Tag: trước năm 1975

  • Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975

    Những cuộc tình chớp nhoáng của lính Mỹ với gái điếm Việt (chúng tôi xin phép được tường lại theo đúng lời của họ) thường bắt đầu tại quán bar do quân đội bảo kê. Sau màn làm quen bằng bia rượu, họ sẽ đưa các cô gái về khách sạn hoặc về nhà trọ…
    Có vẻ họ rất thích kiểu phụ nữ đã đi qua nhiều đổ vỡ, điều đó càng thấy rõ khi được nghe về những hồi ức, những thú nhận về mẫu người đàn bà mà bản thân họ cảm thấy lôi cuốn đến phát sợ ở VietNam xưa.
    Kiểu đàn bà trầm tính, không theo một cách bẩm sinh, mà là một con người đã từng thất tình, hận tình, bạc tình rồi từ bỏ dần mà trở thành hai màu đen trắng mộc mạc. Đen trắng là cái màu ai cũng mặc được, bởi vì ở cái sắc đẹp nhất của hắc bạch, chúng chỉ giống với sự cô đọng, còn lại của một người đã có nhiều và cũng đã phải đi qua nhiều.
    Họ đi qua nhau không hẳn là người tình của nhau, sự ái ân-nhục dục nhất thời. Mà còn là sự đồng cảm, về những mất mát tình cảm phải trải qua trong buổi thời chiến hoạn ly.

    Trong cuộc chiến tranh Miền Nam Việt Nam,số liệu thống kê được gần chín mươi ngàn phụ nữ đã phục vụ cho các dịch vụ giải khuây của quân đội Mỹ.
    Đầu năm 1965, quân Mỹ có mặt ở miền Nam lên đến 167.000 người và viện trợ tròm trèm con số 200 triệu USD. Kinh tế dựa vào viện trợ chiến tranh trở nên phồn thịnh bất ngờ kéo theo hàng loạt hệ lụy. Đặc biệt phát triển và nhanh chóng trở thành phễu hút đô-la của lính Mỹ chính là các snackbar và nghề mại dâm Sài Gòn .
    Kính mời các bạn xem bộ ảnh về gái điếm xưa kia ở VietNam.

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975


    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975


    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975 Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Cô gái trong điệu múa sexy.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Thú vui tiêu khiển của binh lính Mỹ.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Nhát chổi cực mạnh của Ủy ban Quân quản sau ngày 30.4.1975 xem như chấm hết một thời văn hóa sex của miền Nam.
    Trong hình là những cô gái vấn tóc kĩ càng để chờ những vị khách phương Tây cuối ngày đến bar họ
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Vẻ đẹp của một cô gái Việt Nam
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Chiến tranh Việt Nam vẫn không làm thay đổi bản chất của quân đội Mỹ.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Hình ảnh về cuộc hẹn của một lính Mỹ trên bãi biển đẹp của Việt Nam.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một ban nhạc rock ở Biên Hoà thời tạm chiếm
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Lính Mỹ dễ dàng tìm được tình nhân là các cô gái Việt Nam có hoàn cảnh khó khăn, không có gia đình.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Hay nhẹ hơn một ít là kiểu mặc ngắn ngủn
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Họ ăn vận sexy,khiêu gợi để mua vui
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Những người phụ nữ trở thành đồ chơi của quân đội Mỹ.
    Năm 1974, khi Mỹ đã rút quân, một tạp chí khiêu dâm “made in Vietnam” ra đời. Hình sex được thu gom bởi một tay đầu nậu là L.T.H. – ông trùm ngành in ấn – được chế bản, in offset ở Chợ Lớn rồi đóng thùng chuyển đi… Hong Kong.
    Sau đó, qua kênh của một sĩ quan cấp tướng, tạp chí này lại được chuyển về Sài Gòn bằng đường hàng không.
    Lý do của việc chuyển ấn phẩm sex một cách lòng vòng như thế chỉ vì Hoàng Đức Nhã – ông trùm thông tin tuyên truyền ở chế độ Việt Nam Cộng hòa – không bằng lòng và tuyên bố không chấp nhận thứ đồi trụy đó lại có xuất xứ ở miền Nam.
    Tuy nhiên, những vũ nữ sexy nức tiếng Sài Gòn thuở ấy đều có mặt trong tạp chí với những album “trời đỡ” thì việc né tránh của tổng trưởng họ Hoàng xem như thừa
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Các cô chiêu đãi viên thi nhau đi chụp hình sex 100% để tiếp thị. Phong trào chụp hình sex theo kiểu dung tục và có tính thương mại xuất hiện ở miền Nam như thế.
    Thoạt đầu, dù nhân viên được gọi bằng cụm mỹ từ “chiêu đãi viên” là mũi tẹt, da vàng thuần túy, nhưng ảnh sexy tiếp thị vẫn xài hàng nhập bởi các cô người mẫu của Penthouse, Playboy, Lui
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Năm 1975, Mỹ rút quân hoàn toàn khỏi Nam Việt Nam trên những “chiếc trực thăng cuối cùng”. “Người Mỹ ra đi, nhưng đồng đô la ở lại”, truyền thông Pháp chiêm nghiệm. Ai đó vẫn tìm cách show hàng không vì nghệ thuật đâu, chủ yếu vì tiền xanh thôi.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Các tác giả phương Tây cho rằng dịch vụ thoát y là cung xuất hiện đáp ứng nhu cầu thanh toán được của các cụm quân viễn chinh. Vẫn theo Richard West, người Mỹ nhận thấy phụ nữ Việt “vụ lợi và có khuynh hướng thương mại (mercenary and commercially minded)”.
    Tác giả Paul Ham kể “một vũ nữ ‘hàng ngoại’ (exotic) đến ‘khoe hàng’ (strutted her stuff) trên sân khấu ở trại lính Úc (ở Việt Nam). Đột nhiên, cô gái Việt nhỏ nhắn này giật bỏ cái xu chiêng, cưỡi lên vai một cảnh sát chiến đấu to như bò mộng, ngả người ra đằng sau hắn, và bắt đầu làm tình giả vờ với cái cổ của tay MP này… Đám đông lính tráng sôi lên, chồm lên phía sàn diễn, để rồi bị cảnh sát chiến đấu và ‘các cha tuyên uý giận dữ’ chặn đứng”.
    Mới biết một tập thể, từng được dạy dỗ cả về tình dục học và kỹ năng sống, vẫn phải được canh giữ về phần xác, bởi cảnh sát vũ trang, và phần hồn, bởi các linh mục khổ hạnh. Nhưng đám đông lính tráng vẫn “nóng máy”, đến mức súng đạn đã nhiều lần nổ trong các sô diễn này. Truyền thông phương Tây cho hay diễn viên Cathy Wayne đã thiệt mạng trong một vụ như vậy ngay trên sàn diễn.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Bên bờ sông, rạp Majestic và khách sạn Continental, công trình rập khuôn theo thềm lục địa (Continental Shelf), vẫn còn khét mùi của mốt “nhái” theo Pháp (faux – French) đã suy tàn. Chúng là sân chơi của trác táng thâu đêm, với vài xen có thể mua nổi cả một bạn nhảy tango. Tình dục, á phiện, cờ bạc, nhảy đầm và rock’n roll được xài dữ, theo phong cách Hoàng đế Xê za. ‘Tiệc tùng, yến ẩm, hội hè liên miên’, một nữ y tá người Úc thốt lên, ‘cả Sài Gòn như đều ngấu nghiến những thời khắc mông muội giát vàng của cái thành phố hoang dâm vô độ này, dù vẫn cảm nhận được rằng ngày tận diệt (apocalypse) đã cận kề’.
    Được bộ máy chiến tranh của Mỹ tài trợ, mọi thứ thú vui đã xả láng đến mức khản giọng. Nam Việt Nam đã có một quá khứ đủ hùng hậu để làm hài lòng ông chủ Mỹ theo cung cách chợ đen, với hối lộ, đút lót là luật chơi phổ biến
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Dịch vụ giải trí, theo các tác gia phương tây, là điểm nhấn của hoạt động kinh doanh ở miền Nam thời tạm chiếm. Nhưng nó còn là sự vỡ oà về nếm trải lạc thú theo kiểu yến tiệc trong nguy nan của cả một số người Việt, như chiêm nghiệm cảm giác mạnh một cách “sành điệu”.
    Cuốn “Cuộc chiến của Australia ở Việt Nam” (Vietnam The Australian war, NXB Happer Collins, 815 trang), tác giả Paul Ham đã dành cả một chương mang tên “R&R” (rest and relaxation) để nói về nghỉ ngơi – giải trí của quân đội viễn chinh phe Mỹ tại Nam Việt Nam. Sách có đoạn viết về Sài Gòn những năm cuối thập kỷ 60: “Bên những đại lộ lớn, rợp bóng những hàng cây, cánh nhà giàu Việt Nam mở những tiệc tùng phô phang, đàng điếm, với sò huyết, rượu Pháp, gan ngỗng (foie gras), và trứng cá ngập bàn, trong khi dân đen chui rúc trong những ổ chuột dựng từ vỏ hộp Coke đập bẹt, trệu trạo nắm cơm chim
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Nhưng tìm gạch nối cho hai phong cách ăn chơi Pháp và Mỹ đâu có thiếu. Chẳng hạn, các quán ba có nhảy go – go khá phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Đây là điệu nhảy à gogo tiếng Pháp, có nghĩa là (chơi) hết mình, thoải mái (abudance, galore). Vũ nữ có khi mặc hai mảnh, thậm chí một mảnh (topless).
    Theo báo Tiền tuyến, Sài Gòn 11/12/1969 nửa triệu lính Mỹ, như trên trời rớt xuống, tiêu tới 30 triệu USD/tháng (tính trượt giá – khảng hơn 200 triệu USD hôm nay). Đây là hiện tượng được các cơ cấu đánh giá thời cuộc của chính quyền Sài Gòn cho là đã làm “thay đổi bộ mặt xã hội miền Nam”, khi một bộ phận dân cư làm “dịch vụ” tại những nơi quân đội nước ngoài trú đóng kiếm tiền “dễ dàng” hơn .
    Trong những thay đổi lớn nhất chắc phải kể đến nhân sinh quan. Từ nay, sắc đẹp, kể cả nhờ đồng tiền (mỹ viện), là “tư bản”, xác thịt là hàng hoá. Khoe xác thịt là quảng cáo, là show hàng. Rải rác trong lưu trữ của Mỹ là các tin, ảnh về “thoát y phục vụ binh lính Mỹ” thời tạm chiếm.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Sau sự kiện này, diễn viên điện ảnh Kiều Chinh (được thể hiện mặc áo dài dân tộc trên Playboy) nói rằng cô ta đã giận dữ khi thấy ảnh mình xuất hiện cùng trang với các phụ nữ (nước khác) không mặc quần áo. Cùng kỳ với hàng ngàn phụ nữ Việt làm gái mại dâm cho lính Mỹ, Playboy đã không thể thuyết phục được một diễn viên, một người mẫu, hoặc một nữ thư ký người Việt nào thoát y. Người Việt bảo thủ về trang phục đến mức đề xuất làm trễ cổ áo dài xuống một inch sẽ làm nổ ra một cuộc tranh luận tương đương với tranh cãi ở phương Tây về áo tắm không có nửa trên (topless swim – suit)… Các tranh luận vẫn tiếp tục, nhưng (tới năm 1974), vẫn chưa hề có đề xuất rằng người Việt sẽ chuyển sang mặc các trang phục phương tây”.
    Tuy nhiên, chỉ thế hệ tới lúc đó đã trưởng thành có cơ đứng vững. Từ năm 1965 chính quyền VNCH cho phép các giải trí trường kinh doanh nghề mại dâm. Nghề tú bà, ma cô từng hình thành từ thời quân đội viễn chinh Pháp, nay công khai phát triển.
    Cùng với sự xuất hiện của đồng đô la, lan tràn các quán rượu kiểu Mỹ, hộp đêm, nhà chứa, phòng tắm hơi… Tại đây công khai trao đổi xác thịt, kể cả kiểu đồng tính, mãi xoá đi những điệu vũ thướt tha và chuyện tình “dị chủng” vụng trộm, hoa lá cành kiểu Pháp, tự truyện Continenetal Saigon (xuất bản 1976) của chủ cũ của Hôtel Cotinental đổi phận thành nhà văn Phillippe Franchini, than thở.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    [1 ẢNH PROMOTION TRONG CHIẾN DỊCH QUẢNG CÁO BÁN HOA NĂM XƯA]
    Thách thức đầu tiên về một hình tượng “nuy”, nhưng kiểu Tây, có thể là Đấu xảo (Triển lãm thuộc địa) năm 1902. Theo tác giả Jean Ajalbert trong Những định mệnh của Đông Dương (Les destinées de l’Indochine, xuất bản 1911), trong gian Mỹ thuật nước Pháp, đã có cả đám người đứng ngẩn ra, hoặc ngượng ngùng che miệng cười trước tấm hình khoả thân, “Người Annam xem ra còn chưa biết tất cả những gì là cơ thể phụ nữ…”. Thời đó, phụ nữ Việt mặc áo cài tới tận cổ và gấu quần phải chấm mắt cá chân.
    Trong tiến trình “Mỹ hoá” ở miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương lần thứ II, các tác giả phương Tây vẫn muốn chỉ rõ sự khác biệt giữa “gái ba” ở các đô thị, và phụ nữ Việt Nam.
    Tác giả Richard West trong Thắng lợi ở Việt Nam (Victory in Vietnam) viết rằng không mấy phụ nữ Việt nam, kể cả những ai học tiếng Anh, chấp nhận “lối sống Mỹ”.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Chân dung tác giả Laurie Smith khi ở Vũng Tàu.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    “Sương muốn vào một nhà hàng Hàn Quốc nhưng nhân viên ở đây kiên quyết không cho cô vào…”.”Anh ta bình tĩnh lại khi tôi chìa ra mấy tờ Đô-la Mỹ. Sau đó, anh cúi đầu chào và đưa chúng tôi vào bàn của mình…”. “Sương và tôi đã ăn và nói chuyện giống như bất kỳ cặp vợ chồng khác trong một cuộc hẹn. Một ngọn nến lung linh trên bàn của chúng tôi trong nền nhạc du dương…”.
    “Chúng tôi đi bộ về nhà và tôi đã đi chậm lại để chụp bức ảnh này. Tôi nghĩ rằng cô ấy đã khiến cho khung cảnh trở nên tươi vui hơn. Chúng tôi đã mua một số trái cây để ăn sau đó…”.
    “Bức ảnh này mang lại những cảm xúc mà tôi nghĩ rằng đã bị chôn vùi…”. “Bạn có thể tin hay không, cô ấy đã rất ngượng ngùng khi tôi thuyết phục cô chụp kiểu ảnh quấn khăn tắm này…”.
    “Một vài tuần sau khi tôi chụp bức ảnh này Sương ngừng làm việc tại quầy bar và tôi không bao giờ nhìn thấy cô ấy một lần nữa. Tôi không ngạc nhiên nhưng tôi cảm thấy bị mất mát. Tôi không thiếu một bạn tình, họ có thể được tìm thấy trong bất kỳ quán bar nào. Tôi đã mất một người thực sự có ý nghĩa nào đó với cuộc sống của tôi. Nhìn lại một năm qua, chúng tôi đã có những kỷ niệm đẹp long lanh. Tôi sẵn lòng lột bỏ lớp vỏ của mình để nói rằng Sương đã ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của tôi…”.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    “Tôi đã mua cho mình một bộ máy ảnh Yashica Electro 35 cùng ống kính khi đến Vũng Tàu. Nó chụp khá ổn dù tôi không nghĩ rằng mình đã tận dụng hết khả năng nó có. Tất cả những hình ảnh ở đây được chụp với nó và tôi chỉ rửa ảnh một lần. Những bức ảnh đã tồn tại sau 42 năm và vẫn đang trong tình trạng khá tốt”.
    “Tôi nhìn những bức ảnh này với một niềm xao xuyến. Nó như vẳng lại một thời kỳ trong cuộc sống của tôi với đầy đủ các cuộc phiêu lưu và trải nghiệm mới, đất nước mới, bạn bè mới, tình yêu mới? Tôi có thể nghe một số người nhạo báng mình khi tìm thấy tình yêu với một gái điếm. Một phụ nữ bị bỏ rơi, một con điếm nhưng không hẳn là như vậy. Cô ấy bán cơ thể của mình để kiếm sống, và ít nhất là cô ấy trung thực”.
    “Chúng tôi đã có một bức hình chung được chụp bởi một cô gái khác bằng máy ảnh Polaroid và Sương giữ nó. Cô dán tấm ảnh vào bức tường phía trên giường, bên cạnh một bức tượng Phật nhỏ”.
    “Đêm nay, một đồng đội của tôi trở về doanh trại và nói với tôi rằng:
    – Tao nghĩ rằng có ai đó thích mày
    – Ai? tại sao?
    – Sương, ở quán Bar Texas. Tao đưa cô ta về nhà và cùng nhau cởi quần áo. Tao leo lên giường và khi chuẩn bị bắt đầu thì nhìn thấy hình ảnh của mày và cô ta trên tường. Và tao buột miệng: ‘Này, đó chính là Laurie’. Cô ta nói: ‘Anh biết Laurie sao? Anh hãy ra khỏi đây đi, tiền của anh đây. Tôi sẽ không đi với bất cứ ai quen với anh ấy’. Sau đó, cô ta đã đẩy tao ra khỏi giường và nhét tiền vào túi áo sơ mi của tao”.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    “Khi tôi ngồi xuống bên cạnh cô ấy trong quầy, tôi cảm thấy một điều gì đó thật khác lạ. Không phải kiểu gái điếm muốn kiếm tiền nhanh chóng, cô ấy có sự chín chắn nhất định cùng khiếu hài hước. Chúng tôi nói chuyện, cười đùa và tôi đã gọi trà Sài Gòn để có thể ngồi nhâm nhi cùng cô. Tôi được biết rằng cô đã 28 tuổi, một góa phụ với hai đứa con của người chồng đầu tiên và một đứa con với một lính Mỹ, người dành phần lớn thời gian tham gia chiến tranh Việt Nam để sống với cô ở Vũng Tàu. Giờ anh ta đã về nước và cô cần phải kiếm sống. Cô đã đưa tôi đến nhà mình, một căn phòng trong một ngôi nhà nhỏ cách năm phút đi bằng taxi Lambro…”.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    “Bức ảnh này chụp các cô gái làm ở quán bar Texas. Bây giờ, tôi sẽ để cho bạn đoán xem ai trong số đó là người phụ nữ đã khiến thời gian còn lại của tôi ở Việt Nam trở thành một niềm vui. Không chỉ có nhục dục, đó còn là một người bạn gái và bạn đồng hành. Cô ấy rất dịu dàng, vui vẻ, thân thiện và tôi dám nói rằng mình đã yêu cô ấy một chút. Điều này có vẻ kỳ lạ khi người ta có thể thuê một người khác đề làm bạn bè, bạn đường và cả bạn tình. Tuy nhiên, đây là một mối quan hệ hoàn toàn chân thành. Cả hai chúng tôi đều hiểu rõ về địa vị của mình, ngay từ đầu…”.
    “Tôi chỉ biết tên cô ấy là Sương”. “Sương là người phụ nữ trong tà áo dài, đứng ở cửa, bên cạnh cô gái tạo đang dáng với những ngón tay quắp lại”
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Câu chuyện qua ảnh cảm động về mối tình lính Úc và nàng điếm Vũng Tàu 1970
    “Tôi có thể nghe một số người nhạo báng mình khi tìm thấy tình yêu với một gái điếm. Một phụ nữ bị bỏ rơi, một con điếm nhưng không hẳn là như vậy. Cô ấy bán cơ thể của mình để kiếm sống, và ít nhất là cô ấy trung thực…”.
    Hình ảnh cùng các chia sẻ trích từ bài viết có tiêu đề “Người đàn bà đẹp” (Pretty woman) đăng tải trên blog của một cựu binh Australia tên Laurie Smith, từng đóng quân ở Vũng Tàu năm 1970. Thời điểm đó, tác giả Laurie đang ở độ thuổi 20.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Bên cạnh gái bar, gái nhảy tại các các hộp đêm, vũ trường ở miền Nam trước 1975 cũng là đối tượng sẵn sàng chiều lính Mỹ tới bến.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Lính Mỹ cặp kè với gái nhảy trong một hộp đêm ở Sài Gòn, tháng 3/1968. Ảnh: Warin Vietnam Tumblr.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Lính Mỹ đùa giỡn với gái điếm trong một tòa nhà đổ nát ở ngoại ô Sài Gòn. Ảnh: Nik Wheeler.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Chân dung một gái bán hoa ở miền Nam Việt Nam năm 1970. Ảnh: Philip Jones Griffiths.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một cô gái điếm chờ khách tại nhà thổ gần sân bay Tân Sơn Nhất, điểm đến quen thuộc của lính Mỹ, 1973. Ảnh: René Burri
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Gái làng chơi phía ngoài một quán bar ở Cần Thơ, 1970. Ảnh: Philip Jones Griffiths.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Lính Mỹ mây mưa với gái nhảy sau một buổi diễn phục vụ quân Mỹ ở Nhà Bè, ngoại ô Sài Gòn 1970. Ảnh: Philip Jones Griffiths
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Bên ngoài quán bar Mai Kim ở Cần Thơ, 1970. Phía sau các quán bar phục vụ lính Mỹ là sự bảo kê từ giới chức quân đội Sài Gòn. Ảnh: Philip Jones Griffiths
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Những cô gái bán dâm phục vụ lính Mỹ không hành nghề tự do mà thường là nhân viên của các quán bar. Cô gái này làm việc ở quán bar Venus, Cần Thơ năm 1970. Ảnh: Philip Jones Griffiths
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Khi rảnh rỗi, lính Mỹ đóng tại các đô thị miền Nam trước 1975 thường tìm kiếm lạc thú trong các tụ điểm mại dâm núp bóng quán bar, khách sạn. Hình ảnh này chụp tại Cần Thơ năm 1970. Ảnh: Philip Jones Griffiths.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Cuộc trao đổi kín đáo giữa người lính Mỹ và hai cô gái “bán hoa”. Ảnh: Mondatori
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    “Tú bà” mỉm cười nhìn một nhân viên trong giàn “gái dịch vụ” của mình, tháng 1/1970. Ảnh: LIFE.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Người lính Mỹ cùng bạn gái của mình ở Vũng Tàu, tháng 4/1969. Lính Mỹ đóng quân tại các đô thị ở miền Nam Việt Nam thường tìm kiếm nhân tình tại các quán bar. Các mối quan hệ kiểu này được duy trì bằng tiền và mang tính công khai. Ảnh: Ullstein Bild.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một cô gái bán hoa với mái tóc dài, Sài Gòn 1968. Ảnh: Mondatori.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Cô gái này chuẩn bị “tiếp khách” trên chiếc giường trong một căn phòng tồi tàn, Sài Gòn tháng 1/1968. Ảnh: Getty Images. Ảnh: Mondatori.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một cô gái bán dâm cùng đứa con tại địa điểm hành nghề là một khu nhà lỗ chỗ vết thủng do bom đạn, Sài Gòn tháng 1/1968. Ảnh: Mondatori.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Những cuộc tình chớp nhoáng của lính Mỹ thường bắt đầu tại các quán bar. Sau màn “làm quen” bằng bia rượu, họ sẽ đưa các cô gái Việt về khách sạn hoặc về nhà trọ… Ảnh: Gilles Caron.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Khuôn mặt được trang điểm khá cẩn thận của một gái làng chơi. Ảnh chụp trong quán bar, Sài Gòn tháng 9/1967. Ảnh: Gilles Caron
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Trong góc của quán bar, một lính Mỹ da trắng đang ôm eo cô gái Việt. Ảnh: Gilles Caron.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Cảnh tình tứ giữa người lính Mỹ da đen và nhân tình trong một quán bar ở Sài Gòn, tháng 9/1967. Ảnh: Gilles Caron.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Chân dung một cô gái gọi bán dâm thời chiến tranh Việt Nam, Sài Gòn tháng 9/1967. Ảnh: Gilles Caron.
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Loạt ảnh do các phóng viên quốc tế thực hiện ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một cô gái điếm khoe thân mời chào khách trong quán bar ở Vũng Tàu năm 1970. Ảnh: Laurie Smith

