Tag: thiếu nữ Việt và áo dài

  • Ký ức về những ngôi trường nổi tiếng Sài Gòn

    Ký ức về những ngôi trường nổi tiếng Sài Gòn

    Hình ảnh nữ sinh áo tím gắn với trường Gia Long Sài Gòn nổi tiếng đến ngày nay, kể cả khi trường mang tên Nguyễn Thị Minh Khai. Marie Curie là trường duy nhất không thay đổi tên trong gần một thế kỷ.

    Auto Draft
    Ký ức về những ngôi trường nổi tiếng Sài Gòn

    Trường THPT Marie Curie là trường duy nhất tại Sài Gòn không thay đổi tên ban đầu có từ thời thuộc Pháp. Trường mở cửa năm 1918 với tên gọi Lycée Marie Curie, chỉ tiếp nhận nữ sinh. Ảnh trên chụp vào giờ tan trường trước năm 1975, nữ sinh mặc đồng phục cả váy và áo dài. Trước 1975, trường dành cho con em người Pháp và một ít nữ sinh con nhà giàu có thế lực ở Sài Gòn, giảng dạy bằng tiếng Pháp.

    Sau 1975, trường chuyển thành trường THPT bán công, cho cả học sinh nam lẫn nữ. Có thời kỳ đây là trường THPT lớn nhất Việt Nam với hơn 5.000 học sinh mỗi năm. Năm 2007, trường được đổi lại thành trường Trung học phổ thông công lập, giảm dần sĩ số nhằm tăng chất lượng giáo dục. Kiến trúc đậm chất Pháp lưu lại trên cổng chào, từng góc cầu thang gỗ, khu vườn với đài phun nước… vẫn còn đến ngày nay. Ảnh: Khánh Ly

    Auto Draft
    Ký ức về những ngôi trường nổi tiếng Sài Gòn

    Trường chuyên Lê Hồng Phong ngày nay mang kiến trúc cổ kiểu Pháp. Trường xây dựng năm 1927, lúc đầu có tên gọi Collège Petrus Ký hay còn gọi là Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký. Kiến trúc ngôi trường được gìn giữ theo năm tháng ở ảnh trên (chụp những năm đầu thập niên 40) và 2014.

    Từ ngôi trường giàu truyền thống này, các thế hệ học sinh – thanh niên yêu nước đã châm ngòi cho cách mạng chống Pháp, chống Mỹ với những tấm gương Trần Văn Ơn, Hồ Hảo Hớn… Họ đã anh dũng ngã xuống tạo nên làn sóng biểu tình dâng cao khắp Sài Gòn – Chợ Lớn, đòi quyền lợi cho học sinh. Từ năm học 1976-1977, trường mang tên cố Tổng Bí thư Trung ương Đảng Lê Hồng Phong, là trường chuyên nổi tiếng ở Sài Gòn ngày nay.

    Auto Draft
    Ký ức về những ngôi trường nổi tiếng Sài Gòn

    Lê Quý Đôn là trường trung học xưa nhất tại TP HCM, được thành lập năm 1875, hoàn thành xây dựng năm 1877 với tên gọi ban đầu là Collège Indigène, sau đổi thành Collège Chasseloup-Laubat. Hiện nay trường đào tạo 2 bậc giáo dục là trung học cơ sở (cấp 2) và trung học phổ thông (cấp 3).

    Trường có nhiều cổng, hiện cổng chính nằm mặt tiền đường Nguyễn Thị Minh Khai làm cổng ra vào cho học sinh bậc trung học phổ thông, cổng sau ở đường Lê Quý Đôn là hướng của học sinh cấp trung học cơ sở.

    Ngày nay, kiến trúc tòa nhà vẫn giữ đậm chất Tây Âu với những dãy nhà màu vàng đứng hiên ngang qua hơn thế kỷ thăng trầm và trở thành “nỗi nhớ niềm thương” của những học trò một thuở. Ảnh: Khánh Ly.

    Auto Draft
    Ký ức về những ngôi trường nổi tiếng Sài Gòn

    Trường Trưng Vương tọa lạc tại số 3A Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quận 1, trên con đường nhiều bóng cây cổ thụ xanh mát. Vào thế kỷ trước, đây vốn là trường dành cho nữ sinh. Ảnh trên, các nữ sinh thướt tha trong bộ đồng phục áo dài trắng, quần đen được chụp vào thập niên 60. Ảnh dưới ngôi trường có kiến trúc Pháp với tường vàng, mái ngói đỏ nổi bật giữa phố phường, được nhiều tờ báo bình chọn là một trong những ngôi trường có kiến trúc đẹp của Sài Gòn.

    Trường được thành lập ở Hà Nội năm 1917 với cái tên trường Nữ trung học, hay còn gọi là Đồng Khánh. Sau hiệp định Geneve, một bộ phận của trường di chuyển vào Nam. Năm 1957, trường chính thức được chuyển về đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, nằm cạnh trường Võ Trường Toản (khi ấy chỉ dành cho nam sinh) cho đến ngày nay.

    Những hàng cây cổ thụ phía trước gắn với ký ức của cựu học sinh Trần Nam. Ông Nam nay tóc đã bạc trắng. “Gốc cây này là nơi chúng tôi – những nữ sinh Trưng Vương và nam sinh Võ Trường Toản – đã túm tụm quanh chiếc xe đạp của ông bán bò khô để thưởng thức biết bao mùi vị thơm ngon ngọt cay chua cùng tụ lại… trên đĩa gỏi nhỏ”, cựu học sinh Võ Trường Toản hồi tưởng. Ảnh: Khánh Ly

    Auto Draft
    Ký ức về những ngôi trường nổi tiếng Sài Gòn

    Đầu thế kỷ 20, nền giáo dục Việt Nam còn mang tính chất Nho giáo, ít chú trọng đến giáo dục nữ giới. Năm 1908, một số trí thức người Việt đề nghị chính quyền Pháp thành lập một ngôi trường nhiều cấp học dành cho nữ. Năm 1915, khóa đầu tiên trường tuyển 42 nữ sinh, đồng phục là áo dài tím, tượng trưng cho sự tinh khiết của phụ nữ Việt Nam, tên trường Nữ sinh Áo Tím bắt nguồn từ đó. Năm 1953, trường được đổi tên thành Trường Nữ trung học Gia Long.

    Niên khóa 1978-1979, trường giải thể cấp 2, thu nhận nữ sinh lẫn nam sinh, đổi tên thành Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai. Năm 2003, trường được đưa vào danh mục 55 công trình đề nghị điều tra xác lập di tích kiến trúc cổ của TP HCM. Mặt tiền trường “Nữ sinh áo tím” năm 1925 (ảnh trên) và nay có những thay đổi nhất định, khang trang hơn nhưng vẫn giữ tinh thần chủ đạo của kiến trúc Pháp.

    Thời chống Mỹ, học sinh Gia Long là một trong những trường đi đầu của phong trào học sinh sinh viên Sài Gòn rải truyền đơn, xuống đường biểu tình đòi độc lập. Mới đây, Nguyễn Lê Vân 23 tuổi, cựu học sinh Nguyễn Thị Minh Khai đã quay về trường xưa thực hiện bộ ảnh áo dài tím, kỷ niệm trường tròn 100 tuổi. Áo tím được coi là đồng phục đầu tiên của trường Gia Long. Vân chia sẻ niềm tự hào khi là nữ sinh của ngôi trường áo tím, màu tím tượng trưng cho đức tính đoan trang, kín đáo và khiêm nhường của thiếu nữ Việt Nam. “Áo tím là niềm tự hào của rất nhiều thế hệ nữ sinh trường không chỉ học giỏi, đức độ mà còn biết đặt mơ ước vào những lý tưởng cao cả và thực hiện mơ ước đó trên mọi nẻo đường đất nước”, cô gái trẻ nói.  Màu tím cũng trở thành màu bộ váy đồng phục duyên dáng của nữ sinh Minh Khai hiện nay. Ảnh: Khánh Ly.

    Auto Draft
    Ký ức về những ngôi trường nổi tiếng Sài Gòn

    Trường Trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa được tu sửa từ trường dòng Lasan Taberd, thành lập năm 1874. Đến nay trường Trần Đại Nghĩa là trường trung học công lập chuyên, dành cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 12. Hiện nay trường là một trong 5 trường phổ thông chuyên (hoặc có lớp chuyên), trọng điểm của thành phố nổi tiếng với tỷ lệ chọi đầu vào rất cao. Kiến trúc đậm chất Pháp của trường với màu tường vàng, cửa sổ vòm tròn… được gìn giữ đến hôm nay. Ngôi trường có 2 cổng, một trên con đường lá me bay Nguyễn Du, cổng kia ở đường Lý Tự Trọng, quận 1.

