Tag: Tiếng Việt

  • Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Nói lái là một hình thức vô cùng độc đáo của ngôn ngữ Việt. Ngay từ trong truyện dân gian, có có câu chuyện liên quan đến nói lái. Bạn có bao giờ nghe giai thoại giải thích đại phong là lọ tương?

    Đại khái là một người bán tương ghi tên nhãn hiệu là Đại Phong. Món này ăn với rau muống rất ngon. Nhưng người mua thắc mắc Đại Phong là gì thì được giải thích như sau:

    – Đại là lớn, phong là gió. Đại phong là gió lớn, gió lớn thì chùa đổ, chùa đổ thì tượng (Phật) lo, tượng lo là lọ tương.

    Một giai thoại khác, ở trong Nam. Lúc ấy, vào buổi tàn thời của nho học, người ta bỏ bút lông, giắt bút chì; một số chạy theo thực dân Pháp. Trong số ấy có Nguyễn Văn Tâm, một lòng cúc cung với mẫu quốc, được người Pháp cất nhắc làm quan lớn; trên dưới trong ngoài, ai cũng biết nhờ bợ đỡ quan thầy mà làm quan to.

    Tâm lấy làm tự đắc lắm. Phú quí sinh lễ nghĩa, quan lớn nhà ta cũng muốn tỏ ra mình phong lưu, muốn có những bức hoành, trướng để trang trí. Có người dâng lên quan bốn chữ đại tự Đại Điểm Quần Thần, viết chân phương, rất đẹp và giải thích Quần thần là người bề tôi, Đại điểm là điểm lớn, ý nói quan lớn là người bề tôi có vị trí to lớn, quan trọng trong triều.

    Quan lấy làm thích thú đem treo bức liễn trong phòng khách; ai đến thăm quan cũng đem khoe và giải thích như trên. Ít lâu sau có người đến ngắm bức liễn, rồi xin quan lớn dẹp đi. Quan ngạc nhiên hỏi, người ấy xin đừng bắt tội, đuổi hết tả hữu rồi giải thích: Người viết liễn đã cố ý bỡn quan lớn, mà quan không biết. Bốn chữ trên dịch từng chữ: Đại điểm là chấm to; Quần thần là bề tôi, nói theo kiểu trong Nam là bầy tôi. Đại Điểm Quần Thần là Chấm To Bầy Tôi nói lái lại là Chó Tâm Bồi Tây. Chẳng nghe chuyện kể nói quan có tìm tác giả bốn chữ nói trên để trị tội hay vì không muốn làm vỡ chuyện mà ỉm luôn.

    Nói lái – Nét đặc sắc của văn hóa và ngôn ngữ cổ truyền

    Trong đời sống hàng ngày, chẳng hiếm khi chúng ta gặp những câu nói lái, đôi khi chỉ để bỡn cợt, châm biếm hay tránh những tiếng thô tục.

    Ở Nam Bộ, có câu :

    Con cá đối nằm trên cối đá,
    Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
    anh mà đối được, dẫu nghèo em cũng ưng.

    Người Việt, đối với những người lớn tuổi hay trưởng thành ở Việt Nam chẳng có ai là không biết cách nói lái, tùy theo gốc gác hay sinh hoạt ở Bắc, Trung hay Nam mà cách nói lái có khác nhau; nhưng tựu chung, khi nói lái, người ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà người nghe, vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra như trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần kể trên.

    Đi sâu hơn vào chi tiết: một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chữ Chanh, chẳng hạn, gồm phụ âm Ch và âm anh. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ được phát âm khác nhau: Chanh, chánh, chành, chạnh… và tất nhiên có nghĩa khác nhau, và đây cũng là nét độc đáo của ngôn ngữ Việt, người nước ngoài bảo người Việt nói chuyện nghe giống như hát.

    Cũng có chữ không có phụ âm mà chỉ có âm, như trong ảnh ương hay ảo ảnh…

    Nói Lái theo cách ngoài Bắc.

    Trở lại câu chuyện đại phong là lọ tương nói trên. Tượng lo nói lái lại là lọ tương, người miền Bắc đổi chỗ cho hai chữ, đồng thời đổi luôn hai dấu (nghĩa là đổi âm sắc): lo đổi chỗ cho tượng, lấy dấu nặng thành lọ, tượng đổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành tương.

    Ta lấy vài thí dụ khác:

    Đấu tranh nói lái lại là tránh đâu: tranh đổi chỗ cho đấu, lấy dấu sắc của đấu thành tránh, đấu đổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh (không dấu) thành đâu.

    Hải phòng nói lái lại là phỏng hài: hải đổi chỗ cho phòng lấy dấu huyền của phòng thành hài, phòng đổi chỗ cho hải lấy dấu hỏi của hải thành phỏng

    Cứ theo cách ấy thì:

    Sầm Sơn là sờn sâm
    Thái Bình nói lái là bính thài
    Hà Nội là nồi hạ…

    Như vậy thì hai chữ có cùng dấu không nói lái được, như nhân dân, anh em, Sài Gòn, thánh thót, thực vật…. Cũng vậy, những tiếng láy như xanh xanh, hơ hớ, đo đỏ, lăng xăng… không thể nói lái được và nếu chúng ta cố tình theo qui luật trên thì cũng chỉ đổi vị trí cho nhau thôi.

    Nói lái theo kiểu trong Nam.

    Trong Nam người ta nói lái theo cách khác: cá đối nói lái lại thành cối đá.

    Ta nhận thấy theo cách nói lái trong nam, âm trong hai chữ đổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí, phụ âm c ghép với âm ối của đối thành cối, và phụ âm đ ghép với âm á thành đá. Như vậy:

    Sài gòn – sòn gài
    Cần thơ nói lái là cờ thân
    Cầy tơ là cờ tây
    Cửu long là cỏng lưu
    Thủ Đức thức đủ
    vv.. và vv..

    Bút hiệu Thế Lữ (trong Tự Lực Văn Đoàn) chính là chữ nói lái của tên thật của ông: Nguyễn Thứ Lễ. Ngày trước đã có vế đối:

    Ngày Tết, Thế Lữ đi hai thứ lễ: lê ta và lê tây

    Trong vài trường hợp người ta nói lái cho cả ba chữ, bằng cách giữ nguyên chữ giữa như trong trường hợp mèo đuôi cụt thành mút đuôi kèo (dấu nặng trong cụt biến thể thành dấu sắc trong mút), như vậy hà thủ ô nói lái thành hồ thủ a.

    Đôi khi người ta lại đổi chỗ hai phụ âm cho nhau (tuy ít thôi) để sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hơn, thí dụ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành biến chinh, do đó với hai chữ tranh đấu có người đã đùa mà nói rằng: tranh đấu thì tránh đâu khỏi bị trâu đánh thì thế nào cũng phải đấu tranh.

    Cũng như trong trường hợp trên, những chữ trùng âm như nhân dân, lù đù, lật đật… không nói lái được.

    Vài giai thoại – câu đối – câu đố

    Chúng ta đã thấy giai thoại về Đại điểm quần thần, Đại phong ở trên. Chúng ta cũng thường nghe nói đến câu tiếng lóng “hạ cờ tây” là “hạ cầy tơ” của dân nhậu trong Nam và “mộc tồn” (là “cây còn”, nói lái thành “con cầy”) ở ngoài Bắc, hay những lối nói lái rất quen thuộc: con chín bến đò (con chó bến đình), Hương bên đèo (heo bên đường), theo con Hương (thương con heo)…

    Trong Nam, mấy bạn nhậu thường hay nói chữ: “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu” cũng đừng vội tưởng họ sính nho, thật ra họ đùa “rượu gặp tri kỷ có trời mới biểu (bảo) thôi” (thiên = trời, bôi thiểu = biểu thôi)….

    Về câu đối, xin trở lại câu ca dao trên:

    Con cá đối nằm trên cối đá.
    Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.
    Anh mà đối đặng dẫu nghèo em cũng ưng.

    được đối là:

    Chim mỏ kiến(g) nằm trong miếng cỏ
    Chim vàng lông đáp đậu vồng lang
    Anh đà đối đặng hỏi nàng ưng chưa?

    Phải công nhận là câu đố và câu trả lời không chê vào đâu được, chắc gì chúng ta tìm được câu trả lời nào hay hơn cho cô gái tinh nghịch này.

    Một câu khác, nghe chừng như xuông miệng nói chơi, nhưng lại đối rất chỉnh, trong cả hai vế đều dùng cách nói lái:

    Kia mấy cây mía
    Có vài cái vò

    Một câu đối khác, nghe được sau 75, lúc người dân trong Nam không còn gì để sinh sống, đặc biệt là giới thầy cô thuộc chế độ cũ được lưu dụng. Dầu gì chăng nữa, trước đó họ là lớp người tuy sống nhờ đồng lương cố định, nhưng cũng có cơm ăn áo mặc đầy đủ. Người ta nghe thấy hai câu đối tết, nhại theo Tú Xương ngày trước, nhưng rất đặc sắc và chua xót:

    Chiều ba mươi, thày giáo tháo giày ra chợ bán
    Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang.

    Thực tế là giày không còn là một phần trong y phục của thày giáo, nhưng cháo đã là phần lương thực thường thấy trong bữa ăn hàng ngày.

    Trong một đám cưới, chú rể người Hóc Môn, cô dâu ở Gò Công; có người rắn mắt đọc đùa câu đối:

    Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc – Gái Gò Công vừa gồng vừa co

    Trong văn chương bình dân Việt Nam, câu đố chiếm một vị trí tuy khiêm nhường nhưng có sức sống tương đối mạnh mẽ so với hò đối đáp chẳng hạn. Ngày nay ta vẫn thường nghe những câu đố trong khi không còn thấy hò đối đáp trong sinh hoạt hàng ngày của người bình dân. Trong các dạng câu đố, cách dùng nói lái để đánh lừa người khác là một trong những cách tuy dễ nhưng cũng làm khó cho người bị đố không ít. Sau đây là vài câu đố dùng nói lái, lời giải có ngay trong câu đố:

    -Tổ kiến, kiển tố, đố là chi? – (đáp: tổ kiến)

    -Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai. Bò la, bò liệt đố ai biết gì? – (đáp: khoai lang).

    Những chữ mũi, lái, khứ, lai chỉ cốt để đánh lừa người bị đố.

    – Con gì ở cạnh bờ sông,
    cái mui thì nát cái cong thì còn – (đáp: con còng – cong còn nói lái thành con còng)

    – Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng – (đáp: ngón chưn cái)

    – Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn – (đáp: con ngựa)

    – Miệng bà ký lớn, bà ký banh
    Tay ông cai dài, ông cai khoanh – (đáp: canh bí, canh khoai)

    Một vài người cũng câu nệ về nói lái, tránh đặt tên con những chữ có thể nói lái thành thô tục như Thái (dễ ghép với chữ có phụ âm d: thái dọt, thái dúi, thái dòng…). Lài (dễ ghép với chữ có âm ồn như lài dồn, lài cồn, lài mồn…). Côn, Tôn, Đôn (ghép với chữ có phụ âm l) v.v.. và v.v..

    Vài suy nghĩ

    Qua những phân tích trên, ai cũng công nhận nói lái quả là một đặc thù của tiếng Việt. Chúng ta dùng nói lái để châm biếm, để gài người khác trong các câu đố, câu đối, để tránh những thô tục khi cố ý ghép chữ dể hạ thấp người khác.

    Bỏ qua một bên những cái độc đáo, lắt léo của nói lái trong câu đố, câu đối; để chỉ chú ý đến phần đông các trường hợp chúng ta sử dụng nói lái như là một hình thức hạ thấp người khác. Trong phần trên chúng ta đã thấy nhà nho nào đó đã dùng sự uyên bác của mình để chửi một quan to mà quan chẳng những đã không biết mà còn hoan hỉ chấp nhận trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần.

    Chúng ta đã dùng nói lái như một thứ vũ khí của người muốn dùng tiểu xảo để chống đối, để chứng tỏ mình hơn người, như một thứ vũ khí của kẻ yếu, kẻ bị trịđể bôi bác, nhạo báng, ám chỉ… để hạ phẩm cách của kẻ mạnh, kẻ thống trị.

    Vấn đề nêu ra để chúng ta phải suy gẫm là tại sao chúng ta có những cách rất tiêu cực như vậy? Phải chăng vì hoàn cảnh dân tộc Việt Nam đã đắm chìm quá lâu trong cảnh bị trị, dù của ngoại bang hay của chính người đồng chủng. Người dân phải tìm cách tránh né, che đậy để sinh tồn trước sức mạnh của kẻ thống trị. Vấn đề đặt ra cho chúng ta cùng suy nghĩ là chúng ta có nên duy trì mãi những tiêu cực tương tự trong những sinh hoạt thường ngày của chúng ta không? Ai cũng thấy rõ một điều là sức sống của người Việt vô cùng to lớn, mãnh liệt, nhưng đồng thời cũng thể hiện những tiêu cực vô cùng tai hại. Chính vì chỉ muốn sống còn bằng bất cứ giá nào, người Việt đã mất đi những tích cực của tập thể cần phải có, điều này đã giúp cho kể thống trị tồn tại lâu trong vị trí và là một cách giải thích tại sao dân tộc chúng ta bị trị lâu đến như vậy.

