món ăn đại bổ. Đây cũng là một món ăn khoái khẩu của vua Tự Đức. Tương truyền, làng Nghi Tàm bên hồ Tây được lệnh mỗi năm phải tiến vua 40-50 con chim Sâm cầm, nếu thiếu sẽ bị phạt nặng.

    Cá Anh vũ

     

    Nếu Sâm cầm là niềm tự hào của hồ Tây thì cá Anh vũ là thương hiệu bất hủ của ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ). Với những thớ thịt trắng, quánh và đặc biệt là khối sụn môi giòn sần sật, cá anh vũ được người sành ẩm thực cho là ngon hơn bất kỳ loài cá nào của sông nước. Vì vậy, từ xa xưa, cá anh vũ đã được dùng làm thức tiến ăn tiến vua, được các bộ chính sử ghi lại. Cũng giống như sâm cầm hồ Tây, ngày nay cá Anh vũ đã gần như biến mất tại nơi vùng nước gắn với danh tiếng của mình.

    Chè long nhãn hạt sen phố Hiến

    Sau mỗi bữa ăn đầy sơn hào hải vị, vua chúa ngày xưa tráng miệng bằng gì? Một trong những câu trả lời là chè long nhãn hạt sen phố Hiến (Hưng Yên). Nguyên liệu chính của món chè tiến vua này là những quả nhãn lồng phố Hiến, loại nhãn có hương vị thơm quý phái, cùi dầy, ăn giòn, ngọt hơn bất cứ các loại nhãn nào khác.

    Gà Đông Tảo

    Bên cạnh nhãn lồng, đất Hưng Yên còn có một đặc sản tiến vua đặc sắc khác là gà Đông Tảo. Là giống gà quý chỉ có ở huyện Khoái Châu, gà Đông Tảo còn được gọi là gà chân voi đôi chân to sần sùi như chân voi, thân hình chắc nịch. Giống gà này rất khó nuôi, đòi hỏi phải kỳ công chăm sóc và gà càng già càng quý, thịt ăn thường có mùi vị thơm ngon đặc trưng không lẫn với bất kỳ loại gà nào. Gà Đông Tảo có thể được nấu thành nhiều món, nhưng độc đáo nhất là món “vảy rồng hầm thuốc bắc” làm từ đôi chân to quá khổ của chúng.

    Chuối Ngự

    Tương truyền, vào thời Trần, từ phủ Thiên Trường đến ngoài thành Nam Định, nhiều vùng là quê hương, thái ấp của vua quan nhà Trần. Cảm kích trước tài năng và đức độ của các bậc trị nước, dân thành Nam đã trồng một sản vật quý để dâng vua, đó chính là chuối ngự. Vẫn còn được trồng chọ đến ngày nay, chuối Ngự cho quả rất nhỏ, khi chín có màu vàng ướm như tơ tằm, mùi thơm ngát, vị ngọt thanh tao đầy quyến rũ…

    Cốm làng Vòng

    Cốm làng Vòng, sản vật đặc trưng của đất Thăng Long đã nổi tiếng từ cách đây 1.000 năm, khi được đưa vào cung tiến vua các triều Lý. Ngày nay, cứ mỗi mùa thu món ăn chơi làm từ lúa non này lại theo các gánh hàng rong ruổi khắp các phố phường Hà Nội. Cốm Vòng thường được mua về ăn với chuối chín hoặc nấu chè cốm. Đây cũng là nguyên liệu chính của bánh cốm Hàng Than, một món ăn cũng rất đậm chất Hà Nội.

    Mắm tép Hà Yên

    Mắm tép Hà Yên (huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa) là một đặc sản quý và độc đáo ở vùng chiêm trũng xứ Thanh, thời xưa thường được dùng để tiến vua. Để làm loại mắm này, các chức sắc địa phải cử người đến tận khe Gia Giã, làng Cổ Đam (vùng Bỉm Sơn bây giờ) để đánh riêng một loại tép quý, là tép riu nhỏ, có mầu trong xanh. Khi nấu nước mắm cũng phải chọn người nấu giỏi nhất vùng. Khi hoàn thành mắm có ánh vàng, sóng sánh như mật ong.

    Rau muống Linh Chiểu

    Trắng nõn và mềm giòn như giá đỗ, hương vị hài hòa, rau muống Linh Chiểu (huyện Phúc Thọ, Hà Nội) thời xưa rất được các bậc vua chúa ưa thích. Bởi vậy, giống rau này còn có tên gọi khác là rau muống tiến vua. Để bảo đảm chất lượng, việc chăm sóc rau rất kỳ công và vất vả, đất trồng rau phải nằm sát sông, được hưởng mạch nước sủi trong vắt và phù sa sông Hồng bồi đắp. Do việc chăm sóc phức tạp, hiệu quả kinh tế không cao, ngày nay giống rau đặc sản này đang dần bị mai một.

    Tổ chim yến

    Được làm từ nước dãi của những con chim yến, yến sào (tổ chim yến) là một đặc sản có hương vị rất hấp dẫn và giá trị dinh dưỡng cao. Từ thời xưa, yến sào đã được khai thác tại các đảo Yến ở ngoài khơi tỉnh Khánh Hòa để cung tiến các vua chúa. Ngày nay, cơ hội thưởng thức sản vật này vẫn nằm ngoài khả năng của đa số người dân Việt Nam bởi giá thành của chúng rất cao, từ 50-60 triệu đồng/kg. Phần lớn yến sào khai thác được xuất khẩu để thu ngoại tệ.

    Nem Ninh Hòa Khánh Hòa

    Nem nướng Ninh Hòa được làm từ nguyên liệu thịt đùi heo còn nóng hôi hổi khi vừa xẻ thịt xong. Thịt được giã nhuyễn bằng máy và giã sơ lại bằng chày tay rồi ướp gia vị. Hỗn hợp thịt này được quấn quanh chiếc đũa nướng trên than hồng. Mùi thơm lừng tỏa ra nhờ các gia vị và hương liệu. Khi nem chín vàng, đầu bếp cắt thành nhiều miếng nhỏ và dài cho dễ gói.
    Nem nướng Ninh Hòa được làm từ nguyên liệu thịt đùi heo còn nóng hôi hổi khi vừa xẻ thịt xong. Ảnh: amthuckhanhhoa.vn.

    Nem nướng ăn kèm thường là bánh hỏi và bún. Cùng vài miếng bánh tráng cuốn tròn chiên giòn rụm. Rau ăn với nem nướng không thể thiếu xà lách, rau húng, chuối chát, hẹ lá và nhiều loại rau rừng chỉ có ở miền Trung.

    Đây là món ăn dân dã nhưng cũng không kém phần sang trọng. Vì thế, khiăn, người ta lấy mỗi thứ rau một vài lá rồi cuốn với bánh tráng và bánh hỏi, bánh tráng chiên giòn kẹp với một miếng nem nướng chấm với nước chấm. Nước chấm được chế biến rất đặc biệt gồm nước mắm nhỉ được pha loãng nêm gia vị và tỏi, ớt, đậu phộng rang giã nhuyễn, có vị hơi ngọt và sền sệt. Rau có đủ vị chua, chát, cay, đắng, thơm,… hòa với nước chấm hương vị là lạ, thơm và béo.