    Khánh Ly tổng hợp

  • Vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam xưa và nay

    Vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam xưa và nay

    Cùng chiêm ngưỡng một số hình ảnh về người phụ nữ Việt Nam, biết đâu trong những hình ảnh này bạn lại bắt gặp một hình dáng quen thuộc nào đó. Hãy cùng chúng tôi chiêm ngưỡng một nửa thế giới của chúng ta nhé!

    Thời xưa

    Vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam xưa và nay

    Vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam xưa và nayVẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam xưa và nayVẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam xưa và nayVẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam xưa và nay

    Chiến tranh…

    Nhân vật trong ảnh là nữ thanh niên xung phong Nguyễn Thị Cần, người Nghệ An. Cô là chiến sĩ thi đua cấp tỉnh năm 1967. Thời đó, các nữ thanh niên xung phong gánh vác những nhiệm vụ như vận chuyển lương thực, đạn dược ra tiền tuyến, cứu trợ thương binh và lấp hố bom mở đường.
    Nhân vật trong ảnh là nữ thanh niên xung phong Nguyễn Thị Cần, người Nghệ An. Cô là chiến sĩ thi đua cấp tỉnh năm 1967. Thời đó, các nữ thanh niên xung phong gánh vác những nhiệm vụ như vận chuyển lương thực, đạn dược ra tiền tuyến, cứu trợ thương binh và lấp hố bom mở đường.
    Bức ảnh chụp “O du kích nhỏ” Nguyễn Thị Kim Lai áp giải một phi công Mỹ bị bắt vào năm 1965. Hình ảnh một nữ dân quân nhỏ bé áp giải viên phi công cao lớn đã trở thành biểu tượng hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giữa một dân tộc nhỏ bé với kẻ thù lớn hơn gấp nhiều lần
    Bức ảnh chụp “O du kích nhỏ” Nguyễn Thị Kim Lai áp giải một phi công Mỹ bị bắt vào năm 1965. Hình ảnh một nữ dân quân nhỏ bé áp giải viên phi công cao lớn đã trở thành biểu tượng hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giữa một dân tộc nhỏ bé với kẻ thù lớn hơn gấp nhiều lần
    Tấm ảnh chụp năm 1969 của nữ Anh hùng Quân đội nhân dân Việt Nam - La Thị Tám. Cô đã đếm và cắm tiêu 1.205 quả bom do địch trút xuống để lực lượng công binh của ta đến phá bom, đảm bảo thông suốt cho tuyến đường tiếp viện vào Nam. Cô được phong anh hùng khi mới 20 tuổi.
    Tấm ảnh chụp năm 1969 của nữ Anh hùng Quân đội nhân dân Việt Nam – La Thị Tám. Cô đã đếm và cắm tiêu 1.205 quả bom do địch trút xuống để lực lượng công binh của ta đến phá bom, đảm bảo thông suốt cho tuyến đường tiếp viện vào Nam. Cô được phong anh hùng khi mới 20 tuổi.
    Sự kiên cường toát lên trong ánh mắt của người nữ chiến sĩ trong bức ảnh. Thời đó, những cô gái xung phong ra chiến trường với khát khao bảo vệ cuộc sống hòa bình của quê hương, thành quả mà ngày nay mỗi chúng ta đang được thừa hưởng.
    Sự kiên cường toát lên trong ánh mắt của người nữ chiến sĩ trong bức ảnh. Thời đó, những cô gái xung phong ra chiến trường với khát khao bảo vệ cuộc sống hòa bình của quê hương, thành quả mà ngày nay mỗi chúng ta đang được thừa hưởng.
    Người nữ giải phóng quân nở một nụ cười tươi rói trong đợt tiến công cuối cùng vào giải phóng Sài Gòn. Công cuộc thống nhất đất nước có sự đóng góp không nhỏ của những người phụ nữ cầm súng, mà trong số họ có nhiều người đã nằm lại chiến trường.
    Người nữ giải phóng quân nở một nụ cười tươi rói trong đợt tiến công cuối cùng vào giải phóng Sài Gòn. Công cuộc thống nhất đất nước có sự đóng góp không nhỏ của những người phụ nữ cầm súng, mà trong số họ có nhiều người đã nằm lại chiến trường.

    Trong lao động sản xuất

    Trong cuộc sống hiện đại

    16PhuNu_VietNam 12PhuNu_VietNam480 10PhuNu_VietNam480 9PhuNu_VietNam480 6PhuNu_VietNam480… và Nghệ thuật

    20PhuNu_VietNam-size-0x0-znd 21PhuNu_VietNam480-size-0x0-znd 23PhuNu_VietNam500-size-0x0-znd 25PhuNu_VietNam500-size-0x0-znd

    Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam in đậm dấu ấn trong thơ ca, nhạc, họa, điêu khắc… và mãi bất tử với thời gian. Họ đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn hoá dân tộc.

    Phụ nữ Việt Nam (PNVN) từ xưa tới nay vốn mang vẻ đẹp thầm lặng thoang thoảng như hương quế giữa rừng xa:

    Em như cây quế giữa rừng

                                    Ngát thơm ai biết, lẫy lừng ai hay.

     

    Đó là vẻ đẹp chân quê, giản dị và đáng yêu. Ở họ không phải lúc nào cũng là liễu yếu đào tơ, là cái bóng của người đàn ông mà luôn tiềm ẩn một sức mạnh chẳng kém gì nam giới. Họ làmột nửa của cuộc sống nhân loại. Nhà văn M. Gôrky (người Nga) đã nói: Không có mặt trời thì hoa không nở/ Không có mẹ hiền, anh hùng, thi sĩ hỏi còn đâu?.

     

    Từ xưa, phụ nữ ta đã có truyền thống chống ngoại xâm: Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Trong cuộc dựng nước và giữ nước đã có nhiều phụ nữ nổi tiếng như: Bà Trưng, Bà Triệu, Ỷ Lan… đã làm cho quân giặc nhiều phen bạt vía kinh hồn. Hai Bà Trưng đã từng:

    Hồng quần nhẹ bước chinh yên

                                   Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thùy.

    Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã xuất hiện nhiều gương chiến đấu hy sinh anh dũng của các chị: Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai, Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Thị Nhỏ, Nguyễn Thị Chiên, Trần Thị Lý, Nguyễn Thị Tuyển, Nguyễn Thị Hằng, Võ Thị Thắng, chị Út Tịch, mẹ Tơm, mẹ Suốt, bà Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình, Trương Mỹ Hoa v.v. Quyết tâm đánh giặc đến cùng của các mẹ, các chị là Còn cái lai quần cũng đánh (Người mẹ cầm súng – Nguyến Thi)

     

    Trên lĩnh vực Văn học Nghệ thuật, Giáo dục, Khoa học… nhiều phụ nữ là những nhà thơ, nhà văn, hoạ sĩ  nhạc sĩ, kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ  tài năng như: Diệu Nhân (người Phú Thọ)- một thiền sư, nữ sĩ thời Lý; Nguyễn Thị Duệ (người Chí Linh- Hải Dương, bà Huyện Thanh Quan (tức Nguyễn Thị Hinh), người Hà Nội- một nhà thơ tài hoa ở thế kỷ thứ XIX; bà Bảng Nhãn (tức Lê Thị Liễu)- nữ sĩ nổi tiếng ở đất Quảng Nam; và các nhà thơ như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm… cho tới Anh Thơ, Vân Đài, Mộng Cầm, Sương Nguyệt Ánh, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Thuý Bắc, Lâm Thị Mỹ Dạ, Dương Thị Xuân Qúy v.v.

     

    Trên bất kỳ lĩnh vực nào, ở giai đoạn lịch sử nào ta cũng đều bắt gặp tên tuổi của những phụ nữ nổi tiếng, làm vẻ vang dân tộc. Cả thế giới đều tôn vinh phụ nữ. Chúng ta hãy nhìn lại những quan niệm về vẻ đẹp của người PNVN xưa và nay. Vẻ đẹp ấy biểu hiện qua hình thể, lý tưởng và lẽ sống, trí tuệ và tâm hồn. Hay nói một cách khác đó là vẻ đẹp về hài hoà giữa hình thức và nội dung

     

    Trước CMT8 phần lớn PNVN nhuộm răng đen, búi tóc đuôi gà, mặc áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao… Ca dao-dân ca, thơ văn, nhạc hoạ đã ghi lại:

     Một yêu tóc bỏ đuôi gà

                                        Hai yêu ăn nói mặn mà có duyên

                                                Ba yêu má lúm đồng tiền

                                        Bốn yêu răng nhuộm hạt huyền thêm xinh

                                               Năm yêu con mắt hữu tình…

    Hay như những câu:

    “Những người con mắt lá dăm/ Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền”

    “Ai làm cái nón quai thao/ Để cho anh thấy cô nào cũng xinh”.

