Author: Hình ảnh Việt Nam

  • Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”

    Tôi đã nhiều lần đến Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam chỉ để ngắm tuyệt tác ‘Em Thúy” của danh họa Trần Văn Cẩn. 75 năm đã trôi qua kể từ ngày bước chân vào thế giới hội họa, mọi vật đều thay đổi nhưng “em Thúy” vẫn ngồi đó, mãi hồn nhiên, tươi trẻ, như dòng suối tinh khiết trong đời sống quá nhiều trần tục. Một vẻ đẹp Hà thành thật bình yên.

    Bảo vật quốc gia

    “Em Thúy” là tên bức sơn dầu (60x45cm) của họa sĩ Trần Văn Cẩn (1910-1994) sáng tác năm 1943 vẽ cô cháu gái Nguyễn Minh Thúy lên 8 của ông.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    “Em Thúy” của họa sĩ Trần Văn Cẩn
    Từng tốt nghiệp thủ khoa Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1937, từng được đồng nghiệp ngưỡng mộ suy tôn trong “bộ tứ họa sĩ” lừng danh thời ấy là “nhất Trí, nhì Lân, tam Vân, tứ Cẩn”, dù có nhiều tác phẩm nổi tiếng, song “Em Thúy” vẫn được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của danh họa Trần Văn Cẩn. Không chỉ vậy, “Em Thúy” còn được coi là một trong những tác phẩm tranh chân dung thành công nhất của mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2014.Trong tranh, em Thúy với mái tóc ngắn, nét mặt thơ ngây, đáng yêu ngồi khép nép trên chiếc ghế mây, đôi vai gầy nhỏ bé, gương mặt hướng về phía trước bằng đôi mắt mở to tròn. Bức tranh gây xúc động bởi chính thông điệp giản dị về sự trong sáng, thánh thiện. Xem tranh ta như thấy được yên ả, thanh bình, như thấy được yêu thương… những tình cảm giúp con người muốn xa lánh, trút bỏ những điều ác để hướng về cái thiện.

    Năm 2003, nhạc sĩ người Anh Paul Zetter đã viết bản “Little Thúy Minuet” (Điệu minuet cho em Thúy) khi ông ngắm nhìn bức tranh. Bản nhạc là cảm xúc mãnh liệt mà như ông chia sẻ: Ánh mắt của “em Thúy” đã chạm vào và tạo nên những xáo động nội tâm để mỗi người như được gặp lại tuổi thơ của chính mình…

    Quá khứ chưa xa

    Năm nay đã bước vào tuổi 83 nhưng bà Nguyễn Minh Thúy – nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy” vẫn giữ được hồn cốt của bé gái năm xưa, một vẻ đẹp trong sáng, thanh lịch của một người Hà Nội, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Có khác chăng chỉ là dấu vết của thời gian đã hằn lên làn da và mái tóc trắng màu mây.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    “Em Thúy” ngày nay. Ảnh VIỆT VĂN
    Nói về bức tranh, ánh mắt bà Thúy ánh lên niềm vui. Cuộc đời bà thật hạnh phúc khi có được một cái “duyên” đặc biệt với hội họa. Nhờ “bác Cẩn”, bà đã bước vào một thế giới đẹp như mộng và tràn đầy cảm xúc. Chính người bác tài năng đã mở ra những cảm nhận đặc biệt trong tâm hồn bà về nghệ thuật.Ngày ấy, khi ngồi làm mẫu cho bác Cẩn vẽ tranh, bé Thúy mới lên 8 (1943), đang theo học trường nữ sinh tiểu học Ecole Brieux (nay là trường THCS Thanh Quan) ở 29 Hàng Cót. Việc hằng ngày đi học về phải ngồi làm mẫu cho bác Cẩn vẽ một đến hai tiếng đồng hồ đối với bé Thúy thật là khó khăn. Vì thế mà bác Cẩn cứ phải dỗ dành, đôi lúc lại mắng yêu: “Sao cứ chạy lăng xăng thế!”. Phải mất đến mấy tháng, bác Cẩn mới hoàn thành bức họa và đặt cho nó cái tên giản dị “Em Thúy”. Khi ấy, chẳng ai trong gia đình ý thức được giá trị nghệ thuật của bức tranh. Chỉ nhớ là tại cuộc triển lãm mỹ thuật ở Hội Khai Trí Tiến Đức năm đó, bác Cẩn được nhận giải Nhất với hai tác phẩm “Em Thúy” (sơn dầu) và “Gội đầu” (điêu khắc).

    Khi người Pháp quay lại Hà Nội, gia đình bé Thúy đi tản cư mà không mang theo bức tranh. Tới khi quay về thì tranh đã bị lấy trộm, phải bỏ tiền chuộc lại từ một người buôn tranh. Bức tranh được treo lại trang trọng trong ngôi nhà 23 Hàng Cót cho đến khi bác Cẩn tặng cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Đó cũng là bức duy nhất, độc bản.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    “Em Thúy” năm 24 tuổi – tranh Trần Văn Cẩn.
    Ngoài bức chân dung “Em Thúy”, họa sĩ Trần Văn Cẩn còn có một bức tranh khác vẽ cô thiếu nữ Minh Thúy năm 24 tuổi (1959). Khác với nét hồn nhiên trong trẻo của bức Thúy 8 tuổi, bức Thúy 24 tuổi phảng phất nỗi buồn thiếu nữ. Bà Thúy nói bức này ông Cẩn vẽ rất nhanh, chỉ một ngày là xong.Giai nhân phố cổ Hà thành

    Bà Minh Thúy chưa bao giờ cho rằng mình là một người đàn bà đẹp, vì thế bà cũng không ý thức quá về cái đẹp của mình, dù bất cứ ai, khi gặp bà cũng nhận ra gương mặt của một nhan sắc Hà thành thuần khiết, tự nhiên. Bước vào tuổi xưa nay hiếm nhưng bà vẫn giữ cốt cách thanh tao, lịch thiệp, nhẹ nhàng của người phụ nữ sinh trưởng trong những gia đình nền nếp của Hà Nội xưa.

    Là chị gái cả trong một gia đình công chức có 4 chị em ở 23 phố Hàng Cót, Hà Nội, cũng như những thiếu nữ Hà thành thời đó, cô bé Minh Thúy được nuôi dưỡng trong môi trường nền nếp. Nhắc về những nét đẹp xưa cũ, bà Thúy nói: “Người Hà Nội xưa chu đáo lắm, nền nã lắm. Trong gia đình thì bố mẹ dạy con cái rất nghiêm. Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn được mẹ chú ý sửa cách ngồi, cách cầm bát, cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn… Hà Nội xưa cũng yên bình lắm, không ồn ào náo nhiệt như bây giờ đâu”.

    Rời trường Ecole Brieux, Minh Thúy trở thành cô nữ sinh Trưng Vương hằng ngày mặc áo dài, đi guốc cao gót, cùng vú em đến trường. Nếp sống bình lặng và đều đặn đó, tạo nên tính cách bình yên của người con gái Hà Nội.

    Theo nền nếp gia đình, Minh Thúy học sư phạm và trở thành nhà giáo. Bà đã trải qua một cuộc đời dạy học khá êm đềm nhưng cũng không ít khó khăn vì đất nước những năm tháng đó đang có chiến tranh, ai ai cũng phải thắt lưng buộc bụng, chồng bà hay phải đi công tác xa, 3 con thì nhỏ dại. Cô giáo Thúy lúc dạy ở trường ngoại thành lúc chuyển về dạy ở nội thành. Hết dạy môn văn – sử – địa ở trường phổ thông, cô lại dạy nữ công gia chánh ở trường sư phạm, môn học vốn là sở trường của những người phụ nữ Hà thành khéo tay, tinh tế. Những năm đi sơ tán theo chồng trong những ngày cả đất nước chiến tranh, khốn khó, cô Thúy đã gánh trên vai gánh nặng của một người vợ hiền đảm đang, quên mình vì chồng vì con.

    Nguyên mẫu bức tranh “Em Thúy”
    Bà Minh Thúy vẫn giữ cốt cách thanh tao, lịch thiệp, nhẹ nhàng của người Tràng An xưa.
    Ảnh VIỆT VĂN
    Với bà Minh Thúy, thành quả lớn nhất mà bà nhận được cho đến giờ phút này có lẽ chính là cuộc sống yên bình, thảnh thơi bên con cháu lúc tuổi già. Ngẫm lại, sống cuộc đời lặng lẽ, ẩn danh cũng là một cách bà Minh Thúy chọn cho mình sự bình an và không phủ nhận mối lương duyên kỳ lạ với nghệ thuật đã đem đến cho cuộc đời bà những gam nóng của hạnh phúc. Nhiều nhà báo đã đi tìm cô gái nhỏ trong tranh của danh họa năm nào.Bà Thúy lưu giữ tất cả những bài báo nói về mình và mỗi khi được ôn lại kỷ niệm về “bác Cẩn” yêu quý là một lần bà trở về với những ngày tháng tuyệt vời nhất của tuổi thơ.

    Theo Nhipsonghanoi.vn
  • Việt Nam có những con MA gì?

    Việt Nam có những con MA gì?

    Ma là một khái niệm trừu tượng, là phần phi vật chất của một người đã chết (hay hiếm hơn là một động vật đã chết). Theo quan niệm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con người gồm 2 phần là thể xác và linh hồn. Khi thể xác chết, linh hồn thoát khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có con người sẽ gọi là “ma”, “hồn ma” hoặc “quỷ” (xem thêm bài viết này để hiểu rõ hơn về ma).

    Việt Nam có những con MA gì?

    Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, ma có nhiều loại với những tên gọi khác nhau tùy theo vùng miền, các loại ma phổ biến như:

    MA TRƠI

    Ma trơi hay ma chơi, là những đám lửa sáng lập lòe được nhìn thấy vào ban đêm ở những bãi tha ma. Đây là một hiện tượng tự nhiên duy nhất mà đến nay các nhà khoa học có thể giải thích được bằng tri thức khoa học, không hề thần bí như nhiều người mê tín (tưởng là ma) đã kể.

    Ma trơi là hiện tượng các hợp chất phosphor được hình thành từ hoạt động của vi khuẩn sống dưới lòng đất phần mộ (gồm hai chất đó là Phốtphin (PH3) và diphotphin) trong xương người và sinh vật dưới mồ bốc lên thoát ra ngoài, gặp không khí trong một số điều kiện nhất định sẽ bốc cháy thành lửa. Các đốm lửa nhỏ với độ sáng khá nhỏ (xanh nhạt), lập lòe, khi ẩn khi hiện. Ban đêm mới thấy được ánh sáng còn ban ngày thì các đốm lửa này có thể bị ánh sáng mặt trời che khuất.

    Hiện tượng ma trơi đuổi theo: khi gặp ma trơi, con người sẽ sợ, hoảng loạn và chạy. Khi đó sẽ sinh ra một luồng khí chuyển động làm ngọn lửa bay theo chiều gió theo hướng người chạy.

    MA GÀ

    Ma gà có tên gọi khác là ma chài hoặc ma ngũ hải, có nguồn gốc từ một số dân tộc miền núi Lạng Sơn như Tày, Nùng…Đây cũng là một trong những điều bí ẩn lớn nhất tại các bản làng vùng cao. Những người tin vào sự tồn tại của ma gà cho rằng, nó được sử dụng như một loại bùa ngải có tác dụng đem lại may mắn cho gia chủ hoặc trù ếm kẻ thù từ xa. Kẻ bị nguyền có thể gặp phải trăm vàn xui xẻo tai họa như bệnh tật, tai nạn, bị thù ghét…

    Cho đến bây giờ, chưa từng có ai biết hình dạng thật sự của con “ma gà”, tất cả chỉ dựa vào những câu truyện truyền miệng từ đời này qua đời khác, để rồi nó trở thành một hủ tục kinh dị ăn sâu vào tiềm thức những người dân vùng cao. Tất cả những người tin vào “ma gà” đều cho rằng không phải ai cũng “nuôi” được ma gà, chỉ có những người sinh ra trong gia tộc, dòng họ có truyền thống nuôi “ma” truyền lại mới có thể nuôi được. Ma gà được nuôi trong một cái hũ sành, để ở xó xỉnh tăm tối nhất, kín đáo nhất của ngôi nhà, cái hũ này sẽ được đậy kín trong mọi trường hợp. Mỗi tháng, vào một ngày nhất định, người nuôi “ma gà” phải tắm rửa sạch sẽ, khấn vái làm lễ cho “ma” ăn, thức ăn thường là một con gà sống. Nếu cứ đến ngày đó, “ma” không được ăn gì thì cũng phải “nhập” được vào một ai hoặc một con vật bất kỳ, nếu không gia chủ phải thế mạng. Ai đã bị con ma gà nhập vào, phải mời thầy cúng làm lễ trừ tà.

    MA XÓ

    Ma xó có nguồn gốc từ phong tục của các dân tộc thiểu số ở vùng thượng du Tây Bắc, tại xứ Mán, Mèo. Khi nhà có người chết thì các thầy mo sẽ bó xác chết cho cứng lại rồi bỏ vào một cái quan tài dựng đứng đặt ở góc tối của ngôi nhà (loại quan tài này được tạo thành từ một thân cây rỗng ruột). Các thầy mo sẽ cúng cơm cho ma ăn mỗi ngày và ngày nào cũng gọi tên của nó cho đến khi con ma xó trả lời lại thầy mo bằng một hình thức tương tác tâm linh đầy bí ẩn. Sau một khoảng thời gian tương đối dài, thầy mo sẽ dạy cho con ma xó cách thức giữ nhà, khi thành công thì có mở cửa nhà cũng không ai dám vào nhà mà phá phách, trộm cắp.

    Theo truyền thuyết, ma xó có uy lực rất lớn, nó có khả năng bẻ gãy cổ một người trưởng thành trong tích tắc. Khi ai đó tự ý bước vào nhà và chạm vào bất kỳ đồ vật nào của người bản xứ lúc vắng chủ, ma xó sẽ làm kẻ không mời đó trào máu ra thất khiếu mà chết đứng!

    MA LAI

    Ma lai (còn gọi là ma lai ba khoang) là một loại ma trong truyền thuyết, chuyên đi ăn phân, nội tạng của người hay súc vật. Tương truyền Ma lai 3 khoang cũng là những cô gái đẹp ở vùng Tây Bắc, khu vực giáp ranh xứ Lào, đây là những thiếu nữ cực kì diễm lệ với cổ cao ba ngấn đỏ hồng….nhưng khi gần gũi lúc nào cũng có cảm giác phảng phất mùi tanh tưởi đâu đó!

    Dân gian đồn rằng vào những đêm trăng khuyết, khi mọi người đều an giấc… chiếc đầu của cô gái này sẽ tách khỏi thân mình cùng với ba đốt sống ở cổ, mang theo cả bộ lục phủ ngũ tạng, đặc biệt là cà bộ ruột lòng thòng mà không một nhiểu máu!….Ma lai sẽ bay đi trong màn sương qua các bụi rậm để tìm phân hay hay đàm rải của con nguời thải ra mà ăn!…Nếu tìm không có thì nó sẽ tạm dùng cứt trâu còn lầy hay những xác cóc nhái chết sình trương… ma lai phải về nhập lại thân mình trước khi giờ Dần đến (trước 4 giờ sáng) vì khi có sáng mặt trời xuất hiện chiếu vào bộ ruột của nó thì con ma lai sẽ bị chết ngay lập tức!

    Cũng có người cho rằng khi lật úp cái xác của ma lại trong lúc nó đã tách khỏi xác thì con ma lai không thể nhập vào xác được mà phải năn nỉ kẻ đã úp xác nó lại…Nếu kẻ ấy muốn nó chết thì cứ để đến lúc mặt trời lên! Tự khắc từ cổ thân hình đang nằm sấp kia sẻ trào hết máu ra…lúc ấy là hết đời thiếu nữ Ma lai.!

    MA DA

    Có thể phân loài ma này thuộc quái vật nước do môi trường sinh sống là ẩn mình dưới nước. Do Việt Nam là một đất nước có hệ thống sông ngòi chằng chịt nên việc con người bị chết đuối xảy ra thường xuyên nên dân gian kể nhau nghe câu chuyện ma da để hù dọa, răn đe lũ con nít chăng?

    Loài ma da này thường được miêu tả như sau: Khi bạn bơi dưới nước nơi hoang vắng hay bơi qua một khúc sông chỉ có một mình thì ma da sẽ xuất hiện từ bên dưới, nó kéo cẳng chân bạn lôi sâu xuống dưới nước, kết quả là bạn chết ngộp. Có nơi miêu tả nó có hình dạng như một đứa trẻ con, có nơi nó như một tấm vải đen to lớn, có nơi thì ví nó có màu xanh, trơn nhớt như rong rêu bám dưới đáy sông. Nhưng dù gì đi nữa thì với tình trạng chết do đuối nước thường diễn ra thì câu chuyện về ma da sẽ vẫn được nhắc đến.