    Nem Ninh Hòa là đặc sản của tỉnh Khánh Hòa rất phổ biến ở vùng này. Nhiều người phải nếm thử nem nướng khi đặt chân đến Ninh Hòa hay Nha Trang.

    Nước mắm Nam Ô

    Làng Nam Ô (Liên Chiểu – Đà Nẵng) xưa nay đã lừng danh với thương hiệu nước mắm tiến vua. Loại nước mắm này được chế biến bằng một thứ nguyên liệu rất độc đáo – con cá cơm than, do đó hương vị mắm Nam Ô không thể lẫn lộn với các loại nước mắm khác. Nước mắm Nam Ô có màu vàng nâu trong suốt, vị mặn vừa phải, mùi không quá gắt, thích hợp làm sản phẩm tiến vua từ rất xa xưa.

    Nhãn lồng Hưng Yên

    Nhãn lồng Hưng Yên là loại nhãn nổi tiếng bậc nhất nước ta. Loại quả này có vỏ dày màu vàng sậm, nổi gai. Cùi nhãn lồng rất dày, thơm, ngọt sắc như đường phèn và hạt nhãn thì rất nhỏ. Nhãn lồng được trồng ở nhiều nơi trong tỉnh Hưng Yên, nhưng ngon nhất là nhãn trồng trong ĐÌnh Hiến.

    Vải thiều Thanh Hà

    Miền Bắc Việt Nam trồng nhiều vải, nhưng trong đó vải thiều Thanh Hà tỉnh Hải dương là nổi tiếng hơn cả với vị ngọt thơm, cùi dày, hạt rất nhỏ. Khi chín, cả cây vải chuyển màu đỏ tươi như đĩa xôi gấc đơm đầy nhìn rất đẹp mắt. Không chỉ là sản vật tiến vua nhiều đời, vải thiều Thanh Hà còn là sản vật cống tiến nước ngoài, tương truyền nàng Dương Quý Phi rất thích ăn loại vải thiều này.

    Hình Ảnh Việt Nam tổng hợp

  • CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ)

    CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ)

    Những ai đã từng sống qua cái thời bao cấp gian khó trước đây đều biết đến cái vật này, cái thời nhà nhà đều chưa có cái tủ lạnh như bây giờ. Ở thành phố, cái chạn được đóng bằng gỗ, nông thôn người ta làm bằng tre. Hình thức thì giống nhau, công dụng như nhau đều là nơi để gia đình cất giữ thức ăn, nó có ngăn riêng chống được Ruồi, muỗi, chuột, bọ.

    CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ) CÁI CHẠN (GẠC-MĂNG-RÊ)

    Ngày ấy nghèo khó nên cũng chả có thức ăn gì lưu cữu quá 2 ngày nên chả cần lạnh, chủ yếu là để tránh gián, chuột chui vào và con Mèo ko ăn vụng được. Nhiều nhà để tránh lũ Kiến leo lên người ta còn kê 4 cái chân chạn lên 4 cái bát mẻ, đổ ngập dầu luyn tránh Kiến. Tầng trên cùng thoáng mát bởi 3 phía được gắn lưới sắt mắt nhỏ, có cánh cửa với cái khóa gỗ xoay ngang đóng bằng đinh guốc hoặc cái khuy móc cửa được dùng để cất đồ ăn, liễn mỡ, hũ đường… tầng giữa úp bát đũa và có thể là những cái nồi nhỏ.Tầng dưới cùng là vài ba cái hũ dưa Cà hay chai nước mắm dở, túm hành tỏi khô, sấp lá bánh đa nem còn lại, lọ lạc sống và úp xoong nồi, chảo…gầm chạn cao là nơi con Chó thích chui vào nằm nhất cho nên sau này các Cụ hay ví các chàng trai đi ở rể nhà vợ như “Chó chui gầm chạn” là vậy !

    Cái Chạn đã gắn bó với người Việt Nam qua rất nhiều năm khốn khó, lũ trẻ con đi học, đi chơi về đến nhà là lục Chạn xem có gì ăn không, có khi chỉ là củ khoai, củ sắn hấp cơm còn để lại trong cái bát chiết yêu miệng loe cũng đủ ấm lòng. Cái Chạn có lọ muối vừng, có bát mắm dở, có tý Tép rang, vài quả Cà thâm đen khô khốc đủ để ăn nốt bát cơm nguội vét nồi. Có lần để cửa Chạn hé mở, có con chuột nhắt mò vào thế là mấy đứa trẻ sập cửa Chạn hò nhau bắt… Cái Chạn chứa đựng cả một thời khốn khó, hiếm có nhà nào có sơn hào hải vị chứa trong cái vật đơn sơ ấy. Nó bình dị nhưng là vật ko thể thiếu trong nhà cùng cái Bếp kiềng đun rơm củi, xoong nồi đen nhẻm, nấu cơm khói bay mù mịt thơm mùi rơm mới. Cái Chạn đi vào tiềm thức tuổi thơ, thân thuộc.

    Nhớ lắm !

    (st)

  • Người Việt ăn uống như thế nào và Cách Nấu Nướng khác với Người Trung Hoa ra sao ?

    Người Việt ăn uống như thế nào và Cách Nấu Nướng khác với Người Trung Hoa ra sao ?

    GS. Trần Văn Khê
    GS. Trần Văn Khê

    Thật ra, tôi rất ngại khi cầm viết ghi lại những câu hỏi đã trả lời cho những bạn bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi : Người Việt Nam ăn uống thế nào ? Hay là cách nấu ăn của người Việt có khác người Trung Quốc hay chăng ? Vì đó chỉ là những phần nhận xét đã được nhanh chóng đúc kết để đưa ra những câu giải đáp kịp thời chớ không phải do một sự sưu tầm có tính cách khoa học. Trong câu chuyện, một vài bạn trong báo Tuổi Trẻ thấy nhận sét sơ bộ của tôi có phần nào lý thú, nghe vui tai nên nhờ tôi ghi ra thành văn bản. Nể lời các bạn, tôi xin gởi đến các bạn đọc vài mẩu chuyện có thật về cách ăn và nấu ăn của người Việt chúng ta, và xin các tay nghề nấu ăn trong nước đừng cười tôi dốt hay nói chữ, dám múa búa trước cửa Lỗ Ban, đánh trống trước cửa nhà Sấm.

    Trong một buổi tiệc, một anh bạn Pháp hỏi tôi: – Chẳng biết người Pháp và người Việt Nam ăn uống khác nhau như thế nàỏ – Tôi rất ngại so sánh . . . tôi trả lời . . . vì so sánh là biết rõ rành mạch cả hai yếu tố để so sánh. Thỉnh thoảng tôi có ăn uống theo người Pháp nhưng làm sao biết cách ăn của người Pháp bằng người Pháp chính cống như anh. Tôi thì có thể nói qua cách ăn uống của người Việt chúng tôị Để cho anh dễ nhớ, tôi chỉ đưa ra ba cách nấu ăn của người Việt, rồi anh xem người Pháp có ăn như vậy chăng ? Người chúng tôi ăn toàn diện, ăn khoa học, ăn dân chủ.