    Dù vậy, nói lái vẫn là một hình thức vô cùng đặc sắc của ngôn nhữ Việt, với khả năng nhạy bén về tính trào phúng, tính châm chọc… (và chúng ta chỉ nên khai thác khía cạnh tích cực này), chúng ta tin rằng nói lái sẽ tồn tại với người Việt.

    Hòa Đa (Saigonxua)

  • Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

    Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

     

    1. Thị

    Nói tới thị xin mọi người trở về cái thời hồng hoang, ăn lông ở lổ của bộ lạc và thị tộc.
    Xã hội khi đó rất lạc hậu nên cần người, sanh đẻ rất khó nuôi, thành ra vai trò người đờn bà rất quan trọng.
    Thị tộc mẫu hệ là hình thức thị tộc đầu tiên và phổ biến của xã hội loài người. Người phụ nữ có vai trò lớn, là người đứng đầu gia đình và các thị tộc.
    Thị tộc phụ hệ là giai đoạn kế tiếp thị tộc mẫu hệ, ra đời từ thời kỳ đồ đá.

    Dân tộc Việt phải nhắc tới Hồng Bàng Thị (鴻龐氏) dịch ra là họ Hồng Bàng, nhưng ý nghĩa ban đầu là “người mẹ Hồng Bàng”.
    Bên Tàu có, như: “Phục Hi thị” 伏羲氏, “Thần Nông thị” 神農氏, “Cát Thiên thị” 葛天氏, “Hữu Hỗ thị” 有扈氏 cũng là kiểu này.
    Nữu Hỗ Lộc thị thời nhà Thanh là một trong bát kỳ, Sùng Khánh Hoàng thái hậu dòng tộc Nữu Hỗ Lộc thị là thân mẫu của Càn Long Hoàng đế. Hòa Thân, một nhân vật đầy quyền lực cũng thuộc Nữu Hỗ Lộc thị.

    Thị là một danh xưng mặc định cho người đờn bà. Cả Tàu lẫn Việt đều chỉ đại từ nhơn xưng ngôi thứ ba số ít chỉ phụ nữ là”y thị”.
    Thành ra có những cách gọi, xưng hô đờn bà như bà Trần Thị,Nguyễn Thị,Lý Thị, Vương Thị.

    Nên nhớ Việt tộc là một tộc khá cá biệt của thế giới văn minh, chúng ta theo chế độ mẫu hệ dài hơn người Tàu nữa, Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh là bằng chứng.
    Tôi đã từng nói Việt tộc ta trường tồn là có một phần “mẫu hệ”, nhờ mẫu hệ mà 1000 năm bị Tàu đô hộ ta không mất gốc.
    Cái chế độ mẫu hệ ở Việt Nam ta từ hồi Bà Trưng, Bà Triệu và tới nay đã là phụ hệ khi con mang họ cha. Tuy nhiên con mang họ cha là lý thuyết thôi, trong gia đình quyền lực của các bà vẫn bao trùm.

    Cái câu “Hỏi má mày” nghe trong xóm làng hơi bị nhiều.
    Ông bà xưa VN ta có câu : ”Mua heo chọn nái mua gái chọn dòng” là vì thế.
    Người Việt mình rất nhơn văn, không có tục bó chưn đau đớn như Tàu, chẳng có tục tùy táng người hầu, vợ lẽ sau khi chết…

    Việt cổ có tục xâm mình ,ăn trầu và nhuộm răng đen.
    Người Việt đặt tên con gái thì bưng nguyên chữ 氏 thị vô làm chữ lót một cách bất di bất dịch.
    Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan, bà là chánh thất vua Gia Long, là mẹ đẻ của hoàng tử Cảnh.
    Đoan Huy Hoàng thái hậu Hoàng Thị Cúc –tên thường gọi là Bà Từ Cung là thứ thất của vua Khải Định –mẹ của vua Bảo Đại… rồi bà Nguyễn Hữu Thị Lan, bà Bùi Thị Xuân, Ngô Đình Thị Hiệp…

    Người Việt đặt lót thị nhiều chứ người Tàu không thấy kiểu này.
    Nói vầy cho dễ hiểu nè, Việt đặt là Bành Thị Chơi,Tàu đặt tên là Bành Sướng Chơi và Tàu kêu thông dụng là bà Bành thị.
    Không phải con gái là cứ đặt thị, có người không lót chữ thị, tùy ý thích thôi.
    Thí dụ như : Bà Đạm Phương nữ sử tên thật là Công Tôn Nữ Đồng Canh là cháu nội vua Minh Mạng.
    Ca sĩ Quỳnh Giao tên thiệt là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang là cháu sơ vua Minh Mạng.
    Nhưng lại có bà Tôn Nữ Thị Ninh.
    Cái tên này hay nè? Công Tằng Tôn Nữ Tạ Thị Đánh Đu Tòn Ten Bong Lòng Đèn Lấp La Lấp Lánh Như Ánh Thuỳ Dương
    Ta nghe Thị Mẹt, Thị Màu, Thị Nở, Thị Hết, Thị Bẹt là một dạng gọi trỏng của người VN.
    Nhưng thị cũng là một cái họ riêng dù hiếm hoi. Vua Minh Mạng cho người Khmer họ Thị
    Kết luận: Lót chữ thị 氏 là dấu vết và nhắc nhớ tới mẫu hệ của Việt tộc ta.

    Tại sao người Việt lót “thị” cho gái, “văn” cho trai?

    2. Văn

    Văn ra đời sau chữ thị vì phụ hệ đi sau mẫu hệ.

    Trong Nho giáo xưa thì học là giỏi, trau dồi học vấn,văn ôn võ luyện.
    Võ thì mạnh bạo, nhưng sát phạt, không dám khoe, văn thì phải khoe.

    Ông bà ta quan niệm học hành thi cử tiến thân.
    “Trai nam nhơn thi chữ
    Gái thục nữ thi tài”

    Chữ 文 Văn xuất xứ đầu tiên nghĩa là “chữ”.
    Chữ tượng hình là chữ bắt chước hình tượng các loài mà đặt ra kêu là “văn” 文, gộp cả hình với tiếng gọi là “tự” 字.
    Văn tự là chữ viết, thành ra ta có Anh Văn, Pháp Văn,Hoa Văn…

    Văn còn là“văn minh” 文明, “văn hóa” 文化.
    Người xưa tôn thờ sao Văn Xương, Văn Khúc vì tượng trưng cho thông minh, hiếu học, học giỏi, văn chương, mỹ thuật, âm nhạc, thành đạt.

    “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
    Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
    Anh về học lấy chữ nhu
    Chín trăng em đợi, mười thu em chờ”

    Người Việt thích lót chữ văn cho con trai là muốn con mình học giỏi, thi đậu, thành đạt.
    Các bạn nên hiểu là bên Tàu cũng có lót chữ văn, tuy nhiên không nhiều như Việt mình, thí dụ Triệu Văn Trác, Mã Văn Tài.

    Nhưng con gái mà tên Phạm Văn Phương thì cũng lạ.
    Văn cũng là một cái họ khá phổ biến của người Tàu và VN, thí dụ Văn Thiên Tường.
    Nhưng cũng như thị, người Việt không phải cứ con trai là lót chữ văn.
    Thí dụ như Hồ Quý Ly có con là Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương.
    Nhà Lê Sơ, con cháu Lê Lợi đặt tên là Lê Nguyên Long, Lê Bang Cơ, Lê Nghi Dân, Lê Tư Thành…
    Chúa Nguyễn thì lót chữ Phúc cho con, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Khoát…
    Vua Minh Mạng thì làm bài phiên hệ “Miên-Hường…” đặt cho con.
    Họ Ngô thì lấy chữ Đình lót cho con: Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm…

    Túm lại: Chữ lót văn là như vậy đó
    “Đêm qua chớp bể mưa nguồn
    Hỏi người tri kỷ có buồn hay chăng
    Cá buồn cá lội tung tăng
    Em buồn em biết đãi đằng cùng ai?”

    Nguyễn Gia Việt/Dansaigonxua

  • Tại sao gọi là XE ĐÒ?

    Tại sao gọi là XE ĐÒ?

    Có lần tôi hỏi nhà văn Sơn Nam khi gặp ông ở quán cà phê vỉa hè trước Nhà Văn hóa quận Gò Vấp cách nay hai mươi năm. Trong chiếc áo sơ mi cụt tay, khuôn mặt ốm nhăn nheo màu bánh ít, mắt đăm chiêu sau cặp kiếng dày, ông thủng thỉnh trả lời theo kiến giải của mình.
    Đồng bằng Nam bộ sông nước chằng chịt, ngày xưa phương tiện đi lại chủ yếu bằng đò ghe, cho đến thập niên ba mươi, người Pháp thành lập vài hãng xe chở khách đi miền Tây. Thời ấy đường bộ chưa phát triển, xe đến bến khách phải chuyển tiếp bằng đò ghe nên người ta gọi là xe đò cho tiện.

    Tại sao gọi là XE ĐÒ?

    Nghe vậy thôi, sau này tôi tìm hiểu thêm chút ít, biết rằng người Bắc gọi xe đò là xe khách hoặc xe ca, còn người Trung lại gọi xe đò giống như người Nam. Một số người giải thích vì hầu hết các chủ nhà xe đi miền Trung là người Sài Gòn nên “xe đò” trở thành phương ngữ chung cho tiện. Và rồi câu chuyện sôi nổi hơn khi nhà văn nhắc tới kỷ niệm thời học sinh trung học từng đi xe đò từ Rạch Giá về Cần Thơ mà ông có nhắc lại trong tập “Hồi ký Sơn Nam” :

    “…Tiền xe từ Rạch Giá đến Cần Thơ là một đồng hai (120km) nhưng nhỏ tuổi như tôi chỉ tốn có 6 cắc. Tôi lên xe ngồi để người phụ xế sắp đặt chỗ ngồi cho gọn, khép nép, chung quanh xe là nhiều người rao hàng để hành khách ăn buổi sáng vì buổi trưa mới đến bến Cần Thơ. Tôi còn nhỏ, ba tôi cho riêng tôi 2 cắc, rất tủi thân vì trong khi ấy gia đình khá giả dám trả 1 đồng hai (hai chỗ dành cho trẻ con rộng rãi hơn) lại dành cho con một cái bánh bao to để ăn dọc đường. Xe khách bóp kèn inh ỏi, chạy vòng quanh để tìm kiếm khách…”.

    Tại sao gọi là XE ĐÒ?
    BẾN XE ĐÒ LỚN TRÊN ĐƯỜNG TRƯƠNG VĨNH KÝ (PETRUS KÝ) NĂM 1950, GẦN NGÃ SÁU SÀI GÒN CÓ TƯỢNG PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG ( ẢNH DONALD F. HARRISON COLLECTION – THE VIETNAM CENTERAND ARCHIVE)
    Nhưng điều thú vị nhất là ông kể hồi thời kỳ đầu xe đò do người Pháp làm chủ toàn là loại xe nhỏ chở khách chừng hơn hai mươi người. Nhưng chỉ một thập niên sau, người Việt mình giàu có tham gia mở công ty lập hãng, nhập cảng máy, khung gầm từ châu Âu châu Mỹ, đóng thùng thành xe đò loại lớn chở hơn năm chục hành khách, cạnh tranh ác liệt trong giai đoạn đường bộ được mở rộng và phát triển ở các tỉnh miền Tây và Ðông Nam Bộ.
    Giao thông kết nối khắp nơi, nhu cầu đi lại của người dân càng nhiều, tạo thành thời vàng son của xe đò. Chiến tranh Ðông Dương nổ ra, Nhật vào chiếm miền Nam, xăng dầu khan hiếm, bị giám sát chặt chẽ, ngành xe đò suy giảm, một số hãng xe hoạt động cầm chừng và phải thay đổi nhiên liệu cho xe hoạt động.

    Ông Sơn Nam kể : “Xe ô tô chở khách phải dùng “ga”, hiểu là than củi tràm, bỏ vào cái thùng tròn đặt bên hông xe phía sau. Trước khi cho xe nổ máy thì quạt cho than tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe chạy, gọi “Autogène”, theo mô hình của Kỹ sư Thịnh Hưng Ngẫu chế tạo ở Sài Gòn”.

    Hình ảnh chiếc xe đò nhỏ chạy bằng than đốt trong cái thùng phía sau xe được lặp lại từ năm 1975 đến 1985, chắc người Sài Gòn tuổi trung niên trở lên đều biết rõ. Tôi từng đi loại xe sử dụng nhiên liệu này, mỗi lần chui vào cửa xe phía sau là đều phải cẩn thận với cái thùng than cháy nóng được treo dính ở đuôi xe. Thường thì người ta chỉ cải tiến xe đò lỡ – tức là loại xe Renault cũ xì từ giữa thập niên 50.