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975

    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Các ả đào đang đợi khách (đa phần là lính Tây) đã hẹn lịch
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Trên 1 con phố Sài Gòn có các quán bar trứ danh
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Có thể nói, với lối sống phóng khoáng. Việc làm gái bán hoa thời điểm bấy giờ không bị kỳ thị nhiều
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    1 cô gái nhận tiền tip từ khách
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Và họ xem đó như một chuyện bình thường
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Công việc nhảy múa thường đêm của họ,dường như đã là 1 phần cuộc sống
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Trước 1 quán bar Sài Gòn, các ả đang chờ mối khách đã hẹn của mình
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Lực lượng lính Mỹ vô cùng đông đảo vào thời điểm bấy giờ,nên đồng nghĩa nhu cầu đời sống tình dục cũng gia tăng
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Họ sở hữu những thân hình vô cùng nóng bỏng và ấn tượng
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    đời sống về đêm vô cùng sôi động
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Tại một quán Bar
    Chùm ảnh: Gái điếm ở miền Nam Việt Nam trước 1975
    Một anh lính Mỹ cùng người tình chớp nhoáng Sài Thành 1970s

     

    Nguồn: THE RÉTRO STUDIO

     

  • Taxi Sài Gòn xưa

    Taxi Sài Gòn xưa

    Taxi bắt đầu xuất hiện ở Sài Gòn – Chợ Lớn khoảng cuối những năm 40 và thịnh hành những năm 50 của thế kỷ 20.

    Khi ấy, người dân Sài Gòn vẫn quen miệng gọi là xe “cóc” hoặc “con bọ”.., tôi có vài người bạn là dân gốc Sài Gòn “chính hiệu” cho biết: “Đến giờ tôi vẫn nhớ như in hình ảnh của chiếc taxi cóc có màu xanh dương và màu vàng kem.

    Những năm 1960 – 1970 đường phố Sài Gòn tràn ngập loại xe này, ngày đó những người dân cho dù giàu hay nghèo vẫn đi bình đẳng phương tiện này và không bao giờ phân biệt giàu nghèo như nay . Sau năm 75 những chiếc taxi này hầu như bị “tuyệt chủng” không còn xuất hiện trên đường nữa”.