    1- Ăn toàn diện: Chúng tôi không chỉ ăn bằng miệng, nếm bằng lưỡi, mà bằng ngũ quan. Trước hết ăn bằng con mắt, và do đó có nhiều món đem dọn lên, nhiều màu sắc chen nhau như món gỏi sứa chúng tôi chẳng hạn: có giá màu trắng, các loại rau thơm màu xanh, ớt màu đỏ, tép màu hồng, thịt luộc và sứa màu sữa đục, đậu phộng rang màu vàng nâu v. v. . . Có khi lại tạo ra hình con rồng, con phụng, trong những món ăn nấu đãi đám hỏi, đám cưới. Sau khi nhìn cái đẹp của món ăn, chúng tôi thưởng thức bằng mũi, mùi thơm của các loại rau thơm như húng quế, ngò, hoặc các mùi đặc biệt của nước mắm, của cà cuống. Răng và nứu đụng chạm với cái mềm của bún, cái dai của thịt luộc và sứa, cái giòn của đậu phộng rang để cho xúc cảm tham gia vào việc thưởng thức món ăn sau thị giác và khứu giác. Rồi lỗ tai nghe tiếng lốc cốc của đậu phộng rang, hay tiếng rào rào của bánh phồng tôm, hay tiếng bánh tráng nướng nghe rôm rốp. Sau cùng lưỡi mới nếm những vị khác nhau, hòa hợp trong món ăn: lạt, chua, mặn, ngọt, chát, the, cay v. v. Chúng tôi ăn uống bằng năm giác quan, về cái ăn như thế gọi là ăn toàn diện.

    2- Ăn khoa học : Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu, nhất là ở Nhật Bổn thường hay sắp các thức ăn theo “âm” và “dương” Nói một cách tổng quát thì những món nào mặn thuộc về dương, còn chua và ngọt thuộc về âm. Người Việt thường trộn mặn với ngọt làm nước mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, ướp thịt nướng, luôn luôn có pha một chút đường; mà ăn ngọt quá như chè, ăn dưa hấu hay uống nước dừa xiêm thì cho một chút muối cho âm dương tương xứng. Người Tây khi ăn bưởi thật chua lại cho thêm đường, đã âm lại thêm âm thì âm thịnh dương suy, không đúng theo khoa học ăn uống. Người Việt phần đông không nghiên cứu về thức ăn, nhưng theo truyền thống của cha ông để lại thành ra ăn uống rất khoa học. Người Việt chẳng những để ý đến quân bình âm dương giữa các thức ăn mà còn để ý đến quân bình âm dương giữa người ăn và thức ăn.

     

    Bát cháo hành
    Bát cháo hành

    Khi có người bị cảm, người nấu cháo hỏi: cảm lạnh (bị mắc mưa, đêm ra ngoài bị cảm sương) thì nấu cháo gừng vì cảm lạnh (âm) vào người phải đem gừng (dương) vào chế ngự. Nếu cảm nắng (bị mặt trời làm cho sốt) thì dương đã vào người phải nấu cháo hành (âm) . Lại nghĩ đến âm dương giữa người ăn và môi trường; mùa hè thời tiết có dương nhiều nên khi ăn có canh chua (âm) hoặc hải sâm (âm) ; mùa đông thời tiết có âm nhiều nên ăn thịt nướng. Ta có câu : “mùa hè ăn cá sông, mùa đông ăn cá biển” Quân bình trong âm dương còn thể hiện qua điếu thuốc lào, thuốc lá phơi và đóm lửa (dương) hít một hơi cho khói qua nước lã trong bình (âm) để hơi khói thuốc vào cơ thể, nguồn hút có cả dương và âm, không kể nước đã lọc bớt chất nicotine có hại cho buồng phổi. Chẳng những cân đối về âm dương mà còn hàn nhiệt nữa: thịt vịt hay thịt cá trê – hàn – thì chấm với nước mắm gừng – nhiệt. Cách ăn của người Việt Nam khoa học vì phù hợp với nguyên tắc âm dương tương xứng hành nhiệt điều hòa. Ngoài ra trong một món ăn thường đã có chất bột, chất thịt, chất rau làm cho sự tiêu hóa được dễ dàng.

    3- Ăn dân chủ : Trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng chúng tôi có thể những món chúng tôi thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của chúng tôi. Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của chúng tôi, chớ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổi. Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ. Anh bạn người Pháp thích chí cười to : ăn toàn diện, chúng tôi chưa nghĩ đến là về thính giác, ăn mà nghe tiếng động là vô phép nên ăn bớt ngon. Ăn khoa học, thì chúng tôi chỉ nghĩ đến calory mà không biết âm dương và hàn nhiệt. Còn ăn dân chủ, thì hoàn toàn thiếu sót vì đến nhà chúng tôi có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no cũng phải cố gắng ăn cho hết. Tôi xin hoàn toàn hoan nghinh cách ăn của người Việt Nam. Về cách ăn uống Việt Nam lại có thêm :

    4- Ăn cộng đồng : Thức ăn đầy bàn mà có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơi.

    5- Ăn lễ phép : Con lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhứt, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng.

    6- Ăn tế nhị : Ăn ớt cử cách cắn trái ớt, có khi phải ăn ớt xắt từng khoanh, ớt bằm, ớt làm tương. Nước chấm nhứt là ở miền Trung rất tinh tế ăn món chi phải có nước chấm đặc biệt : bánh bèo, bánh lá, bánh khoái đều có nước chấm khác.

    7- Ăn đa vị : Một miếng nem nướng đã có vị thịt, riềng, muối, tỏi, hành cuốn vào bánh tráng lạt lạt, có chút bún, rau thơm, ớt (cay), chuối sống (chát), khế (chua), tương (ngọt, mặn cay) có pha hột điều hay đậu phộng xay (béo). Ăn có năm vị chánh : ngọt, mặn, chua, cay, béo, có cả ngũ sắc đen (tương), đỏ (ớt), xanh (rau), vàng (khế chín), trắng (bánh tráng, bún). Ăn một miếng mà thấy 5 màu, lưỡi nếm 5 vị và có khi hơn thế nữa.