    “Ngó lên đầu tóc em bao/ Chéo khăn em bịt dạ nào chẳng xiêu”.

              “Cô kia bới tóc đuôi gà/ Nắm đuôi cô lại hỏi nhà cô đâu?”

              “Bước lên xe đầu đội khăn rằn/ Dáng đi yểu điệu, ngồi gần say mê”

              “Răng đen ai nhuộm cho mình/ Để duyên mình đẹp, để tình mình ưa”

              “Những người thắt đáy lưng ong/ Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”.v.v…

     

    Hoặc trong thơ Nguyễn Bính:

     Nào đâu cái yếm lụa sồi

                                           Cái dây lưng đủi nhuộm hồi sang xuân

                                                 Nào đâu cái áo tứ thân

                                          Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?  (Chân quê).

     

    Một thời cha ông ta lại quan niệm người phụ nữ có khuôn mặt chữ điền mới đẹp Mặt chữ điền lắm tiền nhiều ruộng. Đó là vẻ đẹp phúc hậu, đã từng đi vào thơ Hàn Mặc Tử: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền (Đây thôn Vĩ Dạ). Đến thời hiện đại vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ thật lắm màu nhiều sắc. Cái áo tứ thân của mẹ ta xưa đã được cách điệu thành áo dài với nhiều kiểu dáng. Tà áo em bay bay, bay bay trong nắng dịu dàng/ Aó bay trên đường như mây xuống phố/ Áo trên sân trường tựa cánh chim câu. Đẹp biết bao quê hương cho em chiếc áo nhiệm màu! (Một thoáng quê hương – Từ Huy và Thanh Tùng).

    Vẻ đẹp của người Phụ nữ Việt Nam xưa và nay trong văn học

    Nhà thơ Nguyễn Duy đã đã nhớ lại một thời áo trắng sân trường:

    Thướt tha áo trắng nói cười

                                          Để ta thương nhớ một thời áo nâu  (Áo trắng má hồng).

    Nhà thơ Lê Đình Cánh thì:

    Ở đâu tôi cũng phải lòng

                                       Những cô thôn nữ nâu sồng áo quê   (Cảnh nghèo)

    Còn nhà thơ Phạm Đình Ân lại bị hút hồn bởi chiếc áo nâu của cô gái:

    Anh yêu áo trắng, áo hồng

                                         Lại càng yêu đến vô cùng: áo nâu!   (Áo nâu)

    Hoặc anh cảm nhận được vẻ đẹp nền nã của chiếc áo đen mà em đã mặc trong cái thuở ban đầu:

    Aó đen ai mặc tình cờ

                                       Để cho ai nhớ bây giờ ai quên?

                                         … Thanh tao nào phải kén màu

                                       Sắc đen ngậm ánh sáng vào bên trong…  (Áo  đen).

     

    Nhà thơ Bùi Văn Bồng trong một buổi chiều tà bên bờ sông Hậu khi nhìn thấy cô gái Nam Bộ mặc áo bà ba, chèo xuồng ba lá đã quên cả lối về, vì đã quá đam mê trước vẻ đẹp của tà áo diệu kỳ này:

    … Dòng sông thì rộng mênh mông

                                       Aó em lại thắt eo hông làm gì

                                             Khen ai khéo chít đường ly

                                      Để cho tà áo thầm thì lời quê.

    (Aó bà ba)

     

    Vẻ đẹp của chiếc áo bà ba ấy cũng đã hơn một lần được nhạc sĩ Nhật Trường- Trần Thiện Thanh ngợi ca: Chiếc áo bà ba trên dòng sông thăm thẳm/ Em gái Ninh Kiều tóc dài chấm lưng thon.

    Nhưng có lẽ vẻ đẹp lâu bền nhất của người con gái và có sức quyến rũ lạ kỳ là cái duyên ngầm. Chẳng thế mà khi chồng giận, cô gái đã khéo nhỏ nhẹ:

    Chồng giận thì vợ làm lành

                                        Miệng cười tủm tỉm: rằng anh giận gì?

     

    chứ không như cô gái khác quá vội vàng và dứt khoát để chia tay:

    Đất xấu vắt chẳng nên nồi

                                        Anh đi lấy vợ để tôi lấy chồng.

    Hoặc có cô thẳng thừng tuyên bố:

    Chồng gì anh, vợ gì tôi

                                         Chẳng qua là cái nợ đời cầm tay.

     

    Hạnh phúc của vợ chồng, của gia đình đôi khi chỉ vì một sự tự ái, một chút nghi ngờ thiếu cảm thông là có thể đổ vỡ. Nhưng đa số PNVN rất giàu lòng vị tha và có đức hy sinh. Có người đã tự hạ mình xuống tận cùng để giữ gìn hạnh phúc:

    Chàng ơi phụ thiếp làm chi

                                         Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.

    Hoặc có khi hạnh phúc đã tan vỡ,  người vợ đã chia tay anh chồng phụ bạc rồi nhưng vẫn còn khuyên và lo cho anh:

    Anh về lấy vợ bên sông

                                        Còn tôi tơ tưởng lấy con ông lái đò

                                               Phòng khi sóng cả, gió to

                                         Để tôi còn kịp chở đò đưa anh.

     

    Anh đã có vợ khác, tôi đã có chồng, nhưng tôi vẫn độ lượng cứu giúp anh những lúc thất cơ lỡ vận,  khi anh gặp phải cảnh cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Thế mới biết tấm lòng vị tha của PNVN đẹp biết chừng nào!

     

    Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, đã làm một cuộc đổi đời cho dân tộc. Những cô yếm thắm răng đen, sột soạt quần nâu, mặc áo tứ thân đã cầm súng, cầm cuốc đi phá đường, cản bước tiến của thực dân Pháp, gác lại mọi chuyện gia đình:

     

    Nhà em phơi lúa chưa khô

                                      Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong

                                           Nhà em con bế con bồng

                                     Em cũng theo chồng đi phá đường quan.  (Tố Hữu)

     

    Họ là những phụ nữ ba đảm đang, ba sẵn sàng việc nước, việc nhà để chồng con yên tâm đánh giặc. Đã có biết bao bà mẹ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ/ Các anh không về, mình mẹ lặng im (Tạ Hữu Yên). Có mẹ ở Hà Bắc đã vá hơn hai trăm chiếc áo cho bộ đội, chiến sĩ: …Tấm áo ấy bấy lâu nay con thường vẫn mặc/ Để nhớ ngày chúng con về Hà Bắc/ Quần nhau với giặc, áo con rách thêm/ Nên các mẹ già lại phải thức thâu đêm vá áo/ Tấm áo ấy bấy lâu nay con quý hơn cơm gạo/ Đời mẹ nghèo thương áo rách/ Áo rách nên thương/ (Nguyễn Văn Tý). Người mẹ trong bài thơ Đất quê ta mênh mông của Dương Hương Ly đã Ðào hầm từ lúc tóc còn xanh/ Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc/ Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác/ Bao đêm ròng tiếng cuốc vọng năm canh. Tấm lòng mẹ rộng mênh mông như luỹ như thành, có thể dấu cả sư đoàn dưới đất. Chính những việc làm tưởng như nhỏ nhoi của các mẹ, các chị đã góp phần làm nên một Dáng đứng Việt Nam, một sức mạnh Việt Nam tạc vào thế kỷ. Những bà má ở Hậu Giang, bà Bầm ở Trung du, bà Bủ ở Việt Bắc, mẹ Tơm ở Thanh Hoá, mẹ Suốt ở Quảng Bình, chị Út Tịch ở Cầu Kè, Trà Vinh… và biết bao các mẹ, các chị đã đi vào thơ ca, nhạc, hoạ. Chị Út Tịch với quyết tâm đánh Mỹ đến cùngCòn cái lai quần cũng đánh. Những cô gái người Pa cô, Vân Kiều đi tải đạn, và tay vót chông miệng hát không nghỉ. Những cô gái Châu Yên ở Tây Bắc với bàn tay vén khéo Đụng vào khung cửi vải thành hoa/ Vung nắm tấm hoá ra đàn gà, thế mà các cô đã dùng súng trường hạ thần sấm, con ma của không lực Huê kỳ. Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), tuổi đẹp như trăng rằm từ 18 đến 20 đã ngã xuống để làm xanh một khoảng trời con gái (Lâm Thị Mỹ Dạ). Nhiều cô gái Em ở nông trường hay ra biên giới miệng vẫn hát vang lời ca Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao! Những cô giáo ở Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên hay ở vùng sâu, vùng xa hy sinh cả tuổi xuân để đem chữ Cụ Hồ tới đàn em thơ ở các bản làng dân tộc xa xôi, hẻo lánh. Cô giáo người Tày Tô Thị Rĩnh đã dùng tiếng đàn để thu hút các em học sinh người Hmông tới lớp, lấy đồng lương ít ỏi của mình để mua tập vở cho các em. Ta hãy nghe lời tự hát, tự ru lòng mình đến rơi nước mắt của các cô giáo ở một bản làng heo hút vùng cao:

     

    Ở rừng tự hát ru nhau

                                         Lá trầu chị héo, quả cau em già

                                               Ước ao có một gian nhà

                                         Có trưa đưa võng đón bà lên chơi…   (Em đi – Lê Đình Cánh).