    Sáng tạo thời bao cấp: Xe đò chạy bằng…than!

     

    Tại sao gọi là XE ĐÒ?
    XE ĐÒ RENAULT CHẠY TUYẾN TỪ HUẾ QUA AN LỖ RỒI ĐẾN SỊA –TRUNG TÂM HUYỆN QUẢNG ĐIỀN NGÀY NAY. HINH CHỤP 1964. NGUỒN LONNIE M. LONG COLLECTION – VIETNAM CENTER

    Tuy giới lái xe gọi đó là xe đò hỏa tiễn nhưng nó chạy chậm hơn xe chạy xăng hoặc dầu. Có lúc xe chạy ì à ì ạch khi than cháy không hết, lơ xe phải dùng thanh sắt mở lò đốt cời than. Hoặc thỉnh thoảng gặp đường vồng xóc, than văng ra khỏi cửa thông không khí, rớt xuống đường cháy đỏ rực. Vô phúc cho chiếc xe đạp nào chạy phía sau tránh không kịp, cán phải cháy lốp xe.

    Xe đò hỏa tiễn chạy những đường ngắn như Sài Gòn – Long Khánh, Chợ Lớn – Cần Giuộc – Gò Công, Sài Gòn – Long An, còn xe đò dài vẫn chạy bằng xăng dầu, nhưng không còn nhiều như trước.

    Trên mui phía đầu xe thường có thùng phuy nước dùng để làm nguội máy, kế tiếp là nơi chở hàng hóa, xe gắn máy, xe đạp cho khách buôn chuyến và khách đi tỉnh xa.

    Tôi còn nhớ mãi lần đầu được đi xe lô về quê bên ngoại ở Càn Long, Trà Vinh. Năm đó tôi chín tuổi, đi cùng với người anh bà con. Xe lô có bãi xe ở Bến Bạch Ðằng và Bến Chương Dương. Bãi xe lô hay nhiều bãi bến xe đò khác khắp nơi trong thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn đều nằm hai dãy dọc theo đường phố. Phòng vé là một cái quầy hay cái bàn gắn tấm biển to đề tên từng hãng xe, chạy lộ trình nào. Riêng xe lô không cần bán vé, khách đến bãi xe còn chỗ trống cứ lên, đủ người thì bác tài chạy. Loại xe này gọi đúng tên là “Location”, sơn màu đen, kiểu xe ô tô chở chừng bảy tám người nhưng bác tài cố nhét thêm hành khách.

    Xe lô chạy nhanh hơn xe đò vì không bắt khách dọc đường, không lên xuống hàng hóa cồng kềnh, lại có khi qua cầu tạm không cần bắt hành khách xuống cuốc bộ. Ðể gió lùa vào cho hỉ hả đám hành khách ngồi chật cứng như nêm, lại thêm giỏ xách túi bị, va li lỉnh kỉnh, bác tài mở cửa sau bung lên cột chặt lại, người ngồi phía sau ngó ra phố phường. Xe chạy ra khỏi Phú Lâm, nhìn cảnh đồng lúa xanh tươi hai bên đường, lòng cảm thấy phơi phới mặc dầu lâu lâu tôi phải nhấc mông trở cẳng vì bị ngồi bó gối.

    Tại sao gọi là XE ĐÒ?
    XE ĐÒ FORD TẠI BẾN XE NGUYỄN CƯ TRINH 1965

    Nói là đi xe lô thì hành khách không cần xuống bộ qua cầu tạm, chứ lần đó tôi vẫn phải xuống cuốc bộ như bao chuyến xe đò khác. Tôi mới ca cẩm, xe lô cái nỗi gì, có mà “lô ca chân” theo lời hát của một tuồng cải lương trên truyền hình. Sau năm 1968, cuộc chiến ngày càng ác liệt, cầu đường nhiều nơi bị “mấy ổng” gài mìn phá hủy, có nơi phải dựng cầu tạm, đầu cầu có đặt trạm kiểm soát của quân cảnh hay cảnh sát.

    Ðường về Trà Vinh chỉ hơn 160 cây số mà qua mấy chục cây cầu, lại phải chờ phà Mỹ Thuận. Ði xe lô cho được nhanh mà về đến nơi phải mất năm sáu tiếng đồng hồ, huống hồ chi hành khách đi miệt Hậu Giang, Cà Mau xuống ở bến xe còn phải đón đò về nhà ở vùng U Minh, Miệt Thứ mất cả ngày đường. Chỉ có xe thư tức là xe đò làm nhiệm vụ giao nhận thư từ bưu phẩm chuyển cho bưu điện tỉnh mới được ưu tiên, không phải lụy phà hay bị cảnh sát xét hỏi.

    Bây giờ xe đò tiến bộ hơn nhiều, xe có máy lạnh, ghế nằm thoải mái cho khách đường xa, duy chỉ không có phòng vệ sinh trong xe, lại còn tặng thêm nước uống, khăn ướt lau mặt. Xe chạy nhanh nhờ có cầu qua hai con sông Tiền và sông Hậu, tôi ngồi xe Mai Linh chạy một lèo về tới chợ Cà Mau chỉ mất sáu tiếng đồng hồ. Nếu không kể đến loại xe dù bắt khách dọc đường, thì xe đò là phương tiện đi đường xa tương đối rẻ tiền.

    Trước năm 1975, Xa cảng miền Tây là bến tập trung các xe đò về các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh đó lại có bến xe Chợ Lớn đi về Cần Giuộc, Gò Công, Lý Nhơn, về sau bến xe này gộp lại với Xa cảng miền Tây mở rộng thành Bến xe miền Tây nằm trên đường Kinh Dương Vương quận Bình Tân.

    Còn bến Miền Ðông dành cho xe đi các tỉnh miền Trung và phía Bắc trên đường Petrus Ký trước kia thì gộp lại với hai bến xe nhỏ là Nguyễn Cư Trinh đi lộ trình cao nguyên và Nguyễn Thái Học đi Long Hải – Vũng Tàu – Phan Thiết, rồi sau đó vài năm chuyển về bến xe Văn Thánh, và cuối cùng yên vị tại Bến xe miền Ðông trên đường Ðinh Bộ Lĩnh hiện nay.

    Nhưng nghe đâu hai bến xe này sẽ phải dời ra xã Tân Túc huyện Bình Chánh và Suối Tiên Q. 9 để có diện tích rộng hơn, đáp ứng được cho nhu cầu ngày càng tăng. Sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến Bến xe An Sương, bến này đúng ra có xe đi Tây Ninh – Bình Phước – Bù Ðăng, 9 Xe do 6Bù Ðốp vùng Tây Trường Sơn, nhưng cũng có xe đi vài tỉnh thành của cả ba miền, do hai bến xe miền Ðông và miền Tây nhỏ hẹp.

    Ai cũng có kỷ niệm lần đầu đi xe đò. Mỗi chuyến xe chuyên chở nỗi niềm hoài niệm. Có người nhớ chuyện tiền vé như nhà văn Sơn Nam. Có người lòng phơi phới nhìn thấy phong cảnh đồng lúa xanh tươi chạy dài bên quốc lộ như tôi. Cũng có người nhớ mùi mồ hôi, mùi xăng dầu giữa nắng gió miền Trung. Nhớ bến bãi ồn ào í ới ngày xưa. Và cũng có người tuổi đời chồng chất, nhớ cảnh xuống xe qua cầu xe lửa Bến Lức, Tân An thuở xa lắc xa lơ.

    Bài viết :Yên Huỳnh

  • Một số từ hay bị dùng sai trong Tiếng Việt

    Một số từ hay bị dùng sai trong Tiếng Việt

    Một góc Phố cổ Hà Nội xưa
    Một góc Phố cổ Hà Nội xưa
    *Book Hunter:  Trong ngôn ngữ giao tiếp và hành chính của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử dụng không chính xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ một cách kệch cỡm. Điều này thể hiện tư duy tạm bợ và tinh thần thiếu trách nhiệm trong sử dụng ngôn từ. Việc đưa ra những khái niệm không chính xác này tạo thành một thói quen chấp nhận sự mù mờ trong định nghĩa từ, dễ gây hiểu lầm và tranh cãi, khiến cho văn bản kém tính chính xác. Đây là một bài chúng tôi sưu tầm, liệt kê các trường hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay.
    1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.
    CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
    KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
    QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
    HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pelé” “huyền thoại Maradona”.. Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
    HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
    2.- Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán Việt
    ĐỘC LẬP Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立 là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ.
    PHONG KIẾN.封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa.
    TIÊU CỰC, TÍCH CỰC 消極, 積極 Hiện nay, người ta gán vào hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết sức rõ rệt. Hành động nào tốt thì được gọi là tích cực; trái lại, hành động xấu thì gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghĩa gốc Hán Việt thì sự gán ép như thế là sai. Tich cực, tiêu cực tự nó không có sẵn tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ, trong một đoàn đi làm việc phước thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng trong một bọn côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại là đứa xấu nhất. Trong truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt buộc phải về phục vụ dưới trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái độ tiêu cực nghĩa là không hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực nầy của Từ Thứ, từ cổ chí kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có xấu đâu.
    3.- Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm).
    QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giỗ mà dùng tiếng thuần Việt là ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật 忌日.Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.
    GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng.
    ĐỆ NHẬT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm du lịch, có hàng chữ to tướng dùng để quảng cáo “Nơi đây có đệ nhất thác”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm nghĩa) trước chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì cả hai chữ đều phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm, thế là bậy rồi. Không có` tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo tiếng Hán là bộc bố 瀑 布, nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là chưa được Việt hóa thành tiếng Hán Việt nên chưa thể dùng được. Trong trường hợp nầy, nên viết “Nơi đây có thác đẹp nhất”, vừa đúng, vừa dễ hiểu lại vừa hấp dẫn khách du lịch.
    4.- Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.
    X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng X quang” Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học, quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được tế bào thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?
    BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phu, hóa là từ chính. Đây cũng là văn phạm Hán Việt. Để thành lập từ kép thì cả 2 từ đơn đều phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê tông lại là tiếng Pháp (béton) phiên âm ra, do đó nói bê tông hóa là sai. Ngoài ra, nghĩa cũng sai vì từ bê tông hóa được dùng phải được hiểu là con đường đà được biến hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không nên nói bê tông hóa mà nói một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa đúng lại vừa dễ hiểu.
    Còn một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo chi, trong chương trình truyền thanh, truyền hình như : nghèo hóa, giàu hóa, no hóa, đói hóa, khôn hóa, dại hóa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam!
    NỮ NHÀ BÁO Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I rắc, sau khi lính Mỹ bắn nhầm nhân viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ phóng viên vừa được bọn bắt cóc trả tự do, các đài truyền hình ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lại nhóm từ nữ nhà báo. Thực là quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi và phải nói “nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải dùng 3 từ Hán Việt: “nữ phóng viên” hay “nữ ký giả”. Ban biên tập các đài truyền hình không biết điều nầy sao?
    TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường xuyên hai từ triều cường khi người ta nói đến thủy triều trên song.. Hai chữ nầy có thể thay đổi vị trí trước sau và có hai ý nghĩa khác nhau. Cường triều 強 潮 gồm tính từ đứng trước danh từ thì tương đương với một danh từ và có nghĩa là con nước lớn (haute marée). Triều cường 潮 強 thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động từ cương và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào cũng dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại sao không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đúng lại vừa phù hợp với trình độ và thói quen của đại chúng.
    HẠT NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện tượng xảy ra bên trong cái lõi hay cái nhân của nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hạch tâm. Hạch 核 là cái hạt, tâm 心 là cái lõi hay cái nhân bên trong . Hạch tâm là cái nhân của hạt. Đó là từ ghép theo văn phạm Hán Việt vì cả 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển sang dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi là “nhân của hạt” hay nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt vỏ” được. Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa lại: phản ứng nhân hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch tâm thì hay hơn nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm.
    TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊có nghĩa là ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và đúng là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê. . . Cũng cần nói thêm về một từ đang được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường phố. Đinh là một từ có gốc Hán Việt 釘 nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn rồi nên ghép với từ tặc thì không ổn. Vả lại, nói đinh tặc là sai nghĩa vì từ đó có nghĩa là bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó đi và nên nói một cách giản dị là “bọn rải đinh” thì hơn.
    Còn vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây như:
    Lớp trưởng, phải sửa lại trưởng lớp,
    Nhóm trưởng, phải sửa lại trưởng nhóm
    Siêu rẻ, phải sửa lại rất rẻ
    Siêu bền, phải sửa lại rất bên
    Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn
    Vân vân…
    5.- Dùng từ vô nghĩa
    Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu”. Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hán Hoa liễu 花柳 có nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép “bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu 柳 thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu !!!
    ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng nầy”. Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.
    SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự 故事 có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lùng, không thể chấp nhận được.
    HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh bi thảm”!!! Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế đó không ?
    ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chức không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.
    XÂY DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng 2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới dó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.
    6.- Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.
    NGƯỠNG. Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên và vượt qua ngưỡng 1% thì đường thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 đô đến 35 độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập viết nên.
    KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó :”Thằng A hay kiêu ngạo người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được.
    TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng chí chử tịch”
    7.- Dùng từ thiếu chính xác
    CHẤT LƯỢNG. Chất 質là cái khối chứa bên trong một vật (matière) lượng 量là tính chất của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được (masse). Thí dụ: “khối lượng hay chất lượng của một vất là 1 kilo gramme”. Thế mà ngày nay người ta dung từ chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được (qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon má cò có hại cho sức khỏe nữa”.
    CẢM GIÁC. 感覺 Đó là sự nhận biết của cơ thể do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm”. Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: ‘Với tình hình nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng.
    THỐNG NHẤT. Thống nhất 統一 là làm biến mất tình trạng chia rẻ bắng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi cần thống nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai.
    GIẢI PHÓNG . Giải phóng 解放 là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chi công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là giải tỏa mặt bằng.
    ĐĂNG KÝ. Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.
    8.- Từ vựng lộn xộn.
    LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm Quảng Đông (?), tài xế cũng được rõ ràng minh bạch.
    YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu cầu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ.
    NGHIÊN CỨU SINH. Sinh 生 là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học, giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ!
    ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng 印象(impression) là cái hình tượng do ngũ quan cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn thượng là một danh từ của tâm lý học. Thế mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả động từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ
    THẦN TƯỢNG. 神像 Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng”, rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”
    TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở thành danh từ. Thí dự: “Cần phải báo cáo cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe”.
    LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vi nói làm giỏi, học giỏi.
    LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay 领导 và có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh đạo đã chỉ thị như thế”
    Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng, ai cũng rõ điều đó.
    9.- Cóp tiếng Tàu đang dùng.
    LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban 班 là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn chút nào. Dùng chữ lưu cấp 留級 thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được.
    TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến đi tham vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được chút ít” Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu.
    Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí dụ,大家 , tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西 tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi vào tiếng Việt.
    10.- Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa.
    ĐIỂM YẾU Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm Nôm có nghĩa là cái điểm không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.
    THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở phía bên trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thi thấp có nghĩa là ẩm ướt.. Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp điểm” hay “dùng điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”
    11.- Đảo tư kép bừa bãi và không cần thiết.
    XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ….”. Đảo từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách bừa bãi được.
    Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững / vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây / ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng / hoảng kinh; ái ân / ân ái …..
    Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được.
    Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay.
    Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh sĩ-liệt”!!!
    12.- Ghép từ bừa bãi.
    KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công chánh đang thực hiên ở dưới sông. Cách ghép nấy nghe rất chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay.
    GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phái một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời dặn đò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé”. Ý đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không
    13.- Dùng từ dao to búa lớn
    CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại sao giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong, tôi ngã ngửa, Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay.
    CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái”. Nghe thực đáng sợ.
    NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi.
    THAM QUAN. 參觀 Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.
    NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi nghiên cứu.
    14.- Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục.
    KHẨN TRƯƠNG Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Uc từ năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng hới thuộc tỉnh Quảng bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản dị và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng mà thôi.
    BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về Hà nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường.
    15.- Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý.
    MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao.
    LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần Việt của dân tộc mình.
    16.- Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỷ thuật hiện đại.
    COMPUTER dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà chuyên môn về kỷ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn từ cho chính xác.
    INFORMATION TECHNOLOGIE dịch là tin học, cần xét lại 2 điểm. Thứ nhất, tecgnologie là một kỷ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới là tiếng Hán Việt. *ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa các chuyên viên kỹ thuật và ngôn ngữ.
    (trich TrieuThanh Magazine)
  • “Phiên dịch” tiếng địa phương Huế