    Một lần khác, một anh bạn của tôi khai trương một tiệm ăn lớn tại Paris. Anh có mời đài phát thanh và báo chí đến để cho biết rằng tiệm của anh có cả thức ăn Trung Quốc và Việt Nam. Các phóng viên muốn biết Việt Nam và Trung Quốc nấu ăn có khác nhau như thế nàỏ Hai đầu bếp Việt Nam và Trung Quốc được mời ra để báo chí hỏi thì hai người đều khẳng định là cách nấu ăn rất khác, nhưng phải xuống bếp coi mới thấy. Nhà bếp nhỏ không chứa được mấy chục phóng viên, và ai cũng ngại hôi dầu hôi mỡ nên ông chủ tiệm nhờ tôi tìm câu trả lời cho các nhà báo. Tuy không phải là một chuyên gia về nghệ thuật nấu bếp, nhưng tôi cũng phải tìm câu trả lời thế nào để cho các nhà báo bằng lòng. Tôi mới nói rằng, tôi không đi vào chi tiết nhưng chỉ đưa ra ba điểm khác nhau trong cơ bản.

    1/- Cách dùng bột: Người Việt Nam thường dùng bột gạo trong khi người Trung Quốc thích dùng bột mì, cho nên Việt Nam có phở, hủ tiếu, bún thang, bún bò, bún riêu; mà người Trung Quốc thì chuyên về mì nước, mì khô, mì sợi nhỏ, mì sợi lớn, mì vịt tiềm. Người Việt làm bánh đùm, bánh xếp, bánh cuốn, bánh hỏi; người Trung Quốc thì bánh bao. Chả giò người Việt Nam cuốn bằng bánh tráng bột gạo; còn người Trung Quốc thì cuốn tép trong bánh bằng bột mì.

    2/- Nước chấm cơ bản của người Việt nam là nước mắm là bằng cá; còn nước chấm của người Trung Quốc là xì dầu làm bằng đậu nành.

    3/- Người Việt thì thường pha mặn ngọt; người Trung Quốc thích chua ngọt. Chỉ nói đại khái như vậy mà các phóng viên đã hài lòng về viết bài tường thuật nêu lên những điểm khác nhau ấy. Ông giám đốc tạp chí Đông Nam Á, sau lời nhận xét đó, cho phóng viên đến phỏng vấn tôi thêm và hỏi tôi có biết yếu tố nào khác đáng kể khi nói về cách nấu ăn của người Việt khác người Trung Quốc ở chỗ nào. Tôi trả lời cho phóng viên trong 40 phút. Hôm nay tôi chỉ tóm tắt cho các bạn những điểm chính sau đây.

    • Về rau : người Việt tuy có ăn rau luộc, hay xào; nhưng thích ăn rau sống, rau thơm, mà người Trung Quốc không ưa ăn rau sống, cải sống, giá sống.
    • Về cá : Người Trung Quốc biết kho, chưng, chiên như người Việt Nam. Nhưng người Trung Quốc có cá mặn không làm mắm như người Việt. Có rất nhiều cách làm mắm và ăn mắm: mắm thái, mắm nêm, mắm ruốc, mắm tôm v. v. . . Các nước Đông Nam Á cũng có làm mắm nhưng không có nước nào biết làm nhiều loại mắm như người Việt.
    • Về thịt : Người Trung Quốc biết quay, kho, luộc xào, hầm như người Việt, mà không biết làm nem, bì và các loại chả như chả lụa, chả quế v. v. . .
    • Người Trung Quốc ít có phối hợp nhiều vị trong một món ăn như người Việt. Khi chúng ta ăn một món ăn như nem nướng thì có biết bao nhiêu vị: lạt lạt của bánh tráng, bún, hơi mát mát ngọt ngọt như dưa leo, và đặc biệt của giá sống trộn với khế chua, chuối chát, ớt cay, đậu phộng cà bùi bùi, và có tương mặn và ngọt. Người Việt trong nghệ thuật nấu ăn rất thích lối đa vị và tất cả các vị ấy bổ sung cho nhau, tạo ra một vị tổng hợp rất phong phú. Cái ăn chiếm phần khá quan trọng trong đời sống của chúng ta.

    Khi dạy dỗ một trẻ em thì phải cho nó học ăn, học nói, học gói, học mở để biết ăn, nói với người ta. Ra đường phải biết “ăn bận” hay “ăn mặc” cho phải cách phải thế. Đối với mọi người không nên “ăn thua” làm chi cho bận lòng. Làm việc gì phải cẩn thận “ăn cây nào, rào cây nấy”. Trong việc tiêu tiền phải biết “liệu cơm, gắp mắm” và dẫu cho nghèo đi nữa “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Không nên ham ăn quá độ vì ” no mất ngon, giận mất khôn”. Ra làm ăn phải quyết tâm đừng ” cà lơ xích xụi” chạy theo ” ăn có” người khác. Phải biết ” ăn chịu” với người làm việc nghiêm túc thì công việc khỏi bị “ăn trớt”. Không nên “ăn gian, ăn lận” hay bỏ lỡ cơ hội thì “ăn năn” cũng muộn. Trong cuộc sống nên tìm việc làm hữu ích cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước đừng để mang tiếng “ăn hại” “ăn bám” người khác. Khi đàn chơi phải biết lên dây đàn cho” ăn” với giọng ca, hòa đàn cũng phải “ăn” với nhau, “ăn ý” , “ăn rơ” thì mới haỵ

    Các bạn thấy chăng ? Cái “ăn” cũng khá quan trọng nên mới lọt vào một số từ ngữ của tiếng nói Việt Nam. Tuy chúng ta không như người Trung Quốc ” dĩ thực vi tiên” nhưng phải có ăn mới làm nên việc vì có “thực mới vực được đạo”.

    GS. Trần Văn Khê

  • Quán ăn vỉa hè Sài Gòn xưa

    Quán ăn vỉa hè Sài Gòn xưa

    Văn hóa ẩm thực đường phố Sài Gòn xưa

    Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, Sài Gòn đón nhận nhiều dòng chảy văn hóa khác nhau, và cũng là nơi tụ hội nhiều tinh hoa ẩm thực nhất.

    Qua những khung ảnh xưa, chúng ta có thể cảm nhận nhiều sắc thái văn hóa khác nhau tại Sài Gòn. Tất cả tạo nên một bản sắc thú vị của ẩm thực Sài Gòn mà không nơi nào có được.

