Category: Góc nhìn

  • Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Tương truyền những vị vua nhà Nguyễn không quan tâm đến việc đào tạo quân đội nhiều như trước nên quân lính cùng vũ khí ngày càng lạc hậu.

    Vốn là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, triều Nguyễn tồn tại hơn 143 năm cùng nhiều đời vua chúa, mãi năm 1945 mới kết thúc sau khi Pháp xâm lược.

    Binh lính triều Nguyễn thuộc thời cận đại nên được trang bị vũ khí hiện đại hơn so với trước. Tuy nhiên, số lượng vũ khí cho binh lính có hạn, thời gian luyện tập hạn chế nên không đủ sức chống lại thực dân Pháp. Nước ta thời Pháp thuộc được Pháp chia thành 3 xứ với 3 chế độ khác nhau, lần lượt là Bắc Kỳ (Tonkin), Nam Kỳ (Cochinchine) và Trung Kỳ (Annam).

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Tại xứ Trung Kỳ (Annam), lính thú nhà Nguyễn có nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ triều đình khỏi những vấn đề từ bên ngoài. Triều đình đã cho xây dựng và đào tạo một số loại lính thú, được gọi là “Lính khố vàng”, thắt lưng được làm bằng dây vải màu vàng, có nón đội trên đầu, chóp nón làm bằng đồng thau.

    Các loại quân lính thời nhà Nguyễn gồm: “Lính kinh đô” có nhiệm vụ bảo vệ hoàng gia và kinh thành Huế, “Lính thượng tứ” gồm lính kỵ binh và lính bộ binh’ “Lính kỹ thuật” có nhiệm vụ lo binh khí và súng thần công. Lính triều đình chưa có giày dép nên vẫn đi chân đất. Binh lính thời kỳ này đã được trang bị súng hỏa mai, nhưng họ chủ yếu vẫn dùng đao và kiếm. Súng hỏa mai vẫn là loại súng thô sơ, được tạo nên từ một ống kim loại, thuốc súng và đạn dược nạp trên đầu, phải châm ngòi thì nó mới nổ.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Khả năng bắn của súng hỏa mai không nhanh, sau này nó được thay thế bằng súng trường, dùng vỏ đạn kim loại có lực bắn mạnh và nhanh hơn. Đến thời vua Gia Long còn xuất hiện thêm súng đại bác thần công, tên đầy đủ là “thần uy tướng công” hay còn gọi là súng lớn hay pháo. Loại súng này có khả năng bắn đạn ra tầm xa và lực phá hủy mạnh hơn súng hỏa mai.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Để chọn binh lính cho triều đình, thanh niên trai tráng trong làng sẽ được xã, thôn ghi vào sổ đinh, sau đó chọn lựa kỹ càng rồi gửi lên quan huyện, chuyển lên phủ. Người được chọn sẽ làm nhiệm vụ ở địa phương hoặc đưa lên triều đình đào tạo. Những người lính thú bảo vệ biên cương sẽ phải rời xa quê hương, trấn giữ biên giới trong 3 năm. Thời đó gọi là “chế độ quân dịch” còn ngày nay gọi là “nghĩa vụ quân sự”.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Công việc này rất vất vả, bao khó khăn gian khổ rình rập. Hết rừng thiêng nước độc, hùm beo, cá sấu đầy rẫy, rắn độc, muỗi hay các hiểm họa khác có thể khiến những người lính bỏ mạng bất cứ khi nào. Bên cạnh đó, việc canh gác, bảo vệ phải làm ngày làm đêm, ăn uống cực khổ, sức khỏe không ổn định, nhiều người không chết vì bệnh cũng chết bởi đói khát.

    Xem thêm bài viết:

    Sai Sót Khi Tái Dựng Trang Phục Của Các Vị Vua Triều Nguyễn

     

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu
    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Bên cạnh đó, vua triều Nguyễn ngày càng không quan tâm đến đào tạo, trang bị quân đội nhiều như trước. Ngân khố hạn chế, quân đội ngày càng lạc hậu, sa sút. Dưới thời vua Gia Long hay Minh Mạng lấy cách tổ chức của quân đội phương Tây làm kiểu mẫu, số lượng người cầm cờ giảm từ 40 xuống còn 2 người, chỉ cần chất lượng, không cần số lượng.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Đến thời vua Tự Đức, tình hình vẫn không được cải thiện khi vũ khí đều cũ kỹ, thủy binh không được chăm chút, binh pháp không được cải tiến. Cách dẫn quân, đánh trận không được cách tân mà theo hướng bảo thủ. Do đó, không có gì lấy làm lạ khi thành Gia Định dễ dàng rơi vào tay Pháp. Sau này, 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cũng phải nhường lại cho thực dân Pháp. Quân Pháp nhân cơ hội đó chiếm luôn 3 tỉnh Nam Kỳ: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu
    Triều Nguyễn: Quân lính cơ cực, khí tài quân dụng lạc hậu

    Có thể thấy, triều Nguyễn không chịu cải cách quân binh, chỉ chăm chăm giữ lại cái cũ khiến cho việc đào tạo quân đội bị kìm hãm, dẫn đến việc mất nước.

    Theo songdep.com.vn

  • Vài tấm bản đồ cổ của Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa

    Vài tấm bản đồ cổ của Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa

    Tấm bản đồ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” do Trung Quốc xuất bản năm 1905 chỉ rõ lãnh thổ Trung Quốc dừng lại ở đảo Hải Nam. Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

    Một thanh niên Việt Nam chia sẻ bản đồ cổ Trung Quốc không có Trường sa, Hoàng Sa trên mạng xã hội

    Chử Đình Phúc từng ra thăm quần đảo Trường Sa.

    Thạc sĩ Chử Đình Phúc, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, một thanh niên sinh năm 1984 đang thực hiện việc chia sẻ hơn 10 tấm bản đồ cổ của Trung Quốc trên mạng xã hội, mà theo những tấm bản đồ này Hoàng Sa, Trường Sa không nằm trong lãnh thổ Trung Quốc.

    Chử Đình Phúc từng là sinh viên ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, hiện đang công tác tại Viện khoa học xã hội Việt Nam. Công việc của anh có liên quan trực tiếp đến hoạt động thu thập thông tin, tài liệu về lịch sử Trung Quốc. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên Thạc sĩ Chử Đình Phúc có trong tay những tấm bản đồ cổ của Trung Quốc, Nhật Bản có thể chứng minh được rằng Hoàng Sa, Trường Sa không thuộc về Trung Quốc.

    Hiện nay, trên trang cá nhân của Chử Đình Phúc có hơn 10 tấm bản đồ với chú thích đầy đủ, thể hiện rõ phân vùng lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc, đặc biệt những tài liệu cổ này cho thấy Hoàng lãnh thổ Trung Quốc không bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.

    Xem “kho bản đồ” do Chử Đình Phúc chia sẻ trên trang cá nhân:

    Bản đồ tỉnh Quảng Đông với cực Nam của nó là tỉnh Hải Nam (năm 1850)- trích trong sách “1850 Thanh nhị kinh thập bát tỉnh dưa địa đồ” (1850清二京十八省舆地图)

    Bản đồ tỉnh Quảng Đông của nước Trung Quốc năm 1935 bao gồm cả đảo Hải Nam khi đó còn thuộc tỉnh này, không thấy cái gọi là Tây Sa, Nam Sa.

    Bản đồ Trung Quốc có tên “Trung Hoa dân quốc toàn đồ” (中華民國全圖), vẽ trong khoảng thời gian 1911-1949, không có Hoàng Sa, Trường Sa.

    Bản đồ do người Nhật vẽ năm 1911 có tên “Thanh quốc đại địa đồ Cánh mạng (Tân Hợi) động loạn địa điểm chú”, vẽ rất chi tiết, hình ảnh sắc nét và tất nhiên là không có Hoàng Sa, Trường Sa trong cương vực nước Trung Quốc.

    Tấm bản đồ trong sách “Đại Thanh đế quốc toàn đồ, Tuyên Thống nguyên niên (1908)” (大清帝国全图 宣统元年).

    Tỉnh Quảng Đông nước Trung Quốc với đảo Hải Nam năm 1908, trích “Đại Thanh đế quốc toàn đồ, Tuyên Thống nguyên niên” (大清帝国全图 宣统元年), Thương vụ ấn thư quán xuất bản năm 1908.

    Bản đồ 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây – nước Trung Quốc năm 1903 với đảo Hải Nam, trích “Đại Thanh đế quốc phân tỉnh tinh đồ” (大清帝國分省精圖).

    “Đại Thanh đế quốc phân tỉnh tinh đồ” (大清帝國分省精圖) – Bản đồ vẽ nước Tàu năm 1903 do người Nhật Bản ấn hành.

    Bản đồ nước Tàu có tên là “Chính trị khu vực đồ”, in tận năm 1936 không có Hoàng Sa, Trường Sa và đường lưỡi bò.

     

    Bản đồ Trung Quốc năm 1911 bằng chữ Hán không có Hoàng Sa, Trường Sa.

    Mạng xã hội tràn ngập hình ảnh tấm bản đồ Trung Quốc năm 1905, được xem như một bằng chứng thuyết phục rằng Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam.

    Bức ảnh chụp bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ (theo Thanh niên)

    Tấm bản đồ do Tiến sĩ Mai Hồng lưu giữ trong nhiều năm qua và mới được đưa ra trước công chúng trong sự kiện ông tặng lại Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ cho Bảo tàng lịch sử quốc gia Việt Nam ngày 25/7. Thông tin về tấm bản đồ do chính Trung Quốc xuất bản không chỉ củng cố lý lẽ pháp lý cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh khẳng định chủ quyền, lãnh thổ đất nước mà còn khiến dư luận Trung Quốc trở nên hỗn loạn .

    Nắm bắt tình hình thời sự, cư dân mạng Việt Nam hiện đang tích cực chia sẻ hình ảnh, thông tin về tấm bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa với khẩu hiệu “Vì chủ quyền đất nước, vì Trường Sa, Hoàng Sa, hãy chia sẻ”.

    Nguồn: yeuchua.net

  • Các yếu tố phi Hán trong văn hóa Việt Nam là gì?

    Các yếu tố phi Hán trong văn hóa Việt Nam là gì?

    Các yếu tố phi Hán trong văn hóa Việt Nam là gì? Tôi muốn biết thêm về những thứ thuần Việt không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài

    Chi tiết câu hỏi: “Có một trào lưu nhỏ kêu gọi đưa các ảnh hưởng Trung Hoa trở lại văn hóa Việt Nam nhưng cá nhân tôi lại thấy không mặn mà lắm với nó, nhất là khi hầu hết người Trung Quốc không muốn dính dáng gì đến Việt Nam. Dù sao thì tôi cũng chẳng thấy có gì đáng để ca tụng về văn hóa của kẻ xâm lược hết.” 
    Trả lời câu hỏi của bạn, vâng đúng là có những khía cạnh phi Trung Hoa, nhưng chúng là những thứ khá cơ bản, và thay đổi theo vùng, nếu bạn muốn thấy nhiều thứ phi Trung Hoa của Việt Nam hơn, bạn có thể sẽ muốn xem xét các sắc tộc thiểu số với văn hóa phi Trung Hoa ở Việt Nam, cùng với lịch sử của sự Tây hóa và Chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Và điều đó còn phụ thuộc vào việc bạn định nghĩa thế nào là “Trung Hoa”.
    con rong chau tien thuan viet
    Người Nhật và Triều Tiên đã “rẽ” hướng khỏi văn hóa Trung Hoa chính thống rất lâu nên giờ đây họ bắt đầu tiếp nhận và biến nó thành của riêng mình, câu chuyện tương tự cũng xảy ra ở Việt Nam, bất kể đó có phải nền văn hóa của “kẻ xâm lược hay không”. Bạn dùng từ “kẻ xâm lược” như thể người Việt không hề chấp nhận sự Hán hóa trong hơn cả ngàn năm độc lập từ triều Đinh [đúng hơn là triều Ngô] đến triều Nguyễn và họ không hề đi xâm lược hay đánh nhau với các nước láng giềng vậy. Nói đi cũng phải nói lại, người Việt không hề nhất nhất tuân thủ các tập tục của người Hán, họ nhuộm răng, ăn trầu, đi chân trần, thậm chí họ còn có tập tục cạo đầu vào thời Lý – Trần để phân biệt với người Tống, tập tục này biến mất sau cuộc xâm lược của nhà Minh với việc người Việt thời Hậu Lê để tóc dài, thời Mạc thì tôi không chắc lắm. Người Việt, trong kỉ nguyên quân chủ, đã biết chọn lọc thứ gì nên tiếp thu và thứ gì thì không, chẳng hạn, trong thời kì nhà Nguyên Mông cai trị Trung Quốc và nhà Trần cai trị Việt Nam, người Việt biết rằng người Mông Cổ là lũ mọi rợ không theo phong tục Trung Hoa, vậy nên ảnh hưởng của nhà Nguyên đã bị giới hạn một cách có chọn lọc, trái ngược với nhà Tống vốn có ảnh hưởng rất lớn lên nhà Trần. Trong thời Lý – Trần, việc nói tiếng và ăn mặc theo lề thói của các sắc dân bên ngoài vương quốc là điều cấm kị.
    Góc trên bên trái: quan lại nhà Nguyễn (Việt Nam), góc trên bên phải: quan lại nhà Joseon (Triều Tiên), góc dưới bên trái: quan lại nhà Thanh (Trung Quốc), góc dưới bên phải: quan chức nhà nước Nhật Bản
    Góc trên bên trái: quan lại nhà Nguyễn (Việt Nam), góc trên bên phải: quan lại nhà Joseon (Triều Tiên), góc dưới bên trái: quan lại nhà Thanh (Trung Quốc), góc dưới bên phải: quan chức nhà nước Nhật Bản
    Bạn có thể thấy quan lại Việt Nam ăn vận cầu kì và nhìn cao sang hơn quan lại ở 3 nước kia, vậy thì có gì không đáng tự hào? Còn để nói cho nghiêm túc thì nếu chúng tôi loại bỏ mọi truyền thống Trung Hoa ở Việt Nam, chúng tôi sẽ không còn sở hữu một nền văn hóa trình độ cao tồn tại suốt 1000 năm của độc lập tự chủ, của các cuộc chinh phục Chiêm Thành và Cao Miên, của những câu chuyện hào hùng về các vị anh hùng Trần Hưng Đạo, Lê Lợi hay Quang Trung nữa. Trừ phi bạn quả quyết tin tưởng vào những con người tiền Hán hóa, tiền Đông Sơn ở khu vực châu thổ sông Hồng, những người thậm chí không nói cùng thứ tiếng với người Việt hiện đại hoặc có thể chỉ nói vài loại ngôn ngữ tiền Nam Á nào đó, có vẻ đó là lí do người Nhật và Triều Tiên không hề tô hồng thời kì tiền Hán hóa của họ nhiều như chúng tôi, bởi chúng thật sự rất mơ hồ và mờ mịt, không có chuyện người Việt, người Nhật, người Triều Tiên không có chút tính độc đáo nào trong vòng văn hóa Đông Á. Và ồ, người Việt sẽ không còn là người Việt nữa nếu thiếu vắng những đặc điểm Trung Hoa, bản thân cái tên Việt Nam cũng có nguồn gốc từ tiếng Hán「越南」, vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn, Gia Long, đã đề nghị nhà Thanh cho phép đất nước mang tên 南越 để gợi nhớ đến vương quốc Nam Việt trong quá khứ, nhà Thanh khước từ, và thay vào đó họ cho chúng tôi cái tên 越南 Việt Nam.
    Một điều nữa mà tôi muốn nói là bạn không nên dùng từ “xâm lược” như một lập luận chính yếu như vậy, nó nghe như kiểu người Việt không hề có một cuộc chinh phục, hay nghĩa đen là sáp nhập và đồng hóa người bản địa, nào trong quá khứ, và chính ở thời nhà Lê và nhà Nguyễn mà Việt Nam mở rộng về phương Nam, và hẳn bạn cũng biết dòng văn hóa chính thống của hai triều đại này là gì rồi đúng không? Vấn đề với giáo dục lịch sử hiện đại ở Việt Nam là nó lạm dụng chủ nghĩa dân tộc làm biện pháp học tập chính, và làm méo mó hoàn cảnh lịch sử ban đầu cho phù hợp với những tư tưởng của thời hiện đại. Xâm lược hay không thì Việt Nam cũng vẫn sẽ đi theo ảnh hưởng ngoại bang, người Việt đã tiếp nhận Hán tự và Tam giáo cũng như người Miên tiếp nhận văn hóa Ấn Độ và người Thái tiếp nhận văn hóa Miên cổ. Ngay cả ngày nay khi sức mạnh ngày càng lớn của Trung Quốc đang tác động đến mọi quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam, mặt khác, lại không hề phải khuyến khích văn hóa Trung Quốc, người Việt đã có sẵn hình thức văn hóa Trung Hoa của riêng họ, Việt Nam là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á đã địa phương hóa nền văn minh Trung Hoa trong hơn một ngàn năm, các triều đại của họ, văn hóa tinh hoa và thường nhật đều thừa hưởng một phiên bản văn hóa Trung Quốc được bản địa hóa và thay đổi tương tự như ở các quốc gia Đông Á. Tại sao lại phải bắt chước người khác trong khi bạn có thể trân trọng nó ngay tại đất nước này?

    Nam Phương Hoàng hậu
    Nam Phương Hoàng hậu
    nho sy

    Áo tứ thân
    Áo tứ thân
    Nữ nhạc công ở Nam Kì
    Nữ nhạc công ở Nam Kì

    Đức Từ Cung, thân mẫu cựu hoàng Bảo Đại
    Đức Từ Cung, thân mẫu cựu hoàng Bảo Đại
    Ngoài ra, để nói về cách diễn giải về lịch sử của người Việt hiện nay, sự thật là nghiên cứu sử học ở Việt Nam thậm chí vẫn còn chưa đạt đến trình độ học thuật của việc nghiên cứu
    Bài dịch của bạn Quan Le, được đăng và thảo luận trong group Quora Việt Nam: https://www.facebook.com/groups/vietnamquora/permalink/2053108068255652/
  • Hai chữ Lạc Hồng bắt nguồn từ đâu?

    Hai chữ Lạc Hồng bắt nguồn từ đâu?


    Dù ai đi ngược về xuôi
    Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba.

    Hai chữ Lạc Hồng bắt nguồn từ đâu?

    Với môn lịch sử đa số chúng ta là người ngoại ngạch. Nhung dù sao vẫn là con dân Việt.

    Theo truyền thuyết, Đế Minh- một vị vua đất Bắc khi tuần du phương Nam đã mang một phụ nữ đẹp về làm vợ sinh ra Lộc Tục. Ông cho con lớn Đế Nghi làm vua đất Bắc và để chàng con thứ Lộc Tục thông minh hơn cai trị phương Nam hiệu là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương kết hôn với Long Nữ sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Nghi là Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, dòng giống Việt ra đời. Con của Âu Cơ gọi là Hùng. Hùng trưởng hay con cả của Mẹ Âu Cơ lên làm vua, đó là Hùng Vương đời thứ nhất. Vua đặt tên nước là Văn Lang; quan văn gọi là Lạc hầu; quan võ gọi là Lạc tướng còn dân tình gọi là Lạc dân. Ấy là truyền thuyết. Và cũng mãi sau này đọc thêm mới biết vậy. Trước đây mình đâu có để tâm môn lịch sử cho lắm, học đối phó là chính.

    Cách nay ít năm, trong lần về Phú Thọ, tôi đã ghé thăm bảo tàng Hùng Vương. Dịp đó mới ngắm kỹ các họa tiết trống đồng: cảnh sinh hoạt; con thuyền; chim Lạc; cách ăn mặc… Cảm giác lúc ấy rất hồ nghi, cứ như đang xem bức phù điêu mô tả về người da đỏ Bắc Mỹ vậy.

     Bản đồ Bách Việt

    Bản đồ Bách Việt

    Với hai chữ Lạc Hồng, có mấy chủ thuyết sau.

    Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh – trong các cuốn Lịch sử Việt Nam cổ đại và Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam đã cho rằng nguồn gốc người Việt cổ bắt nguồn từ vùng Động Đình Hồ Vân Nam mà sử Tàu xưa gọi là Bách Việt, trong quá trình Nam tiến đã hợp huyết với người bản địa; sinh ra người Việt Mường cổ. Những cái thuyền trên trống đồng là thuyền người Giang Nam di cư về phương Nam. Còn những con chim đó là chim Lạc – vật tổ của người Việt- loài chim có nguồn gốc từ vùng Giang Nam di cư theo người Việt dọc theo miền duyên hải. Sách Lĩnh Nam Chích Quái có đề cập đến họ Hồng Bàng. Và chữ Hồng hay Hùng chỉ rằng dân Việt có nguồn gốc từ họ Hồng Bàng. Một người bạn đã từng theo học nhiều Gs sử học nổi tiếng Trần Quốc Vượng; Phan Huy Lê; Hà Văn Tấn thì cho biết rằng chữ Hùng trong chữ vua Hùng bắt nguồn từ tiếng Mường cổ để gọi người đứng đầu.

    Có nhà sử học cho rằng Gs Đào Duy Anh đã viện dẫn cổ sử để sáng tác.ra câu chuyện về nguồn gốc người Việt cổ và chữ Lạc chả liên quan gì tới hình con chim trên trống đồng Ngọc Lũ. Nhưng các nhà lịch sử sau này đều dẫn theo Đào Duy Anh cho rằng Lạc là tên loài chim đã di cư theo người Việt xuống phía Nam -totem của người Việt. Còn một nhà sử học khác lại trích dẫn nhiều thư tịch cổ; ví dụ một đoạn trong sách Tàu cổ Giao châu Ngoại vực ký ghi “Ở đất Giao chỉ có Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng … Họ sử dụng hoa lợi từ Lạc điền” và nhiều cổ thư Tàu khác để chứng minh rằng lập luận của cụ Đào Duy Anh là chưa đủ cơ sở. Ông cho rằng Lạc Việt là cách người Tàu gọi đất nước của người Việt xưa kéo dài từ vùng Vân Nam Quý Châu đến mạn Quảng Bình sau này.

    Ở Trung quốc; dân tộc Choang phân bố chủ yếu ở Quảng Tây. Họ có tiếng nói và chữ viết riêng, có nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Trong từ vựng của người Choang, Lạc = hiểu biết, minh triết. Người Choang biết đúc trống đồng và cũng có truyền thuyết đẻ trăm trứng. Vậy chữ Lạc là tiếng Choang?