    BÓNG ĐÈ

    Bóng đè hay còn gọi là ma bóng đè không gây nguy hiểm đến con người. Theo mô tả của một số người từng bị bóng đè thì ma bóng đè có hình dáng như con người, đen như màn đêm. Khi bạn đang chìm vào trong giấc ngủ sâu thì bạn sẽ bị rơi vào trạng thái mơ màng, có thể bạn sẽ có cảm giác như thấy mình bị rơi từ trên cao xuống vực, hoặc thấy bị ai đó bóp cổ, bị chó đuổi, rắn tấn công…muốn chạy mà không nhúc nhích nổi. Có người cảm thấy như nghe có sức mạnh đè lên người mà không thể nào đẩy ra được, khó thở, có khi bị ảo giác nhìn thấy những hình ảnh khủng khiếp, hoặc nghe được âm thanh bí ẩn. Có người còn thấy hình như có ai đó đứng, ngồi bên cạnh hay cảm giác như bị đẩy ngã ra khỏi giường,… Đó là hiện tượng “bóng đè” mà mỗi người ít nhất 1 lần trong đời phải trải qua.

    Về mặt khoa học, có rất nhiều nguyên nhân khiến bóng đè xảy ra. Nguyên nhân chủ yếu là do căng thẳng tâm lý, lo lắng hay stress do sức áp từ công việc, do đảo lộn chu trình của giấc ngủ, những yếu tố tâm lý này kích thích lên vỏ não, gây ra hiện tượng bóng đè. Do tư thế nằm ngủ, người để tay lên ngực khi ngủ sẽ gây khó khăn cho việc thở và dễ bị bóng đè. Cà phê và rượu cũng là tác nhân gây nên bóng đè. Cũng có khi bóng đè là dấu hiệu của một số bệnh tim mạch, nhưng những trường hợp này chiếm rất ít.

    Ngoài những loại ma kể trên, còn có:

    Ma men là vong hồn của những người say khi chết đi thành ma vẫn thường hay lôi kéo người khác say sưa tới chết.

    Ma thần vòng là hồn ma của những người thắt cổ chết sau đó xui khiến người khác cũng thắt cổ tự tử chết như họ.

    Ma trành hay còn gọi là ma cọp dữ, thường tìm dẫn cọp bắt ăn người khác để nó được đầu thai…

    và nhiều loại ma khác như ma le, ma hời, ma lon…

    Bài viết dựa trên quan điểm của tác giả, có tham khảo nhiều nguồn thông tin khác nhau nên chỉ mang tính chất tham khảo.   https://hanhtrinhtamlinh.com

     

  • Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955

    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955

    Raymond Cauchetier là một nhà nhiếp ảnh nổi tiếng người Pháp sinh vào ngày 10 tháng giêng 1920 tại thủ đô Paris. Khi ông 31 tuổi (1951), ông cùng quân đội Pháp đến dán đảo Đông Dương và trong thời gian ông ở Việt Nam, ông đã thực hiện rất nhiều bộ ảnh về đời sống hàng ngày của lực lượng không quân Pháp cũng như những bộ ảnh về danh lam thắng cảnh và con người Việt Nam sau khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt.
    Năm 1955, ông đã cho xuất bản cuốn sách ảnh thứ hai có tên “Saigon” và những hình ảnh sau được trích từ quyển sách này của ông.

    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    NGƯỜI ĐẸP SÀI GÒN
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    MỘT ĐIỂM CHIẾU PHIM THOÁT Y Ở CHỢ LỚN (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    ĐẰNG TRƯỚC NHÀ HÁT LỚN SÀI GÒN (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    LÀM PHƯỚC Ở ĐỀN VÀ MỘ CỦA TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT HAY CÒN ĐƯỢC GỌI LÀ LĂNG ÔNG (BÀ CHIỂU) VÌ NẰM Ở KHU VỰC CHỢ BÀ CHIỂU (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    ĐỀN VÀ MỘ CỦA TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT HAY CÒN ĐƯỢC GỌI LÀ LĂNG ÔNG (BÀ CHIỂU) VÌ NẰM Ở KHU VỰC CHỢ BÀ CHIỂU (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    QUÁN HÀNG TRÀ Ở CHỢ LỚN (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    ĐI DẠO Ở VƯỜN BÁCH THẢO SÀI GÒN (1955) – NĂM 1956 VƯỜN BÁCH THẢO ĐƯỢC TU SỬA, TÁI THIẾT VÀ ĐỔI TÊN LÀ THẢO CẦM VIÊN SÀI GÒN
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    NGƯỜI ĐÀN BÀ BÁN THUỐT LÁ TRÊN VĨA HÈ (1955)
    Những hình ảnh đẹp về Sài Gòn năm 1955
    CẢNH NGƯỜI HÚT GIÓ Ở SÀI GÒN (1955)
    Nguồn: https://www.cochinchine-saigon.com/
  • Rồng trong thế giới tâm hồn người Việt

    Rồng trong thế giới tâm hồn người Việt

    Hình ảnh Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt

    Con rồng là biểu tượng tâm linh của cả thế giới phương Đông và Phương Tây. Tuy nhiên, đối với người Việt thì Rồng là một con vật linh thiêng, là biểu tượng của mưa thuận, gió hòa và khởi thủy dòng giống…
    Xem thêm nguồn gốc và các loại rồng Việt: https://hinhanhvietnam.com/nguon-goc-va-cac-loai-rong-trong-van-hoa-viet/

    Con rồng trong khai sinh người Việt

    Theo truyền thuyết, người Việt vốn là con Rồng cháu Tiên. Lạc Long Quân là con trai Long Vương, thuộc nòi Rồng, kết hôn với Âu Cơ là thuộc dòng tiên trên núi. Sự kết duyên giữa núi rừng biển, rồng tiên ấy đã sinh ra cái bọc trăm trứng, nở trăm con. Sau đó, 50 con theo cha xuống biển, khai hoang lập ấp ở các vùng đồng bằng. 50 con theo mẹ lên núi, lập nghiệp.
    Sự phát sinh đó tạo nên các dòng giống: tộc người Việt và các dân tộc thiểu số ở ở ta hiện nay. Sự liên kết đó hình thành nên nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt là Văn Lang rồi phát triển đến ngày nay.
    Do đó, người Việt và các cộng đồng dân tộc Việt đều xem Rồng là biểu tượng tâm linh lớn lao, là sự sinh thành nên mình.

     

    Rồng của người Việt

    Còn xét về văn hóa, tập quán, dân tộc Việt sinh sống chủ yếu trên khu vực đồng bằng. Đây là vùng được hình thành từ sự bồi đắp của những con sông lớn với nền văn minh lúa nước phát triển mạnh. Do vậy, người Việt đã phác họa ra hình tượng con Rồng khác biệt với Rồng của các nước khác trên thế giới.
    Rồng của người Việt là tượng trưng cho mưa thuận gió hòa cung cấp nước cho nền nông nghiệp trồng lúa, chứ không phải là những con Rồng đáng sợ, phun lửa, hủy diệt … như ở các nước phương Tây.
    Theo hình dung của người Việt, Rồng là một con vật thân dài, có vẩy, chân có móng,… được gọi là là giao long, hay thuồng luồng.
    Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt
    Hình tượng Rồng thời Lý

    Sự phát triển hình tượng rồng qua các triều đại

    Trong thời kỳ phong kiến, Rồng là biểu tượng của vua, chúa, là biểu tượng của sức mạnh, của quyền lực tối cao, cho sự tốt đẹp may mắn và thịnh vượng.
    Lý Thái Tổ lúc dời đô ra thành Đại La, thấy Rồng vàng bay lên. Vua cho là điềm may mắn liền đặt tên Đại La là Thăng Long.
    Rồng thời Lý có thân dài, 4 chân, mảnh như rắn, có vây lưng, mình uốn khúc mềm mại, uyển chuyển, há miệng vờn viên ngọc quý, từ mũi thoát ra mào rồng có dạng ngọn lửa… Đây là tượng trưng mơ ước của cư dân trồng lúa nước với  khung cảnh mây, nước.
    Đến thời Trần, Rồng được bổ sung thêm cặp sừng và đôi tay. Thân rồng mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, nhưng động tác lượn khá thoải mái và dứt khoát, mạnh mẽ với tư thế vươn về phía trước.
    Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt
    Hình tượng Rồng thời Trần
    Rồng thời Lê có sự khác biệt với các triều đại khác. Rồng thời kỳ này được khắc họa với đầu to, bờm lớn ngược ra phía sau, chiếc mào lửa được thay thế bằng chiếc mũi to, thân uốn thành 2 khúc lớn, chân có 5 móng quắp lại trông dữ tợn. Con rồng tượng trưng cho uy quyền của vương triều.
    Rồng thời Nguyễn có dáng vẻ uy nghi, tượng trưng cho sức mạnh.
    Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt
    Hình tượng Rồng thời Nguyễn

    Rồng trong đời sống tâm linh

    Rồng được cho là biểu trưng của sự mạnh mẽ, hùng tráng, là uy lực bất bại trước kẻ thù. Với tính năng siêu việt, Rồng được người Việt tin là linh vật mang lại điềm lành, sự may mắn, thịnh vượng, sự thông thái. Đồng thời, Rồng còn là sứ giả để gửi gắm những ước vọng trong đời: cầu mưa, cầu phồn thực.
    Chính từ đó, từ xa xưa đã xuất hiện nhưng câu chuyện dân gian, cổ tích truyền miệng như: Rồng hút nước biển Đông để tưới vào đất liền; Cá chép vượt vũ môn hóa Rồng; Rồng trừng trị kẻ ác để bảo vệ chúng dân, mang đến cuộc sống phồn vinh….
    Trong đời sống người Việt, hình tượng Rồng là một hình tượng không thể thiếu từ việc đặt tên các địa danh ở khắp mọi miền đất nước: cầu Long Biên, đền Long Đỗ, cầu Hàm Rồng, Bến Nhà Rồng,… Các trò chơi dân gian như: múa lân, múa Rồng, múa rối nước … cũng có nhiều tình tiết gắn với con rồng với mong muốn mang lại vận may, hạnh phúc, ấm no.

    Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt

    Sản phẩm nhẫn rồng do công ty TNHH Dịch vụ Nghề kim hoàn Thiện Chí chế tác.
    Từ trước đến nay, việc xây dựng cung điện, lăng tẩm, đình chùa, miếu… đều được các nhà địa lý xem xét tới long mạch với những trang trí, chạm trỗ, điêu khắc hình Rồng với sự uy nghiêm, sức mạnh không ai có thể so sánh được.
    Trong đời sống ngày nay, người Việt còn có một chút mê tín hóa biểu tượng của Rồng. Chẳng hạn như việc chọn năm Rồng để sinh con, chọn ngày giờ phù hợp sinh con để được quẻ Thuần Rồng,…
    Đời sống công nghiệp hiện đại có phần làm mai một hình tượng Rồng. Chỉ có những người hiểu văn hóa mới chú ý gìn giữ sự tôn nghiêm của nó.
    Tuy nhiên, chính những giá trị tốt đẹp của Rồng trong tâm thức người Việt đã đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nó.
    Rồng trong thế giới tâm hồn của người Việt
    Bút con rồng | sản phẩm được chế tác từ bàn tay khéo léo của thợ đúc kim hoàn.
    Nguồn Công ty Thiện Chí
  • Các yếu tố phi Hán trong văn hóa Việt Nam là gì?

    Các yếu tố phi Hán trong văn hóa Việt Nam là gì?

    Các yếu tố phi Hán trong văn hóa Việt Nam là gì? Tôi muốn biết thêm về những thứ thuần Việt không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài

    Chi tiết câu hỏi: “Có một trào lưu nhỏ kêu gọi đưa các ảnh hưởng Trung Hoa trở lại văn hóa Việt Nam nhưng cá nhân tôi lại thấy không mặn mà lắm với nó, nhất là khi hầu hết người Trung Quốc không muốn dính dáng gì đến Việt Nam. Dù sao thì tôi cũng chẳng thấy có gì đáng để ca tụng về văn hóa của kẻ xâm lược hết.” 
    Trả lời câu hỏi của bạn, vâng đúng là có những khía cạnh phi Trung Hoa, nhưng chúng là những thứ khá cơ bản, và thay đổi theo vùng, nếu bạn muốn thấy nhiều thứ phi Trung Hoa của Việt Nam hơn, bạn có thể sẽ muốn xem xét các sắc tộc thiểu số với văn hóa phi Trung Hoa ở Việt Nam, cùng với lịch sử của sự Tây hóa và Chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Và điều đó còn phụ thuộc vào việc bạn định nghĩa thế nào là “Trung Hoa”.
    con rong chau tien thuan viet
    Người Nhật và Triều Tiên đã “rẽ” hướng khỏi văn hóa Trung Hoa chính thống rất lâu nên giờ đây họ bắt đầu tiếp nhận và biến nó thành của riêng mình, câu chuyện tương tự cũng xảy ra ở Việt Nam, bất kể đó có phải nền văn hóa của “kẻ xâm lược hay không”. Bạn dùng từ “kẻ xâm lược” như thể người Việt không hề chấp nhận sự Hán hóa trong hơn cả ngàn năm độc lập từ triều Đinh [đúng hơn là triều Ngô] đến triều Nguyễn và họ không hề đi xâm lược hay đánh nhau với các nước láng giềng vậy. Nói đi cũng phải nói lại, người Việt không hề nhất nhất tuân thủ các tập tục của người Hán, họ nhuộm răng, ăn trầu, đi chân trần, thậm chí họ còn có tập tục cạo đầu vào thời Lý – Trần để phân biệt với người Tống, tập tục này biến mất sau cuộc xâm lược của nhà Minh với việc người Việt thời Hậu Lê để tóc dài, thời Mạc thì tôi không chắc lắm. Người Việt, trong kỉ nguyên quân chủ, đã biết chọn lọc thứ gì nên tiếp thu và thứ gì thì không, chẳng hạn, trong thời kì nhà Nguyên Mông cai trị Trung Quốc và nhà Trần cai trị Việt Nam, người Việt biết rằng người Mông Cổ là lũ mọi rợ không theo phong tục Trung Hoa, vậy nên ảnh hưởng của nhà Nguyên đã bị giới hạn một cách có chọn lọc, trái ngược với nhà Tống vốn có ảnh hưởng rất lớn lên nhà Trần. Trong thời Lý – Trần, việc nói tiếng và ăn mặc theo lề thói của các sắc dân bên ngoài vương quốc là điều cấm kị.
    Góc trên bên trái: quan lại nhà Nguyễn (Việt Nam), góc trên bên phải: quan lại nhà Joseon (Triều Tiên), góc dưới bên trái: quan lại nhà Thanh (Trung Quốc), góc dưới bên phải: quan chức nhà nước Nhật Bản
    Góc trên bên trái: quan lại nhà Nguyễn (Việt Nam), góc trên bên phải: quan lại nhà Joseon (Triều Tiên), góc dưới bên trái: quan lại nhà Thanh (Trung Quốc), góc dưới bên phải: quan chức nhà nước Nhật Bản
    Bạn có thể thấy quan lại Việt Nam ăn vận cầu kì và nhìn cao sang hơn quan lại ở 3 nước kia, vậy thì có gì không đáng tự hào? Còn để nói cho nghiêm túc thì nếu chúng tôi loại bỏ mọi truyền thống Trung Hoa ở Việt Nam, chúng tôi sẽ không còn sở hữu một nền văn hóa trình độ cao tồn tại suốt 1000 năm của độc lập tự chủ, của các cuộc chinh phục Chiêm Thành và Cao Miên, của những câu chuyện hào hùng về các vị anh hùng Trần Hưng Đạo, Lê Lợi hay Quang Trung nữa. Trừ phi bạn quả quyết tin tưởng vào những con người tiền Hán hóa, tiền Đông Sơn ở khu vực châu thổ sông Hồng, những người thậm chí không nói cùng thứ tiếng với người Việt hiện đại hoặc có thể chỉ nói vài loại ngôn ngữ tiền Nam Á nào đó, có vẻ đó là lí do người Nhật và Triều Tiên không hề tô hồng thời kì tiền Hán hóa của họ nhiều như chúng tôi, bởi chúng thật sự rất mơ hồ và mờ mịt, không có chuyện người Việt, người Nhật, người Triều Tiên không có chút tính độc đáo nào trong vòng văn hóa Đông Á. Và ồ, người Việt sẽ không còn là người Việt nữa nếu thiếu vắng những đặc điểm Trung Hoa, bản thân cái tên Việt Nam cũng có nguồn gốc từ tiếng Hán「越南」, vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn, Gia Long, đã đề nghị nhà Thanh cho phép đất nước mang tên 南越 để gợi nhớ đến vương quốc Nam Việt trong quá khứ, nhà Thanh khước từ, và thay vào đó họ cho chúng tôi cái tên 越南 Việt Nam.
    Một điều nữa mà tôi muốn nói là bạn không nên dùng từ “xâm lược” như một lập luận chính yếu như vậy, nó nghe như kiểu người Việt không hề có một cuộc chinh phục, hay nghĩa đen là sáp nhập và đồng hóa người bản địa, nào trong quá khứ, và chính ở thời nhà Lê và nhà Nguyễn mà Việt Nam mở rộng về phương Nam, và hẳn bạn cũng biết dòng văn hóa chính thống của hai triều đại này là gì rồi đúng không? Vấn đề với giáo dục lịch sử hiện đại ở Việt Nam là nó lạm dụng chủ nghĩa dân tộc làm biện pháp học tập chính, và làm méo mó hoàn cảnh lịch sử ban đầu cho phù hợp với những tư tưởng của thời hiện đại. Xâm lược hay không thì Việt Nam cũng vẫn sẽ đi theo ảnh hưởng ngoại bang, người Việt đã tiếp nhận Hán tự và Tam giáo cũng như người Miên tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và người Thái tiếp nhận văn hóa Miên cổ. Ngay cả ngày nay khi sức mạnh ngày càng lớn của Trung Quốc đang tác động đến mọi quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam, mặt khác, lại không hề phải khuyến khích văn hóa Trung Quốc, người Việt đã có sẵn hình thức văn hóa Trung Hoa của riêng họ, Việt Nam là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á đã địa phương hóa nền văn minh Trung Hoa trong hơn một ngàn năm, các triều đại của họ, văn hóa tinh hoa và thường nhật đều thừa hưởng một phiên bản văn hóa Trung Quốc được bản địa hóa và thay đổi tương tự như ở các quốc gia Đông Á. Tại sao lại phải bắt chước người khác trong khi bạn có thể trân trọng nó ngay tại đất nước này?

