Category: Địa danh lịch sử

  • Ảnh tô màu về Đồ Sơn thời thuộc địa

    Ảnh tô màu về Đồ Sơn thời thuộc địa

    Từ thời thuộc địa, bán đảo Đồ Sơn đã được biết đến như một khu vực nghỉ dưỡng cao cấp dành cho giới quyền quý ở xứ Bắc Kỳ.… là những hình ảnh độc đáo về đời sống văn hóa ở Đồ Sơn thời thuộc địa.

    Ảnh tô màu về Đồ Sơn thời thuộc địa

    Một góc bãi biển Đồ Sơn thời thuộc địa.

    Ảnh tô màu về Đồ Sơn thời thuộc địa

    Quý bà người Pháp đi dạo bằng ghế kiệu trên con đường ven biển Đồ Sơn.
    Ảnh tô màu về Đồ Sơn thời thuộc địa

    Những người phụ nữ hái rau cho lợn ăn.
    Ảnh tô màu về Đồ Sơn thời thuộc địa
    Khách sạn ở Đồ Sơn.
    Ảnh tô màu về Đồ Sơn thời thuộc địa
    Quý ông người Việt và đứa con trên ghế kiệu.

    Ảnh tô màu về Đồ Sơn thời thuộc địa

    Bản đồ Đồ Sơn năm 1898
  • Những hình ảnh đặc biệt về Sài Gòn tháng 5 năm 1975

    Những hình ảnh đặc biệt về Sài Gòn tháng 5 năm 1975

    Màu cờ đỏ và màu áo xanh của các chiến sĩ Giải phóng tạo nên nét đặc trưng của các đường phố Sài Gòn tháng 5 năm 1975.

    Các chiến sĩ “vi vu” trên đường phố Sài Gòn, ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lê Lợi.

    Các chiến sĩ Giải phóng đi tuần tra trên đường Lê Lợi.

    Bộ đội Giải phóng ngồi cùng người dân ở vòng xoay Ngã bảy Lý Thái Tổ.

    Chiến sĩ trẻ trên chiếc xe Honda.

    Bộ đội Giải phóng nói chuyện với dân chúng phía ngoài Dinh Độc Lập.

    Những lá cờ của chính quyền mới được người dân bán trên khắp các tuyến phố.

    Người phụ nữ và lá cờ đỏ sao vàng.

    Cậu bé này đã bán được một lá cờ.

    Những lá cờ được bày bán ở một hiệu may trên đường Lê Lợi.

    Trên đường Lê Lợi.
  • Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Ngày 10/10/1954, Hà Nội như bừng tỉnh trong niềm vui của mọi tầng lớp nhân dân cùng sắc màu tươi thắm của lá cờ độc lập.

    Bầu không khí rộn ràng, phấn khởi ở Hà Nội khi Việt Minh tiếp quản ngày 10/10/1954 đã được phóng viên ảnh của tạp chí Life ghi lại đầy chân thực.

    Ngày 10/10/1954, bên cạnh hình ảnh hùng tráng của những đoàn quân giải phóng Thủ đô, phóng viên Life đã ghi lại nhiều khoảnh khắc bình dị của Hà Nội….

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Khung cảnh bên bờ hồ Trúc Bạch.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Người Hà Nội ngồi uống nước bên hồ Trúc Bạch.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Những người Pháp ngồi uống cà phê trên tầng 2 của một hiệu vải ở phố Hàng Đào, Hà Nội ngày 10/10/1954.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Quầy giải khát trên đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) với hồ Trúc Bạch và tháp chuông nhà thờ Cửa Bắc ở hậu cảnh.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Một bà sơ người Pháp chơi đùa với trẻ em tại nhà thờ Lớn Hà Nội.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Một phụ nữ Pháp di dạo bên bờ hồ Hoàn Kiếm, người hầu nữ Việt Nam dắt chó đi theo.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Bà đầm người Pháp chụp hình kỷ niệm ở phố Tràng Tiền trước khi phải rời khỏi Hà Nội.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Nhà thờ Lớn Hà Nội sáng 10/10/1954 vẫn diễn ra thánh lễ.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Những người đạp xích lô chờ khách bước ra từ nhà thờ.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Khoảng sân trước nhà thờ lớn nhìn tầng gác của một tháp chuông.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Một cậu bé Hà Nội câu cá ở giếng Thiên Quang trong khu du tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Khuê Văn Các trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Trẻ em học vẽ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Khung cảnh vắng lặng của phố Cầu Gỗ sáng sớm ngày 10/10/1954.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Toàn cảnh khu vực diễn ra lễ hạ cờ của quân Pháp ở thành Hà Nội trước khi lực lượng Việt Minh tiếp quản Thủ đô, tháng 10/1954. Góc bên phải bức ảnh là cột cờ Hà Nội.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Nghi lễ này là một biểu tượng đánh dấu sự chấm hết cho ách thống trị của thực dân Pháp ở Hà Nội.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Các binh sĩ giơ tay chào khi lá cờ của Pháp được hạ xuống.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Lá cờ bắt đầu được gỡ…

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    …Và cuốn lại trong sự câm lặng của những người lính Pháp đang có mặt tại nơi đây.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Lính Pháp chuẩn bị rút khỏi Hà Nội trước khi quân đội Việt Minh tiến vào.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Lính Pháp rút khói Hà Nội qua đường cầu Long Biên.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Một nhóm lính di chuyển trên cầu Long Biên.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Trái với khung cảnh náo nhiệt nơi Việt Minh tiến vào, người Pháp rời khỏi Hà Nội trong yên lặng.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Tốp lính Pháp di chuyển qua một góc phố tuyệt đẹp của Hà Nội.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Lính Pháp trên một xe quân sự quay đầu lại nhìn đoàn quân Việt Minh đang tiến vào thành phố.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Quân Pháp ở Gia Lâm.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Phụ nữ Hà Nội cầm cờ đỏ sao vàng đứng trên đường tàu điện Ngã Tư Sở chào đón bộ đội Việt Minh về tiếp quản Thủ đô.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Dân chúng tụ họp bên bờ hồ Gươm chờ đợi đoàn quân tiếp quản Thủ đô.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Các chiến sĩ Việt Minh tiến vào thành phố dưới cơn mưa mùa thu lất phất.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Đoàn quân chiến thắng đi qua rạp Đại Nam ở phố Huế .

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Đoàn quân chiến thắng đi qua rạp Đại Nam ở phố Huế .

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Sự hào hứng của trẻ em Hà Nội trong ngày Thủ đô được giải phóng.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Trẻ em trên phố Hàng Bạc cầm cờ vẫy chào bộ đội Việt Minh.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Trẻ em ở Ngã Tư Sở.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Cở đỏ sao vàng được cắm trên Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ở Hà Nội – cơ quan đầu não của thực dân Pháp trên toàn miền Bắc.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Các chiến sĩ Việt Minh biểu lộ niềm vui sau khi tiếp quản Phủ Thống sứ.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Đội quân tiếp quản Thủ đô tập trung tại khu vực bờ hồ Hoàn Kiếm.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Chiếc xe của báo Dân Mới, cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Thanh – Nghệ Tĩnh tham gia vào ngày vui ở Hà Nội.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Vẻ hân hoan của người dân Hà Nội vào ngày được giải phóng khỏi ách thực dân Pháp.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Một hiệu may ở Hà Nội khẩn trương may những lá cờ đỏ sao vàng để chào đón chính quyền mới.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Đoàn quân Giải phóng bước qua bờ hồ Hoàn Kiếm trước sự chứng kiến của hàng nghìn người dân.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Trút gánh nặng trên vai sau một cuộc hành quân dài, các chiến sĩ thể hiện niềm vui chiến thắng.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Hàng trăm người tập trung ở Ngã Tư Sở để hát vang những khúc ca yêu nước.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Trẻ em cũng rất hào hứng ca hát.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Người dân đứng bên đường nhìn quân Pháp rút khỏi Hà Nội.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Một đoàn xe đi qua dãy phố chật kín người.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Trẻ em trên phố Huế tò mò ngắm nhìn các chú bộ đội.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Người dân tụ họp bên một ngôi nhà treo biểu ngữ “Hòa bình vạn tuế”.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Người dân tụ họp bên một ngôi nhà treo biểu ngữ “Hòa bình vạn tuế”.

    Ảnh toàn cảnh ngày giải phóng Thủ Đô Hà Nội 10/10/1954

    Một xe tải chợ bộ đội Việt Minh tiến vào Hà Nội.

  • Ảnh hiếm về 36 Phố phường Hà Nội hơn 100 năm trước!

    Ảnh hiếm về 36 Phố phường Hà Nội hơn 100 năm trước!

    Phố Hàng Mắm chỉ bán mắm, cá khô còn Hàng Đường bán nhiều bánh mứt kẹo giống như hiện nay.

    36 phố phường là cụm từ chỉ khu phố buôn bán của Hà Nội hình thành từ hơn 1.000 năm trước và biến đổi mạnh vào đầu thế kỷ 20. Trong ảnh là phố Hàng Mắm xưa. Đó vốn là con đường dân vạn chài gánh các loại mắm từ bên sông Hồng vào phố Hàng Bạc và tỏa đi bán trong khu 36 phố phường. Do mặt hàng này tỏa mùi khó chịu nên sau này, những người gánh dừng lại bán cố định và hình thành nên con phố chuyên bán loại đặc sản này. Trước năm 1900, phố Hàng Mắm chỉ gồm các cửa hàng bán mắm, đồ ướp và cá khô. Đến những năm 1930, nơi đây xuất hiện thêm các cửa hàng bán vại sành, tiểu sành, bia đá, đá mài… Ngày nay, người bán mắm đã chuyển hết vào chợ Hàng Bè, phố Hàng Mắm giữ nguyên tên nhưng chỉ còn những cửa hàng bán mặt hàng sành đá.

