Tag: giổ tổ Hùng Vương

  • Vua Hùng tên thật là gì?

    Vua Hùng tên thật là gì?

    Vua Hùng tên thật là gì?

    1. Hùng và Lạc

    Chữ Hùng (雄: trong Hùng vương, Hùng điền) hay chữ Lạc (雒: trong Lạc vương, Lạc điền, Lạc hầu, Lạc tướng) chữ nào có trước?

    Chữ Lạc có trước, xuất hiện trong văn bản Giao Châu ngoại vực kí [交州外域記, Jiaozhou waiyu ji]. Cụ thể như sau:

    交州外域記曰,交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民。設雒王雒侯主諸郡縣。縣多為雒將。雒將銅印青綬。

    Giao châu ngoại vực kí viết: “Giao Chỉ tích vị hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền, kì điền tòng triều thủy thượng hạ/thướng há, dân khẩn thực kì điền, nhân danh vi lạc dân. Thiết lạc vương lạc hầu chủ chư quận huyện. Huyện đa vi lạc tướng. Lạc tướng đồng ấn thanh viện.”

    Giao châu ngoại vực kí nói rằng: ‘Jiaozhi/ Giao Chỉ thời xưa khi chưa có quận huyện, đất đai (thì) có ruộnglạc. Những ruộng này theo (sự) lên xuống của con nước, và người dân cày cấy lấy cái ăn [ở] ruộng đó vì thế được gọi là dân lạc. Đặt các ông hoàng lạc (lạc vương), các ông quanlạc (lạc hầu) cai quản ở các quận huyện. Nhiều huyện có tướng lạc (lạc tướng). Các tướng lạc có dấu đồng và dải xanh.’

    Chữ Hùng có sau, xuất hiện trong Nam Việt chí. Cụ thể như sau:

    交趾之地頗爲膏腴,徙民居之,始知播植,厥土惟黑壤,厥氣惟雄,故今稱其田為雄田,其民為雄民,有君長亦曰雄王,有輔佐焉亦曰雄侯,分其地以為雄將。(出南越志)

    Giao Chỉ chi địa phả vi cao du, tỉ dân cư chi, thủy tri bá thực, quyết thổ duy hắc nhưỡng, quyết khí duy hùng, cố kim xưng kì điền vi hùng điền, kì dân vi hùng dân, hữu quân trưởng diệc viết hùng vương, hữu phụ tá yên diệc viết hùng hầu, phân kì địa dĩ vi hùng tướng.

    Vùng đất Jiaozhi/ Giao Chỉ tương đối màu mỡ. Di dân đến sống ở đó, mới bắt đầu biết gieo trồng. Đất ở đây rặt là đất phì nhiêu đen. Khí ở đây mạnh (hùng). Cho nên bây giờ gọi những ruộng ở đây là ruộng hùng, dân ở đây là dân hùng. Có người lãnh đạo tối cao (quân trưởng) cũng gọi là vua hùng (hùng vương). Có những người phụ tá ông ấy [tức ông vuahùng] thì cũng gọi là quan hùng (hùng hầu). Chia đất ở đây để cho các tướng hùng (hùng tướng).

    2. Hùng hay Lạc

    Nam Việt chí ra đời sau Giao Châu ngoại vực ký hàng trăm năm. Quan trọng hơn, chữ Lạc (雒) chữ chỉ là để phiên âm từ tiếng Việt cổ qua chữ Hán cổ. Còn chữ Hùng (雄) là một chữ có nghĩa.

    3. Chữ Lạc từ đâu mà có

    Người Việt cổ không có họ. Tên đặt theo nghề. Đến đời Trần vẫn đặt tên theo nghề cá. Lần ngược lên thời Hai Bà, tên người được đặt theo nghề nuôi tằm (Trứng Chắc, Trứng Nhì, rồi được người Tàu văn bản hóa bằng hán tự, rồi được các nhà sử học ngày xưa của VN dịch về tiếng ta thành Trưng Trắc, Trưng Nhị. Có rất nhiều ví dụ về tên nôm của danh nhân được người Tàu hán tự hóa rồi dịch ngược ra tiếng ta. Ai đọc Tạ Chí Đại Trường sẽ nhớ trường hợp rất thú vị của Lý Thường Kiệt – Thằng Kặc. Ngay cả trong lịch sử cận đại, nhiều tên riêng do phiên âm qua chữ latin rồi sau này dịch ngược lại qua tiếng Việt cũng có những biến thể thú vị như Chí Hòa – Kỳ Hòa, Vũng Quýt – Dung Quất).