    Đa số học giả Việt, Pháp và Thái lan cho rằng Lạc Việt là cái tên người Tàu gọi một tộc người sống ở vùng Bách Viêt – Giang Nam Phúc Kiến ngày nay. Người Lạc Việt được cho là thủy tổ của người Kinh; người Mường và người Choang và người Bố Y. Số khác cho rằng Lạc Việt là cách người Tàu gọi đất nước của người Việt (Yue) cổ.

    Vậy ngày giỗ Tổ có rừ khi nào? Và đó là ngày giỗ vị vua nào ? Sách sử chép lại rằng trong 18 đời vua Hùng đã có tới 108 vị vua từng trị vì chứ không phải 18 vị như nhiều người vẫn nghĩ. Có suy luận răng đó là ngày giỗ Lạc Long Quân- người sáng lập triều đại Hùng Vương nhưng ý kiến này không có cơ sở. Sau khi con trưởng lên ngôi vua thì ngài cũng không ở lại và không biết ngài đi đâu. Ghi chép xưa nhất còn lại là sắc chỉ của vua Minh Mạng năm 1917 sức cho tỉnh Phú Thọ lo việc cúng tế các vua Hùng vào ngày 10 tháng Ba âm lịch. Tất nhiên, việc cúng tế này đã được duy trì từ rất lâu trước đó.

    Lịch sử thường được viết lại theo hướng tự tôn dân tộc. Đâu phải nhà sử học nào cũng làm được như dòng họ nhà Tư Mã Thiên!

    Cá nhân tôi nghĩ rằng cho dù các từ Lạc Hồng có gốc gác từ tiếng Hán; tiếng Việt hay tiếng Choang cổ thì “con Lạc cháu Hồng” vẫn đang là niềm tự hào của con dân đất Việt!
    Blog Phạm Văn Quang

  • Có phải Việt Nam là nơi tốt nhất để sống?

    Có phải Việt Nam là nơi tốt nhất để sống?

    Bài viết của GS Tuấn quá hay và với một góc nhìn mới lạ, HinhanhVietnam.com xin đăng lại nguyên văn!

    Việt Nam là nơi tốt nhất để sống

    Việt Nam là nơi tốt nhất để sống: Một cách hiểu khác

    Đến hôm nay mới đọc bài báo “Sốc vì Việt Nam vào tốp 20 nơi đáng sống nhất thế giới!” Nếu chỉ xem qua cái kết quả bình bầu và đối chiếu tình trạng môi trường xuống dốc thê thảm hiện nay thì đúng là sốc thật. Nhưng thật ra, nếu xem kĩ nguồn thông tin (2) thì cũng không đến nổi sốc đâu.

    Nguồn thông tin là ” The 20 Best Places To Live Overseas” (Hai mươi nơi tốt nhất để sống ở nước ngoài” trên BusinessInsider (2). Tại sao “nước ngoài”? Tại vì đây là một cuộc điều tra xã hội mà đối tượng tham gia là những thương gia làm việc cho các tập đoàn đa quốc gia. Những người này được công ti gửi đi khắp thế giới để làm ăn, nên họ có cơ hội trải nghiệm và so sánh. Nhóm thực hiện là ngân hàng HSBC. Họ hỏi đối tượng tham gia về trải nghiệm cuộc sống, tình hình kinh tế, nuôi con cái ở nước ngoài. Dựa vào các tiêu chí này, Việt Nam được bình bầu là một trong 20 nước tốt nhất để sống ở nước ngoài.

    Đọc xong bản tin này tôi thử tưởng tượng mình là một doanh nhân (hạng “executive”) đang sống ở Sài Gòn. Và, tôi sẽ bầu VN vào một trong 10 nước tốt nhất để sống như là một doanh nhân nước ngoài. Lương của tôi là khoảng 200K USD một năm, và tôi sống trong một nước mà thu nhập bình quân ~2K một năm thì dĩ nhiên là tôi thấy thoải mái quá đi chứ.

    Này nhé, tôi đâu có sống ở những nơi chật chội trong nội thành như đám dân đen kia; tôi sống ở Phú Mĩ Hưng hay những khu đô thị mới, thoáng mát và có nhiều cây xanh. Tôi đi làm đâu phải bằng xe Honda để phải chật vật với “triều cường” như đám dân địa phương; tôi đi làm bằng xe hơi, “four-wheel car” cao ngông nghênh trên đường phố được thiết kế cho xe ngựa là chính. Tôi không cần lái xe như bọn Việt Nam; công ti mướn tài xế lo cho tôi từng bước đi, thậm chí đi ăn trưa và uống cà phê! Đến văn phòng thì máy lanh đã bậc xong, tôi không biết cái nóng hừng hực bên ngoài là gì. Thật ra, sống ở VN chứ tôi có biết cái nóng nhiệt đới là gì đâu, vì dù ở nhà hay office tôi đều có máy lạnh.

    Vợ tôi không bận bịu với con cái như đám nữ nhân viên của tôi; tôi có đã oshin người Việt lo đưa đón con tôi đi học. Con tôi cũng cảm thấy thích đất nước này, vì chúng không chung đụng với đám học trò Việt Nam đầy cạnh tranh kia. Oshin Việt Nam thì rẻ bèo, chỉ 200 USD/tháng là có một cô gốc miền Tây phục vụ cực kì tốt, kể cả nấu ăn ngon. Chúng tôi chẳng cần sợ bọn Tàu đầu độc với những thực phẩm độc hại, vì oshin chúng tôi toàn mua cá sống, gạo hảo hạng, bánh mì nhập từ Singapore, bơ sữa nhâp từ Pháp, Úc, Mĩ. Chúng tôi không cần nấu ăn, vì oshin lo. Chúng tôi không biết đến mấy quán nhậu bầy hầy mà đám dân địa phương lui tới, vì chúng tôi đã quen với buffet ở Caravelle, New World, Pullman, InterContinental, Sheraton, Sofitel, Nikko. Rex? Ồ, đó là khách sạn của Nhà nước, tồi lắm. Chúng tôi không phải lo chuyện lau nhà hàng tuần, bởi vì hàng ngày đã có oshin làm việc đó. Vui vui, chúng tôi đi ăn ở ngoài quán, và dĩ nhiên, chúng tôi đâu có dám léo hánh đến mấy chỗ vớ vẩn và mất vệ sinh ở trong hẽm. Xe four-wheel của tôi làm sao vào được mấy cái hẽm đó?! Lương 200K USD/năm thì việc đi ăn tối ở hàng quán up-market ở VN chỉ là chuyện nhỏ. Mà, món ăn VN lại cực kì ngon, chắc chắn ngon hơn tất cả những nước như Mĩ, Úc, Canada, Ý, Saudi Arabia, v.v.

    Tôi cũng chẳng quan tâm gì đến mấy chuyện quyền con người này nọ; chuyện đó chẳng dính dáng gì đến tôi, vì đó là chuyện của đám oshin và anh tài xế của tôi. Tôi đâu có lo VN sẽ lệ thuộc hay mất vào tay của Tàu ở phương Bắc, vì đối với tôi, chỗ nào cũng là kinh doanh, kiếm lời. Tôi đâu có hiểu mấy chương trình văn nghệ và những bản tin tức tuyên truyền vớ vẩn đó; tôi xem đài BBC, NBC, CNN. Trong khi đám dân đen đó chẳng biết gì tình hình đằng sau chính trường VN, tôi biết khá tốt! Vì thế, chẳng ai làm phiền tôi, và tôi thấy thoải mái về tinh thần. Ngày cuối tuần, chúng tôi bay ra Đà Nẵng chơi, xuống Hội An tắm biển, bay về Hà Tiên làm một chuyến du ngoạn sang Kampuchea, bay ra Hà Nội thưởng thức tô phở 800 ngàn đồng (chuyện nhỏ), và bay về sân golf ở Tân Sơn Nhất đánh một phát với mấy đồng nghiệp nước ngoài đang chờ. Buồn buồn, tôi đổi không khí bằng cách bay qua Singapore mua đồ điện tử, và dĩ nhiên tôi đời nào để ý đến cái Sim Lim Square chết tiệt đó. Tôi cũng chẳng cần chen lấn, vì tôi đi máy bay hạng 1 của Singapore Airlines, chứ Vietnam Airlines, thì xin lỗi, tồi quá. Nhìn như thế, tôi đang sống một cuộc sống vương giả, một cuộc sống mà nếu tôi ở Mĩ có mơ cũng không có được.

    Ôi, tôi yêu cái đất nước Việt Nam này quá. Tôi thấy mình như anh thực dân Tây ngày xưa ở Sài Gòn. Thật ra, tôi còn hơn mấy anh Tây ngày xưa, vì ngày nay tôi có tất cả tiện nghi mà mấy ảnh không có trước kia. Mấy anh ấy thời đó còn bị xua đuổi liên miên, còn chúng tôi thời nay thì được chào đón nồng nhiệt. Môi trường làm ăn ở VN có phần khó khăn vì nạn tham nhũng ư? Ồ, chúng tôi chỉ cần áp dụng triết lí dùng tiền của Năm Cam, một người vĩ đại trong nhóm những triết gia vĩ đại. Có tiền là cái gì cũng có ở VN, và hàng rào nào cũng sẽ vượt qua dễ dàng. Bọn Bio-Rad còn chỉ 2.5 triệu USD, thì việc các tập đoàn Nhật chi 10 lần con số đó cũng chỉ là “bỏ con tôm bắt con cá” thôi. VN có câu “nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế”, và tất cả 4 yếu tố đều có thể mua bằng tiền. Chúng tôi cũng áy náy khi dùng tiền cho mục tiêu như thế, nhưng thử hỏi, ở cái nơi này mà người ta có câu “rừng nào cọp nấy” thì chúng tôi cũng phải chơi theo luật chơi địa phương thôi.

    Ngày xưa, Graham Greene ngồi uống cà phê ở Tự Do viết “Người Mĩ trầm lặng”, ngày nay tôi viết những chương sách huy hoàng cho Samsung, LG, Hyundai, Kumho, Mercedes-Benz, BMW, Ford, Volvo, Toyota, Mitsubishi, Novartis, Merck, Pfizer, sanofi, novo nordisk, HSBC, Deutsche Bank, Huawei, IBM, v.v. Vinh quang thay, đội doanh nhân nước ngoài ở VN. Chúng tôi xứng đáng có một bài tráng ca! Có lẽ phải mướn một tay nhạc sĩ nghèo VN sáng tác thôi.

    OK, tôi đã đóng vai doanh nhân nước ngoài ở VN, bây giờ tôi quay về tôi: một người Việt Nam. Tôi nghĩ với quan điểm của những doanh nhân nước ngoài sống ở VN, thì VN đúng là một trong những nơi sống rất thoải mái nhất. Do đó, cái kết quả survey của BusinessInsider không hề sốc chút nào. Tuy nhiên, thay vì kết quả đó nói Việt Nam là nơi tốt nhất để sống, tôi đề nghị nên hiểu một cách khác: Việt Nam là một trong những môi trường lí tưởng nhất cho doanh nhân nước ngoài, vì họ có thể khai thác con người Việt Nam hữu hiệu nhất.

    Nguồn: http://tuanvannguyen.blogspot.com.au/2014/11/viet-nam-la-noi-tot-nhat-e-song-mot.html

  • Tại sao người Hoa sống bình dân mặc dù rất giàu?

    Tại sao người Hoa sống bình dân mặc dù rất giàu?

    “Đi đến đâu lập chợ đến đó”. Không chỉ riêng ở Việt Nam mà đi đâu trên thế giới người ta cũng thấy Chinatown (phố người Hoa). Chinatown nào cũng lớn mạnh và giàu có. Người ta nói, người Hoa đoàn kết, giỏi kinh doanh, nên đi đâu cũng làm ăn được. Rất nhiều chủ doanh nghiệp lớn tại Việt Nam có xuất thân từ người Hoa phải kể đến như: Kinh Đô, Đồng Khánh, Bút bi Thiên Long,… Người Hoa kinh doanh hiển đạt được như vậy là nhờ họ có bí quyết…

    Trong khuôn khổ bài viết này, người Hoa chính là người Việt gốc Hoa, không phải người Hoa sống tại Trung Quốc, quốc tịch Trung Quốc hiện tại.!

    Tại sao người Hoa sống bình dân mặc dù rất giàu?

    Được xây dựng năm 1928, Chợ Lớn trở thành trung tâm thương mại của người Hoa tại Tp. HCM.

    Lấy chữ tín làm đầu

    Người Hoa tâm niệm có uy tín thì có tất cả, mất uy tín thì mất tất cả. Đây là quy ước bất thành văn, người nào cố ý phá vỡ quy ước này thì chỉ còn có nước bỏ đi xứ khác sinh sống.

    Hiếm khi giật nợ

    Các chủ doanh nghiệp người Hoa thường mang hàng ra chợ sỉ Bình Tây, Kim Biên, Soái Kình Lâm, An Đông bỏ gối đầu từng lô hàng cho tiểu thương. Nhận thanh toán lô hàng cũ rồi bỏ tiếp lô hàng mới. Thương lái được tiểu thương bán lại hàng gối đầu từng lô hàng. Các chủ doanh nghiệp được nhà cung ứng bỏ gối đầu từng lô nguyên phụ liệu.

    Tập quán buôn bán gối đầu như những mắt xích liền lạc với nhau. Hàng hóa giao dịch trị giá bạc tỉ mà chỉ bảo đảm bằng những cuốn sổ bỏ hàng, bán hàng cầm tay nhưng hầu như không ai bị giật nợ.

    Tại sao người Hoa sống bình dân mặc dù rất giàu?

    Buôn bán gối đầu chính là tập quán kinh doanh của người Hoa.

    Thông tin về những vụ thất tín lan rất nhanh trong ngành nghề kinh doanh. Kẻ thất tín bị người trong cộng đồng tẩy chay.

    Gần cuối năm âm lịch, các chủ doanh nghiệp người Hoa giữ thông lệ thu hết nợ cũ phát sinh trong năm. Tiểu thương phải thanh toán sạch nợ để năm mới làm ăn suôn sẻ. Thương lái cũng trả hết nợ của năm cũ. Ai không giữ uy tín hoặc dây dưa trả nợ sẽ khó bề làm ăn trong năm mới vì chẳng ai chịu giao hàng hay bán hàng.

    Người Hoa mắc nợ ai thì trĩu nặng nỗi lo nên rất chuyên cần làm ăn nhằm kiếm tiền để trả nợ. Anh Kỷ Liên Tín, chủ một sạp kinh doanh gia vị ở chợ Bình Tây, bị vỡ nợ đành sang Mỹ sinh sống, được đồng hương tin yêu giúp đỡ tài chính. Từ bên Mỹ, anh Tín tích góp rồi gửi tiền về Việt Nam thanh toán sòng phẳng cho các chủ nợ.

    Về giá cả, người Hoa cũng luôn giữ uy tín. Chủ hàng chịu giá bán cho ai rồi thì không thay đổi, dù giá cả biến động mạnh cỡ nào cũng bán hàng theo giá đã thỏa thuận. Chủ tiệm tạp hóa người Hoa trong khu xóm vui vẻ bán thiếu gạo, nước mắm, dầu ăn, bột ngọt, thuốc lá, đường, đậu, xà bông, bột giặt, kem đánh răng… Cuối tháng, chủ tiệm mang sổ nợ tới từng nhà đòi tiền. Ai nấy đều giữ uy tín trả hết nợ. Ai lằng nhằng, mất uy tín rồi thì năn nỉ mua chịu dù một chai nước mắm chủ tiệm cũng không bán.

    Tại sao người Hoa sống bình dân mặc dù rất giàu?

    Phùng Hưng Hãng – chuyên kinh doanh cao đơn hoàn tán từ năm 1975 đến nay –
    được chuộng vì rất uy tín trong mua bán. Ảnh: Tấn Thạnh

    Những người kinh doanh ẩm thực truyền thống Trung Hoa càng giữ uy tín. Họ khởi nghiệp với những món ăn ngon, thỏa mãn khẩu vị đại chúng. Tới khi quán ăn đông khách cỡ nào, chủ quán cũng không thay đổi chất lượng các món ăn nhằm bảo vệ uy tín thương hiệu trên thị thường. Trước sau như một, chất lượng sản phẩm không thay đổi. Giá cả nguyên liệu tăng cao thì tăng giá bán sản phẩm tương ứng. Chủ quán không hề giảm chất lượng để không mất lòng người tiêu dùng.

    Điều hành bằng chữ tín

    Một dạo, một chủ ngân hàng lớn ở Chợ Lớn hay cấp tín dụng cho những người có uy tín, kể cả theo cách trông mặt mà bắt hình dong, để họ có vốn làm ăn. Giao dịch tín dụng trị giá mấy chục tỉ đồng mà không cần ký kết hợp đồng. Nhiều khoản cho vay lớn không cần thế chấp tài sản mà căn cứ tín chấp ghi chi chít trong một quyển vở do thư ký riêng của chủ ngân hàng cất giữ.

    Ngày trước, bang hội người Hoa theo nhóm ngôn ngữ Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam, Hẹ rất hùng mạnh ở Chợ Lớn. Bang trưởng là người có uy tín cao được người trong bang tuân lệnh răm rắp. Người Hoa còn thành lập các hội tương tế họ tộc. Các đại gia vô tư đóng góp tài chính cho bang hội giúp đỡ người nghèo. Người được tài trợ làm ăn thoát nghèo không những hoàn trả đủ vốn cho bang hội mà còn đóng góp tài chính giúp đỡ người khác vươn lên trong cuộc sống.

    Tại sao người Hoa sống bình dân mặc dù rất giàu?

    Người Hoa sống theo từng bang hội, hẻm xóm, có người đứng đầu.

    Một vài người Hoa có uy tín được người khác tin cậy giao cất giữ những khối tài sản kếch xù. Tới khi người gửi thu hồi của cải vẫn không thiếu một cắc. Thời kỳ đầu đổi mới, chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu Việt Nam không đồng đều. Các nhà nhập khẩu ở Hồng Kông, Đài Loan, Singapore tin tưởng một người Hoa ở quận 6 trong việc giám định hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu. Người này ký tên bảo chứng lên từng lô hàng xuất khẩu thì các nhà nhập khẩu mới chịu nhận hàng.

    Chủ doanh nghiệp người Hoa thường có nhiều con. Bất kể người con trai thuộc ngôi thứ nào nếu tỏ ra uy tín cũng đều được người cha tin tưởng giao tay hòm chìa khóa. Người con nào là phá gia chi tử, bị liệt vào hạng thất dụng thì không được giao việc liên quan đến tiền bạc mặc dù vẫn được thương yêu.

    Giấu nghề gia truyền

    Ngày nay, người Hoa vẫn luôn giấu nghề gia truyền. Ngày trước, họ kiêng kỵ gã con gái cho người dân tộc khác nhằm đề phòng mất thế độc quyền những nghề béo bở. Việc sản xuất của họ diễn ra sau tấm vách ngăn phòng khách với khu nhà xưởng. Trên vách treo tấm bảng kẻ đậm hàng chữ “không phận sự cấm vào”. Người cố ý dòm ngó vẫn không tài nào học lóm được nghề “ruột” của người Hoa.

    Bài hay nên xem:  Hướng dẫn làm Dâu tây phủ sôcôla “gây sốt” Valentine 2016 – kèm video minh họa

    Sống để bụng, chết mang theo

    Cơ sở phục hồi bình xăng con Thành Đạt ở quận 10, TP HCM do một chủ doanh nghiệp người Hoa đứng tên thu hút khách rất đông. Việc phục hồi bình xăng con được thực hiện phía sau nhà. Mỗi nhân công đảm trách một công đoạn, không ai nắm vững quy trình phục hồi bình xăng con nên không tài nào phản chủ nhảy ra mở cơ sở làm ăn riêng. Do vậy, cơ sở phục hồi bình xăng con Thành Đạt gần như một mình một chợ trên thị trường tân trang phụ tùng xe máy.

    Bánh tiêu, giò cháo quẩy là nghề độc quyền của người Hoa. Họ có bí quyết phối trộn ủ bột sao cho khi chiên, bánh tiêu, giò cháo quẩy nở phồng to vàng rộm. Ai cạy miệng họ cũng không hé môi tiết lộ bí quyết nghề nghiệp.

    Người Hoa cũng giấu kín bí quyết phối trộn bột làm bánh bao, bánh trung thu, bánh in, há cảo… Món hủ tiếu của người Hoa có nước lèo ngọt vị xương heo hầm rục khác biệt nước lèo do người Kinh nấu. Họ có bí quyết dùng phụ liệu cho nước lèo có vị ngọt đậm, ai nhờ chỉ cách cũng khôn khéo chối từ.

    Tại sao người Hoa sống bình dân mặc dù rất giàu?

    Món hủ tiếu của người Hoa có công thức pha chế nước lèo rất độc đáo.

    Ngoài ra, người Hoa còn độc quyền các nghề chế biến da heo phồng, đậu phộng chiên, nước tương, tương chao, mì sợi, bánh pía, mè láo, lạp xưởng, hột vịt muối… Nhân công trong các xưởng chế biến mỗi người được chủ phân công lo một khâu. Chủ doanh nghiệp người Hoa đích thân sơ chế các nguyên liệu hảo hạng, điều hành quy trình chế biến chính, quyết định chất lượng sản phẩm. Nhiều người cũng bắt chước làm nhưng có cố cỡ nào, chất lượng sản phẩm xuất xưởng vẫn không thể nào sánh bằng sản phẩm độc quyền.

    Các chủ doanh nghiệp người Hoa chỉ truyền đạt bí quyết nghề nghiệp cho con trai. Thế hệ hậu sinh tiếp nối nghề gia truyền. Do vậy, một số cơ sở kinh doanh chánh phố (của cha) đẻ ra những cơ sở phụ phố (của con, cháu kế nghiệp gia truyền) ở Chợ Lớn.

    Cho ăn vàng cũng không dắt đàng đi buôn

    Người Hoa khổ công nghiên cứu, tìm tòi những bí quyết, cách thức chế biến nhiều món ăn ngon và dịch vụ hút khách mạnh. Do vậy, họ luôn luôn giấu nghề để truyền tử lưu tôn mà làm giàu. Thực tế, nhiều gia đình người Hoa theo nghề gia truyền từ tổ phụ để lại. Các thế hệ hậu sinh mỗi người mở một cơ sở làm ăn riêng làm rạng danh nghề gia truyền hoặc các huynh đệ đồng tâm ý hiệp lập doanh nghiệp chung và làm ăn phát đạt.

    Các lương y người Hoa hành nghề đương thời ở Chợ Lớn đều kế nghiệp gia truyền. Nhà người Hoa nào sinh toàn con gái thì nghề nghiệp thất truyền vì tổ phụ chỉ truyền nghề lại cho con trai hoặc cháu trai. Phụ nữ người Hoa lập gia đình rồi theo nghề của bên nhà chồng. Không phụ nữ nào mang nghề gia truyền truyền lại cho bên nhà chồng.