    Trục đường quan trọng nhất đối với hoạt động thương mại của khu 36 phố phường Hà Nội là đường kè bờ sông, ngày nay là đường Yên Phụ – Trần Nhật Duật – Trần Quang Khải. Một bên đường là các cửa ngõ đi vào khu buôn bán, một bên là sông Hồng luôn đông đúc tàu bè chở hàng từ khắp nơi đổ về. Người Pháp từ khi mới sang đã nhận thấy tầm quan trọng của con đường nên cho xây dựng rất hoành tráng, lấy tên là Đường kè Thương mại (Quai Du Commerce). Đường chạy qua cả ga tàu hỏa đầu cầu Long Biên và bến xe ôtô ở Bến Nứa tại vị trí bến xe buýt Long Biên ngày nay. Sau trận lụt lớn năm 1926, chính quyền mới đắp con đê khiến con đường này bị ngăn cách với sông Hồng.

    Khu 36 phố phường còn có tên gọi nôm là “Kẻ Chợ” – cách gọi những nơi tập trung buôn bán ở thời kỳ phong kiến. Đến những năm 1990, cách gọi “Phố cổ Hà Nội” mới dần phổ biến. Trong ảnh là phố Hàng Chiếu, còn được gọi là Đông Hà. Sách Đại Nam Nhất thống chí chép: “Phố Đông Hà bán chiếu trơn”. Nó giống như một đồn lũy hơn là một khu dân cư hay thương mại. Người Hà Nội còn gọi phố này là Phố Mới do nhà cửa đều được xây mới sau trận hỏa hoạn năm 1888. Hàng Chiếu nằm giữa Đồng Xuân và bến sông Hồng nên luôn luôn sầm uất.

    Toàn cảnh phố Chợ Gạo xưa. Gạo là nông phẩm quan trọng nhất mà người nông dân sản xuất và cũng đáp ứng như cầu thiết yếu của toàn xã hội. Buôn bán gạo do đó cũng trở nên sầm uất nhất ở một đô thị đang phát triển như Hà Nội đầu thế kỷ 20. Xưa kia gạo được vận chuyển chủ yếu bằng đường sông, vì thế chợ buôn bán gạo được đặt sát bờ sông, ngay giữa sông Hồng và chợ Đồng Xuân đoạn qua Ô Quan Chưởng.

    Hàng Bồ xưa tập trung nhiều cửa hàng của người Việt, người Hoa và cả các hãng của Anh, Mỹ và Nhật. Tên gọi Hàng Bồ xuất phát từ việc đây là nơi bán những chiếc bồ bằng mây tre đan. Trên con phố này một thời còn bán các loại tranh Tàu treo ngày Tết và các loại học phẩm. Đây cũng là chốn các ông đồ già Tết đến, trải chiếu ngồi viết chữ thuê.

    Thôn Cổ Vũ ở Hà Vĩ (Thường Tín, Hà Đông) có nghề làm đồ gỗ sơn đã lên lập nghiệp ở khu 36 phố phường Hà Nội và hình thành nên phố Hàng Hòm. Nay dấu tích ngôi đền thờ tổ nghề gỗ sơn vẫn nằm trong phố. Xưa kia, hàng năm người dân phố Hàng Hòm vẫn giữ ngày giỗ tổ nghề trùng với lễ hội ở làng quê Hà Vĩ. Nhà cửa trên phố Hàng Hòm vốn đồng dạng với những phố cổ xung quanh, nhưng trong 60 ngày đêm chiến sự cuối năm 1946 đầu 1947, nhà cửa gần như bị phá hủy hoàn toàn, sau đó mới được xây dựng lại.

    Phố Hàng Bè xưa nằm sát sông Hồng, vốn là nơi bán các bè gỗ và vật liệu làm nhà. Mặt hàng buôn bán ở đây ngày càng mở rộng sang các loại lâm thổ sản từ miền ngược đưa xuống và hải sản từ miền biển chuyển vào, khi bờ hữu ngạn dần mở rộng so sông bồi cát. Ngày nay, Hàng Bè vẫn là khu chợ nhộn nhịp, nổi tiếng là “chợ nhà giàu” của Phố cổ Hà Nội.

    Phố Hàng Trống ban đầu kéo dài suốt từ đầu Hàng Gai đến tận Tràng Thi, bao gồm cả một đoạn nhìn ra hồ Gươm (song song Hàng Khay bây giờ). Phố Hàng Trống như một hành lang nối khu phố cổ với không gian hồ Gươm và gắn với khu trung tâm thương mại của người Âu ở phố Tràng Tiền. Trên phố có nhiều khách sạn, cửa hàng và một số nghề mà thợ khéo từ các nơi tìm đến lập nghiệp như nghề thêu, nghề khảm và đặc biệt là nghề vẽ tranh mang thương hiệu Hàng Trống.

    Phố Lò Rèn trước kia là thôn Tân Khai, hình thành từ những người làm nghề sửa chữa nông cụ bằng sắt, gốc làng Canh (Hòe Thị, Từ Liêm) tụ về. Khi sông Tô Lịch chạy qua nơi đây bị lấp, đất làng biến thành phố xá, cư dân đông dần, có cả người làng Hà Từ (Sơn Tây) lên mở lò. Có thời phố còn được gọi là Hàng Bừa vì bán nhiều răng bừa. Khi cầu Long Biên xây dựng, vật liệu cũng như công nghệ chế tác sắt thép được phổ biến, việc tán đinh bu lông đào tạo được nhiều nhân lực bản địa nên nghề rèn phát đạt. Sau này, các công trình xây dựng bắt đầu sử dụng nhiều sắt thép kéo theo cả nghề rèn và nghề buôn vật liệu, vật dụng sắt thép phát triển. Vì thế những phố kế cận với phố Lò Rèn cũng có nhiều nhà mở cửa hàng buôn bán đồ sắt.

    Khu 36 phố phường có một con phố ngắn gọi là Hàng Thiếc. Thiếc ở đây được dùng để đúc một số vật dụng như chân đèn, cây nến, lư hương… nhưng chủ yếu vẫn để làm chất liệu hàn ghép các đồ làm bằng kim loại khác. Các cửa hàng ở đây còn sử dụng nhiều phế liệu, chủ yếu là thùng đựng dầu hỏa, để làm thành các vật dụng như chậu, thùng gánh nước… Ở đây còn làm các loại đồ chơi có thể cử động như thỏ đánh trống, con bướm vỗ cánh, tàu thủy chạy bấc dầu hỏa…

    Hàng Đường là cái tên có từ trong ca dao xưa. Phố có nhiều cửa hàng mứt kẹo có tiếng và đặc biệt sầm uất vào những ngày giáp Tết Trung Thu hay Tết Nguyên đán. Ngoài đồ ngọt, Hàng Đường còn có nhiều cửa hàng vải vóc của Ấn kiều và cửa hàng tạp hóa của người Hoa.

    Phố Hàng Khay nằm ở bờ Nam của hồ Gươm. Khay là món đồ gỗ dùng bày đặt ấm chén uống trà, uống rượu hay những đồ vật gì cần sự sang trọng. Nó đẹp nhờ tài khéo của người thợ khảm trai hay ốc lên mặt gỗ. Làng nghề thợ khảm khay vốn tập trung trên đất bị Tây lấy làm đường Paul Bert (Tràng Tiền). Đoạn đường ngắn này một thời còn gây ấn tượng bởi các cô gái từ làng hoa Ngọc Hà ngồi thành dãy bên phía bờ hồ Gươm.

    Nhắc đến khu 36 phố phường Hà Nội không thể không nhắc đến hồ Gươm – Hồ Hoàn Kiếm. Xưa hồ Gươm có tên là “Lục Thủy” gợi lên màu sắc của hồ nước nằm ngay sát phía Nam 36 phố phường Thăn Long xưa.

    Tư liệu: Thành phố Toulouse (Pháp) – Ban quản lý Phố cổ Hà Nội

    Theo VNE

  • Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa
    Nhiều hình ảnh đẹp và quý giá về Hải Phòng cách đây một thế kỷ đã được giới thiệu trên trang Belle Indochine của Pháp.

     

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Một binh sĩ Pháp ngồi trên xe kéo ở Hải Phòng

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Toàn cảnh Hải Phòng nhìn từ không trung năm 1931.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Toàn cảnh Hải Phòng nhìn từ không trung năm 1931.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Cảng Hải Phòng nhộn nhịp.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Một góc nhìn khác về cảng Hải Phòng.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Dòng sông Tam Bạc.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Những con tàu lớn cập cảng Hải Phòng.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Phố Paul Bert, nay là phố Điện Biên Phủ.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Sông Tam Bạc năm 1913.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Hải Phòng một thế kỷ trước nhìn từ trên cao.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Nhà máy xi măng Hải Phòng.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Nhà máy xi măng Hải Phòng.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Khu phố của người Hoa ở Hải Phòng.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Bến thuyền Tam Bạc.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Cảng Hải Phòng nhìn từ không trung.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Chiến hạm Dunkerque của Pháp trên cảng Hải Phòng thập niên 1930.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Kho xăng dầu ở Hải Phòng.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Tuần dương hạm La Motte Picquet ở cảng Hải Phòng.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Trụ sở của phòng thương mại Hải Phòng.