     

    Những người PNVN đẹp trong lao động, đẹp trong chiến đấu, và trong đời thường họ càng đẹp hơn. Người vợ đã nén nỗi đau, tiễn chồng ra trận và hứa với anh: Lúa tốt lắm anh ơi/ Giải thi đua em giật (Trần Hữu Thung), vẫn luôn xoè bàn tay bấm đốt , nhìn hoa bưởi, hoa chanh mà mong ngày anh về. Chị không mang nỗi buồn bi luỵ như người chinh phụ xưa trong buổi tiễn đưa:

     

    Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

                                      Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

                                            Ngàn dâu xanh ngắt một màu

                                     Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?      (Chinh phụ ngâm)

     

    Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn đã cảm nhận được vẻ đẹp kín đáo của một cô gái nông thôn gói bông bưởi vào chiếc khăn tay tặng người yêu ngày mai ra trận: Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu…/Hai người chia tay sao chẳng nói điều chi/ Mà hương thầm thơm mãi bước người đi. Nhiều cuộc chia tay đẹp như cánh nhạn lai bồng dưới một trời phượng đỏ.

     

    Những người mẹ, người vợ ở hậu phương luôn làm yên lòng người đi chiến đấu. Nàng dâu và mẹ chồng càng thương nhau hơn: Phải đâu mẹ của riêng anh/ Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi/ Mẹ tuy không đẻ không nuôi/ Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong… (Xuân Quỳnh). Người mẹ nào mà chẳng thấy mát lòng hả dạ khi nghe những lời tâm tình của nàng dâu như thế! Người phụ nữ hôm nay không còn là những cô gái xưa trong thơ Nguyễn Bính: Em là con gái trong khung cửi/ Dệt lụa quanh năm với mẹ già. Họ cũng không hoá đá như nàng Tô Thị xưa. Họ là một nửa của vẻ đẹp cuộc sống, và chiếm hơn 50% dân số nhân loại.

     

    Vẻ đẹp hình thể và vẻ đẹp tâm hồn của người PNVN ngày nay đã được nâng lên một bước phù hợp với thời đại trong xu thế hội nhập toàn cầu, nhưng vẫn giữ được tính dân tộc đậm đà. Họ vẫn phát huy vẻ đẹp của một thời anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang và còn mang vẻ đẹp về trí tuệ. Nhiều chị em là những giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ … ngang hàng hoặc vượt nam giới. Những hoa hậu, á hậu, hoa khôi, người đẹp thời trang hôm nay là những sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, biết hát hay, múa giỏi, trả lời ứng xử tinh thông. Họ không còn là những người đẹp trong cung cấm xưa để điểm tô cho ngai vàng phong kiến. Họ đang viết tiếp trang sử oanh liệt của Bà Triệu, Bà Trưng dưới thời đại mới, và họ có mặt khắp nơi trên mọi nẻo đường của Tổ quốc.

     

    Vẻ đẹp của người PNVN in dấu ấn đậm trong thơ ca, nhạc, họa, điêu khắc… và mãi bất tử với thời gian. Họ đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn hoá dân tộc.  Chúng ta hãy cùng chia sớt nỗi đau của các mẹ, các chị trong quá khứ, và cùng vui, cùng tự hào với những gì mà các mẹ, các chị đã góp phần làm nên vẻ đẹp của phụ nữ trong cuộc sống hôm nay và mai sau.

    Nguồn: chiasesuckhoe.com, Facebook, Khoahoc.TV

  • Sự tiến hóa của áo dài Việt Nam

    Sự tiến hóa của áo dài Việt Nam

    Qua nét vẽ Nancy Dương, chúng ta có thêm cái nhìn về sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam.

    Từ 2000 năm TCN cho đến thế kỷ 21: sự “tiến hóa” của trang phục người phụ nữ Việt Nam qua nét vẽ quyến rũ và thú vị của Nancy Duong.
    Nancy Duong là một nghệ sỹ ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa châu Á. Cô đặc biệt yêu thích kết hợp công nghệ kĩ thuật số với nghệ thuật truyền thống để thu được kết quả tuyệt vời nhất. Các tác phẩm của cô đã được đăng trên Exotique, Curvy và nhiều báo khác.

    Xem thêm: Người đẹp Sài Gòn xưa: Chiếc Solex và tà áo dài

    sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam

    “Tôi yêu thích những trang phục truyền thống Việt Nam và chứng kiến sự phát triển của nó theo thời gian. Tuy nhiên, cho đến tận bây giờ thông tin của tôi về trang phục truyền thống của người việt nam còn rất ít, chủ yếu là do thiếu thông tin. Tôi đã đọc được nhiều thông tin qua cuốn “Searching for Vietnamese Clothing” (tuyển tập thông tin nghiên cứu về trang phục việt nam của các nhà làm phim) và qua mạng. Tôi tổng hợp và tạo ra bài viết này để có một cái nhìn khách quan để nhìn thấy sự khác biệt của trang phục người Việt qua dòng thời gian.

    sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam

    Tôi đã tổng hợp tất cả và trình bày cùng với một số tư liêu tham khảo (qua tranh ảnh, tác phẩm điêu khắc, và những bức ảnh được chụp tại thời điểm đó…) Tôi đã cố gắng giữ những hình ảnh đó theo nguyên bản ban đầu, nhưng ở một số điểm tôi đã sửa đổi nhằm giúp đỡ các bạn tiện quan sát hơn. Một số tác phẩm nghệ thuật có những chi tiết rất khó để giải mã (đứng từ quan điểm Phật giáo học) và không thể giải thích một cách chi tiết bằng những cơ sở khoa học mà ta đã biết. Một số tác phẩm điêu khắc không màu tôi đã phối lại để các bạn tiện nhìn nhận. Rất tiếc khi tôi đã phải bỏ qua một số triều đại do những tác phẩm này thường thất lạc hoặc bị cách điệu hóa so với nguyên mẫu của nó.

    Sau khoảng thời gian 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, trang phục Việt Nam có nhiều nét tương đồng với Han Fu (một loại quần áo cổ trang của Trung Quốc, từ thời cổ đại hoàng đế cách đây 21 thế kỷ đến thời nhà Minh, là một trong những trang phục lâu đời nhất thế giới). Văn hóa Đông Sơn là triều đại duy nhất không chịu ảnh hưởng này.

    sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam

    Những màu sắc và dệt may trong ảnh 1 phần lớn là dựa trên phỏng đoán. Tôi có cảm giác rằng văn hóa Đông Sơn có nét giống với các bộ lạc dân tộc Việt Nam và đã lấy cảm hứng từ đây. Họa tiết trên khăn quàng vai vàng ấy bắt nguồn từ áo dài và tình cờ giống với hoa văn trên Trống đồng Đông Sơn. Đó chính là một vòng tròn.

    sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam

    Trung bình mọi người mặc 3-5 lớp quần áo. Thời tiết có thể lạnh (Những vùng phía Bắc) Từ thế kỷ 16 -18, khăn quàng cổ và găng tay đã ra đời và được sử dụng triệt để.

    sự thay đổi kiểu dáng, màu sắc, chất liệu của áo dài Việt Nam
    Tay áo dài 40cm và dài từ cằm đến hông vào thời Lê.

    Váy bị cấm vào năm 1826 vì chúng bị cho là “khó coi”. Không phải tất cả phụ nữ đều cho rằng mặc váy dễ làm việc hơn mặc quần.