    ==============================
    Một nét văn minh khi đi trên những chiếc Taxi Sài Gòn xưa trước 75 hầu hết các xe taxi thời đó đều viết khẩu hiệu tuyên truyền “Không bỏ rác xuống đường” để giữ đường phố sạch đẹp, không biết có ai còn nhớ không ta?

    xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10)

    Mới đây trong vài lần đi ngao du lòng vòng Sài Gòn có thấy một anh tên Hòa năm nay cũng đã 65 tuổi, anh là một người Sài Gòn chính gốc một tài xế taxi trước 75 chia sẻ :
    =====================
    “Tôi lái taxi lúc đó 21 tuổi, cũng vào những năm tháng huy hoàng cuối cùng của những chiếc xe taxi con cóc, lúc đó, bến Bạch Đằng là điểm đậu rất nhiều taxi, thời đó taxi không được trang bị bộ đàm, không có tổng đài như bây giờ, nên phải chạy lòng vòng để đón khách, hằng đêm, chúng tôi hay đậu xe gần các rạp hát cải lương để đón khách, những chiếc taxi thời kỳ này đa phần là nhập từ Pháp về Sài Gòn, sau đó được đăng ký và cấp phát số hiệu. Số hiệu được in lớn hai bên cửa, khách muốn đi taxi phải ra đường chờ xe chạy ngang qua rồi vẫy tay để gọi, hoặc ra tận những nơi đậu xe. Đi taxi thời bấy giờ chỉ tính tiền km, không tính tiền chờ như hiện nay”, anh Hòa kể lại”
    ======================

    1.Gặp lại chiếc TAXI còn sót lại

    Taxi “con cóc” thời đó đặc trưng nhất là những chiếc xe mang tên Renault 4CV, do Pháp sản xuất đại trà từ năm 1947 và những hình dưới đây là chiếc Renault 4CV mang số hiệu Taxi – 1541, một trong số ít những chiếc taxi còn sót lại tại Sài Gòn và đang được phục chế sau hơn 40 năm “mất tích”, theo một thợ chuyên phục chế lại xe cũ, sau một thời gian bị lãng quên, hiện nay một số chiếc taxi xưa đang được phục hồi nguyên trạng, để phục vụ du lịch và dành cho những người muốn tìm lại chút hoài niệm về Sài Gòn xưa, một nhà sưu tầm đồ cổ đã tìm và phục dựng thành công chiếc taxi Renault 4CV này. Anh cho biết sẽ đưa chiếc xe đến những địa điểm mà nó đã từng đậu và đón khách, cũng theo anh, chiếc taxi xưa hiện anh đang sở hữu được người bán lại cho biết, nó được cấp lại biển số sau giải phóng.

    xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10)

    2.Những tính năng TAXI con cóc trước 75

    xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi saigon xua (2)

    Đồng hồ tính tiền, đây là một loại đồng hồ cơ học cũng sản xuất từ Pháp, được trang bị trên taxi thời đó hiện vẫn còn nguyên vẹn trên chiếc xe đang được phục chế, một nét văn minh Sài Gòn xưa, hầu hết các xe taxi thời đó đều viết khẩu hiệu tuyên truyền “Không bỏ rác xuống đường” để giữ đường phố sạch đẹp, thời đó, chủ nhân của xe được khắc tên, địa chỉ lên một tấm bảng gắn trên xe. Chiếc xe này thuộc về người chủ tên Nguyễn Thị Mười, ngụ đường Lê Văn Duyệt xưa (Cách Mạng Tháng Tám) nay.

     

    Nguồn: FB/ Sài Gòn xưa

    xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10) xe taxi sai gon xua - xe con bo - xe coc (10)

     

     

  • Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm

    Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm

    Chắc quý vị ai cũng biết ngày 1.11.1963, anh em nhà Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu bị đảo chính, phải chạy vào Nhà thờ Cha Tam trong Chợ Lớn tá túc, sau đó bị giết chết, và từ đây một sự kiện phát lộ một công trình đường hầm quy mô lớn dưới lòng đất ở Dinh Gia Long, có nhiều thông tin cho rằng đã nối thông tới Đại Thế Giới tại Chợ Lớn nay là Quận 5

    1.Hầm bí mật gia đình

    Dinh Gia Long rộng khoảng 2ha, ở trung tâm thành phố Sài Gòn, nằm giữa 4 con đường: Gia Long (trước), Lê Thánh Tôn (sau), Pasteur (bên phải) và Công Lý (bên trái), do Kiến trúc sư Pháp Alfres Foulhoux thiết kế, xây dựng từ năm 1885 đến năm 1890, kiến trúc đồ sộ và rất đẹp thời Pháp thuộc này lúc đầu dùng làm Bảo tàng Thương Mại, nhưng sau dành làm nhà ở cho Thống Đốc Nam Kỳ Hoefel ,khi dinh Độc Lập bị hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom hư hại nặng ngày 27.2.1962 … Ngô Đình Diệm và vợ chồng Ngô Đình Nhu dọn sang Dinh Gia Long ở tá túc, sao khi sửa xong Dinh Gia Long trở thành Dinh Tổng thống và dinh thất của gia đình họ Ngô tại Sài Gòn thời điểm đó ,năm 1962, trước đó nữa anh em nhà họ Ngô có biết rằng trước đó 17 năm, trong cuộc đảo chính 9/3/1945, quân đội Nhật đã vào dinh này bắt sống Thống đốc Nam kỳ Hoefel, theo sử sách trước đây của cụ Vương Hồng Sển thì thời đó dân Sài Gòn biết rất rõ, và cho rằng anh em nhà họ Ngô đem nhau vô Dinh Gia Long ở đã là một dấu hiệu không lành, theo tài liệu tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II, KTS Ngô Viết Thụ là người đã thiết kế xây dựng. Sau khi KTS Ngô Viết Thụ sang Mỹ, Kỹ sư Phan Đình Tăng- Giám đốc Nha Kiều lộ là người duy nhất được giao nhiệm vụ thi công, kiểm soát nghiên cứu lại đồ án và hoàn tất bản vẽ, hầm được nhà thầu Trương Đăng Khoa khởi công từ tháng 5.1962 và đến 30.10.1963 thì hoàn thiện với tổng kinh phí hơn 12 triệu đồng. Chi phí thi công cao hơn dự toán, do tường dày đến 1m hơn dự kiến 0,4 m, làm thêm cầu thang B, một hầm để máy phát điện, phòng truyền tin và một hầm nhỏ đựng các vật có mùi hôi hoặc cần được cất kín.

    2.Bản vẽ

    Bản vẽ thiết kế xây dựng đường hầm ,căn hầm này được xây dựng từ tháng 5/1962, hầm được đào sâu xuống mặt đất 4m, đúc bằng xi măng cốt sắt (170kg sắt/m3 bê tông), có tường dày đến 1m, từ trên xuống hầm theo 2 đường cầu thang A (hướng đường Nam Kỳ khởi nghĩa) và cầu thang B (hướng đường Pasteur), theo đường cầu thang A xuống gặp 2 phòng liền nhau: Phòng khách và phòng vệ sinh, theo đường cầu thang B xuống gặp phòng máy đèn. Từ phòng này đi xuống gặp ngay phòng của Ngô Đình Nhu và kế bên là phòng Ngô Đình Diệm với diện tích 17m2.
    Theo ước tính, căn hầm bí mật của Ngô Đình Diệm được xây dựng với tổng kinh phí là 12.514.114 đồng, một khoản tiền khổng lồ thời đó, nóc hầm được ngụy trang bằng nhiều chậu cây cảnh cùng hệ thống điện thắp sáng, nước sạch và cống dẫn thải đầy đủ để cho hầm được hoạt động thông suốt, theo thiết kế, hầm có thể chịu được cuộc oanh tạc của các loại trọng pháo và bom 500kg, tổng diện tích mặt bằng hầm là 1.392,3 m2 (30,6m x 45,5m), ở hai đầu tòa nhà chính của dinh là hai cầu thang dẫn theo bậc tam cấp xuống tầng hầm, hầm được chia làm 6 phòng và thông với nhau qua một hành lang thông thoáng, bên dưới tùy từng đoạn được tráng xi măng hoặc lót gạch bình thường như trên sàn nhà, và lối thoát ra đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Pasteur bằng hai lô cốt nhỏ, toàn bộ hầm có 6 cửa ra vào phòng được làm bằng sắt tấm đúc nguyên khối, đóng mở bằng cách xoay một bánh lái như cửa tàu thủy, phía trong còn có chốt sắt thật lớn để cài khi có sự cố, để bảo đảm bí mật, các giấy tờ liên quan đến việc xây dựng hầm đều không dùng từ “hầm” mà chỉ ghi là “công tác xây cất ở Dinh Gia Long”, hầm có cầu thang thông lên ngay phòng làm việc và tiếp khách, nên khi đang ngủ hay đang ăn, chỉ sau 5 phút là Tổng thống đã xuống được hầm với đầy đủ hệ thống thông tin liên lạc kết nối với bên ngoài để nắm bắt tình hình, trong những tấm ảnh ad vừa up lên quý vị thấy phòng tiếp khách ở khu vực trung tâm đường hầm của Tổng thống Ngô Đình Diệm gồm 1 bộ trường kỷ, 1 chiếc bàn nhỏ và 1 chiếc ghế mây dành cho khách, cho đến khi thời Đệ Nhứt Cộng Hòa của ông Diệm – Nhu sụp đổ, các vật dụng tiện nghi trong hầm vẫn chưa được trang bị đầy đủ, một hệ thống quan trọng là máy điều hoà không khí khi đó chưa được lắp, dù máy móc đã được nhập về Sở Nội dịch, đã có rất nhiều giai thoại ly kỳ xung quanh căn hầm bí mật dưới Dinh Gia Long, có lời đồn rằng căn hầm có nhiều đường thoát hiểm thông ra các địa điểm khác nhau trong thành phố, trên thực tế, phạm vi đường hầm mà ông Ngô Đình Diệm cho xây dựng chỉ là hầm cố thủ, giới hạn trong khuôn viên Dinh Gia Long, đề phòng những trường hợp bất trắc, đảo chính, chứ không phải đường thoát, có tư liệu còn khẳng định, công việc đào hầm được giao cho 200 tù binh chia thành 10 toán luân phiên đào, số tù binh này được đưa tới bằng xe bịt kín, bị bịt mắt cho tới khi vào điểm thi công, công việc đào hầm được thực hiện từ 12 giờ khuya để giữ bí mật tuyệt đối, rong bảng chiết tính chi phí xây dựng hầm, còn có số tiền trả nhân công là 150.000 $, cho thấy việc mô tả dùng tù binh xây hầm như các tài liệu nói trên là không có cơ sở.

    3.Cuộc chạy trốn bất thành

    Trong cuộc đảo chính ngày 1/11/1963, anh em Diệm – Nhu đã trú ẩn trong căn hầm này, 6h45 ngày 2/11/1963, Dinh Gia Long thất thủ, quân đảo chính đã tấn công vào hầm. Tại đây còn một lá cờ trắng, một số tài liệu viết tay ghi lại những cuộc điện đàm tại phòng của Ngô Đình Diệm, có thể trước khi đi ra vùng Chợ Lớn, Ngô Đình Diệm đã xuống hầm sử dụng hệ thống thông tin này để gọi các binh chủng và lực lượng bán quân sự đến tiếp cứu, vào thời điểm này, hai anh em họ Ngô đang ẩn náu tại nhà thờ Cha Tam, do có mật báo nên vài phút sau đó, quân đảo chính đã cho chiếc M.113 đến nhà thờ Cha Tam, Diệm – Nhu bị trói đưa lên xe và bị bắn chết.

    St: Facebook

    Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm
    Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm

    Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm Chuyện về hầm trú ẩn của Ngô Đình Diệm

  • Cách đặt tên đường ở Sài Gòn trước 1975

    Cách đặt tên đường ở Sài Gòn trước 1975

    Cách đặt tên đường ở Sài Gòn trước 1975 rất hay, rất có dụng ý rất có ý nghĩa . Người đi từ cửa ngõ vào tới trung tâm Sài Gòn, nếu để ý bạn sẽ thấy cả một chiều dài văn minh 4000 năm lịch sử của nước Việt trên từng bước chân.
    + Khởi đầu từ Bến xe Miền Tây ta sẽ có Hồng Bàng, An Dương Vương, Triệu Đà… Bà Triệu… rồi thì có Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục… Tiếp đến là Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh…Lý Chiêu Hoàng. Nhà Trần thì Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo và các tướng quây quần Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư…
    + Các bến sông gồm có Vạn Kiếp, Hàm Tử… Bến cảng lớn nhất thì đặt tên Bạch Đằng…
    + Cứ thế vào càng gần trung tâm thì càng tiệm cận đến hiện tại như Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi… rồi tới nhà Nguyễn lại càng gần trung tâm hơn nữa như Nguyễn Hoàng, Minh Mạng, Tự Đức cùng các tướng lãnh như Võ Tánh, Lê Văn Duyệt…
    + Chệch qua phía bắc khu trung tâm (phía Quận 3) ta có triều Tây Sơn và các nhà văn, nhà thơ, học sĩ: Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương… cùng với các võ tướng Tây Sơn: Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu…
    Phải nói rằng một người đi từ bến xe vào trung tâm nếu thuộc Sử Việt và để ý tên đường thì rất dễ hình dung mình đang ở khu vực nào trong Thành phố.

    Cách đặt tên đường ở Sài Gòn trước 1975
    Đường phố Sài Gòn xưa

    Tân định thì nhà Trần Cát cứ.

    Phan Chu Trinh & Phan Bội Châu thì ở Chợ Bến Thành

    Con đường nhỏ hơn một chiều, chạy ngang Toà án và cổng chính Dinh mang tên Công Lý (Công Lý thì không thể nào 2 chiều được!). Hai con đường song song với Đại Lộ Thống Nhất được mang tên của hai danh nhân đã tạo ra chữ viết của Việt Nam là Hàn Thuyên và Alexandre de Rhodes với hàm ý biết ơn sâu sắc… đó cũng là cách giáo dục Lịch Sử cho Quốc Dân
    Chỉ cần am hiểu lịch sử bạn sẽ không bao giờ đi lạc.

    Theo : FB/Sài gòn xưa

  • Tản mạn về nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    Tản mạn về nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    Tản mạn về nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75, trước biến cố tháng 4/1975, nhạc nhẹ nói chung và nhạc rock nói riêng gần như chỉ có ở duy nhứt ở Miền Nam, Sau 30/04/1975, làn sóng nhạc nhẹ tràn ra miền Bắc và dấy nên một trào lưu nhạc nhẹ rộng khắp, thu hút đông đảo thanh niên vốn trước đó chỉ tiếp xúc với những ban nhạc theo kiểu thính phòng hoặc các ban “nhạc nhẹ” đánh theo tổng phổ, năm 1954, dù người Pháp rút khỏi Việt Nam, nhạc Pháp vẫn còn hằn sâu trong sinh hoạt âm nhạc xã hội, nhưng khi người Mỹ đổ quân đến miền Nam thì nhạc Pháp cũng lùi dần nhường bước cho làn sóng văn hóa Mỹ, uối thập niên 1950 – đầu thập niên 1960 có thể nói nhạc trẻ Sài Gòn đã hình thành, nhưng nó thật sự gây được ấn tượng mạnh mẽ với công chúng trẻ là từ năm 1963.