    “Phiên dịch” tiếng địa phương Huế

    Các bạn thường đùa rằng, tiếng Huế là “chi, mô, răng,rứa”, nhưng để hiểu và sử dụng nằm lòng các từ này thì cũng không phải đơn giản.

    tu-dien-tieng-hue-mo-te-rang-rua

    Người Huế hỏi: “Mi đi mô rứa?”, nếu so với ngôn ngữ chuẩn thì các bạn phải hiểu là “Mày đi đâu thế?”
    Chữ “mi”, các bạn tạm hiểu đó là ngôi thứ 2 số ít, tương đương với “mày”, “bạn”. Tương tự như thế, “bọn mi” hay “tụi mi” thì tương đương với “chúng mày”, “bọn mày” hay “các bạn”. Ngôn ngữ trong phim Tàu thường được nhóm lồng tiếng dùng là “các ngươi”, chúng đều có nghĩa như nhau vậy.

    Chúng ta lại tiếp tục nói về “chi, mô, răng, rứa”.

    – Chữ “chi” tương đương với chữ “gì”. “Làm chi” có nghĩa là “làm gì”. Ví dụ người Huế nói: “Mi đang làm cái chi rứa?” thì tiếng chuẩn là “Mày đang làm gì
    thế?” hoặc “Bạn đang làm gì vậy?”. Chữ “chi” không những được dùng rộng rãi trong tiếng Huế mà ngay cả hai miền Bắc, Nam cũng dùng rất nhiều.

    Chúng ta không bàn nhiều về chữ này.

    – Chữ “mô” trong tiếng Huế mới thực sự là đặc trưng của Huế. “Mô” tạm hiểu là “đâu”, là một từ thường được dùng trong câu hỏi. Tuy nhiên, trong một vài ngữ cảnh thì “mô” được hiểu theo nghĩa khác. Ví dụ, “Hôm nay mi tổ chức sinh nhật chỗ mô rứa?” bạn phải hiểu rằng “Hôm nay mày tổ chức sinh nhật ở chỗ nào thế?” hoặc “Hôm nay bạn tổ chức sinh nhật ở đâu thế?”. “Mô” được dùng trong câu này để chỉ địa điểm.

    Nếu đặt trong ngữ cảnh khác thì “mô” có thể đóng vai trò là thán từ. Khi bạn hỏi: “sao mày gặp tao mà lơ đi thế?”, nếu người Huế trả lời là “mô mà!” thì bạn phải hiểu là “đâu có!”, tức là phủ định vấn đề.

    – Chữ “răng” trong tiếng Huế tạm hiểu là “sao”, thường được dùng trong câu hỏi, một vài trường hợp biểu thị ý nghĩa khác. Ví dụ, “răng mà mi noái lạ rứa?” thì bạn phải hiểu là “sao mà mày nói lạ thế” hoặc “sao bạn nói kỳ vậy”. “Ui chao, răng rứa?” có nghĩa là “Ôi, sao thế?” hoặc “Ủa, sao vậy?”. Nếu “răng” nằm đơn độc một mình thì đóng vai trò như câu hỏi tỉnh lược. Ví dụ, một người hối hả chạy vào, bạn hỏi “răng?” thì có nghĩa là “gì thế?”, “sao thế”, “sao mà vội vàng thế?”. Khi bạn an ủi ai
    đó thì bạn dùng “không răng mô!”, tức là “không sao đâu!”, “không có vấn đề gì đâu!”. Một thiền sư có viết bài thơ trong đó có hai câu rằng:

    “Không răng mà lại cũng không răng
    Chỉ có thua người một miếng ăn”

    Hai chữ “răng” ở câu đầu có hai nghĩa khác nhau. Câu đó nghĩa là “không có răng nhưng cũng chẳng sao cả”, ý nói đã già, răng rụng hết.

    – Chữ “rứa” trong tiếng Huế tạm hiểu như chữ “thế”, thường đặt ở cuối câu để làm câu hỏi hoặc có một số nghĩa khác khi nằm ở vị trí khác.

    Ví dụ, “răng rứa?” nghĩa là “sao thế?”. “Mi đi mô rứa?” nghĩa là “mày đi đâu thế?” hay “bạn đi đâu vậy?”. Một đứa con nghịch ngợm, mẹ bảo hoài mà không nghe thì người Huế thường nói: “nói mãi mà cứ rứa!”. Nhiều trường hợp “rứa” được đặt đầu câu. Ví dụ, “Rứa hôm nay bác đi mô?” có nghĩa là “Thế hôm nay bác đi đâu?”. Nếu đóng vai trò thán từ thì cũng như “thế”. Ví dụ, bạn hiểu ra một vấn đề gì đó, bạn nói “rứa à!” hoặc
    “té ra là rứa!” có nghĩa là “thế à!” hoặc “hóa ra là thế!”…Trên đây tôi nói sơ lược về “chi, mô, răng, rứa” của tiếng Huế. Ngoài ra, còn có các từ khác như “tê, ni, nớ, ri…” sẽ được trình bày ở phần kế tiếp.

    —————————–

    Chắc các bạn đã từng nghe những câu sau trong bài nhạc của Hoàng Quý Phương: “trời đổ mưa mà em đi mô, anh có biết chi mô nà! Thôi bây chừ đưa em về với mạ, có chi mô mà em cứ khoóc hoài!”

    Rất Huế đúng không các bạn? Nếu ai không hiểu thì tôi tạm thời “thông dịch” như sau: “trời đổ mưa mà em đi đâu, anh chẳng biết gì cả. Thôi bây giờ đưa em về với mẹ, có sao đâu mà em cứ khóc hoài”. Đó, các bạn xem, cái hay của đất Huế là vậy đó, rất chân chất, quê mùa nhưng ngọt ngào, đằm thắm. Nói như người xưa, “cái không hiểu” đó mới chính là “rất Huế”.Còn nói về tê, ni, nớ, ri… thì tạm hiểu như sau:

    – Chữ “TÊ” có nghĩa như chữ “kia”. Ví dụ, người Huế hỏi “đầu tê răng rứa?” thì nghĩa là “đầu kia sao vậy?” hoặc “đầu kia có chuyện gì thế?”. Có câu chuyện vui thế này:

    Có một người Huế khi ra Bắc, nghe nói rằng chữ “tê” ở Huế thì ngoài bắc dùng là “kia”, chữ “răng” ở Huế thì ngoài bắc dùng là “sao”. Khi đi tham quan, người Huế đó đã ghé vào quán nước để uống, chủ quán mang cho anh ta một cốc nước đá lạnh. Vì đang háo nước, anh ta vội vã nốc một hồi hết sạch. Vì do nước quá lạnh nên anh ta buốt hết cả răng. Đột nhiên anh ta kêu to, “trời ơi, kia cái sao quá!” big grin Ngôn ngữ là vậy đó, “tê răng” của Huế là “kia sao” của miền bắc mà!

    – Chữ “NI” tạm hiểu là “này”, ví dụ người Huế nói “bên ni” tức là “bên này”. Đối ngược với “bên ni” là “bên nớ” hoặc “bên tê”, tiếng chuẩn là “bên kia”. Trong
    bài “Huế xưa” của Châu Kỳ có câu rằng “ở bên ni qua bên nớ, cách con sông chuyến đò chẳng xa, nhỏ sang thăm có tôi đợi chờ”. NI và NỚ là chỉ cho bên này và bên kia vậy!

    – Chữ “NỚ” có nghĩa tương phản với “NI”, bạn có thể dùng Nớ và Ni để chỉ địa điểm (bên nớ, bên ni) hoặc có thể dùng để chỉ đối tượng là người, ví dụ “Nếu Nớ ngỏ lời thì Ni cũng đồng ý”, hiểu là “Nếu anh đã ngỏ lời thì em đây đồng ý”

    – Chữ “RI” trong tiếng Huế tạm hiểu là “đây”, “đấy”, ngoài ra còn dùng với nghĩa tương phản của “RỨA”. Ví dụ, người Huế thường hỏi nhau là “MI ĐI MÔ RỨA?”, hoặc “RỨA THÌ MI ĐI MÔ RI?” Các bạn hiểu sao?Đó là hai câu hỏi thường xảy ra trong trường hợp hai người đi và gặp nhau trên đường. Đơn giản, người này hỏi người kia là “mày đi đâu thế?”, người kia sẽ hỏi lại là “thế thì mày đi đâu?” Cái hay của Huế phải chăng là cái RI, RỨA!

    Các bạn chỉ cần chú ý một tí thôi thì tiếng Huế chẳng có gì khó cả, ngược lại còn rất là dí dỏm và đáng yêu nữa, nhất là nó được phát âm bởi các cô gái Huế đương độ xuân thì.