    Quay trở lại với văn bản Giao Châu ngoại vực ký đã nói ở trên, thời cổ người dân sống bằng nghề nông, trồng cây lạc, trên các thửa ruộng lạc, tưới tiêu bằng thủy lợi tự nhiên, dân sống trên ruộng lạc, gọi là dân lạc, thủ lĩnh của dân lạc gọi là lạc vương, dưới lạc vương là các lạc hầu, lạc tướng.

    Chữ lạc chính là chữ lúaRuộng lạc là ruộng lúaDân lạc là dân (trồng) lúa. Tiếng Việt cổ gọi lúa là lọ. Phiên âm qua tiếng Hán rồi phiên âm ngược lại tiếng Việt mà trở thành lạc.

    Người Mường (cùng ngôn ngữ với người Việt cổ) gọi lúa là lọ hoặc . Tục ngữ người Mường có câu “Cơm mường Vó, lọ mường Vang”.

    Qua bao năm lạc lối, tên riêng lúa của cha ông chúng ta, chạy qua bên Tàu, quay về với các nhà viết sử Việt thời cổ, lạc tiếp vài lần nữa, thành chữ lạc. Nay nhờ 5xu biết google nghiên cứu mà tìm ra nghĩa gốc của từ. Chúc mừng Vua Lúa (nước) tục gọi Hùng Vương. Chúng con xin trả tên đúng về cho cụ.

    (Nguồn: http://5xublog.org. Ngày 06/01/2012)

  • Hai chữ Lạc Hồng bắt nguồn từ đâu?

    Hai chữ Lạc Hồng bắt nguồn từ đâu?


    Dù ai đi ngược về xuôi
    Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba.

    Hai chữ Lạc Hồng bắt nguồn từ đâu?

    Với môn lịch sử đa số chúng ta là người ngoại ngạch. Nhung dù sao vẫn là con dân Việt.

    Theo truyền thuyết, Đế Minh- một vị vua đất Bắc khi tuần du phương Nam đã mang một phụ nữ đẹp về làm vợ sinh ra Lộc Tục. Ông cho con lớn Đế Nghi làm vua đất Bắc và để chàng con thứ Lộc Tục thông minh hơn cai trị phương Nam hiệu là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương kết hôn với Long Nữ sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Nghi là Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, dòng giống Việt ra đời. Con của Âu Cơ gọi là Hùng. Hùng trưởng hay con cả của Mẹ Âu Cơ lên làm vua, đó là Hùng Vương đời thứ nhất. Vua đặt tên nước là Văn Lang; quan văn gọi là Lạc hầu; quan võ gọi là Lạc tướng còn dân tình gọi là Lạc dân. Ấy là truyền thuyết. Và cũng mãi sau này đọc thêm mới biết vậy. Trước đây mình đâu có để tâm môn lịch sử cho lắm, học đối phó là chính.

    Cách nay ít năm, trong lần về Phú Thọ, tôi đã ghé thăm bảo tàng Hùng Vương. Dịp đó mới ngắm kỹ các họa tiết trống đồng: cảnh sinh hoạt; con thuyền; chim Lạc; cách ăn mặc… Cảm giác lúc ấy rất hồ nghi, cứ như đang xem bức phù điêu mô tả về người da đỏ Bắc Mỹ vậy.

     Bản đồ Bách Việt

    Bản đồ Bách Việt

    Với hai chữ Lạc Hồng, có mấy chủ thuyết sau.

    Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh – trong các cuốn Lịch sử Việt Nam cổ đại và Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam đã cho rằng nguồn gốc người Việt cổ bắt nguồn từ vùng Động Đình Hồ Vân Nam mà sử Tàu xưa gọi là Bách Việt, trong quá trình Nam tiến đã hợp huyết với người bản địa; sinh ra người Việt Mường cổ. Những cái thuyền trên trống đồng là thuyền người Giang Nam di cư về phương Nam. Còn những con chim đó là chim Lạc – vật tổ của người Việt- loài chim có nguồn gốc từ vùng Giang Nam di cư theo người Việt dọc theo miền duyên hải. Sách Lĩnh Nam Chích Quái có đề cập đến họ Hồng Bàng. Và chữ Hồng hay Hùng chỉ rằng dân Việt có nguồn gốc từ họ Hồng Bàng. Một người bạn đã từng theo học nhiều Gs sử học nổi tiếng Trần Quốc Vượng; Phan Huy Lê; Hà Văn Tấn thì cho biết rằng chữ Hùng trong chữ vua Hùng bắt nguồn từ tiếng Mường cổ để gọi người đứng đầu.

    Có nhà sử học cho rằng Gs Đào Duy Anh đã viện dẫn cổ sử để sáng tác.ra câu chuyện về nguồn gốc người Việt cổ và chữ Lạc chả liên quan gì tới hình con chim trên trống đồng Ngọc Lũ. Nhưng các nhà lịch sử sau này đều dẫn theo Đào Duy Anh cho rằng Lạc là tên loài chim đã di cư theo người Việt xuống phía Nam -totem của người Việt. Còn một nhà sử học khác lại trích dẫn nhiều thư tịch cổ; ví dụ một đoạn trong sách Tàu cổ Giao châu Ngoại vực ký ghi “Ở đất Giao chỉ có Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng … Họ sử dụng hoa lợi từ Lạc điền” và nhiều cổ thư Tàu khác để chứng minh rằng lập luận của cụ Đào Duy Anh là chưa đủ cơ sở. Ông cho rằng Lạc Việt là cách người Tàu gọi đất nước của người Việt xưa kéo dài từ vùng Vân Nam Quý Châu đến mạn Quảng Bình sau này.

    Ở Trung quốc; dân tộc Choang phân bố chủ yếu ở Quảng Tây. Họ có tiếng nói và chữ viết riêng, có nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Trong từ vựng của người Choang, Lạc = hiểu biết, minh triết. Người Choang biết đúc trống đồng và cũng có truyền thuyết đẻ trăm trứng. Vậy chữ Lạc là tiếng Choang?

    Đa số học giả Việt, Pháp và Thái lan cho rằng Lạc Việt là cái tên người Tàu gọi một tộc người sống ở vùng Bách Viêt – Giang Nam Phúc Kiến ngày nay. Người Lạc Việt được cho là thủy tổ của người Kinh; người Mường và người Choang và người Bố Y. Số khác cho rằng Lạc Việt là cách người Tàu gọi đất nước của người Việt (Yue) cổ.

    Vậy ngày giỗ Tổ có rừ khi nào? Và đó là ngày giỗ vị vua nào ? Sách sử chép lại rằng trong 18 đời vua Hùng đã có tới 108 vị vua từng trị vì chứ không phải 18 vị như nhiều người vẫn nghĩ. Có suy luận răng đó là ngày giỗ Lạc Long Quân- người sáng lập triều đại Hùng Vương nhưng ý kiến này không có cơ sở. Sau khi con trưởng lên ngôi vua thì ngài cũng không ở lại và không biết ngài đi đâu. Ghi chép xưa nhất còn lại là sắc chỉ của vua Minh Mạng năm 1917 sức cho tỉnh Phú Thọ lo việc cúng tế các vua Hùng vào ngày 10 tháng Ba âm lịch. Tất nhiên, việc cúng tế này đã được duy trì từ rất lâu trước đó.

    Lịch sử thường được viết lại theo hướng tự tôn dân tộc. Đâu phải nhà sử học nào cũng làm được như dòng họ nhà Tư Mã Thiên!

    Cá nhân tôi nghĩ rằng cho dù các từ Lạc Hồng có gốc gác từ tiếng Hán; tiếng Việt hay tiếng Choang cổ thì “con Lạc cháu Hồng” vẫn đang là niềm tự hào của con dân đất Việt!
    Blog Phạm Văn Quang