    Ảnh quý giá về Hải Phòng thời thuộc địa

    Tòa thị chính Hải Phòng.
  • Sông Tô Lịch xưa

    Sông Tô Lịch xưa

    Sông Tô Lịch là một con sông nhỏ, chảy trong địa phận thủ đô Hà Nội. Dòng chính sông Tô Lịch khi chảy qua các quận huyện: Thanh Xuân, Hoàng Mai và Thanh Trì còn được gọi là Kim Giang. Sông Tô Lịch là một đường bao của kinh đô Thăng Long xưa, nó là một cạnh của tứ giác nước Thăng Long.

    “Tứ giác nước” của Giáo sư Trần Quốc Vượng

    Tên sông Tô Lịch tương truyền lấy từ tên một vị thần sống vào thời nhà Tấn đô hộ xứ Giao Chỉ. Đến thời nhà Đường, nơi đây là vị trí xây dựng thành Đại La.

    Họa đồ thành Thăng Long thời Lê với sông Nhị chảy ở phía đông, tháp Báo Thiên ở giữa, vương phủ chúa Trịnh chếch ở phía nam tháp, hồ Tây ở phía bắc và thành Thăng Long gồm hai vòng lũy nằm giữa hồ Tây và tháp Báo Thiên

    Bản đồ Thăng Long theo Hồng Đức Địa Dư, năm 1490.

    Bản đồ Hà Nội cuối thế kỷ 19 trong Đồng Khánh Địa Dư Chí.

    Bản đồ thời Lê Vẽ năm Gia Long thứ 9 (1810), Nhị Hà(sông Hồng) số 33, Ngòi Tô Lịch số 35

    Bản đồ năm 1873

    Tô Lịch vốn từng là một phân lưu của sông Hồng, đưa nước từ thượng lưu ở sông Hồng sang sông Nhuệ. Đến đoạn trung lưu, nó gặp hồ Tây (là dấu tích của đoạn sông Hồng cũ, nằm cạnh Quán Thánh) và một phần nước từ hồ Tây được cung cấp cho đoạn sông từ đó đến hạ lưu. Sách Đại Nam nhất thống chí (soạn giữa thế kỷ 19) đã viết[1]:

    Bến cảng nằm ở nơi hợp lưu của sông Tô Lịch và sông Hồng. Cửa ô ngoài cùng bìa phải là vị trí Ô Quan Chưởng (phố Hàng Chiếu) ngày nay.

    Cảnh họp chợ ở bến sông.

    Sông Tô ở phía Đông tỉnh thành (Hà Nội) là phân lưu của sông Nhị, chảy theo phía Bắc tỉnh thành vào cửa cống thôn Hương Bài, tổng Đồng Xuân, huyện Thọ Xương (cửa sông xưa nằm ở vị trí phố Cầu Gỗ quận Hoàn Kiếm) chuyển sang phía Tây huyện Vĩnh Thuận đến xã Nghĩa Đô ở phía Đông huyện Từ Liêm và các tổng thuộc huyện Thanh Trì, quanh co gần 60 dặm, tới xã Hà Liễu chảy vào sông Nhuệ.

    Bản đồ Hà Nội năm 1873 của nhà địa lý Frederic Romanet du Caillaud.

    Một tấm bản đồ khác của Hà Nội năm 1873.

    Bản đồ khu vực trung tâm Hà Nội năm 1873 do người Pháp ban hành.

    Bản đồ Hà Nội năm 1890.

    Thuyền trên dòng sông Hồng, một phương tiện đường thủy quan trọng cho sự phát triển Thăng Long-Hà Nội

    Phong cảnh tượng trưng trên dòng sông Hồng gần Hà Nội

    Một kiểu làng người Việt dọc theo bờ sông Hồng

    Điện Long Thiên chuyển thành trạm lính phòng thủ (1884 – 86). Ảnh- Hocquard. Lúc này dòng sông Tô vẫn còn trong mát uốn lượn quanh Hà Nội và khu vực đầu sông vẫn nổi tiếng trên bến đươi thuyền.

    Cửa Bắc thành Hà Nội, nhìn từ phía ngoài, cảnh sắc đã hoang tàn sau khi thành Hà Nội thất thủ và quân Pháp chiếm đóng.

    Cầu Giấy gần Hà Nội), nơi ghi dấu những trận giao tranh quân Pháp với quân người Việt, quân Tàu (quân Cờ Đen).

    Dẫn trâu đi ra sông, một cảnh que thuộc của làng quê ven sông, hồ vùng đồng bằng Bắc Bộ.

    Vùng lân cận Hà Nội – Sông Tô Lịch

    Làng làm nghề giấy cũng nhiều làng nghề khác đòi hỏi dòng nước chảy Tô Lịch gần Hà Nội

    Phong cảnh làng bên bờ Hồ Tây và dòng sông Tô Lịch chảy qua.

    Bản đồ Hà Nội năm 1898, lúc này thành Hà Nội đã bị phá hủy chỉ còn một số di tích trong đó có cột cờ và Cửa Bắc, nhiều nơi đã bị san lấp để phát triển đô thị theo kiểu Châu Âu trong đó có nhiều đoạn sông Tô Lịch

    Hà Nội xưa gọi là Kẻ Chợ bởi tự thân là một cái chợ lớn đáp ứng nhu cầu một thời là kinh đô của những vùng xung quanh. lúc đó giao thông luồng lạch rất quan trọng, nhưng khi đô thị phát triển theo kiểu Châu Âu đã cho lấp dần các ao hồ , ngòi lạch trong khu người Việt (khu phía Đông thành), trong bức ảnh này tại khu chợ Đồng Xuân mới hình thành cho thấy cửa sông vẫn còn dấu tích của bến bãi sông nước một thời.

    Trong bộ sưu tập ảnh của ông, có thể đây là những tấm ảnh cuối cùng cho thấy kiến trúc thành còn khá nguyên vẹn. Việc quy hoạch hoàng thành mới được triển khai, thể hiện ở việc trồng cây xanh và làm đường ở khu vực cột cờ Hà Nội.

    Con phố mang tên “Rue de France – Nước Pháp” từ bờ sông Hồng đi thẳng vào trung tâm hồ Hoàn Kiếm, tạo nên một con đường mới và sầm uất nhất: Đường Paul Bert, nay là Tràng Tiền.

    Con đường đầu tiên mở mang không gian thành phố về phía nam hồ Hoàn Kiếm mang tên vị vua đã ký nhượng Hà Nội cho Pháp – Đồng Khánh – nay chính là phố Hàng Bài.

    Đoạn sông bị lấp: Đoạn sông từ Cầu Gỗ đến Bưởi, nay đã bị lấp, chỉ còn lại một vài dấu tích như ở Thụy Khuê (nằm ở mặt sau của tòa chung cư Golden West Lake và một khu dân cư nhỏ ở gần chợ Tam Đa). Và do đó, Tô Lịch không còn thông với sông Hồng nữa. Dòng chảy của đoạn sông đã bị lấp này theo lộ trình sau: từ bên cạnh phố Cầu Gỗ ngược lên phía Tây Bắc (cống chéo) tới Hàng Lược, men theo phía dưới đường Phan Đình Phùng (phía ngoài mặt bắc thành Hà Nội), rồi chảy dọc theo hai phố Thụy Khuê và Hoàng Hoa Thám ngày nay ra đến đầu đường Bưởi nằm ở phía Nam Hoàng Quốc Việt (gặp đoạn sông Tô Lịch ngày nay). Đoạn sông còn lộ thiên ở Thụy Khuê đó còn được gọi là mương Thụy Khuê, nối từ cống Đõ (ở đầu dốc Lafore), chạy tới cống ngầm dưới lòng chợ Bưởi rồi đổ ra sông Tô Lịch ngày nay. Đoạn mương đó đã được thông báo về dự án cống hóa từ cuối năm 2005, dự kiến khởi công vào quý I-2006 nhưng hiện nay vẫn đang bị bỏ dở, khiến người dân sống gần đó đang phải sống trong môi trường nước thải ô nhiễm

    Nghề giấy làng Yên Thái – Những nghề gây ô nhiễm và đòi hỏi có dòng sông chảy qua.

    Nghề đúc đồng làng Ngũ Xá bên hồ Tây. Những ngưòi phụ nữ đang thực hiện công đoạn chế tạo loại khuôn mẫu từ đất sét – Những nghề gây ô nhiễm và đòi hỏi có dòng sông chảy qua.

    Những ngôi làng ven sông cùng với công trình tín ngưỡng cạnh cái ao và ven sông, một cấu trúc điển hình làng dọc sông Hồng và sông Tô Lịch-Ảnh chụp năm 1950

    Ảnh chụp năm 1950 cho thấy những dải sông uốn lượn khi đó các con sông Hà Nội giao nhau còn nhiều ở vùng ven và chưa bị ô nhiễm như ngày nay.