    – Cụm từ “CHI MÔ NÀ” thì như tôi đã nói, chúng có nghĩa là “gì đâu”, ý phủ định. Ví dụ, bạn bị mẹ mắng, bạn thanh minh bằng cách nói rằng “CON CÓ LÀM CHI MÔ NÀ!”…

    Ngoài ra, một số từ xưng hô đặc biệt cũng được sử dụng trong ngôn ngữ Huế. Ví dụ

    Bố thì gọi là BA
    Mẹ thì gọi là MẠ
    Ông Bà thì gọi là ÔN MỆ (Ôn nội, Mệ nội, Ôn ngoại, Mệ ngoại…)
    Bố Mẹ của Ông Bà thì gọi là CỐ
    Em hoặc chị của Bà Nội hay Bà Ngoại thì đều gọi là MỤ
    Ra đường gặp người già nếu không thân thích thì thường chào là “THƯA MỤ” (từ “Thưa” ở Huế được dùng như từ “Chào”)
    Chị gái hay em gái của Bố thì đều gọi là O (chữ O tương đương với Cô)
    Anh trai hay em trai của mẹ đều được gọi là CẬU
    Vợ của CẬU được gọi là MỢ (người vùng quê ở Huế còn gọi CẬU là CỤ, gọi MỢ là MỰ)
    Chị gái hay em gái của mẹ đều gọi là DÌ
    Chồng của DÌ được gọi là DƯỢNG
    Vợ của CHÚ được gọi là THÍM
    Chỉ có anh trai của Bố hoặc vợ anh trai của Bố thì mới được gọi là Bác.
    Các bạn nên biết cách xưng hô để hiểu và thông cảm cho phong tục của
    từng vùng miền. Ví dụ, từ MỤ hay MỆ ở ngoài bắc thường dùng với nghĩa
    xấu, nhưng đối với Huế đấy là những danh xưng cho các bậc tiền bối.

    Hình ảnh Việt Nam.com sưu tầm

  • Giải mã thứ bậc thầy Hai, con Tám… của Sài Gòn xưa

     Công chức, người có học là thầy Hai, người Hoa buôn bán là chú Ba, đại ca giang hồ là anh Tư, lưu manh là anh Năm… người lao động nghèo xếp thứ Tám, chị em ta buôn bán “vốn tự có”  thứ Chín… 

    Giải mã thứ bậc thầy Hai, con Tám... của Sài Gòn xưa
    Quán cà phê, nơi người Sài Gòn xả stres và “tám” đủ chuyện trên đời với kiểu ngồi rất Nam bộ, Sài Gòn sông nước: co chân lên ghế – Ảnh: M.C.

    Chiều muộn hôm qua có cậu bạn đi công việc ghé ngang nhà rủ làm ly cà phê tán dóc. Nói chuyện lan man một hồi, tự nhiên anh chàng kể công ty em có ông già gác cửa rất hay nói câu “bỏ qua đi Tám”…

    “Em chả hiểu, có lần hỏi thì ổng nói đại khái là dùng khi can ngăn ai bỏ qua chuyện gì đó, nhưng sao không phải là Sáu hay Chín mà lại là Tám thì ổng cũng không biết”, cậu bạn thắc mắc.

    Dựa vào những câu chuyện xưa cũ, những giai thoại, nên kể ra đây chút nguyên cớ của câu thành ngữ có lẽ sắp “thất truyền” này,  biết đâu có dịp nào đó anh em có thể dùng để “buôn dưa lê” lúc “trà dư tửu hậu”.

    Trước hết, phải biết là câu này phát sinh ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn từ thời Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ 20. Thời đó, cách xưng hô thứ bậc trong xã hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xã hội, giai cấp… một cách khá suồng sã và dễ chấp nhận.

    Đứng trên hết là các “quan lớn” người Pháp hoặc các quan triều nhà Nguyễn, thành phần này thì không “được” xếp thứ bậc vì giới bình dân hầu như không có cơ hội tiếp xúc đặng xưng hô hay bàn luận thường xuyên.

    Kế đến là các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều là dân có học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với các thủ tục với chính quyền, hoặc đó là thành phần trí thức, đó là các “thầy Hai thông ngôn”, hay “thầy Hai thơ ký”…

    Hàng thứ Ba là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và truyền thống “bang hội” tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các “chú Ba Tàu” nghiễm nhiên là 1 thế lực đáng vị nể trong mắt xã hội bình dân Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó.

    Xếp thứ Tư là các “đại ca” giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm chém và hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và “vô thiên vô pháp” nhưng khá “tôn ti trật tự (riêng)” và “có đạo nghĩa” chứ không tạp nhạp và thiếu nghĩa khí như các băng nhóm “trẻ trâu” hiện đại. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần, vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới bình dân (và cũng không ít tiểu thư khuê các) thời đó.

    Thứ đến là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn dưa, móc túi giật giỏ, hay làm cò mồi mại dâm…

    Bị giới bình dân ghét hơn đám lưu manh côn đồ là các “thầy Sáu phú-lít (police)”, “thầy Sáu mã tà”, “thầy Sáu lèo”. Chức trách là giữ an ninh trật tự, chuyên thổi còi đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng bình dân, nhưng các “thầy Sáu” này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn “hối lộ” của họ để “nhẩm xà” (uống trà).

    Và trong giới buôn bán thì không thể thiếu chuyện vay vốn làm ăn, mặc dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và “quy củ” nhất ở cấp độ trung – cao khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn thời đó là các “anh Bảy Chà và”, các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít bị “ghét”, vừa ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại làm ăn đúng luật lệ, ít thừa cơ bắt chẹt lãi suất nên khá được giới kinh doanh tín nhiệm.

    Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xã hội bình dân bấy giờ: họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lục làm vốn nuôi miệng, từ bốc vác, gánh nước bồng em, đến “sang” hơn chút xíu là phu xe kéo…

    Tuy đông nhưng lại yếu thế nhất vì thất học, không có tiền như thầy Hai, anh Ba, cũng hiền lành chứ không bặm trợn phản kháng bạt mạng như các anh Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía. Cách để yên thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn, quên đi để sống: “Bỏ qua đi Tám”, bây giờ chắc là đã dễ hiểu rồi.

    Không còn liên quan nữa, nhưng nhân tiện sẵn nói luôn về thứ bậc chót cùng trong xã hội thời đó: các cô, các chị Chín xóm Bình Khang chuyên “kinh doanh” bằng “vốn tự có”.

    Dài dòng tí để trình bày chút kiến giải về một câu thành ngữ đang dần bị quên lãng dùng để bày tỏ thái độ khuyên người hoặc tự an ủi mình hãy đừng để ý những chuyện không vui, hay bị ai đó “chơi không đẹp”.

    Nếu lỡ đọc thấy không có gì thú vị thì thôi, “bỏ qua đi Tám”!

    Theo Tuoitre Online

  • Giọng nói người Sài Gòn

    Giọng nói người Sài Gòn

    Giọng nói người Sài Gòn không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế Thần Kinh, cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào của sông nước Nam Bộ, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ!” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương

    ganh hang rong sai gon
    Ai sống ở Sài Gòn này mà có thể quên tiếng rao vặt của những cô gánh hàng rong ..

    Có dạo đọc trong một bài viết về Sài Gòn – Gia Định của nhà văn Sơn Nam, có thấy ông viết giọng Sài Gòn, cũng như văn hóa và con người Sài Gòn là một sự pha trộn và giao thoa đến hợp nhất của nhiều nơi. Đó là những người Chăm bản địa, những người khách Hoa, những người miền Trung đầu tiên đến đất Gia Định…Từ đó hình thành một loại ngôn ngữ vừa bản địa, vừa vay mượn của những người đi mở đất…
    Giọng người Sài Gòn được xem là giọng chuẩn của miền Nam, cũng như giọng người Hà Nội được xem là giọng chuẩn của người miền Bắc. Giọng chuẩn tức là giọng không pha trộn, không bị cải biến đi qua thời gian. Như nói về giọng chuẩn của người Hà Nội, người ta nói đến chất giọng ấm nhẹ, khi trầm khi bổng, khi sắc khi thanh, và chẳng ai phủ nhận người Hà Nội nói chuyện rất hay và “điêu luyện”. Cái “điêu luyện” ấy như thuộc về bản chất của người Hà Nội mà chỉ người Hà Nội mới có được. Nếu nói là người Việt Nam nói như hát, thì đúng ra chỉ có người Hà Nội là “nói như hát” mà thôi, họa chăng chỉ có giọng Huế của người con gái Huế trầm tư mới cùng được ví von thế…Người Sài Gòn thì khác, giọng Sài Gòn cũng khác. Không ngọt ngào …mía lùi như một số người dân Tây Nam Bộ ven vùng sông nước mênh mang chín rồng phù sa, không nặng nề cục mịch như người miền Đông Nam Bộ nóng cháy da thịt, giọng người Sài Gòn cũng ngọt, nhưng là cái ngọt thanh hơn, nhẹ hơn. Đó là chất giọng “thành thị” đầy kiêu hãnh của người Sài Gòn, chẳng lẫn vào đâu được mà dù người khác có bắt chước cũng khó lòng. Dường như qua nhiều năm cùng với đất Gia Định – Sài Gòn phù hoa trong nhịp sống, trong đổi mới và phát triển, thì giọng nói của người Sài Gòn cũng trở nên “cao sang” hơn. Dù vậy, có cái “thanh” của một vùng đất một thời là thủ phủ Nam Bộ, nhưng cũng chẳng mất đi đâu cái mộc mạc không bỏ được của cái gốc chung Nam Bộ.
    Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng không cao như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang sang sảng riêng…Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu… Người miền khác có khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này. Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “Thôi, tôi dìa nghen!” – Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dìa hen!”. Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!” “thôi” ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên “Hay hén mậy?” bằng giọng điệu thoải mái…
    Giọng người Sài Gòn đôi khi diễn đạt cùng một câu nói, nhưng lại bằng nhiều cung bậc giọng điệu khác nhau lại mang ý nghĩa khác nhau. Đám nhỏ quậy, nghịch phá, người chị mắng, giọng hơi gằn lại và từng tiếng một, có chút hóm hỉnh trong đó “Dzui dzữ hen!”. Đám bạn cùng tuổi, ngồi chơi chung, cười đùa, một người nói giọng cao cao vui vẻ “Dzui dzữ hen!”…Người Sài Gòn có thói quen hay “đãi” giọng ở chữ cuối làm câu nói mang một sắc thái khác khi hờn giận, khi đùa vui như “Hay dzữuuu”, “Giỏi dzữưưu…!” Nghe người Sài Gòn nói chuyện, trong cách nói, bắt gặp “Thôi à nghen” “Thôi à!” khá nhiều, như một thói quen và cái “duyên” trong giọng Sài Gòn.
    Người Sài Gòn nói chuyện, không phát âm được một số chữ, và hay làm người nghe lẫn lộn giữa âm “d,v,gi” cũng như người Hà Nội phát âm lẫn các từ có phụ âm đầu “r” vậy. Nói thì đúng là sai, nhưng viết và hiểu thì chẳng sai đâu, đó là giọng Sài Gòn mà, nghe là biết liền. Mà cũng chẳng biết có phải là do thật sự người Sài Gòn không phát âm được những chữ ấy không nữa, hay là do cách nói lẫn từ “d,v,gi” ấy là do quen miệng, thuận miệng và hợp với chất giọng Sài Gòn. Ví như nói “Đi chơi dzui dzẻ hen mậy!” thì người Sài Gòn nói nó… thuận miệng và tự nhiên hơn nhiều so với nói “Đi chơi vui vẻ hen!”. Nói là “vui vẻ” vẫn được đấy chứ nhưng cảm giác nó ngường ngượng miệng làm sao đó.
    Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ “dạ” khi nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ “vâng”. Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ “vâng”. Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói “vâng!” là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt. Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ “dạ” vào mỗi câu nói. “Mày ăn cơm chưa con ? – Dạ, chưa!”; “Mới dìa/dzề hả nhóc? – Dạ, con mới!”… Cái tiếng “dạ” đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó “thương” lạ…dễ chịu mà gần gũi, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng “dạ” là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẳn hay.
    Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói “Từ bữa đó đến bữa nay”, còn người Sài Gòn thì nói “Hổm nay”, “dạo này”…người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. (Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ “ghê” phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ghê” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là “nhiều”, là “lắm”. Nói “Nhỏ đó [” nghĩa là khen cô bé đó lắm vậy.) Lại so sánh từ “hổm nay” với “hổm rày” hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ “hổm rày, miết…” là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất Nam Bộ chung mà.
    Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem…”Nhỏ đó [ lắm!”, “Nhỏ đó ngoan!”…Tiếng “nhỏ” mang ý nghĩa như tiếng “cái” của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi “nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên” thì cũng như “cái Thuý, cái Uyên, cái Lý” của người Hà Nội thôi.
    Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu “Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề…nhìn phát bực!” Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi “Ê, nhóc lại nói nghe!” hay gọi người bán hàng rong “Ê, cho chén chè nhiều nhiều tiền ít coi!”… “Ê” là tiếng Sài Gòn đó, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Sài Gòn. Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường “quên” mất từ “bán”, chỉ nói là “cho chén chè, cho tô phở”… “cho” ở đây là mua đó nghen. Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này “Lấy cái tay ra coi!” “Ngon làm thử coi!” “Cho miếng coi!” “Nói nghe coi!”… “Làm thử” thì còn “coi” được, chứ “nói” thì làm sao mà “coi” cho được nè ? Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ “coi” cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy mà. Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta ?” – Mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta?” “Sao rồi ta?” “Được hông ta?”…Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà…hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà.
    Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!”