    Người Hoa tâm niệm “cho ăn vàng cũng không dắt đàng đi buôn”. Do vậy, những người theo nghề thương mãi giấu nhẹm các mối quan hệ đối tác làm ăn cùng kỹ năng buôn bán. Sổ ghi danh sách đối tác làm ăn luôn được bảo mật. Quan hệ mối lái, giao thương được giấu kín. Viên tài phú (kế toán) trong các cơ sở kinh doanh của người Hoa tuyệt đối trung thành với chủ, không cho ai biết kết toán lời – lỗ từng ngày.

    Nhiều viên tài phú tâm phúc biết chuyện làm ăn của chủ, biết rõ gia sản của chủ giàu có bậc nào nhưng giấu kín với vợ con chủ bởi đề phòng “nội gián” trong nhà. Phương án kinh doanh sinh lợi cao cũng được bảo mật tuyệt đối. Viên tài phú nhờ trung thành và kín miệng nên luôn được chủ cơ sở tuyệt đối tin tưởng, hậu đãi xứng đáng.

    Tiểu phú do cần

    Kinh doanh giỏi, giàu có nhưng hầu hết người Hoa lại sống rất tiết kiệm và không phô trương. Nói đến tình hình làm ăn họ đều giữ bí mật, nói tránh: “Chù sáng di quảnh xỉu xỉu xực!” (Buôn bán kiếm ăn ít ít!). Một trong những triết lý của họ là cần–kiệm. Ở khu có người Hoa sinh sống, hầu như rất khó để kiếm được một người “ăn mày”. Bởi họ không có thói quen cho tiền như nhiều người dân khác ở Sài Gòn. Ngược lại, người Hoa lại luôn sẵn sàng hỗ trợ việc làm, giúp người khác tự mưu sinh. Đối với họ, giúp là phải giúp cho giàu, không phải chỉ để có ăn cho qua ngày đoạn tháng. Thành ra người Hoa ở Chợ Lớn đa phần đều cần mẫn làm việc, không nhờ vả và cũng ít phung phí.

    Tại sao người Hoa sống bình dân mặc dù rất giàu?

    Người Hoa luôn hỗ trợ nhau mưu sinh.

    Họ chỉ thực sự “vung tiền” làm từ thiện trong các buổi bán đấu giá vật phẩm có tổ chức quy mô trong các lễ Tết. Số tiền được “vung” ra luôn nhiều hơn 10 con số, tất cả đều có mục đích vì tôn giáo, hỗ trợ đồng hương.

    Tại sao người Hoa sống bình dân mặc dù rất giàu?

    Họ sẵn sàng đóng góp cho các công trình tôn giáo.

    Một số Fun fact:

    _Người Hoa sẽ khắt khe hơn khi làm việc với người miền Bắc. Dễ tính hơn với người Nam.

    _Hầu hết người Hoa coi trọng anh em (bang hội) hơn gia đình.

    _Chợ Lớn được xem là Chinatown lớn nhất thế giới.

    _Không có sự phân biệt đối xử nào đối với người Kinh và người Hoa khi đi mua hàng lẻ giá sỉ ở Chợ Lớn.

    _Người Hoa ít ham rẻ, chủ yếu ăn uống, mua sắm ở một số địa chỉ uy tín với giá thành cao hơn trung bình.

    _Giàu có vẫn rất ít khi mua đất, đổi nhà. Người Hoa rất kỹ về phong thủy nên đã làm ăn được ở đâu thì không thay đổi. Quán xá dù nhỏ, nếu làm ăn phát đạt vẫn chỉ làm thêm cơ sở mới, không xây lên.

    Nguồn: MTT

  • Tại sao Việt nam vẫn cứ nghèo?

    Tại sao Việt nam vẫn cứ nghèo?

    Tại sao đất nước ta mãi nghèo…một bài viết hay nên đọc!

    Tại sao đất nước ta mãi nghèo? Tại sao Việt nam mãi mãi thua kém các đất nước khác kể cả các nước có cùng điều kiện khí hậu, địa lý trong khu vực như Singapore, Thailand, Malaysia, Indonesia, Philippines…? Thậm chí gần đây nhiều mặt cả Cambodia và Laos đều đã vượt Việt Nam.

    Tôi biết rất nhiều bạn sẽ đổ lỗi cho thể chế, đổ lỗi cho chính quyền, các bạn cho rằng thể chế, chính quyền đã kéo đất nước tụt hậu, nhưng các bạn cứ bình tĩnh, bởi trong suốt 4000 năm lịch sử, dù ở bất cứ thể chế nào, chính quyền nào, chưa bao giờ Việt Nam phát triển hơn các dân tộc khác. Đấy là một thực tế. Nếu bất cứ thể chế nào, bất chứ chính quyền nào, trong giai đoạn lịch sử nào Việt Nam cũng thua kém các dân tộc khác thì nguyên nhân hiển nhiên phải từ những điểm yếu cố hữu của dân tộc Việt.

    TRONG LỊCH SỬ CHƯA BAO GIỜ VIỆT NAM HƠN CÁC DÂN TỘC KHÁC

    Chỉ cần nhìn các di tích, công trình lịch sử từ thời cổ cũng đủ thấy chưa có công trình kiếm trúc nào do con người xây dựng nên của Việt Nam có thể sánh ngang các công trình cổ của các nước khác.
    Không so sánh với các nước Âu, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, bởi nó quá cách biệt, chỉ cần so sánh với Thailand, Myanmar, Indonesia, Cambodia… Cũng dễ dàng nhận ra điều đó.

    Tại sao đất nước ta mãi nghèo…một bài viết hay nên đọc!

    Các công trình kiến trúc cổ lớn của Việt Nam chỉ có thành nhà Hồ, kinh thành Thăng Long (chỉ còn lại dấu vết), kinh thành Huế. Các công trình ấy không thể so sánh được với chùa Vàng (Golden Buddha), chùa Phật Ngọc, chùa Doi Suthep, cung điện Hoàng Gia của Thái Lan; Càng không thể sánh được với Chùa Vàng (Yangon), chùa Vàng Shwezigon, đền Shwesandaw, đền Mahamuni (Mandalay) của Myanmar; Càng không thể sánh được với đền thờ Prambanan, quần thể đền thờ phật giáo Borobudar (lớn nhất thế giới) của Indonesia; Càng không thể sánh được với quần thể Angkor Thom, Angkor Wat của Cambodia (Angkor Wat có diện tích 40.000 ha ~ 401 km2). Đến cả dân tộc Chăm (nay đã thành một phần của nước Việt). Công bằng mà nói về lịch sử chúng ta hơn dân tộc Laos.

    (các bạn xem ảnh các công trình kiến trúc của Thailand, Myanmar, Indonesia, Cambodia trên google sẽ thấy rõ điều đó).
    Trong 4000 năm lịch sử, chúng ta luôn luôn kém, chưa bao giờ hơn, vậy thì làm gì có chuyện chúng ta tụt hậu, làm gì có ai đó kéo chúng ta tụt hậu.

    ĐÂU LÀ NGUYÊN NHÂN

    Nếu bất cứ thể chế nào, bất chứ chính quyền nào, trong giai đoạn lịch sử nào Việt Nam cũng thua kém các dân tộc khác thì nguyên nhân hiển nhiên phải từ những điểm yếu cố hữu của dân tộc Việt.
    Theo tôi dân tộc Việt có 4 điểm yếu cố hữu sau đã cản trở sự phát triển:

    (1) Lười biếng – Dễ hài lòng
    (2) Tư duy nhỏ – Quanh quẩn xó nhà
    (3) Áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác
    (4) Nền tảng triết học yếu lại không chuẩn
    Tôi sẽ lần lượt phân tích chi tiết 4 điểm yếu cố hữu trên.

    (1) LƯỜI BIẾNG – DỄ HÀI LÒNG

    Cuối tháng 6, tôi vừa qua Singapore, từ sân bay Changi về trung tâm tôi quan sát thấy một sự thực là tất cả các công việc giản đơn như kéo xe đẩy, dọn vệ sinh, lau chùi nhà WC đều do những ông cụ, bà cụ cỡ 65-75 tuổi làm. Đi taxi thì hầu hết lái xe đều do các cụ ông tóc bạc tuổi từ 65-75 lái. Trong thành phố tất cả những người nhặt rác, dọn vệ sinh đều do các cụ bà tuổi từ 65-75 làm. Hiển nhiên là tất cả những việc nặng nhọc, công nghệ cao đều do những người trẻ tuổi và trung niên làm (kể cả dưới 65 tuổi).

    Trong khi đó người Việt Nam ta 60 tuổi đã lên lão, nữ 55 tuổi, nam 60 tuổi đã về hưu và về hưu là không làm việc. Người Việt rất hứng thú “vui thú tuổi già”, “vui thú điền viên”, “sum vầy bên con cháu”…
    Không biết từ bao giờ quân đội có qui định độ tuổi về hưu cho quân nhân chuyên nghiệp vô cùng bất hợp lý như sau

    – Cấp Uý: 50 tuổi (nếu không lên được Thiếu tá)
    – Thiếu tá: 52 tuổi (nếu không lên được Trung tá)
    – Trung tá: 54 tuổi (nếu không lên được Thượng tá)
    – Thượng tá: 56 tuổi (nếu không lđen được Đại tá)

    Với qui định này, chúng ta có hàng vạn cán bộ về hưu tuổi mới chỉ 50, 52, 54, 56 tuổi không làm việc, không lao động.
    Ở Nông thôn (chiếm 70% dân số) thì chỉ lao động vất vả mấy tháng mùa vụ còn phần lớn thời gian trong năm là không có việc làm và rất nhiều người coi đấy như một sự hiển nhiên.

    Ở Thành phố số thanh niên thất nghiệp, không việc làm, ngày ngày la cà quán sá, cà phê, chơi bài cả ngày. Họ than thở, oán trách đổ lỗi cho chính quyền mà ít người có ý chí lập nghiệp Star-up. Rất ít người nghĩ mình tự lập nghiệp, tự tạo ra công ăn việc làm cho chính mình và cho xã hội. Những người có việc làm ở công sở thì hoặc sáng đến muộn giờ, hoặc đến đúng giờ chỉ để điểm danh rồi đi ăn sáng, giữa giờ làm việc thì lại chốn ra quán cafe giải khát ngồi tán gẫu. Không ở đâu lại có nhiều quán cafe, giải khát, quán nước vỉa hè nhiều như Việt Nam mà quán nào cũng đông khách cả trong giờ làm việc.

    Lười lao động, thích ăn chơi thể hiện rất rõ trong câu ca dao:
    Tháng giêng là tháng ăn chơi
    Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè
    Như vậy trong quá khứ ông cha ta một năm ít nhất đã chơi, không lao động 3 tháng. Ngày nay có khá hơn chút ít, các công nhân xây dựng, cầu đường, giao thông… vẫn giữ nếp là nghỉ hết tháng giêng. Có lẽ nghỉ cả tháng tết hiện chỉ có ở Việt Nam mà thôi.

    Trong xu thế tuổi thọ con người ngày càng tăng, hầu hết các nước đều nâng tuổi về hưu (Mỹ 67 tuổi, Nhật 68 tuổi, Pháp 62 tuổi…) thì Việt Nam vẫn giữ nữ 55, nam 60 từ cách đây 62 năm khi mà tuổi thọ thấp hơn hiện nay 10 tuổi. Khi có dự thảo nâng dần tuổi về hưu thì nhất loạt phản đối, họ gán ngay cho lãnh đạo tham quyền cố vị muốn ngồi ghế lâu nên sửa luật, họ bất chấp luật hưu trí qui định khi tuổi thọ của Việt Nam chỉ có 62.5, trong khi hiện tại tuổi thọ đã tăng lên đến 72.5, bất chấp xu thế tăng tuổi nghỉ hưu của cả thế giới.

    Một đất nước đã có nhiều lợi thế như Singapore (HUB của khu vực) mà lại chăm chỉ lao động, ai ai cũng làm việc, kể cả những người già 65-75 tuổi thì họ giầu có là điều hiển nhiên.
    Một đất nước đã không có nhiều lợi thế mà lại lười lao động, thanh niên không chịu lập nghiệp, nằm chờ người khác tạo công ăn việc làm cho mình, giờ làm việc thì bớt xén giờ giấc, người còn sức lao động, chưa già đã muốn nghỉ “an nhàn tuổi già”, “xum vầy bên con cháu” thì mãi mãi nghèo cũng là chuyện không thể khác.

    Không chỉ lười lao động, người Việt còn lười học, lười suy nghĩ, lười vận động.
    Trên Facebook hoặc trên các diễn đàn không ít bạn “bàn phím” nhanh hơn “mắt”, chưa kịp đọc hết nội dung, chưa kịp hiểu hết ý người khác đã vội vã comment, vội vã bình luận, thậm chí chửi bới. Cuộc sống là của mình, hạnh phúc là của mình mà rất nhiều người luôn trông chờ vào “nhà nước” vào “chính quyền”.

    Trừ các học sinh trường chuyên, đa số những trường khác, học sinh rất chi là lười, đặc biệt là rất lười đọc sách, rất lười tự học. Cứ nhìn số lượng các hiệu sách, số lượng độc giả đến hiệu sách thì sẽ hiểu người Việt lười đọc sách thế nào.

    Người Việt rất lười vận động, họ rất lười đi bộ, chỉ cần khoảng cách 100 mét họ cũng đi xe máy thay vì đi bộ (chúng ta đều biết ở nước ngoài đi bộ 500 m – 1 km là chuyện bình thường). Không chịu vận động làm cho người thiếu sức dẻo dai, ảnh hưởng đến năng xuất lao động. Đi xe máy khi không cần thiết sẽ làm tăng ùn tắc giao thông, tăng ô nhiễm môi trường, tăng tai nạm giao thông, lãng phí tiền xăng.

    (2) TƯ DUY NHỎ – QUANH QUẨN XÓ NHÀ

    Tư duy nhỏ bé của người Việt thể hiện rất rõ trong giao thông: thời trước khi Pháp xâm lược Việt Nam (1858) giao thông của nước Việt chỉ là những con đường nhỏ cho người đi bộ, ngựa, trâu, bò và xe 2 bánh người kéo (xe kéo chở người, xe chở hàng hoá). Không có con đường nào rộng đủ cho xe 4 bánh ngựa kéo hay ô tô có thể đi lại được (Các đường quốc lộ, tỉnh lộ, liên huyện, đường xe điện, đường tàu hoả đều do người Pháp xây dựng sau khi vào Việt Nam).

    Giao thông toàn đường nhỏ cho người và xe 2 bánh rất lợi hại cho phòng thủ đất nước, chống xâm lược. Chỉ cần rút lui, vườn không nhà trống rồi tuyệt đường tiếp vận là quân xâm lược tự thua và rút về nước. Đọc lịch sử Việt Nam thì thấy hầu hết các triều đại, khi ở thế yếu các tướng lĩnh, vua, chúa Việt Nam đều dùng chiến thuật vườn không nhà chống này để chống xâm lược phương Bắc và đều giành chiến thắng.

    Thế nhưng để phát triển kinh tế, giao thương thì đường giao thông nhỏ bé là lực cản, là hạn chế lớn nhất. Con người và hàng hoá không được lưu thông, kinh tế không thể phát triển. Với đường giao thông nhỏ như vậy thì Việt nam không có công trình nào to cũng dễ hiểu.

    Vì tư duy nhỏ bé nên biểu tượng của Hà Nội là chùa một cột, một ngôi chùa có lẽ bé nhất thế giới. Trong công viên “Thế giới thu nhỏ” ở Thâm Quyến, mỗi quốc gia người ta xây dựng một công trình biểu tượng (Pháp thì có tháp Epphen, Mỹ thì có tượng nữ thần tự do, Italia thì có đấu trường La Mã…). Mỗi công trình người ta thu nhỏ 1/25 so với kích thước thật, riêng chùa một cột vì quá bé nên người ta thu nhỏ tỷ lệ 1/8. Chúng tôi đi thăm thì tất cả các biểu tượng của các nước khác đều có thể đi vào bên trong, đi lại được, chỉ có chùa một cột là đứng bên cạnh và nóc chùa chỉ đến ngang vai. Vừa đứng bên cạnh biểu tượng chùa một cột vừa nhìn biểu tượng của các quốc gia khác mà sống mũi tôi cứ cay cay.

    Tư duy nhỏ bé còn thể hiện trong việc ruộng đất được chia nhỏ theo từng thửa, thường là 1 sào 360 m2, với thuở ruộng bé như vậy thì chỉ có thể làm thủ công với hiệu xuất thấp, không thể tổ chức sản xuất lớn, không thể cơ giới hoá. Khoán 100 năm 1981 và khoán 10 năm 1988 đã thiết lập nên kinh tế hộ gia đình, người nông dân làm chủ mảnh đất của mình, đã tạo ra cú huých, đột phát đưa nước ta từ chỗ thiếu lương thực thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Nhưng như cái lò so bị nén được giải phóng đã bung hết cỡ, những năm gần đây nông nghiệp không còn lực phát triển nữa, bởi bản chất kinh tế hộ gia đình vẫn là lối tư duy nhỏ bé. Phải làm lớn, tích tụ ruộng đất lớn để sản xuất với qui mô lớn, đưa máy móc, tự động hoá vào, đặc biệt phải đẩy mạnh nông nghiệp công nghệ cao theo công nghệ của Nhật Bản, Israel. Chỉ có như vậy Nông nghiệp và Nông thôn Việt Nam mới có bước phát triển mạnh mẽ, mới có năng xuất và hiệu suất cao.

    Tư duy nhỏ bé còn thể hiện trong việc tổ chức buôn bán thông qua chợ cóc, buôn bán vỉa hè. Vì chợ cóc buôn bán vỉa hè nên xe máy là phương tiện giao thông thích hợp nhất vì có thể dừng bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào. Khi xe máy ít thì đúng là rất thuận tiện, nhưng bây giờ khi Hà Nội có 5 triệu xe và Hồ Chí Minh có 8 triệu xe, nạn kẹt xe thường xuyên xẩy ra thì hiệu quả của cả xã hội rất thấp, mỗi ngày người dân tốn thêm trung bình 45 phút – 75 phút cho việc đi đến công sở và trở về nhà. Bây giờ chúng ta mới bắt đầu nghĩ đến đường sắt đô thị, metro thì ít nhất phải 10-15 năm nữa Hà Nội, Hồ Chí Minh mới có hệ thống đường sắt đô thị, metro.

    Tư duy nhỏ bé còn thể hiện trong các doanh nghiệp. Ai cũng biết doanh nghiệp nhỏ thì năng động hơn, nhưng doanh nghiệp lớn mới có tiềm lực, có thể đảm nhận những công trình lớn, mới có thể cạnh tranh quốc tế. Rất nhiều doanh nghiệp Việt nam sau một vài năm thành lập, phát triển thành công một tý, lớn một tý là tách làm hai, làm ba, kể cả những công ty do 2-3 người bạn thân cùng góp vốn.

    Nếu chúng ta không có những công ty lớn thì không thể cạnh tranh quốc tế, không thể làm được những việc lớn. Nếu chúng ta không có tư duy lớn thì chúng ta chỉ làm những việc bé. Đất nước mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới đã 22 năm mà hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chỉ làm thầu phụ ngay trên chính sân nhà của mình, nếu có làm tổng thầu thì cũng chỉ là những dự án vốn của nhà nước, của chính phủ, cứ dự án đấu thầu quốc tế sòng phẳng là hầu hết doanh nghiệp Việt Nam lại trở lại thân phận làm thuê, làm thầu phụ ngay.

    Hội nhập kinh tế thế giới là tất yếu, nhưng sau 22 năm hội nhập, đáng buồn là chúng ta đã mất đi nhiều thương hiệu Việt nổi tiếng một thời vào tay các hãng nước ngoài chỉ vì các doanh nhân Việt không dám nghĩ lớn, không dám đương đầu cạnh tranh sòng phẳng với các hãng nước ngoài, dù là trên sân nhà của mình. Các thương hiệu Việt bị các hãng nước ngoài nuốt chửng, mất luôn tên tuổi có thể kể đến kem đánh răng Dạ Lan bị Colgate Palmolive nuốt, kem đánh răng PS về tay Unilever, bia Huế về tay Carlsberg Đan Mạch, Tribeco về tay Uni-President, Phở 24 và Highland Coffe về tay Jollibee Ford…

    Một điểm yếu nữa của người Việt là không có máu chinh phục, không có máu kinh doanh quốc tế, không có khát vọng toàn cầu hoá, trong khi Tây vào tận nước mình, kinh doanh, thôn tính, kiếm tiền của mình, thì các Doanh nghiệp Việt chỉ quanh quẩn trong đất nước mình, thậm chí thành phố mình, tỉnh mình.

    Năm 1998 FPT quyết định chiến lược Toàn cầu hoá Xuất khẩu phần mềm, anh Trương Gia Bình đã gặp rất nhiều lực cản cả từ bên trong lẫn bên ngoài. Rất nhiều lãnh đạo FPT sợ thất bại, sợ mất tiền, để thể hiện quyết tâm anh Trương Gia Bình đã phải ra nghị quyết đầu tư 1 triệu USD cho xuất khẩu phần mềm (một con số gấp 2.5 lần toàn bộ Doanh thu phần mềm trong nước của FPT năm 1998).
    Chưa đủ, anh Trương Gia Bình còn thể hiện quyết tâm bằng khẩu hiệu “dù phải đốt cả dãy Trường Sơn cũng phải xuất cho được phần mềm”. Nếu không có những quyết tâm cao độ đó thì hôm nay FPT không có 10.000 người làm xuất khẩu phần mềm với doanh thu 300 triệu USD năm 2016.

    Đến giai đoạn xuất khẩu lần thứ 2 của FPT, kiếm được hợp đồng từ các nước đang phát triển đã khó nhưng để có chuyên gia sẵn sàng đi nước ngoài triển khai hợp đồng cũng khó không kém, chúng tôi đã phải xây dựng chính sách ưu đãi cho Toàn cầu hoá như tiêu chuẩn ăn, ở, đi lại, công tác phí, phụ cấp toàn cầu hoá, 3 tháng về thăm nhà một lần thế mà cũng không ít cán bộ tự nguyện đi Toàn cầu hoá. Chưa hết chúng tôi còn làm qui đổi doanh số Toàn cầu hoá được nhân hệ số 4, tức cứ 1 triệu USD doanh số Toàn cầu hoá bằng 4 triệu USD doanh số ở thị trường Việt Nam.