    Tay áo dài 40cm và dài từ cằm đến hông vào thời Lê.
    Cổ áo và cúc áo xuất hiện vào thế kỉ 19 (sớm nhất là cuối thế kỉ 18). Điều thú vị là sự thay đổi này có vẻ trùng với sự ra đời của Chủ nghĩa đế quốc/ thực dân đế quốc Pháp. Cổ áo ban đầu khá thấp nhưng dần đã cao lên và gần nhau hơn.

    Tay áo dài 40cm và dài từ cằm đến hông vào thời Lê.
    Áo Tứ Thân vẫn còn tồn tại nhưng không phát triển từ thế kỉ 20 nên tôi quyết định tập trung vào áo dài.
    Nón rơm được đàn ông sử dụng (có thể thấy trong những bức ảnh quân lính triều Nguyễn) và trở thành 1 phần trong trang phục phái nữ vào thế kỷ 20.

    Triều Lê có lối ăn mặc phong cách và đa dạng nhất.”

    Tay áo dài 40cm và dài từ cằm đến hông vào thời Lê.
    (Sưu tầm – Nguồn: http://baotangaodaivietnam.com/ao-dai-trong-bai-viet/136-ao-dai-viet-nam-qua-net-ve-nancy-duong.html)

  • Người đẹp Sài Gòn xưa: Chiếc Solex và tà áo dài

    Người đẹp Sài Gòn xưa: Chiếc Solex và tà áo dài

    Một thời Velosolex

    Trong những hình ảnh được lưu lại của Sài Gòn năm xưa, hình ảnh một thiếu nữ mặc áo dài trắng đi chiếc Velosolex màu đen chạy trên đường phố, có lẽ là hình ảnh đem lại cho tôi nhiều kỷ niệm nhất, nhắc nhở lại một quãng thời gian dài đã xa, mà chính mình cũng đã gắn bó với chiếc xe này.

    Tưởng cũng nên có đôi dòng về chiếc Solex của thời Sài Gòn những năm 1960′ s. Ði Solex là cả một nghệ thuật, đòi hỏi sự khéo léo vì phía đầu xe rất nặng. Ấy thế mà những cô gái Sài Gòn vẫn tha thướt trên chiếc Solex trước những cặp mắt mê mẩn của cánh đàn ông.

    Vào những năm đầu thập niên 60′ s, hình ảnh những nữ sinh ngồi trên chiếc xe Solex đen bóng có lẽ vẫn luôn là những ấn tượng không thể nào quên của một thế hệ thanh niên thời đó. Solex cũng là biểu hiện của sự sang trọng vì nữ sinh có xe Solex thường thuộc con nhà khá giả. Nói chung, Solex là sự duyên dáng, phô trương kín đáo của người phụ nữ Việt Nam với chiếc áo dài mà vạt sau được gài trên yên xe, không che kín toàn vẹn

     

    Người đẹp & Velo Solex ( ngày nay)
    Người đẹp & Velo Solex ( ngày nay)
    Nữ sinh Sài Gòn với chiếc Velo Solex bên phải và chiếc Mobylette bên trái
    Nữ sinh Sài Gòn với chiếc Velo Solex bên phải
    và chiếc Mobylette bên trái
    Solex trên đường phố Sài Gòn
    Solex trên đường phố Sài Gòn
    Áo dài, nón lá trên chiếc Solex
    Áo dài, nón lá trên chiếc Solex
    Một thời Velosolex
    Một thời Velosolex
    Một thời Velosolex - Sài gòn 1961
    Một thời Velosolex – Sài gòn 1961
    Những nhà buôn xe moped thời đó đã tập trung khai thác vào phụ nữ...
    Những nhà buôn xe moped thời đó đã tập trung khai thác vào phụ nữ…
    Ngay từ năm 1956, VeloSoleX đã được phụ nữ sử dụng.
    Ngay từ năm 1956, VeloSoleX đã được phụ nữ sử dụng.

    Sản phẩm Velosolex do hai nhà sản xuất Pháp là Maurice Goudard và Marcel Mennesson cho ra đời tại Paris năm 1946, sau khi Thế Chiến Thứ II chấm dứt. Velosolex đơn giản là một chiếc xe đạp với một động cơ treo trên tay lái. Ðộng cơ có một khối kim loại cứng, hình ống, nhám để cọ xát vào lốp bánh xe trước để đẩy bánh xe đi, do vậy bánh xe trước phải luôn luôn bơm hơi căng cứng. Người sử dụng khởi động bằng cách đạp xe cho có trớn vài mét, xong đẩy bộ máy rời “ghi đông” để khối kim loại tròn ép sát với bánh xe.

    Xe chỉ chạy với tốc độ từ 15 mph đến 20 mph, và cũng tùy thuộc mặt đường. Xe không thể lên dốc, người sử dụng phải đạp phụ. Mỗi lần trời mưa, bánh xe bám bùn đất, Velosolex trở nên trơn trượt, rất khó khởi động, mặt khác, ổ gắn bu-gi của xe phơi ra ngoài, gặp trời mưa bị ẩm cũng khó nổ máy, do đó Velosolex chỉ dễ sử dụng trên những con đường khô ráo, bằng phẳng.

    Bộ máy xe cho phép người lái treo lên tay lái, để bỏ động cơ và đạp Velo giống như bất kỳ chiếc xe đạp nào khác, trong trường hợp xe hết xăng hay máy trục trặc không nổ.

    Khi một chiếc Velosolex hết thời, máy móc rệu rã, nó sẵn sàng vứt bỏ cái đầu máy thường ngày vẫn treo trước “ghi-đông” để gia nhập với hàng ngũ xe đạp “bình dân”.

    Velosolex dầu sao cũng vang bóng một thời, ra đời từ năm 1946 và chính thức giã từ thế giới, tạm ngừng sản xuất tại Pháp vào năm 1988, chuyển qua Tàu và Hungary nhưng rồi cũng đi vào quá khứ, sau khi đã bán được hơn 7 triệu chiếc.

    Chiếc xe Velosolex đầu tiên tôi có, mua năm 1960, sau khi ra đời, đi dạy học vài năm và chuẩn bị lập gia đình, tại một đại lý ở Huế, xe được chở từ Sài Gòn ra. Ở Việt Nam trong thời đó thì những ai có tiền, lương cao mới có thể mua Lambretta hay Vespa, còn khả năng chỉ có khá hơn xe đạp một bậc, thì sử dụng chiếc Velosolex. Thời giá của chiếc xe này vào năm 1960 là $8,500 trong khi lương độc thân của một công chức hạng trung khoảng $6,000. Ở Huế những lúc trời mưa to gió lớn, với những con đường bùn đất, đi xe Velosolex thật ra chẳng sung sướng gì, mà đôi khi còn là một cực hình khi bắt đầu khởi động cho máy nổ.

    Khác hẳn với các thành phố lớn như Sài Gòn, Ðà Nẵng, đối với các tỉnh thuộc địa đầu giới tuyến sau khi chia cắt đất nước, hình ảnh chiếc Velosolex vẫn còn là cái gì rất mới lạ, nên khi bạn cỡi xe vào đường làng, phun khói trắng, có thể có những đứa trẻ tò mò chạy theo xem chiếc xe lạ lùng này.

    Ba năm sau, nhận tờ giấy động viên trong tay, chiếc Velosolex chung nỗi buồn vui trong ba năm tròn phải từ giã tôi ra đi, để giúp chủ trang trải một số nợ nần.

    Năm 1964, sau khi ở quân trường ra, được bổ nhiệm về một đơn vị ở Sài Gòn, thuê nhà ở khu Bình Hòa, trên chuyến xe buýt khởi hành từ rạp hát Thanh Vân-Gia Ðịnh đến Sở Thú – Sài Gòn mỗi ngày, bây giờ lại có thêm một ông chuẩn úy với bộ quân phục làm việc kaki vàng số 2, đội nón “casquette” mới tinh đi về. Ông thiếu tá chỉ huy đơn vị thương tình anh chuẩn úy mới ra trường, phải leo xe buýt mỗi ngày, nên cho mượn tiền, để lại mua một chiếc Velosolex! Chỉ trong vòng bốn năm, vật giá leo thang, năm 1964, cũng chiếc xe ấy đã tăng giá khoảng 30%. Chiếc xe Velo thứ hai này cuối cùng bị đào thải trước đợt xe Honda Dame cũ, đồ thải của Nhật, được nhập vào Việt Nam, ưu tiên cho lính tráng dưới thời ông Không Quân Trần Ðỗ Cung làm tổng cục tiếp tế.