    Nguồn Operablog

  • Phương ngữ tiếng Việt

    Phương ngữ tiếng Việt

    Ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống của từng địa phương khác nhau về kinh tế, văn hóa sẽ khác nhau. Ở Việt Nam chủ yếu có ba vùng phương ngữ chính: phương ngữ bắc (Bắc Bộ), phương ngữ trung (Bắc Trung Bộ), phương ngữ nam (Nam Trung Bộ và Nam Bộ). Các phương ngữ này khác nhau chủ yếu ở ngữ âm, rồi đến từ vựng, cuối cùng là một chút khác biệt ngữ pháp.
    Phân bố các phương ngữ ở Việt Nam
    Sự khác biệt về ngữ âm là nhiều nhất, nhưng có thể đoán được. Sự khác biệt về từ vựng có thể dẫn đến sự hiểu lầm nhiều nhất.

    Các phương ngữ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hiện nay thể hiện sự khác biệt ngữ âm khá rõ theo địa giới gần tương đương phân chia hành chính thời Lê sơ:

    Thăng Long tứ trấn (Thăng Long và 4 trấn xung quanh là Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Đông, Sơn Nam) tạo nên giọng Bắc Bộ hiện nay, với các khác biệt nhỏ từng trấn:

    • Thăng Long: Giọng Hà Nội.
    • Trấn Kinh Bắc: Giọng Bắc Ninh, Bắc Giang.
    • Trấn Hải Đông (xứ Đông): Giọng Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh.
    • Trấn Sơn Tây (xứ Đoài): Giọng Hà Tây (cũ), Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang.
    • Trấn Sơn Nam: Giọng Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, đặc điểm dễ nhận thấy là phát âm phụ âm rung r (không lẫn với d) và phụ âm tr (không lẫn với ch).
    • Trấn Thanh Hóa tạo nên phương ngữ Thanh Hóa.
    • Trấn Nghệ An tạo nên phương ngữ Nghệ An, Hà Tĩnh.
    • Trấn Thuận Hóa tạo nên phương ngữ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.

    Các phương ngữ Nam Bộ hiện nay hình thành rõ nét kể từ khi chúa Nguyễn Hoàng vượt qua Hoành Sơn vào Đàng Trong cùng với nhiều thay đổi trong ngữ âm và bổ sung nhiều từ vựng từ tiếng Khmer, tiếng Quảng Đông, tiếng Phúc Kiến…

    Phân bố các phương ngữ ở Việt Nam
    Phân bố các phương ngữ ở Việt Nam

    Có những tổ hợp song âm khi tách ra dùng đơn lẻ thì tiếng Nam chọn yếu tố thứ nhất, còn tiếng Bắc chọn yếu tố thứ hai: dơ bẩn, đau ốm, lời lãi, bao bọc, mai mối, hư hỏng, dư thừa, kêu gọi, sợ hãi, hình ảnh, la mắng, bồng bế, hăm dọa

    Ngược lại có những tổ hợp người miền Bắc chọn yếu tố đầu, người miền Nam chọn yếu tố sau: thóc lúa, giẫm đạp, đón rước (trong phương ngữ Bắc Bộ, rước mang nghĩa trang trọng), lừa gạt, sắc bén, lau chùi, thứ hạng, chăn mền, chậm trễ, tìm kiếm, vâng dạ, đùa giỡn, thuê mướn, mau lẹ, hung dữ, trêu chọc…

    Nhiều từ vựng, phương ngữ Bắc quen dùng từ thuần Việt, phương ngữ Nam hay dùng từ Hán Việt như (bắc/nam): hát/ca, chè/trà, bèo tây/lục bình, quán/tiệm, mướp đắng/khổ qua, đỗ/đậu… Ở chiều ngược lại, phương ngữ Bắc thông dụng từ Hán Việt thì phương ngữ nam hay dùng từ đã Việt Hóa như: hoa quả/trái cây…

    Nhiều từ vựng phương ngữ miền Nam có nguồn gốc từ bối cảnh sông nước, đặc điểm tự nhiên của miền Tây Nam Bộ, như: có giang, quá giang, anh em cọc chèo (phân biệt chèo lái, chèo kế, chèo mũi) chỉ anh em đồng hao ở ngoài Bắc, khẳm (chỉ thứ gì nhiều quá ví dụ khẳm tiền), chìm xuồng (chỉ vụ việc bị lãng quên), tới bến, xuống nước…

  • Tên Tiếng Việt của một số địa danh và danh nhân nổi tiếng

    Tên Tiếng Việt của một số địa danh và danh nhân nổi tiếng

    Hình ảnh Việt Nam.com xin sưu tầm một số tên gọi địa danh & danh nhân nổi tiếng trên thế giới đã được Việt hóa.

    Việt hóa địa danh và danh nhân

    Nữu Ước (New York), Hoa Thịnh Đốn(Washington), Mã Nhật Tân (Manhattan, khu trung tâm của New York), Cựu Kim Sơn (San Francisco – bang California, Mỹ), Phú Lang Sa (France), Úc Đại Lợi(Australia), Luân Đôn (London), Phi Luật Tân (Philippine), Tân Tây Lan (New Zealand), điện Cẩm Linh (điện Kremly – nơi làm việc của tổng thống Nga), Hoa Lệ Ước (Hollywood), Mạc Tư Khoa (Moscow, thủ đô Nga), Cơ Phụ (Kiev – thủ đô Ukraine), sông Phục Nhĩ Gia (sông Volga), sông Đa Não Hà (sông Danuble), Ba Tây (Brazil), A Phú Hãn(Afganishtan), Gia Nã Đại (Canada), A Mỹ Lợi Gia (America), Á Căn Đình (Argentina), Áo Môn (Macau), Cao Ly(Korea), Hạ Uy Di (Hawai), Hoành Quốc (Monaco, công quốc thuộc Pháp), Hoành Tân (Yokohama – Nhật Bản), Hưng Gia Lợi (Hungary), Hy Mã Lạp Sơn (Hymalaya – dãy núi), Hương Cách Lý Lạp (Shangri La ), Mễ Tây Cơ (Mexico), Tân Đức Lợi (New Delhi – Ấn Độ), Hương Cảng (Hongkong), Thánh Hà Tây (San Jose – California, Mỹ), Tô Cách Lan (Scotland), Uy Nê Tư (Venice – Ý), Ái Nhĩ Lan (Ireland), Ba Lê (Paris), Bảo Gia Lợi (Bulgary), La Tỉnh (Los Angeles – California, Mỹ), Á Lan Đại (Atlanta), Á Tế Sá (Asia), Bá Linh (Berlin), Bạch Nga (Belarus), Bàn Môn Điếm (Panmomjum, khu phi quân sự chia đôi Nam – Bắc Triều Tiên), Bình Nhưỡng (Pyongyung), Băng Đảo(Iceland), Cao Miên (Campuchia), Chi Gia Kha (Chicago, bang Illinois, Mỹ), Đông Hồi (Banglades), Hán Thành(Seoul, thủ đô Hàn Quốc), Đông Kinh (Tokyo), Hồi Quốc (Oman), Lục Xâm Bảo (Luxembourg), Lỗ Mã Ni(Romania), Mạnh Mãi (Mumbay, còn có tên là Bombay, thành phố đông dân nhất Ấn Độ), Phú Sỹ (Fuji –ngọn núi ở Nhật), Tân Đức Lợi (New Delhi, thủ đô Ấn Độ), Tây Hồi (Pakistan), Tây Nhã Đồ (Seattle, bang Washington, Hoa Kỳ), Tích Lan (Sri Lanca), Vọng Cát (Bangkok – thủ đô Thái Lan), Trân Châu Cảng (Pearl Harbor)

    Chú thích

    1. Mã Nhật Tân (Manhattan): là nơi xảy ra sự kiện 11/9, khu vực tòa tháp đôi giờ gọi là Ground Zero

    2. Cựu Kim Sơn: Ai xem phim Hongkong hay Trung Quốc, bối cảnh cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thì hay thấy người ta nói đi Cựu Kim Sơn để ám chỉ đi Mỹ, vì thời điểm đó người Hoa di cư sang Mỹ khá đông và có nhiều người Hoa sống tại San Francisco. Người Hoa bắt đầu đến San Francisco trong giai đoạn người ta đổ xô đến California để tìm vàng (thế kỷ XIX). Nhà văn Mỹ Jack London cũng lấy bối cảnh này để viết nên tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dãnổi tiếng.

    3.  Hương Cách Lý Lạp: một vùng đất, trong huyền thoại, được xem là lạc cảnh thần tiên  của Trung Quốc. Trong phim Xác Ướp 3, địa danh này là nơi cất thuốc trường sinh, Hongkong, Singapore đều có khách sạn nổi tiếng tên này

    4. Washington: là tên của tổng thống đầu tiên của Mỹ George Washington, tên của một tiểu bang giáp biên giới Canada, còn là tên của thủ đô Hoa Kỳ. Khi mang tên của thủ đô Hoa Kỳ thì thường phải viết đầy đủ là Washington D.C, có khi người ta chỉ viết là DC để nói cho Washington DC. DC là viết tắt của cụm District of Columbia, tức có thể dịch là Đặc khu Columbia hay quận Columbia. Điểm đặc biệt của DC là không có đại diện trong quốc hội Hoa Kỳ.

    5. Thượng Hải, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Hà Lan…: cũng là từ đã được Việt Hóa

    6. Những từ Việt hóa này không thống nhất lắm về cách dịch. Có những từ là được dịch, có những từ bắt nguồn từ cách lý giải riêng. Ví dụ: San Francisco lẽ ra phải dịch là Thánh Phan Xi Cô (giống như San Jose được dịch là Thánh Hà Tây), từ San và St có nghĩa là Thánh, bang Minessota của Hoa Kỳ có thành phố St Paul tức là thành phố Thánh Bôn. Nhưng trong trường hợp San Francisco thì có một chút khác biệt từ cách dịch của người Trung Quốc. Người Trung Quốc đến San Francisco để tìm vàng và vàng ở các dãy núi ở San Francisco khá nhiều. Chính vì thế, người TQ gọi là Cựu Kim Sơn (“cựu” là cũ, xưa; “Kim” là vàng) tức có nghĩa là “núi vàng xưa”.

    Cũng như Đông Kinh vốn dĩ không phải là bản dịch của từ Tokyo, mà chỉ là người Trung Quốc giải nghĩa nó là kinh đô ở phía đông. Ngày xưa, Trung Quốc vẫn hay dùng vị trí địa lý phía đông để nói về Nhật Bản, thời nhà Tống và nhà Minh (Trung Quốc) thì vẫn hay gọi Nhật Bản là Đông Doanh. Cũng như từ Hoa Kỳ là do nước này có lá cờ có nhiều ngôi sao như những bông hoa, Hoa Kỳ có nghĩa là Cờ Hoa (lá cờ hoa), còn chữ Mỹ thì lấy từ America (tức A Mỹ Lợi Gia). Chính vì vậy, cách Việt Hóa vẫn chưa hề thống nhất.

    NHÂN VẬT

    Nã Phá Luân (Napoleon)

    A Lịch Sơn đại đế (Alexander đại đế)

    Bối Đa Phần (nhạc sỹ Beethoven)

    A Lịch SƠn Đắc Lộ (Alexandre De Rhodes)

    Đạt Lai Lạc Ma (Dalai Lama)

    Kha Luân Bố (Colombo)

    Lệ Ninh (Lenin)

    Kim Nhật Thành (Kim Il-sung, cố lãnh tụ Bắc Hàn)

    Kim Chính Nhất (Kim Jong-il, đương kiêm lãnh tụ Bắc Hàn, con trai Kim Nhật Thành)

    Lỗ Bình Sơn (Robinson)

    Mã Lý Lệ Mộng Cổ (Marilyn Monroe)

     Mã Khắc Tư (Karl Marx)

    Mạnh Khắc Lạc Khắc Tốn (Micheal jackson)

    Phi Cát (Picasso – họa sỹ).

    Theo blog Ngô Minh Trí

  • Bộ ảnh “Những trang sách Tiếng Việt” đi cùng năm tháng

    Bộ ảnh “Những trang sách Tiếng Việt” đi cùng năm tháng

    Những trang sách Tiếng Việt cách đây đã hơn 20 năm bỗng trở lại khiến cho nhiều người không khỏi bồi hồi xao xuyến.