    Một xe mì tại vào những năm cuối thế kỷ thứ 18
    Một xe mì tại vào những năm cuối thế kỷ thứ 18
    Trong một trà quán của người Hoa ở Chợ Lớn những năm 1920
    Trong một trà quán của người Hoa ở Chợ Lớn những năm 1920
    Một xe mì của người Hoa gần kênh Tàu Hủ
    Một xe mì của người Hoa gần kênh Tàu Hủ
    Một hàng quán tạm bợ những năm 20 thế kỷ trước
    Một hàng quán tạm bợ những năm 20 thế kỷ trước
    Ngày đó việc trang trí, bày biện tiệm ăn rất đơn giản
    Ngày đó việc trang trí, bày biện tiệm ăn rất đơn giản
    Trong một tiệm ăn ở gần chợ Gò Vấp năm 1920
    Trong một tiệm ăn ở gần chợ Gò Vấp năm 1920
    Công chức Sài Gòn thời đó rất thích các tiệm mì của người Hoa
    Công chức Sài Gòn thời đó rất thích các tiệm mì của người Hoa
    Trong một quán cà phê ngó ra đường Catinat (Đồng Khởi) bây giờ. Ảnh chụp năm 1948
    Trong một quán cà phê ngó ra đường Catinat (Đồng Khởi) bây giờ. Ảnh chụp năm 1948
    Cà phê bên hồ bơi Tao Đàn năm 1948 (Cung Văn hóa Lao Động bây giờ)
    Cà phê bên hồ bơi Tao Đàn năm 1948 (Cung Văn hóa Lao Động bây giờ)
    Tiệm bánh mì Hòa Mã năm 1960 trên đường Phan Đình Phùng  (Nguyễn Đình Chiểu, quận 03 ngày nay). Sau tiệm dời về đường  Cao Thắng ở gần đó.
    Tiệm bánh mì Hòa Mã năm 1960 trên đường Phan Đình Phùng
    (Nguyễn Đình Chiểu, quận 03 ngày nay). Sau tiệm dời về đường
    Cao Thắng ở gần đó.
    Một tiệm mì trong Chợ Lớn năm 1961
    Một tiệm mì trong Chợ Lớn năm 1961
    Các món mì và hủ tiếu của người Hoa là một phần quan trọng trong đời sống ẩm thực Sài Gòn
    Các món mì và hủ tiếu của người Hoa là một phần quan trọng trong đời sống ẩm thực Sài Gòn
    Kem Bạch Đằng ở ngã tư Lê Lợi - Pasteur những năm 60
    Kem Bạch Đằng ở ngã tư Lê Lợi – Pasteur những năm 60
    Đường Tôn Thất Đạm (quận 01) tập trung rất nhiều quán ăn nổi tiếng
    Đường Tôn Thất Đạm (quận 01) tập trung rất nhiều quán ăn nổi tiếng
    Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh (ngày nay Saigon Tourist vẫn duy trì mô hình này)
    Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh (ngày nay Saigon Tourist vẫn duy trì mô hình này)
    Phở Con Voi - cũng là một quán nhậu khá nổi tiếng
    Phở Con Voi – cũng là một quán nhậu khá nổi tiếng
    Tiệm cà phê rang xay trên đường Hai Bà Trưng (quận 01)
    Tiệm cà phê rang xay trên đường Hai Bà Trưng (quận 01)
    Tiệm phở Đô Thành trên đường Võ Tánh (đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận ngày nay)
    Tiệm phở Đô Thành trên đường Võ Tánh (đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận ngày nay)
    Tiệm heo quay, vịt quay trên đường Hàm Nghi
    Tiệm heo quay, vịt quay trên đường Hàm Nghi
    Một sạp bún riêu trong chợ
    Một sạp bún riêu trong chợ
    Sạp cơm bên cạnh khu kios đường Nguyễn Huệ
    Sạp cơm bên cạnh khu kios đường Nguyễn Huệ
    Khu nhà hàng trên đường Hai Bà Trưng
    Khu nhà hàng trên đường Hai Bà Trưng
    Nhà hàng, vũ trường Maxim's lừng danh một thời trên đường Đồng Khởi
    Nhà hàng, vũ trường Maxim’s lừng danh một thời trên đường Đồng Khởi

    Theo thanhnien.com.vn

  • Ẩm thực dịp lễ Trung thu của các nước châu Á

    Ẩm thực dịp lễ Trung thu của các nước châu Á

    Tìm hiểu văn hóa ẩm thực dịp lễ Trung thu của các nước châu Á

    Dù có khác biệt về chúng tộc, văn hóa hay lịch sử phát triển, các quốc gia Châu Á đều có một điểm tương đồng lớn: ảnh hưởng sâu sắc của nền văn minh lúa nước. Theo tập quán trồng trọt này, tháng Tám hàng năm là thời điểm thu hoạch và cũng là lúc người dân được hưởng thụ, nghỉ ngơi sau một thời gian dài lao động vất vả. Tháng Tám cũng là lúc trăng tròn đẹp nhất, và với những điều kiện ấy, khoảng thời gian giữa tháng Tám âm lịch trở thành dịp lễ hội ca ngợi sức lao động, gia đình quanh quần bên nhau, vui chơi, ăn uống và thưởng ngoạn ánh trăng tuyệt đẹp.

    Ẩm thực lễ Trung thu của các nước châu Á

    Có thể xem Trung thu là dịp lễ quan trọng thứ hai sau Tết âm lịch ở Châu Á. Thông qua không gian lễ hội nói chung và ẩm thực ngày Trung thu nói riêng, những đặc trưng về văn hóa sinh hoạt, lao động, tín ngưỡng và quan điểm thẩm mỹ của từng dân tộc hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Dù ngày 15-8 âm lịch được coi là ngày lễ Trung thu chính thức (khi trăng tròn và đẹp nhất), nhưng tùy mỗi quốc gia, thời gian này có sự xê dịch. Ý nghĩa của lễ Trung thu ở Châu Á cũng rất đa dạng và tùy thuộc vào văn hóa từng nước. Đó có thể là ngày lễ trẻ em, ngày lễ ăn mừng mùa vụ, thậm chí gắn liền với những truyền thuyết huyền ảo về các mĩ nhân hay anh hùng lịch sử…

     Tết Trung Thu Nhật Bản

    Ở Nhật, ngày lễ Trung thu được gọi là Tsukimi hoặc Otsukimi, có nghĩa là “ngắm trăng”. Ra đời từ thời kì Heian với sự thịnh vương về kinh tế và phát triển rực rỡ về văn hóa tinh thần, lễ Tsukimi đã phản ánh phần nào quan điểm duy mĩ và gắn bó với thiên nhiên của xứ Phù Tang. Vào lễ Tsukimi, người Nhật chuẩn bị mâm cỗ thịnh soạn và tinh tế dâng lên trăng để thể hiện lòng thành kính với cái đẹp, và cũng dưới bóng trăng vàng ruộm của tháng Tám, gia đình bạn bè cùng quay quần bên nhau uống trà ăn bánh, chuyện tròn và ngâm thơ.

    Một mâm cỗ truyền thống cho lễ Tsukimi  , Ẩm thực lễ Trung thu của các nước châu Á
    Món ăn không thể thiếu trong lễ Tsukimi chính là Tsukimi dango – bánh nếp nhỏ xinh và tròn trịa tượng trưng cho vầng trăng trên trời. Tsukimi dango có công thức tương tự bánh trôi nước, nhưng khác biệt ở chỗ được nướng sơ qua cho nóng giòn. Khi ăn bánh, người ta thường thêm chút mật đường ngọt lịm lên trên. Bánh luôn được đặt trang trọng trên một chiếc kệ nhỏ ngay hiên nhà, thích hợp cho việc vừa ngắm trăng vừa nhâm nhi. Bên cạnh nhân vật chính là Tsukimi dango, lễ Trung Thu ở Nhật còn có sự góp mặt của khoai lang, hạt dẻ, các loại mì như soba, ramen…

    Ẩm thực lễ Trung thu của các nước châu Á

     Tết Trung Thu Hàn Quốc

    Tết Trung thu ở Hàn Quốc được biết đến nhiều hơn với tên gọi Lễ tạ ơn – Chuseok. Khác với ý nghĩa vinh danh cái đẹp và thần đạo của lễ Tsukimi, Chuseok là lời cảm tạ của người Hàn đến với ưu đãi của thiên nhiên, mùa màng bội thu, và đặc biệt là ơn đức của ông bà tổ tiên đời trước. Thể hiện rõ tinh thần hiếu đạo sâu sắc trong văn hóa truyền thống Hàn Quốc, lễ Chuseok kéo dài 3 ngày là khoảng thời gian mọi người nghỉ ngơi và quanh quần bên gia đình, dù con cái ở xa cũng phải quay về đoàn tụ cùng cha mẹ.