    Hiện tại tuy Việt Nam đã đạt kim ngạch xuất khẩu 162 tỷ USD (năm 2015) nhưng hầu hết là xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản, thuỷ hải sản, nông sản, thực phẩm và hàng gia công chứ rất ít từ dịch vụ, từ công nghệ, tức giá trị chất xám của người Việt còn chiếm tỷ lệ rất thấp.
    Về tinh thần thì số doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài (không tính Cambodia và Laos) chinh chiến, hoạt động thương mại, sản xuất, kinh doanh tại các quốc gia khác chỉ đếm trên đầu ngón tay, nếu phải kể tên thì cũng chỉ có các tên sau Vietel, FPT, Hoàng Anh – Gia Lai…
    Chúng ta không kiếm được tiền của các nước khác mà lại để doanh nghiệp các nước khác kiếm tiền của mình, trên sân nhà mình thì chúng ta nghèo hơn người ta là đúng thôi.

    (3) ÁP ĐẶT SUY NGHĨ CỦA MÌNH CHO NGƯỜI KHÁC

    Cuối năm 1990 tôi sang Pháp 8 tháng nên có gặp gỡ nhiều anh chị Việt Kiều Pháp và Đức. Tôi có được đọc một bài trả lời phỏng vấn của một đạo diễn nổi tiếng trên tạp chí Quê Hương, sau khi được các anh chị Việt Kiều mời anh sang Pháp, Đức, Mỹ 3 tháng làm phim về Việt kiều, vị đạo diễn đã trả lời đại ý như sau:

    – Hỏi: Anh có cảm giác gì sau 3 tháng sang Pháp, Đức, Mỹ làm phim và tiếp xúc với nhiều Việt Kiều thành đạt?
    – Trả lời: Tôi thất vọng về dân tộc Việt.
    – Hỏi: Anh cũng là người Việt, sao anh lại nói vậy.

    – Trả lời: Trước khi sang đây tôi tưởng Việt nam nghèo vì sai lầm về thể chế về chế độ chính trị, nhưng sau khi sang đây tiếp xúc với nhiều anh, chị, tôi thấy các anh chị tuy sống ở Mỹ, Pháp, Đức được coi là những nước tự do, dân chủ hàng đầu thế mà các anh chị vẫn có tật là áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác, các anh chị không chấp nhận người không cùng chính kiến với mình, cùng là chống cộng, nhưng những người chủ trương bạo động và những người chủ trương bất bạo động cũng coi nhau như kẻ thù. Nếu chỉ là sai lầm về thể chế, chế độ chính trị thì chúng ta dễ sửa, còn áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác, không chấp nhận người khác chính kiến của mình là bản tính của dân tộc Việt thì rất khó sửa.

    Sau khi đọc bài trả lời phỏng vấn ấy, tôi suy nghĩ nhiều và thấy ông đạo diễn nói có cơ sở. Hoá ra áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác, không chấp nhận người khác chính kiến của mình là bản tính xấu của người Việt. Ngay từ thói quen ăn uống, người Việt đã áp đặt nhau: Người Việt ăn món gì thấy ngon thì luôn nghĩ người khác phải ăn thế mới ngon, mình ăn hành, ăn tỏi, ăn mắm tôm, ăn thịt chó thì người khác cũng phải ăn, “không ăn phí nửa đời người”, “ăn tốt cho sức khỏe”, “ăn ngon lắm”… họ đâu có biết người không ăn được thì hoặc cơ thể họ không tiếp nhận hoặc với họ ăn như một cực hình.

    Trong nhà hàng hay mời khách đến nhà ăn, người Việt không có thói quen hỏi người khác kiêng cái gì hoặc người Việt quan niệm “Nam vô tửu như cờ vô phong”, trên bàn tiệc bắt tất cả đều phải uống rượu, đều phải 100%, nếu không 100% là không thật lòng, không cần biết người ta có uống được không, có đang điều trị bệnh gì không.

    Trên Facebook chúng ta thường xuyên thấy những người tự nhận là đấu tranh cho dân chủ, thế nhưng bất cứ ai nói khác với họ là họ qui ngay là DLV, là ăn lương của nhà nước, là ngu… Đến cả những người đang giương cờ đấu tranh cho dân chủ mà cũng thế thì hết cách chữa.
    Đất nước đã thống nhất 41 năm thế mà vẫn chưa thể hoà giải giữa những người hai bên chiến tuyến, một bên thì vẫn chưa bỏ được mối thù, cứ có dịp là biểu tình chống cộng, một bên thì vẫn chưa bỏ được định kiến. Một bên thì bảo anh thắng trận anh phải quảng đại, anh phải chìa tay ra chứ, một bên thì bảo tôi đã chìa tay ra rồi mà anh có bắt đâu.

    Hệ quả của việc áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác, không chấp nhận người khác chính kiến cùa mình là vô cùng lớn:

    [1] Đầu tiên là anh thiếu kiềm chế, anh hung hăng nên rất khó tìm lời giải tối ưu khi đất nước đứng trước nguy cơ bị xâm lược, nguy cơ chiến tranh, dẫn đến việc chúng ta không giữ được hoà bình, xẩy ra chiến tranh nhiều. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao trong lịch sử 4000 năm Việt Nam lại xẩy ra chiến tranh nhiều đến thế, có bạn nói tại ông bạn hàng xóm xấu tính, thế thì Sơn Tinh đánh nhau với Thủy Tinh, Đinh Bộ Lĩnh loạn 12 xứ quân, Trịnh Nguyễn phân tranh 200 năm là tại ai?. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao trong lịch sử Thái Lan và các nước xung quanh ít chiến tranh hơn Việt Nam?

    [2] Tiếp theo là chúng ta thiếu tính kế thừa, ai có quyền cũng muốn không giống người tiềm nhiệm, muốn ghi dấu ấn của mình thành ra các công trình cổ bị đập đi, làm lại. Trong khoa học, công nghệ chúng ta không có thói quen làm tiếp, tiếp quản thành quả của người khác mà thích làm lại từ đầu. Tất cả dẫn đến lãng phí của cải chung của cả xã hội và giá thành sản phẩm cao và chậm nhịp độ phát triển.

    [3] Một hậu quả xấu nữa là hoặc là tổ chức sẽ thiếu tính sáng tạo vì không có người phản biện hoặc là tổ chức sẽ thiếu sự đoàn kết và không phát huy hết các tài năng cá nhân vì những người khác quan điểm hoặc sẽ phải dời bỏ hoặc ở lại thì thụ động, không dám thể hiện hết mình.

    (4) NỀN TẢNG TRIẾT HỌC YẾU LẠI KHÔNG CHUẨN

    Triết học của Việt Nam gốc là Nho Giáo sau này chuyển sang Khổng Giáo, Khổng Giáo độc tôn ở Việt nam cho tới thế kỷ 20. Cuối thế kỷ 16 khi các nhà truyền giáo Châu Âu vào giảng đạo, Thiên Chúa Giáo bắt đầu hình thành và phát triển và triết học Khổng Giáo dần bị lai tạp bởi Thiên Chúa Giáo. Với sự thay đổi và phát triển như vậy triết học của Việt Nam là lai tạp, pha trộn và ảnh hưởng của nước ngoài (Trung Quốc và phương Tây) nên nền tảng không vững chắc, cộng thêm Việt Nam không có triết gia nên các hệ thống lý luận và giá trị vừa yếu vừa không chuẩn.

    Trên nền tảng triết lý Khổng Giáo lai tạp ấy rất nhiều giá trị, nhiều vai trò của các thành phần trong xã hội không chuẩn, thậm chí bị sai lệch, từ đó dẫn đến đảo lộn các qui tắc hành xử, ứng xử trong xã hội cũng như trong phát triển kinh tế.

    [1] Điểm sai lệch thứ nhất nghiêm trọng nhất là đánh giá thấp vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp và thương mại. Không những đánh giá thấp mà còn bị coi thường: dậy học và chữa bệnh thì được gọi là “thầy”: “thầy giáo”, “thầy thuốc” (điều này không sai), còn buôn bán, thương mại thì gọi là “con” là “bọn” (“phường con buôn”, “bọn con buôn”). Trong khi doanh nghiệp (bao gồm cả nhà máy, xí nghiệp sản xuất, ngân hàng) là trung tâm của xã hội, tạo công ăn việc làm cho 70% lao động trong xã hội, đóng thuế nuôi bộ máy chính phủ, duy trì an ninh quốc phòng, đầu tư cho giao thông, hạ tầng xã hội, đầu tư cho giáo dục, đầu tư cho y tế, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ người nghèo và các chính sách xã hội…

    Đã bước vào thế kỷ 21, hội nhập quốc tế đã 22 năm, thời đại Internet, thời đại toàn cầu hoá rồi mà hiện tại rất nhiều học giả, rất nhiều người có tri thức vẫn có luận điểm chia những người kinh doanh Việt Nam ra 3 loại: Doanh nhân, thương nhân và con buôn (trong khi thế giới chỉ dùng một từ duy nhất là Businessman). Tệ hại hơn có người còn kết luận hiện thời Việt Nam chưa có doanh nhân.

    Một thành phần chính, lực lượng chính, hoạt động trung tâm của việc tạo ra của cải cho xã hội, của phát triển kinh tế, làm giầu cho cá nhân, tập thể và đất nước lại bị đánh giá thấp nhất, bị coi thường, bị miệt thị thì mãi nghèo cũng là chuyện tất yếu, không thể khác.

    Người Việt chúng ta hiểu hoàn toàn sai về thương mại và doanh nhân, họ coi buôn bán, thương mại là lừa gạt, là bất nhân. Thực chất thương mại và doanh nhân buộc người ta phải đi lại, gặp gỡ, giao lưu, buộc người ta phải thuyết phục đối tác, khách hàng; muốn vậy buộc người ta phải tìm hiểu tâm lý, thói quen, nhu cầu của khách hàng; muốn vậy buộc người ta phải đặt mình vào địa vị của khách hàng để hiểu tâm lý, thói quen, nhu cầu, để khám phá xem khách hàng muốn gì; muốn vậy buộc người ta phải nghiên cứu, áp dụng khoa học và công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm tốt nhất, phù hợp nhất; Tiếp theo người ta phải tìm cách chinh phục khách hàng, thuyết phục khách hàng đồng ý mua sản phẩm, dịch vụ của mình thay vì mua sản phẩm dịch vụ của nhà cung cấp khác, của quốc gia mình mà không phải quốc gia khác. Muốn làm được điều đó doanh nhân phải là một người lịch sự, chân thành, lễ độ, nghiêm túc, hiểu biết, giữ chữ tín, đáng tin cậy, đáng yêu và có trách nhiệm với xã hội, đôi khi là cả lòng dũng cảm, đi tiên phong.

    Chân thành, tin cậy, đáng yêu, có trách nhiệm với xã hội là bốn đức tính đáng quí nhất của một doanh nhân, thiếu bốn đức tính đó thì không thể là một doanh nhân lớn, không thể thành công trong thương mại, nếu có thành công thì chỉ là thành công nhỏ, tạm bợ mà thôi.

    Một đất nước, một nền văn hoá, loại bỏ thương mại, thiếu vắng thương mại sẽ dần biến đất nước, biến xã hội thành một đất nước, một xã hội không văn minh, thiếu lịch sự, đôi khi lỗ mãng.

    Chính vì bị đánh giá thấp, bị coi thường nên doanh nghiệp và nghề buôn (thương mại) không được phát triển ở Việt nam. Mà thương mại và doanh nghiệp không được phát triển thì tất yếu đất nước sẽ nghèo.

    [2] Điểm sai lệch thứ hai cũng nghiêm trọng là đánh giá sai lệch về tiền bạc. Không chỉ sai lệch mà chúng ta còn có thái độ bệnh hoạn và tội lỗi đối với tiền bạc.

    Người Việt chúng ta có hai thái cực trái ngược nhau đầy mâu thuẫn về tiền bạc. Thái cực thứ nhất là coi khinh đồng tiền: “Tôi coi khinh đồng tiền”, “tiền bạc lắm”; đã coi khinh đồng tiền, coi tiền là bạc bẽo thì hiển nhiên sẽ không bao giờ kiếm được nhiều tiền, không bao giờ giầu có. Thái cực thứ hai là tuyệt đối hoá đồng tiền: “Có tiền mua tiên cũng được”, “tiền là vạn năng”, “tiền là tất cả”; đã tuyệt đối hoá đồng tiền họ sẽ kiếm tiền bằng mọi giá, không quan tâm đến chữ tín, không quan tâm đến nhân cách, bất chấp hậu quả.

    Với triết lý vừa tuyệt đối hoá vừa coi khinh đồng tiền dẫn đến một bộ phận người Việt Nam không dám công khai kiếm tiền, coi kiếm tiền như một sự vẩn đục, họ cố làm ra vẻ coi khinh đồng tiền, coi khinh sự giầu có và hãnh diện với sự thanh bần của mình. Mặt khác họ cũng hiểu quyền lực của đồng tiền, họ cũng cần tiền và muốn có nhiều tiền thành thử họ kiếm tiền và làm giầu một cách giấu giếm.

    Các xã hội phát triển, văn minh họ đánh giá đúng giá trị đồng tiền, họ không tuyệt đối hoá, họ không coi khinh đồng tiền, họ coi đồng tiền là phương tiện trao đổi hàng hoá, đồng tiền là thước đo giá trị lao động, đồng tiền giúp họ có cuộc sống tốt hơn, đào tạo nâng cao trình độ, chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, báo hiếu cha mẹ, giải trí, du lịch và làm công tác xã hội.

    [3] Điểm sai lệch thứ 3 cũng nghiêm trọng là đánh giá sai các giá trị:

    Người Việt chúng ta quan niệm lệch lạc về người giỏi. Thời phong kiến là giỏi làm thơ (xuất khẩu thành thơ), giỏi đối đáp (câu đối), trong khi đó xã hội cần bao nhiêu người tài trong các lĩnh vực khác nữa: khoa học tự nhiên và kinh tế – thương mại là hai lĩnh lực quan trọng nhất giúp kinh tế phát triển thì thời phong kiến không được quan tâm, không được đánh giá là người tài. Nửa cuối thế kỷ 20 ở miền Bắc lại quan niệm người giỏi là giỏi các môn tự nhiên, đặc biệt là môn Toán, tất cả những học sinh giỏi nhất lên đại học đều học Toán, Vật Lý, Cơ học..

    Người Việt chúng ta không đánh giá cao, không ca ngợi những nguyên lý cơ bản về hệ thống, bài bản mà thường đánh giá cao sự lanh trí xử lý theo tình huống, khôn vặt kiểu Trạng Quỳnh: “Dê đực chửa”, “Hâm nước mắm”, “nhúng 10 đầu ngón tay vẽ giun”, “đố vua ị mà cấm đái”… Với tư duy ấy chúng ta chỉ có thể làm tốt những hệ thống nhỏ, đơn lẻ, khi hệ thống lớn hơn, cần nhân rộng, cần phát triển lâu dài thì sự lanh trí, khôn vặt lại chính là lực cản của sự phát triển.

    Người Việt chúng ta rất coi trọng bằng cấp, coi trọng đến mức cứ thi đỗ trạng nguyên, thám hoa, bảng nhãn thì bổ làm quan. Trong khi đó thám hoa, bảng nhãn cũng chỉ giỏi văn thơ, làm sao mà lãnh đạo một tổng, một huyện, một tỉnh, làm sao lãnh đạo phát triển kinh tế. Đồng hành với coi trọng bằng cấp là coi nhẹ thực hành: ngày trước đi học chỉ dậy văn thơ, câu đối, ngày nay chỉ dậy lý thuyết mà ít dậy thực hành.

    NHẤT ĐỊNH ĐẤT NƯỚC TA SẼ GIÀU HÃY TIN VÀ HÃY KHÁT VỌNG

    Từ hôm tôi post stt đầu tiên về chủ đề VÌ SAO ĐẤT NƯỚC TA MÃI NGHÈO, chỉ ra nhiều điểm yếu cố hữu của người Việt, rất nhiều bạn đồng quan điểm, rất nhiều bạn tự thấy bản thân sẽ tự thay đổi để hạn chế điểm yếu, một số bạn không chia sẻ, đặc biệt tôi nhận được vài ý kiến của một số bạn lo ngại: “anh viết về điểm yếu của người Việt làm cho bọn em và một số người bi quan và nản”.

    Tuy chỉ ra 4 điểm yếu cố hữu của người Việt, nhưng tôi không bi quan, tôi vẫn rất lạc quan, tôi luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc Việt, của đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Tôi tin tưởng sâu sắc rằng NHẤT ĐỊNH ĐẤT NƯỚC TA SẼ GIÀU, nhất định chúng ta sẽ đuổi kịp Thailand, nhất định chúng ta sẽ vượt Philippines trong một thời gian không xa nữa.

    Cơ sở để tôi tin tưởng bao gồm:

    [1] NGƯỜI VIỆT CHÚNG TA CÓ RẤT NHIỀU ƯU ĐIỂM VƯỢT TRỘI
    [2] TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 15 NĂM QUA (2000-2015) CỦA VIỆT NAM NHANH NHẤT ASEAN
    [3] VIỆT NAM ĐÃ CÓ NHỮNG ĐIỂM SÁNG VƯỢT CÁC NƯỚC ASEAN
    [4] TRONG KỶ NGUYÊN THẾ GIỚI SỐ, VIỆT NAM CÓ NHIỀU LỢI THẾ
    [5] NHẬN RA ĐIỂM YẾU, CHÚNG TA CÙNG KHẮC PHỤC
    Tôi sẽ phân tích lần lược 5 cơ sở trên.

    NGƯỜI VIỆT CHÚNG TA CÓ RẤT NHIỀU ƯU ĐIỂM VƯỢT TRỘI

    Nói về ưu điểm của người Việt sẽ có nhiều nhận định, nhiều ý kiến khác nhau, cá nhân tôi cho rằng người Việt có một số ưu điểm có tác động lớn đến phát triển kinh tế đất nước, đó là:

    (a) Người Việt yêu quê hương đất nước
    (b) Người Việt kiên cường, bất khuất trước xâm lược, cường quyền
    © Người Việt đoàn kết rất cao khi gặp khó khăn, nhất là khi ở hoàn cảnh ngặt nghèo
    (d) Người Việt có lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thuyết con RỒNG cháu tiên
    (e) Người Việt thông minh, sáng dạ, học nhanh, nhất là công nghệ mới
    (f) Người Việt ham học (tuy lười đọc sách, lười tự học), bố mẹ đầu tư mạnh mẽ cho việc học tập của con cái
    (g) Người Việt thân thiện và mến khách

    Những ưu điểm trên, nếu biết phát huy (từng cá nhân, từng doanh nhân tự phát huy, từng doanh nghiệp, từng tổ chức, lãnh đạo quốc gia biết khơi dậy, biết tổ chức, biết khai thác) thì nó sẽ tạo thành sức mạnh, tạo thành năng lực cạnh tranh quốc tế, giúp nâng cao năng suất lao động, giúp sáng tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao từ đó sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.

    TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 15 NĂM QUA CỦA VIỆT NAM NHANH NHẤT ASEAN

    Trong thời gia qua chúng ta có nhiều bài báo nói Việt Nam càng ngày càng tụt hậu, khoảng cách giữa Việt Nam với các nước Asean ngày càng xa, nhưng với số liệu thống kê của tổ chức tiền tệ quốc tế IMF thì lại cho kết quả hoàn toàn ngược lại.

    Theo thống kê của tổ chức tiền tệ quốc tế IMF thì trong 15 năm qua (2000-2015) tốc độ phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP của Việt Nam cao nhất khu vực Asean, khoảng cách giữa Việt Nam với các nước đã được rút ngắn đáng kể (có số liệu của IMF xác nhận, các bạn xem ảnh ở kèm sẽ có các số liệu chi tiết).

    Theo bảng thống kê này thì tốc độ tăng trưởng GDP đầu người (normal per capita) giai đoạn 2010-2015 các nước ASEAN thứ tự như sau:

    (1) Việt Nam: tăng trưởng 71.35%, từ 1.267$ lên 2.172$
    (2) Laos: tăng trưởng 66.82%, từ 1.070$ lên 1.785$
    (3) Cambodia: tăng trưởng 45.78%, từ 782$ lên 1.140$
    (4) Philippines: tăng trưởng 36.94% từ 2.155$ lên 2.951$
    (5) Myanmar: tăng trưởng 27.15% từ 998$ lên 1.269$
    (6) Singapore: tăng trưởng 14.29% từ 46.569$ lên 2.172$
    (7) Malaysia: tăng trưởng 12.93% từ 8.920$ lên 10.073$
    (8) Indonesia: tăng trưởng 7.49% từ 3.178% lên 3.416$
    (9) Thailand: tăng trưởng 7.2% từ 5.063$ lên 5.426$

    Cũng theo bảng thống kê này thì khoảng cách về GDP trên đầu người (normal, per capita) giữa Việt Nam và các nước Singapore, Malaysia, Thailand, Indonesia, Philippines từ năm 2000 đến năm 2015 đã rút ngắn đáng kể như sau:

    (1) Singapore: từ gấp 59.19 lần xuống còn gấp 24.52 lần
    (2) Malaysia: từ gấp 10.65 lần xuống còn gấp 4.94 lần
    (3) Thailand: từ gấp 5.05 lần xuống còn gấp 2.5 lần
    (4) Philippines: từ gấp 2.52 lần xuống còn gấp 1.36 lần
    (5) Indonesia: từ gấp 2.21 lần xuống còn gấp 1.57 lần

    Như vậy, nếu cứ giữ tốc độ này, Việt Nam đuổi kịp Philippines, Indonesia, Thailand là hoàn toàn có thể xẩy ra trong thời gian không xa lắm.

    VIỆT NAM ĐÃ CÓ NHỮNG ĐIỂM SÁNG VƯỢT CÁC NƯỚC ASEAN

    Về GDP trên đầu người của Việt Nam đúng là còn kém Singapore, Malaysia, Thailand, Indonesia, Philippines, tức kinh tế Việt Nam còn chậm phát triển hơn, Việt Nam còn nghèo hơn, thế nhưng không phải lĩnh vực nào chúng ta cũng kém họ, ít nhất chúng ta có những doanh nghiệp như Viettel, Vinamilk, FPT có những mặt đã vượt các doanh nghiệp cùng lĩnh vực của các nước Asean.

    VIETTEL

    Tuy về qui mô kinh doanh, doanh số, lợi nhuận, số nhân viên Viettel vẫn còn thua các doanh nghiệp Viễn thông của các nước Singapore, Malaysia, Indonesia, Thailand, nhưng về tinh thần Toàn cầu hoá, về sự có mặt, hiện diện kinh doanh ở nhiều quốc gia, nhất là châu Phi và châu Mỹ la tinh thì chắc chắn Viettel đã vượt các hãng Viễn thông của các nước Singapore, Malaysia, Thailand, Indonesia.