    Nam Phương Hoàng hậu
    Nam Phương Hoàng hậu
    nho sy

    Áo tứ thân
    Áo tứ thân
    Nữ nhạc công ở Nam Kì
    Nữ nhạc công ở Nam Kì

    Đức Từ Cung, thân mẫu cựu hoàng Bảo Đại
    Đức Từ Cung, thân mẫu cựu hoàng Bảo Đại
    Ngoài ra, để nói về cách diễn giải về lịch sử của người Việt hiện nay, sự thật là nghiên cứu sử học ở Việt Nam thậm chí vẫn còn chưa đạt đến trình độ học thuật của việc nghiên cứu
    Bài dịch của bạn Quan Le, được đăng và thảo luận trong group Quora Việt Nam: https://www.facebook.com/groups/vietnamquora/permalink/2053108068255652/
  • Chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam

    Chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam

    Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc

    1. Dân tộc không phải là một thực tại tự nhiên mà là một thực tại lịch sử. Trước khi có những tập hợp xã hội gọi là dân tộc, đã có rất nhiều tập hợp xã hội khác: gia tộc, công xã, bộ tộc, bộ lạc, lãnh chúa, nhà nước-đô thị, vương quốc, giáo triều v.v… Đến một lúc nào đó dân tộc mới xuất hiện và nó phải tổ hợp được những điều kiện căn bản sau đây để xuất hiện: một lãnh thổ và cộng đồng người hợp nhất chấp nhận sự quản lý của một nhà nước thống nhất gọi được là nhà nước-dân tộc. Cũng có thể kể thêm vào đó các yếu tố ngôn ngữ, tôn giáo, chủng tộc, phong tục, truyền thống … nhưng những nhân tố ấy không phải là quyết định: không thiếu gì dân tộc tự định nghĩa như là sự hợp nhất của rất nhiều chủng tộc, ngôn ngữ, văn hoá khác nhau. Những yếu tố này chỉ có được tầm quan trọng khi nhà nước đã xây dựng xong: nhà nước sẽ sử dụng quyền lực của mình để quy định lãnh thổ và văn hoá, hiến chế… Để trở thành dân tộc theo nghĩa đó, xã hội phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định để lãnh thổ được mở rộng, những hoạt động kinh tế đã vượt qua khỏi được tình trạng tự cung tự cấp theo kiểu bộ lạc hay làng xã để giao lưu với những dân tộc khác. Là một thực tại lịch sử, sự tồn tại của dân tộc là không vĩnh viễn, nhưng ngày nay ý nghĩa của nó vẫn còn khá quan trọng trọng đối với đời sống con người.
    2. Chủ nghĩa dân tộc đã ra đời cùng với sự hình thành của các dân tộc, nó có tác dụng vĩnh viễn hoá các thực tại dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc là một ý thức hệ. Những cái tầm thường và bình thường của đời sống dân tộc đã được tô vẽ thành ra những cái kỳ bí, cao thượng, thần thánh. Các phương thức huyễn hoặc ấy ngày nay không có gì là bí mật: tuy khác nhau và nhiều vẻ, từ cổ xưa cho đến hiện đại, từ hoang đường thần bí cho đến “khoa học”, nhưng tất cả đều dựa trên thủ đoạn lấy một yếu tố nào đó hiện thực hoặc tưởng tượng rồi thổi phồng lên thành cái duy nhất tuyệt đối, bao trùm: thiên thư, khí thiêng sông núi, chủng tộc siêu đẳng, giai cấp tiên tiến, sứ mệnh Lịch sử, v.v…
    chủ nghĩa dân tộc việt nam
    chủ nghĩa dân tộc việt nam

    Sự huyền thoại hoá ấy có thể được tạo ra từ những truyền thuyết trong dân gian, từ những tham vọng lập thuyết của những nhà trí thức, nhưng tất cả những lý lẽ tản mác ấy đều đã được các giai tầng cầm quyền gom góp lại, phát triển thêm để biến thành một thứ ý thức hệ cầm quyền. Đối với một cộng đồng, huyền thoại có thể chỉ là những mơ ước làm cho sang trọng hơn những cái không có gì sang trọng, đối với những nhà trí thức đó có thể là những giả thuyết đưa ra sau một quá trình tìm tòi; nhưng dưới sự thao túng của các ý thức hệ cầm quyền thì các huyền thoại ấy đã được sử dụng theo một mục đích mang tính chất quyền lực: hợp nhất lòng người, tập hợp lực lượng để thống nhất dân tộc hoặc là để đương đầu với những dân tộc khác. Nhưng mặt khác cũng qua đó khẳng định sự độc tôn quyền lực của các nhà nước đối với xã hội: trong phạm vi một dân tộc, khái niệm nhà nước-dân tộc là một phạm trù quản lý, tổ chức, phát triển, nhưng cũng lại là một phạm trù thống trị. Dù dưới hình thức nào thì chủ nghĩa dân tộc bao giờ cũng là sự khuếch đại về sự tối thượng của những giá trị bản vị cục bộ, địa phương, đặc thù: chủ nghĩa dân tộc chính là sự huyễn hoặc hoá về các thực tại dân tộc.

    1. Theo những nhà nghiên cứu phương Tây thì dân tộc – cũng như chủ nghĩa dân tộc – chỉ có thể là sản phẩm của thời hiện đại, manh nha sau thời Trung cổ với sự tan rã của chế độ phong kiến, để phát triển mạnh mẽ sau cuộc cách mạng Pháp 1789. Theo quan niệm đó, sự hình thành của các dân tộc cũng đồng nghĩa với sự hình thành của giai cấp tư sản với nền kinh tế tư bản công nghiệp: các vương triều – mà sau này bị cách mạng đánh đổ – thật sự lại chính là những người đã góp phần thúc đẩy sự hình thành các dân tộc bằng những cuộc mở mang lãnh địa của mình. Được luồng tư tưởng của những nhà Khai sáng tiếp sức chủ nghĩa dân tộc đã tạo ra khí thế để thống nhất đất đai, ngôn ngữ, hành chính, luật pháp, văn hoá. Nhưng đến thế kỷ 19 về sau thì chủ nghĩa dân tộc ấy đã trở thành chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc: quyện chặt vào các ý thức hệ về chủng tộc, địa lý, tôn giáo… nó tạo ra lý luận về chiến tranh giành giật thuộc địa và thống trị các nước chưa phát triển.

    Như vậy phải chăng dân tộc và chủ nghĩa dân tộc đã bắt đầu từ phương Tây với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản? Và phải chăng ở các nước châu Phi, châu Á, nơi chủ nghĩa tư bản chưa phát triển thì cũng chưa có sự hình thành của các dân tộc và cái đi kèm theo nó là chủ nghĩa dân tộc? Ở đây đã có hai vấn đề khác nhau và đối với hai vấn đề này, những nhà nghiên cứu của chúng ta đã không có câu trả lời rõ rệt: không khẳng định hẳn rằng khi những nước châu Phi, châu Á chưa có chủ nghĩa tư bản thì cũng chưa có xu hướng hình thành các dân tộc, nhưng họ lại cho rằng chủ nghĩa dân tộc ở những vùng này chỉ xuất hiện vào thế kỷ 20 với phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân để giành độc lập theo chiều hướng hiện đại hoá.

    Vấn đề dân tộc và chủ nghĩa dân tộc ở ngoài nền văn minh phương Tây vì vậy vẫn còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Nhưng nhìn vào lịch sử những dân tộc châu Á, người ta thấy dân tộc đã hình thành ngay trong thời kỳ trước khi có chủ nghĩa tư bản phát triển: ở đây sự ra đời của một nhà nước thống nhất đã là yếu tố quyết định, chứ không phải chỉ là kinh tế hay lãnh thổ. Theo nghĩa này, dân tộc Trung quốc đã hình thành từ đời Tần Thuỷ Hoàng với chính sách “đại nhất thống”, một mặt be bờ ngặn chặn “rợ” phương Bắc đồng thời đi khai hoá bọn “man” ở phương Nam: chủ nghĩa dân tộc Trung quốc ngay từ đầu đã là chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Nhưng do lẽ là một dân tộc đã biến được văn hoá thành văn minh sớm, đặc biệt đã tạo ra chữ viết thống nhất cùng với ý thức hệ cầm quyền có giá trị phổ biến (Nho giáo) rất thuận lợi cho việc xây dựng nhà nước nên văn minh Trung Hoa đã trở thành mô hình để nhiều nước xung quanh tiếp nhận. Chính là từ nguồn vay mượn tự nguyện này mà nhà nước Nhật bản hình thành vào thế kỷ thứ 7 với sự ra đời của chế độ quân chủ tập quyền, mở đầu với dòng họ Xôga sau đó được tiếp nối với triều đại Taica.

    1. Trường hợp Việt Nam không giống với nước Nhật: nền văn minh Trung Hoa tràn sang Việt Nam không phải qua con đường giao tiếp bình đẳng mà là qua chính sách đồng hoá bằng bạo lực cực kỳ dai dẳng. Để khẳng định sự tồn tại của mình, Việt Nam đã phải chiến đấu không ngừng nghỉ trong suốt hai nghìn năm. Vấn đặt ra ở đây là trong tình hình ấy dân tộc Việt Nam đã hình thành từ lúc nào? Trong sách báo bàn luận về vấn đề này, các khái niệm liên hệ vẫn chưa được biện biệt rạch ròi để có thể trả lời cho chính xác.

    Nước là khái niệm được dùng nhiều nhất để chỉ thị dân tộc, theo ý nghĩa yêu dân tộc cũng là yêu nước. Nhưng phân tích thì thấy nước có rất nhiều nội dung: có thể là một thị tộc (clan), một tộc người (ethnie), một bộ lạc (tribu) hoặc một liên minh bộ lạc. Ngoài ra nước cũng có thể hiểu như một triều đại, như nước của nhà Nguyễn, nước của nhà Lê (nhớ nước đau lòng con quốc quốc). Rõ ràng cùng một chữ nước nhưng nội dung của chúng rất khác nhau: nước-bộ lạc, nước-thị tộc với người đứng đầu là tù trưởng không thể nào đồng nghĩa với nước của một triều đại lãnh đạo bởi một ông vua. Sự biện biệt như trên là rất cần thiết để vấn đề được xác định chặt chẽ hơn: một dân tộc hiểu theo nghĩa một nhà nước-dân tộc không thể nào hình thành được trong thời tiền sử, sơ sử. Triều đại vua Hùng không thể gọi được là một “quốc gia” – dù chỉ là “phôi thai”– và dân tộc Việt Nam chỉ có thể hình thành vào thời kỳ đã giành được độc lập với một nhà nước thống nhất. Vào lúc nào? Nếu thừa nhận định nghĩa về dân tộc đã nói từ dầu thì sẽ rất dễ dàng đồng ý với những ai cho rằng dân tộc Việt Nam đã chỉ hình thành sau năm 939, khi đất nước bước vào giai đoạn tự chủ. Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam cũng đã ra đời vào cái trục thời gian đó và đã mang tính chất rất đặc sắc của chế độ phong kiến Việt Nam.

    Chủ nghĩa dân tộc phong kiến

    1. Chủ nghĩa dân tộc phong kiến Việt Nam đã dồn hết lý lẽ để khẳng định sự độc lập của Việt Nam đối với Trung hoa: thần phục Trung hoa về mặt ngoại giao, văn hoá nhưng được tồn tại riêng biệt về mặt chủ quyền và lãnh thổ. Chúng ta thấy có hai động lực bên trong đã thúc đẩy thành thái độ ấy:
    2. a) Sự cảm nhận không rõ ràng nhưng cũng rất hiển nhiên về thực tại riêng biệt của Việt Nam đối với Trung hoa. Chính sách đô hộ và đồng hoá tuy có là làm biến chất hết sức nặng nề bản sắc của Việt Nam, nhưng bản sắc ấy vẫn được bảo tồn trong tiếng nói, phong tục, thờ cúng của dân gian, trong ký ức của cộng đồng, tất cả đã biểu hiện rất rõ rệt trong những truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc. Chính đây là sức mạnh ngầm bền bĩ đã tạo nên liên tục những làn sóng phản kháng, khởi nghĩa chống xâm lược rất quyết liệt, cuối cùng giành lại được chủ quyền.
    3. b) Việc giành quyền độc lập ấy hoàn toàn không có nghĩa là phục hồi lại được cái mô hình xã hội cũ trước khi bị đô hộ: quá khứ ấy đã chỉ còn là những mảnh rời, những hoài niệm. Một mô hình mới về xây dựng văn hiến do Trung Hoa mang lại trong thời đô hộ đã trở nên một thứ hình mẫu vừa thực tế vừa tiến bộ có thể căn cứ vào đó để xây dựng nhà nước.
    4. Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ mà các sử gia đến thế kỷ 15 mới đưa vào chính sử đã chứng tỏ rằng chủ nghĩa dân tộc Việt Nam chỉ hình thành rõ rệt khi chế độ phong kiến Việt Nam đã xây dựng xong. Tính chất hỗn hợp về văn hoá trong quá trình hình thành dân tộc khi Việt Nam quan hệ với Trung Hoa đã biểu hiện qua truyền thuyết ấy như sau:

    – Thuỷ tổ của Việt Nam là Trung Hoa: Đế Minh, cháu ba đời của Viêm đế Thần nông có hai người con. Một là Đế Lai, sau này trị vì phương Bắc. Một là Lộc Tục, lai với một người con gái phương Nam, được giao cho trị vì nước Xích quỷ ở phương Nam. Lộc Tục đã cướp Âu Cơ làm vợ – bà này vốn là vợ của Đế Lai trong một chuyến đi chơi phương Nam, – sau đó sinh ra trăm con trai, 50 theo Lôc Tục đi về phía biển, 50 theo Âu Cơ lên rừng. Hùng Vương, người con trưởng của 50 người theo mẹ, chính là vị vua đầu tiên của Việt Nam.  Ý nghĩa của mối quan hệ huyền thoại về huyết thống này là rất rõ rệt: người Việt Nam chính là anh em cùng cha khác mẹ với người Trung Hoa.

    – Bờ cõi Việt Nam mà truyền thuyết nói đến vừa bao gồm là toàn bộ xứ Bách Việt đã trở thành Trung Hoa: Tây giáp Ba Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam tiếp cận Hồ Tôn Tinh (Chiêm Thành) và đó chính là toàn bộ miền Giang Nam và Lãnh Nam của Trung quốc cho đến Hoành Sơn của ta.  Tuy vậy khi xác định cụ thể 15 bộ riêng biệt của Việt Nam thì lại rất mơ hồ, tên các “bộ” ấy không thống nhất và điều đáng chú ý lại không bao gồm được toàn thể những nước Bách Việt nói trên mà chỉ là “phạm vi của miền Bắc nước Việt Nam ngày nay cùng với một dải ở miền Nam tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc” . Sự lộn xộn về địa giới này của truyền thuyết –  cùng với huyền thoại về Đế Minh người cháu ba đời của Viêm đế Thần nông nói trên – chỉ cốt chứng minh cho luận điểm: tuy ta ở phía Nam nhưng nguồn gốc của ta vẫn là Trung Hoa, sự khác nhau chỉ là lãnh thổ.  Việt Nam là người đồng chủng lẫn đồng văn với Trung Hoa vì vậy không thể bị xem là Man di, mà phải được tồn tại một cách bình đẳng như một nước chư hầu.

    1. Ý nghĩa hàm hồ của truyền thuyết bị biến thành lịch sử ấy cũng đã biểu hiện trực tiếp và minh bạch trong các phát biểu của hết thế hệ này đến thế hệ khác những nhà Nho:

    – “Người có Bắc Nam, đạo kia không khác. Nhân nhân quân tử đau đau là không có. Nước An nam tuy xa ngoài Ngũ Lĩnh mà tiếng là nước thi thư, những bậc trí mưu tài thức đời nào cũng có” (NguyỄn Trãi)

    – “Nước Đại Việt ở phía Nam Ngũ Lĩnh, là trời đã phân chia giới hạn Nam Bắc. Thuỷ tổ của ta dòng dõi Thần Nông, thế 1à trời đã sinh ra chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương” (Ngô Sĩ Liên).

    – “Khắp dưới gầm trời, suốt cả cõi đất, nơi nào không phải con cháu, dòng dõi của Ngũ đế, Tam vương? Đất phân biệt nhưng dân không phân biệt; truy nguyên cõi gốc mà nói thì loài người cũng chỉ là một mà thôi (…) Vậy thì ở đau cũng chỉ là một tổ, ở đau cũng là một thầy” (TỰ ĐỨc).