    Ẩm thực lễ Trung thu của các nước châu Á

    Chuseok diễn ra đúng vào dịp thu hoạch vụ mùa, vì thế nhiều loại thực phẩm đặc trưng của mùa lễ này được chế biến từ những sản vật vừa mới thu hoạch. Những cái tên tiêu biểu nhất gồm có bánh Songpyeon (bánh gạo hình bán nguyệt), Taro guk (canh khoai môn), Hwanyang jeok (rau và thịt xiên), Dakjjim (gà luộc). Hấp dẫn và rực rỡ nhất trong các món ăn chính là chiếc bánh Songpyeon. Bánh thơm mùi nếp mới hòa cùng hương lá thông, lại bùi bùi vị đậu, nổi bật với hình dáng vầng trăng khuyết cùng màu sắc tươi vui. Người Hàn quan niệm chiếc bánh đẹp là minh chứng cho sự khéo léo và tinh tế của người phụ nữ đã làm ra nó, những chiếc bánh bé xinh này còn giúp phụ nữ “ghi điểm” khéo tay trong mắt mọi người.

    Tết Trung Thu Trung Quốc và Việt Nam

    Tết Trung thu ở Trung Quốc và Việt Nam có sự tương đồng rất lớn do đặc điểm giao thoa văn hóa có từ lâu đời giữa hai quốc gia. Truyền thuyết về Trung thu ở hai nước cũng hấp dẫn và ảo diệu như nhau: người Trung Hoa kể nhau câu chuyện vua Đường Minh Hoàng được tiên dẫn đi ngắm trăng vào đúng ngày rằm, trong khi ở Việt Nam ta đã quen thuộc với câu chuyện chú Cuội, cây đa. Dù sao đi nữa, hoạt động văn hóa ẩm thực trong lễ Trung thu của cả hai nước đều xoay quanh việc thưởng bánh trung thu, uống trà trong khi trò chuyện về vẻ đẹp cùng truyền thuyết xoay quanh vầng trăng tháng Tám.

    Tết Trung Thu Trung Quốc và Việt Nam
    Món ăn chính trong lễ Trung thu ở hai nước là bánh nướng, riêng ở Việt Nam, mùa Trung thu còn có sự góp mặt của món bánh dẻo. Bánh nướng bắt nguồn từ Trung Quốc và tham gia vào một “phi vụ” đối quân sự nổi tiếng: Tướng Trương Sĩ Thành, người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại quân Nguyên, nhận thấy phong tục tặng bánh cho nhau vào Trung thu của nhân dân bèn làm một loại bánh có nhét một mảnh giấy bé ghi chữ “Bát nguyệt thập ngũ dạ sát Thát tử” (đêm 15 tháng 8 giết giặc Thát Đát – tức quân Nguyên). Dân chúng truyền tay nhau, hẹn nhau cùng giết giặc và giành chiến thắng. Bánh nướng hình tròn có ý nghĩa “đoàn tụ”, “đoàn viên” cũng là vì vậy.

    Tết Trung Thu Trung Quốc và Việt Nam

    Bên cạnh bánh nướng thừa hưởng từ đất nước láng giềng, người Việt đã sáng tạo ra bánh dẻo như một nét độc đáo của riêng mình. Bánh dẻo giản dị mà tinh tế với mùi hương hoa bưởi thoang thoảng của vùng quê Bắc Bộ, vị đỗ xanh nhẹ nhàng của buổi chớm thu, tạo ra mùi vị thanh tao khó quên. Cũng như bánh nướng vàng ươm màu nắng, bánh dẻo là sự kết tinh những gì tươi đẹp và thơm lành nhất của mùa lá rụng.

    Tết Trung Thu Trung Quốc và Việt Nam

    “Trung thu” – “ở giữa mùa thu” – là cái tên giản dị không chút màu mè. Song chứa trong từng chiếc bánh, từng chén trà hay từng món ăn của lễ hội đêm trăng này là tinh túy ẩm thực của từng quốc gia, là văn hóa trồng trọt và sinh hoạt của mỗi đất nước trên khắp Châu Á. Điểm qua vài món ăn ngày lễ Trung Thu của các vùng đất phương Đông, ta phần nào đã hiểu thêm về những đặc trưng thú vị, độc đáo của nền văn minh lúa nước lâu đời.

  • Người Sài Gòn xưa giải khát như thế nào?

    Người Sài Gòn xưa giải khát như thế nào?

    Khám phá nét ẩm thực Sài Gòn qua những bức ảnh xưa cũ

    Bạn đã bao giờ mường tượng ra 50, 70 năm trước người Sài Gòn giải khát thế nào chưa?

    Hơn 50 năm trước, người Sài Gòn chuộng giải khát với nước mía ép tay, nước ngọt Con Cọp lừng danh và các bịch nước đóng trong bao nylon…

    Qua những khung ảnh sinh động, cùng khám phá thêm nhiều điều thú vị về ẩm thực Sài Gòn xưa nhé – “Hòn ngọc Viễn Đông” – vào giữa thế kỷ 20.