    Có thể nói Velosolex thuộc loại xe bình dân, không bì được với các ông bạn người Ðức mạnh mẽ như Goebel, Sachs, hay hai ông bạn người Ý hào hoa và sang trọng hơn, có mặt đồng thời là Lambretta và Vespa. Lambretta được phổ biến đi khắp thế giới qua Pháp, Ðức, Tây Ban Nha, Ấn Ðộ, Ðài Loan, Brazil, Columbia… và có tuổi thọ khá dài. Vespa trông thanh lịch và dễ thương hơn, nên trong bốn năm từ 1947 đến 1950, hãng Piaggio đã bán được hơn 90 nghìn chiếc, nhưng phải chờ khi Audrey Hepburn ôm eo Gregory Peck’s trên chiếc Vespa lạng lách trong thành phố Roma, trong phim Vacances Romaines (Roman Holiday,) ra đời năm 1953, thì chiếc Vespa đã trở thành nổi tiếng, bán hơn 100 nghìn chiếc ngay trong năm đó.

    Dáng mảnh khảnh của những chiếc Velosolex màu đen thong dong trên đường phố với cô thiếu nữ mang đôi găng tay trắng, đội nón lá, để tà áo bay bay là hình ảnh dễ thương của Sài Gòn, của một thời sinh viên đẹp đẽ. Những năm về sau khi chiến tranh càng khốc liệt, các loại xe phân khối lớn ồ ạt nhập cảng vào càng nhiều, những xa lộ được mở ra, khi ai cũng mê tốc độ, Velosolex đành chấp nhận số phận bị bỏ lại đằng sau.

    Bây giờ người ta đang muốn phục chế lại những chiếc Velosolex, Vespa của ngày xưa không phải để dùng trên đường phố mà như là một vật kỷ niệm ghi dấu một thời.

    Cô thiếu nữ với chiếc Velosolex trên đường phố Sài Gòn trong bức ảnh này, được chụp vào năm 1961. Tôi đoán chừng tuổi cô ngày đó khoảng chừng 20 đến 25. Bây giờ đã trên nửa thế kỷ trôi qua, nếu còn đâu trên cõi đời này, cô đã ngoại tuổi thất tuần. Chiếc Velosolex ngày đó chắc không còn tồn tại, nó chỉ là một bóng mờ dĩ vãng như những gì chỉ hiện diện một thời, nhưng có thể còn lưu lại trong trí nhớ của chúng ta mãi mãi.

    Tục ngữ Việt Nam có câu: “Một đời ta, ba đời nó” để nói rằng đời người dài nhưng những vật sở hữu thì dễ mất mát hay hư hao. Từ ấu thơ cho đến hôm nay, chúng ta đã dùng bao nhiêu chiếc xe, ở bao nhiêu ngôi nhà, dùng bao nhiêu đôi giày hay bộ quần áo. Nhưng cũng có đôi khi, ngôi nhà, con đường, tấm ảnh hay trang sách còn đó, nhưng “những người muôn năm cũ” đã không còn nữa!

    Không thấy thi sĩ nào đem chiếc Velosolex vào thơ, tôi đành mượn đôi lời của nhạc sĩ Ngọc Lễ viết về xe đạp, để tạm thương nhớ một thời Velosolex:

    “Quay đều, quay đều, quay đều, mối tình ngày xưa yêu dấu
    Quay đều, quay đều, quay đều, thương hoài những vòng xe…”

    Hinhanhvietnam.com tổng hợp từ Tạp ghi của Huy Phương

  • Tại sao phụ nữ miền Nam xưa thường ngồi xe một bên

    Năm 1972 … một vụ khủng bố xảy ra tại phòng trà Tự Do …. thủ phạm là một phụ nữ ngồi chàng hảng sau yên một chiếc Honda SS50 đã liệng một chùm lựu đạn 4 trái vào tầng trệt của phòng trà lúc đó đang đầy khách … Tiếng nổ gây cho một số người bị thương … trong đó cỏ cả nữ ca sĩ Mai Hương … (ái nữ của bà Kiều Hạnh) … khi cô đang trình bày bản nhạc “Love Story” của Francis Lai …. Chính quyền sau đó đã ra lịnh cấm tất cả những người ngồi “chàng hảng” trên yên sau xe gắn máy cũng như các loại xe không động cơ khác …(*)
    Năm 1972 … một vụ khủng bố xảy ra tại phòng trà Tự Do …. thủ phạm là một phụ nữ ngồi chàng hảng sau yên một chiếc Honda SS50 đã liệng một chùm lựu đạn 4 trái vào tầng trệt của phòng trà lúc đó đang đầy khách … Tiếng nổ gây cho một số người bị thương … trong đó cỏ cả nữ ca sĩ Mai Hương … (ái nữ của bà Kiều Hạnh) … khi cô đang trình bày bản nhạc “Love Story” của Francis Lai …. Chính quyền sau đó đã ra lịnh cấm tất cả những người ngồi “chàng hảng” trên yên sau xe gắn máy cũng như các loại xe không động cơ khác …(*)

    (*) – Xin lưu ý rằng Quy định ngồi xe một bên chỉ chính thức ban hành vào năm 1972 dưới thời VNCH, trước đó phụ nữ Miền Nam vẫn ngồi một bên.

    Người Việt xưa vốn đề cao sự kín đáo nơi người phụ nữ … Từ đó đưa đến một yếu tố sống … “bé gái … cô thiếu nữ …. người Mẹ” …. là ba phương diện huyền bí của nhân loại … Phong tục Á Đông luôn cho những gì thuộc về cơ thể người phụ nữ là vưu vật của vũ trụ … cần phải bảo tiết vẹn nguyên … Thế nên ngay từ nhỏ người phụ nữ Đông Phương … trong đó có VN … đã được dạy dỗ và chăm sóc rất kỹ bản thân cùng sự “nết na” của mình …

    Ngày trước … cách đi đứng hay ăn mặc có chút “tính tự do” của phụ nữ như thời nay đều sẽ không được khuyến khích … Ăn mặc là yếu tố luôn luôn được xét kỹ để lượng định “nết” của người sử dụng …. có đứng đắn hay không !!! …

    Cách đi đứng ngoài đường và thái độ cư xử ở những nơi công cộng cũng là “nết” của người phụ nữ …. Ngày trước rất hiếm khi gặp một nhóm thiếu nữ hoặc phụ nữ Saigon nào ra đường mà cười nói … đùa giợn … la hét … ngả ngớn như ngày nay … Một thí dụ dễ hiểu nhứt là nếu cười thì cũng phái lấy tay hay khăn tay (mouchoir) che miệng lại …. Cười lớn tiếng hay há to miệng ra sẽ bị nhận ngay hai tiếng … “mất nết” … Những cái này … ngoài những bài học về Đức Dục ở nhà trường … Thì gia đình là yếu tố đầu tiên phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của người con gái trong nhà … Từ đó mà Việt ngữ có hai tiếng “con – nhà gia – giáo”

    Những sự giáo dục như vậy đã ứng vào cách thức đi đứng của người phụ nữ Việt xưa … Khi phương tiện lưu thông ngày càng du nhập nhiều vào Việt Nam … và ngay với chiếc xe đạp … người phụ nữ Việt xưa cũng đã có cách sử dụng để “xếp hạng” họ rồi … Những phụ nữ được coi là “gia giáo” … khi họ tập đi xe đạp thì đó là một “chuyện lớn” … Vì lý do giữ thăng bằng … người chạy xe phải luôn có những cử chỉ “ngoài khuôn phép” … Chẳng hạn như hai chân mở rộng … hai cánh tay không thể khép dài hai bên hông kềm giữ tà áo khỏi bị “gió bay”

    … Nhứt là khi phải “gài hai vạt trước sau vào porte de baggage (yên sau) và guidon (tay lái) để hai chân không bị vướng khi đạp xe đã khiến cho hai chân đôi khi phải mở rộng để quần khỏi quấn vào dây chaine (xích) …. Cử chỉ “mở hai chân” … hoặc kêu là “ngồi hai bên” …. hay nói nôm na là “chàng hảng” … thì đây là điều đại kỵ … Do đó mà ta thấy ít có người phụ nữ Việt Nam nào ngày xưa lại sử dụng xe đạp nam (hay kêu là xe “đòn dông” (hay xe “course”) ….hoặc “xe sườn ngang” …