    – “Sử chép: Dân Lạc Việt không có lễ phép giá thú thì việc khác cũng có thể biết được. Hơn nữa gần đây, một vài người Giao chỉ còn sót lại, số lượng không bằng một phần trăm dân số trong nước, lại rất đần độn không biết gì, họ như người thời thái cổ. Ngoài ra những người lanh lợi khôn ngoan thì đều là hỗn hoá chủng tộc với người Hán Trung Quốc” (Phan BỘi Châu).

    1. Tất cả những cái gọi là “văn hiến”, “thi thư” mà chế độ phong kiến xây dựng nên cho đất nước suốt một nghìn năm độc lập rút lại không có gì khác hơn là mong được làm Tàu về văn hoá. Một nhà nghiên cứu đã diễn đạt hiện tượng này như sau:

    “Lịch sử của ta là lịch sử chống xâm lược phương Bắc, nhưng khi giành được tự chủ thì phải tiếp thu tổ chức hành chánh có sẵn, lại không có mô hình tổ chức nhà nước, xã hội nào khác ngoài mô hình Trung quốc.Cứ nhìn quan chế luật lệ, cách học hành thi cử cho đến nghi lễ, thể thức giấy tờ của các triều đại, từ Lí, Trần cho đến đời Nguyễn(…) thì đủ rõ văn hoá Hán lớn đến mức nào. Ta chống Trung quốc về mặt nó là kẻ xâm lược, trong tâm lý xã hội dân ta có ghét “chú chiệc”, nhưng đối văn hoá Trung quốc thì vẫn coi là cao hơn, vẫn muốn học tập và mong ta sánh được với họ. Ta vẫn coi chữ Hán là chữ ta, thánh hiền Nho gia là chung cho tất cả.Nho giáo đã được các triều đại độc lập đưa lên địa vị chính thống, nó đi vào cuộc sống, đi vào tâm hồn, từ triều đình đến làng xã, đến gia tộc, gia đình, từ chính trị đến văn hoá. Ý thức hệ chính thống không chỉ tác động đến giai cấp thống trị mà đến toàn bộ xã hội. Cho nên, không nên bỏ qua thực tế là, trong suốt thời kỳ độc lập trước đây, lòng yêu nước, tự hào dân tộc không hướng vào chỗ đoạn tuyệt với, cự tuyệt với Nho giáo mà cố gắng tham gia bình đẳng với Trung quốc Tư văn, trước thánh hiền của Nho giáo” .

    1. Thật ra, trong lĩnh vực văn hoá, không phải là không có hiện tượng khai triển, bàn bạc thêm bớt khía cạnh này nọ để địa phương hoá cái đã tiếp nhận, nhưng những nguyên lý thì không bao giờ dám đụng đến. Ngoài việc phải đánh nhau chí tử để bảo vệ lãnh thổ, nếu có đụng chạm gì về mặt này thì cũng chỉ là những chuyện tiếu lâm kể ra với nhau để chọc quê “người anh em” phương Bắc cho vui thôi. Điều này đã biểu hiện khá ngộ nghĩnh trong nền văn chương “yêu nước” bình dân do các nho sĩ chưa thành đạt sáng tác: đem chữ nghĩa thánh hiền để chơi trò chơi đó. Khác hẳn với sự trịnh trọng của văn chương cung đình, thứ chữ nghĩa được sử dụng trong các truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn… đã được dẫn ra để biếm nhẽ về sự thua kém trí tuệ của các ông sứ hoặc những ông quan Tàu so với các ông trạng Việt Nam. Nhưng điều đó chẳng có thể là bằng cớ nghiêm chỉnh biện minh được cho thái độ tự nâng mình lên hàng đồng chủng lẫn đồng văn của Việt Nam với Trung Hoa: một cách rất tự nhiên, bất cứ người Việt Nam bình thường nào, những người không bị nhiễm thứ văn hoá cầm quyền của chế độ phong kiến, cũng hiểu rằng mình không phải thuộc dòng dõi Trung Hoa và nếu văn hiến của Việt Nam là nương theo mô hình Trung hoa thì đó cũng chỉ là cái mà ta đi học của người, có thể là “cái cần thiết” bù đắp cho cái thiếu, cái mất của ta, nhưng chẳng có gì đáng tự tôn tự phụ cả. Sự lên gân ồn ào ấy thật sự chỉ là tính chất của ý thức hệ cầm quyền: nó là chủ nghĩa dân tộc phong kiến mang tính chất hai mặt của một nước nhỏ bị thống trị lâu đời – bên ngoài là sĩ diện “quốc gia”, nhưng bên trong là sự tự ti trầm trọng về sự trống vắng của nền văn hoá bản địa đã bị vùi dập sau một nghìn năm bị đô hộ.

    Chủ nghĩa dân tộc hiện đại

                   Không phải như những nhà nghiên cứu cho rằng chủ nghĩa dân tộc hiện đại của châu Á đã bắt nguồn cảm hứng từ chủ nghĩa dân tộc của phương Tây, đã sinh thành trong trong quá trình chống chủ nghĩa thực dân để giành độc lập dân tộc, chủ nghĩa dân tộc hiện đại, ở vùng đất này, đã chỉ là sự tiếp nối chủ nghĩa dân tộc phong kiến trong điều kiện lịch sử mới: khẳng định chủ quyền dân tộc với các thế lực ngoại bang, trên cơ sở đó chuyển đổi một nhà nước-dân tộc mang nội dung phong kiến, cổ truyền sang một nhà nước-dân tộc hiện đại mang nội dung công nghiệp hoá và dân chủ hoá.

    1. Ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc mới này đã bắt nguồn từ nhận thức của chính những nhà Nho, sau rất nhiều cố gắng chống thực dân để phục hồi lại vương triều cũ dựa trên ý thức hệ Nho giáo mượn của Trung Hoa. Nhận thức về một đất nước mới, đi theo con đường xây dựng mới chỉ ra đời khi toàn bộ nền “văn hiến” cũ đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trong việc chống lại sự xâm lược của phương Tây: không phải chỉ ở Việt Nam mà còn cả ở Trung Hoa nguồn cội nữa. Nhưng do bản thân nền văn hoá về quyền lực của Việt Nam là một thứ ý thức hệ vay mượn, lệ thuộc thần phục, tự mình không thể phát khởi được những canh tân để tự đổi mới, nên nhận thức về một vận mệnh mới cho đất nước của những nhà Nho Việt Nam vẫn cứ phải chạy theo đuôi Trung Hoa với những nỗ lực canh tân của họ. Nhưng dù vậy, ý chí tự trọng, tự tôn, ý chí khẳng định sự tồn tại tự chủ, độc lập của chủ nghĩa dân tộc phong kiến vẫn hết sức mãnh liệt. Đó chính là động lực thúc đẩy những nhà Nho đến chỗ nhận thức lại, dù là muộn màng, toàn bộ quá khứ theo một hệ thống giá trị khác. Đó là một ý thức tự phê phán đau đớn nhưng cũng rất dũng cảm, sáng suốt. Nó mở đường để đưa dân tộc vào một chân trời, một vận mệnh mới hoàn toàn, một cuộc cách mạng nhẩy vọt về tinh thần chưa từng có: từ giã thân phận một thứ chư hầu của người hàng xóm phương Bắc để tiếp xúc với cả một nhân loại rộng lớn, có những nền văn hiến khác, phức tạp, kỳ lạ hơn nhiều lần.  Tiếng súng đại bác của phương Tây xâm lược ở đây đã đóng vai trò thức tỉnh.
    2. Sự ra đời của một tầng lớp thị dân mới, có điều kiện tiếp xúc với những trào lưu tư tưởng khác nhau của nhân loại, đã đẩy đi rất xa những ý tưởng canh tân của những nhà Nho mở đường.  Chủ nghĩa dân tộc mới cũng đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều: nó đã bị phân hoá thành những ý thức hệ khác nhau với những quan niệm về quyền lực và phương pháp xây dựng khác nhau để hiện đại hoá đất nước: bên cạnh chủ trương duy tân bạo động còn có xu hướng cải cách ôn hoà, bên cạnh chủ nghĩa nghĩa tam dân theo gương nước Trung Hoa dân quốc cũng đã có chủ nghĩa cộng sản theo gương Nga xô viết… Những vấn đề văn hoá của Việt Nam (như lý thuyết về nguồn gốc dân tộc, mối quan hệ về văn hoá với Trung Hoa phong kiến, vấn để bản sắc dân tộc…) mà trước đây chỉ được suy lý trên truyền thuyết và huyền thoại thì nay đã được đem ra xem xét lại dưới ánh sáng của những kiến giải khoa học thực nghiệm tiếp thu được từ phương Tây (khảo cổ, nhân học, lịch sử, xã hội…), tạo ra những trường phái khác nhau với những cuộc tranh luận đưa đến những kết luận gợi mở nhiều hơn là khép lại bằng những kết luận giáo điều. Sự thần phục về tư tưởng đối với những giá trị truyền thống cũng đã được pha loãng khi đứng bên cạnh những lời lẽ cổ xuý cho nhân quyền và dân quyền, cho sự tự do của những cá nhân công dân bình đẳng trước pháp luật…  Tất cả những quan niệm mới mẻ trên đã thông qua sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân mà phổ biến vào xã hội: giống như Trung Hoa hai nghìn năm trước đây, sự thống trị của chủ nghĩa thực dân đã tạo ra cho người Việt Nam những vũ khí tinh thần để chống lại nó. Chỉ có điều khác biệt quan trọng này: thoát khỏi huyền thoại về sự đồng chủng, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam cũng đã thoát khỏi sự thần phục về văn hoá với Trung Hoa, do đó đã càng ngày càng nhận ra bản sắc của mình một cách đầy đủ hơn.
    3. Nhưng cũng chính trong cuộc tranh đấu ấy, những huyền thoại của chủ nghĩa dân tộc hiện đại đã được tạo ra. Cuộc chiến đấu chống xâm lược Trung Hoa đã được đề cao hết mức để tạo ra truyền thống chung nối kết quá khứ với hiện tại: Trung Hoa đã được mô tả như kẻ thù truyền kiếp để nuôi dưỡng lòng yêu nước chống giặc và cũng chính vì vậy mà những gì tích cực tiếp thu được trong thời bị đô hộ để sau này dựng nước có nhiều lúc đã bị làm suy giảm ý nghĩa. Những huyền thoại cũ vẫn được nhắc lại để “giáo dục thanh niên” nhưng đã mất đi nội dung nguyên sơ của nó. Nguồn gốc Viêm Đế Thần Nông của những người sinh ra dân tộc Việt Nam là Lạc Long Quân và Âu Cơ đã bị lờ đi trong việc giảng dạy để chỉ giữ lại sự thanh quý về cái gọi là “con Rồng cháu Tiên”. Sự chia rẽ từ nguồn cội về sự tương khắc của hai thứ vật tổ Rồng, Tiên ấy đã được cố ý không nhắc tới để chỉ giữ lại ý nghĩa “đoàn kết” của cái gọi là “một bọc trăm trứng”. “Niềm tự hào” Việt Nam đã được thổi phồng lên quá đáng khi người ta tìm ra được những vết tích chứng tỏ Việt Nam đã là một thực thể riêng biệt trước khi bị Tàu thống trị. Nền văn hoá Đông sơn của vua Hùng thời Lạc Việt đang còn sống đời sống của những bộ lạc đã được đẩy lên thành một “quốc gia” đã có “văn hiến”: những trống đồng đã được xem như bằng chứng không những để Việt Nam không còn là hậu duệ của Thần Nông mà còn trở thành trung tâm văn hoá của cả vùng Đông Nam Á!  Hơn thế nữa: những di vật đào được của bầy người nguyên thuỷ vào buồi đầu thời đá cũ ở Lạng sơn, Thanh hoá đã là dịp để những nhà viết sử khẳng định “Việt Nam là một trong những quê hương của loài người”, với hàm ý cho rằng người Việt Nam ngày nay cũng chính là người Việt Nam đã ở trên mảnh đất này đã có mấy vạn năm về trước, nối liền nhau một mạch, không thiên di đi đâu cả và cũng chẳng bị ai đến giành đất cả.

    Vẫn còn không ít người vẫn dốc hết sức bình sinh ra ca ngợi sự kỳ diệu của đạo Nho. Nhưng đấy không phải là thứ văn hoá Tàu mà ta học được.  Nho giáo đó chính là cái của ta, gọi là Việt Nho: trước đây ta ở bên Tàu, ta sáng tạo ra Nho giáo, sau đó ta bị Tàu đánh đuổi và chiếm đoạt mất ! Thật hết sức hào hùng nhưng cũng thật là bi thảm: bắt chước dân Do thái dựa vào Cựu ước để phục quốc, chúng ta hãy dựa vào những hoài niệm về Việt Nho ấy để phục hồi lại cái linh hồn dân tộc đã bị lạc mất mấy nghìn năm trước đây! Không ít người chia sẻ cái ý kiến đầy tâm huyết đó. Nhưng cũng không ít người chống lại: không có đạo Nho, Việt Nam vẫn có thể tự hào với những giá trị tinh thần hết sức sau sắc của mình: những hoa văn trên các trống đồng của ta – giả sử là của ta – đã chứa đựng những biểu tượng triết học cực kỳ uyên áo, cần phải được khai triển để khẳng định bản sắc. “Bản sắc” bao giờ cũng là nỗi băn khoăn dai dẳng của những nhà ý thức hệ Việt Nam. Bản sắc là tính đồng nhất của một dân tộc, nó tạo ra cái đặc trưng của dân tộc đó, không ai phủ định được. Nhưng khi bản sắc được đưa lên thành quốc hồn, quốc tuý để cổ vũ cho cái gọi là “niềm tự hào dân tộc” thì bản sắc đã trở thành ý thức hệ.  Tuy vậy, khi phải nói rõ cái bản sắc đáng tự hào ấy là gì thì bàn luận mãi người ta vẫn không thể nào vượt thoát ra mấy sáo ngữ yêu nước thương nòi, nhân ái, cần cù, lạc quan, thiết thực… Và để có được những danh từ ấy, có người đã sử dụng phương pháp so sánh đối lập những phạm trù trừu tượng và giả tạo như Đông/Tây, Nam/Bắc. Ta là Đông cho nên ta thâm trầm, tổng hợp, trực giác, còn họ là Tây nên họ thiên về phân tích, duy lý, duy vật… Ta là Nam cho nên ta là nông nghiệp, ấm áp, tình cảm, lãng mạn, thiên về nữ tính, còn họ là Bắc nên họ là du mục, lạnh lẽo, lý trí, cứng cỏi…Chủ nghĩa địa lý, chủ nghĩa khí hậu, chủ nghĩa chủng tộc ở đây đã góp phần củng cố cho các quan niệm thiên lệch về bản sắc. Đó không phải là lý thuyết tương đối văn hoá trong quan niệm của những nhà nhân loại học: đó là sự đề cao một cách phiến diện về sự độc đáo của những bản vị cục bộ. Thái độ tự nhận tức lại mình, phê phán những tiêu cực lạc hậu trong truyền thống một thời được những nhà Nho duy tân phát khởi và một số nhà nghiên cứu tiếp nối dần dà đã bị gác lại để cổ xuý cho những thứ suy lý về bản sắc theo cung cách đó.  Thiên hướng ca ngợi quá đáng này, nếu đã diễn ra có chừng mực trong giới nghiên cứu độc lập thì lại trở thành sự hô hào hết sức ồn ào trong những cương lĩnh của các thế lực chính trị, nhất là khi các thế lực ấy đã có điều kiện để bước lên vị trí cầm quyền.

    Lược trích từ: http://www.viet-studies.net

  • Vài nét sinh hoạt của người Sài Gòn xưa

    Vài nét sinh hoạt của người Sài Gòn xưa

    Trong tác phẩm La geste française en Indochine (Thành tích của người Pháp tại Đông Dương), Georges Taboulet xác nhận rằng vào năm 1859, trước khi lọt vào tay quân Pháp, Sài Gòn chưa phải là một thành phố đúng nghĩa, mà chỉ là một khu vực quần tụ của 40 làng mạc nằm kề nhau và không có một tổ chức chung. Thực ra, trong tổ chức của chính quyền Đàng Trong, từ năm 1698, Sài Gòn đã ở trong một cơ cấu hành chính ổn định (thuộc huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn). Dù sao cách nhận định của Taboulet cũng cho ta ý niệm rằng sinh hoạt của người Sài Gòn trước thập niên 1860 còn rời rạc, thiếu tính chất quy mô, gắn bó của một cộng đồng có tổ chức chặt chẽ.

    Tháng 8 năm 1861, Đề đốc Bonard thay thế Phó Đô đốc Charner trong cương vị tư lệnh quân viễn chinh Pháp. Viên tướng hải quân này bắt tay vào việc chỉnh trang Sài Gòn theo một kế hoạch tương đối quy mô do một trung tá công binh thực hiện. Nhiều con đường lớn bắt đầu xuất hiện và từ sau năm 1863, nhiều kiến trúc kiên cố mọc lên như dinh Đổng lý Nội vụ – còn gọi là dinh Thượng thơ (1864), dinh Thống đốc (1868), Nhà thờ lớn (1877)… Đến năm 1865, Sài Gòn đã có 15,350km đường lộ, hai bên đường đều có trồng cây, thường là me, bàng hay tếch. Ban đêm, chính quyền thực dân cho thắp sáng các con đường bằng đèn dầu dừa.