    Một số bức ảnh cắt ra từ báo chí thời bấy giờ:

    nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    1.Âm nhạc phương tây du nhập vào Saigon

    Cũng từ cái mốc năm 1963 cho đến trước ngày 30/4/1975, Sài Gòn nhộn nhịp với những đại nhạc hội. Đại nhạc hội thời ấy có hai loại: đại nhạc hội dành cho giới bình dân, biểu diễn tại rạp Quốc Thanh và rạp Hưng Đạo vào mỗi buổi sáng Chủ nhật với sự tham gia của các ca sĩ nổi tiếng thời đó như: Chế Linh, Duy Khánh… Hát nhạc kích động “bình dân” tiêu biểu có Hùng Cường – Mai Lệ Huyền, Khánh Băng – Phùng Trọng với những bản nhạc twist, agogo như Một trăm phần trăm, Gặp nhau trên phố… mà những ban nhạc rock “tinh tuyền” gọi là rock “dởm”. Ngoài ra, có một đại nhạc hội khác gọi là đại nhạc hội kích động nhạc, tiền thân của nó là những ban nhạc học sinh của trường Taberd (nay là trường Trần Đại Nghĩa – 20 Lý Tự Trọng, quận 1). Đại nhạc hội kích động thường được tổ chức tại trường Taberd, Thảo cầm viên hoặc sân vận động Hoa Lư. Đây là nơi trình diễn của những ban nhạc trẻ không hát những loại nhạc “bình dân” và trong đó có những ban nhạc rock thực thụ, giai đoạn đầu các ban nhạc trẻ nói chung chủ yếu là hát nhạc ngoại quốc bằng tiếng Anh hoặc Pháp, các ban nhạc rock thì cover lại những bản nhạc chủ yếu của Anh, Mỹ.

    Thời gian cuối thập niên 1960 và nhất là vào đầu thập niên 1970, nhạc trẻ Sài Gòn có một sự chuyển biến đáng chú ý: đó là trào lưu “Việt hóa” các ca khúc Âu – Mỹ. Mở đầu cho trào lưu này có thể nói đến nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng, anh đã chuyển soạn lời Việt cho các ca khúc được nhiều người yêu mến như: Búp bê không tình yêu (Poupée De Cire, Poupée De Son), Gõ cửa 3 tiếng (Knock Three Times), Chuyện Phim Buồn (Sad Movies), Lãng du (L’Avventura), Anh thì không (Toi Jamais) v.v… Sau đó nhiều ban nhạc, nhiều nhạc sĩ khác cũng đã soạn lời Việt cho nhiều ca khúc ngoại quốc khác, trong đó có cả nhà báo Trường Kỳ…,nhưng trong trào lưu “Việt hóa” có lẽ điều đáng chú ý nhất là các nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà, với ban nhạc Phượng Hoàng, đã đi một bước xa hơn là sáng tác những ca khúc nhạc trẻ Việt Nam đầu tiên với những bài hát đi vào lòng người như Hãy ngước mặt nhìn đời, Tôi muốn… đặt nền móng đầu tiên cho những ca khúc nhạc trẻ Sài Gòn, về các ban nhạc trẻ, một trong những ban nhạc gây ấn tượng nhất đó là Strawberry Four gồm Tuấn Ngọc (guitar), Đức Huy (guitar), Tiến Chỉnh (bass, trước đó là Billy Chane), Tùng Giang (trống). Đây được xem là ban nhạc “nhà giàu” với những chiếc đàn, amplie Fender làm “lé mắt” dân chơi nhạc, trên sân khấu họ toàn bận complet lịch lãm và nhất là tạo được “danh giá” khi Trawberry Four là ban nhạc Việt Nam đầu tiên và duy nhất được lên đài truyền hình Mỹ (phát tại Sài Gòn).

    2.Phong trào nhạc ‘HIPPY’ theo mô hình Woodstock 1969 và Đại hội nhạc trẻ Hoa Lư & Trường Lasan Taberd

    Nhạc rock đã xuất hiện trong bối cảnh của nhạc trẻ Sài Gòn như trên. Tuy nhiên, lịch sử nhạc rock Sài Gòn có liên hệ mật thiết đến sự có mặt của quân đội Mỹ, những club mọc lên như nấm của người Mỹ tại Sài Gòn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lực lượng nhạc rock, nhất là từ năm 1965 khi người Mỹ có mặt thật đông đảo tại “hòn ngọc Viễn Đông” và các tỉnh phụ cận. Đây cũng là giai đoạn chuyển hướng mạnh mẽ nhất của nhạc trẻ Sài Gòn, và là thời điểm xuất hiện khá nhiều ban nhạc chơi rock Mỹ, khác với trước đó dân chơi nhạc và nghe nhạc vẫn còn yêu chuộng những ca khúc trữ tình của các nhạc sĩ Việt Nam như Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước… và các ca khúc Pháp, tuy nhiên dấu mốc phát triển của rock có thể kể đến sự kiện đại nhạc hội kích động nhạc do”Trường Kỳ-Nam Lộc- Tùng Giang” tổ chức sau khi lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm … Đại hội kích động nhạc này được tổ chức tại Đại Thế giới (nay là Trung tâm Văn hóa Q.5) vào năm 1963, qui tụ hầu hết các ban nhạc trẻ đang hoạt động tại Sài Gòn thời ấy và đây cũng là một tiền đề để sau đó những đại hội kích động nhạc được tổ chức thường xuyên ,những ban nhạc “thuần” rock như “The Peanuts Company,The Black Caps, The Rockin’ Stars, The Interprise, Les Pénitents, The Crazy Dog, CBC…” ,trong đó The Rockin’ Stars và The Black Caps được xem như những ban nhạc rock đầu tiên của Sài Gòn, thì hai ban nhạc “The Peanuts Company và CBC được xem là 2 ban nhạc “đệ nhất kích động nhạc” thời ấy”.

    Thêm vài hình ảnh:

    nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75 nhạc trẻ Miền Nam Việt Nam trước 75

    3.Nhạc Rock và những bản tình ca thuần việt

    Ca sĩ Elvis Phương thành viên của Rockin’ Stars cho biết: “Ban nhạc thành lập năm 1960 với thành viên: Nguyễn Trung Lang (bass guitar), Nguyễn Trung Phương (rythm guitar), Jules Tampicanou (lead guitar), Đặng Hữu Tòng (tenor saxophone), Lưu Văn Hùng (trống) và Elvis Phương (ca sĩ). Năm 1961 có thêm 2 thành viên mới là Jean jacques Cussy va Nicole. Cuối naăm 1961 có thêm ca sĩ Billy Shane. Ban nhạc The Black Caps ra đời vào cuối năm 1960 với: Thanh Tùng (guitar), Paul Doãn (ca sĩ)… Phong trào nhạc trẻ hình thành trong giới học sinh của trường trung học Jean Jacques Rousseau (nay là trường cấp 3 Lê Quý Đôn), vì vậy hai ban nhạc này đa số là học sinh của Jean Jacques Rousseau chỉ có Nicole là của Marie Curie và Billy Shane là của Taberd”.

    Các ban nhạc rock trước giải phóng chủ yếu là cover các bản nhạc rock Mỹ, cũng có một số ca khúc được những “rocker” Việt sáng tác, nhưng chủ yếu là viết lời bằng tiếng Anh để trình diễn trong những club của Mỹ”. Ban nhạc Phượng Hoàng của Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà ra đời khá trễ (1970). Tuy nhiên đây có thể nói là một ban nhạc “Việt hóa” triệt để: sáng tác ca khúc Việt cho rock, hát lời Việt và cái tên cũng “thuần Việt” giữa vô vàn các tên ban nhạc bằng tiếng Anh đang hiện hành. Ca khúc rock viết bằng tiếng Việt của Nguyễn Trung Cang, được nhiều người biết đến đó là bản Mặt trời đen, đây có thể xem là bản nhạc rock Việt đầu tiên khá tiêu biểu của giới rock Sài Gòn.

    Nguồn :FB/ Sài Gòn xưa

  • Tủ sách Tuổi Hoa Sài Gòn xưa

    Tủ sách Tuổi Hoa được thành lập trước năm 1975 và do những cây bút chuyên viết cho các tạp chí như Thiếu Nhi, Thằng Bờm, Tuổi Hoa cộng tác.

    Các tác phẩm của Tủ sách Tuổi Hoa được chia làm 3 loại :
    * Loại hoa đỏ: phiêu lưu, mạo hiểm, trinh thám
    * Loại hoa xanh: tình cảm nhẹ nhàng như tình gia đình, bạn bè
    * Loại hoa tím: dành cho tuổi 16 – 18

    Những tác phẩm này đã từng một thời là “món ăn tinh thần ” của thanh thiếu niên Việt Nam vì nó không những giáo dục những đức tính tốt cho con người mà còn giúp thanh thiếu niên tập trau chuốt lời văn để học văn tốt hơn, ngoài ra, Bán Nguyệt San Tuổi Hoa cũng là một tờ báo đã đi vào lòng của thanh thiếu niên Việt Nam vào thập niên 60, đầu thập niên 70, những giá trị tinh thần do Bán Nguyệt San Tuổi Hoa đem lại rất nhiều và hầu như các truyện dài được đăng trong Bán Nguyệt San Tuổi Hoa đều được Nhà xuất bản Tuổi Hoa in thành sách, chính là các truyện loại hoa đỏ, hoa xanh và hoa tím mà chúng ta đang sưu tầm, có lẽ đến một ngày nào đó sẽ không ai còn nhớ Tủ Sách Tuổi Hoa và Bán Nguyệt San Tuổi Hoa, không còn biết trong văn hóa Việt Nam có một giai đoạn thịnh hành của sách báo Thiếu Nhi, đã góp phần trong việc giáo dục tạo nên một thế hệ Thanh thiếu niên ưu tú. Việc sưu tầm và tái lập Tủ sách Tuổi Hoa cũng như Bán Nguyệt San Tuổi Hoa sẽ giúp chúng ta ghi dấu lại giai đoạn đáng nhớ đó và mặc dù hiện giờ các tác phẩm của Tủ Sách Tuổi Hoa và các Bán Nguyệt San Tuổi Hoa bị thất lạc rất nhiều nhưng mong rằng với thời gian và với công sức của tất cả những người đã, đang và sắp là fan của Tuổi Hoa, chúng ta sẽ cùng nhau tái lập lại đầy đủ các tác phẩm, các tập san của Tuổi Hoa khi xưa, cám ơn quý tác giả của Tủ sách Tuổi Hoa, dù không trực tiếp gửi sách nhưng những giá trị tinh thần của các tác phẩm mà quý vị cho ra đời thật là vô giá. Mong rằng quý vị sẽ thông cảm và bỏ qua cho việc không xin phép của chúng tôi khi đưa các tác phẩm của quý vị vào website bởi vì sau bao nhiêu sự thăng trầm, khó mà tìm lại được xin cám ơn quý vị và có thể nói tạp chí Tuổi Hoa thật sự đã góp phần nuôi dưỡng một thế hệ thiếu nhi Việt Nam trở nên người đàng hoàng, hữu ích cho xã hội.

     

    Bán Nguyệt San Tuổi Hoa do một số nhà văn, nhà giáo và linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn chủ trương từ năm 1962 đã từng một thời là “món ăn tinh thần ” của thanh thiếu niên Việt Nam trước 1975, tôi may mắn có người chị cả một thời say mê tạp chí Tuổi Hoa. Hồi đó nhà nghèo (giờ vẫn nghèo Huh ), nên chị mua báo bằng tiền mẹ cho để đi xe, và… đi bộ tới trường. Vì Tuổi Hoa là bán nguyệt san, nửa tháng ra một số, nên chị cũng hơi chật vật về tài chánh ,trước khi đọc một cuốn báo mới, năm chị em tôi hay mân mê cái bìa báo xinh xắn, nhiều màu sắc qua nét cọ tài hoa của họa sĩ Vivi. Hình bìa hầu hết là tác phẩm của Vivi (trừ một số rất ít của các học viên trong Lớp Hội Họa Tuổi Hoa), sau biến cố 1975, người ta phát động phong trào tịch thu sách báo nhằm tiêu hủy hết những gì được cho là phản động và theo họ thì tất cả những văn hóa phẩm của chế độ cũ đều là đồi trụy, phản động, cần được cho lên giàn hỏa thiêu (phần thư nhé, không có khanh nho).

    Bán Nguyệt San Tuổi Hoa đã không là ngoại lệ. Bà chị tôi lúc ấy vừa tốt nghiệp điều dưỡng và đi công tác xa nhà. Mẹ tôi huy động bốn tên nhóc còn lại mang Tuổi Hoa đi giấu dưới… hầm. Hồi sau 1975, hầu hết nhà ai cũng còn lại cái hầm để tránh bom đạn (khu nhà tôi ở gần Quân Đoàn III), người ta không dám dẹp hầm vì sợ lại chiến tranh nữa, tôi ngớ ngẩn hai tay ôm một chồng Tuổi Hoa, chạy ra cửa đứng “xem” các ông bà cán bộ văn hóa làm việc… … Chị cả tôi đi công tác về khóc, tiếc ngẩn ngơ mấy chục số báo bị tịch thu mà không nỡ trách em mình câu nào, một người bạn cũ của chị tôi- cũng trong cái ban đi tịch thu sách báo dạo ấy- sau này kể lại rằng trước khi ngọn lửa kịp lan tới chồng báo Tuổi Hoa của chúng tôi, đã vội vàng xé giữ lại những cái bìa rất xinh, tôi ăn năn mãi về sự hiếu kỳ của mình cộng với sự ngu dốt (tôi chín tuổi cho rằng Tuổi Hoa không đồi trụy). Cán bộ cách mạng đã nói rằng nó đồi trụy, là nó phải thế, người ta là quan.