    Đến năm 2015, Vittel đã có mặt, hiện diện tại 10 quốc gia, với số thuê bao lên đến 250 triệu (gấp 2.7 lần dân số Việt Nam, tương đương dân số Indonesia).

    Theo kế hoạch đến năm 2020, Viettel sẽ hiện diện tại 20 đến 25 quốc gia, với khoảng nửa tỷ thuê bao, khi ấy có thể Viettel sẽ là hãng viễn thông có số lượng thuê bao đứng đầu Asean.

    VINAMILK

    VINAMILK là doanh nghiệp có vốn hoá lớn lớn nhất Việt Nam với giá trị công ty lên đến 9 tỷ USD. Cuối tháng 6 năm 2016 tập chí Nikkei (Nhật Bản) đã xếp Vinamilk là doanh nghiệp lớn thứ 22 châu Á (trừ Nhật Bản). Có thể nói trong lĩnh vực sữa, Vinamilk đã trở thành doanh nghiệp lớn nhất Asean.

    VINAMILK cũng là doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực Toàn Cầu hoá, hiện Vinamilk đã có 15 nhà máy sữa ở Việt Nam, 3 nhà máy sữa ở New Zealand, Ba Lan, Mỹ.

    FPT

    Trong lĩnh vực CNTT, Việt Nam chúng ta tự hào có FPT là doanh nghiệp CNTT lớn nhất Đông Nam Á. Với doanh thu tỷ gần 2 tỷ USD và 30.000 nhân viên, hiện diện trên 20 quốc gia FPT đã vượt xa nhiều lần các doanh nghiệp CNTT của các nước Singapore, Indonesia, Malaysia, Thailand, Philippines.

    Ở một đất nước tổng GDP thấp hơn nhiều lần, qui mô thị trường CNTT bé hơn 3-5 lần mà FPT có qui mô kinh doanh vượt tất cả các công ty CNTT các nước Asean 5-7 lần thì là một kỳ tích và Việt Nam chúng ta rất đáng tự hào.

    VIETTEL, VINAMILK, FPT là một minh chứng rất thuyết phục rằng người Việt Nam chúng ta cũng như đất nước chúng ta hoàn toàn có thể ngang hàng và vượt các nước khác trong khu vực.

    (5) LỜI GIẢI NÀO ĐỂ THOÁT NGHÈO SÁNH VAI VỚI BẠN BÈ QUỐC TẾ

    Đi tìm lời giải để Việt Nam thoát nghèo tôi đã suy nghĩ và tìm câu trả lời cho 3 câu hỏi sau:

    (1) Tại sao người Việt lại mắc một số yếu điểm cố hữu mà các dân tộc khác lại không mắc hoặc mắc ít hơn, mắc nhẹ hơn và làm cách nào để khắc phục hoặc ít nhất hạn chế các điểm yếu cố hữu của người Việt.
    (2) Tại sao sao các nước Phương Tây (Châu Âu, Mỹ, Australia), Nhật Bản lại giầu có vượt trội so với phần còn lại của thế giới (không tính các nước dầu mỏ Trung Đông do nguồn tài nguyên dầu mỏ khí đốt thiên nhiên ban tặng).
    (3) Tại sao các nước Châu Phi, Nam Á, ASEAN (trừ Singapore) lại nghèo.
    Mỗi câu hỏi sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau, nhưng câu trả lời chung nhất cho cả ba câu hỏi trên là các nước Phương Tây văn minh hơn, dân trí cao hơn, tính khoảng 1000 năm trở lại đây thì hầu hết các phát minh vĩ đại nhất làm thay đổi thế giới loài người từ bánh xe, đầu máy hơi nước, bóng đèn, động cơ điện, điện thoại, tivi, máy tính, Internet… đều do người phương tây phát minh.

    Sở dĩ người Việt chúng ta mắc những tật xấu cố hữu là vì người Việt chưa văn minh, dân trí thấp, giao lưu quốc tế ít, nên không mở rộng tầm mắt nhìn nhận thế giới văn minh.

    Tương tự như vậy sở dĩ các nước Châu Phi, Nam Á, Asean nghèo cũng là vì các nước ấy chưa văn minh, dân trí thấp, dù họ có theo thể chế nào: phong kiến, quân chủ, chuyên quyền, độc tài, dân chủ, cộng hoà hay xã hội chủ nghĩa. Đơn giản là vì văn minh, dân trí thấp thì dù có theo thể chế nào thì người dân cũng không đủ hiểu biết, tri thức để sử dụng đúng đắn nhất vai trò và quyền lợi của mình, chưa kể còn bị lợi dụng dẫn đến chính họ lại là lực lượng cản trở sự phát triển của đất nước.

    ĐI TÌM LỜI GIẢI ĐỂ VIỆT NAM THOÁT NGHÈO

    Đi tìm lời giải để Việt Nam thoát nghèo, tôi đã nghiên cứu các lời giải thoát nghèo của các học giả, các chuyên gia cả trong nước lẫn ngoài nước; Tôi đã nghiên cứu, suy nghĩ, phân tích sâu các lời giải đó. Có rất nhiều điểm trong lời giải đó thuyết phục tôi, nhưng cũng rất nhiều điểm không thuyết phục được tôi, tôi đã tìm thấy thực tế rất nhiều phản ví dụ là nhiều quốc gia Asean, Nam Á đã đưa ra lời giải gần giống như vậy cho quốc gia, dân tộc mình 30-40-50 năm nay, tức học tập mô hình dân chủ hoặc cộng hoà nhưng hiện tại quốc gia họ vẫn chưa thật sự thoát nghèo.

    Các lời giải để Việt Nam thoát nghèo do các chí sĩ yêu nước, các học giả, các chuyên gia trong nước lẫn ngoài nước bao gồm:

    (1) Nâng cao dân trí của hai cụ Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu
    (2) Học tập mô hình các nước tiên tiến Âu, Mỹ, Nhật Bản
    (3) Học tập mô hình, con đường đi của Singapore, South Korea (gần chúng ta nhất)
    Chúng ta hãy cùng nhau nghiên cứu 3 lời giải thoát nghèo trên:

    (1) NÂNG CAO DÂN TRÍ của cụ PHAN CHU TRINH và PHAN BỘI CHÂU

    Cách đây 111 năm, đầu thế kỷ 20, cụ Phan Chu Trinh cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Trần Quí Cáp là những người thấy rõ những điểm yếu cố hữu của con người và xã hội Việt Nam. Các cụ chủ trương phải thay đổi từ gốc rễ bằng cách nâng cao DÂN TRÍ, đặc biệt là trình độ trí tuệ và đạo đức của người Việt, phát triển kinh tế – văn hoá – giáo dục, học những tư tưởng tiến bộ của Phương Tây, từ bỏ phong tục tập quán lạc hậu, hội nhập với thế giới văn minh.

    Với mục tiêu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”; Khai hóa dân tộc; Giáo dục ý thức công dân, tinh thần tự do; Xây dựng cá nhân độc lập, tự chủ, có trách nhiệm với bản thân và xã hội; Thay đổi tận gốc rễ nền văn hóa, tâm lý, tính cách, tư duy, tập quán của người Việt; Phổ biến các giá trị của nền văn minh phương Tây như pháp quyền, dân quyền, nhân quyền, dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái; Cải cách trên mọi lãnh vực.

    Phong trào “khai dân trí” thực hiện mục tiêu cải tạo con người và xã hội Việt Nam bằng cách khuyến khích cải cách giáo dục, mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, thay đổi tập quán cũ lạc hậu.

    Cũng thời gian ấy Cụ Phan Bội Châu đã tổ chức Phong trào Đông Du, với mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập. Đợt đầu tiên 1905-1906 cụ đưa được 8 thanh niên sang Nhật Bản, đến năm 1908 phong trào Đông Du đưa được 200 người sang Nhật Bản du học. Số học sinh này sinh hoạt chung trong một tổ chức gọi là “Việt Nam Cống hiến Hội”.

    Lời giải nâng cao DÂN TRÍ của hai cụ Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu không thành công, bị thất bại bởi 3 lý do:

    [1] Đất nước chưa độc lập, vẫn chịu sự cai quản của Pháp.
    [2] Số lượng người ra nước ngoài, trực tiếp trải nghiệm thế giới Văn Minh (Nhật Bản) là quá ít (mới có 200 người).
    [3] Tại thời điểm đầu thế kỷ 20 Nhật Bản chưa đại diện cho thế giới văn minh mà chính Nhật Bản cũng mới đang đi học thế giới văn minh, mới đang trong quá trình NÂNG CAO DÂN TRÍ.

    (2) HỌC TẬP MÔ HÌNH CÁC NƯỚC TIÊN TIẾN ÂU, MỸ, NHẬT BẢN

    Rất nhiều nhà nghiên cứu, trí thức, doanh nhân người Việt ở Việt Nam và nước ngoài đưa ra lời giải là học tập mô hình các nước tiên tiến Âu, Mỹ, Nhật Bản. Lời giải nay dựa trên các tiền đề:

    [1] Các nước Âu, Mỹ, Nhật Bản là những nước kinh tế phát triển nhất, giầu có nhất.
    [2] Vì những nước đó kinh tế phát triển nhất, giàu có nhất nên hiển nhiên mô hình kinh tế, xã hội, thể chế của họ là đúng đắn nhất.
    [3] Về tố chất: người Việt Nam không hề thua kém (đúc kết qua quá trình làm việc cùng họ của Việt Kiều).

    Lời giải này được rất nhiều người tin là con đường duy nhất đúng đắn đưa Việt Nam thoát nghèo, nhưng thực tế mấy chục năm qua đã có rất nhiều nước Châu Phi, Nam Á, Asean đã đi theo con đường này, nhưng kết quả là đất nước họ vẫn loanh quanh, luẩn quẩn ở mức thu nhập trung bình.

    Philippines là một ví dụ điển hình: Học mô hình của Mỹ:

    [1] Chính phủ dân chủ mô hình Cộng hoà lập hiến (cộng hoà Philippines) với Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, nhiệm kỳ 6 năm, được bầu theo phương thức phổ thông đầu phiếu, người dân bầu trực tiếp Tổng thống, Tổng thống thành lập nội các.
    [2] Lưỡng viện quốc hội Philippines gồm có Thượng viện và Hạ viện, các thượng nghị sĩ được dân bầu và có nhiệm kỳ sáu năm.
    [3] Quyền tư pháp được trao cho Tối cao pháp viện, bao gồm một Chánh án tối cao và 14 thẩm phán, họ đều do Tổng thống bổ nhiệm từ danh sách do Hội đồng Tư pháp và Luật sư đệ trình.

    Ở thời điểm năm 1960, trong Asean kinh tế Philippines đã vượt Việt Nam, Indonesia, Thailand, Myanmar, Cambodia, Laos. Thế nhưng đến nay kinh tế Philippines đã bị Indonesia, Thailand vượt qua và chỉ còn hơn Viêt Nam chúng ta có 1.36 lần.

    Bangladesh là một ví dụ thứ 2: Học mô hình của Anh:
    [1] Đa đảng bao gồm Đảng Quốc gia Bangladesh (BNP), Liên đoàn Awami Bangladesh, đảng Hồi giáo Jamaat-e-Islami Bangladesh và Islami Oikya Jot, Đảng Jatiya…
    [2] Mô hình dân chủ nghị viện Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, Tổng thống được cơ quan lập pháp bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm. Chính phủ gồm các bộ trưởng do thủ tướng lựa chọn và do tổng thống chỉ định.
    [3] Hệ thống một viện với 300 thành viên Quốc hội do dân bầu với chỉ một đại biểu cho mỗi khu bầu cử có nhiệm kỳ 5 năm. Quyền bỏ phiếu phổ thông cho mọi công dân từ 18 tuổi.

    Năm 1960 GDP đầu người cua Bangladesh gần tương đương Việt Nam, thế nhưng hiện tại GDP đầu người của Bangladesh chỉ bằng 57% của Việt Nam.

    HỌC TẬP MÔ HÌNH SINGAPORE, KOREA

    Singapore là một hiện tượng rất đặc biệt, một kỳ tích châu Á là quốc gia có GDP đầu người cao nhất châu Á, vượt cả Nhật Bản, Hồng Kông, đặc biệt vượt qua mấy chục nước Châu Âu. Thế nhưng Singapore thực chất không phải là một quốc gia đúng nghĩa mà là một thành phố với dân số 5.5 triệu người và diện tích chỉ bằng đảo Phú Quốc của Việt Nam. Thâm Quyến của Trung Quốc là một ví dụ: Thâm Quyến cũng là một thành phố với lợi thế là trung tâm tài chính, thương mại phía Đông Nam của Trung Quốc Thâm Quyến có GDP đẩu người là 24.000$, gấp hơn 5 lần GDP đầu người của Trung Quốc, gần tương đương với Hàn Quốc.

    Hàn Quốc: Năm 1960 GDP đầu người của Hàn Quốc chỉ tương đương Việt Nam, thế nhưng chỉ 30-40 năm Hàn Quốc đã phát triển vượt bậc và ngày nay đã trở thành một quốc gia kinh tế hàng đầu châu Á, chỉ sau Macau, Singapore, Japan, Israel, Hongkong và một số quốc gia dầu mỏ (Qatar, United Arab Emirates, Kuwait, Brunei, Bahrain).

    Đầu tiên Hàn Quốc nhận thức rằng muốn phát triển kinh tế cần mở mang dân trí, khắc phục những điểm yếu cố hữu của người Hàn Quốc. Các bước chính Hàn Quốc đã làm trong 20 năm đầu tiên là:

    [1] Tivi Hàn Quốc chỉ có vẻn vẹn 2 chương trình là “dạy làm người” và “dạy làm ăn”; từ cái văn minh nhỏ xíu như nụ cười của một nhân viên bán hàng cho đến cách quản lý chi phí của một quán cà phê, cách tạo dựng một nhà máy.

    [2] Cải cách giáo dục bằng cách dịch nguyên sách giáo khoa của người Nhật sang tiếng Hàn để giảng dạy, trừ các môn địa lý, lịch sử và văn học (1968).

    [3] Cử những sinh viên giỏi toán nhất theo học ngành tài chính ở các trường đại học lớn của Mỹ.

    [4] Nhận thức các điểm yếu cố hữu của người Hàn Quốc và quyết tâm thay đổi:
    – Tinh thần tự cường: “Người Hàn Quốc chỉ dùng hàng Hàn Quốc”, dù hàng của Hàn Quốc chất lượng chưa tốt, hình thức chưa đẹp.
    – Đặt lợi của tổ quốc lên trên tất cả mọi thứ kể cả bản thân.
    – Làm việc chăm chỉ, mỗi người Hàn Quốc làm việc tối thiểu 9-10h một ngày, sẵn sàng làm thêm giờ để hoàn thành công việc mà không kêu ca, không than vãn.

    Lưu ý rằng Hàn Quốc đã thành công còn nhờ dân tộc Hàn có một số điểm mạnh sau mà tôi nghĩ dân tộc Việt đang thiếu:

    [1] Về thể chất và độ nhanh, khéo léo họ thuộc top đầu Châu Á, vượt trội Việt Nam chúng ta; Bắc Triều Tiên là một ví dụ, dù đóng cửa, ít giao lưu với thế giới, kinh tế chưa thật sự phát triển, thế nhưng họ vẫn thuộc top đầu châu Á về bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn.

    [2] Người Hàn Quốc rất quyết luyệt, họ làm bất cứ cái gì cũng quyết liệt, quyết tâm rất cao, thực hiện đến cùng.

    [3] Người Hàn Quốc có tôn ti trật tự rất cao, trên dưới rất rõ ràng, ý thức phục tùng cấp trên gần như tuyệt đối.

    (6) BÀI KẾT: LỜI GIẢI ĐỂ VIỆT NAM THOÁT NGHÈO

    Khi đăng series 5 STT về “VÌ SAO ĐẤT NƯỚC TA MÃI NGHÈO” hay LỜI GIẢI ĐỂ VIỆT NAM THOÁT NGHÈO”, tôi nhận được một số ý kiến cho rằng việc gì phải lý luận lắm thế, việc gì phải lý luận lòng vòng, lời giải rất đơn giản: “chỉ cần học Mỹ và phương Tây là xong” hoặc “cứ làm theo Nhật là đất nước sẽ giàu” hoặc “cứ làm theo những gì Hàn Quốc đã làm là đất nước sẽ giàu”…

    Để các bạn dễ hiểu tôi lấy vì dụ đơn giản thế này:

    Ai chúng ta cũng từng đi học và đều chứng kiến một thực tế là cùng một chương trình, nội dung học, cùng thầy cô giáo, cùng điều kiện học nhưng người thì học giỏi, thi đỗ, người thì học kém thi trượt. Tại sao vậy? Đơn giản là tố chất, thể chất (hay nội lực) và nền tảng kiến thức của mỗi người không giống nhau, nên khả năng hiểu, khả năng tiếp nhận kiến thức khác nhau.

    Việc đưa đất nước thoát nghèo cũng giống như đi học, người Việt Nam có tố chất, thể chất, trí tuệ khác người Mỹ, người châu Âu, người Nhật, người Singapore, người Hàn Quốc, nên học họ, làm giống họ, chưa chắc chúng ra sẽ thoát nghèo.

    Có thể có nhiều bạn cho rằng tố chất chúng ta tương đương họ, bằng chứng là khi làm cùng chúng tôi không hề thua kém đồng nghiệp Âu, Mỹ. Xin thưa là bạn nào đã làm cùng hãng với đồng nghiệp Âu, Mỹ thì bạn đã là thuộc nhóm người tiên tiến của dân tộc Việt còn đồng nghiệp Âu Mỹ của bạn chỉ thuộc nhóm người trung bình của dân tộc họ mà thôi, nên so sách như vậy là không ngang bằng.

    Ngay cả việc công nhận tố chất chúng ta và họ ngang bằng nhau thì hiển nhiên là văn hoá và dân trí của chúng ta kém và kém rất xa họ. Đây là một thực tế không thể chối cãi: khi mà họ đã xây nhà thờ và các công trình kiến trúc bằng đá Granite thì mãi 1000 năm sau chúng ta vẫn lấy bùn đất trộn với rơm làm vách nhà; khi mà họ là người phát minh ra đèn điện thì hơn 100 năm sau chúng ta vẫn có người há miệng ngạc nhiên tại sao cái đèn lại treo ngược; khi mà họ có hệ thống tàu điện ngầm chạy khắp London, Paris, New York thì hơn 100 năm sau chúng ta vẫn coi xe máy là phương tiện giao thông chính trong thành phố.

    Như vậy muốn học họ, muốn làm như họ đã làm, ít nhất chúng ta phải có nền tảng dân trí, văn hoá gần ngang bằng họ. Điều này cũng hiển nhiên như việc chúng ta muốn cùng họ học đại học, mà họ đã tốt nghiệp lớp 12, chúng ta mới tốt nghiệp lớp 9 thì việc đầu tiên buộc chúng ta phải làm là học và tốt nghiệp lớp 12.

    Từ những nhận thức trên kết hợp giữa lời giải thoát nghèo của hai cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, học tập lời giải thoát nghèo của Hàn Quốc, tôi cho rằng lời giải để Việt Nam thoát nghèo là “NÂNG CAO DÂN TRÍ trong thời đại TOÀN CẦU HOÁ và INTERNET”.

    Cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu cũng đã đưa ra lời giải nâng cao dân trí và đã thất bại, nhưng thời điểm này chúng ta đưa ra lời giải nâng cao dân trí sẽ thành công dựa trên các cơ sở sau đây:

    (1) Đất nước đã độc lập.
    (2) Việt Nam đã theo mô hình kinh tế thị trường.
    (3) Thời đại Toàn cầu hoá: giao lưu quốc tế nhiều hơn.
    (4) Thời đại Internet giúp mọi người ngồi ở nhà vẫn có thể giao lưu và tiếp xúc với tri thức và tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ, mô hình kinh tế, quản trị tiên tiến.
    (5) Xu thế công nghệ thay đổi nhanh chóng giúp Việt Nam có thể tiếp cận và làm chủ thẳng những công nghệ mới nhất. (Ví dụ điển hình là trong lĩnh vực Viễn thông thì điện thoại di động Việt Nam tương đương với Mỹ, Châu Âu cả về chất lượng sóng lẫn dịch vụ).

    LỜI GIẢI NÂNG CAO DÂN TRÍ – KHẮC PHỤC ĐIỂM YẾU CỐ HỮU

    Lời giải Nâng cao dân trí – Khắc phục điểm yếu cố hữu bao gồm 6 nội dung sau:

    (1) Nhân thức rõ những điểm yếu cố hữu của người Việt làm cản làm trở sự phát triển kinh tế của đất nước. Xây dựng hệ thống triết học đưa hoạt động sản xuất, thương mại, doanh nghiệp, doanh nhân thành trọng tâm của xã hội, đúng vai trò; Xác định đúng giá trị của tiền bạc; Xác định đúng thế nào là người tài và xử dụng người tài.

    (2) Tăng cường giao lưu quốc tế kể cả tham quan học tập ở nước ngoài, du học nước ngoài

    Quan điểm của tôi hơi khác một chút là Lãnh đạo nên tăng cường đi nước ngoài, đặc biệt các nước tiên tiến để biết, hiểu, trải nghiệm về áp dụng trong việc xây dựng chính sách, chiến lược, kế hoạch và tổ chức triển khai. Nhưng đi là đi có nghiên cứu, trải nghiệm, về có thu hoạch, đi đầu nhiệm kỳ, lãnh đạo mới nhận chức đi chứ đừng để cán bộ sắp về hưu mới đi.

    Kinh nghiệm của tôi muốn hiểu đúng và sâu sắc về xã hội, nền kinh tế của họ cần thực hiện phương châm sau: Đi thì phải thâm nhập, trải nhiệm thực tế, đừng để đối tác bố trí, đưa đón từ đầu đến cuối, đừng ngồi nhiều trên ô tô, cần đến nhà máy, xí nghiệp, cơ sở nghiên cứu xem họ tổ chức nghiên cứu, sản xuất thế nào; Cần trực tiếp mua vé, đi tàu điện ngầm, tàu cao tốc, đường sắt đô thị, xe bus…; Cần đi bộ, cần tự tìm nhà hàng, đi siêu thị, đi ăn, đi uống. Có như vậy mới hiểu sâu và đúng nhất về sản xuất, kinh doanh, giao thông… và cách vận hành kinh tế – xã hội của họ. Sau khi đi về nên có tổng kết và viết thu hoạch xem xã hội, đất nước họ có điểm gì hay, đáng học tập.