    Theo nhận định của một số tác giả Pháp, nhờ mạng lưới sông ngòi chằng chịt, khả dụng quanh năm, Sài Gòn có một hệ thống thủy văn hoàn hảo nhất, giúp cho việc canh tác lúa và các hoa màu khác đạt hiệu quả cao, đồng thời cũng là phương tiện giao thông quan trọng từ các nơi khác đổ về. Đó cũng là lý do khiến một số khá lớn người dân Sài Gòn xưa sống chủ yếu ven sông rạch để tiện việc đi lại, mua bán. Trong những thập niên 1860-1870, phương tiện di chuyển chủ yếu của người Sài Gòn là ghe thuyền, đậu chật ních các bến sông. Phương tiện đường thủy này dùng chuyên chở hàng hóa từ các vùng xa đến Sài Gòn mua bán, một số dùng đưa rước khách sang sông hay di chuyển trên những quãng sông ngắn. Trên bộ, phần lớn cư dân đi bộ, những nhà giàu có sử dụng xe kiếng (malabare). Loại xe này không rõ bắt đầu xuất hiện từ năm nào nhưng đã thấy đề cập đến trong hồi ký Un an de séjour en Cochinchine (Một năm lưu trú ở Nam kỳ) của một dược sĩ Pháp tên là M. Delteil, xuất bản tại Paris năm 1887. Xe có bốn bánh, do một ngựa kéo, thùng xe bằng gỗ có cửa kính để khách ngồi trong xe có thể nhìn thấy quang cảnh trên đường đi; điều khiển xe thường là người Mã Lai, gọi là xà ích (sais, gốc tiếng Mã Lai). Đến cuối thập niên 1880, Sài Gòn, Chợ Lớn bắt đầu có xe kéo, làm phát sinh thêm một thành phần mới trong xã hội thuộc địa là phu xe kéo. Người ta còn đọc thấy trong biên bản họp của Hội đồng thành phố vào ngày 20.1.1888 một tờ trình cho viên đốc lý Sài Gòn, đề nghị cho lưu hành xe kéo tại Sài Gòn vì ở Chợ Lớn, chính quyền đã cho loại xe này hoạt động rồi.

    Thời trang của phụ nữ Sài Gòn xưa
    Thời trang của phụ nữ Sài Gòn xưa

    Điểm đáng lưu ý là sau khi Pháp đánh chiếm toàn bộ Nam kỳ và chính thức thuộc địa hóa vùng này bằng hòa ước Giáp Tuất 1874 ký với triều đình Huế, số người châu Âu, nhất là người Pháp, đến Sài Gòn ngày càng đông. Vào thập niên 1880, khách sạn nổi tiếng của Pháp ở Sài Gòn là Favre do một người Pháp tên là Favre khai thác. Khách sạn nằm trên đại lộ chính Catinat giới hạn bởi hai con đường Bonard và d’Espagne (Lê Lợi và Lê Thánh Tôn ngày nay), một trong những nơi náo nhiệt nhất Sài Gòn lúc bấy giờ.

     

    Sự hiện diện của một số người Âu sống trong khách sạn hoặc thuê nhà riêng làm phát sinh một số nghề mới trong cư dân bản xứ. Trước tiên là nghề giúp việc nhà và nghề làm bếp cho Tây. Giúp việc nhà thường là người Việt, tuổi khoảng 18-20, được chủ Tây gọi là “boy” (cậu con trai), nghe quen thành ra “bồi”. Công việc của người này là hầu bàn, lo nước tắm, dọn phòng và cả kéo quạt nữa, với mức lương từ 6 đến 8 đồng mỗi tháng, chỉ bằng 1/4 đến 1/5 tiền ăn hàng tháng tại khách sạn của một người Âu. Đầu bếp nấu ăn cho Tây thường là người gốc Hoa, lương từ 8 đến 10 đồng/tháng. Họ làm quen rất nhanh với cách nấu ăn của Tây và biết chiều theo sở thích của chủ. Thông thường người đầu bếp đến nhà của chủ làm những công việc theo thỏa thuận, đến chiều họ trở về nhà, sau khi nhận từ tay chủ khoản tiền đi chợ sáng hôm sau, vào khoảng 0,60 đồng đến 1 đồng cho hai người ăn. Nếu gia đình người Âu có con nhỏ cần người giúp việc là phụ nữ, họ liên lạc với trường Sainte-Enfance để các “sơ” (soeur) ở đây cung ứng người của trường. Những gia đình đông đúc, cần di chuyển thường xuyên sẽ sắm một xe kính và thuê một xà ích lương từ 12 đến 20 đồng/tháng, không ăn cơm chủ. Khách ở khách sạn thường được chào mời bởi một đội ngũ những người bản xứ làm nghề giặt là, cắt may, đóng giày,… Công giặt ủi (là) một bộ quần áo khoảng 2,5 đồng và nghề giặt ủi phát triển mạnh trên đường Catinat. Trong nghề may quần áo và đóng giày, người Tàu có nhiều ưu thế hơn người Việt. Một bộ complet thêm áo gilet, cả công may lẫn vải khoảng 8 đồng, được đánh giá là khá rẻ.

    Sinh hoạt của những người Âu vào cuối thế kỷ XIX khá đơn điệu. Họ dậy lúc 6 giờ sáng, làm vệ sinh và đi làm cho đến 10 giờ. Bữa ăn trưa diễn ra lúc 10 giờ 30 phút, dưới những chiếc quạt kéo, vì lúc đó trời đã bắt đầu nóng nực. Giữa trưa, họ lên phòng và kéo dài giấc ngủ trưa đến 2-3 giờ chiều. Lúc này, Sài Gòn rất yên lặng, cửa hàng đóng cửa im ỉm, cửa nhà cũng không mở. Từ 2-3 giờ chiều, thành phố thức giấc, mỗi người quay lại công việc đang chờ cho đến 5 giờ chiều mới trở về nhà. Đó là lúc mà thành phố tỏ ra náo nhiệt nhất.

    Sài Gòn thập niên 1880 có vẻ thích hợp với câu nói mà người ta thường gán cho Paris. Đấy là “thiên đường của phụ nữ và địa ngục của loài ngựa”. Thực vậy, chỉ riêng Sài Gòn lúc đó đã có đến 400 chiếc xe ngựa cho thuê! Bữa cơm tối của người châu Âu tại Sài Gòn bắt đầu lúc 19 giờ 30 phút, khi màn đêm đã buông xuống hoàn toàn. Sau đó, phần lớn thanh niên và những người độc thân đến các câu lạc bộ hay vào các quán cà phê, ngồi uống bia ướp lạnh và có khi vui chơi đến sáng. Từ khi tình trạng vệ sinh ở Sài Gòn được cải thiện, nhiều phụ nữ người Âu kéo sang Việt Nam sống cùng với gia đình; sinh hoạt ở các câu lạc bộ hay quán cà phê lắm lúc được chuyển về những gia đình hiếu khách. Ở đó, họ nghe nhạc, nói chuyện, đánh bài và thường thì buổi gặp gỡ kết thúc bằng một cuộc khiêu vũ kéo dài đến nửa đêm. Ngoài những buổi họp mặt thân mật như thế, hàng năm có một hoặc hai buổi khiêu vũ đông người, dành cho giới trẻ trong thành phố và một buổi khiêu vũ chính thức tổ chức tại dinh Thống đốc Nam kỳ.

    Tại sao gọi Sài Gòn là Hòn Ngọc Viễn Đông?

     

    Cuộc sống của người Âu là cả một thiên đường so với những người dân đang sống chen chúc trên các sông rạch hoặc dãi dầu trên ghe thương hồ rày đây mai đó. Số người kiếm được bơ sữa của Tây bằng nghề bồi bếp không bao nhiêu so với người dân Sài Gòn “đầu đội trời, chân đạp đất” kiếm sống hằng ngày. Đầu thế kỷ XX, có một phụ nữ Anh lấy chồng là bác sĩ thuộc địa người Pháp, chỉ sau đám cưới vài tuần lễ đã phải theo chồng sang công tác ở Viện Pasteur Nha Trang. Trong những ngày sống ở Sài Gòn chờ ra Nha Trang, bà Gabrielle M. Vassal đã có dịp quan sát sinh hoạt tại thành phố này và miêu tả trong tập hồi ký Mes trois ans d’Annam (Ba năm sống ở Việt Nam của tôi). Khi mới đến thành phố, Vassal đã di chuyển bằng xuồng tam bản và một trong những bối rối đầu tiên của bà là không làm sao phân biệt được giới tính của những người chèo xuồng. Họ ăn mặc gần như nhau, chỉ có những khác biệt nhỏ mà phải sau một thời gian, Vassal mới phân biệt được. Thời đó, người Sài Gòn, nam cũng như nữ, đều mặc quần dài và áo rộng, tóc cũng đều cuộn lại thành búi tó. Quan sát kỹ mới thấy ở phụ nữ, búi tó nằm ở vị trí cao hơn, phía trên đầu, chiếc áo rộng cũng dài hơn. Về vóc dáng người Sài Gòn đầu thế kỷ XX, đàn ông ít khi vượt quá 1,60m chiều cao, phụ nữ còn thấp bé hơn nữa. Mặc dù vậy, họ là những người chèo xuồng rất thiện nghệ. Các phu kéo xe cũng thế, họ có thể kéo dễ dàng một người Âu nặng gấp đôi trọng lượng cơ thể họ.
    Với sự hiện diện của nhiều người Âu, cảnh chợ búa ở Sài Gòn cuối thế kỷ XIX diễn ra khá náo nhiệt. Phía ngoài chợ là cửa hàng của người Ấn Độ mà có người gọi là Matabar. Họ bán đủ loại hàng hóa, nhất là vải vóc. Cách buôn bán của họ không giống người Tàu. Khách hàng của họ nhiều nhất là phụ nữ. Buổi sáng, chợ là một tập hợp của rất nhiều người, đủ mọi sắc tộc, các đầu bếp người Tàu và An Nam, người đổi tiền Ấn Độ…

    Để làm sạch đường phố trong mùa khô, chính quyền thành phố Sài Gòn cho xe đi tưới nước trên đường mỗi ngày hai, ba, thậm chí bốn lần. Đến thập niên 1880, đường phố Sài Gòn đã có 5 đại lộ, 39 đường và 3 bến tàu, dài tổng cộng 36,635km; so với năm 1865, đã tăng thêm hơn 20km. Trước năm 1878, nước uống của cư dân thường lấy từ các giếng đào cạn hay sông, rạch nên không đảm bảo vệ sinh. Sau này, chính quyền thực dân Pháp cho lấy nước từ một con suối, đưa vào bể lọc và cung cấp cho dân thành phố mỗi ngày 16.000m3 nước. Năm 1878, một tháp nước khổng lồ được xây dựng ở đầu đường Catinat, tại vị trí nay là Hồ Con Rùa. Tháp nước này tồn tại được 48 năm, đến năm 1921 thì bị phá hủy.

    Ở Sài Gòn đầu thế kỷ XX, mỗi chiều người ta thấy từng tốp công nhân bản xứ trên đường đi làm về. Nổi bật trong số họ là các “thầy thông ngôn”, không búi tó như hầu hết dân bản xứ. Họ đã húi tóc ngắn (như phong trào cúp tóc năm 1907), mặc quần dài trắng, mang giày tất ngắn, đầu đội khăn nhiều nếp. Các nông dân mặc quần dài trắng, áo rộng màu xanh sẫm, đôi khi vá chằng vá đụp. Họ đi hàng một bên đường, người này bước sau người kia, chân không mang giày dép gì cả. Một vài người cầm trên tay một đôi giày păng-túp (pantoufle) kiểu Tàu mà họ cố để dành cho những dịp trọng đại, tay kia cầm một chiếc dù che trên đầu. Đối với người nông dân ở Sài Gòn thời đó, có một chiếc dù, loại dành cho các quan lại khi xưa là một điều hãnh diện lớn. Còn công nhân làm ở các hãng xưởng thì thay cho chiếc khăn quấn quanh đầu như các thầy thông ngôn là một chiếc khăn mùi soa (mouchoir) hoặc một mảnh vải nhỏ quấn vụng về trên búi tó.

    Sài Gòn xưa và mốt thời trang vượt thời gian

     

    Phụ nữ Sài Gòn xưa cũng như đàn ông, không bao giờ đi sóng đôi trên đường. Từ chợ về, họ gánh hai chiếc giỏ cân bằng nhau nên bước chân vẫn nhẹ nhàng. Để đổi chiếc đòn gánh qua vai khác, họ chậm bước chân lại, cúi đầu xuống và đưa chiếc đòn qua cổ, ít khi chịu đặt quang gánh xuống đất. Những phụ nữ bản xứ có mức sống cao thì ngồi xe kéo, đầu đội một chiếc khăn bằng lụa màu nhạt hoặc dùng một cái trâm bằng vàng cài lên chiếc búi tó đen nhánh. Khi mặt trời đã ngã về Tây, các gia đình người Việt ở Sài Gòn tụ họp trước ngôi nhà nhỏ, bên cạnh mâm cơm. Nếu bữa cơm đạm bạc chưa được người nội trợ lo xong thì người cha hay người đàn ông trong gia đình lo việc bồng ẵm đám trẻ nhỏ. Lúc trời đã tối mịt, người ta đốt đèn dầu trên các bàn thờ và thắp hương. Tất cả vào nhà đóng cửa lại. Sự im lặng của khu xóm thỉnh thoảng bị phá vỡ bởi tiếng khóc của một đứa trẻ và lời ru nhè nhẹ của người mẹ.

    SG, 29.11.2017

    Nguồn: Trích từ sách ĐẤT SÀI GÒN VÀ SINH HOẠT CỦA NGƯỜI SÀI GÒN XƯA

  • Quy trình làm tranh Đông Hồ

    Quy trình làm tranh Đông Hồ

    Auto Draft

    Gà thư hùng

    Những bức tranh Gà, Lợn, Hứng dừa, Đánh ghen… mộc mạc, dân dã mà cuốn hút, níu kéo, đã tạo thi hứng cho nhà thơ Hoàng Cầm viết câu thơ nổi tiếng : «Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong. Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp… ». Đã từ lâu, câu hỏi : « Các nghệ nhân Đông Hồ đã làm tờ tranh điệp như thế nào » luôn trăn trở với người yêu tranh. Dưới đây là những  chia sẻ cùng bạn đọc qui trình làm tranh Đông Hồ với các công đoạn: ra mẫu, cắt ván, chuẩn bị nguyên vật liệu và in tranh.

    1. Ra mẫu

    Đây là công việc của nghệ  nhân sáng tác. Từ xưa đến nay, bao giờ cũng vậy, trong làng chỉ có một vài nghệ nhân ra mẫu. Nghề làm tranh là nghề của cả làng, ông thợ cày, bà thợ cấy, các em thiếu nhi, các cụ già – đều biết làm tranh, nhưng là làm những việc như in, quét điệp, hay nhặt nhạnh, phơi phóng – chứ không thể sáng tác. Một điều cần nhấn mạnh là cùng được gọi là Nghệ nhân, nhưng nghệ  nhân sáng tác thì khác xa nghệ nhân cắt ván và lại càng xa hơn nghệ nhân chỉ biết in tranh (cũng có những nghệ nhân làm được tất cả các việc). Các nghệ nhân sáng tác thường là những nhà nho có học, am hiểu văn hoá, lịch sử, xã hội, có tài quan sát, có khiếu thẩm mỹ… Chính vì thế, tranh Đông Hồ có nội dung rất phong phú, không chỉ thể hiện cảnh sinh hoạt ở nông thôn  hiện tại  mà  còn có nhiều tranh về lịch sử, về tôn giáo và có nhiều tranh mang tính triết lý sâu sắc. Trên tranh  thường có chữ Hán, chữ Nôm, sau này có cả chữ quốc ngữ. Giống với các loại hình văn hoá dân gian khác, tranh Đông Hồ cũng do các nghệ nhân không được đào tạo qua trường lớp sáng tạo nên. Lúc đầu mỗi bức tranh  chỉ do một nghệ nhân vẽ mẫu, sau khi vẽ, nghệ nhân có thể treo tranh lên vách để mọi người cùng xem và góp ý, cho dù nghệ nhân có sửa tranh theo sự góp ý nào đó – thì cũng không thể coi bức tranh đó là sáng tác tập thể được. Thực tế thì tác giả đã nghiền ngẫm rất kỹ, nếu có thay đổi chút ít thì thường cũng từ ý kiến của một ông bạn nhà nho tâm đắc. Thế nhưng, thời xưa ở ta chưa có khái niệm bản quyền, những tranh mới  mà bán chạy, lập tức nhà khác “xin “ mẫu ngay. Khi cắt ván, nghệ nhân điêu khắc  có thể làm thay đổi chút ít – làm tranh khác với nguyên mẫu. Hoặc thời gian trôi qua, các thế hệ sau thêm chữ (hay bớt chữ), hay thay chữ nho bằng chữ quốc ngữ (hoặc ngược lại), vì những lẽ đó  ta thường bắt gặp cùng một tranh có nhiều dị bản.