    Người Sài Gòn xưa giải khát thế nào
    Những xe bán nước dạo trên đường phố Sài Gòn những năm 40
    Nụ cười hồn nhiên của cô bé bán nước bên bờ kênh
    Nụ cười hồn nhiên của cô bé bán nước bên bờ kênh
    Nước ngọt Con Cọp lừng danh một thời
    Nước ngọt Con Cọp lừng danh một thời
    Nhãn bia La De Trái thơm từng rất được yêu thích. Gọi là "La De Trái thơm" vì  trên nhãn là  hình đầu con cọp vàng ở giữa - hai bên có tràng hoa houblon (là loại hoa tạo nên vị  nhẫn đắng của bia). Vì tràng hoa có hình như trái thơm nên gọi là Le De Trái thơm luôn.
    Nhãn bia La De Trái thơm từng rất được yêu thích. Gọi là “La De Trái thơm” vì trên nhãn là
    hình đầu con cọp vàng ở giữa – hai bên có tràng hoa houblon (là loại hoa tạo nên vị
    nhẫn đắng của bia). Vì tràng hoa có hình như trái thơm nên gọi là Le De Trái thơm luôn.
    Nhãn bia 33, là tiền thân của bia 333 ngày nay
    Nhãn bia 33, là tiền thân của bia 333 ngày nay
    Nước ngọt Con Cọp, bia 33 hay bia La De (Larue) đều là sản phẩm của công ty BGI  (viết tắt của Brasseries & Glacières De L’Indochine)
    Nước ngọt Con Cọp, bia 33 hay bia La De (Larue) đều là sản phẩm của công ty BGI
    (viết tắt của Brasseries & Glacières De L’Indochine)
    Một đại lý bia và nước ngọt các loại vào những năm 60. Chữ "Lave Larue" ở góc trái cũng là lý do vì sao  bia Larue hay được gọi là bia "La De"
    Một đại lý bia và nước ngọt các loại vào những năm 60. Chữ “Lave Larue” ở góc trái cũng là lý do vì sao
    bia Larue hay được gọi là bia “La De”
    Năm 1960, hãng nước ngọt CoCa Cola chính thức có mặt ở Việt Nam
    Năm 1960, hãng nước ngọt CoCa Cola chính thức có mặt ở Việt Nam
    Cậu bé bán nước lấy khay nước ngọt làm ghế ngồi
    Cậu bé bán nước lấy khay nước ngọt làm ghế ngồi
    Nước cam không ga Bireley's cũng từng rất được yêu chuộng, đặc biệt là phái nữ
    Nước cam không ga Bireley’s cũng từng rất được yêu chuộng, đặc biệt là phái nữ
    Nước mía rất được yêu thích tại Sài Gòn
    Nước mía rất được yêu thích tại Sài Gòn
    Một xe nước mía với cách ép mía bằng tay truyền thống
    Một xe nước mía với cách ép mía bằng tay truyền thống
    Xe đẩy bán rau má, nước ngọt. Có thể thấy người bán đang chặt đá, kế bên là thanh gỗ để làm đá bào  (dành cho món xi rô đá bào mà học sinh rất yêu thích)
    Xe đẩy bán rau má, nước ngọt. Có thể thấy người bán đang chặt đá, kế bên là thanh gỗ để làm đá bào
    (dành cho món xi rô đá bào mà học sinh rất yêu thích)
    Xe chè của người Hoa bên góc đường. Trên xe có rất nhiều các họa tiết sơn thủy như thường thấy ở các xe mì, hủ tiếu
    Xe chè của người Hoa bên góc đường. Trên xe có rất nhiều các họa tiết sơn thủy
    như thường thấy ở các xe mì, hủ tiếu
    Một xe sinh tố trên đường Nguyễn Cư Trinh (quận 01)
    Một xe sinh tố trên đường Nguyễn Cư Trinh (quận 01)
    Quầy nước với những bịch nước ngọt được để sẵn trong bao nylon  (thường là loại không có ga)
    Quầy nước với những bịch nước ngọt được để sẵn trong bao nylon
    (thường là loại không có ga)
    Một xe đẩy bán nước bên cạnh một quầy cà phê nhỏ trên vỉa hè Sài Gòn
    Một xe đẩy bán nước bên cạnh một quầy cà phê nhỏ trên vỉa hè Sài Gòn

     

  • Bánh bao Cả Cần

    Bánh bao Cả Cần

     Tôi đã và đang ăn thường xuyên bánh bao mang cái tên mộc mạc và ngồ ngộ – Cả Cần . Loại bánh bao ngon nhất mà tôi từng được ăn ở đất Sài Gòn này! 

    Bánh bao Cả Cần

    “Bánh bao Cả Cần” là thứ bánh bao đặc chất của người miền Nam (sản xuất ở Sài Gòn), khác với bánh bao của người Hoa. “Bánh bao Cả Cần” không trắng như bánh bao gốc của người Hoa, mà hơi hẩm, vì không dùng bột tẩy. Vị bánh bao bùi hơn, ăn không dính răng, nhân bánh bao hoàn toàn là thịt băm, không pha lẫn cá và dầu mỡ như bánh bao của người Hoa. “Bánh bao Cả Cần” nổi tiếng ở Sài Gòn từ đầu thập niên 70 thế kỷ trước xuất hiện ở vài quán nhỏ tại khu vực đường Nguyễn Tri Phương (quận 5 – Chợ Lớn cũ), sau đó, bánh bao mang tên Cả Cần trở thành một quán độc lập, nằm trọn trên khoảng khuôn viên sát cạnh ngã 4 Nguyễn Tri Phương – Hùng Vương, phía trước công viên Văn Lang.

    bao bao ca can

    Người đầu tiên sản xuất thứ bánh bao này là ông Trần Phấn Thắng (đã qua đời từ lâu). Từ nhiều năm nay, Sài Gòn có nhiều nơi sản xuất bánh bao (không kể bánh bao của người Hoa), với những thương hiệu không thể nhớ hết. Bên canh những xe bán bánh bao mang biển hiệu: bánh bao Singapore, bánh bao Đài Loan, bánh bao Malaysia… nhưng bánh bao Cả Cần vẫn cứ đông khách như mọi khi. Và ngày nay, thương hiệu “Cả Cần” đã đi vào lịch sử ẩm thực của Sài Gòn.
    Bánh bao Cả Cần

    1. VỀ CÁI TÊN ÔNG CẢ CẦN:

    Người ta chỉ suy đoán chữ CẢ CẦN dựa theo cái nghĩa đen của nó để thêu dệp rằng: Ông Thắng có cha làm ông Cả tên Cần, theo kiểu HAI LÚA thì chắc có em tên BA GẠO.

    Thật ra thì Ông Thắng là người gốc Mỹ Tho là người thứ ba trong nhà, có ông anh tên Trần Phấn Phát, sỹ quan Quân Lực VNCH. Cha ông gốc Tàu Minh Hương, không có làm Hương Cả gì cả. Cả hai anh em rất thích văn chương văn nghệ và có một nhóm bạn rất là văn nghệ sỹ trong đó phải kể đến Nhạc Sỹ Lê Thương (tác giả Hòn Vọng Phu) cũng như nhà báo và dân biểu đối lập thời VNCH là Lý Quý Chung chẳng hạn.