    Cũng vì ý xấu của hai tiếng “chàng hảng” … mà người nữ khi đi xe hai bánh xưa đều luôn ngồi cố giữ hai chân không mở ra quá rộng … mà cũng không chụm lại quá sát để khó điều khiển xe một mình …. Khi được người khác chở thì cách hay nhứt để giữ nét duyên dáng và sự “lôi cuốn thầm kín thiên nhiên” của họ … người nữ luôn ngồi một bên yên sau … Nếu “lạ” chăng thì chỉ là … “làm thế nào để ngồi yên suôt một khoảng thời gian dài … mà không hề “tê chân” khi xuống xe !!! ….????…”
    Không chỉ ở VN mà ở Indonesia cũng cấm, nhưng sau Hòn Ngọc Viễn Đông đến hơn 30 năm. Năm 2013, Theo luật mới, phụ nữ ở TP Lhokseumawe, tỉnh Aceh, phía bắc đảo Sumatra chỉ được phép ngồi vắt hai chân sang một bên khi được chở trên xe máy!
    Nguồn: sggdpost.com và Facebook
  • Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Áo dài là trang phục tôn lên nét thanh nhã phụ nữ. Áo dài Việt Nam có lịch sử “tiến hóa” khá lâu đời và ngày càng đơn giản theo hướng tinh tế hơn, thoải mái hơn. Xem thêm : lịch sử áo dài Việt Nam

    Thời kỳ trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam do ảnh hưởng của các nền văn hóa mới hội nhập. Áo dài được cách tân và phối kết hợp với nhiều hình ảnh thời thượng khác nhau, như xe Solex, kính râm…

    áo dài ngồi xe xich lo viet nam sai gon 1961
    áo dài sai gon 1961
    phụ nữ mặc áo dài đi xe đạp máy sài gòn
    Người phụ nữ mặc áo dài duyên dáng trên chiếc Solex

    áo dài xưa đạp xe sài gònáo dài xưa việt nam sài gòn 1975mặc áo dài rất ngầu áo dài sài gòn xưacô gái mặc áo dài đi xe đạp sài gòn xưa

    Madame-Nhu-in-Paris-1963 "Bà Cố vấn", vợ của Ngô Đình Nhu tại Paris 1963
    “Bà Cố vấn”, vợ của Ngô Đình Nhu tại Paris 1963
    Bà Trần Lệ Xuân và con gái Lệ Thủy
    Bà Trần Lệ Xuân và con gái Lệ Thủy
    2 mẹ đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân
    2 mẹ đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân

    Áo-dài-và-người-phụ-nữ-trước-năm-1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    SG 1972 – Chùa Vĩnh Nghiêm
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Saigon 1969 – ngã tư Lê Lợi – Pasteur
    Photo by Eckhard Clausen
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài 1961
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài và người phụ nữ 1961
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài 1961
    Áo dài Sài Gòn trước 1975
    Áo dài Sài Gòn trước 1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài Sài Gòn 1961
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài 1961

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài 1961

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài 1961

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài Sài Gòn 1955
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài 1955
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Nét trang nhã của áo dài 1955
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài 1955

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Một người nông dân ở Đà Nẵng
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Chợ Truồi, một cái tên nghe khá lạ, nay thuộc xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế, nơi có con sông Truồi chảy qua.
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Huế 1974
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Các mẹ đang gánh hàng trn con đường ở Đà Nẵng 1962-1963
    Loc Dien, Hue 1965
    Loc Dien, Hue 1965
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Những người bán rong mặc áo dài ở Huế 1968
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài thật đẹp, chụp ở Đà Nẵng 1964-1968
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Mặc áo dài đi bán vé số ở Đà Nẵng
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975. Đường Võ Tánh Bên hông lăng Cha Cả (nay là Hoàng Văn Thụ)

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    VAA English teachers
    Cô giáo Anh văn Hội Việt Mỹ với các học viên người Việt
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Học sinh trường Quốc Gia Nghĩa Tử tham dự lễ QK năm 1969 tại NTQĐ Biên Hòa
    áo dài Huế vài tháng sau tết Mậu Thân 1968
    áo dài Huế vài tháng sau tết Mậu Thân 1968
    7-1962 Mrs. Dinh Nhu Ngo arrives in Vinh Long Province for inspection tour
    7-1962 Mrs. Dinh Nhu Ngo arrives in Vinh Long Province for inspection tour
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Hình ảnh trên một chiếc bưu thiếp

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Sài Gòn 1963
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Sài Gòn 1956
    Đệ nhất phu nhân Nguyen Thi Mai Anh ( Vợ của ông Nguyễn Văn Thiệu)
    Đệ nhất phu nhân Nguyen Thi Mai Anh ( Vợ của ông Nguyễn Văn Thiệu)
    Bà Nguyễn Văn Thiệu, Đệ nhất Phu nhân cuối cùng của VNCH
    Bà Nguyễn Văn Thiệu, Đệ nhất Phu nhân cuối cùng của VNCH
    Sinh viên Việt Nam mặc áo dài
    Sinh viên Việt Nam mặc áo dài
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Trên một con đường gần sân bay Sài Gòn

    vợ ông Nguyễn Cao Kỳ
    vợ ông Nguyễn Cao Kỳ
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Ảnh tuyển chọn Áo dài Sài Gòn 1963
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Sinh viên tình nguyện diễu hành trên đường phố Sài Gòn 1966
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    SAIGON 1964 – Góc đường Lê Lợi – Phan Bội Châu (bên hông Chợ Bến Thành)

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Bach Dang Quay - Saigon, Oct 1965  Những tà áo dài phất phơ trong gió như những cánh bướm trên đường phố Sài Gòn trước 1975 luôn là hình ảnh gây ấn tượng cho du khách nước ngoài
    Bach Dang Quay – Saigon, Oct 1965
    Những tà áo dài phất phơ trong gió như những cánh bướm trên đường phố Sài Gòn trước 1975 luôn là hình ảnh gây ấn tượng cho du khách nước ngoài

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Christmas Shopping - Saigon Dec 1967
    Christmas Shopping – Saigon Dec 1967

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Trường nữ Trung học Lê Văn Duyệt
    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975
    Sài Gòn sau tết Mậu Thân 1968

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975Sân trường Nữ TH Gia LongÁo dài và người phụ nữ trước năm 1975Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975SG aodai 1964

    nữ sinh Sài Gòn mặc áo dài ngày xưa
    nữ sinh Sài Gòn mặc áo dài ngày xưa
    Mấy cái bóp mây trên tay hai cô rất thịnh hành ở SG hồi đó -- hàng VN chất lượng cao
    Mấy cái bóp mây trên tay hai cô rất thịnh hành ở SG hồi đó — hàng VN chất lượng cao
    Sài Gòn áo dài 1964
    Sài Gòn áo dài 1964
    Áo dài Sài Gòn 1964 phía trước Thư Viện Abraham Lincoln, cạnh bến Rap Rex
    Áo dài Sài Gòn 1964
    phía trước Thư Viện Abraham Lincoln, cạnh bến Rap Rex
    Sài gòn nữ sinh Lê Văn Duyệt
    Sài gòn nữ sinh Lê Văn Duyệt

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

    nữ sinh Trưng Vương 1974
    nữ sinh Trưng Vương 1974

    Áo dài và người phụ nữ trước năm 1975

  • “Hot Girl” Sài Gòn trước năm 1975

    “Hot Girl” Sài Gòn trước năm 1975

    Khác với nét đài các của thiếu nữ Hà Nội hay vẻ thùy mị thướt tha của con gái Huế, những thiếu nữ Sài Gòn xưa gây ấn tượng bởi vẻ phóng khoáng, tươi trẻ và tự tin.

    Xem thêm: Phong cách thời trang Sài Gòn xưa

    Đi xe đẹp…

    Hình ảnh người đẹp Sài Gòn rất gắn bó với những chiếc xe “thời thượng”. Thời đó, những chiếc Vespa chạy trên đường đông như mắc cửi. Dù xe do người đàn ông cầm lái  nhưng xe chỉ đẹp khi có các cô gái Sài Gòn trẻ trung, duyên dáng ngồi trên yên sau.

    Hot Girl Sài Gòn đi xe Vespa
    Hot Girl Sài Gòn đi xe Vespa

    Phụ nữ Sài Gòn xưa thích trải nghiệm cái mới, chiếc xe Velo Solex, loại xe của Pháp có gắn động cơ phía trước cũng rất được chị em ưa chuộng. Ði Solex là cả một nghệ thuật, đòi hỏi sự khéo léo vì phía đầu xe rất nặng. Ấy thế mà những cô gái Sài Gòn vẫn tha thướt trên chiếc Solex trước những cặp mắt mê mẩn của cánh đàn ông

    Ði Solex là cả một nghệ thuật

    Thích sống vui vẻ, ưa hưởng thụ

    Phụ nữ Sài Gòn xưa rất thích làm ăn buôn bán kiếm tiền, nhưng tiêu tiền cũng rất “phóng tay”, ưa sống xa hoa, ít chịu tiết kiệm. Bởi thế sự phóng khoáng của phụ nữ Sài Gòn những năm 60 trong mắt nhiều người là “dân chơi thứ thiệt”, làm bao nhiêu xài bấy nhiêu và dù sống trong khó khăn, nghèo khổ nhưng vẫn giữ cho mình những thú vui giải trí hưởng thụ.