    Những trang sách "sống cùng năm tháng", bạn còn nhớ hay đã quên?

    Với những người thuộc 8x, 7x… thì các bài học về “Làm anh; Con gà trống; Chú bé liên lạc…” ắt hẳn là kỷ niệm đẹp nhất về tuổi thơ, về thời cắp sách tới trường. Và cũng chính những trang sách xưa cũ đấy giờ có thể được xem là kỉ vật.

    Khi nhìn lại những trang sách ngày nào còn tập đọc, cảm xúc – ký ức chợt ùa về khiến không ít người đã bồi hồi xúc động.

    Một người dùng đã phải thốt lên rằng: “Giờ đọc lại vẫn thấy thích, ngay cả những hình vẽ nhìn thô và mộc ạ! Bây giờ hỏi các em học sinh, nhiều em chả biết đâu! Cứ thấy tiếc tiếc, nhớ nhớ!”

    Và liệu bạn, những con người thuộc thế hệ 8x, 7x… cảm thấy thế nào khi nhìn trang sách này?

    Đẹp mà không đẹp
    Đẹp mà không đẹp


    Chú gà trống ưa dậy sớm
    Chú gà trống ưa dậy sớm


    Vè cá
    Vè cá

     

    Gà con
    Gà con

     

    Không sống riêng lẻ
    Không sống riêng lẻ

     

    Đàn gà mới nở
    Đàn gà mới nở

     

    Trên đường ra Côn Đảo
    Trên đường ra Côn Đảo

     

    Ngôi trường mới
    Ngôi trường mới

     

    Bộ ảnh
    Bộ ảnh “Những trang sách Tiếng Việt” đi cùng năm tháng

     

    Ông tiển ông tiên
    Ông tiển ông tiên

     

    Hòn đá to, hòn đá nhỏ
    Hòn đá to, hòn đá nhỏ

     

    Quyển vở của em
    Quyển vở của em


     

    Bộ ảnh

     

    Cái trống trường em
    Cái trống trường em


     

    Cây xoài của ông em
    Cây xoài của ông em


     

    Làm anh khó đấy
    Làm anh khó đấy

     

    Dưới trăng quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông
    Dưới trăng quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông


     

    Làm việc thật vui
    Làm việc thật vui

     

    Chú bé liên lạc
    Chú bé liên lạc


     

    Câu chuyện Cá gỗ
    Câu chuyện Cá gỗ


     

    Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
    Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng



    Nguồn: Sách đẹp
  • Ngôn Ngữ Xưa & Nay: A Bê Xê Hay A Bờ Cờ?

    Nên đọc là A BÊ XÊ hay A Bờ Cờ

    Trước tiên, xin xác định, hành trình ngôn ngữ tiếng Việt có cột mốc thời gian Xưa và Nay được căn cứ  vào thời điểm Trước và Sau 1975 giữa bối cảnh cuộc chiến hai miền Nam-Bắc. Qua loạt bài về hành trình ngôn ngữ, tác giả có tham vọng phản ảnh những giai đoạn lịch sử Việt Nam qua những thay đổi về ngôn từ trong cuộc sống hàng ngày.

    Ngày xưa, ngay từ thời niên thiếu, tôi đã nghe câu nói:

    ABC

    Không có nhà

    Đi ở thuê

    Tôi không bàn đến việc không có nhà nên phải đi ở nhà thuê mà chỉ đề cập đến cách đọc những mẫu tự ABC. Câu trên phải đọc là “A, Bê, Xê” cho hợp vần với “Đi ở thuê”. Sẽ là điều trái cẳng ngỗng khi đọc là “A, Bờ, Cờ”, hoàn toàn không hợp với vần của câu thứ ba: “A, Bờ, Cờ – Không có nhà – Đi ở thuê”!

    Như vậy, ta có 2 cách phát âm các mẫu tự, cách nào cũng đúng nhưng còn tùy thuộc vào ngữ cảnh. Có điều, dù đọc theo trường phái A, , hay A, Bờ, Cờ chỉ khác nhau ở các phụ âm như B, C, D… còn những nguyên âm như A, O, E, I, Y… hoàn toàn không có sự khác biệt.

    Ngược dòng lịch sử, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908–1996) là một trong những người có công lớn trong việc truyền bá quốc ngữ qua Phong trào Bình dân Học vụ trước giai đoạn tản cư vào cuối năm 1946. Trong bài viết Nhớ lại Hội truyền bá Quốc Ngữ, nhân kỷ niệm 50 năm đăng trên tập san Đoàn Kết (số 405-406, tháng 9 và 10 năm 1988, xuất bản tại Paris), Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn có nhắc đến “những chữ dễ viết cho những ngón tay chưa từng cầm bút… Vì lẽ đó tôi đã bắt đầu sách bằng hai chữ I, Tờ”.

    Trong cuốn “I, Tờ”, Giáo sư Hãn đã đưa ra cách phát âm các mẫu tự B, C, D, Đ… bằngBờ, Cờ, Dờ, Đờ… và các phụ âm kép NG, PH, TH, TRNgờ, Phờ, Thờ, Trờ… Chẳng hạn, để đánh vần chữ Ba, theo Giáo sư Hãn, sẽ là Bờ A Ba. Cách đánh vần này sẽ dễ dàng hơn Bê A Ba. Trong trường hợp phụ âm kép như chữ Thơ sẽ đánh vần là Thờ Ơ Thơ thay vì Tê Hát Ơ Thơ. Nói chung, phương pháp đánh vần của Giáo sư rất đơn giản nhưng lại rất thích hợp, nhất là đối với những người lớn tuổi muốn học chữ quốc ngữ. Bên cạnh đó là những vần thơ giúp người học dễ nhớ như:

    I Tờ hai móc giống nhau,

    I ngắn có chấm, Tờ dài có ngang

    O tròn như quả trứng gà,

    Ô thời đội nón, Ơ thời có râu

    Huyền ngang, Sắc dọc, Nặng tròn,

    Hỏi lom khom đứng, Ngã thời nằm ngang

    Vào thập niên 50 lại có bài hát Cô Tú của Long Châu khá phổ biến vào thời đó để cổ xúy cho việc học chữ quốc ngữ với những lời ca như sau:

    Ai về chợ huyện là huyện Thanh Vân,

    Hỏi thăm, hỏi thăm Cô Tú đánh vần được chưa?

    Đánh vần năm ngoái, năm xưa,

    Năm nay quên hết nên chưa biết gì.

    Lưng trời tiếng sáo vu vi,

    Vẳng nghe ai học chữ i, chữ tờ.

    Sách i tờ Pháp không cho học,

    Liệu cô mình đã đọc được chưa?

    Đôi bên bác mẹ cùng già,

    Lấy cô hay chữ để mà cậy trông.

    Mùa hè cho chí mùa đông,

    Ruộng vườn thóc lúa tính thông cô chẳng nhầm.

    Nụ tầm xuân còn đương phong nhuỵ,

    Xin cô mình đừng phí ngày xanh.

    Bình dân Học vụ lập thành,

    Cô nên tới đó học hành cho thông

    Từ đó, ta có cách dạy đánh vần chữ quốc ngữ theo phương pháp I Tờ, một thuật ngữ gắn liền với Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn. Ông là một học giả đa tài trong nhiều lãnh vực: giáo sư toán học, kỹ sư, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục. Ông cũng là người soạn thảo và ban hành Chương trình Trung học Việt Nam đầu tiên (*).

    Ở Việt Nam ngày nay, chữ “I Tờ” khá phổ biến nhưng không còn mang ý nghĩa ban đầu của Giáo sư Hãn. I Tờ hoặc I Tờ Rít là một tĩnh từ chỉ sự dốt nát kiểu lớp ba trường lànghay không chuyên môn như trong câu “Về computer thì tôi rất… I Tờ”. Với một số người, thậm chí I Tờ còn là cách đọc của chữ tắt IT (information technology – công nghệ thông tin) nên câu thí dụ vừa nêu còn có thể đổi là “Về I Tờ thì tôi rất… I Tờ” hoặc “Về Ai Ti thì tôi rất… I Tờ”. Tiếng Việt ngày nay càng ngày càng rắc rối!

    Nhân nói về công nghệ thông tin, xin bàn thêm một chút về ký hiệu @, tiếng Anh gọi là “At sign” (dấu At). Khởi thủy, @ thường được dùng trong thương mại và kế toán để chỉ đơn giá “each at”. Chẳng hạn như “10 apples @ 10 pennies” (10 apples each at 10 pennies – 10 quả táo, mỗi quả 10 xu).

    Bill Gates, chủ tịch tập đoàn Microsoft, xuất bản một cuốn sách mang tựa đề trong có ký hiệu @ rất ‘thời thượng’ vào thời kỳ bùng nổ Internet: “Business @ the Speed of Thought” (tạm dịch là Kinh doanh theo tốc độ của tư duy).

    Nhu cầu về máy tính đòi hỏi cần phải có một ký tự đặc biệt để tách biệt tên người sử dụng máy tính với tên miền trong hệ thống mạng nên vào năm 1972, chuyên gia lập trình Ray Tomlison chọn ký hiệu @ để biểu thị địa chỉ trên e-mail, chẳng hạn như abc@yahoo.com

    Trong khi các mẫu tự trong hệ thống chữ La Tinh ABC khi phát âm mỗi nước đọc một khác thì ký hiệu @ mỗi quốc gia đọc một kiểu! Người Đức gọi @ là “affenschwanzhayapenstaartje” (đuôi khỉ), Ý gọi là “chiocciola” (ốc sên), Hungari là “kukak” (con sâu), dân Nga gọi là “sobaka (собака)” (con chó), sang đến Hy Lạp trở thành con vịt “papaki”, Thổ Nhĩ Kỳ lại biến thành “bông hồng”, …

    Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Người ta gọi @ bằng nhiều tên: “a móc”, “a vòng”, “a còng”… Gần đây lại còn có những tên như “a đuôi” hoặc… “lỗ tai heo”! Theo cách gọi này, khi có ai hỏi địa chỉ e-mail, bạn có thể tỉnh bơ trả lời: “Địa chỉ e-mail của tớ là Nguyễn Văn Nhậu, lỗ tai heo, da-hu chấm com”.

    Trong khi miền Bắc trung thành với cách đọc A, Bờ, Cờ từ thời Bình dân Học vụ thì ở miền Nam, từ năm 1954 đến 1975, khi trẻ bước vào lớp Năm (tương đương với lớp 1 ngày nay) được dạy đánh vần các mẫu tự ABC theo cách phát âm A, Bê, Xê. Sự thay đổi sau năm 1975 được mệnh danh là cải cách hoặc cải tiến giáo dục.

    Thế nhưng, sau 1975, khi bắt đầu học toán, các em làm quen với một hình chữ nhật có 4 góc ABCD lại được thầy cô đọc là A, Bê, Xê, Dê chứ không còn là A, Bờ, Cờ, Dờ như cách đọc ở lớp vỡ lòng. Nếu phụ huynh thắc mắc, thầy cô trả lời rất đơn giản: “Trên hướng dẫn như thế!”.

    Bản thân tôi đã được nghe cháu ngoại đọc báo và không thể hiểu nổi Bộ Lờ Đờ Tờ Bờ Xờ Hờ là cái gì. Mãi cho đến lúc nhìn vào mặt chữ in trên tờ báo mới giật mình vì đó là những chữ viết tắt: Bộ LĐ-TB-XH (Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội)! Các bậc ông bà, cha mẹ không dám sửa vì con cháu luôn có điệp khúc: “Cô giáo bảo thế!”.

    Ngôn Ngữ Xưa & Nay: A Bê Xê Hay A Bờ Cờ?
    Viết thế này sao mà đọc??

     

    Về ngôn ngữ, ngoài xã hội cũng ‘loạn’ không kém gì môi trường giáo dục. Chẳng hạn như khi nhóm G7, G20 nhóm họp, đài truyền hình trung ương (VTV) đưa tin qua tên gọi các nhóm này là Gờ Bảy, Gờ Hai Mươi… trong thi đó bản tin của đài Sài Gòn (HTV) vẫn trung thành với cách phát âm cũ: Giê Bảy, Giê Hai Mươi!

    Xem quảng cáo trên TV về việc cài đặt GPRS trên điện thoại di động thì phát thanh viên miền Bắc đọc là Gờ Pê Rờ Ét còn trong Nam lại phát âm là Giê Pê Rờ Ét… (Nếu trung thành với cách phát âm cũ ABC thì phải là Giê Pê E Rờ Ét chứ). Xem đá bóng thì có độiMờ U ở miền Bắc và Em U ở trong Nam dù đó chỉ là một đội Manchester United (MU) tận bên Anh!