    Có thể nói sự phát triển của làng nghề không chỉ có vai trò nâng cao mức sống mà còn là dấu ấn truyền thống văn hoá dân tộc tại mỗi thời kỳ. Làng nghề thủ công ở Hà Nội có rất nhiều nguồn gốc khác nhau, những làng nghề có sẵn chiếm phần nhỏ trong tổng số làng nghề. Ða phần đều được di dời từ nơi khác về nhưng trong đó ven sông Hồng, sông Tô Lịch đã để lại nhứng làng nghề nổi tiếng…

    Các làng nghề chủ yếu ở Hà Nội như: làng đồ vàng bạc – kim hoàn, làng gốm Bát Tràng, làng đúc đồng Ngũ Xã, làng giấy Yên Thái, những làng hoa, làng vải Ninh Hiệp, làng lụa Vạn Phúc…

    Hà Nội trước kia đã nổi tiếng với những làng nghề phong phú, thể hiện qua câu thành ngữ quen thuộc “Hà Nội 36 phố phường”. Theo thời gian, bộ mặt đô thị của khu phố cổ đã nhiều thay đổi, cuộc sống và làng nghề cũng đổi thay, dòng sông Tô đã dần dần biến mất cảnh xưa…, không còn đóng vai trò quan trọng trong giao thương, giao thông tại Thăng Long-Hà Nội như trước đây nữa.

    Bản đồ Hà Nội ngày nay đánh dấu dòng sông Tô Lịch bị lấp

    Đoạn sông ngày nay: Sông Tô Lịch ngày nay bắt đầu từ phường Nghĩa Đô thuộc quận Cầu Giấy (phía nam đường Hoàng Quốc Việt), chảy cùng hướng với đường Bưởi, đường Láng và đường Kim Giang về phía Nam, Tây Nam rồi ngoặt sang phía Đông Nam và đổ ra sông Nhuệ ở đối diện làng Hữu Từ thuộc xã Hữu Hòa, Thanh Trì.

     

    (1) Ngô Văn Phú (31/05/2009, 13:05 GMT +7). “Tre xanh trong lòng Hà Nội”. Đại Nam nhất thống chí, NXB Khoa học Xã hội, 1971, tập III, trang 177 (bằng Tiếng Việt) (Báo An ninh thủ đô)

    Theo Wikipedia

  • Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Năm 1805, vua Gia Long lệnh phá bỏ thành cũ, xây lại thành mới nhỏ hẹp hơn rất nhiều so với Hoàng thành các thời vua trước vì cho rằng đây chỉ còn là Trấn Bắc thành.

    Thành hình vuông mỗi bề chừng một cây số xung quanh là hào nước sâu. Tường thành xây bằng gạch hộp, chân thành xây bằng đá xanh. Bốn bức tường thành tương ứng với bốn con phố hiện nay là: phố Phan Đình Phùng ở phía Bắc, phố Lý Nam Đế ở phía Đông, phố Trần Phú ở phía Nam, đường Hùng Vương ở phía Tây. Ở trong, giữa hai phố Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương là khu vực Hành cung.

    Thành mở ra 5 cửa: cửa Đông (ứng với phố Cửa Đông), cửa Tây (ứng với phố Bắc Sơn), cửa Bắc (nay vẫn còn), cửa Tây Nam, cửa Đông Nam (tương ứng với đoạn giao phố Điện Biên Phủ và Nguyễn Thái Học).

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Năm cửa thành thể hiện rõ trên bản đồ Hà nội đầu thế kỉ 19

    Trong thành có nhà Kính Thiên. Phía đông thành là nhiệm sở của Tổng trấn Bắc thành. Phía tây là kho thóc, kho tiền, và dinh bố chính là viên quan phụ trách những kho ấy.

    Năm 1812 dựng Cột cờ Hà Nội ở phía nam thành. Trước cột cờ là Hồ Voi, nơi đặt dinh tổng trấn và các Tào thay mặt các Bộ. Có kho, võ miếu, đàn Xã tắc để tế trời đất, nền Tịch điền để làm lễ động thổ hàng năm. Có nhà ngục và nơi pháp trường gọi là Trường hình. Mỗi cửa thành đều có lính đóng, ngoài cửa Nam có Đình Ngang Cấm Chỉ.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Kì Đài và Đoan Môn – phần phía Nam của Hành Cung – nhìn từ phía đường Lý Nam Đế ngày nay

    Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính lớn Minh Mạng đã cho đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Năm 1835, vì cho rằng thành Hà Nội cao hơn kinh thành Huế, Minh Mạng cho xén bớt 1 thước 8 tấc, thành Hà Nội chỉ còn cao chừng 5m.

    Năm 1848, vua Tự Đức cho tháo dỡ hết những cung điện còn lại ở Hà Nội chuyển vào Huế.Cái tên này tồn tại cho đến năm 1888 khi nhà Nguyễn chính thức nhượng hẳn Hà Nội cho Pháp.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Hà Nội 1885Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Một góc thành Hà nội – ảnh của Hocquard chụp khoảng 1884 -1885

    Người Pháp đổi Hà Nội thành thành phố. Đến khi chiếm xong toàn Đông Dương họ lại chọn đây là thủ đô của Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp. Thành Hà Nội bị phá đi hoàn toàn để lấy đất làm công sở và trại lính cho người Pháp. Kì Đài, Đoan Môn, nền điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn còn lại đến nay chỉ vì chúng được người Pháp dùng cho mục đích quân sự.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Một bức ảnh hiếm chụp phía trước Đoan Môn thời kì người Pháp phá thành Hà nội.

    Và từ đây bắt đầu một công cuộc xây dựng và phát triển Hà nội với tham vọng dựng “một Paris thu nhỏ trong lòng Đông Dương” để thoả nỗi nhớ của người xa xứ. Công cuộc này kéo dài tới đầu những năm 40 của thế kỉ XX.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Bắc Môn

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Bắc Môn thời Nguyễn (xây trên nền Cửa Bắc thời Lê) hoàn thành năm 1805, cũng như Đoan Môn kiến trúc Bắc Môn có dạng vọng lâu: Phần thành ở dưới và phần lầu ở trên.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Ảnh thành Cửa Bắc của bác sĩ Hocquard chụp khoảng 1884 -1885. Đã có dấu đạn của pháo thuyền Pháp bắn vào thành năm 1882. Xung quanh thành là một hào nước rộng với một cây cầu dẫn vào cổng thành.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Một bức nữa của bác sĩ Hocquard chụp từ phía trong thành, nơi đã đầy lính Pháp

    Sau khi chiếm thành Hà nội Pháp cho đập phá san bằng thành trì, chỉ để lại Cột Cờ, điện Kính Thiên, cung Hậu Lâu, thành Cửa Bắc.Vọng lâu trong bức ảnh này đã bị phá.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Mặt ngoài cổng thành bị bịt kín, ba chữ Chính Bắc Môn trên cổng thành không còn, trên mặt thành là đài quan sát của lính Pháp. Con đường rợp bóng cây hai bên là đường Phan Đình Phùng ngày nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Thời kì người Pháp khẳng định vị thế của mình. Thành Cửa Bắc được nhìn nhận như một chứng tích chiến thắng: Ba chữ Chính Bắc Môn xuất hiện lại, cổng vẫn bị bịt, nhưng từ phía trong, cho phép nhận ra lối vào thành cũ, hai bức tường bên gợi lại hình dáng thành xưa, và đặc biệt họ gắn lên một tấm biển bằng tiếng Pháp: ” 25 Avril 1882. Bombardet de la Citadele par les Cannonieres “Suprise” et “Fanfare”.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Ba chữ “Chính Bắc Môn” trên cổng thành

    Hậu Lâu

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Hậu Lâu là một toà lầu xây phía sau cụm kiến trúc điện Kính Thiên. Tuy ở sau hành cung nhưng lại là phía bắc, được xây với ý đồ phong thuỷ giữ yên bình phía bắc hành cung, nên mới có tên là Tĩnh Bắc lâu và còn có tên là Hậu lâu (lầu phía sau).

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Theo một vài tài liệu Hậu Lâu cũ đã bị đổ nát trong thời kỳ Pháp xâm lược vào năm 1876, sau người Pháp đã cải tạo, xây lắp để lấy chỗ ở và làm việc của quân đội Pháp. Liệu đó có phải là lý do mà trong vô số những bức bưu ảnh chụp thành cổ Hà nội của người Pháp không thể tìm thấy một bức nào chụp Hậu Lâu.

    Điện Kính Thiên

    Trung tâm của Cấm thành là Điện Kính Thiên, nằm trên trục chính tâm (đường Thần Đạo) theo hướng Nam – Bắc: Kì Đài, Đoan Môn, Điện Kính Thiên, Hậu Lâu và Bắc Môn. Không còn nhiều, nhưng đó chính là dấu xưa còn lại của nơi tập trung quyền lực cao nhất của hầu hết các vương triều phong kiến Việt Nam

    Năm 1010, sau khi dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã dựng điện Càn Nguyên tại vị trí núi Nùng tức Long Đõ (Rốn Rồng), nơi hội tụ khí thiêng non sông theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền. Đến 1029, vua Lý Thái Tông mở mang thêm và đổi tên thành Thiên An. Sang đời Trần, điện được giữ nguyên tên. Đến đời Lê, điện mới có tên là Kính Thiên. Đó là cung điện quan trọng bậc nhất, nơi tiến hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi tiếp sứ giả nước ngoài, nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự. Nhà Nguyễn lên ngôi, Thăng Long từ vị trí Kinh đô của quốc gia trở thành trấn thành rồi tỉnh thành, điện được gọi là Long Thiên và trong suốt thời nhà Nguyễn, đây được xem là hành cung phía Bắc của các vị vua mỗi khi có việc từ Huế ra Bắc Hà.