    Trên phố, những cô gái dù buổi sáng tất tả bên quầy bán nước giải khát, buổi chiều vẫn cuốn tóc mặc áo dài thoa môi đỏ đi dạo phố. Mẹ dắt bầy con, đứa chạy trước, đứa theo sau, kêu nhau inh ỏi. Họ rất thích mua sắm, trong những cửa hàng, những cô gái ăn mặc đàng hoàng chen lẫn với những người mặc đồ lao động không chút ái ngại, mà trên mặt ai cũng lộ ra vẻ hân hoan hớn hở.

    Phụ nữ Sài Gòn xưa rất thích làm ăn buôn bán kiếm tiền, nhưng tiêu tiền cũng rất “phóng tay”
    Phụ nữ Sài Gòn xưa rất thích làm ăn buôn bán kiếm tiền, nhưng tiêu tiền cũng rất “phóng tay”

    Những năm 60, ngoài những tầng lớp thượng lưu, con gái Sài Gòn thường làm một nghề rất đặc biệt là nghề gánh nước mướn, trở thành một trong số những nghề có chỗ đứng trong xã hội. Lý do vì Sài Gòn những năm 60 chưa có hệ thống nước kéo vào nhà, đồng hồ nước vào thời điểm đó là một trong số những thứ quá xa xỉ. Người dân muốn có nước thì ra các phông – tên đựng nước được lắp sẵn ở những nơi công cộng. Vậy là nảy sinh nhu cầu gánh nước về tận nhà của những gia đình giàu có.

    Trong số những cô gái gánh nước mướn thời đó có hoa khôi chân đất Bùi Thị Ba. Tuy rất vất vả cực nhọc nhưng vẻ đẹp mỹ miều của cô đã lọt vào mắt xanh rất nhiều công tử con nhà giàu. Ngày ấy, ngắm nhìn nàng quẩy đôi gánh nước đi về mỗi ngày đã làm xốn xang trái tim chàng hắc công tử nổi tiếng miền Nam thời đó.

    Hot girl Sài Gòn xưa

     

    Mang nét tinh nghịch, đáng yêu

    Thời đó, vào mỗi chiều cuối tuần, phụ nữ Sài Gòn nói chung và nữ sinh Sài Gòn nói riêng lại cùng nhau đi dạo bát phố trên đường Lê Lợi, Tự Do. Họ vừa đi, vừa nói chuyện với nhau rất vui vẻ. Vào dịp giáp tết, các trường hay tổ chức những buổi giao lưu văn nghệ. Lúc đó, mỗi trường đều làm Nội san Xuân, xong đóng tập đem bán gây quỹ tặng các bạn nghèo. Những nữ sinh xinh xắn và có tài ăn nói được chọn để lập những nhóm đi bán nội san ở các trường khác. Khoảnh khắc đó thật đáng nhớ khi đang giữa mùa mát trời Sài Gòn, các cô gái bất ngờ vào lớp với tập báo trên tay và nụ cười rạng rỡ trên môi khiến các nam sinh đứng ngồi không yên.

    Hot girl Sài Gòn xưaHot girl Sài Gòn xưa

    Phong cách thời trang hiện đại

    Khoảng giữa những năm 60, các mốt thời trang khác như jupe hay mini jupe và các thứ váy đầm cập nhật nhanh chóng. Nhiều người nước ngoài bước chân vào “hòn ngọc Viễn Đông” thời bấy giờ đã ngỡ ngàng khi thấy thời trang Sài Gòn theo sau phương Tây chỉ sau một vài tháng. Tuy cập nhật “mốt” rất nhanh, phụ nữ Sài Gòn xưa vẫn tự gạn lọc và tìm cách tạo nét riêng cho mình chứ không thích mặc giống nhau hay na ná nhau.

    Phụ nữ Sài Gòn xưa với phong cách thời thượng
    Phụ nữ Sài Gòn xưa với phong cách thời thượng

    Hot girl Sài Gòn xưa

     

    Áo dài thướt tha cũng là lựa chọn của nhiều phụ nữ Sài Gòn xưa. Theo những lời kể lại, thì dù có vận áo dài hay đồ tây, phụ nữ Sài Gòn cũng đi lại rất nhanh nhẹn, chân bước dài, tay vung nhẹ nhàng, vừa phải. Dáng đi rất nhanh nhưng vẫn giữ được sự thanh thoát, uyển chuyển.

    Hot girl Sài Gòn xưa

    Với áo dài, váy ngắn, tóc thời trang, các thiếu nữ Sài Gòn xưa quyến rũ, đài các ngay trong cuộc sống đời thường.

    Thời trang của họ ảnh hưởng nhiều bởi thời trang Pháp thời bấy giờ. Vẻ đẹp tổng hòa và độc đáo, cởi mở nhưng không hề dễ chinh phục

    Sài Gòn là mảnh đất phóng khoáng, cư tụ nhiều dân cư khắp nơi trên đất nước đổ về làm ăn, sinh sống. Bởi thế vẻ đẹp của các giai nhân trên đất Sài Gòn là vẻ đẹp tổng hợp từ nhiều vùng miền tạo thành, nhưng vẫn có nhiều nét riêng độc đáo.

    Phụ nữ Sài Gòn xưa giản dị nhưng rất thanh lịch, sang trọng. Vẻ đẹp tươi vui, hiện đại và phóng khoáng của Phụ nữ Sài Gòn xưa là vẻ đẹp hình thành từ cuộc sống nhộn nhịp của Sài Gòn từ cuối thế kỷ 19, cuộc sống luôn bận rộn trên bến dưới thuỵền và nhiều cơ hội làm ăn. Cũng có thể do Sài Gòn không có một mùa lạnh để mà co ro, lặng lẽ hay trầm ngâm trên đuờng đi. Phụ nữ cũng không chịu nhiều lề thói phong kiến nghiêm khắc, cuộc sống bung ra đường cũng khiến họ thoải mái và tự nhiên

    Hot girl Sài Gòn xưa

    Phụ nữ Sài Gòn xưa không mang nét đẹp hoài cổ, đằm thắm, mà có hơi thở của sự tự tin, trẻ trung và thời thượng
    Phụ nữ Sài Gòn xưa không mang nét đẹp hoài cổ, đằm thắm, mà có hơi thở của sự tự tin, trẻ trung và thời thượng

    Nhưng nếu nhìn vào vẻ bề ngoài cởi mở mà đánh giá tính cách phụ nữ Sài Gòn xưa thì rất sai lầm. Phụ nữ Sài Gòn ngày ấy có thể ngồi ăn hàng ngoài đường rất hồn nhiên nhưng cử chỉ không hề suồng sã. Họ cũng có thể ăn mặc thoáng mát với quần short, áo không tay hay váy ngắn nhưng không có nghĩa là chơi bời buông thả. Họ có thể không ngại chạy thử một lọai xe mới, đánh tennis, bơi thuyền thậm chí tham gia một trận đá bóng nhưng không hề cố tỏ mình là “có cá tính” như các “Hot Girl” bây giờ. Họ dễ bắt chuyện nhưng không dễ làm thân, rất cởi mở vui vẻ khi làm quen nhưng không dễ “cưa đổ” như nhiều chàng tưởng bở.

    Nếu những giai nhân Hà thành mang vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, e lệ, đoan trang, với nét duyên thầm thì nhan sắc Sài Gòn đẹp rất đỗi tự nhiên pha chút hoang dại, vừa phóng khoáng lại vừa kiêu sa. Phụ nữ Sài Gòn xưa không mang nét đẹp hoài cổ, đằm thắm, mà có hơi thở của sự tự tin, trẻ trung và thời thượng.

    Thời nay, phụ nữ Sài Gòn vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng, như chính đặc trưng của vùng đất ấm áp mến khách này, họ luôn đẹp một vẻ đẹp thông minh, cá tính và phóng khoáng. Tuy thế, ngắm lại những tà áo dài, những tấm lưng ong, những mái tóc bồng bềnh của một thời nhan sắc Sài Gòn đằm thắm ngày xưa, chúng ta cũng không khỏi một thoáng bồi hồi thương nhớ.

    Nguồn: http://www.saigontrongtoi.com/