    Ông Thắng tâm sự: Cần là tên một người bạn thơ ấu của hai anh em chẳng may mất sớm. Chữ Cả ông ghép vào vì cá tính của ông thích những chữ cùng phụ âm như kiểu Tin – Tình – Tiền – Tù – Tội. Và ông tâm đắc câu quảng cáo của ông dùng bao năm nay toàn bằng chữ C:
    Có Cả Cần Cần Chi Có Cả
    Cũng vì thích loại câu dùng cùng một phụ âm này mà tên con ông đặt toàn chữ T. Ông Bà Thắng có đông con (tôi nhớ không lầm thì cũng gần chục). Tôi nhớ được tên của bốn cô con gái của ông là:
    Trần Mỹ Tiên
    Trần Mỹ Trinh
    Trần Mỹ Thanh và cô út là
    Trần Mỹ Tâm

    2. VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA QUÁN ÔNG CẢ CẦN:

    Ông Bà Cả Cần xuất thân từ công chức VNCH. Bà người gốc Bến Tre, nấu ăn rất ngon. Ông có tài ăn nói duyên dáng và khả năng ngoại giao bạn bè rất rộng. Từ sự kết hợp đó, ông bà quyết định bỏ nghề công chức ra mở quán Hủ Tiếu và Bánh Bao Mỹ Tho. Tên Cả Cần được ông chọn đầu tiên cho Quán đầu tiên nằm ở ngã tư Công Lý – Trương Quốc Dung (tôi mang máng nhớ tên đường này là vậy). Trước năm 1975, nếu ai đi lại con đường ra sân bay Tân Sơn Nhất sẽ không thể không thấy cái Bánh Bao To Tướng trước khi băng qua cổng xe lửa.

    Sau thời gian ngắn thì Quán Ông Cả Cần thành công rất nhanh nhờ tài nấu ăn của bà và tài ngoại giao của ông. Cũng vì quen biết giới văn nghệ sỹ thời đó nên ông Thắng mượn nghệ danh của cô Năm Sa Đéc (vợ của ông Vương Hồng Sễn) làm tên quán thứ hai ở Ngã Tư Nguyễn Tri Phương – Nguyễn Trãi (Chợ Lớn) . Đến đây thì nãy sinh một vài đồn đoán rằng:
    – Ông Cả Cần gốc Sa Đéc không phải gốc Mỹ Tho
    – Bà Năm Sa Đéc có quan hệ với ông Cả Cần
    – Bà Năm Sa Đéc có phần hùn trong quán Cả Cần

    Nghệ sĩ kịch Năm Sa Đéc

    Cả ba điều này đều là đồn đoán và không có thật. Ai có đến quán Bà Năm Sa Đéc (của ông Trần Phấn Thắng) thì đều biết quán này nằm giữa đường gần như chắn ngang con đường Nguyễn Trãi chạy từ Sài Gòn ra. Vì thế khoảng thập niên 70, ông Thắng bị Đô Trưởng lúc đó là Đỗ Kiến Nhiễu (nghe đâu cũng gốc Mỹ Tho) bắt tháo dỡ. Ông theo vụ kiện đến cùng, kết cục thì ông Thắng thắng và quán vẫn còn tồn tại như ngày nay. Nhưng vì vụ kiện này mà Bà Năm Sa Đéc rút tên ra. Quán mang tên MỸ TIÊN . Mỹ Tiên là tên cô con gái lớn của ông Thắng . Sau 1975, quán vẫn mang tên Mỹ Tiên.

    3. GIA ĐÌNH CẢ CẦN NAY ĐÂU?

    Sau năm 1975, gia đình ông Thắng còn giữ được một số tài sản và quyết định ra đi. Vì gia đình có gốc Hoa nên đi cả nhà, thậm chí những người đầu bếp giỏi, phụ bếp và cả phụ vụ bàn. Giá vàng ông phải trả lúc đó khoảng 12 cây vàng cho một đầu người.

    Gia đình ông ra đi suôn sẻ trong một đêm lặng gió. Cuối cùng thì định cư tại Montreal, Canada . Đến đất tạm dung Montreal chẳng bao lâu thì với số vốn mà nhân lực mang theo ông bà đã mở được hai quán để tên ONG CA CAN: một ở dưới phố trên đường St Catherine gần trường Đại Học McGill , một ở Côte des Neiges. Cũng vẫn với khiếu chữ nghĩa bẩm sinh của mình, ông Thắng đã dí dỏm gọi quán ở Côte des Neiges là TRÊN DỐC TUYẾT, Montreal là Mộng Lệ An.

    Hai ông bà thành công rất nhanh ở xứ Canada cho nên khi VN mở cửa năm 89 thì năm 90 cô con gái lớn ông đã thực hiện chuyến về VN đâu tiên và ông bà cũng lần lượt về sau đó để tìm lại cơ hội làm ăn cũng như lấy lại nhà hàng cũ.

    Sau khi ông bà ra đi thì nhà hàng cũ do một người bà con xa cai quản. Ông bà cũng thường gởi tiền về giúp đở. Nhưng về phẩm chất nấu ăn thì không giữ được như trước cho nên nhà hàng dần dần mất tiếng và suy sụp. Đây là điểm yếu của đa số nhà hàng Việt Nam nói chung và nhà hàng Ông Cả Cần nói riêng. Bà Cả Cần là người giỏi giang quán xuyến, nhưng nhà hàng là phương tiện sống của đại gia đình cho nên bà giữ bí quyết rất kỹ. Thậm chí ở Canada, chưa chắc con bà lúc ấy nấu được như bà.

    Khi công cuộc điều đình mua lại đất đai nhà hàng cũ còn đang được tiến hành thì bà Cả Cần đột ngột bị TAI BIẾN MẠCH MÁO não và năm bất động. Tội nghiệp cho bà. Bà nằm thế đến gần 2 năm trời và bà qua đời năm 1995.

    Sau khi bà qua đời thì ông Thắng về Việt Nam thường hơn để làm ăn. Nhà hàng bên Canada thiếu bà không còn đông như trước. Các cô các cậu lập gia đình chỉ còn vài người theo nghề cha mẹ. Chỉ vài năm sau đó thì Ông Cả Cần Trần Phấn Thắng cũng qua đời tại Việt Nam . Nhà hàng TRÊN DỐC TUYẾT đóng cửa. Giờ chỉ còn nhà hàng dưới phố St Catherine.

    Có người nói bảng hiệu sau này của nhà hàng trên đường Nguyễn Tri Phương là ÔNG CẢ CẦN. Có thể nhà hàng đổi tên lại sau khi ông Cả Cần về nước. Bao năm trước đó nó vẫn mang tên MỸ TIÊN. Tên Mỹ Tiên là cái tên thứ hai sau cái tên BÀ NĂM SA ĐÉC …

    Nói thêm về hủ tiếu Mỹ Tho của quán Cả Cần:

    Có nhiều người cứ nhầm hủ tiếu Mỹ Tho với hủ tiếu Nam Vang. Khác hoàn toàn. Nước hủ tiếu được nấu bằng khô mực nhí (vụn), tôm khô và xương nên nước ngọt tự nhiên, thơm và trong. Bánh hủ tiếu, sợi nhỏ dai và là bánh khô. Hủ tiếu Mỹ Tho không có để trứng cút hay tôm tươi mà chỉ có xương, thịt heo hoặc thêm gan heo thôi….

    Ở Sài Gòn, có duy nhất 1 chỗ có hương vị hủ tiếu giống với hủ tiếu Mỹ Tho, đó là quán hủ tiếu Mỹ Tho – bánh bao Cả Cần – nằm ngay trước công viên Văn Lang, góc đường Hùng Vương – Nguyễn Tri Phương, Q.5.

    Nguồn: Sưu tầm (honngocviendong)