    Bức ảnh quý chụp Điện Kính Thiên từ Đoan Môn trên cho thấy con đường lát gạch dẫn đến sân điện và thềm điện.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Post lại bức ảnh Điện Kính Thiên của Hocquard. Ngăn cách giữa điện Kính Thiên và khu vực phía Hậu Lâu đằng sau là một bức tường có trổ hai cổng đối xứng nhau. Trong ảnh cổng phía Đông đựợc chụp rõ (trong vòng tròn mầu vàng),còn cổng phía Tây bị khuất trong bóng cây)

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Cổng phía Đông nằm vuông góc với đường nguyễn Tri Phương

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Bức cận cảnh cho thấy lính Pháp đã đồn trú tại đây. Hocquard viết: ” Chính tại nơi đây các chiến hữu của Francis Garnier đến trú ẩn sau khi người cầm đầu của bọn họ bị giết chết. Với một số lượng ít ỏi, những chiến hữu ấy không đủ sức bảo vệ được nhiều dặm thành ngoài của Hoàng thành nên họ phải trú thân vào cả trong trung tâm này trước đã. Rồi ngay sau đó họ cũng phải rời bỏ luôn cả chiến tuyến thứ hai vẫn còn rất rộng, và vội vàng xây chung quanh nền đất của ngôi Chính điện một bức tường gạch có trổ các lỗ châu mai..”

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Còn đây là một bức vẽ miêu tả sự canh gác của lính Pháp trong khu vực điện

    Năm 1886, quân Pháp đã phá toàn bộ hành cung và xây dựng một toà nhà 2 tầng ngay trên chính nền điện Kính Thiên để làm Bộ chỉ huy pháo binh.

    Rồng đá Điện Kính thiên

    Khi Thủ đô được giải phóng, tòa nhà chỉ huy pháo binh xưa kia được sửa sang và trở thành nhà làm việc của các lãnh đạo Bộ Quốc phòng – Bộ Tổng tham mưu như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng (toà nhà được gọi là nhà Con Rồng)

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Di tích điện Kính Thiên hiện giờ chỉ còn nền điện và thầm bậc với phía trước là đôi rồng đá thời Lê dài 5.3m, chín khúc trong thế trườn xuống từ thềm điện, và hai bờ thềm bậc tạc mây lửa và hoa lá cách điệu (tạc năm 1467)

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Và một đôi rồng đá tạc thời Hậu Lê dài 3.4m ở phía sau điện.

    Cổng phía Đông dẫn vào nơi trước đây là điện Kính Thiên. Đã xuất hiện những toà nhà kiến trúc Pháp là sở chỉ huy pháo binh.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

     

    Thềm điện kính thiên

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Ở hướng chụp này đã thấy phía trước là cổng phía Đông dẫn ra đường Hoàng Diệu ngày nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Thềm điện kính thiên

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Xe ngựa, xe kéo, nón mê, nón quai thao, và trang phục nhà binh – những hình ảnh thấy rất nhiều trên những tấm bưu ảnh thời thuộc địa

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Nhìn lại toàn cảnh con đường chạy ngang trước điện từ cổng phía Tây

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Cổng phía Tây dẫn ra đường Hoàng Diệu

    Đoan Môn

    Đoan môn là một trong năm di tích còn lại của thành Hà nội, nằm trên đường Hoàng Diệu. Về quy hoạch tổng thể, kinh thành Thăng Long gồm ba vòng thành: La Thành rộng lớn bao quanh phía ngoài, tiếp đến là Hòang Thành, trong cùng là Cấm Thành nơi ở của Hoàng Đế. Đoan Môn là lần cửa trong cùng dẫn vào cung vua.

    Đoan Môn hiện còn tương đối nguyên vẹn. Di tích nằm ở phía nam của điện Kính Thiên, thẳng trục với Cột cờ Hà Nội. Đoan Môn được xây dựng theo chiều ngang, vật liệu chủ yếu là gạch vồ, loại gạch phổ biến của thời Lê (thế kỷ XV) và đá cuốn vòm cửa. Khảo cổ đã đào thám sát và xác định chắc chắn Đoan Môn còn lại hiện nay được xây dựng từ thời Lê, đến thời Nguyễn có sửa sang.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Hình ảnh thành Hà nội với cổng phía Nam (Đoan Môn) của bác sĩ Hocquard chụp khoảng 1884-1885

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Bức bưu ảnh chụp Đoan Môn từ hướng đường Hoàng Diệu ngày nay

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Đoan Môn – từ phía đương Nguyễn Tri Phương

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    và từ hướng Cột cờ Hà Nội với con đường ngày nay mang tên Nguyễn Tri Phương

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Những bức ảnh toàn cảnh Đoan Môn từ phía ngoài như thế này giờ không thể chụp được bởi toàn bộ mặt thành bị che khuất bởi Sân vận động Cột cờ và Trung tâm Thể dục Thể thao Quân đội

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay
    Đoan Môn – Thang gạch lên Vọng lâu

    Kì đài

    Cột cờ Hà Nội được xây dựng (từ năm 1805 đến 1812) dưới triều nhà Nguyễn là một trong những công trình kiến trúc ít ỏi thuộc khu vực thành Hà Nội có may mắn thoát khỏi sự phá hủy do chính quyền đô hộ Pháp tiến hành trong ba năm 1894 – 1897.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Bức bưu ảnh vẽ toàn cảnh thành Hà nội từ phía đường Trần Phú ngày nay cho thấy phía trước Kì Đài có một hồ nước rộng – Hồ Voi – nay là công viên với tượng ông Lenin đứng. Dòng chú thích cho biết thời điểm đó thành Hà nội đã bị người Pháp biến thành khu quân sự ( Tonkin: Mirador, Porte de l’ artellier, et caserne de la Citadelle d’Hanoi – Bắc Bộ: Tháp canh, Cổng thành, trại lính)

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Với chiều cao đáng kể, Cột cờ được nhà binh Pháp khi đó dùng làm đài quan sát và trạm thông tin liên lạc giữa ban chỉ huy với những đồn bốt xung quanh, ban ngày dùng làm tín hiệu, ban đêm dùng đèn.

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Cột cờ gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạch. Có hai thang gạch dẫn lên tầng một ( thang phía Tây – hướng ra đường Hoàng Diệu và thang phía Đông hướng ra đường Nguyễn Tri Phương).

    Những bức ảnh dưới chụp Cột cờ Hà nội từ phía đường Hoàng Diệu qua các thời kì:

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

     

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    Dáng hình Hà Nội qua ảnh xưa và nay

    (Còn nữa)

    Theo Nhan’s Blog

  • Bí ẩn khu lăng mộ Thái giám duy nhất tại Việt Nam

    Bí ẩn khu lăng mộ Thái giám duy nhất tại Việt Nam

    Chùa Từ Hiếu hay còn gọi là chùa Thái giám nằm trên ngọn núi Dương Xuân thuộc phường Thủy Xuân (TP Huế).

    Thái giám ra đời từ thời Tây Chu ở Trung Quốc, đây là chức quan chiếm vị trí quan trọng trong triều đình xưa. Thái giám chuyên lo hầu hạ, phục dịch các vị phi tần của vua, lo sắp xếp lịch, ghi chép ngày tháng các phi tần vào hầu hạ vua, để nếu bà phi nào có con sẽ được xác nhận, tránh nhầm lẫn.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Hình ảnh các thái giám xưa dưới triều đại phong kiến

    Thời Nguyễn, ở giai đoạn đầu tiên, mỗi triều vua thường có đến 200 thái giám. Thời Khải Định, thái giám thường được triệu đến tấu nhạc, hầu chuyện cho vua nghe, cùng vua đi dạo… Thời vua Thành Thái, số lượng thái giám ở hoàng cung chỉ còn 15 người, đến khi vua Bảo Đại lên ngôi, đã bãi bỏ hoàn toàn việc tuyển thái giám.

    Auto Draft

    Khuôn viên chùa Từ Hiếu – nơi chôn cất các thái giám

    Tuy thế, trải qua nhiều vương triều lịch sử, câu chuyện của những người mang số phận nam không ra nam, nữ không ra nữ lại là nhưng câu chuyện đầy bi kịch đằng sau lớp vàng son nhung lụa. Thái giám thường là những cậu bé được đưa vào cung từ khá sớm, có khi chỉ mới 7 tuổi, sau khi cắt bỏ bộ phận sinh dục nam thì được dạy dỗ các nghi lễ triều đình, sau đó đưa đến phục vụ vua chúa và các phi tần, họ sẽ sống trong cung suốt đời cho đến khi già yếu sẽ nằm chờ chết ở Cung giám viện, phía ngoài hoàng cung mà không có ai chăm sóc.

    Về cuối đời, do ý thức được số phận bi thảm của mình, một thái giám tên là Châu Phước Năng đã dành dụm tiền bạc, đồng thời kêu gọi các thái giám khác quyên tiền để sửa sang Thảo Am đường (vốn là nơi tu tại gia của hòa thượng Thích Nhất Định) để tìm nơi chôn cất, hương khói cho chính mình.

    Auto Draft

    Gian chính chùa Từ Hiếu

    Việc này được vua Tự Đức và Thái hậu Từ Dũ chấp nhận, đồng thời cũng quyên góp. Vua Tự Đức đổi tên am thành chùa Từ Hiếu có nghĩa là hiếu thuận. Do đây là ngôi chùa do các thái giám quyên tiền sửa sang và là nơi an nghỉ của họ nên còn có tên dân gian là chùa thái giám.