    Có một điều đặc biệt là vào thời kì chưa xa lắm, trong số các nghệ nhân sáng tác nổi tiếng, còn được lưu danh đến ngày nay, không có ai là nông dân theo đúng với nghĩa của từ này. Họ ở nông thôn nhưng không biết cầy cấy, lúc nhỏ tuổi thì đi học, học qua tuổi thanh niên, không đi thi, hay thi không đỗ về nhà dạy học, vẽ tranh, sau này thì vẽ thêm hàng mã. Đó là các nghệ nhân: Nguyễn Thể Thức (1882 – 1943), Vương Chí Long (1887 – 1944 – còn gọi là cụ đồ Long),  Nguyễn Thể Lãm (1910 – 1978), Phùng Đình Năng (1912 – 1993), Vương Chí Lương (1916 – 1946).

    Xưa các cụ sáng tác tranh thường có đôi – như đôi câu đối. Có bốn kiểu đôi tranh: Kiểu thứ nhất: Hai tranh hoàn toàn đối xứng nhau (đối xứng trục), chẳng hạn hai con lợn châu đầu vào nhau. Kiểu thứ hai: Hai tranh cũng đối xứng trục nhưng trên mỗi tranh có chữ khác nhau. Chẳng hạn tranh “Tiến tài”  – có đôi của nó là “Tiến lộc”. (Hai vị thần đối xứng nhau nhưng chữ trên mỗi tranh khác nhau). Kiểu thứ ba: Sự đối xứng không còn thực hiện nghiêm ngặt nữa, đối ý là chính. Chẳng hạn, em bé ôm gà và em bé ôm vịt (phú quí, vinh hoa), hay em bé cầm quả đào và em bé cầm quả phật thủ. Kiểu thứ tư: Chỉ đối ý, loại này nhiều tranh nhất: Hứng dừa – đánh ghen, Đu đôi – bắt trạch, Trưng Vương khởi nghĩa – Triệu Ẩu xuất quân, Trai tứ khoái – gái bảy nghề v.v… Đôi khi hai tranh đối xứng được vẽ thành một – như “Phúc lộc song toàn” hay “Lý ngư  vọng nguyệt”.

    Lúc ra mẫu, đầu tiên các nghệ nhân vẽ phác  lên  giấy dày, sửa chữa đến khi ưng ý thì can lên một tờ giấy dó loại rất mỏng. Có một số tranh  tác giả lật mặt sau lên, tô lại,  được một đôi tranh đối xứng nhau. Nếu thi hứng dâng trào thì tác giả lại viết  thêm chữ hoặc câu đối lên tranh. Nghệ nhân vẽ mẫu thường cũng hay vẽ tranh chơi (vẽ trực tiếp, không phải in). Tranh mẫu để cắt ván khác hẳn tranh vẽ chơi ở chỗ: đường nét đơn giản, rõ ràng, không quá nhiều chi tiết gây rối và khó cắt ván, tranh in ra không đẹp.

    2. Cắt ván  (đúng nghĩa là « khắc ván » nhưng người Đông Hồ quen gọi là « cắt ván »)

    Số nghệ nhân cắt ván không nhiều lắm nhưng đông hơn số nghệ nhân sáng tác. Trước  hết họ làm một tấm gỗ thật phẳng. Gỗ thị, gỗ mực thường làm ván nét (nét đanh, bền lâu), gỗ vàng tâm làm ván màu (mảng to hơn, không cần phải “đanh” lắm, mà gỗ vàng tâm mềm hơn, dễ khắc). Sau đó quét hồ lên, dán úp tờ mẫu vào, quét lại  một lượt bằng “thét” (một loại chổi thông sẽ nói ở phần sau) không có hồ, toàn bộ mẫu tranh đã hiện lên mặt sau tờ tranh. Khắc xong, khi in ra tranh sẽ giống như tờ mẫu, (nếu dán ngửa tờ mẫu vào rồi khắc, tranh in ra sẽ ngược với mẫu, chữ không đọc được). Nghệ nhân cắt ván có bộ đồ nghề như của thợ mộc, nhưng nhỏ hơn, sắc bén hơn. Họ đục nét  trước rồi “dãy” mảng sau, cứ như vậy cho đến khi hoàn thành bản đầu tiên gọi là ván nét. Nét khắc trên ván này thường to đậm, sâu và đứng thành.

    Tiếp đến  là việc phân màu, công đoạn này nghệ nhân cắt ván  kết hợp với nghệ nhân ra mẫu cùng làm. Họ in ra một bản nét, dùng bút lông tô màu từng mảng – thường mỗi tờ tranh có từ ba đến bốn màu và đường viền (contour)  màu đen, sau đó lấy tờ giấy dó mỏng đặt lên trên, tô lại mỗi mảng màu đó một bản, rồi lại làm như với ván nét – được các ván màu. Để các ván này in ra khớp với nhau, người ta để lại ở mỗi ván hai chấm ở  bên trái, sát mép gỗ – gọi là “cữ”.

    Đến thời kỳ tranh bộ, mỗi bộ có bốn tờ dài, mỗi tờ có khi phải làm ba, bốn ván in như vậy mỗi bộ tranh có thể có 16 ván. Còn có một loại gọi là tranh chủ (vẽ các đồ thờ cúng – dùng để dán lên bàn thờ), gồm một tờ to, kích thước khoảng 80 x 120 cm và bốn tờ nhỏ 20 x 120 cm. Bộ ván in tranh này có thể tới 24 tấm ván in.

    Đầu thế kỷ XX có các nghệ nhân cắt ván giỏi còn lưu danh như: Nguyễn Đăng Tuỵ, Nguyễn Đăng Mưu, Nguyễn Thế Bân, Hà Văn Tư…

    3.Chuẩn b nguyên vật liệu

    • Giấy dó
      Auto Draft

    Đây là loại giấy được sản xuất bằng phương pháp thủ công từ cây dó. Nghiên cứu tại các cơ sở sản xuất giấy dó ở Việt Nam cho thấy, về cơ bản, giấy dó sản xuất thủ công, không có tác động hoá chất tạo a-xít trong giấy. Vỏ cây dó được nấu và ngâm trong nước vôi với thời gian ba tháng, bóc bỏ lần vỏ đen đi, giã bằng cối và chày rồi dùng chất nhầy từ cây mò (chi Clerodendrum) tạo hỗn hợp kết dính. Hỗn hợp này gọi là “huyền phù” mà người thợ sẽ pha với nước độ lỏng hay đặc tùy theo loại giấy. Khi seo giấy, người thợ dùng “liềm seo” (khuôn có mành trúc, nứa hay dây đồng ken dày) chao đi chao lại trong bể bột dó. Lớp bột dó trên liềm chính là tờ giấy dó sau khi kết thúc công đoạn ép, phơi, sấy, nén hay cán phẳng. Xơ dó kết lại với nhau, như cái mạng nhện nhiều lớp, tạo nên tờ giấy dó. Sự kết mạng như vậy đã làm cho tờ giấy xốp, nhẹ. Sau cùng là phơi hoặc sấy. Các công cụ sản xuất hầu như bằng tre, gỗ và dùng ánh sáng tự nhiên để làm khô giấy. Giấy dó được sản xuất theo quy trình này không có độ a-xít dẫn đến tuổi thọ cao. Một số tài liệu cho rằng giấy dó có độ tuổi thọ tới 500 năm.

    Giấy dó có nhiều loại từ rất mỏng đến rất dầy, gọi là bóc một, bóc đôi, bóc ba v.v… Đông Hồ không làm giấy này mà mua ở Đống Cao – huyện Yên Phong cùng tỉnh hoặc làng Hồ Khẩu- ven Hồ Tây Hà Nội. Giấy để in tranh thường người ta chọn loại bóc ba hoặc bóc tư – không dầy quá, cũng không mỏng quá. Thời xưa giấy dó thường có khổ khoảng 25 x 70 cm, các nghệ nhân Đông Hồ  chia tranh thành ba loại theo khổ giấy:

    – Tranh phá đôi: Tờ giấy dó pha đôi, kích thước khoảng 25 x 35 cm.

    – Tranh phá ba: Tờ giấy dó pha ba, kích thước khoảng 25 x 23 cm – còn gọi là tranh vuông.

    – Tranh phá tư: Tờ giấy dó pha tư, kích thước khoảng 25 x 17 cm – còn gọi là tranh lá mít.

    Việc rọc giấy được thực hiện bằng thanh nứa hoặc dao cùn làm các mép giấy xơ ra cho thêm phần dân dã.

    • Điệp

    Ở vùng biển Quảng Ninh  có một loài nhuyễn thể, màu trắng gọi là con điệp. Người Đông Hồ mua vỏ điệp – đã vôi hoá qua thời gian, đổ từng đống lớn ở sân, lấy bùn trát ra ngoài, ủ độ một hai năm thì lấy ra cho vào cối giã nhỏ, dần kỹ, loại bỏ những mảnh to, cứng rồi cho vào bể ngâm vài ngày, lọc một lần nữa rồi bỏ ra đạp bằng chân  hoặc cho vào cối lấy chày xoáy – chứ không giã, gọi là “lèn điệp”. Đến khi điệp quánh lại  thì nắm thành từng nắm to bằng vốc tay, phơi thật khô rồi cất đi dùng dần. Khi làm người ta tán nhỏ ra, trộn với hồ nếp và màu, quét lên giấy dó, được một màu nền lấp lánh vảy điệp.

    • Những màu thiên nhiênAuto Draft

    – Màu xanh: Vùng đồng bào dân tộc Tày, Nùng có cây Chàm vẫn để nhuộm vải, người Đông Hồ mua về, bỏ vào chum, vại ngâm từ vài tháng đến một năm, lọc bỏ cặn, được thứ bột  dẻo quánh màu xanh lá cây già. Đó chính là cây chàm mèo hoặc chàm lá to có tên khoa học là Strobilanthes Cusia. Đây là loài cây nhỏ lưu niên, hoa mọc so le hay mọc đối, tràng hoa màu lam đến tím. Không chỉ có công dụng nhuộm vải, cây chàm còn là một cây thuốc quý dùng trong nhiều bài thuốc Đông y. Khi cây chàm đã lên xanh tốt, lá được hái, bỏ vào thùng nước, ngâm cho đến khi mục rữa. Sau đó xương lá chàm được vớt ra, nước trong thùng được quấy lên đến khi sóng sánh màu xanh rồi chờ tinh bột lắng xuống thì gạn ra đem phơi khô và cắt thành miếng cho tiện dùng. Khi nhuộm chàm, thợ nhuộm lấy tinh bột chàm (đã phơi khô) hoà với nước. Tạp chất này tạo ra một loại vi khuẩn tựa như dấm thanh, để tinh bột chàm “cắn” vào vải làm nên màu bền lâu phai.

    – Màu đỏ đất:  được lấy từ  đất đỏ (dạng đá ong non) ở vùng trung du Gia Lương, Quế Võ. Loại này phải ngâm kỹ hơn, có khi tới vài năm, màu đỏ ngả nâu.

    – Màu đỏ vang: Gỗ vang được trẻ nhỏ, đun kỹ, gạn lấy nước đặc được màu đỏ tươi hơn đỏ đất. Tô mộc, còn có các tên gọi khác là vang, tô phượng, vang nhuộm, co vang, mạy vang (tên khoa học: Caesalpinia sappan), là một loài thực vật thân gỗ nhỏ, cao khoảng 5-10 mét, cho gỗ rất rắn, có màu đỏ nâu ở phần lõi và trắng ở phần ngoài, được tìm thấy ở khu vực Đông Nam Á. Gỗ này trong tiếng Anh gọi là Brezel wood. Gỗ tô mộc đã từng là một trong các mặt hàng chủ yếu trong buôn bán giữa người Nhật Bản và người khu vực Đông Nam Á (đặc biệt là Thái Lan) trong thế kỷ XVII trên các “chu ấn thuyền”. Nó cũng là nguồn có giá trị để sản xuất một loại thuốc nhuộm có màu đỏ, được dùng để nhuộm các sản phẩm từ sợi bông. Tại Việt Nam, gỗ tô mộc còn là một trong những thành phần dùng để nấu nước rửa hài cốt khi cải táng. Phần lõi gỗ rắn, gần như không bị nứt nẻ và được sử dụng để chạm khắc đồ mỹ nghệ.

    Thân cây vang cong queo như như con cò quăm, người làng vẫn truyền nhau câu ca về việc nấu gỗ vang:

    Cò quăm mà ở trên rừng

    Đem về nấu nướng tưng bừng suốt đêm

    Hết nước thì lại đổ thêm

    Một trăm gánh nước không mềm cò quăm.

    Màu vàng  được chế từ  hoa hoè. Đó là một loại hoa nhỏ li ti như hạt gạo, đông y vẫn dùng làm nước giải nhiệt. Hoa hoè được cho vào chảo rang  đến màu vàng nâu thì cho vào nồi nước đun thật kỹ ta có  màu vàng. Sau này người ta còn dùng thêm củ nghệ và  hoa giành giành làm màu vàng.

    – Màu đen: Mùa lá tre rụng, các cụ già, trẻ em quét vườn quanh năm, đổ ở sân đống lá tre to như đống rơm. Người ta đốt lá tre – và cũng có khi đốt rơm nếp – đủ độ thành than (nếu quá một tí sẽ thành tro không có màu), được đến đâu vẩy nước đến đấy, rồi cho vào chum nước ngâm đến tận tháng bảy năm sau mới dùng được.

    Từ các màu kể trên pha với điệp và pha lẫn nhau (theo tỉ lệ hoàn toàn do kinh nghiệm của nghệ nhân) được một bảng màu đa dạng mà mộc mạc, dân dã được gọi là Thuốc cái.

    Theo nghệ nhân Trần Nhật Tấn, một số màu khác được tạo ra như sau:

    – Màu đỏ vang pha thêm phèn chua tạo ra đỏ tía, nếu thêm hòe thì thành màu da cam, thêm điệp thì thành màu cánh sen nhạt (không thẫm như phẩm cánh sen) còn thêm chàm thì tạo ra màu nhiễu tím.

    – Màu xanh chàm thêm nhựa thông tạo ra màu cẩm thạch, thêm vàng hòe tạo ra màu hoa lý.

    – Màu da người được pha từ Hoàng đan (một vị thuốc bắc) và điệp.

    Lý thuyết thì như vậy, thực tế thì không phải ai cũng áp dụng được, màu đẹp hay không còn do “bàn tay vàng” của người nghệ nhân.

    Tất cả các màu khi dùng làm tranh đều phải pha với hồ nếp – thứ hồ xay từ gạo nếp, ngâm vài ngày, mỗi ngày thay nước một lần, không để hồ lên men. Pha màu với hồ phải do người có kinh nghiệm làm, không có công thức nào cố định, tuỳ theo thời tiết mà gia giảm, vừa độ thì in sẽ bắt ván, đặc quá hay loãng quá đều bị bong điệp.

    Thời kỳ làm tranh tô màu, Đông Hồ dùng phẩm với bảng màu như sau:

    – Màu đỏ có: son, điều, cánh quế (sắc độ thẫm dần) và cánh sen.

    – Màu vàng có: Vàng đất, vàng chanh.

    – Màu xanh có: xanh lục, xanh lam, hồ thuỷ (da trời).

    – Màu hoa hiên.

    – Màu tím.

    – Màu đen được chế từ muội cao su (người làng thường gọi là “loa”, gốc tiếng Pháp noir  nghĩa là đen).

    Ngoài ra các nghệ nhân còn pha xanh lục với vàng được màu hoa lý. Khi vẽ tranh thờ thì dùng thêm kim nhũ và ngân nhũ.

    • Các dụng cụ in tranh

    – Thét: Đó là một loại chổi làm bằng lá thông phơi héo vừa phải, một đầu buộc túm lại, ở giữa được nẹp bằng hai thanh tre cho đầu kia tòe ra. Thét dùng để quét điệp làm nền, phết màu khi in, nó thay cho bút bẹt và cũng có đủ các cỡ  từ  5cm đến 25cm. Thét đựơc  làm ở làng Đạo Tú (cùng xã Song Hồ) là chính. Khi mua về người ta phải luộc thét bằng nước pha muối, rồi lấy dùi đục đập phần đầu cho mềm ra – nhưng cũng không quá lướt sao cho  khi quét nền còn để lại vết  trên điệp và những vẩy điệp lấp lánh – đó là nét đặc sắc của tranh Đông Hồ.

    – Bìa: Đây là một cái hộp bằng gỗ, không có nắp, kích thước khoảng 40 x 60 x 15 cm, bên trong nhồi rơm, phía trên căng tấm vải bố. Khi in tranh người ta dùng thét  phết màu lên bìa, rập ván in vào rồi in ra giấy.