    Đã vài chục năm trôi qua, thời gian khá dài đủ để cho một thế hệ mới sinh ra và trưởng thành dưới chế độ mới- một mô hình xã hội được cho là tiên tiến, không còn áp bức, bất công, người bóc lột người. Những cuốn báo ít ỏi còn sót lại nhờ công cất giấu của mẹ và các chị em tôi (không có tôi) xa xưa giấy đã ngả màu vàng ố. Mẹ tôi đã khuất núi và chị em tôi cũng hết tuổi đọc sách báo thiếu nhi. Tôi thỉnh thoảng vẫn “cảo thơm lần giở trước đèn”, mở lại từng trang báo cũ vàng ố, mong manh vì thời gian với thái độ nâng niu trân trọng, vẫn tự trách mình ngu dốt và trách người sao mệnh danh là cán bộ văn hóa mà cư xử với sách kém gì…

    Nguồn xem thêm :http://tuoihoa.hatnang.com/

     

  • Những tấm pano quảng cáo Sài Gòn xưa

    Những tấm pano quảng cáo Sài Gòn xưa

    Có ai còn nhớ những tấm pano quảng cáo Sài Gòn xưa không nè ..

    Những biển quảng cáo không thể thiếu trong đời sống người dân Sài Gòn chúng ta thời đó, từ thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa (1954 – 1975), ngành hoạt động quảng cáo nở rộ như nấm mọc sau mưa, ngoài đất dụng võ trên các trang báo hay những biển quảng cáo ngoài trời, quảng cáo còn đi vào khai thác trong các lãnh vực “tinh vi” như phát thanh, truyền hình, phim ảnh.

    Bên cạnh đó còn có cách quảng cáo “thô sơ” theo kiểu “sơn đông mãi võ” thường được áp dụng tại các vùng xa xôi, những nơi chưa được tiếp xúc với các tiện nghi văn minh, cũng là một hình thức quảng cáo mà sau này người ta thường thấy trong thể thao, Sài Gòn xưa có đội xe đạp Euquinol của dược sĩ Nguyễn Chí Nhiều tham gia cuộc đua đường trường mang tên Vòng Cộng Hòa từ năm 1956 trở đi. Các cua-rơ mang áo Euquinol để quảng cáo thuốc ban nóng dạng bột dành cho trẻ em mang tên Euquinol, sự kết hợp giữ thể thao và kinh doanh mang lại một hiệu quả tốt đẹp: các cua-rơ Euquinol rong ruổi trên khắp miền Nam đã tạo một ấn tượng tốt đối với những người xem đứng hai bên đường. Cũng từ đó, thuốc Euquinol có mặt trong hầu hết các gia đình có trẻ nhỏ, hình thức quảng cáo này, ngày nay đã trở thành phổ biến trong thể thao, người ta sẵn sàng bỏ ra khoản tiền lớn để có một hợp đồng với các đội bóng mặc áo mang tên doanh nghiệp hoặc tài trợ cho các giải thi đấu….

    1.Vài Biển quảng cáo quen thuộc trên đường phố Sài Gòn Người Sài Gòn không thể nào quên cái tên BGI trong ngành rượu bia đã một thời làm bá chủ lãnh vực nước giải khát. Tiền thân của BGI là cái tên Brassèries et Glacières de L'Indochine (Nhà máy làm nước đá ở Đông Dương) của ông chủ Victor Larue, người Pháp, nổi tiếng từ năm 1909. Cũng vì thế trên nhãn của BGI còn ghi hàng chữ Pháp: Bière Larue. A.Bia Larue Khởi đầu, BGI thâm nhập miền Nam vào cuối thập niên 1900 chỉ với mục đích sản xuất nước đá để tiêu thụ tại một xứ nhiệt đới. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, BGI bắt đầu chuyển sản xuất bia và nước giải khát. Nhà máy BGI nổi tiếng nhất và lâu đời nhất là Nhà máy bia Chợ Lớn và Usine Belgique được xây dựng từ năm 1952. B.Quảng cáo Bia 33 của hãng BGI Sở dĩ có cái tên “Bia 33” vì dung tích chai đựng bia là 33 centilitres, một cách đặt tên khá thú vị và thiết thực của BGI. Sau khi Sài Gòn đổi tên, chính quyền tịch thu tài sản của chủ Pháp và Nhà máy bia Chợ Lớn trở thành Bia Sài Gòn và Usine Belgique cũng đổi thành Chương Dương, nhưng vẫn là các nhà máy sản xuất nuớc giải khát. C.Mẫu quảng cáo của BGI BGI có lịch sử từ năm 1927, ngoài Bia 33, BGI còn sản xuất các loại bia mang nhãn hiệu Bière Royale, Bière Hommel (bia nhẹ) và Tiger Beer (người ta thường gọi là “bia con cọp” vì có nhãn hiệu hình con cọp) ...BGI đã tự hào là “Một loại bia 5 châu lục” thông qua việc xuất cảng Bia 33 ra khắp thế giới. Trong mẫu quảng cáo dưới đây ta thấy chữ “Bia” được hiển thị qua nhiều ngôn ngữ: Bière (tiếng Pháp), Beer (tiếng Anh), Bier (tiếng Đức), Bir (tiếng Indonesia), Birra (tiếng Ý)… D.Bia 33 và 5 châu lục Nếu bia là độc quyền của BGI tại miền Nam, thuốc lá lại là mặt hàng có nhiều nhà sản xuất và được quảng cáo rất mạnh vì luôn ở tư thế cạnh tranh giành thị phần. Ngoài các loại thuốc lá ngoại nhập như Pall Mall, Salem, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston, Marlboro… có rất nhiều nhãn hiệu thuốc được sản xuất tại Sài Gòn. E.Mélia “vàng” Mélia “vàng”, còn gọi là “Mélia Jaune”, là một trong những nhãn hiệu thuốc lâu đời nhất. Vào lúc mới tung ra sản phẩm, mỗi gói thuốc Mélia đều có một tấm hình chụp một cặp Tây Ðầm hôn nhau rất tình tứ, đó cũng là một cách tiếp thị! Chỉ có các ông Giáo sư và các thầy Thông, thầy Phán có tiền rủng rỉnh mới hút thứ thuốc “sang trọng” đó. F.Thuốc Cotab Nếu Mélia được coi là “sang trọng” thì Cotab được quảng cáo là “thuốc của giới ưu tú” (La cigarette de l’élite) còn Bastos “xanh” và Mic được coi là loại thuốc “đen”, nặng của giới lao động, thợ thuyền. E.Thuốc Batos “xanh” Thuốc lá ngày xưa chưa được phát hiện có hại cho sức khỏe nên được quảng cáo rầm rộ, trong khi quảng cáo các loại sữa cũng xuất hiện với mức độ ít hơn. Sài Gòn xưa có các loại sữa bột như Guigoz, SMA và sữa đặc có đường như Con Chim (Nestlé), Ông Thọ (Longevity), Bông Trắng (Cal-Best)... Cái tên Cal-Best là chữ tắt của California’s Best xuất hiện trễ nhất, được quảng cáo là “Giúp cho trẻ em mạnh khỏe và chóng lớn”.
    Vài Biển quảng cáo quen thuộc trên đường phố Sài Gòn
    Người Sài Gòn không thể nào quên cái tên BGI trong ngành rượu bia đã một thời làm bá chủ lãnh vực nước giải khát. Tiền thân của BGI là cái tên Brassèries et Glacières de L’Indochine (Nhà máy làm nước đá ở Đông Dương) của ông chủ Victor Larue, người Pháp, nổi tiếng từ năm 1909. Cũng vì thế trên nhãn của BGI còn ghi hàng chữ Pháp: Bière Larue.

    Xà bông là mặt hàng được sản xuất tại Việt Nam rất sớm do ông Trương Văn Bền (1883 - 1956) một kỹ nghệ gia đồng thời là một chính trị gia gầy dựng qua nhãn hiệu Xà bông Việt Nam hay còn gọi là Xà bông Cô Ba. “Cô Ba” là một bức ảnh bán thân của người phụ nữ búi tóc theo kiểu miền Nam, in nổi trên mỗi cục xà bông, trụ sở và xưởng sản xuất xà bông nổi tiếng của ông Trương Văn Bền trong những thập niên giữa thế kỷ 20 nằm ngay trên đường Kim Biên (rue de Cambodge) nơi có chợ Kim Biên trong Chợ Lớn ngày nay Lối quảng cáo của Savon Vietnam rất bình dị qua cách hành văn xưa: “Trên 20 năm danh tiếng - Ai cũng công nhận TỐT HƠN HẾT”. Hai bên bức hình một cục xà bong có dòng chữ “Bọt nhiều” và “Ít hao”, phía dưới cùng là câu “CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CHẾ TẠO”, từ quảng cáo các mặt hàng tiêu dùng như sữa, rượu bia, thuốc lá, thuốc tây, thuốc cao đơn hoàn tán, xà bong… ngành quảng cáo còn mạnh dạn tung ra một mặt hàng mà ít người dám nói đến chứ chưa nói gì đến việc quảng cáo rùm beng. Đó là việc mua hòm cho thân nhân khi mãn phần của Nhà hòm Tobia.
    Xà bông là mặt hàng được sản xuất tại Việt Nam rất sớm do ông Trương Văn Bền (1883 – 1956) một kỹ nghệ gia đồng thời là một chính trị gia gầy dựng qua nhãn hiệu Xà bông Việt Nam hay còn gọi là Xà bông Cô Ba. “Cô Ba” là một bức ảnh bán thân của người phụ nữ búi tóc theo kiểu miền Nam, in nổi trên mỗi cục xà bông, trụ sở và xưởng sản xuất xà bông nổi tiếng của ông Trương Văn Bền trong những thập niên giữa thế kỷ 20 nằm ngay trên đường Kim Biên (rue de Cambodge) nơi có chợ Kim Biên trong Chợ Lớn ngày nay
    Lối quảng cáo của Savon Vietnam rất bình dị qua cách hành văn xưa: “Trên 20 năm danh tiếng – Ai cũng công nhận TỐT HƠN HẾT”. Hai bên bức hình một cục xà bong có dòng chữ “Bọt nhiều” và “Ít hao”, phía dưới cùng là câu “CỦA NGƯỜI VIỆT NAM CHẾ TẠO”, từ quảng cáo các mặt hàng tiêu dùng như sữa, rượu bia, thuốc lá, thuốc tây, thuốc cao đơn hoàn tán, xà bong… ngành quảng cáo còn mạnh dạn tung ra một mặt hàng mà ít người dám nói đến chứ chưa nói gì đến việc quảng cáo rùm beng. Đó là việc mua hòm cho thân nhân khi mãn phần của Nhà hòm Tobia.
    Một số quảng cáo "HÒM TOBIA" chắc quý vị còn nhớ Ông chủ trại hòm Tobia cũng khéo đặt tên cho dịch vụ chăm sóc người chết vì Tobia vốn là tên một nhân vật giàu lòng nhân ái trong Kinh Thánh Cựu Ước, chuyên lo việc hậu sự. Trại hòm của ông nằm tại số 114 đường Hai Bà Trưng, phía bên kia nhà thờ Tân Định, những người yếu bóng vía thường có cảm giác sờ sợ mỗi khi đi ngang qua đây. Đó cũng là lẽ thường tình, ai mà chẳng sợ chết! Trại hòm Tobia nhấn mạnh trong mục quảng cáo: “Lòng hiếu thảo của dân Việt: SỐNG MỘT CÁI NHÀ, THÁC MỘT CÁI HÒM”. Có điều chưa thấy xuất hiện quảng cáo… “mua một tặng một”! Quảng cáo Hòm Tobia trên báo Không những quảng cáo trên báo, hòm Tobia còn xuất hiện trên xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn. Giữa các sản phẩm như Thuốc xổ Nhành Mai, Thuốc lá Jean Bastos người ta còn thấy dòng chữ “Hòm Tobia danh tiếng nhất” ngay trên đầu xe (*). Quả là một bước ngoặt ngoạn mục trong ngành quảng cáo của Sài Gòn xưa. Quảng cáo hòm Tobia trên đầu xe điện Nổi bật nhất trên thị trường quảng cáo trên báo chí lẫn quảng cáo ngoài trời phải nói đến các loại kem đánh răng, trong đó có Hynos, Perlon và Leyna... Kem đánh răng Hynos với hình ảnh anh Bảy Chà da đen, miệng cười hết cỡ khoe hàm răng trắng tinh xuất hiện khắp nơi.
    Quảng cáo Hòm Tobia trên báo
    Không những quảng cáo trên báo, hòm Tobia còn xuất hiện trên xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn. Giữa các sản phẩm như Thuốc xổ Nhành Mai, Thuốc lá Jean Bastos người ta còn thấy dòng chữ “Hòm Tobia danh tiếng nhất” ngay trên đầu xe (*). Quả là một bước ngoặt ngoạn mục trong ngành quảng cáo của Sài Gòn xưa.
    Quảng cáo hòm Tobia trên đầu xe điện
    Nổi bật nhất trên thị trường quảng cáo trên báo chí lẫn quảng cáo ngoài trời phải nói đến các loại kem đánh răng, trong đó có Hynos, Perlon và Leyna… Kem đánh răng Hynos với hình ảnh anh Bảy Chà da đen, miệng cười hết cỡ khoe hàm răng trắng tinh xuất hiện khắp nơi.
    Quảng cáo Hynos ngoài trời Ngoài các hình thức quảng cáo trên báo chí, quảng cáo ngoài trời, dùng loa phóng thanh hoặc dùng phim ảnh, Sài Gòn xưa còn có lối quảng cáo mà người ta gọi là “sơn đông mãi võ”. Họ là những nhóm người đi về những miền xa xôi để bán các loại “cao đơn, hoàn tán”… những lời quảng cáo thuốc được phụ họa bằng từng hồi trống và phèng la, để thu hút đám đông, họ luôn luôn có những màn trình diễn võ thuật, biểu diễn nội công xen kẽ giữa những màn quảng cáo bán thuốc. Con nít xem trầm trồ thán phục và người lớn bỏ tiền ra mua thuốc để phòng khi trái nắng trở trời. Đám “sơn đông mãi võ” di chuyển nhiều nơi và cuộc đời của họ phiêu linh khắp chốn cũng vì miếng cơm manh áo. Họ chính là những “quảng cáo viên” đích thực!
    Quảng cáo Hynos ngoài trời. Ngoài các hình thức quảng cáo trên báo chí, quảng cáo ngoài trời, dùng loa phóng thanh hoặc dùng phim ảnh, Sài Gòn xưa còn có lối quảng cáo mà người ta gọi là “sơn đông mãi võ”. Họ là những nhóm người đi về những miền xa xôi để bán các loại “cao đơn, hoàn tán”… những lời quảng cáo thuốc được phụ họa bằng từng hồi trống và phèng la, để thu hút đám đông, họ luôn luôn có những màn trình diễn võ thuật, biểu diễn nội công xen kẽ giữa những màn quảng cáo bán thuốc. Con nít xem trầm trồ thán phục và người lớn bỏ tiền ra mua thuốc để phòng khi trái nắng trở trời. Đám “sơn đông mãi võ” di chuyển nhiều nơi và cuộc đời của họ phiêu linh khắp chốn cũng vì miếng cơm manh áo. Họ chính là những “quảng cáo viên” đích thực!