    Khu lăng mộ của chùa được chia làm 3 bậc tương ứng với vai trò và đóng góp khác nhau của các thái giám. Bậc trên cùng là thái giám Châu Phước năng, là người đề xuất và quyên góp nhiều tiền nhất cho chùa nên mộ này cũng to hơn tất cả các ngôi mộ khác. Toàn bộ khu lăng mộ có 25 ngôi mộ, trong đó có 2 ngôi mộ gió (không có thi hài), phần lớn chữ trên bia còn đọc được khá rõ, ghi tên, chức vụ, quê quán và ngày mất của thái giám nằm tại đó.

    Auto Draft

    Một ngôi mộ của thái giám tại khu lăng mộ

    Tam quan của khu lăng mộ khá cao, ở chính giữa cổng là một tấm bia đá ghi lại cuộc đời của các thái giám, trong đó có những câu: “Khi còn sống chúng tôi nương nhờ cửa Phật, mà khi chết thì biết nương nhờ vào đâu? Nhân thấy rằng phía Tây thành có một miếng đất nên lấy gạch xây thành để có nơi thờ cúng về sau, gần với Phật mới là nơi thờ tự lâu dài, bằng hữu ốm đau có nơi chữa bệnh, ai nằm xuống có nơi để mà tống táng…”.

    Auto Draft

    Auto Draft

    Khu lăng mộ của các thái giám dưới triều Nguyễn tại chùa Từ Hiếu

    Ngày nay, khách đến chùa Từ Hiếu vãn cảnh nhưng thường không biết đến sự tồn tại của khu lặng mộ này, hầu hết cảnh vật ở đây đã rêu phong, phủ màu hoang tàn, lạnh lẽo. Chỉ tháng 11 âm lịch hàng năm, chùa mới tổ chức lễ cúng viếng cho các thái giám để an ủi cuộc đời đầy cơ cực của họ.

    Theo Phụ Nữ Today

  • Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa

    Người Thượng hoặc đồng bào sắc tộc là danh từ được dùng thời trước 75 để gọi chung những nhóm sắc tộc thiểu số sinh sống trên cao nguyên miền Trung, như Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông…”Thượng” có nghĩa là ở trên, “người Thượng” là người ở miền cao hay miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống tại Tây Nguyên, còn gọi là miền Thượng (tức là miền thượng du). Chính sách dân tộc dành cho miền này được gọi là Thượng Vụ. Ngày nay, thường dùng chữ “người dân tộc” để gọi chung những sắc dân thiểu số.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Những đàn voi với số lượng không đếm xuể ở Tây nguyên ngày xưa

    Trước thế kỷ 19 thì Tây Nguyên là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số, chưa phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Do đất rộng, người thưa, các bộ tộc thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở thành nạn nhân trước các cuộc tấn công của vương quốc Champa hoặc Chân Lạp nhằm cướp bóc nô lệ.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Vợ chồng người Thượng.

    Ổ Tây Nguyên thuở xưa thì chiêng, ché, voi, trâu có thể đổi được nô lệ. Có loại chiêng chỉ ngang giá vài con trâu nhưng cũng có loại chiêng giá trị tới 40 con trâu hay một tá tù binh, nô lệ.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Đà lạt 1925

    Người dân Tây Nguyên ngày ấy ăn mặc đơn giản, nam thường đóng khố, nữ thường cuốn váy ở trần – về mùa lạnh thì choàng thêm tấm mền cũ. Trang phục khi đi hội của người dân thường được trang trí hoa văn nhiều màu sắc cả nam, nữ đều đeo vòng bạc.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Một gia đình người dân tộc ở GiaRay.

    Tháng 2 năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Chà Bàn, bắt sống vua Chăm Pa là Trà Toàn, sáp nhập phần lãnh thổ Chăm Pa thời đó vào Đại Việt.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Thác Liên Khang ngày ấy.

    Sau khi Nguyễn Hoàng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các chúa Nguyễn ra sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Champa và cũng phái một số sứ đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các bộ tộc thiểu số ở đây dễ dàng chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt, vốn không có thói quen buôn bán nô lệ.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Thiếu nữ Tây nguyên xưa

    Tuy có sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn. Thời Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến công ra Bắc xuân Kỷ Dậu (1789).

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Làm đường xe lửa có răng cưa lên Dalat.

    Dưới triều nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây Nguyên vẫn không thay đổi nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ Tây Nguyên vào bản đồ Việt Nam (Đại Nam nhất thống toàn đồ – 1834).

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Những phụ nữa trẻ trong một dịp lễ hội.

    Người Việt vẫn chú yếu khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng miền Đông Nam Bộ ngày nay, đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây Nguyên (như trường hợp của bộ tộc Mạ).

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Một chiến binh

    Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó, các nhà truyền giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn hoang sơ và chất phác này.

    Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayréna sang Đông Dương, chọn ĐăkTo làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được các bộ lạc thiểu số. Ông ta thành lập Vương quốc Sedang có quốc kỳ, có giấy bạc, có cấp chức riêng và tự mình lập làm vua tước hiệu Marie đệ nhất.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Cô gái đang sãy gạo.

    Nhận thấy được vị trí quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna về châu Âu, chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn lên “đăng quang” thay Mayréna. Vùng đất Tây Nguyên được đặt dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn. Sau đó vài năm, thì vương quốc này cũng bị giải tán.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Phu trạm.

    Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra cao nguyên Lang Biang. Ông đã đề nghị với chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát tại đây.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Voi xưa và nay bao giờ cũng là biểu trưng của Tây nguyên

    Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát của triều đình Đại Nam.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Một gia đình người Thượng ở Đà Lạt.

    Vì vậy, năm 1896, khâm sứ Trung kỳ Boulloche đề nghị Cơ mật viện triều Nguyễn giao cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung kỳ.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Phụ nữ ở bản làng

    Năm 1898, vương quốc Sedang bị giải tán. Một tòa đại lý hành chính được lập ở Kontum, trực thuộc Công sứ Quy Nhơn. Năm 1899, thực dân Pháp buộc vua Đồng Khánh ban dụ trao cho họ Tây Nguyên để họ có quyền tổ chức hành chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Thầy mo và trai bản.

    Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer đích thân thị sát Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát. Vùng đất cao nguyên Trung kỳ (Tây Nguyên) hoàn toàn thuộc quyền cai trị của chính quyền thực dân Pháp.

    Năm 1907, tòa đại lý ở Kontum đổi thành tòa Công sứ Kontum, cùng với việc thành lập các trung tâm hành chính Kontum và Cheo Reo. Những ông chủ thực dân người Pháp bắt đầu lên đây xây dựng các đồn điền đồng thời cũng ngăn cấm người Việt lên theo, trừ số phu họ mộ được. Năm 1917, tại đó, thị xã Đà Lạt được thành lập.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Phụ nữ sau cuộc đi săn thú???
    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Tiếng cồng chiêng trong ngày hội.

    Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng hòa cho thành lập Văn phòng Cố vấn Thượng Vụ để góp ý về những vấn đề liên quan đến cao nguyên miền Thượng. Năm 1957, Văn phòng Cố vấn Thượng Vụ được nâng cấp lên thành Nha Công tác Xã hội Miền Thượng trực thuộc Phủ Tổng Thống, trụ sở đặt tại Huế.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Những phụ nữ đang địu con.

     

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Một phụ nữ trẻ.

    Năm 1958, Phòng Xã Hội được thành lập tại Tây Nguyên với mục đích chính giúp học sinh người sắc tộc được theo học như người Kinh. Năm 1964, Nha Công tác Xã hội miền Thượng đổi thành Nha Ðặc trách Thượng Vụ trực thuộc Bộ Quốc Phòng và sau đó được nâng cấp lên thành Phủ Ðặc ủy Thượng Vụ. Năm 1969, Bộ Sắc Tộc (Bộ Phát triển Sắc Tộc) được thành lập ngay trong chính phủ VNCH do một người Thượng lãnh đạo, và có chức năng tương đương các bộ khác trong chính phủ.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Hồ Lak ngày xưa.

     

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Phụ nữ Tây nguyên xưa và những trang sức trên người

    Tổng trưởng Bộ Sắc tộc là các ông Paul Nưr, Ya Ba, cuối cùng là ông Nay Luett (Nay Louette), một lãnh tụ Gia Rai, cho đến khi Việt Nam thống nhất năm 1975.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Thiếu nữ dân tộc Mạ ở Dalat.

    Tây Nguyên có nhiều dân tộc thiểu số chung sống với dân tộc Kinh như Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông… Chính quyền cũ gọi chung những dân tộc này là “đồng bào sắc tộc” hoặc “người Thượng”; “Thượng” có nghĩa là ở trên, “người Thượng” là người ở miền cao hay miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống trên cao nguyên miền Trung.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên
    Phụ nữ Bana -1926

    Ba Na là nhóm sắc tộc đầu tiên, sau người Kinh, có chữ viết phiên âm dựa theo bộ ký tự Latin do các giáo sĩ Pháp soạn năm 1861. Đến năm 1923 hình thành chữ viết Ê Đê.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Vợ con của trưởng bản.