    Ngoài ra còn các dụng cụ khác như chậu sành đựng phẩm, xơ mướp để xoa vào lưng tranh khi in, sào tre, nứa để phơi tranh…

    4. In tranh

    • Tranh ĐiệpAuto Draft

    Sau khi có đầy đủ nguyên vật liệu, ông chủ – thường là người có nhiều kinh nghiệm nhất trong nghề – bắt đầu pha màu.  Nếu trong nhà có nhiều người làm được thì có thể pha vài màu cho vài người in cùng một lúc. Người in để một đống giấy đã quét nền, xếp ngay ngắn trước mặt là bìa, chậu màu, thét, còn ván in thì xếp bên phải tay. Trước tiên dùng thét quét màu lên bìa, sau đó rập ván in lên bìa vài lần (ván in đã được đóng “tay cầm” chắc chắn), đặt ván in lên giấy theo cữ, tay trái luồn xuống dưới  tờ giấy lật cả giấy lẫn ván lên  rồi dùng xơ mướp xoa lên phía sau tờ giấy để màu bắt đều nét, cuối cùng bóc tờ tranh ra bỏ sang bên trái, các tờ in sau để so le với tờ trước. Cứ như vậy cho đến đủ các màu, màu đen – tức là ván nét được in cuối cùng và do người khéo tay nhất thực hiện.  Yêu cầu màu vừa đủ, đặt ván chính xác, xoa đều tay. Nếu màu khanquá  hoặc xoa ẩu sẽ mất nét, nếu  màu nhiều quá (các cụ nói là bị sặc màu) hoặc đặt không đúng cữ, thì tranh  sẽ bị nhòe nhoẹt – cả hai trường hợp tranh đều xấu. Cùng một mẫu tranh do một nghệ nhân sáng tác, khi cắt ván – nhiều nhà cùng cắt – đã có thể tạo ra những tranh khác nhau. Khi in, mỗi nhà lại phân màu khác nhau, cộng với tay  nghề khác nhau nên có thể tạo ra những bức tranh khác nhau. Cùng tranh một con gà có khi rất đẹp mà cũng có khi lem nhem xấu xí. Kỹ thuật in như trên rất giống kỹ thuật in tranh khắc gỗ màu Nhật Bản. ở Nhật Bản gọi các bản in màu là bản vỗ, phương pháp in được gọi là so dấu – cũng đánh dấu như “cữ” của tranh Đông Hồ. Các bản vỗ được lăn mực chứ không dập lên bìa như Đông Hồ. Sau khi lật ngửa ván in lên người Nhật dùng xơ gai dầu để chà xát lên lưng tranh.

    • Tranh tô màu

    Loại này chỉ phải in một lần màu đen. Với những tranh khổ lớn, ván in to, dài (như tranh Tứ phủ chẳng hạn), thì không dập ván lên bìa như trên (màu không thể bắt đều vào ván – tranh sẽ mất nét) mà phải dùng thét quét mực lên ván in, rồi cũng làm như  với tranh nhỏ. Khi tranh khô và đã nén phẳng sẽ được chia cho cả nhà tô màu, trẻ con hoặc các cụ bà thì tô màu vàng – (có lấn sang mảng khác còn sửa được), những người khác tô các màu còn lại. Các kỹ thuật: vờn, điểm mắt (tô màu xong, vẽ lại mắt cho đẹp) rất tỉ mỉ. Vẽ kim nhũ, ngân nhũ (với tranh thờ), phải do người có tay nghề giỏi nhất thực hiện. Tranh bộ và tranh thờ được dán thêm hai que bằng tre, hoặc nứa vào đầu trên, đầu dưới gọi là trục – để tờ tranh cứng cáp hơn.  Tranh tô màu tận dụng nguồn lao động của cả gia đình. Màu sắc in tranh được quy định nghiêm ngặt, trẻ em khi làm thường sơ ý nên vị trí in màu bị thay đổi, nhà nào không có người chủ giỏi lại không theo dõi sát sao  thì tranh không thể đẹp được.

    Bốn bước in tranh Gà dạ xướng:

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

     

  • Giặc Ân là giặc nào trong truyền thuyết Thánh Gióng?

    Giặc Ân là giặc nào trong truyền thuyết Thánh Gióng?

    Hồi nhỏ đọc truyện Thánh Gióng, thấy giặc Ân tàn ác lắm. Rồi có người anh hùng bé tí nhưng đã máu lửa, ăn bao nhiêu là cơm với cà muối, xin con ngựa và gậy sắt, nhảy ra oánh cho một trận thất điên bát đảo. Nôm na thế.

    Giặc Ân là giặc nào trong truyền thuyết Thánh Gióng?
    Giáo sư Trần Văn Giàu viết
    Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỉ, quyển 1, tờ 3b và 4a), dựa vào sách Lĩnh Nam chích quái, tóm lược chuyện Phù Đổng Thiên Vương như sau : “Đời Hùng Vương thứ sáu, Ở làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh (nay thuộc Bắc Ninh – NKT), có nhà giàu nọ, sinh được một đứa con trai. Đứa trẻ ấy, mãi đến năm hơn ba tuổi, tuy ăn uống béo tốt, nhưng lại không biết nói cười. Bấy giờ gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, Nhà vua bèn sai Thiên sứ đi tìm người có thể đánh được giặc. Đúng ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng dưng nói được. Nó nhờ mẹ ra mời Thiên sứ vào rồi nói rằng : – Xin cho tôi một thanh gươm, một con ngựa. Vua không phải lo gì nữa. Vua liền ban cho gươm và ngựa. Đứa trẻ liền phi ngựa, vung gươm tiến lên. Quan quân theo sau. Giặc bị đánh tan ở núi Vũ Ninh (núi này, nay thuộc đất Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh – NKT). Chúng sợ, quay giáo đánh lẫn nhau, chết nhiều lắm. Bọn sống sót thì cúi rạp xuống mà lạy, rồi cùng tôn đứa trẻ ấy là Thiên tướng và đến xin hàng. Đứa trẻ phi ngựa lên trời mà đi. Vua liền sai sửa sang chỗ vườn nhà của đứa trẻ để lập đền thờ, luôn năm cúng tế. Sau, vua Lý Thái Tổ (làm vua từ năm 1010 đến năm 1028 – NKT) phong làm Xung Thiên Thần Vương”. Lời bàn (Của giáo sư Trần Văn Giàu trong Việt sử giai thoại):Chuyện dân gian hẳn nhiên không phải là lịch sử, nhưng, bất cứ chuyện dân gian nào cũng đều phản ánh một cái lõi có thật nào đấy của lịch sử. Cái lõi có thật ấy, có thể chính là bản thân sự kiện hoặc nhân vật, nhưng có khi chỉ là một ý nguyện chân thành, gởi gắm qua cách nhìn nhận một sự kiện hoặc một nhân vật lịch sử nào đó. Không ai tin rằng một đứa trẻ lên ba lại có thể cưỡi ngựa vung gươm, dẫn đầu quan quân ra trận và đánh tan lũ giặc hung tàn, nhưng bất cứ ai cũng đều tin rằng, hễ có giặc thì hết thảy già trẻ gái trai nước Việt đều hăm hở ra chiến trường. Chí lớn và tài cao chẳng phải lúc nào cũng đi đôi với tuổi tác. Thắng trận rồi, đứa trẻ lẳng lặng bay lên trời, không bàn tâm suy tính công lao, chẳng băn khoăn gì về sự ân thưởng. Mới hay, lòng dân muôn đời vẫn vậy, bình thản lo đại nghĩa một cách vô tư. Người có công tạo lập và gìn giữ thái bình chẳng hề đòi hỏi bất cứ một điều gì cho riêng mình cả. Từ Lý Thái Tổ trở đi, các vua nối nhau đều phong thần cho đứa trẻ quê ở Phù Đổng. Chính hương khói của việc thờ phụng này đã góp phần không nhỏ vào việc tạo ra khí phách hiên ngang và sự vô tư lạ kì cho lớp lớp những thế hệ trẻ, vì nước quên than, vì dân quên mình. Kính thay!

    Nay ở trên mạng có bác thắc mắc là cái bọn giặc Ân ấy nó ở đâu ra, kể cũng hay!

    -Giặc Ân là giặc nào? Bên Tàu xửa xưa có nhà Ân ở vế phía bắc sông Hoàng Hà, quá xa đối với nước Văn Lang ta. Ở bên xứ Khựa có một đền Thánh Gióng ở trấn Võ Ninh, cũng có tích y như bên ta, oánh giặc Ân. Sao thế nhỉ?

    Xứ Việt ta từ ngàn xưa, chẳng ai thống kê hết có bao nhiêu thứ giặc. Kể cũng phải, vị trí thuận lợi quá đi mất, như cái nhà mặt phố ở ngã tư Sở. Ai đi qua cũng dòm vào. Mở cửa hàng thì hút khách. Hút khách đông như cháo thí ắt có kẻ ghen ghét mà tính chuyện phá phách.

    Quay lại với lịch sử. Lịch sử Việt Nam có một phần gắn với sử Trung Quốc, và ngược lại, sử Trung Quốc có một phần gắn với lịch sử Việt Nam. Tích mẹ Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nhưng “tác giả” của cái bọc ấy, Lạc Long Quân nếu tra gúc-gồ thì Lạc Long Quân phát tích ở phía nam hồ Động Đình (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc). Bản thân ngay khi xem wiki tiếng Việt về trống đồng cũng thấy trống đồng được các nhà khảo cổ học tìm thấy lung tung cả ở Lưỡng Quảng, nhiều nhất là ở Đông Sơn, Thanh Hóa, nhưng ở Quảng Tây cũng có đến 3 chục cái. Kỳ lạ, là nơi đóng đô của Vua Hùng (Việt Trì, Phú Thọ) lại chẳng đào được cái nào. Lên Phú Thọ thấy biểu tượng chim lạc, rồi trống đồng nhan nhản, chẳng ngượng lắm ru?

    Vậy Âu Lạc (Âu Việt và Lạc Việt) có lãnh thổ từ nam hồ động đình vào đến tận Nghệ An ngày nay. Trải qua bao lần loạn lạc, đánh nhau, giặc giã… thì dân cư Âu Lạc mới bị người Hoa Hạ đẩy dần xuống phương Nam như ngày nay.

    Một trong những điều minh chứng rõ nhất của việc nước Việt là của người Việt là ở chỗ: người Việt định cư trên vùng có nhiều sông ngòi chằng chịt, nên không gọi Tổ quốc là quốc, mà gọi là NƯỚC. Tôi đi nước ngoài, mai tôi về nước; tôi yêu tiếng nước tôi….

    Người Việt Nam không thể bị đồng hóa là như thế, dù bọn nào và muốn đến mấy chăng nữa. Dù 80% ngôn ngữ của tao gốc của chúng mày, nhưng sau 1000 năm vẫn là từ Hán Việt. Bướng ra bướng!

    Về cái thời xa xưa đó, Trung Quốc cũng lờ mờ về lịch sử, chẳng cứ gì ta. Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, rồi Thuấn truyền ngôi cho Vũ… mỗi ông sống có đến trăm rưởi hai trăm năm, chẳng lờ mờ sao?

    Nôm na rằng, cũng giống như Hùng Vương của ta, cũng là mấy ông tù trưởng của thị tộc, bộ lạc. Nay gọi là vua, nhưng lãnh thổ bé tí ấy mà.

    Ân hay là Thương, một nhà trong sử Trung Quốc từ thế kỷ 14 đến 11 trước Công nguyên, chủ yếu là ở đâu đó trong cái tỉnh Hà Nam thuộc Trung Nguyên, không phải là thuộc Hà Nam Ninh (cũ) nhà ta đâu. Cách đây hơn trăm năm người ta đào được nhiều di vật, di chỉ ở An Dương (Hà Nam) thuộc về đời nhà Ân và Thương.

    Nguyễn Hiến Lê viết Theo Từ Hải và các bộ sử cũ thì nhà Thương bắt đầu từ khoảng 1766 trước công nguyên và chấm dứt năm 1122 trước công nguyên. Nhưng theo Eberhard (sách đã dẫn) thì những niên đại đã được ghi nhận là sai. Nhà Hạ chỉ dài khoảng 300 năm từ 1800 đến 1500 trước công nguyên (phỏng chừng) chứ không phải từ 2201đến 1760 trước công nguyên, và nhà Thương bắt đầu từ khoảng 1450, chấm dứt khoảng 1050 trước công nguyên

    Như vậy từ nhà Thương đến nhà ta khoảng 3000 năm.

    Nguyễn Hiến Lê viết tiếp
    Chúng ta chỉ biết đại khái rằng vua Thành Thang khi diệt vua Kiệt rồi, khai sáng nhà Thương, quy tụ được nhiều bộ lạc và đất đai nhà Thương gồm các tỉnh Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam ngày nay. Kinh đô mới đầu ở đất Bạc, sau bị các dân tộc du mục ở phía Tây lấn, phải dời chỗ bảy lần, lần cuối cùng tới Ân Khư (khư nghĩa là đồi) ở phía Đông, gần An Dương, đổi quốc hiệu là Ân, và thời đó phải chiến đấu rất thường xuyên với các bộ lạc chung quanh

    Hỏi Wiki tiếng Việt thì Hùng Chiêu hay Tiết Liêu hay còn gọi là Lang Liêu vốn nổi tiếng với món bánh chưng bánh dày, được truyền ngôi trở thành Hùng Vương đời thứ bảy, tại ngôi từ 1631 – 1431 trước công nguyên. Vậy thì bố của ông ta, Hùng Vương đệ lục cứ cho là trước đó 4, 5 chục năm, thì so với cái anh nhà Ân trên đây cũng là đúng tầm.

    Hỏi anh gúc-gồ mép thì từ Trịnh Châu (thủ phủ tỉnh Hà Nam) đến Trường Sa (thủ phủ tỉnh Hồ Nam) đường bộ khoảng 860 km. Không quá khó để giặc Ân tràn xuống đánh dân cư của cụ Lạc Long Quân. Ngày nay chạy ô tô tầm 1 ngày đường cao tốc, hồi đó kéo cả đạo quân một tháng, hai tháng, nửa năm một năm rồi cũng tới nơi.

    Nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc 
    Nhà Thương trong lịch sử
    Trung Quốc


    Như thế có thể nói địa bàn chiến trường của Đức Thánh Tản dễ thường cũng to ra phết. Ai cũng thừa biết đó là câu chuyện hoang đường. Đức Thánh Tản có thể không chỉ là một người, mà là cả một đạo quân, có không chỉ một mà vài đến nhiều chiến tướng, đã lập công trạng hiển hách chống cái bọn giặc Ân từ phương Bắc tràn xuống.
    Cũng không nhất thiết Thánh Gióng phải ở sân bay Nội Bài, núi Sóc Sơn bay lên giời, mà ở đâu đó giữa thủ đô Hà Nội to vật vã của chúng ta với cái hồ Động Đình trứ danh kia.

    Một trang sử hào hùng như thế trên địa bàn rộng lớn mà ngày nay đã thuộc về nước khác, cũng chẳng tội gì mà bỏ – và dân cư ở mỗi nơi đều cố kể những câu chuyện tương tự để mà tự hào – như những khảo dị của cụ Nguyễn Đổng Chi vậy. Dân Trung Quốc cũng kể chuyện Thánh Gióng âu cũng là lẽ thường tình.

    Vì thế, cần khẳng định rằng – dù ai nói ngả nói nghiêng – thì Thánh Gióng vẫn là người anh hùng của ta, của người Âu Lạc. Dù trước đây làng của Đức Thánh có ở đâu thì cũng kệ!

    Lịch sử vẫn đang chờ viết tiếp về những Thánh Gióng mới nện bọn tân giặc Ân trên biển Đông!

    Theo nguoilangthangcuoicung.net

  • Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Từ thời vua Gia Long tuy có mối giao hảo tốt với phương Tây đặc biệt là Pháp, nhưng vua Gia Long vẫn thấy nguy cơ về mất chủ quyền mỗi khi cơ hội đến với phương Tây thông qua con đường bảo vệ đạo Thiên chúa nên ông căn dặn người kế vị (Minh Mạng) không nên đối xử phân biệt giữa các đạo Nho, Phật, Thiên chúa giáo. Việc khủng bố tôn giáo sẽ là nguyên nhân dẫn đến các biến động xã hội và gây ra thù oán trong nhân dân; đôi khi làm sụp đổ cả ngôi vua.

    Đối với người Công Giáo, thì trong lịch sử bắt đạo ở Việt Nam, cuộc bắt đạo dưới thời vua Minh Mệnh là nổi bật về thái độ thù ghét đạo Công Giáo hơn cả và là cuộc bắt đạo tàn bạo và rất khoa học

    Trước thái độ suy tôn một Thiên Chúa của người Công Giáo và coi Vua chỉ ở bậc thứ nhì. Vua Minh Mệnh coi đạo Công Giáo do ngoại nhân đem vào là một xỉ nhục cho quốc gia, một tai họa cho dân chúng. Với vua Minh Mệnh, trong nước không thể có hai vua cũng như không thể có hai tôn giáo, đã có Nho Giáo rồi thì không thể có đạo Thiên Chúa thờ Chúa trời đất.