     

    Quảng cáo của Hynos trên báo Cái khéo của Hynos là thực hiện thêm nhiều biển quảng cáo ngoài trời tại những nơi có đông người qua lại nên đạt hiệu quả rất cao. Vào dịp Tết Nguyên Đán, tại chợ Bến Thành, lúc nào gian hàng Hynos cũng vang lên điệp khúc “Hynos cha cha cha, cha cha cha Hynos…” át hẳn gian hàng của khô nai Ban Mê Thuột, khô cá thiều Phú Quốc với lời phóng đại “nướng bên này đường, bên kia đường uống rượu cũng thấy ngon”!, hơn thế nữa, ông Nghĩa còn đi đầu trong việc làm phim quảng cáo kem đánh răng Hynos. Ông bỏ tiền làm một đoạn phim ngắn tại Hồng Kông, ký hợp đồng với tài tử ăn khách nhất Hồng Kông thời bấy giờ là Vương Vũ. Phim chỉ vài phút diễn cảnh các nhân vật đi “bảo tiêu” một thùng hàng, khi mở ra trong thùng chỉ chứa… toàn kem đánh răng Hynos với hình anh Bảy Chà cười toe toét! Phim được chiếu tại các rạp ciné trước khi vào xuất chính và khán giả thích thú dù biết đó là phim quảng cáo.
    Quảng cáo của Hynos trên báo
    Cái khéo của Hynos là thực hiện thêm nhiều biển quảng cáo ngoài trời tại những nơi có đông người qua lại nên đạt hiệu quả rất cao. Vào dịp Tết Nguyên Đán, tại chợ Bến Thành, lúc nào gian hàng Hynos cũng vang lên điệp khúc “Hynos cha cha cha, cha cha cha Hynos…” át hẳn gian hàng của khô nai Ban Mê Thuột, khô cá thiều Phú Quốc với lời phóng đại “nướng bên này đường, bên kia đường uống rượu cũng thấy ngon”!, hơn thế nữa, ông Nghĩa còn đi đầu trong việc làm phim quảng cáo kem đánh răng Hynos. Ông bỏ tiền làm một đoạn phim ngắn tại Hồng Kông, ký hợp đồng với tài tử ăn khách nhất Hồng Kông thời bấy giờ là Vương Vũ. Phim chỉ vài phút diễn cảnh các nhân vật đi “bảo tiêu” một thùng hàng, khi mở ra trong thùng chỉ chứa… toàn kem đánh răng Hynos với hình anh Bảy Chà cười toe toét! Phim được chiếu tại các rạp ciné trước khi vào xuất chính và khán giả thích thú dù biết đó là phim quảng cáo.
    pano quang cao sai gon xua (12) A.Bia Larue Khởi đầu, BGI thâm nhập miền Nam vào cuối thập niên 1900 chỉ với mục đích sản xuất nước đá để tiêu thụ tại một xứ nhiệt đới. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, BGI bắt đầu chuyển sản xuất bia và nước giải khát. Nhà máy BGI nổi tiếng nhất và lâu đời nhất là Nhà máy bia Chợ Lớn và Usine Belgique được xây dựng từ năm 1952.
    A.Bia Larue Khởi đầu, BGI thâm nhập miền Nam vào cuối thập niên 1900 chỉ với mục đích sản xuất nước đá để tiêu thụ tại một xứ nhiệt đới. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, BGI bắt đầu chuyển sản xuất bia và nước giải khát. Nhà máy BGI nổi tiếng nhất và lâu đời nhất là Nhà máy bia Chợ Lớn và Usine Belgique được xây dựng từ năm 1952.
    pano quang cao sai gon xua (10) B.Quảng cáo Bia 33 của hãng BGI Sở dĩ có cái tên “Bia 33” vì dung tích chai đựng bia là 33 centilitres, một cách đặt tên khá thú vị và thiết thực của BGI. Sau khi Sài Gòn đổi tên, chính quyền tịch thu tài sản của chủ Pháp và Nhà máy bia Chợ Lớn trở thành Bia Sài Gòn và Usine Belgique cũng đổi thành Chương Dương, nhưng vẫn là các nhà máy sản xuất nuớc giải khát.
    B.Quảng cáo Bia 33 của hãng BGI Sở dĩ có cái tên “Bia 33” vì dung tích chai đựng bia là 33 centilitres, một cách đặt tên khá thú vị và thiết thực của BGI. Sau khi Sài Gòn đổi tên, chính quyền tịch thu tài sản của chủ Pháp và Nhà máy bia Chợ Lớn trở thành Bia Sài Gòn và Usine Belgique cũng đổi thành Chương Dương, nhưng vẫn là các nhà máy sản xuất nuớc giải khát.
    pano quang cao sai gon xua (14) F.Thuốc Cotab Nếu Mélia được coi là “sang trọng” thì Cotab được quảng cáo là “thuốc của giới ưu tú” (La cigarette de l’élite) còn Bastos “xanh” và Mic được coi là loại thuốc “đen”, nặng của giới lao động, thợ thuyền.
    F.Thuốc Cotab Nếu Mélia được coi là “sang trọng” thì Cotab được quảng cáo là “thuốc của giới ưu tú” (La cigarette de l’élite) còn Bastos “xanh” và Mic được coi là loại thuốc “đen”, nặng của giới lao động, thợ thuyền.
    pano quang cao sai gon xua (5) E.Thuốc Batos “xanh” Thuốc lá ngày xưa chưa được phát hiện có hại cho sức khỏe nên được quảng cáo rầm rộ, trong khi quảng cáo các loại sữa cũng xuất hiện với mức độ ít hơn. Sài Gòn xưa có các loại sữa bột như Guigoz, SMA và sữa đặc có đường như Con Chim (Nestlé), Ông Thọ (Longevity), Bông Trắng (Cal-Best)... Cái tên Cal-Best là chữ tắt của California’s Best xuất hiện trễ nhất, được quảng cáo là “Giúp cho trẻ em mạnh khỏe và chóng lớn”.
    E.Thuốc Batos “xanh” Thuốc lá ngày xưa chưa được phát hiện có hại cho sức khỏe nên được quảng cáo rầm rộ, trong khi quảng cáo các loại sữa cũng xuất hiện với mức độ ít hơn. Sài Gòn xưa có các loại sữa bột như Guigoz, SMA và sữa đặc có đường như Con Chim (Nestlé), Ông Thọ (Longevity), Bông Trắng (Cal-Best)… Cái tên Cal-Best là chữ tắt của California’s Best xuất hiện trễ nhất, được quảng cáo là “Giúp cho trẻ em mạnh khỏe và chóng lớn”.
    pano quang cao sai gon xua (11)
    Mẫu quảng cáo của BGI. BGI có lịch sử từ năm 1927, ngoài Bia 33, BGI còn sản xuất các loại bia mang nhãn hiệu Bière Royale, Bière Hommel (bia nhẹ) và Tiger Beer (người ta thường gọi là “bia con cọp” vì có nhãn hiệu hình con cọp) …BGI đã tự hào là “Một loại bia 5 châu lục” thông qua việc xuất cảng Bia 33 ra khắp thế giới. Trong mẫu quảng cáo dưới đây ta thấy chữ “Bia” được hiển thị qua nhiều ngôn ngữ: Bière (tiếng Pháp), Beer (tiếng Anh), Bier (tiếng Đức), Bir (tiếng Indonesia), Birra (tiếng Ý)… .Bia 33 và 5 châu lục. Nếu bia là độc quyền của BGI tại miền Nam, thuốc lá lại là mặt hàng có nhiều nhà sản xuất và được quảng cáo rất mạnh vì luôn ở tư thế cạnh tranh giành thị phần. Ngoài các loại thuốc lá ngoại nhập như Pall Mall, Salem, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston, Marlboro… có rất nhiều nhãn hiệu thuốc được sản xuất tại Sài Gòn.
    pano quang cao sai gon xua (6)
    Mélia “vàng” Mélia “vàng”, còn gọi là “Mélia Jaune”, là một trong những nhãn hiệu thuốc lâu đời nhất. Vào lúc mới tung ra sản phẩm, mỗi gói thuốc Mélia đều có một tấm hình chụp một cặp Tây Ðầm hôn nhau rất tình tứ, đó cũng là một cách tiếp thị! Chỉ có các ông Giáo sư và các thầy Thông, thầy Phán có tiền rủng rỉnh mới hút thứ thuốc “sang trọng” đó.
    pano quang cao sai gon xua (3)
    Một số quảng cáo “HÒM TOBIA” chắc quý vị còn nhớ.  Ông chủ trại hòm Tobia cũng khéo đặt tên cho dịch vụ chăm sóc người chết vì Tobia vốn là tên một nhân vật giàu lòng nhân ái trong Kinh Thánh Cựu Ước, chuyên lo việc hậu sự. Trại hòm của ông nằm tại số 114 đường Hai Bà Trưng, phía bên kia nhà thờ Tân Định, những người yếu bóng vía thường có cảm giác sờ sợ mỗi khi đi ngang qua đây. Đó cũng là lẽ thường tình, ai mà chẳng sợ chết! Trại hòm Tobia nhấn mạnh trong mục quảng cáo: “Lòng hiếu thảo của dân Việt: SỐNG MỘT CÁI NHÀ, THÁC MỘT CÁI HÒM”. Có điều chưa thấy xuất hiện quảng cáo… “mua một tặng một”!

    pano quang cao sai gon xua (9) pano quang cao sai gon xua (8)

    Theo Fb/ Sài Gòn Xưa

  • Cà phê Sài Gòn xưa

    Cà phê Sài Gòn xưa

    Cà phê Sài Gòn Xưa & Nay
    Cà phê Sài Gòn Xưa & Nay

    Bạn đã uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, thì rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm gì à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca thì phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu thì nằng nặc đòi uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm nhận lấy. Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đã đời, thú vị phải không? Bạn đã có đủ những gì bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài Gòn những năm cuối 1960 và đầu 1970.

    Sài Gòn những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên; hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.

    cafe-sai-gon-xua-1975

    Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.

    Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà phê chỉ như một cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hãnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Trong lãnh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân vân…

    Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả. Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che dấu.
    Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán – những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi thì không là trí thức)- đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó. Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không còn, tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Còn chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào?

    Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý, cùng với những tên tuổi đã giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài Gòn ngồi đồng từ sáng đến tối để… làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không còn. Những con người cũ tứ tán muôn phương.

    Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đã đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh – loại bánh đặc biệt của chị Chi- nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đã biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ.
    Những năm cuối thập niên 60 Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng… Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ – Hình như là Đào Duy Từ – gần sân vận động Thống Nhất bây giờ, có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giã thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những giò lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La mang sắc thái rất … Đa La. Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà… Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa của nhiều mối tình. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc nào tôi không nhớ.

    Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì; có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si. Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc ngay góc Hồng Thập Tự – Cường Để còn nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đình Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run khi được mấy chàng mời cơm.
    Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng. Rồi còn cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai ; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật bình dân nhưng thường xuyên chứng kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường Tộ.

    Chán cà phê thì đi ăn nghêu sò, bò bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đã có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán Mù U, hẻm Võ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngã tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần dòng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ý. Cao cấp hơn có La Pagode (đổi thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard, Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi… cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam. Vào Casino Sài Gòn có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đã quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của SV, cả nghèo lẫn giàu. Cuộc sống SV cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài Gòn. Nghèo nhưng vui và mơ mộng. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi thoảng lại pha thêm chút Tội ác Hình phạt, Zara đã nói như thế! Che Guervara, Garcia Lorca. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà.

    Lương Thái Sỹ – An Dân
    Vài hình ảnh cảnh quán xá Cafe Sài Gòn xưa:

    Cà phê Sài Gòn xưa
    Siêu đựng cà phê trong các tiệm cà phê của người Tầu vamột quán cà phê người Tàu của Sài Gòn xưa

    Cà phê Sài Gòn xưa

    Cà phê Sài Gòn xưa
    Siêu đựng cà phê trong các tiệm cà phê của người Tầu vamột quán cà phê người Tàu của Sài Gòn xưa

    Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa Cà phê Sài Gòn xưa

    Nguồn chủ yếu từ Blog Nam Ròm !

  • Mưa ngập Sài Gòn trước năm 1975

    Mưa ngập Sài Gòn trước năm 1975

    Mưa Sài Gòn trước năm 75 ,xem lại vài hình coi có khác với thời nay hay không…

    Sài Gòn cái gì cũng nhanh, ngay cả những cơn mưa cũng vậy, nhanh đến mà cũng nhanh đi. Tưới mát cho Sài Gòn độ khoảng nửa giờ hoặc có thể ngắn hơn, mưa tạnh, trời lại trở về với cái nắng thường thấy ở Sài Gòn.  Đường lại ráo như mưa chưa từng đến.