    Trên đây là chuyện đọc, nhưng chuyện viết cũng nhiêu khê không kém. Ngày nay, người ta có khuynh hướng biến chữ Y thành I. Theo cách này, công ty sẽ thành công ti, kỹ thuậtbiến thành kĩ thuật nhưng không biết đến bao giờ ta sẽ có Ti I tế thay cho Ty Y tế?  Tại miền Nam ngày xưa cũng có hiện tượng đổi Y thành I, nhưng trong trường hợp nữ ca sĩThanh Thúy chắc chẳng ai nỡ nhẫn tâm đổi tên người đẹp thành Thanh Thúi!

    Xem ra cách viết đúng chính tả vẫn còn là một vấn đề nhức nhối đối với các nhà ngôn ngữ học. Năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu được bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các Dân tộc bị Áp bức xuất bản thành sách với tên gọi là Đường Kách Mệnh.

    Đường Kách Mệnh giới thiệu tính chất và kinh nghiệm các cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là triệt để. Trong phạm vi ngôn ngữ, chúng ta chỉ thắc mắc tại sao viết Kách mệnh mà không phải là Cách mệnh hay Cách mạng?

    Có người giải thích vào thời điểm thập niên 20, hệ thống chính tả của Việt Nam còn đang trong thời kỳ sơ khai, chưa có những quy định chặt chẽ nên người viết có thể tùy tiện như trường hợp Kách mệnh hoặc Nhân zân, thay vì Nhân dân, hay Giải fóng thay vìGiải phóng

    Tuy nhiên, mặc dù ngày nay tiếng Việt đã được hoàn thiện phần nào nhưng đâu đó vẫn còn những trường hợp tùy tiện trong cách viết. Chẳng hạn như tên của một số địa phương, vẫn chưa có sự thống nhất. Tại miền Nam, tỉnh Đắc Lắc lại còn có tên Dak LakĐắc Nông lại biến thành Đắk Nông. Miền thượng du Bắc Việt, tỉnh Bắc Cạn được viết theo ‘kiểu mới’ là Bắc Kạn.

    Không biết đến bao giờ Bình Ca (một địa danh với chiến công hiển hách trên dòng sông Lô thời kháng chiến trong bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ… Văn Kao) sẽ được đổi thànhBình Ka? Nếu cái đà đổi C thành K vẫn tiếp diễn thì một ngày nào đó Củ Chi, ‘đất thép thành đồng’, sẽ có tên mới là Kủ Chi; Cần Thơ ‘gạo trắng nước trong’ sẽ mang tênKần ThơCao Bằng mạn ngược sẽ biến thành Kao Bằng!

    Phải chăng vì CK, nếu phát âm theo cách A, Bờ, Cờ, chỉ có một cách đọc duy nhất là Cờ cho cả hai mẫu tự nên ta có thể viết tùy tiện?

    ===

    Chú thích:

    (*): Hoàng Xuân Hãn sinh năm 1908, quê làng Yên Hồ, huyện La Sơn, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Đó cũng là lý do ngày nay tại Hà Tĩnh có trường trung học mang tên ông.

    Năm 1926, ông đậu bằng Thành Chung, rồi ra Hà Nội học trung học ở trường Bưởi. Sau đó một năm, ông lại chuyển sang học chuyên Toán ở Lycée Albert Sarraut. Năm 1928, ông đỗ thủ khoa kỳ thi tú tài toàn phần và được nhận học bổng của chính phủ Đông Dương sang Pháp học dự bị để thi vào các trường lớn.

    Năm 1930, ông đỗ vào trường École Normale Supérieure và Trường Bách khoa Paris. Ông chọn học trường Bách Khoa. Trong thời gian này ông bắt đầu soạn cuốn Danh từ khoa học.

    Năm 1932-1934: Ông vào học École Nationale des Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris). Năm 1934: Trở về Việt Nam, 4 tháng sau đó sang Pháp. Từ năm 1934 đến năm 1936 trở lại Pháp; đậu cử nhân toán 1935, và thạc sĩ toán 1936 tại khoa Toán trường Đại học Sorbonne (Licence des Sciences mathématiques Sorbonne).

    Từ năm 1936 đến năm 1939, ông trở về Việt Nam dạy các lớp đệ nhất ban toán trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Trong thời gian này ông hoàn tất cuốn Danh từ Khoa học. Từ năm 1939 đến năm 1944, vì chiến tranh trường Bưởi phải rời vào Thanh Hóa. Tại đây, ông tìm thấy những tư liệu lịch sử về La Sơn Phu Tử và vua Quang Trung và những tấm bia nói về sự nghiệp của Lý Thường Kiệt.

    Năm 1942, ông cho xuất bản Danh từ khoa học. Năm 1943, Đại học Khoa học được thành lập tại Hà Nội, Hoàng Xuân Hãn được mời dạy môn cơ học. Tháng 4 năm 1945, vua Bảo Đại mời ông vào Huế để tham khảo ý kiền về việc thành lập chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam. Ngày 17/4/1945, ông tham dự nội các Trần Trọng Kim với chức vụ Bộ trưởng Giáo dục – Mỹ thuật.

    Từ ngày 20/4 đến ngày 20/6/1945, với chức bộ trưởng, ông đã thiết lập và ban hành chương trình giáo dục bằng chữ Quốc ngữ ở các trường học. Áp dụng việc học và thi Tú tài bằng tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong những công văn chính thức. Chính phủ Trần Trọng Kim tại chức được 4 tháng.

    Sau ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ nhiệm, ông trở về dạy và viết sách toán bằng tiếng Việt, cùng cứu vãn những sách cũ, sách cổ bị đưa bán làm giấy lộn khắp đường phố Hà Nội.

    Ông sang Paris năm 1951 và ở luôn bên Pháp. Trong thời kỳ 1951-1954 ông đã giúp Thư viện Quốc gia Pháp và các thư viện Dòng Tên ở Ý và Tòa Thánh Vatican làm thư mục về sách Việt. Ông vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu, viết các bài gửi các báo Sử Địa (Sài Gòn, 1966-1974), tập san Khoa học – Xã hội (Paris, 1976-1987), Đoàn Kết (Paris, 1976-1981), Diễn Đàn (Paris 1991-1994).

    Ngày 21/7/1992, ông thành lập tại Pháp một hội văn hóa có tên là Hội Văn hóa Giáo dụcCam Tuyền do ông làm chủ tịch. Hội có tôn chỉ và mục đích bảo vệ và phát huy văn hóa, giáo dục; nhất là bảo tồn văn hóa cổ Việt Nam tại Pháp và ở các quốc gia Tây phương. Ngoài ra, tại Paris ông đã hoàn tất công trình lớn về Đoạn trường tân thanh có tên “Nghiên cứu về Kiều” từ hơn 50 năm nay.

    Ông mất lúc 7 giờ 45 ngày 10/3/1996 tại bệnh viện Orsay, Paris. Thi hài ông được hỏa táng chiều ngày 14/3/1996 tại nghĩa trang L’Orme des Moineaux, Les Ulis, Pháp.

    Nguồn bài viết: SGGDPOST

  • Vì sao gọi người Nghệ An là dân “cá gỗ”

    Vì sao gọi người Nghệ An là dân “cá gỗ”

    Ngày nhỏ, cứ nghe thấy ai đó nói giọng “trọ trẹ” là người ta lại bảo, đấy là dân “cá gỗ”. Lấy làm lạ, chưa hiểu “tại sao lại thế?”, “cá thật chẳng ăn ai, lại là cá gỗ”. Rồi tò mò, tôi đi hỏi người lớn, người lớn kể cho tôi nghe câu chuyện dân gian xưa:

    người Nghệ An là dân "cá gỗ"
    CHO KHÁT NƯỚC… CHẾT LUÔN

    Một anh hà tiện thuộc loại vắt cổ chày ra nước, không bữa cơm nào mà dám mua thức ăn. Anh ta treo một con cá gỗ lơ lửng ở giữa nhà, dặn các con khi ăn cơm thì nhìn lên cá gỗ, chép miệng một cái rồi và cơm, coi như là đã được ăn cơm với cá rồi. Đứa con út mới lên bốn tuổi, háu ăn, nhìn lên con cá gỗ chép miệng luôn mấy cái mới và cơm. Thằng lên sáu trông thấy liền mách bố: – Thằng này nó chép miệng mấy cái liền mới và cơm đó bố ạ! Anh ta mắng: – Cứ để nó ăn mặn cho khát nước chết luôn!!!

    Hình ảnh người Xứ Nghệ trong tôi ngày ấy là “keo kiệt” lắm. Và, tại sao phải khổ thế…!!!

    Lớn lên… đi học, tôi có thêm những người bạn có cha mẹ là người gốc Xứ Nghệ ra sống và làm việc ở Hà Nội, tôi theo bạn đến nhà ăn, ngủ, học ở đấy, rồi tiếp xúc với họ. Tôi có thấy người Nghệ “keo kiệt” đâu, chỉ thấy họ nói to, giọng thì “nặng trình trịch” và rất hay có những cuộc gặp gỡ đồng hương, giao lưu, vui vẻ và hào phóng. “Ào ào như cơn lốc” ngay từ ngoài cổng.

    Khi tôi vào đại học, trong lớp có những người bạn quê ở vùng Thanh – Nghệ Tĩnh, tôi làm lớp trưởng – trách nhiệm là luôn phải quan tâm đến mọi người… Trong số ấy, những người bạn đến từ vùng đất miền Trung nắng cháy, họ hiện thân trong tôi là anh học trò nghèo ngày xưa: nghèo mà hiếu học, thông minh, chăm chỉ, chịu khó, nghĩ sao nói vậy, không “lắt léo”, “loằng ngoằng”, “nhì nhằng” trong ứng xử, quan hệ…

    Hè, chúng tôi dong duổi đi chơi, theo những người bạn ấy vào Thanh, Nghệ An, Hà Tĩnh (phần này tôi đã có dịp tâm sự). Cũng “ba cùng” với những người bạn ấy và gia đình của họ.

    Vẫn giọng “trọ trẹ” khó nghe, nhưng phát âm rất chuẩn từ chữ “tr”, “ch”, “r”, “s” và “x”… vẫn “ăn to, nói lớn”, cứ “oang oang” mà không “nhỏ nhẹ” (kể cả con gái).

    Gia đình các bạn tôi từ Diễn Châu, Quỳ Hợp, Quỳnh Lưu, Đô Lương, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương (Nghệ An) đến Nghi Xuân, Can Lộc (Hà Tĩnh)… vùng quê nào, ngôi nhà nào chúng tôi đến cũng đầy ắp tiếng cười, lòng người cứ chân chất, “thẳng tưng như ruột ngựa”, chẳng “úp úp mơ mở”, chẳng “quanh co, lòng vòng”, nói là làm, nghĩ sao nói vậy… Và, hơn hết là “tính hiếu khách” của gia chủ, “yêu” và “ghét” rất rõ ràng.

    Thế đấy, người Xứ Nghệ cứ đẹp dần lên trong mắt tôi, đẹp dần lên trong những lời nhận xét của tôi khi có ai đó hỏi tôi về họ.

    Cái nghề nghiên cứu của tôi đã cho tôi được đi và đến nhiều vùng miền trên đất nước, tiếp xúc với nhiều người, tìm hiểu thêm về nhiều vùng đất dưới góc nhìn của văn hóa… tôi trân trọng hai từ “cá gỗ”. Lâu rồi, “cá gỗ” trở thành một đại từ chỉ người Xứ Nghệ, như đã là thế, như không thể khác được.

    Người Nghệ tự hào vì hai từ ấy! Người Nghệ luôn tự mình hơn người bởi hai từ ấy…!

    Tôi hoàn toàn đồng tình. Bởi, phải hiểu xuất phát điểm của cụm từ này là từ một vùng quê “nghèo mùng tơi chưa kịp rớt”, mới hiểu người Xứ Nghệ đã phải “gồng mình đi lên như thế nào” để “vượt khó, vượt khổ”. Trong cái “gian lao” ấy, tâm hồn và ý thức của họ thật lớn, con “cá gỗ” của anh học trò nghèo Xứ Nghệ ngày xưa chỉ còn trong tiềm thức, trong lời nói của sinh viên Xứ Nghệ ngày nay. Cuộc sống ngày một đổi thay… hình ảnh “cá gỗ” mãi là niềm tự hào, bởi trong cái sự “nghèo túng” ấy, người Xứ Nghệ đã biết “ước mơ”, biết “khao khát” từ những việc tưởng như rất nhỏ hàng ngày, ẩn chìm và hiển hiện trong mỗi bữa cơm ăn, trong nỗi lo thường nhật. Nhưng là khát vọng để vươn tới, để cố gắng.

    Xin cảm ơn câu chuyện dân gian, cảm ơn anh học trò nghèo Xứ Nghệ, cảm ơn những con người Xứ Nghệ qua nhiều thế hệ vẫn mãi giữ được truyền thống “nghèo mà hiếu học”, vẫn giữ được hai chữ “cá gộ” nghe sao thấy tội tội sao mà thương, mà quý, để mãi… nâng niu!

    Bài được đăng bởi: Cafe sách hội nghị