    Dưới thời vua Minh Mạng ông cho xử tử rất nhiều giáo sĩ. Việc bắt và xử tử giáo sĩ đến thời vua Thiệu Trị có phần ít hơn, cho lãnh án “trảm giam hậu” (tội chết nhưng giam đợi xét), rồi cuối cùng cũng được trả tự do. Nhưng tới thời vua Tự Đức giáo sĩ lại bị xử tử bắt giam rất nhiều, nhất là trong giao đoạn Chiến tranh Pháp-Đại Nam.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Bản đồ truyền giáo vùng Thượng du Bắc Kỳ thuộc Giáo phận Tây Đàng Ngoài.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Đền thờ các Thánh tử đạo ở Sơn Tây.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Toàn cảnh thị trấn Hưng Hóa, thủ phủ của hội Truyền giáo vùng Thượng du Bắc Kỳ

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Pierre Lê Tùy tại Nghệ An ngày 11/10/1833.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Marchand Du tại Huế ngày 30/11/1835.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Marchand Du tại Huế ngày 30/11/1835.
    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn
    Cuộc tử vì đạo của cha Jean-Charles Cornay Tân tại xứ Đoài (tức Sơn Tây) ngày 20/09/1837

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Jean-Charles Cornay Tân tại xứ Đoài (tức Sơn Tây) ngày 20/09/1837.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn
    Cuộc tử vì đạo của cha François Xavier Nguyễn Cần ở Kẻ Chợ (tức Hà Nội) ngày 26/11/1837

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc bắt bớ và giải thầy Pierre Nguyễn Khắc Tự, cha Vincent Nguyễn Thế Điểm và giám mục Pierre Dumoulin Borie Cao tới Quảng Bình ngày 27/07 và 31/07/1838.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của các ông Michel Nguyễn Huy Mĩ, Antoine Nguyễn Đích và cha Jacques Đỗ Mai Năm tại Nam Định ngày 12/08/1838.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc bắt bớ và giải thầy Jean-Baptiste Đinh Văn Thanh, thầy Pierre Nguyễn Văn Hiếu và cha Pierre Phạm Khắc Khoan tới Ninh Bình ngày 24/08/1838.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của giám mục Pierre Dumoulin-Borie Cao ngày 24/11/1838 tại Đồng Hới.
    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn
    Cuộc tử vì đạo của giám mục Pierre Dumoulin-Borie Cao ngày 24/11/1838 tại Đồng Hới.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Pierre Dumoulin-Borie Cao (1808 – 1838)

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Chiếc gông cùm thánh Pierre Dumоulin-Borie Cao, bị hành quyết tại Đồng Hới năm 1838, bày trong Phòng tưởng niệm những người tử vì đạo tại Hội Thừa sai Paris

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của các cha Paul Nguyễn Văn Mĩ, Pierre Trương Văn Đường, và Pierre Vũ Văn Truật tại Sơn Tây ngày 18/10/1838

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của các cha Paul Nguyễn Văn Mĩ, Pierre Trương Văn Đường, và Pierre Vũ Văn Truật tại Sơn Tây ngày 18/10/1838

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của các cha Paul Phạm Khắc Khoan, Pierre Nguyễn Văn Hiếu và Jean-Baptiste Đinh Văn Thanh tại Vân Sàng – Ninh Bình ngày 28/04/1840
    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn
    Cuộc tử vì đạo của ông Antoine Nguyễn Hữu Quỳnh và thầy Pierre Nguyễn Khắc Tự tại Quảng Bình ngày 10/07/1840
    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn
    Cuộc tử vì đạo của cha Pierre Phạm Khanh tại Hà Tĩnh ngày 12/07/1842

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Augustin Schoeffler Đông tại Sơn Tây ngày 1/05/1851

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Cuộc tử vì đạo của cha Jean-Louis Bonnard Hương tại Vĩnh Trị ngày 1/05/1852.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Thánh Gioan Hương (Jean Louis Bonnard) sinh năm 1824 tại Saint Christo en Jarez, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài. Bị xử trảm ngày 1/05/1852 tại Nam Ðịnh (khi 28 tuổi) dưới đời vua Tự Ðức. Được Giáo hoàng Lêô XIII phong Chân Phước ngày 27/05/1900 và được tuyên phong Hiển Thánh ngày 19/6/1988 bởi Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Lễ kính vào ngày 1/05.

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

     Thánh Gioan Ven (Jean Théophane Vénard) sinh năm 1829 tại St. Loup-sur-Thouet, Pháp; linh mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài. Bị xử trảm ngày 2/02/1861 tại Ô Cầu Giấy (khi 32 tuổi) dưới đời vua Tự Ðức. Được Giáo hoàng Piô X phong Chân Phước ngày 2/05/1909 và được tuyên phong thánh ngày 19/6/1988 bởi Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Lễ kính vào ngày 2/02.

     

    Xử Tử Giáo Sĩ Thời Nguyễn

    Ngôi nhà tại St Loup-sur-Thouet, nước Pháp, nơi thánh Théophane Vénard ra đời.

    Theo hinhanhlichsu.blogspot.com/

  • Tục nhuộm răng đen của người Việt xưa

    BY VietSun magazine
    Phong tục nhuộm răng đen của người Việt xưa
    Phong tục nhuộm răng đen của người Việt xưa

    Bài viết chia sẻ về phương pháp nhuộm răng đen trên Facebook:

    Có lẽ đối với các thế hệ ngày nay, hình ảnh những người bà, người mẹ và cả những cô thiếu nữ với hàm răng óng ả hạt huyền chỉ còn là một hình ảnh đẹp trong quá khứ xa xôi. Những người của thế hệ nhuộm răng đen đến nay đã ra đi gần hết! Nét duyên dáng răng đen như ngọn đèn trước gió, và đi vào kỷ niệm! Nhưng những nụ cười đen nhánh nay đã mơ hồ kia, cứ đen mãi trong lòng sâu thẳm của những ai biết nó… mãi đen huyền, đen rực một cách thân thương!…
    Để nhớ, để lưu giữ lại một phong tục, một nét đẹp văn hoá, mời các bạn cùng tìm hiểu nghệ thuật nhuộm răng đen của người Việt xưa.
    Nguồn gốc của Tục nhuộm răng
    Nhuộm răng là tục cổ của dân tộc Việt, có từ thời Hùng Vương cùng với tục ăn trầu đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của bộ tộc người Việt để phân biệt với các sắc dân khác..Đại Việt Sử Ký toàn thư trang 133 chỉ ghi lại lời vua Hùng về tục xăm mình chứ tục nhuộm răng thì không thấy “… rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái vào mình. Từ đấy không thấy thuồng luồng đến cắn hại nữa”. Sứ thần của nước Văn Lang trả lời vua nhà Chu về tục ăn trầu “Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen…”. Không chỉ người Việt mới có tục nhuộm răng mà các dân tộc khác như Mường, Thái, Si La… cũng có tục này nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thời gian, cách nhuộm và chất liệu sử dụng.
    Phong tục nhuộm răng đen
    Tục nhuộm răng đen trước hết là do quan điểm thẩm mỹ. Chính tục lệ ăn trầu là lý do trực tiếp của tục nhuộm răng, bởi nhai trầu thường làm ố đen răng, nên phải nhuộm đen, nhuộm thật đen để loại bỏ tác dụng trên, đồng thời tạo được vẻ thẩm mỹ duyên dáng cho hàm răng… “Da trắng, răng đen” tạo sự tương phản cao và đầy nghệ thuật đã thu hút bao hồn vía các chàng trai thời ấy! Các cô gái, cho dù không ăn trầu, vẫn cứ nhuộm răng đen. Thậm chí, việc nhuộm răng đen còn lan sang cả cánh đàn ông nhưng số lượng ít hơn. Việc nhuộm răng đen đã trở thành luật, phổ biến trong dân chúng, trừ những đức trẻ còn răng sữa, ngoài ra đều phải nhuộm đen, không ai có thể cưỡng lại qui luật trên. Và nếu đã sở hữu một hàm răng đen, buộc cứ khoảng gần một năm phải nhuộm lại, vì màu đen đã phai. Đặc biệt vào các dịp lễ tết hay những ngày vui trọng đại như lễ hỏi, lễ cưới, họ phải nhuộm răng lại cho đen mới để tham dự.
    Tục nhuộm răng đen có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc. Kinh đô Huế được coi là nơi cực thịnh của nghệ thuật nhuộm răng, vì ở đó các ông hoàng bà chúa, các cung tần mỹ nữ, tầng lớp quan lại, nho sĩ, các cô chiêu, cậu ấm rất ưa chuộng việc nhuộm răng. Thuốc nhuộm răng của người Việt xưa phải có một công thức pha chế riêng: Bột nhựa cánh kiến, Nước cốt chanh hay hạnh, Phèn đen, Nhựa của gáo dừa.
    Việc nhuộm răng phải tuân theo từng giai đoạn làm sao cho răng đạt màu đen bóng. Để khởi đầu cho việc nhuộm răng thì miệng và răng phải được làm vệ sinh, phải chuẩn bị hàm răng cho thật sạch. Không được có bợn, bả răng trong các kẽ và chân răng, phải lấy hết cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được. Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối sống hầm chín thành bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoặc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh. Tác dụng của nước cốt làm cho lớp men ngoài răng “mềm” đi, tính acid của chanh sẽ bào mòn tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng. Thời gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, hai hàm răng lung lay gần như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó từ 7 đến 10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Ở thôn quê, người ta trét lên lá dừa, cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng.
    Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới. Đến sáng người ta sẽ gỡ ra thật nhẹ nhàng tránh bị bong tróc lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau khi lấy thuốc ra phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua để thải hết chất thuốc c.n sót lại. Người nhuộm răng gần như phải ngậm miệng suốt đêm, tránh tối đa miếng thuốc nhuộm rơi bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khoảng thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt thức ăn chứ không được nhai. Thông thường các người nhuộm răng được cho ăn bún trộn với mỡ heo và nước mắm để dễ nuốt trửng. Khi thấy răng có màu đỏ già, màu của cánh kiến th. việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộm đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày. Sau đó phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa, chất nhựa này được làm như sau: Lấy sọ hay gáo dừa già, đem phơi khô nhiều nắng, sau đó đem đốt nó trên than hồng rồi để cái sọ dừa đang cháy này lên trên một cái rựa sắt cùn, từ trong sọ dừa đang cháy un khói đó sẽ chảy ra một thứ nhựa đen sền sệt lấy chất đó bôi lên răng, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng. Người ta gọi giai đoạn này là “giết răng”. Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hột mãng cầu..Xưa ở nông thôn có thầy nhuộm răng, ông ta đi từ làng này sang làng khác để hành nghề như người làm nghề thiến heo, thiến gà chó… Ở Huế lại có các “bà thầy” nhuộm răng thường hành nghề cố định trong các chợ, như chợ Đông Ba có đến 5, 6 người hành nghề này. Họ có một cái sạp ngay giữa lồng chợ, còn như các chợ nhỏ như chợ Bến Ngự, chợ Bao Vinh, chợ An Cựu chỉ có một hai bà thầy nhuộm răng mà thôi.
    Cách đây 70 năm có một bà thầy nhuộm răng nổi tiếng nhất ở kinh đô Huế không ai là không biết, đó là bà thầy Thại ở làng Sư Lỗ cách cầu Ngói Thanh Toàn một con sông. Bà thầy vừa hành nghề nhuộm răng vừa sản xuất thuốc nhuộm, thuốc xỉa, cao dán mắt, cao no hơi đầy bụng cho trẻ sơ sinh… Muốn nhuộm răng các cô chiêu, cậu ấm phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng trời mới tới phiên mình được nhuộm. Mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà bà thầy trong suốt thời gian nhuộm khoảng từ 12 ngày đến nửa tháng. Chiều chiều bà thầy thường cho các cô chiêu cậu ấm leo lên một đồi nhỏ trong làng quay mặt ra hướng đông, bảo họ há miệng to để gió biển thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô (!) và bà cũng kể cho các cô chiêu cậu ấm đó nghe về những chuyện cổ tích, danh nhân lịch sử, lòng yêu nước, hiếu thảo với cha mẹ. Đặc biệt có một ông già mù phụ thêm hát vè Mụ Đội, vè Phạm Công Cúc Hoa, vè Lục Vân Tiên, vè thất thủ Kinh Đô… để mua vui cho các cô các cậu và những người hiếu kỳ đến xem. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại càng ngày càng nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, có mấy cái đại lý của bà ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vô tới Quảng Nam, Quảng Ngãi…Hình ảnh thiếu nữ với răng đen đã đi vào kỷ niệm.
    Duyên dáng răng đen
    Còn trong văn chương, ca dao Việt Nam thì tục nhuộm răng và răng đen của người phụ nữ được ca ngợi tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu được. Răng đen là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái: Một thương tóc bỏ đuôi gà,
    Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,
    Ba thương má lúm đồng tiền,
    Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua Để hấp dẫn, để sửa soạn, để trang điểm người con gái bao giờ cũng rất chú trọng đến hàm răng đen gợi cảm của mình: Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
    Bõ công trang điểm má hồng răng đen.
    Và:
    Năm quan mua lấy miệng cười
    Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen. Trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” nhà thơ Hoàng Cầm cũng đã từng ca ngợi nét duyên dáng, vẻ đẹp của ngườ phụ nữ Việt Nam …Những cô hàng xén răng đen
    Cười như mùa thu tỏa nắng…
    Người của ngày xưa còn lại đến hôm nay
    Phụ họa thêm cho hàm răng đen mướt một sự sạch sẽ văn minh, phụ nữ thời ấy, lúc ăn trầu thường hay “đánh răng thuốc”, nghĩa là họ dùng một lọn thuốc lá sợi, vê thành cục bằng đầu ngón út mà chà xát vào mặt ngoài của hàm răng. Có “đánh răng thuốc”, khi nhai trầu, răng mới đen mướt và sạch sẽ. Có “đánh răng thuốc” thì miếng trầu mới đậm đà, không lạt lẽo. Có “đánh răng thuốc” thì trò chuyện mới duyên dáng! Cho nên, thao tác “đánh răng thuốc” là một nghệ thuật vô cùng sinh động trong giao tiếp, tăng thêm lịch sự quyến rũ! Mới răng là mới nụ cười
    Mới cả con người, mới cả thế gian!
    Tục nhuộm răng đen còn tồn tại mãi đến khi sang thế kỷ 20, chúng ta mới phá bỏ tục lệ này. Cho đến nay, hình ảnh người phụ nữ với hàm răng đen đã lùi vào dĩ vãng nhưng đó vẫn mãi là một nét đẹp văn hoá của người Việt Nam.

  • Thi cử ngày xưa – Lều chõng

    Thi cử ngày xưa – Lều chõng

    Dưới triều Nguyễn, cứ 3 năm thì triều đình lại mở khóa thi Hương ở các tỉnh lớn, ai dự thi cũng được, thí sinh trúng tuyển thì được gọi là Cử-Nhân (người được địa phương tiến cử với triều đình). Năm sau thì các Cử-Nhân vào Kinh để thi Hội và thi Ðình. Ai đậu khóa thi Hội thì được gọi là Thám Hoa, đậu khóa thi Ðình thì được gọi là Tiến-Sĩ (người có tầm học uyên bác), tên họ sẽ được khắc trên bảng vàng hay bia đá, rồi lưu lại cho muôn thế hệ sau. Các tân khoa này đều sẽ trở thành quan lại của triều đình nếu họ muốn. Sau đó họ sẽ được ngồi võng lọng rồi được binh lính đưa về làng xưa để “vinh qui bái tổ”, một vinh dự tối cao mà ngày xưa tất cả các học trò đều mơ ước.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Một sĩ tử Bắc Kì đi thi.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Một sĩ tử Bắc Kì đi thi.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Thí sinh 70 tuổi đi thi.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Đến ngày lều chõng đi thi.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Lều chõng.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng 

    Bãi đất làm kì thi Hương ở Nam Định cuối thế kỉ 19.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Quang cảnh trường thi Nam Định năm 1912.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Các quan chủ khảo ngồi trên một chiếc ghế cao dưới lọng để quan sát các thí sinh làm bài. Ảnh chụp tại trường thi Nam Định năm 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Các quan chủ khảo ngồi trên một chiếc ghế cao dưới lọng để quan sát các thí sinh làm bài. Ảnh chụp tại trường thi Nam Định năm 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng 

    Một trường thi ở Nam Định mở năm 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Hội đồng giám khảo tại trường thi Nam Định 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Các vị quan chủ khảo tại trường thi Nam Định năm 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Gíam khảo Trần Sĩ Trác.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Hội đồng giám khảo tới trường thi năm 1912.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Hình vẽ trường thi năm 1895.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Quan chánh chủ khảo Cao Xuân Dục ở kì thi Hương năm Đinh Dậu ở Nam Định.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Ngày vinh danh những thí sinh đỗ đạt tại trường thi Nam Định 1897. Có sự tham dự của toàn quyền Pháp Paul Doumer.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Sĩ tử và thân nhân nghe xướng danh.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Lễ xướng danh những sĩ tử đỗ đạt trường thi Nam Định 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Đám đông tụ tập nghe xướng danh người trúng tuyển kì thi Hương tại Nam Định năm 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Các sĩ tử và người thân ngồi nghe xướng danh công bố kết quả thi tại trường thi Nam Định 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Bảng vàng khắc tên những người trúng tuyển tại trường thi Nam Định 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng 

      Thí sinh trúng  tuyển diễu hành qua các giám khoa tại Nam Đjnh năm 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Tân khoa làm lễ tạ ơn vua ở Vọng cung ở Nam ĐỊnh ngày 29/12/1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Những người đỗ đạt bái vọng tại Văn Miếu 1897.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Các tân khoa, trạng nguyên, thám hoa, tiến sĩ xúng xính áo, mão, hia do vua ban.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng 

    Các tân khoa bái ông Tổng đốc Nam Định năm 1897.
    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Quan Tổng đốc Nam Định thay mặt nhà Vua thết đãi yến tiếc cho các tân khoa đỗ đạt.

    Thi cữ ngày xưa - Lều chõng

    Các tân khoa được rước đi dạo phố cho mọi người biết mặt.