    Người Mạ sống tập trung chủ yếu ở Lâm Đồng. Trang phục của họ có cá tính riêng về tạo hình áo nữ, đặc biệt là phong cách thẩm mỹ. Mùa làm nông, nhiều người ở trần, mùa rét choàng tấm mền. Dân tộc Mạ có tục cà răng, căng tai, đeo nhiều vòng trang sức.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Người bán gà

    Đàn ông Mạ thường để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố trang trọng có đính hạt cườm, tua dài. Bên cạnh đó họ còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt sau dài hơn vạt trước che kín mông. Áo có các loại : dài tay, ngắn tay và cộc tay. Thủ lĩnh búi tóc cắm lông chim có bộ khiên giáo kèm theo.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Phụ nữ Thượng trong nhà với bộ da hổ, thúng và chuối kề bên

    Phụ nữ Mạ ngày xưa họ ở trần mặc váy, có bộ phận mặc áo chui đầu để tóc dài búi sau gáy. Áo nữ mặc vừa sát thân, dài tới thắt lưng, không xẻ tà, vạt trước và sau áo bằng nhau; cổ áo tròn thấp.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Thác Langbian gần Đà Lạt.

    Tổng thể áo chỉ là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn các màu đỏ, xanh là chính trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn hình học là chủ yếu. Chiều dọc hai bên mép áo được dệt viền các sọc trang trí. Váy là loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Phụ nữ Thượng.

    Về cơ bản là các sọc : màu xanh, đỏ, vàng, trắng trên nền chàm chủ yếu là hoa văn hình học theo nguyên tắc bố cục dải băng ngang truyền thống. Có trường hợp nửa trên váy dệt trang trí hoa văn kín trên nền sáng (trắng) với hoa văn hình học màu đỏ xanh. Nam nữ thường thích mang vòng đồng hồ ở cổ tay có những ngấn khắc chìm – ký hiệu các lễ hiến sinh tế thần cầu mát cho chủ nhân nó. Nam nữ đều đeo hoa tai cỡ lớn bằng đồng, gà voi, gỗ; cổ đeo hạt cườm. Phụ nữ còn mang vòng chân đồng nhiều vòng xoắn

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Phu phát thư kiện.

    Từ 1976 đến đầu thập kỷ 1990, Tây Nguyên gồm 3 tỉnh là Gia Lai-Công Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng. Sau đó tỉnh Gia Lai-Công Tum được chia thành hai tỉnh: Gia Lai và Kon Tum (thay đổi cả cách viết chính thức tên tỉnh). Tỉnh Đắc Lắc chia thành hai tỉnh: Đắk Lắk và Đắk Nông.

    Hiện tại, địa bàn Tây Nguyên có 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Bức ảnh nổi tiếng về người Tây nguyên.

     

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Tắm con bên suối.
     
    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Thiếu nữ Tây nguyên ngày nay.

    Ngày nay, Tây nguyên phát triển mạnh về kinh tế với các đồn điền bạt ngàn trồng cao su, cà phê, hồ tiêu, chè … – trở thành vùng kinh tế động lực, vùng chuyên canh các loại cây công nghiệp dài ngày. Một bộ phận đông đảo người dân tộc thiểu số đã biết chuyển sang trồng các loại cây công nghiệp thay cho tập quán: phát, đốt, chọc, tỉa… lạc hậu trước đây.

    Điện đã về tận các buôn làng biên giới của Chư Prông, Đức Cơ, Chư Pah, Ia Grai, đường giao thông xẻ núi về với “ốc đảo” Kon Pne – những cánh đồng bạt ngàn, quanh năm xanh ngắt nhờ hệ thống thủy nông Ayun Hạ…không còn là chuyện lạ của Tây nguyên

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Ảnh nghệ thuật về Tây nguyên.

    Mặc dù vậy Tây Nguyên vẫn còn là một vùng đất ẩn chứa nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể quý báu, trong đó nổi bật hơn cả là sử thi, mà trước đây chúng ta thường gọi là Trường ca, Anh hùng ca, một thể loại tự sự dân gian truyền miệng, cho tới nay vẫn được lưu giữ trong trí nhớ của người dân và thường được diễn xướng trong các dịp sinh hoạt cộng đồng.

    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa
    Ảnh nghệ thuật về Tây nguyên.

    Việc phát hiện, sưu tầm và công bố các tác phẩm sử thi là cố gắng của nhiều thế hệ các nhà sưu tầm và nghiên cứu văn hoá dân gian gần một thế kỷ qua.

    Riêng văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 15 tháng 11 năm 2005.

    Tây nguyên xưa và nay vẫn là một vùng đất huyền thoại giàu đẹp, một điểm nhấn giữa ngã ba Đông dương.

    Hình ảnh Việt Nam sưu tầm!

  • Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa

    Đêm rằm mười sáu trăng treo

    Anh đóng giường lèo, cưới vợ Lái Thiêu
    Năm xưa, có bao chàng trai người Minh Hương bỏ tiền ra mua cho được chiếc giường lèo (giường bằng gổ, có chạm trỗ) với ước mong cưới được những cô con gái Việt hương sắc ở Lái Thiêu ? Không ai biết. Có điều tôi biết chắc là người Sài Gòn xưa mong cuối tuần đi Lái Thiêu đổi gió và ăn trái cây, nhứt là cứ độ từ tháng 5 đến tháng 8, là mùa trái cây ở Lái Thiêu chín rộ.
    Đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh “mang gươm đi mở cõi”. Đất Bình Dương nằm trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung Phần với đồng bằng sông Cửu Long nên thế đất bằng phẳng hơi dốc, có độ cao trung bình 20-25m so với mặt biển, rất thích hợp với các loại cây công nghiệp và cây ăn trái. Và Lái Thiêu là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trải rộng trên diện tích 1,250 ha.

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
    Thuở trước, Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một. Đến tháng 12 năm 1899 tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập từ Sở Tham biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên Hòa. Đến tháng 10 năm 1956 tỉnh Bình Dương được thành lập, bao gồm tỉnh Thủ Dầu Một và một phần tỉnh Bình Long, có 5 quận, tỉnh lỵ là Phú Cường. Người Bình Dương trong lịch sử của mình đã làm nên di sản văn hóa miệt vườn “đặc trưng miền Đông” và làng nghề truyền thống điêu khắc gỗ, đồ gốm và tranh sơn mài, tiếng tăm vang lừng cả nước cho tới ngày nay.
    Lái Thiêu cách Sài Gòn khoảng 20 km, thuở xưa là nơi nghỉ cuối tuần tuyệt diệu “dành riêng” cho người Sài Gòn. Lái Thiêu còn nổi tiếng là điểm hò hẹn của các lứa tuổi… Lái Thiệu tuyệt vời như thế nhưng hồi đó đâu phải người Sài Gòn nào cũng biết thưởng thức Lái Thiêu đâu!

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
    Qua khỏi cầu Bình Triệu, theo Quốc lộ 13 đi khoảng 20 phút chúng ta sẽ đi vào Lái Thiêu, một vùng đất vườn cây xanh tốt, mát lạnh (trung bình 26 độ, mùa tết 24 độ C), không khí trong lành. Vào trong làng, sâu vào là những nhà vườn, nơi đây có sông có rạch đưa nước len lỏi vào từng góc vườn, có những con đường đất đỏ quanh co theo các lùm cây rợp bóng trái trĩu trên đầu…
    Người Sài Gòn đến Lái Thiêu một phần vì tiếng đồn “Sầu riêng Lái Thiêu”.

    Quả không sai! Nói đến Lái Thiêu không thể không nhắc cái tên “Sầu riêng Lái Thiêu”. Trái sầu riêng ở đây được liệt vào hàng ngon, bổ nhứt và đắt giá nhứt. Sầu riêng trồng được ở Lục Tỉnh nhưng trái không ngon bằng sầu riêng trồng ở Lái Thiêu.
    Người Pháp gọi trái sầu riêng là Durian, hay Durion. Người Việt mình gọi là sầu riêng, và phải chăng tiếng “sầu riêng” do ta đọc trại từ tiếng “Djoerian” của người Malaysia mà ra chăng? Trái sầu riêng không giống trái mít như có người lầm tưởng!
    Cây sầu riêng có tên khoa học là Durio Zibethinus, hay Durio Capparis thuộc họ thảo mộc Malvacées hay Bombacacerae, cùng họ với cây gòn- gạo, cây bông vải. Bổ tách trái sầu riêng ra, bên trong có nhiều múi như trái gòn, trái bông vải.
    Cây sầu riêng nguyên thủy mọc ở rừng Malaysia, người ở đây gọi là cây Djoerian. Người Tàu sang Malaysia buôn bán, họ mang hột về trồng tại Ấn Độ, Thái Lan, Cambodia. Đến khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, có một số cố đạo truyền giáo Gia Tô theo vô xứ Lái Thiêu, và những nhà truyền giáo nầy đã mang nhiều giống cây trái lạ từ các xứ khác vào đây, trong đó có cây sầu riêng.Người Lái Thiêu kể lại, vào năm 1890 có cố đạo người Pháp tên là Cernot đem hột sầu riêng từ xứ Nam Dương về trồng ở họ đạo Tân Quy. Có lẽ đây là cây sầu riêng đầu tiên của Lái Thiêu?