    Cơn mưa sài gòn xưa, trước năm 1975, mưa to là sài gòn cũng bị ngập lụt
    Cơn mưa sài gòn xưa, trước năm 1975, mưa to là sài gòn cũng bị ngập lụt
    Cơn mưa sài gòn xưa, trước năm 1975, mưa to là sài gòn cũng bị ngập lụt
    Cơn mưa sài gòn xưa, trước năm 1975, mưa to là sài gòn cũng bị ngập lụtCơn mưa sài gòn xưa, trước năm 1975, mưa to là sài gòn cũng bị ngập lụt

    Ngập lụt trước Bưu điện Q.1, góc Lê Lợi-Pasteur.
    Ngập lụt trước Bưu điện Q.1, góc Lê Lợi-Pasteur.

    mua-sai-gon-ngay-xua

    Một tuyến đương bị ngập sau mưa vào năm 1967. Ảnh của Donald Jellema.
    Một tuyến đương bị ngập sau mưa vào năm 1967. Ảnh của Donald Jellema.

    Tổng hợp từ Nam Ròm, Google,…

    Mời bạn đóng góp để làm phong phú thêm nguồn tài liệu ảnh mưa Sài Gòn xưa! email của nhóm admin: Hinhanhvietnam84@gmail.com !

  • Những hoài niệm đẹp của Sài Gòn xưa

    Những hoài niệm đẹp của Sài Gòn xưa

    Chỉ có người yêu Sài Gòn mới nhận ra nét đẹp xưa còn mãi trong kiến trúc, con đường, nếp sống…

    Sài Gòn năng động và vun vút đi. Ít người có thời gian và chịu bỏ công sức để cảm nhận Sài Gòn một cách trọn vẹn từ quá khứ đến hiện tại, qua những thứ “ngày nào cũng thấy”.

    Thời gian làm nhiều thứ bị lu mờ và biến mất, nhưng lại tăng thêm sự quyến rũ, giá trị lịch sử cho những công trình. Mang vẻ đẹp độc đáo, lộng lẫy một thời, các kiến trúc như nhà hát lớn thành phố, UBND thành phố, nhà thờ Đức Bà, bưu điện thành phố… vẫn đậm hơi thở của “hồn Sài Gòn”.

    Nhà thờ Đức Bà được xây bằng những viên gạch làm tại Marseille (Pháp), để trần, không tô trát và mang màu đỏ đặc trưng

    Nhà thờ Đức Bà được xây bằng những viên gạch làm tại Marseille
    Nhà thờ Đức Bà được xây bằng những viên gạch làm tại Marseille (Pháp), để trần, không tô trát và mang màu đỏ đặc trưng
    hợ Bến Thành - biểu tượng của Sài Gòn, có trước khi người Pháp xâm chiếm Gia Định. Cho đến nay, kiến trúc của chợ gần như vẫn nguyên vẹn
    hợ Bến Thành – biểu tượng của Sài Gòn, có trước khi người Pháp xâm chiếm Gia Định. Cho đến nay, kiến trúc của chợ gần như vẫn nguyên vẹn
    Bến đò Thủ Thiêm nay chỉ còn trong các bức hình và trí nhớ của những người dân khu vực xung quanh
    Bến đò Thủ Thiêm nay chỉ còn trong các bức hình và trí nhớ của những người dân khu vực xung quanh
    Bưu điện thành phố ngày xưa không đông khách du lịch mà nhộn nhịp người đến vì công việc
    Bưu điện thành phố ngày xưa không đông khách du lịch mà nhộn nhịp người đến vì công việc
    Khách sạn Intercontinental
    Khách sạn Intercontinental

    Từng công trình cũng có câu chuyện của riêng mình với những biến cố thăng trầm theo sự phát triển của thành phố. Ví như tiệm cà phê – bánh ngọt Givral ở ngay góc đường Lê Lợi và phố Đồng Khởi.

    tiệm cà phê - bánh ngọt Givral
    Tiệm cà phê – bánh ngọt Givral

    Sài Gòn, chẳng có lấy một cái hồ tự nhiên với liễu rủ, bóng cây tỏa mát. Nhưng Sài Gòn có hồ Con Rùa mang dáng vẻ hiện đại, hình khối hợp tuyệt vời với phong cách năng động của thành phố này. Bao năm qua nó vẫn hòa với nhịp thành phố, chẳng bị lệch tông chút nào.

    Hồ Con Rùa với kiến trúc hòa hợp với phong cách của thành phố
    Hồ Con Rùa với kiến trúc hòa hợp với phong cách của thành phố

    Đường Sài Gòn xưa, vẫn những hàng cây thẳng tắp nhưng vắng vẻ và thoáng đãng hơn bây giờ. Có lẽ vì thế nên cho người ta có cái cảm giác người Sài Gòn trước hình như thơ hơn, mộng hơn.

    Đường Sài Gòn xưaĐường Sài Gòn xưa

    Những con đường thoáng đãng, rộng rãi hơn của hiện tại vì lượng xe và người còn hạn chế
    Những con đường thoáng đãng, rộng rãi hơn của hiện tại vì lượng xe và người còn hạn chế

    Sài Gòn ngày xưa cũng ngập tràn xe máy, xe đạp và ô tô. Tuy nhiên, những chiếc Mobylette, Vélosolex, Vespa, Lambretta, Honda… khiến cho Sài Gòn xưa mang nét đẹp cổ điển, thanh tao.

    Xem thêm: Xe máy Sài Gòn xưa

    Một bãi giữ xe thời xưa
    Một bãi giữ xe thời xưa

    xe máy sài gòn xưa

    Sài Gòn xưa với các dòng xe thế này là niềm mơ ước của dân chơi xe bây giờ
    Sài Gòn xưa với các dòng xe thế này là niềm mơ ước của dân chơi xe bây giờ

    Bên cạnh đó, xích lô, xe lam, xe buýt góp phần làm Sài Gòn xưa thêm gần Sài Gòn nay. Hẳn những người từng nghe tiếng nổ giòn tan của xe lam nhớ lắm cái mùi khói phả vào mặt khi vô tình đứng sau xe. Có khó chịu đấy, có nhăn mặt đấy nhưng nó lại là kỷ niệm khó phai.

    Xe lam là phương tiện giao thông phổ biến trước năm 1975
    Xe lam là phương tiện giao thông phổ biến trước năm 1975
    Xích lô, xe buýt khiến Sài Gòn xưa gần hơn với Sài Gòn nay
    Xích lô, xe buýt khiến Sài Gòn xưa gần hơn với Sài Gòn nay
    xe lam Sài Gòn xưa
    xe lam Sài Gòn xưa
    Và xe lam với tiếng nổ giòn
    Và xe lam với tiếng nổ giòn

    Nói đến Sài Gòn dịp tết, người ta nghĩ ngay đến đường hoa Nguyễn Huệ. Theo lời kể, kênh đào Charner nối liền với sông Sài Gòn được người Pháp lấp đi, hình thành đại lộ Charner, sau đổi tên thành đường Nguyễn Huệ.

    Mỗi dịp tết về, hoa từ khắp nơi theo những con thuyền về bến gần đó được tập kết trải dài trên con đường này, khiến nó thành nơi buôn bán sầm uất, nhộn nhịp người chơi hoa, du xuân và tham quan. Dù không mua bán như trước đây, nhưng đường Nguyễn Huệ cũng là một nét rất riêng được lưu giữ lại của thành phố.

    Đường Nguyễn Huệ xưa nhộn nhịp bán mua và người vãn cảnh mỗi dịp tết
    Đường Nguyễn Huệ xưa nhộn nhịp bán mua và người vãn cảnh mỗi dịp tết

    Không chỉ bây giờ mà trước đây, phim ảnh là một thú vui của nhiều tầng lớp người dân sống ở Sài Gòn. Do đó, các rạp cũng mọc lên như nấm với đủ dạng kiểu và giá thành khác nhau.

    Thậm chí có rạp mang gu riêng, không chiếu phim Trung Quốc mà chỉ hướng đến quảng bá phim đạt giải lớn với những diễn viên tài tử nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Còn các rạp như Eden hay Rex giá vé cao, chỉ thích hợp cho “con nhà giàu” hay những người có điều kiện kinh tế dư giả.

    Còn các rạp bình dân như Văn Cầm, Kinh Thành, Casino Đakao… thì “mềm” hơn, là điểm tới lui thường xuyên của học trò. Ngoài ra, còn vô số các rạp khác chứng kiến sự đổi thay một thời kỳ của điện ảnh như rạp Cầu Bông, Đại Nam, Cathay, Nguyễn Văn Hảo…

    Bảng quảng cáo phim của rạp Eden, một trong những rạp chiếu bóng có thâm niên nhất ở Sài Gòn. Mặt trước bên đường Tự Do không có chỗ cho bảng quảng cáo lớn nên họ đặt ở mặt sau bên Nguyễn Huệ. Rạp Eden hoạt động từ thời Pháp thuộc cho đến tận năm 1975
    Bảng quảng cáo phim của rạp Eden, một trong những rạp chiếu bóng có thâm niên nhất ở Sài Gòn. Mặt trước bên đường Tự Do không có chỗ cho bảng quảng cáo lớn nên họ đặt ở mặt sau bên Nguyễn Huệ. Rạp Eden hoạt động từ thời Pháp thuộc cho đến tận năm 1975
    Người Sài Gòn yêu điện ảnh từ xưa, các rạp chiếu bóng thời đó lúc nào cũng đông người đi xem
    Người Sài Gòn yêu điện ảnh từ xưa, các rạp chiếu bóng thời đó lúc nào cũng đông người đi xem

    Trong chợ Sài Gòn, các gánh hàng rong, xe đẩy dường như vẫn thế bao năm qua, khiến đất này mang dư vị khó quên trong lòng người đến và dời đi. Vẫn những món hàng thường ngày, từ trái cây, đồ khô, đồ ăn… cảnh mua bán tấp nập nhưng gánh hàng rong, xe đẩy dường như nhẹ nhàng và thong dong hơn.

    Chợ và hàng rong là điều không thể thiếu khi nhắc đến Sài Gòn. Thậm chí, có những khu chợ mang danh tiếng của tính cách Sài Gòn như chợ Dân Sinh, chợ Bà Chiểu…
    Chợ và hàng rong là điều không thể thiếu khi nhắc đến Sài Gòn. Thậm chí, có những khu chợ mang danh tiếng của tính cách Sài Gòn như chợ Dân Sinh, chợ Bà Chiểu…

    Xe đẩy ngày xưa cũng bán những mặt hàng như bây giờ nhưng hình như mang dáng vẻ thong dong, nhẹ nhàng hơn
    Xe đẩy ngày xưa cũng bán những mặt hàng như bây giờ nhưng hình như mang dáng vẻ thong dong, nhẹ nhàng hơn
    Sài Gòn luôn tận tình trong các dịch vụ đi kèm, tiệm hoa giao tận nơi này là một thí dụ
    Sài Gòn luôn tận tình trong các dịch vụ đi kèm, tiệm hoa giao tận nơi này là một thí dụ

    Cuộc sống của người Sài Gòn xưa cũng như Sài Gòn nay phóng khoáng và niềm nở
    Cuộc sống của người Sài Gòn xưa cũng như Sài Gòn nay phóng khoáng và niềm nở
    Sài Gòn xưa còn các cuộc thi nữ công gia chánh nhân ngày lễ như thêu, nấu ăn, viết văn…
    Sài Gòn xưa còn các cuộc thi nữ công gia chánh nhân ngày lễ như thêu, nấu ăn, viết văn…
    Cảnh đánh cờ của các anh, các chú, các bác vẫn là điều quen thuộc của Sài Gòn
    Cảnh đánh cờ của các anh, các chú, các bác vẫn là điều quen thuộc của Sài Gòn

    Sài Gòn khiến người ta phải nhớ mãi nó như câu hát tươi vui: “Một tình yêu mến ghi lời hát câu ca. Để lòng thương nhớ bao ngày vắng nơi xa. Sống mãi trong tôi bóng hôm nay sẽ không phai. Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi! Sài Gòn ơi!”

    Tạ Ban Ảnh: Sưu tầm từ Flickr

  • Xe xích-lô máy Sài Gòn

    Xe xích-lô máy Sài Gòn

    Những hình ảnh và thông tin thú vị về xe xích lô máy Sài Gòn trước năm 1975

    Một phương tiện di chuyển tương đối rẻ tiền tại Sài Gòn là xe xích-lô máy, thông thoáng dưới ánh nắng nóng nực của thành phố so với cung cách ngồi xe Taxi Renault 4CV không có máy điều hoà không khí, với tiếng nổ của động cơ 2 thì dùng xăng pha nhớt nhả khói – là hình ảnh đặc biệt khó quên của Sài Gòn, sau ngày thành phố được giải phóng vào tháng tư 1975, những chiếc xe xích-lô máy cũng biến mất như số phận của những chiếc xe Taxi Sài Gòn xưa.

    Xem thêm :

    Xe xích-lô máy Sài Gòn
    Xe xích-lô máy Sài Gòn

    Sơ lược về xe 3 bánh Peugeot

    Được sản xuất vào năm 1939 dựa trên kiểu xe mô-tô Peugeot 100cc Type 53, vì nhu cầu vận chuyển hàng hoá vào những con đường phố cổ chật hẹp mà xe ô-tô vận tải khó lưu thông và khối lương hàng hoá tương đối nhỏ, không cần đến những phương tiện vận tải lớn.

    Xe mô-tô Peugeot 125cc kiểu 55 GLT 1932
    Xe mô-tô Peugeot 125cc kiểu 55 GLT 1932

    Kiểu xe 3 bánh Triporteur Peugeot đầu tiên là kiểu 53 TN, vay mượn cổ máy 100cc 2-thì của xe Type 53 cùng nhiều cơ phận khác của xe nầy ngoại trừ bộ khung xe khác biệt. Động cơ được thiết kế đằng sau thùng chở hàng nên ngăn cản không khí làm mát máy, do đó trên cổ máy được thiết kế thêm một quạt máy nằm bên cạnh. Với sức mạnh 4 mã lực, hộp số gồm 3 số với cần sang số bên cạnh bình xăng, xe 3 bánh có thể chở 100 kilô hàng hoá với tốc độ tối đa 45 Km/giờ.