    (3) Đẩy mạnh hoá Toàn cầu hoá, Toàn cầu hoá là biện pháp quan trọng nhất để nâng cao dân trí và phát triển kinh tế đất nước:

    Cách đây 111 năm cụ Phan Bội Châu đã coi đưa học sinh đi du học là để mở manh dân trí, nhưng cụ chỉ đưa được có 200 người, bởi lẽ cụ không đủ tiền, dân Việt nam ta còn nghèo, không có nhiều người đủ tiền ra nước ngoài.

    Toàn cầu hoá là lời giải quan trọng nhất, vì nó lấy luôn việc kinh doanh, thương mại làm cơ sở, lấy chính chi phí kinh doanh, chi phí triển khai hợp đồng, hạch toán vào dự án, hợp đồng. Vì vậy chỉ cần Toàn Cầu Hoá thành công, chỉ cần ký được nhiều hợp đồng ở nước ngoài thì hiểu hiên sẽ đưa được nhiều người Việt Nam ra nước ngoài làm việc.

    Chúng ta coi Toàn cầu hoá là chiến lược phát triển kinh tế quan trọng nhất. Toàn cầu hoá vừa để kiếm ngoại tệ, làm giầu cho đất nước vừa là là biện pháp tốt nhất để nâng cao dân trí, bởi trong quá trình đi ra nước ngoài, làm việc ở nước ngoài, hoạt động thương mại ở nước ngoài người Việt không chỉ làm giầu mà người Việt còn tiếp cận cách tư duy, cách suy nghĩ, cách làm, nhìn nhận thế giới, nhận thức điểm yếu, học hỏi cái hay của các dân tộc khác.

    (4) Phổ cập CNTT và Internet cho toàn dân, nhất là nông thôn và vùng núi.

    (5) Sửa đổi các điểm yếu cố hữu của người Việt:

    Truyền thông rộng rãi, đưa vào chương trình giáo dục bậc cuối phổ thông và đại học các điểm yếu cố hữu của người Việt làm sao để người Việt chăm chỉ hơn; Người Việt nghĩ lớn hơn, người Việt hoạt động thương mại rộng hơn, kể cả thị trường toàn cầu; Đặc biệt người Việt biết tôn trọng những người khác biệt chính kiến, tôn trọng các chính kiến khác biệt; Xã hội Việt nam hiểu đúng về nhân tài và sử dụng nhân tài, hiểu đúng về giá trị đồng tiền, hiểu đúng về doanh nhân, đặt doanh nhân, doanh nghiệp và hoạt động thương mại xứng đáng với vị trí và tầm quan trọng của nó.

    (6) Học tập các điểm hay của dân tộc khác:

    Học Hàn Quốc, lãnh đạo đất nước cùng lãnh đạo các cấp cần xây dựng lòng tự tôn dân tộc, “người Việt dùng hàng Việt”, xây dựng tính kỷ luật và chuyên nghiệp trong lao động, tôn trọng và tuân thủ các qui định của luật pháp, xây dựng tác phong làm việc chuyên nghiệp, coi trọng tính hệ thống, không khuyến khích tính lanh trí, khôn lỏi trong xử lý các vấn đề chính yếu.

    KẾT:

    Những lời giải này chỉ mới dừng ở mức ý tưởng, nhưng nếu nhiều người Việt Nam nhận thức ra, nhiều người đồng tình, nhiều người chia sẻ, đặc biệt là quyết tâm thay đổi chính mình thì tôi tin tưởng tình hình sẽ thay đổi nhanh chóng, tốc độ phát triển kinh tế của đất nước sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Chúng ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết, thế mà 15 năm qua tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đã cao nhất khu vực Asean, khoảng cách giữa Việt Nam và các nước đã thu hẹp đáng kể, nếu chúng ta cùng đồng lòng, tự nhận thức, tự hành động thay đổi chính mình để NÂNG CAO DÂN TRÍ của chính mình, của gia đình mình, của người thân mình, của bạn bè, đồng nghiệp mình thì tôi tin tưởng sâu sắc rằng NHẤT ĐỊNH VIỆT NAM SẼ THỊNH VƯỢNG.

    Nguồn: Cao Bao Do/blogcamxuc.net

  • Người Việt rất hay ngụy biện và tư duy ngụy biện?

    Người Việt rất hay ngụy biện và tư duy ngụy biện?

    Người Việt rất hay ngụy biện và tư duy ngụy biện?

    Những ai đã có kiến thức về ngụy biện đều hiểu một điều đáng buồn rằng: Người Việt rất hay ngụy biện và tư duy ngụy biện! Chúng ta đều biết hai chữ “ngụy biện”, nhưng liệu chúng ta có thật sự hiểu về nó? Bạn có tin rằng tại Việt Nam, ngụy biện đã cướp đi mạng sống của con người?

    Ngụy biện hay Fallacy là khái niệm để chỉ những cách lập luận tưởng chừng là đúng, nhưng thực chất lại là sai lầm và phi logic trong tranh luận. Ngụy biện có thể biến một vấn đề từ sai thành đúng, và từ đúng trở thành sai. Ngụy biện có thể dẫn đến những cái nhìn sai lệch và tư duy sai lầm mà chính bản thân người nói cũng không nhận ra được.

    Trên thế giới, ngụy biện đã trở thành một kiến thức được biết đến rộng rãi, và các nhà nghiên cứu đã thống kê khoảng trên dưới 100 loại ngụy biện khác nhau. Đáng tiếc là tài liệu về ngụy biện tiếng Việt chỉ có một vài nguồn, đó là trang GS Nguyễn Văn Tuấn, trang Thư viện khoa học, hay trang “Ngụy biện – Fallacy” của TS. Phan Hữu Trọng Hiền.

    Dưới đây xin được tổng hợp lại 9 câu “ngụy biện” điển hình của người Việt đã được nêu ra tại các nguồn tài liệu trên:

    1. “Nhìn lại mình đi rồi hẵng nói người khác”

    Mình làm sai thì là sai rồi, sao lại không nhận sai, không nói thẳng vào vấn đề “mình sai” mà lại quay qua tìm điểm yếu của người khác? Việc này cũng giống như là khi nhận được góp ý: “Viết sai chính tả rồi kìa”, thì thay vì sửa sai, bạn lại bốp chát: “Thế mày chưa viết sai bao giờ à?”

    2. “Có làm được gì cho đất nước đâu mà to mồm”

    Người ta có làm được gì hay không thì là điều mình chưa biết, hơn nữa bạn đã “lạc đề” rồi. Vấn đề người ta nêu ra thì bạn không trả lời, không đưa ra luận điểm logic, mà lại đi đường vòng, chuyển qua công kích người khác.

    3. “Nó ăn trộm chó thì cứ đánh cho nó chết”

    Lập luận này đã khiến cho những kẻ trộm chó vốn không đáng phải chết bị giết chết bởi chính những người dân tưởng chừng “lương thiện”. “Ăn trộm chó” là sai, nhưng “giết người” cũng là sai, hai sai thì không phải là một đúng, mà là sai lại càng sai.

    4. “Làm được như người ta đi rồi hãy nói”

    Lại một hình thức “lạc đề”. Luận điểm mà người ta đưa ra thì bạn không xoay quanh mà bàn luận, lại cứ phải công kích cá nhân người khác thì mới vừa lòng sao?

    5. “Nếu không hài lòng thì cút xéo ra nước ngoài mà sinh sống”

    Lời nói này không chỉ đánh lạc hướng vấn đề, mà còn rất bất lịch sự, chuyên dùng để làm người đối diện tức giận, chứ chẳng có một chút logic nào trong đó cả.

    6. “Nghèo là lương thiện / Giàu là bất chính”

    Người ta có câu “vơ đũa cả nắm”, ấy chính là để chỉ việc lập luận cảm tính, khái quát cảm tính, mà không hề đưa ra logic hợp lý nào cả.

    7. “Nước nào mà chẳng có tham nhũng”

    Vì nước nào cũng có tham nhũng nên Việt Nam được phép có tham nhũng hay sao? Vì mọi người đều vượt đèn đỏ nên tất nhiên tôi cũng phải vượt đèn đỏ? Vì xã hội thiếu gì nghiện hút nên trong nhà có người hút chích cũng là bình thường?

    8. “Nếu anh là họ mà anh làm được thì hẵng nói”

    Đặt mình vào vị trí người khác là một tiêu chuẩn người xưa dùng để tu sửa bản thân, hướng vào bản thân tìm lỗi, là một nét văn hóa rất độc đáo của phương Đông. Tuy nhiên câu nói đó chỉ sử dụng khi một người tự răn mình, chứ không phải là một câu nói dùng trong tranh luận. Việc sử dụng nó trong tranh luận không chỉ là sự bịt miệng những phê bình của người khác, không giải thích các luận điểm của người khác, mà còn chứng tỏ rằng chúng ta đang phá hoại và lãng quên văn hóa truyền thống của chính mình.

    9. “Tại sao anh dám nói chúng tôi sai? Anh là một tên phản động / dư luận viên”

    Kiểu lập luận chụp mũ này mặc nhiên coi mình là đúng, họ là sai, và những người đồng quan điểm với họ cũng là sai. Nó không hề đưa ra một thứ logic nào, nhưng lại cắt ngang một cái giới tuyến, và tùy tiện định tội cho người khác.

    Tất nhiên đây mới chỉ là những câu ngụy biện cơ bản nhất, thường thấy nhất. “Văn hóa ngụy biện” đã ngày càng xuất hiện thường xuyên hơn, muôn hình vạn trạng, và luôn ẩn giấu trong tư duy của người Việt. Vậy nguyên nhân của thói quen này là từ đâu?

    Trong phần nhiều các lỗi ngụy biện thường gặp của người Việt, có một tâm lý cơ bản hiện rõ ra khi tham gia thảo luận, đó chính là tâm tranh đấu, hiếu thắng, và không hề tôn trọng người đối diện. Ngoài đó ra, chúng ta cũng hay bị ảnh hưởng của tâm lý đám đông, lợi dụng tâm lý đám đông để che đi trách nhiệm của bản thân mình.

    Muốn tránh cách tư duy ngụy biện, chúng ta không những phải sửa lối tư duy vòng vo, thiếu suy nghĩ, mà còn phải sửa chính từ tâm thái của mình khi trao đổi và luận bàn về mọi việc. Điều cơ bản nhất khi tham gia tranh luận là có trách nhiệm trong lời nói của chính mình và biết tôn trọng người đối diện.

    Theo TRITHUCVN

  • Tật xấu của người Việt: gì cũng cười, nói năng lộn xộn, học hời hợt

    Tật xấu của người Việt: gì cũng cười, nói năng lộn xộn, học hời hợt

     

    Tật xấu của người Việt: gì cũng cười, nói năng lộn xộn, học hời hợtKhông còn lễ nghĩa liêm sỉ

    Nước ta, những nơi chợ búa thành phố, không luận đàn bà trẻ con, đến người có học biết chữ mà cũng mở miệng là nói lời thô bỉ.

    Tập thành thói quen, những tiếng tục tĩu, người nghe nhơ cả lỗ tai, mà người nói lại lấy làm khoái.

    Cho đến câu mắng bài chửi, đọc ra có cung có điệu, người nào mắng chửi cả ngày mà không trùng lặp, thì người ta xem như Tô Tần, Trương Nghi (1), chiếm giải quán quân.

    Đến lúc diễn ra cái bộ dạng mắng chửi, tiếng như mõ rao, chân như múa hát lên tay xuống ngón, mặt như sơn đổ, tóc như tơ vò, nước miếng như bọt giải, tay cầm dát lia, chân đi cà xiểng (2) không khác gì người điên.

    Lại còn một điều xấu nữa, hễ có bất bình với ai thì phát thệ (3) và nguyện rủa chúc dữ(4) rất nặng.

    Thường hàng ngày cùng giao du với nhau, mà đến lúc bỏ nhau, chất chứa điều bất bình lâu, thì khí yêu (5)nhân đó mà sinh ra, người nọ bảo người kia “đầy miệng điều láo, một ngày bán được ba gánh giả, đến đâu cũng dối, ba ngày không mua được một điều thực “.

    Thật là không còn chút lễ nghĩa liêm sỉ nào! Cái phong tục kiêu bạc (6) đến thế là cùng.Thế giới chưa có nước nào như xứ mình!

    (1) các nhà thuyết khách nổi tiếng đời Chiến quốc bên Trung quốc
    (2) dát lia – chưa tra cứu được; còn cà xiểng , theo Đại Nam quốc âm tự vị , là Ngao du không biết công chuyện chi mà làm, không nên sự gì
    (3) thề bồi
    (4) chúc: khấn. Chúc dữ: ước cho mắc sự dữ
    (5) tinh thần gian tà bất chính

    (6) cũng tức là khinh bạc với nghĩa cổ: kẻ không biết tự trọng
    (Nguyễn Trường Tộ, Về việc cải cách phong tục, 1871)

    Những câu chửi rủa quá quắt

    Nói tục, nói bẩn chắc hẳn không người nước nào bằng người An Nam ta. Lắm câu chửi rủa của ta, không tiếng nước nào dịch nổi, giả thử những người nói ra có nghĩ đến nghĩa từng tiếng thì đứa nặc nô (1) cũng phải đỏ mặt đến lòng trắng mắt.

    Thử ngẫm mà xem, những câu ấy có nghĩa lý gì đâu.

    Bảo người ta ăn những gì những gì thì có nghĩa lý nào? Gọi ông cha mấy đời người ta lên mà chém mà vằm cũng không có nghĩa gì cả.

    Người ngay thật có ai sợ nhưng câu chửi rủa ấy đâu? Mà người mở mồm nói những tiếng dơ bẩn ấy, thì thực là xấu cho cái miệng quá, ra ngay con người thô tục.

    (1) nặc nô: người làm nghề đi đòi nợ thuê ngày xưa; nghĩa rộng là người đanh đá ghê gớm

    (Nguyễn Văn Vĩnh, Ăn nói thô tục, Đông dương tạp chí, 1914)

    Tây không ra tây, tàu không ra tàu, ta không ra ta

    Người mình không những nghề diễn thuyết chưa biết, mà đến nói câu chuyện cho có đầu đuôi manh mối cũng ít người nói được.

    Khi hội đồng (1), thời (2) chẳng khác gì như họp việc làng, tranh nhau nói, ồn ào lộn xộn mà ít ai nói được câu gì cho có nghĩa lý, chỉ bẻ hành bẻ tỏi nhau những cái vặt vặt chẳng đâu vào đâu.

    Khi yến tiệc thời đương câu chuyện vui, gặp có tiếng gì buồn cười, nhất là nói tiếng bẩn, ông nào to miệng cả tiếng thở ra một cái cười hà hà, cử toạ đều cười ầm cả lên đến vỡ đổ nhà; thế là câu chuyện tan.

    Chỗ công môn thời ông quan nói, muốn ra oai mặt sắt chỉ nói nhát gừng, cách một vài câu lại điểm những tiếng nghe chưa ? nghe chưa? thằng dân thưa thời gãi tai gãi đầu, chỉ nghe những tiếng bẩm bẩm dạ dạ nói không ra lời. Mấy cậu thiếu niên thời toa toa moa moa(3) ngậu xị cả đường phố , câu chuyện không những vô vị mà thường bất thành ngôn (4) nữa.

    Thời buổi nhố nhăng, ngữ ngôn bác tạp, anh bồi chú bếp con bạc làng chơi ả giang hồ cậu công tử, tây không ra tây, tàu không ra tàu, ta không ra ta, có nhiều cái xã hội không biết họ nói thứ tiếng gì.

    Thử tìm khắp trong nước được mấy người là biết nói năng lịch sự ? Thật ít quá.

    (1) Cuộc hội họp đông người để bàn việc công (nghĩa cũ )
    (2) thì
    (3) mày mày tao tao
    (4) không nên lời

    (Phạm Quỳnh, Pháp du hành trình nhật ký,1922)

    Thiên về những cái tầm thường thô bỉ

    Ai có ý đến những nơi họp tập, hoặc là chỗ chơi bời thì thực là buồn thay cho cái trí dục của những người đời nay.

    Ngoại giả chuyện cô đầu, chuyện cờ bạc, chuyện hát tuồng, chuyện chim chuột, chuyện quần áo còn thì không mấy khi được nghe những câu chuyện lý thú, làm tỏ được học vấn kẻ nói, lợi được trí khôn người nghe.

    Mà xem như trong cách nói chuyện, thì thiếu niên (1) ta nghe lại có ý thích những câu chuyện tầm thường, nói chuyện để mà khoe cho người nọ người kia biết cái cách của ta chơi xa xỉ hoặc là kỳ khu (2)

    Ai ăn nói có tư tưởng có tỏ học vấn thì thường người nghe thích nhưng ít cầu, vì câu chuyện có nghĩa, làm cho phải nghĩ, phải đối đáp nhọc mệt…

    Người nói chuyện hay, cũng có kẻ phục là người có ích, nhưng trong cái phục có cái ghen có cái ghét. Ghen là vì ở đâu đến cướp mất tai kẻ nghe, ghét là vì ở đâu đến làm tỏ cái nhàm của câu cười cợt tầm thường người ta đang thú.

    (1) hồi đầu thế kỷ XX, chữ thiếu niên không phải dùng để chỉ lớp thiếu nhi từ 10 đến 14 tuổi như bây giờ. Mà có nghĩa là người trẻ tuổi, tức lớp thanh niên 18 tuổi trở lên.
    (2) tỉ mỉ, mất nhiều công sức

    (Nguyễn Văn Vĩnh, Đông dương tạp chí, 1914)

    Tật huyền hồ sáo hủ (1)

    Xét trong văn chương, xảo kỹ nước Việt Nam, điều gì cũng toàn là huyền hồ giả dối hết cả, không cái gì là thực tình… Thời tiết nước mình thì không biết một chút chi chi, tả đến tứ thời thì xuân phải phương thảo địa, hạ phải lục hà trì, thu phải hoàng hoa tửu, đông phải bạch tuyết thi (2). Thành ra đến câu hát cũng hát cho người, cảnh nhà mình thì như mắt mù tai điếc. Mượn chữ người, mượn đến cả phong cảnh tính tình chớ không biết dùng cái vật liệu mượn ấy mà gây dựng lấy văn chương riêng cho nó có lý tưởng đặc biệt.

    Người Việt Nam lý hội (3) điều đẹp cũng có một cách lạ. Sách Tàu tả người đẹp môi son mắt phượng, mày ngài khuôn trăng mình liễu thì bao giờ tả người đẹp ta cũng cứ thế mà tả.

    (1) huyền là sự gì lơ lửng không dính vào đâu; hồ là lời nói càn; sáo là lời dựa theo khuôn có sẵn; hủ là lời khoe khoang; bốn chữ này ghép lại chỉ sự ăn nói lời nói linh tinh, trống rỗng, giả tạo
    (2) vùng đất đầy cỏ thơm, ao sen xanh mướt, rượu hoàng hoa và thơ tả tuyết trắng
    (3) hiểu, quan niệm

    (Nguyễn Văn Vĩnh, Tật huyền hồ sáo hủ, Đông dương tạp chí,1913)

    Trong tiếng cười ẩn chứa nhiều ý xấu

    An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì, phải cũng hì mà quấy (1) cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng mọi việc hết nghiêm trang.

    Có kẻ bảo cười hết cả cũng là một cách của người hiền(2). Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thẩy, không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày nghĩ ngợi…

    Nhưng mà xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cách láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên trí không không phải nghe hết nhời người ta mà đã gièm trước cái ý tưởng của người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc (3) người ta.

    Gì bực mình bằng rát cổ bỏng họng, mỏi lưỡi tê môi để mà hỏi ý một người, mà người ấy chỉ đáp bằng một tiếng hì, khen chẳng ơn, mắng chẳng cãi hỏi chẳng thưa, trước sau chỉ có miệng cười hì thì ai là không phải phát tức ?

    (1) sai, trái với lẽ phải
    (2) người có đức hạnh, tài năng
    (3) ở đây không có nghĩa sự nghiệp to lớn mà chỉ hàm ý công việc nói chung

    (Nguyễn Văn Vĩnh, Gì cũng cười, Đông dương tạp chí, 1914)

    Tiếng cười vô duyên

    Có một phần đông người Pháp ở đây, ta hằng ngày thấy họ, cũng có thể chiêm nghiệm được một dân tộc.

    Ví dụ như gặp khi trời mưa, đường trơn có người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trượt té, bấy giờ có năm ba người Pháp đứng đó họ có cười không?

    Tôi, và nhiều người như tôi, dám chắc rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại để đỡ người bị té ấy lên nữa.

    Còn như con rồng cháu tiên ta, tôi cầm chắc rằng trước khi chạy lại đỡ, ta phải cười một chặp cho no nê đã.

    (Phan Khôi, Phụ nữ tân văn 1931)

    Nói bừa nói bãi, tủi nhục cho cả nòi giống

    Không biết nói không biết, đó là nghĩa vụ thứ nhất của người muốn học muốn hiểu. Đằng này nhiều người ở ta lại làm như trong thế giới này cái gì cũng rõ ràng minh bạch, tựa hai lần hai là bốn.

    Ai không tin là thế, họ liền phê cho hai chữ: thần bí; hai chữ ấy trong trí họ tức là ngu xuẩn điên rồ.

    Họ không ngờ rằng họ lại “thần bí” hơn ai hết.

    Có những vấn đề xưa nay bao người tài giỏi suốt đời nghiền ngẫm chưa tìm ra manh mối.Thế mà cái điều một ông Pasteur một ông Einstein không dám nói, ngày nay ở xứ ta những cậu học sinh vừa mới bước chân ra khỏi trường Sơ học đã giảng giải được lên sách, lên báo, theo những phương pháp cuối cùng của khoa học.

    Thế giới còn chờ gì mà không khắc bia xây tượng để đền ơn họ.

    Nói chơi vậy thôi, chớ cái việc họ làm đó là một sự tủi nhục vô cùng cho nòi giống.

    Cả một đám thanh niên chưa có lấy cái học phổ thông cũng tấp tểnh chạy theo những lý thuyết cao thâm của siêu hình học.

    Có lần chúng tôi thấy một thiếu nữ trước đâu mới học đến lớp ba lớp tư gì đó đương hăng hái giảng giải về duy tâm và duy vật. Chúng tôi chán ngán không biết nên khóc hay nên cười. Thực là một cái họa !

    (Hoài Thanh, Một cái họa, Văn chương và hành động,1936)

    Hay cãi nhau, thích kiện tụng

    Những vụ cãi nhau nảy ra ngay từ cách tổ chức làng xã.

    Xã hội hương thôn chia thành các giai cấp lệ thuộc vào nhau. Muốn thực hiện các điều kiện cần thiết để bước vào một trong những giai cấp đặc quyền, người ta phải cúng Thành hoàng và mời mọi người ăn uống.