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
    Cây sầu riêng cao lớn tới 20m. Lá hình bầu hơi dài, hoa mọc ở nhánh, trái to, vỏ có gai rất nhọn. Trái cho nhiều múi, mỗi múi có từ 1 đến 5 hột như hột mít. Hột có bao bọc một lớp cơm mềm, màu trắng vàng óng như màu mỡ gà, giống như múi mít mật, mít ráo.
    Sầu riêng chín có mùi rất đặc biệt, gọi là mùi sầu riêng. Mùi xuất phát từ lớp cơm sầu riêng, bay xuyên qua vỏ tỏa ra ngoài. Mùi sầu riêng mạnh hơn mùi mít, người thích thì khen là thơm, ai không ưa thì cho là mùi “khó chịu”. Nói gì thì nói là hễ đã “chịu ăn” sầu riêng rồi thì thấy nó ngon-bùi-béo-thơm và ghiền luôn …
    Cây sầu riêng trổ bông ba đợt trong một năm, cho 60 đến 90 trái. Từ khi trổ bông đến khi trái đậu là 20 đến 25 ngày, và từ ngày trổ bông đến ngày kết trái và chín là 5 tháng. Mùa sầu riêng từ tháng 5 đến tháng 9 dương lịch. Sầu riêng khi “chín mùi” thì tự nhiên ban đêm rụng xuống gốc. Chủ vườn không ai để trái chín mùi cả, mà cắt sầu riêng trước khi chín, nhiều khi trái đem đi bán hãy còn xanh là vậy.
    Mua sầu riêng phải là “người chuyên môn” mới biết trái sầu riêng nào ngon. Sầu riêng chín già bao giờ cũng ngon hơn trái non đem “dú ép” cho chín giả. Trái già nhìn vỏ có màu vàng đậm, gai nở cách xa nhau, gay to và đều. Trái vỏ còn xanh thì phần nhiều ruột chưa chín hết, cơm mỏng và không mềm. Cho nên khi mua,có người đòi người bán khoét một lỗ – gọi là thử: coi màu sắc, coi cơm cứng hay mềm, nếm ngọt lạt … Vây mà nhiều lúc vẫn bị lầm!
    Có người cho rằng sầu riêng ăn rất bổ, giúp nhuận tràng, ăn vô thấy hết mệt nhọc.Những người mà da khô hay nứt nẻ, có gai, nhất là phụ nữ, ăn nhiều sầu riêng sẽ làm cho da nhẵn mịn. Ngày xưa phụ nữ ở Malaysia thường lấy cơm của trái sầu riêng và mỡ của trái bơ làm thuốc xoa bóp cho da trở nên mịn, đẹp, chắc và bóng mịn.
    Măng cụt Lái Thiêu cũng là trái cây níu kéo người Sài Gòn.
    Măng cụt loại trái cây được xem là nữ hoàng của cây ăn trái nhiệt đới, trái có hình dáng đẹp dễ thương và chứa nhiều chất bổ dưỡng. Trái măng cụt chín có màu tím sẫm nhìn bắt mắt, bổ ra bên trong màu trắng tinh gợi cảm, hương thơm dịu mát quyến rủ, và bạn có thể ăn no mà không sợ đầy bụng.
    Măng cụt Lái Thiêu trồng theo kỷ thuật cách 6-7m/cây theo hình vuông, tàn cây không được giáp nhau nên phải tỉa cành sau mỗi vụ thu hoạch. Măng cụt được trồng từ hột cũng có đặc tính giống như cây mẹ, độ 8 – 10 tuổi mới cho trái. Cây măng cụt trổ bông thay lá vào tháng 2, tháng 3. Mùa trái chín từ tháng 5 đến tháng 7.

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
    Theo các nhà nghiên cứu trên thế giới thì măng cụt (Garania Mangostana Linn) là 1 trong 10 “siêu trái cây”, vì măng cụt là sự kết hợp hoàn hảo về nhiều mặt như:hương vị thơm ngon đặc sắc, hình dáng và màu sắc đẹp mắt, giàu dưỡng chất, có khả năng chống oxy hóa và giúp cơ thể chống lại được nhiều bệnh tật. Vỏ măng cụt được xắt lát, sấy khô, rồi nghiền thành bột trị bệnh kiết lỵ.
    Măng cụt không chỉ có ở Lái Thiêu miền Đông, mà còn được trồng vùng Lục Tỉnh như Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, và trong đó Bến Tre măng cụt trồng xen trong vườn dừa lão. Hiện nay toàn tỉnh Bến Tre có khoảng 4,500 ha đất trồng măng cụt, chiếm 77% diện tích cả nước vì ở Bến Tre cây măng cụt phát triển rất tốt.

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
    Giai thoại kể rằng vào đầu thế kỷ 17, Lái Thiêu bấy giờ còn là một vùng đất hoang với bạt ngàn rừng rậm. Trong số những người Minh Hương đầu tiên đến lập nghiệp ở Lái Thiêu, có gia đình của một người đàn ông họ Lục làm nghề gốm. Con trai của ông là Lục Thành Tài đã đem lòng yêu một cô gái người Việt, nhà ở bên kia sông Rạch Tra. Hàng ngày, cô gái thường chèo ghe, chở mắm, khô đến bán cho lò gốm.Gia đình hai bên biết được, đều ngăn cấm nhưng hai người vẫn quyết tâm tìm đến nhau. Cuối cùng, mối tình của họ đã phải kết thúc bằng hai cái chết bi thương.Sau đó, trên mộ hai người mọc lên một loài cây lạ, trái của nó có vỏ ngoài xù xì, gai góc nhưng bên trong thì thơm ngon đến lạ lùng. Người dân địa phương đã đặt tên cây là sầu riêng để tưởng nhớ tới mối tình chung thuỷ của đôi trai gái và Lái Thiêu cũng nổi danh về trái cây từ đó.
    Cây sầu riêng cao trên 20m, trái nặng từ 2 – 5kg, khi chín tự rụng xuống. Điều kỳ lạ là trái sầu riêng chỉ rụng vào ban đêm nên không hề có trường hợp rơi vào đầu người. Người cho đó là do sự linh nghiệm của chàng trai Minh Hương và cô gái Lái Thiêu.

    Nguồn: Vietnamarchitecture

  • Chợ Đồng Xuân xưa & nay

    Chợ Đồng Xuân tuy nằm trong khu phố cổ nhưng có tuổi đời trẻ hơn rất nhiều so với các phố xung quanh. Trước kia đây là khu đất trống thuộc phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương nằm trước quán Huyền Thiên (sau đổi thành chùa Huyền Thiên). Người dân họp chợ trên hai khu đất ở cạnh chùa Cầu Đông ở phố Hàng Đường và cạnh đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm vì hai khu đất đó gần bến sông, tiện cho thuyền đi lại.
    Năm 1889, khi những dấu tích cuối của sông Tô Lịch và hồ Thái Cực bị lấp hoàn toàn, người Pháp quy hoạch lại đã giải tỏa hai chợ trên và dồn tất cả các hàng quán vào khu đất trống của phường Đồng Xuân, tạo thành chợ Đồng Xuân. Trong năm đầu tiên chợ họp ngoài trời, hoặc có che mái lá giống như hai chợ cũ.
    Năm 1890 chính quyền Pháp mới bắt đầu xây dựng chợ Đồng Xuân, tạo thành năm vòm cửa và năm nhà cầu dài 52m, cao 19m. Mặt tiền theo kiến trúc Pháp, gồm năm phần hình tam giác có trổ lỗ như tổ ong, lợp mái tôn.
    Tại đây đã diễn ra các trận chiến ác liệt giữa Vệ quốc quân chống lại lính Lê dương của Pháp, rất nhiều Vệ quốc quân đã hi sinh tại đây trước khi rút khỏi Hà Nội.
    Sau ngày giải phóng thủ đô, chợ Đồng Xuân là chợ lớn nhất Hà Nội.
    Vào khoảng năm 1990, chợ được xây dựng lại, phá bỏ hai dãy hai bên, ba dãy giữa xây lên ba tầng. Hai tấm cửa hai bên cũng bị dỡ, nhưng vẫn còn giữ hai cột ngoài cùng.
    Năm 1994, chợ Đồng Xuân đã bị hỏa hoạn, lửa thiêu trụi gần như toàn bộ các gian hàng trong chợ. Đây là vụ cháy chợ lớn nhất tại Hà Nội cho đến nay

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

    Auto Draft

  • Ô Quan Chưởng xưa & nay

    Ô Quan Chưởng xưa & nay

    Ô Quan Chưởng hay còn gọi là ô Đông Hà, tên chữ là Đông Hà môn (東河門, tức cửa phường Đông Hà), là một cửa ô của Hà Nội xưa, nằm ở phía Đông của toà thành đất bao quanh Kinh thành Thăng Long, được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba (1817) được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay. Đây là một trong 21 cửa ô còn sót lại của thành Thăng Long cũ

    Ngày nay, ô Quan Chưởng nằm nằm trên phố Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, gần dưới chân cầu Chương Dương. Thời xưa, ô Quan Chưởng nằm trên đường từ trong thành phố đi ra bờ sông, thuộc địa phận phường Đông Hà, tổng Hậu Túc (sau đổi là Đồng Xuân), huyện Thọ Xương cũ. Từ cửa ô ra đến bờ sông Hồng là con đường dài tám chục mét. Phía ngoài cửa ô trước kia coi như đất ngoại thành.

    Cổng xây có vọng lâu được canh gác và kiểm soát cẩn mật để giữ an ninh cho khu phố buôn bán bên trong. Hiện cửa ô còn nguyên lối tam quan với cửa chính và hai cửa phụ hai bên, trên nóc cửa chính có vọng lâu, tường phía trái cửa chính có gắn một tấm bia đá do Tổng đốc Hoàng Diệu cho đặt năm 1881 ghi lệnh cấm người canh gác không được sách nhiễu nhân dân mỗi khi qua lại cửa ô. Bên trên cửa lớn có ba chữ Hán 東河門 (Đông Hà môn).

    Ca dao về Ô Quan Chưởng có câu:

    Long Thành bao quản nắng mưa

    Cửa Ô Quan Chưởng bây giờ còn đây.
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay
    Ô Quan Chưởng xưa & nay