    Kiểu xe 3 bánh Triporteur Peugeot
    Kiểu xe 3 bánh Triporteur Peugeot
    Kiểu xe Triporteur Peugeot 55TN sản xuất sau chiến tranh tại Pháp Quốc
    Kiểu xe Triporteur Peugeot 55TN sản xuất sau chiến tranh tại Pháp Quốc

    Nhưng ưu điểm của xe Triporteur Peugeot so với những xe 3 bánh tải hàng hoá vào thời điểm ấy là bộ phận cơ khí tay lái điều khiển xe, được thừa hưởng từ thiết kế xe ô-tô Peugeot, bộ cơ khí tay lái điều khiển được đơn giản hoá với trục bánh trước độc lập rất tiện nghi và bẻ lái dể dàng. Về bộ khung trục bánh trước được thiết kế 2 vè chắn bùn bằng thép lá rập khuôn, ốp lấy thùng chở hàng hoá có cánh cửa mở về phía trước.

    Triporteur Peugeot 55TN
    Triporteur Peugeot 55TN
    Triporteur Peugeot 55TN với 3 phiên bản khác nhau trong tài liệu của Peugeot
    Triporteur Peugeot 55TN với 3 phiên bản khác nhau trong tài liệu của Peugeot

    Sau Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945, việc sản xuất xe Triporteur Peugeot được khởi động lại một cách khiêm nhượng với kiểu xe biến cải đôi chút, kiểu xe 54 TN, nhưng phải chờ đến năm 1949 mới thấy xuất hiện kiểu xe với động cơ 125cc, Triporteur 55 TN.

    Cổ máy 125cc vay mượn từ xe mô-tô Peugeot Type 55, với sức mạnh 4,5 mã lực cho phép xe 3 bánh tải một trọng lượng đến 150 Kg do đó bánh xe được nâng lên với kích cở 550×85 để chịu sức tải nặng và mầu sơn từ mầu xám xưa cũ chuyển sang mầu ngà.xe mô-tô Peugeot Type 55

    Kiểu xe Triporteur Peugeot cuối cùng 57 TM
    Kiểu xe Triporteur Peugeot cuối cùng 57 TM năm 1954
    Vài chi tiết kỹ thuật cơ khí: động cơ 125cc một xi-lanh 2-thì mát máy bằng quạt, hộp số gồm 3 số tay bên cạnh bình xăng, 4,5 mã lực với vòng quay máy 4.000 vòng/phút, bộ chế hoà khí Gurtner RN 17, bộ đánh lửa Volant SAFI SSY 40W, bánh xe 550×85, dài 2,35 mét, rộng 1,15 mét, cân nặng 120 Kilô.

    Kiểu cuối cùng của loại xe Triporteur Peugeot là kiểu 57 TM được ra mắt vào cuộc triển lãm xe vào năm 1954 tại Pháp Quốc. Với động cơ vẫn là cổ máy 125cc nhưng bộ dàn xe với 2 vè chắn bùn phía trước được thiết kế bằng thép lá uốn thẳng góc, giúp cho việc chuyển vận hàng hoá dể dàng hơn, 2 đèn phía trước được thay bằng một đèn duy nhất lớn hơn và chiếu sáng hơn. Kiểu 57 TM được trình làng với 3 phiên bản: khung trơn không thùng chở hàng (57 TN), thùng chở hàng có cửa mở phía trước (57 TNO) hoặc thùng chứa hàng với nắp đậy (57 TNC).

    Xe xích-lô máy tại Việt Nam

    Tại Việt Nam sau khi quân đội Hoàng Gia Nhật Bản thua trận phải đầu hàng và rút về nước năm 1945, ở Sài Gòn quân đội Anh Quốc đến tiếp quản rồi giao lại cho chính quyền thuộc địa Pháp. Nhu cầu vận tải hàng hoá rất cần thiết nên đã nhập cảng những phương tiện chuyên chở mà chiếc xe 3 bánh Triporteur Peugeot đã được đưa vào Sài Gòn.

    Từ chiếc xe 3 bánh chở hàng hoá, xe Triporteur Peugeot được cải tiến thành xe xích-lô máy
    Từ chiếc xe 3 bánh chở hàng hoá, xe Triporteur Peugeot được cải tiến thành xe xích-lô máy

    Đa số kiểu xe được sử dụng tại Sài Gòn là kiểu Triporteur Peugeot 55 TN với động cơ 125cc – thoạt đầu được sử dụng để vận tải hàng hoá nhưng sau đó được biến cải thành xe xích-lô máy. Trong thập niên 1930, Sài Gòn đã có những chiếc xích-lô đạp thay thế cho những phu xe kéo, qua thập niên 1940 đã có khoảng trên 6.500 xe xích-lô đạp nhưng số dân cư Sài Gòn ngày một tăng lên, xe xích lô đạp không đáp ứng lại nhu cầu vận chuyển vì lẽ dùng sức người, tốc độ chậm và quảng đường ngắn – trong khi xe Taxi đáp ứng lại nhu cầu về tốc độ và khoảng cách xa nhưng giá cả khá cao, khách đi xe xót ruột khi thấy đồng hồ taximètre cứ nhảy số tiền phải trả ngay cả khi xe dừng ở đèn lưu thông…

    Xe xích-lô máy và Taxi Renault 4CV là 2 biểu tượng của Sài Gòn xưa
    Xe xích-lô máy và Taxi Renault 4CV là 2 biểu tượng của Sài Gòn xưa
    Xích-lô máy là một phương tiện di chuyễn nhanh chóng và mát mẽ dưới nắng Sài Gòn
    Xích-lô máy là một phương tiện di chuyễn nhanh chóng và mát mẽ dưới nắng Sài Gòn

    Do đó từ một xe 3 bánh chở hàng hoá – gọi theo tiếng việt thời ấy là xe ba-gác máy (từ chử bagages = hành lý) – đã được cải tiến thành xe xích-lô máy. Rập theo cấu trúc của xích-lô đạp, người ta đặt lên khung xe một cái nôi bằng thép uốn với băng ghế nệm, dưới ghế nệm biến thành khoang chứa dụng cụ bảo trì xe cùng xăng nhớt, ruột lốp xe và tấm bạt để che phía trước hành khách khi trời mưa. Bên cạnh 2 hông ghế là bộ khung thép bọc mái che bằng vải dầu gấp xếp lại được, dùng để che nắng và mưa.

    Hình ảnh quen thuộc xe xích-lô máy chạy quanh Công trường Diên Hồng xưa, trước trạm xe buýt Công Quản Chuyên Chở Công Cộng đối diện với Chợ Bến Thành
    Hình ảnh quen thuộc xe xích-lô máy chạy quanh Công trường Diên Hồng xưa, trước trạm xe buýt Công Quản Chuyên Chở Công Cộng đối diện với Chợ Bến Thành

    Trong cuối thập niên 1940 qua đầu thập niên 1950, có khoảng 1.800 xe xích-lô máy hoạt động quanh Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định và là biểu tượng duy nhất của thành phố Sài Gòn không có nơi nào khác.

    Dòng xe xích-lô máy Sài Gòn biến mất dần sau ngày miền nam Việt Nam được giải phóng vào tháng tư 1975, xăng dầu vào lúc ấy trở thành khan hiếm và được xem là “vật tư chiến lược” của chính quyền mới, những xe xích-lô máy cũng cùng số phận với những xe Taxi Sài Gòn xưa.

    Hình ảnh xe xích-lô máy Sài Gòn theo thời gian

    Xích-lô máy và ông Pierre Coupeaud, ngưới sáng chế xe xích-lô đạp đầu tiên ở Phnom Penh trước nhà hàng khách sạn Continental Sài Gòn
    Xích-lô máy và ông Pierre Coupeaud, ngưới sáng chế xe xích-lô đạp đầu tiên ở Phnom Penh trước nhà hàng khách sạn Continental Sài Gòn
    Hai bà "đầm" trên một xe xích-lô máybiến cải từ xe Triporteur Peugeot 54 TN
    Hai bà “đầm” trên một xe xích-lô máybiến cải từ xe Triporteur Peugeot 54 TN
    Hai người lính gendarmes Pháp ở Sài Gòn
    Hai người lính gendarmes Pháp ở Sài Gòn
    Một thiếu nữ Pháp kiều tại Sài Gòn
    Một thiếu nữ Pháp kiều tại Sài Gòn
    Một bến xe xích-lô máy
    Một bến xe xích-lô máy
    Chờ khách...
    Chờ khách…
    Một lính Mỹ thích thú trên xe xích-lô máy Sài Gòn
    Một lính Mỹ thích thú trên xe xích-lô máy Sài Gòn

    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc

    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Hình ảnh xe Triporteur Peugeot ngày nay ở Pháp Quốc
    Vài xe Triporteur Peugeot được tân trang và trưng bày trong các lể hội
    Vài xe Triporteur Peugeot được tân trang và trưng bày trong các lể hội
    Một người bán hạt dẻ rang nóng trên đường phố Paris
    Một người bán hạt dẻ rang nóng trên đường phố Paris

    Theo http://hoangkimviet.blogspot.ch/

  • Quán ăn vỉa hè Sài Gòn xưa

    Quán ăn vỉa hè Sài Gòn xưa

    Văn hóa ẩm thực đường phố Sài Gòn xưa

    Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, Sài Gòn đón nhận nhiều dòng chảy văn hóa khác nhau, và cũng là nơi tụ hội nhiều tinh hoa ẩm thực nhất.

    Qua những khung ảnh xưa, chúng ta có thể cảm nhận nhiều sắc thái văn hóa khác nhau tại Sài Gòn. Tất cả tạo nên một bản sắc thú vị của ẩm thực Sài Gòn mà không nơi nào có được.

    Một xe mì tại vào những năm cuối thế kỷ thứ 18
    Một xe mì tại vào những năm cuối thế kỷ thứ 18
    Trong một trà quán của người Hoa ở Chợ Lớn những năm 1920
    Trong một trà quán của người Hoa ở Chợ Lớn những năm 1920
    Một xe mì của người Hoa gần kênh Tàu Hủ
    Một xe mì của người Hoa gần kênh Tàu Hủ
    Một hàng quán tạm bợ những năm 20 thế kỷ trước
    Một hàng quán tạm bợ những năm 20 thế kỷ trước
    Ngày đó việc trang trí, bày biện tiệm ăn rất đơn giản
    Ngày đó việc trang trí, bày biện tiệm ăn rất đơn giản
    Trong một tiệm ăn ở gần chợ Gò Vấp năm 1920
    Trong một tiệm ăn ở gần chợ Gò Vấp năm 1920
    Công chức Sài Gòn thời đó rất thích các tiệm mì của người Hoa
    Công chức Sài Gòn thời đó rất thích các tiệm mì của người Hoa
    Trong một quán cà phê ngó ra đường Catinat (Đồng Khởi) bây giờ. Ảnh chụp năm 1948
    Trong một quán cà phê ngó ra đường Catinat (Đồng Khởi) bây giờ. Ảnh chụp năm 1948
    Cà phê bên hồ bơi Tao Đàn năm 1948 (Cung Văn hóa Lao Động bây giờ)
    Cà phê bên hồ bơi Tao Đàn năm 1948 (Cung Văn hóa Lao Động bây giờ)
    Tiệm bánh mì Hòa Mã năm 1960 trên đường Phan Đình Phùng  (Nguyễn Đình Chiểu, quận 03 ngày nay). Sau tiệm dời về đường  Cao Thắng ở gần đó.
    Tiệm bánh mì Hòa Mã năm 1960 trên đường Phan Đình Phùng
    (Nguyễn Đình Chiểu, quận 03 ngày nay). Sau tiệm dời về đường
    Cao Thắng ở gần đó.
    Một tiệm mì trong Chợ Lớn năm 1961
    Một tiệm mì trong Chợ Lớn năm 1961
    Các món mì và hủ tiếu của người Hoa là một phần quan trọng trong đời sống ẩm thực Sài Gòn
    Các món mì và hủ tiếu của người Hoa là một phần quan trọng trong đời sống ẩm thực Sài Gòn
    Kem Bạch Đằng ở ngã tư Lê Lợi - Pasteur những năm 60
    Kem Bạch Đằng ở ngã tư Lê Lợi – Pasteur những năm 60
    Đường Tôn Thất Đạm (quận 01) tập trung rất nhiều quán ăn nổi tiếng
    Đường Tôn Thất Đạm (quận 01) tập trung rất nhiều quán ăn nổi tiếng
    Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh (ngày nay Saigon Tourist vẫn duy trì mô hình này)
    Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh (ngày nay Saigon Tourist vẫn duy trì mô hình này)
    Phở Con Voi - cũng là một quán nhậu khá nổi tiếng
    Phở Con Voi – cũng là một quán nhậu khá nổi tiếng
    Tiệm cà phê rang xay trên đường Hai Bà Trưng (quận 01)
    Tiệm cà phê rang xay trên đường Hai Bà Trưng (quận 01)
    Tiệm phở Đô Thành trên đường Võ Tánh (đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận ngày nay)
    Tiệm phở Đô Thành trên đường Võ Tánh (đường Hoàng Văn Thụ, quận Phú Nhuận ngày nay)
    Tiệm heo quay, vịt quay trên đường Hàm Nghi
    Tiệm heo quay, vịt quay trên đường Hàm Nghi
    Một sạp bún riêu trong chợ
    Một sạp bún riêu trong chợ
    Sạp cơm bên cạnh khu kios đường Nguyễn Huệ
    Sạp cơm bên cạnh khu kios đường Nguyễn Huệ
    Khu nhà hàng trên đường Hai Bà Trưng
    Khu nhà hàng trên đường Hai Bà Trưng
    Nhà hàng, vũ trường Maxim's lừng danh một thời trên đường Đồng Khởi
    Nhà hàng, vũ trường Maxim’s lừng danh một thời trên đường Đồng Khởi

    Theo thanhnien.com.vn