    Điều đó thật tàn hại: người ta đi vay với lãi cao, cầm cố nhà và ruộng, bắt vợ con chịu thiếu thốn.

    Khi thuộc giai cấp đặc quyền thì vấn đề là phải biết bảo vệ đặc quyền của mình.

    Người ta sẽ đi đến tận Tòa án tỉnh, thậm chí Tòa thượng thẩm, chỉ vì miếng thịt chia không đều, hoặc một sự việc cực kỳ phù phiếm.

    Người ta tiêu đến đồng tiền cuối cùng để giữ thể diện hoặc làm đối thủ mất mặt.

    Lịch sử một số làng cũng là lịch sử kiện cáo. Có những làng mà tất cả ruộng đều thuộc sở hưũ của những làng lân cận. Đấy chính là những làng đã qua những vụ kiện nổi tiếng.

    (Nguyễn Văn Huyên, Vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ, 1939)

    Chỉ trích và châm chọc

    Người Việt ít khi chịu chết vì tín ngưỡng hay vì một vĩ nhân nào đó đã chủ trương trái quyền lợi của họ.

    Gặp lúc phải dồn vào thế yếu, họ chống lại ngay bằng phương pháp tiêu cực: chỉ trích và châm chọc.

    Luôn luôn bị áp bức về kinh tế và chính trị, cuộc sinh hoạt tinh thần thường lẩn cả vào trong tâm tưởng nên sức phản ứng của tình cảm và tư tưởng không mau lẹ. Tính ưa hư danh là một tật phổ thông của những người hằng cố gắng tìm vượt lên trên địa vị hiện tại của mình. Tật cờ bạc, do cuộc sống chật hẹp gây nên, cũng là một tật phổ thông khác.

    (Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hoá sử,1944)
    Thể thao văn hóa 2005-2007
  • Thủy tổ người Việt thực sự ở đâu?

    Thủy tổ người Việt thực sự ở đâu?

    Trong bài “Kính gửi ông Tạ Đức và ông Nguyễn Dư” đăng trên Văn hóa Nghệ An, tác giả Phan Lan Hoa có viết: “Thiết nghĩ, khi mà sử sách, địa danh và di chỉ chứng tích đã trùng khớp, cớ sao lại có người còn muốn đẩy đưa thủy tổ người Việt sang bên Trung Hoa là vì cớ chi? (Đoạn này, xin được gửi cả đến ông Hà Văn Thùy, người khẳng định Kinh Dương Vương và nước Xích Quỷ ở bên Trung Hoa?).”*

    Từ lâu, tôi tâm niệm sẽ làm một khảo cứu nghiêm túc xác định nơi sinh thành của thủy tổ người Việt nhưng vì chưa đủ duyên nên chưa thành. Nay nhân có người “đòi”, xin được trả món nợ.

    Tìm ra chính xác tổ tiên người Việt là việc vô cùng khó vì thế mà suốt 2000 năm qua, dù bỏ bao công sức và tâm trí, chúng ta vẫn đi tìm trong vô vọng. Nhìn lại cuộc tìm kiếm trong quá khứ, ta thấy, cả người xưa, cả hôm nay chỉ có tư liệu từ thời điểm quá gần, khoảng 2000 năm trở lại. Với một ngưỡng thời gian như vậy, không cho phép có cái nhìn xa hơn!

    Tranh vẽ thúc xăm mình của người Việt Cổ
    Tranh vẽ thúc xăm mình của người Việt Cổ

    Sự thực là, muốn biết tổ tiên 5000 năm trước là ai, chỉ có thể đi tới tận cùng lịch sử, để biết con người đầu tiên xuất hiện trên đất Việt là ai?

    I. Khởi đầu từ lịch sử

    Rất nhiều người tin rằng nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ra đời năm Nhâm Tuất 2879 TCN. Nhưng nếu hỏi: từ đâu có con số đó thì không ai trả lời được! Con số ấy tồn tại như một niềm tin, như cái mốc “quy ước” mà người Việt bám vào để tạo dựng cội nguồn. Dẫu biết rằng niềm tin không đủ làm nên lịch sử thì cũng không ai nỡ cật vấn cái niềm tin ấy! Bởi lẽ, sau cật vấn là sự sụp đổ! Rồi cả Đế Minh cháu ba đời Thần Nông nữa, lấy gì làm chắc? Mà sao người Trung Hoa cũng tự nhận là con cháu Thần Nông? Những hoài nghi ấy, nếu không hóa giải được thì mọi chuyện bàn về tổ tiên chỉ là câu chuyện phiếm! Vì vậy, muốn tìm chính xác tổ tiên, cần phải đi xa hơn cái cột mốc 2879. May mắn là sang thế kỷ này, khoa học thực sự giúp soi sáng cội nguồn.

    Thưa rằng, không phải chỉ từ những mẩu xương và những hòn đá – hiện vật khảo cổ – mà chính từ vết tích được lưu giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người thời đó(Việt bộ Qua –).20.000 năm trước, tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, tổ tiên chúng ta làm ra đồ gốm sớm nhất thế giới và 12400 năm cách nay trồng ra hạt lúa đầu tiên của loài người. Lúc này tổ tiên ta tự gọi mình là NGƯỜI VIỆT, chủ nhân cây lúa(Việt bộ Mễ –)!Rồi từ đây, người Việt mang cây lúa, cây kê, con gà, con chó làm nên văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước, văn hóa Hà Mẫu Độ 7000 năm trước… Theo đà Bắc tiến, người Việt vượt Dương Tử lên lưu vực Hoàng Hà, xây dựng nền nông nghiệp trồng kê trên cao nguyên Hoàng Thổ. Tại đây, người Việt hòa huyết với người sống du mục trên đồng cỏ bờ Bắc, sinh ra chủng người Việt mới, sau này được khoa học gọi là chủng Mongoloid phương Nam, là chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều suốt từ Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc. Một con sông dài 1500 km từ Thiểm Tây tới Hà Nam, đổ vào Dương Tử ở Vũ Hán, được đặt tên là sông Nguồn. Cùng với chi lưu của nó là Sông Đen, tạo nên đồng bằng Trong Nguồn, là trung tâm lớn của người Việt, nối với Thái Sơn. Đấy là nơi phát tích của người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam.

    Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, người Việt phải chung lưng đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử. Từ những dấu vết mong manh trong truyền thuyết, ta nhận ra, thời gian này người Việt luôn phải đối mặt với những cuộc xâm lăng của người du mục phương Bắc. Trong điều kiện như vậy, những thị tộc phải liên minh với nhau, vừa để trị thủy vừa chống trả quân xâm lăng. Cuộc liên minh dưới sự lãnh đạo của những thị tộc lớn mạnh do những vị anh hùng bán thần dẫn dắt. Một cách tự nhiên nhà nước nguyên thủy ra đời. Đó là nhà nước phương Đông, khác với nhà nước theo định nghĩa kinh điển phương Tây, sản sinh từ chiếm hữu nô lệ và thặng dư lương thực. Điều kiện cho nhà nước nguyên thủy phương Đông ra đời càng thuận lợi hơn khi toàn bộ dân cư khu vực lúc đó cùng cội nguồn, văn hóa và tiếng nói. Kinh Dịch viết “Phục Hy thị một, Thần Nông thị xuất” chính là mô tả thời kỳ này. Truyền thuyết cho hay, vua thần Phục Hy xuất hiện khoảng 4000 năm TCN. Tiếp theo là Thần Nông khoảng 3080 năm TCN. Truyền thuyết nói Đế Minh, cháu đời thứ ba của Thần Nông, chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương, lập nước Xích Quỷ năm 2879 TCN… Trong bối cảnh như vậy, ta thấy, dù không biết xuất xứ từ đâu nhưng cái mốc thời gian ra đời nước Xích Quỷ là hợp lý. Một câu hỏi cần được nêu ra: phải chăng có điều gì đó sâu thẳm trong ký ức mà tổ tiên ta ghi nhớ được một cách tường minh? Từ nhiều tư liệu, có thể suy ra, thời kỳ này trên lục địa Đông Á có ba nhà nước: Thần Nông Bắc của Đế Lai thuộc lưu vực Hoàng Hà, Thần Nông Nam (Xích Quỷ) thuộc lưu vực Dương Tử tới Việt Nam và quốc gia Ba Thục ở phía Tây, gồm vùng Ba Thục qua Thái Lan và Miến Điện.

    Thời gian này, cuộc tranh chấp giữa hai bờ Hoàng Hà trở nên khốc liệt mà bằng chứng là trận Phản Tuyền. Truyền thuyết Trung Hoa nói Hoàng Đế và Viêm Đế là hai thị tộc anh em, lúc đầu Viêm Đế đứng chủ. Sau đó Hoàng Đế mạnh lên, đánh thắng Viêm Đế ở Phản Tuyền, chiếm ngôi thống soái. Viêm Đế chấp nhận vai trò phụ thuộc. Đây chỉ là uyển ngữ do người Hoa Hạ bày đặt để che lấp cuộc xâm lăng, với mục đích gắn Hoàng Đế với Viêm Đế vào cùng chủng tộc để rồi cho ra đời thuyết Hoa Hạ là Viêm Hoàng tử tôn, trong đó Hoàng Đế là chủ soái! Nhưng thực ra đó là cuộc xâm lăng của người bờ Bắc. Ta có thể hình dung, chỉ hình dung thôi vì không bao giờ tìm ra chứng cứ xác thực, rằng trước tình thế nguy cấp sau trận Phản Tuyền, Đế Lai liên minh với Lạc Long Quân cùng chống giặc. Nhưng tại trận Trác Lộc năm 2698 TCN, quân Việt thất bại. Đế Lai tử trận, (sau này vì căm hờn Đế Lai, người Hoa Hạ gọi ông là Si Vưu với nghĩa xấu), Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân vùng Núi Thái-Trong Nguồn dùng thuyền xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ. Gợi cho chúng tôi ý tưởng này là đoạn chép trong Ngọc phả Hùng Vương: “Đoàn người từ biển vào. Họ rất hiền lành tốt bụng, đã giúp dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong số họ làm vua, hiệu là Hùng Vương, lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống, sau chuyển lên vùng Ao Việt.” (Chính cái niên đại xảy ra trận Trác Lộc 2698 TCN cũng giúp cho thời điểm năm 2879 lập nước Xích Quỷ trở nên khả tín. Nó cho thấy, một điều hợp lý là những quốc gia của người Việt được lập ra trước cuộc xâm lăng, vì chỉ như vậy mới phù hợp với lịch sử.)

    Về Việt Nam, người Núi Thái-Trong Nguồn hòa huyết với người Việt bản địa da đen Australoid, sinh ra người Mongoloid phương Nam Phùng Nguyên. Việc khảo cổ học phát hiện di cốt người Mongoloid phương Nam tại văn hóa Phùng Nguyên khoảng 4500 năm TCN là bằng chứng xác nhận cuộc di cư này.

    Nếu những điều trình bày trên chưa hài lòng quý vị thì xin dùng chứng lý theo lối quy nạp sau:

    Khoa học xác định mã di truyền của người Việt hôm nay thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Vì vậy, nếu là thủy tổ của dân tộc Việt, các ngài Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… cũng phải là người Mongoloid phương Nam. Một câu hỏi được đặt ra: người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất Việt Nam vào thời gian nào? Khảo sát 70 sọ cổ phát hiện ở nước ta, cổ nhân chủng học cho biết: “Suốt Thời Đá Mới, chủng Australoid là dân cư duy nhất sống trên đất nước ta cũng như toàn Đông Nam Á. Sang Thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư khu vực. Người Austrtaloid biến mất dần, không hiểu do di cư hay đồng hóa.” Khảo cổ học cũng cho thấy, người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất nước ta vào thời Phùng Nguyên, khoảng 4500 năm trước.

    Một câu hỏi khác: họ từ đâu tới? Ta thấy, suốt Thời Đồ Đá, trên toàn bộ Đông Nam Á kể cả Việt Nam không có người Mongoloid. Trong khi đó, như phân tích ở trên, người Mongoloid phương Nam xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ (cửa sông Chiết Giang) từ 7000 năm trước. Lẽ đương nhiên, họ chỉ có thể từ hai nơi này xuống Việt Nam. Nhưng do di ngôn của tổ tiên “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra,” ta hiểu, là từ Núi Thái-Trong Nguồn các vị di cư tới Việt Nam.

    Như vậy, có hai giai đoạn hình thành người Việt: giai đoạn đầu, người Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Tại Núi Thái-Trong Nguồn, khoảng 7000 năm trước, người Việt hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân. Khoảng năm 2698 TCN, do thua trận Trác Lộc, người Việt của Lạc Long Quân chạy xuống Việt Nam, lai giống với người Việt tại chỗ, sinh ra người văn hóa Phùng Nguyên, tổ tiên trực tiếp của chúng ta.

    Vào nam Hoàng Hà, người Mông Cổ chiếm đất và dân Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Họ cũng hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ, được coi là tổ tiên người Trung Hoa. Nhận được ưu thế từ hai nền văn minh, người Hoa Hạ trở nên lớp người ưu tú của các vương triều Hoàng Đế, góp phần quan trọng làm nên thời Hoàng Kim của văn hóa phương Đông. Nhưng sau thời Chiến quốc, với sự bành trướng của nhà Tần, nhà Hán người Việt thì người Hoa Hạ bị đồng hóa, tan biến trong cộng đồng Việt đông đảo. Hoa Hạ chỉ còn là một danh xưng, bị các vương triều Trung Hoa chiếm dụng làm phương tiện thống trị các tộc người khác. Người Hoa đổi đồng bằng Trong Nguồn thành Trung Nguyên. Sông nguồn thành sông Hòn, sông Hớn rồi thành Hán Thủy. Do mất đất mất tên nên hơn 2000 năm nay, người Việt ngơ ngác không biết Trong Nguồn là đâu?!

    Thủy tổ người Việt thực sự ở đâu?

    Họa tiết trên trống đồng Đông Sơn

    II.Quá trình hình thành di tích, tài liệu về cội nguồn tổ tiên trên đất Việt.

    1.Quá trình hình thành

    Lớp di dân đầu tiên đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống. Theo đà xâm lăng của kẻ thù, nhiều thế hệ người Núi Thái-Trong Nguồn di cư tiếp, tiến vào những khoảng đất cao của đồng bằng sông Hồng vừa được tạo lập là Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh… Chạy giặc, bỏ quê hương tới nơi xa lạ là nỗi đau của người biệt xứ. Có thể, sau hàng vạn năm cách biệt, người Núi Thái-Trong Nguồn không thể ngờ rằng nơi dung dưỡng mình hôm nay lại là đất gốc của tổ tiên xưa. Vì vậy, mặc cảm mất nước luôn nặng nề, dai dẳng. Hướng về nguồn cội là nỗi khắc khoải khôn nguôi. Nỗi nhớ thương đã kết đọng thành câu ca Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra. Có lẽ câu ca lúc đầu chỉ là nỗi lòng của người dân mất nước vọng cố hương nhưng rồi nó thành tấm bia ghi nguồn cội để muôn đời con cháu tìm về. Không dừng lại đó, những người tâm huyết nhất, theo tục xưa, đắp những ngôi mộ gió để từ xa bái vọng tổ tiên Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương… Đó là công việc mà ngày nay người dân đảo Lý Sơn vẫn làm để không quên người không trở về sau những chuyến đi! Khi khá giả hơn, những ngôi đền thờ được dựng lên. Khi có chữ, những vị lão thành lục trong trí nhớ những gì “được nghe ông bà kể” về tổ tiên xưa, ghi thành tộc phả, ngọc phả. Sự thật được “thêm mắm dặm muối” cùng những yếu tố huyền ảo để thêm phần linh thiêng, cao cả và đáng tin. Đọc một số thần phả, ngọc phả do Đại học sĩ Nguyễn Bính chép, tôi bất giác nghĩ tới chuyện “chạy di tích” thời nay. Lâu ngày mới về quê, gặp dịp làng xã đình đám rước “Bằng công nhận di tích”. Thấy trên giấy vinh danh một vị còn văn tế ở đình tế vị thần khác, tôi hỏi ông chú họ, đầu trò câu chuyện này. Gạn hỏi mãi, ông thú thực: “Lúc đầu viết theo thần tích ông thánh trong đình. Nhưng mấy ông văn hóa tỉnh nói: “Tra mãi không thấy ông nào tên như vậy để làm giúp các bác. Chỉ có ông trạng X hơi gần với hồ sơ của các vị. Nếu đồng ý thì chúng tôi giúp.” Anh tính, mất bao nhiêu tiền rồi chả nhẽ xôi hỏng bỏng không, đành gật đầu chấp nhận cho họ làm!” Phải chăng, ngày trước, cũng nghe ông bà kể lại, rồi với thứ chữ Nho của thày đồ quê, các vị tiên chỉ trong làng mang đơn lên phủ cậy quan. Sau khi nhận đồng lớn đồng nhỏ vi thiềng, quan phủ đưa hồ sơ lên triều đình. Rồi dựa vào văn bản của địa phương, Đại học sĩ Nguyễn Bính sáng tác hàng loạt ngọc phả, như người vẽ truyền thần. Đó là cái chắc, chỉ có điều ngờ là không biết đại học sĩ có nhận tiền thù lao như hôm nay không?

    Hàng trăm năm qua đi, đám hậu sinh chúng ta có tất cả: những ngôi mộ cổ, những ngôi đền với những pho tượng sơn son thiếp vàng linh thiêng mà cha ông từng đời đời tế tự. Những thần phả, ngọc phả chữ Nho với giấy bản xỉn màu thời gian, gáy mòn, góc vẹt, loáng thoáng lỗ mọt… Và hơn cả là tấm lòng chúng ta hướng về tổ tiên cộng với sự ganh đua của những họ tộc tranh nhau xem họ nào xuất hiện sớm nhất? Thế rồi, với tiền của bá tánh, tiền thuế dân nhận từ dự án, những nấm mộ, những ngôi đền được phục dựng khang trang hoành tráng, cùng với những hội thảo trưng ra vô vàn “bằng chứng lịch sử”…

    2. Đôi lời nhận định

    Người viết bài này có lúc hăm hở theo dõi những “phát hiện mới” với hy vọng tìm được dấu vết khả tín của tổ tiên. Nhưng rồi sớm thất vọng! Cổ Lôi Ngọc Phả chỉ mới ra đời vài trăm năm ghi Phục Hy, Thần Nông vùng Phong Châu làm sao có thể phản bác Kinh Dịch 2500 năm trước viết “Phục Hy thị một, thần Nông thị xuất”? Mấy ngôi đền Phục Hy, Thần Nông… trên đất Phong Châu làm sao phủ định bài vị các ngài được thờ trên lăng mộ ở Thái Sơn? Làm sao có thể tin Phục Hy họ Nguyễn, trong khi cả truyền thuyết lẫn cổ thư đều ghi rõ: Phục Hy thị, Thần Nông thị, Hồng Bàng thị… “Thị” cũng là họ, nhưng đấy là họ theo mẹ của thời mẫu hệ. Qua mẫu hệ hàng nghìn năm mới sang phụ hệ, để “tính” – cách gọi họ theo dòng cha ra đời! Thời đó, con người chỉ được đánh dấu bằng một từ duy nhất chỉ tên hoặc thêm tước “đế” phía trước như Đế Minh, Đế Nghi… Vậy thì làm sao có ông Phục Hy tên là Nguyễn Thận? Làm sao tin những bức tượng sơn son thiếp vàng lòe loẹt trong đền là Phục Hy, Kinh Dương Vương khi trang phục trên người các ngài là của quan lại triều Minh, triều Thanh?! Vì sao sống cách nhau nhiều nghìn năm mà các vị tổ lại tụ họp trong khoảnh đất hẹp vậy? Vì sao, chỉ là tổ người Việt mà truyền thuyết về các vị lan ra rộng khắp từ Quảng Đông tới Ba Thục? Chỉ là tổ của người Việt với lãnh thổ từ Bắc Bộ tới miền Trung mà sao lại có đền thờ Kinh Dương Vương trên Ngũ Lĩnh? Nhiều, nhiều lắm những câu hỏi không thể trả lời!

    Khi không trả lời được những thắc mắc trên, trong trí tôi nảy sinh câu hỏi: Vì sao lại có sự tình như vậy? Phải rất lâu sau, cùng với sự trưởng thành của nhận thức, tôi nhận ra, những ngôi mộ được đắp, những ngôi đền được xây chỉ là việc thu nhỏ một lịch sử từng diễn ra trên địa bàn rộng lớn. Đó chỉ là sự sa bàn hóa một thực tế lịch sử vĩ đại! Tôi bỗng hiểu và thông cảm với tiền nhân. Từ ký ức và tâm nguyện của mình, các vị đã tạo những mộ gió, những ngôi đền bái vọng. Tấm lòng thành của bao kiếp người đã tạo nên một tín ngưỡng dân gian vô cùng nhân văn nhớ về nguồn cội, thờ kính tổ tiên… Nhưng rồi đám cháu con không hiểu cha ông, u mê biến tín ngưỡng dân gian trở thành chính sử, để tự sướng và lừa thiên hạ thì đã là tai họa!

    Những người chủ trương việc này nghĩ rằng mình đã sáng suốt, khám phá lại lịch sử là vì dân tộc, vì kính ngưỡng tổ tiên. Không ai phủ nhận nhiệt huyết, tấm lòng của họ. Nhưng thực tế cuộc sống đã bày ra trước mắt: yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau!

    Trước hết, là xuyên tạc lịch sử:

    Do chủ quan, do ít hiểu biết, họ không hiểu rằng, giang sơn xưa của tổ tiên Việt là khoảng trời, khoảng đất mênh mông toàn cõi Đông Á. Từng hàng chục nghìn năm thống lĩnh hai con sông Đông Á (Hoàng Hà, Dương Tử) và xây dựng trên đó nền văn hóa kỳ vĩ. Việc “quy tập,” co cụm tổ tiên về dải đất hẹp Phong Châu chính là phủ định cả cội nguồn lẫn giang sơn vĩ đại của giống nòi! Đó chính là cái tội chối bỏ lịch sử, cũng đồng thời chối bỏ nguồn cội!

    Không chỉ vậy, khi làm việc này, họ tự tước đi của mình vũ khí mạnh mẽ chống lại những mưu toan xuyên tạc sử Việt. Họ từng biết, người Trung Hoa có cuốn sách “Thông sử thế giới vạn năm” hơn 5000 trang, phủ định toàn bộ lịch sử Việt Nam với những dòng ngạo mạn: “Khoảng 2000 năm TCN, bán đảo Đông Dương bước vào thời kỳ đồ Đá Mới… 1000 năm TCN, những bộ lạc cư trú quanh vùng sông Hồng Hà bắt đầu định cư..” Họ cũng biết, ông giáo sư người Mỹ Liam Kelley chống báng tới cùng sự hiện hữu của Kinh Dương Vương. Ông ta chỉ coi thủy tổ tộc Việt là do đám trí thức Hán hóa thời Trung đại dựa vào cổ thư Trung Hoa bịa tạc ra. Một trong những lý cứ khiến ông ta nghĩ vậy, chính là ở chỗ, truyền thuyết về Kinh Dương Vương phổ biến khắp Trung Hoa. Nếu cứ theo “sa bàn” như quý vị hoạch định hôm nay thì làm sao phản bác được vị giáo sư thông thái nọ? Nhưng nếu nắm được lịch sử trọn vẹn của tổ tiên thì ta có thể nói, chính chứng cứ ông học giả người Mỹ đưa ra đã chống lại ông ta! Đó là do, cộng đồng Việt vốn là khối thống nhất trên toàn đông Á, cùng chung máu mủ, ngôn ngữ và văn hóa. Từ thời Chiến quốc, bị tan đàn xẻ nghé, người Việt mang theo truyền thuyết nguồn đi khắp nơi…

    III. Kết luận

    Có một thời tăm tối, chúng ta được cổ thư Trung Hoa và những vị thầy Tây dạy rằng, người từ Trung Hoa xuống đồng hóa dân Annam mông muội. Dân Việt là lũ Tàu lai. Tất cả văn hóa Việt là sự bắt chước Trung Hoa chưa trọn vẹn. Người Việt không có chữ, phải mượn chữ Trung Hoa, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán… Hàng nghìn năm ta tin như thế!

    Trong cái thời tăm tối ấy, chúng ta tìm mọi cách “thoát Trung” bằng việc viết ra lịch sử riêng của mình. Trong đó có những ý tưởng “quy tụ” tổ tiên về đất Phong Châu để tạo ra một cội nguồn, một lịch sử hoàn toàn độc lập với phương Bắc. Ý tưởng như vậy được nuôi bởi bằng chứng là những ngôi mộ, ngôi đền, những cuốn ngọc phả… khiến không ít người tin vì có nguồn cội “thoát Trung”!

    Nhưng sang thế kỷ này, nhờ khám phá khoa học, ta biết rằng, lịch sử đã diễn ra theo con đường ngược lại: tổ tiên ta từ xa xưa đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng trên toàn bộ Đông Á một nền văn hóa vĩ đại! Không những tiếng Việt, chữ Việt là chủ thể tạo nên tiếng nói và chữ viết Trung Hoa mà nền văn hóa Trung Hoa cũng được xây dựng trên nền tảng văn hóa Việt! Chính đó là cơ sở của ý tưởng từ lâu in sâu trong tâm cảm dân Việt: Trong khi các nhánh khác bị Hán hóa thì người Lạc Việt ở Việt Nam vẫn giữ được giang sơn, đất hương hỏa cuối cùng của tổ tiên.

    Vì vậy, trong những “đồ án phục dựng lịch sử Việt” ra đời lâu nay thì việc sa bàn hóa, quy tập tổ tiên về đất hẹp Phong Châu là sai lầm tai hại nhất. Trong khi những phương án khác chỉ là những ý tưởng trên giấy thì “đồ án” này tác động sâu rộng không chỉ tới lịch sử, tâm linh mà tới cả cuộc sống dân tộc.

    Thưa ông Phan Lan Hoa, thời trẻ làm báo, tôi chỉ viết sự thực cho dù có rước lấy tai họa. Nay vào tuổi cổ lai hy, tôi chỉ viết sử theo sự thật vì biết rằng, chỉ sự thật là còn lại. Vì vậy, tôi không hề dám làm cái việc bạo thiên nghịch địa là “đẩy đưa thủy tổ người Việt sang bên Trung Hoa” như ông ghép tội. Phải đâu là chuyện cá ao ai nấy được? Tôi chỉ làm cái việc trung thực là phát hiện sự việc của quá khứ rồi đặt nó vào đúng chỗ, thưa ông! Theo thiển ý, nếu như có ngôi mộ nào sớm nhất của tổ tiên trên đất Việt thì chỉ có thể là mộ Lạc Long Quân ở Rào Rum-Ngàn Hống hay tại kinh đô Ao Việt!

    Đáng buồn và đáng sợ là, những người “quy tập” tổ tiên về đất hẹp Phong Châu không ngờ rằng mình đang làm cái việc nguy hại tham bát bỏ mâm. Trong khi hất đi cái mâm thật, không chỉ đầy của cải quý giá mà còn có cả văn tự ghi quyền sở hữu giang sơn vĩ đại của tổ tiên xưa thì quý vị ôm lấy cái bát ảo! Cái mâm quẳng đi rồi, một khi cái bát được chứng minh là giả, không hiểu quý vị tính sao?!

    Sài Gòn, Vu Lan năm Giáp Ngọ

    Hà Văn Thùy tác giả của bài viết rất nổi tiếng về việc luận bàn Triệu Đà là người Việt?
  • Lý do chính dẫn tới việc nước Việt ngày càng sa sút?

    Lý do chính dẫn tới việc nước Việt ngày càng sa sút?

    Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai.

    Bạn có biết lý do chính dẫn tới việc nước Việt ngày càng sa sút? Câu trả lời là: LƯỜI!

    Người ta cứ đang kéo cố gắng đất nước này đi lên. Hàng loạt bài báo được viết nên. Trong đó chỉ ra rằng đất nước này đang bị ô nhiễm hóa, đang bị bóc lột hóa, đang bị bất công hóa, và đang bị căng thẳng hóa… Nhưng rồi các bạn biết được điều gì là quan trọng? Ừ, CHẲNG AI THÈM ĐỌC NHỮNG BÀI BÁO ĐÓ. Nghĩa là người ta không biết chuyện gì đang xảy ra chung quanh họ, không biết được mức độ căng thẳng leo thang của thế giới xung quanh. Tóm lại là, người viết thì cứ viết, người chơi thì cứ chơi, không ai thèm đọc. Dĩ nhiên là ta đang nói đến số đông thôi.

     lý do chính dẫn tới việc nước Việt ngày càng sa sút?

    Vậy ra, người ta đang cố gắng thay đổi mọi thứ ở phần ngọn. Nghĩa là kêu gọi những con người đã góp sức gây nên hiện trạng này, hãy thôi đừng phá hủy đất nước nữa, hãy thôi xả rác, hãy thôi chém giết. Đó là một ý tưởng điên rồ. Kêu gọi người từng sát hại đất nước này hãy suy nghĩ lại, rũ chút lòng thương, đừng phá hoại nữa.

    Bạn biết vì sao mà đất nước này cứ thụt lùi, thậm chí bây giờ thua cả Lào và Campuchia không? Nếu bạn định trả lời là chính phủ thì hãy tạm gác lại cái ý nghĩ đó. Bởi vì vấn đề là dân chúng ở đây mang một căn bệnh nan y không thể chữa nỗi: LƯỜI!

    LƯỜI VẬN ĐỘNG, TẬP THỂ DỤC

    So với số người tập thể dục, thì số người không tập chiếm gấp nhiều lần, nếu không muốn nói là áp đảo hoàn toàn. Bạn không tin? Sáng thức dậy 4 giờ sáng chạy bộ. Rất nhiều ông cụ, bà già sẽ chạy cùng bạn. Số trung niên cũng rất nhiều. Còn số thanh niên thì chiếm trên đầu ngón tay thôi nhé.

    Mà không tập thể dục thì chẳng đào đâu ra sức khỏe, không có sức khỏe thì làm cái gì cũng mau mệt, mau mệt thì sẽ nhanh chán, mà nhanh chán thì sẽ sớm bỏ cuộc. Những người có sức khỏe yếu thường làm mọi việc qua loa. Tin tôi đi. Họ không chịu đựng nỗi bất cứ chuyện gì hết. Đó là khi chúng ta nên nói tiếp các kiểu lười khác là hệ lụy của lười vận động.

    LƯỜI HỌC

    Cái này thì khỏi nói rồi. Trừ các học sinh trường chuyên và công lập, đa số những trường khác, học sinh rất chi là lười. Khoan hãy nói đến việc kiến thức có hàn lâm hay không, có khó nuốt hay không, có kém thực tiễn hay không. Mà hãy tự hỏi, tại sao lại như vậy? Không ai chịu đựng nỗi 2 3 tiếng học bài ở nhà. Nói trắng ra là họ quá lười chịu đựng. Alan Phan đã từng nói rằng ông không hiểu tại sao một đất nước dân số vàng như Việt Nam lại có vẻ lù khù như các cụ già đến vậy.

    Bạn hỏi tại sao? Hãy tạm trách Internet, Smartphone, Karaoke, Nhậu nhẹt, Lotte, Starbuck và các loại ăn chơi thời hiện đại nhé. Bạn lại hỏi tại sao nữa à? Bởi vì đó là thách thức của thời đại này. Thú vui hưởng thụ bao vây xung quanh, nhan nhãn đông tây nam bắc hướng nào cũng có. Tại sao phải chịu đựng học bài khi tụi bạn đi nhậu, đi hẹn hò, đi Lotte? À, quên nữa, đừng ai nói với tôi một câu mà đứa trẻ trâu nào cũng biết: Cái nào cũng có mặt lợi, quan trọng là đừng dùng quá liều lượng. Bởi vì, không có mấy ai biết kiểm soát chính họ ở cái vùng đất này đâu.

    LƯỜI LÀM

    Tất cả những người chủ ở Việt Nam đều khó tính, họ thường đốc thúc công nhân của mình. Bởi vì họ biết, không đốc thúc, bọn công nhân chỉ ngồi chơi, và làm kiểu đối phó, chủ tới thì luôn tay luôn chân, chủ đi thì phì phèo điếu thuốc, thậm chí là lướt facebook chat chit nữa là đằng khác. Nếu cha mẹ bạn là người trả tiền cho công nhân, chắc bạn sẽ rõ điều đó hơn cả.

    Bạn hỏi vì sao họ lười làm, họ bắt đầu lười từ khi nào? Vì sao? Vì họ chẳng có thích thú gì với công việc. Bởi vì họ từ cái giây phút họ lười học, họ chẳng có kiến thức gì để giải quyết vấn đề nên họ chẳng muốn xảy ra thêm vấn đề gì nữa. Mà đấy, cách hay nhất để không có vấn đề gì để giải quyết là ngồi chơi. Làm việc thì tạo nên vấn đề, giải quyết vấn đề chính là một bước thăng tiến. Nhưng họ lại sợ gặp vấn đề biết bao. Không giải quyết được lại bị chửi, lại bị sỉ nhục, lại quê với người khác. Nên họ thà làm người nhàn rỗi tay chân, áo sạch đồ đẹp, không một vết bẩn còn hơn lấm lem mồ hôi, nhếch nhác không ai thèm dòm.

    LƯỜI SUY NGHĨ

    Lướt dạo hết vòng facebook là điều bạn có thể làm ngay. Nếu facebook bạn không có gì đáng để xem, không có gì để làm bạn cảm động, làm bạn thấy phải nhìn lại bản thân mình thì bạn chính là một ví dụ. Còn nếu có thông tin gì đó hay, viết về thực trạng của đất nước, về ô nhiễm môi trường, về động vật tuyệt chủng, hay các bài viết học thuật, hãy xem nó được bao nhiêu người like? À, thường thì không có bao nhiêu người like đâu. Không tin lướt ngay facebook là biết.

    Chúng ta không có gì để học sao? Hay chúng ta chỉ quan tâm về tự sướng, em nào đẹp, em nào xài camera 360, anh nào GAY, chỗ nào chơi tốt, khu nào ăn ngon, quần áo chỗ nào bán đẹp? Nếu facebook của bạn không có bất cứ cái gì liên quan tới học thuật, kiến thức, thay vào đó là 90% ảnh girl xinh, trai đẹp, hãy yên tâm một cách chắc nịch rằng bạn là một trong những đứa lười suy nghĩ bậc nhất thế giới.

    LƯỜI TRANH ĐẤU

    Cái này thì khỏi phải nói luôn rồi. Cha chung chả ai khóc mà. Đất nước ngày càng đi xuống thì cũng mặc. Nói thật, chả ai quan tâm cả. Những người có tâm, những người làm báo cứ như những kẻ thui thủi một mình tự kỷ vậy. Bài nào họ viết ra, họ tự đọc, chả mấy ai đọc nói chi đến like và comment. Đi chơi noel xong rác thải đầy đường để phải viết lên báo, cũng chả cần thấy nhục mặt cho bản thân hay cho đất nước này, cứ thế năm nào cũng vậy, cũng lên báo, rồi cũng thôi, vì chẳng ai còn hơi sức để nói nữa.

    Thờ ơ là căn bệnh của người Việt. Nếu không tin, search bài báo: “Người Việt vô cảm thứ 13 thế giới” là biết. Họ chẳng muốn tranh đấu. Họ chẳng muốn gì cả ngoài việc hưởng thụ những gì đang có. Tài nguyên chúng ta bán, cây rừng chúng ta cưa, voi rừng chúng ta giết, thú rừng chúng ta ăn, chả còn gì mà chúng ta “tha” cả. Khai thác triệt để cho thế hệ này tận hưởng, có thể đoán là trong vòng 10 năm tới sẽ cạn sạch. Nhưng mọi người thì cứ thờ ơ để mọi thứ ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Miễn là họ không ở những vùng hiểm trở, thiên tai; miễn là họ không bị gì hết. Càng ngày, người ta càng rút về thành thị, co cụm, bạn thấy không? Cả đám ăn chơi phè phỡn với nhau, rồi chuốc độc nhau trong từng thớ thịt, dĩa cơm… Nhưng không ai muốn tranh đấu! Chẳng ai muốn cả, vì họ bận phải hưởng thụ sự hiện đại này.

    Đấy là những thế hệ đã được đào tạo. Việt Nam thuộc loại khủng của thế giới trong việc chi ngân sách cho giáo dục. Họ đã làm gì, và chúng ta đã tôi luyện bản thân như thế nào? Có khi nào chúng ta thấy nhục nhã, chẳng cần gì cao siêu, mà chỉ bởi vì chúng ta vừa quăng một cục rác xuống đường. Ai đó nhắc nhở, và chúng ta phản bác: TRƯỚC SAU CŨNG CÓ NGƯỜI QUÉT THÔI. Liệu có bao giờ chúng ta thấy nhục mặt vì cái độ lười nó ghê tởm đến nỗi những con chó thông minh, biết đi ị đúng chỗ cũng phải khinh thường?

    Những thế hệ đi qua, và những bài học của các bậc mẹ cha ngày càng thực dụng. Bạn không thấy xã hội này quá co cụm từ khi bạn chuẩn bị cắp đồ lên thành phố học? 99,9% tôi đảm bảo sẽ được nhắc: Giữ tiền cẩn thận nha con, trộm cắp dữ lắm; Ở ký túc xá coi chừng nhà con, trộm cắp phức tạp lắm; ở Sài Gòn cẩn thận nha con, dân tứ xứ chẳng biết ai là ai đâu…

    Bạn đã từng nghe, chắc chắn như vậy, và hãy thừa nhận là lũ người xung quanh bạn thật gớm ghiếc. Và bạn, tôi chỉ đích danh bạn đó, cũng chưa chắc là một trường hợp đặc biệt gì ngoài lũ gớm ghiếc đó đâu. Một lũ tệ hại, cười với nhau những nụ cười giả tạo, đôi tay vịn chắc túi tiền và trôi vào dòng cuộc sống. Chúng ta chắp vá đất nước này, rách chỗ nào vá chỗ đó, nhưng đúng như Lưu Quang Vũ nói:

    Nhưng chúng ta chẳng quan tâm lời dạy này. Chúng ta chắp vá nhiều hơn là đằng khác. Ai đó đút lót, chúng ta đút lót nhiều hơn. Ai đó đối phó để được điểm cao, chúng ta quyết tâm biết được đề thầy sắp ra giờ kiểm tra. Ai đó quăng rác bừa bãi, chúng ta quăng rác một cách tinh vi. Ai đó lừa đảo ta, ta học cách đó để lừa đảo lại người khác. Và chúng ta có một xã hội như ngày hôm nay. Chẳng ra một cái gì cả.

    Một dân tộc ghê tởm nhau, đề phòng nhau đến những chuyện nhỏ nhặt đến như vậy thì làm sao còn đầu óc để đầu tư vào những thứ tiến bộ khác hơn? Một xã hội co cụm, những ánh mắt đầy hoài nghi, ghê tởm thay cho chúng ta!

    Chúng ta lười mọi thứ. Chúng ta lười vận động, rồi thì sức khỏe chúng ta kém, sức chịu đựng không có nên chúng ta nhác học, lười làm, buồn ngủ khi phải nghĩ và chán ngán khi phải chịu đựng. Tất cả những gì chúng ta có là đối phó, từ trong ra ngoài. Không đối phó bằng cách hối lộ tiền, thì đối phó bằng cách mua bằng cấp giả, nếu không được thì học đại cho xong, và trong lúc học cũng đối phó với thầy cô. Vâng, chúng ta đối phó n+1 các loại. Nhưng điều làm tôi ghê tởm hơn cả tật đối phó, chính là không thèm đối phó nữa mà sẵn sàng thải rác ra đường như không giữa ban ngày ban mặt, buông lời tục tĩu, dâm dục giữa thiên hạ. Số đó không hề ít, xin chớ coi thường.

    Chịu đựng! Những người đi ra từ chiến tranh với sức chịu đựng ghê gớm lại nuôi dạy con họ một cách đầy nuông chiều. Quá nhiều người đi ra từ chiến tranh, quá nghèo khổ để nói đến đức hạnh, tất cả những gì họ lo lắng là tiền, là mưu sinh. Đó là lý do chúng ta ở đây. Cả một lũ không được giáo dục tốt. Cả một lũ đang làm đất nước này đi xuống. Đó không phải là lỗi của họ, hãy thông cảm vì điều đó. Họ đã cố phải xây dựng lại mọi thứ từ đống tro tàn. Nhưng còn chúng ta thì sao? Được nuông chiều từ nhỏ tới lớn, chẳng phải chịu đựng bất cứ cái gì, và giờ thì sẵn sàng ngồi quán cafe chém gió suốt ngày.

    Bạn biết bọn nhậu nhẹt và ngồi quán cafe chém gió thường nói gì khi gặp nhau? Tao mới xin làm chỗ kia, lương 4 triệu mà toàn ngồi chơi. Liền lập tức, thằng đối diện sẽ bảo: NGON VẬY!

    Cái tư duy ở xứ này là: Ngồi chơi và “khỏe”! Nhưng yên tâm đi, vũ trụ rất công bằng. Cái chỏm nhỏ ở chỗ này trước sau gì cũng bị trừng phạt nếu tiếp tục tồn tại theo kiểu đó.

    Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai.

    Đừng uống cạn tài nguyên này, đừng ăn mặn để con cháu khát nước. Đừng để thế hệ nối tiếp thế hệ sống cuộc sống như thế này. Và xin cũng đừng, đừng xấu xa cho đã để rồi sau này bắt con mình trở thành một người tốt. Con nít học qua hình ảnh, nó bắt chước tất cả những gì nó thấy. Đừng bao giờ cho phép bản thân tệ hại, và dạy con bằng cái lối nói rằng bạn dù có xấu xa thế nào cũng là hy sinh cho tương lai của nó. Bởi vì, cách đó nhàm quá rồi, một lời biện hộ không có nghĩa gì hết.

    Tôi biết là Việt Nam vẫn chưa đến lúc có một cuộc cách mạng cải tổ lại tư duy người Việt. Nhưng từ giờ cho tới lúc đó, hy vọng tôi có thể giúp ai đó hiểu rằng, hãy luyện tập, hãy chịu đựng để bước đi những ngày tháng trưởng thành. Bạn không thể lớn thêm nếu không chịu đựng. Nếu bạn muốn đi lên, bạn phải chịu đựng, dù xung quanh không có ai hỗ trợ bạn, dù xung quanh mọi người đang say ngủ…

    NẾU BẠN MUỐN TRƯỞNG THÀNH, HÃY CHỊU ĐỰNG

    Trong nghĩa của từ chịu đựng, không có lười biếng. Trong nghĩa của từ chịu đựng là sức mạnh. Mỗi một cá nhân có sức mạnh, khỏi cần phải bàn tới chuyện đất nước có đi lên hay không, vì đôi tay của họ thậm chí có thể nhấc bổng cả bầu trời…

    (Nếu bạn nào đặt một dấu chấm hỏi vì sao bài trước tôi viết là chẳng có ai lười thì bài này tôi lại đỗ lỗi cho việc người ta lười, thì xin hãy hiểu rõ là trong 2 bài tôi đang đề cập đến 2 chuyện khác nhau. Bài trước là cảm thông với những người chưa tìm ra họ là ai trong cuộc đời. Bài này nói về những con người xung quanh tôi mà đầu óc bị mụ mẫm hóa hết rồi, không còn biết gì ngoài những lạc thú tầm thường nữa.)

    Theo Lục Phong

  • Người miền Nam ứng xử “đàng hoàng” hơn miền Bắc?

    Người miền Nam ứng xử “đàng hoàng” hơn miền Bắc?

    Việt Nam là một đất nước có chiều dài với sự phân hóa khá rõ về văn hóa sống và ứng xử ở cả 3 miền Bắc – Trung – Nam. Và có nhiều ý kiến trái chiều về việc người miền Nam có văn hóa sống phóng khoáng và lịch sự hơn người miền Bắc. Vậy đó có phải là sự thật hay không?

    Người miền Nam sống đơn giản nên mọi thứ đều thoáng và dễ chịu. Còn đối với người miền Bắc, họ sống phức tạp nên nhiều khi trở thành lối sống giả. Cuộc sống bí bách, khí hậu khắc nghiệt cũng góp phần làm cho người miền Bắc tính tình nóng nảy, văn hóa ứng xử kém hơn người miền Nam.

    Báo Giáo dục Việt Nam nhận được thư bày tỏ sự ủng hộ quan điểm này của độc giả Trịnh Hoàng Hiệp. Để độc giả khắp cả nước có thể tiếp tục bàn luận về vấn đề “nói bậy, chửi tục”, chúng tôi xin đăng tải nguyên văn lá thư này.

    Có giai thoại kể lại rằng, nhà phê bình Hoài Thanh, tác giả của cuốn sách bất hủ “Thi nhân Việt Nam” trong thời gian sống tại miền Nam đã chẹp miệng mà nói: “Người miền Nam, ai cũng lịch sự. Cứ mở miệng ra là cám ơn với xin lỗi rối rít. Ngồi ở trong nhà, có ai đi ngoài đường chõ miệng hỏi cái gì mà mình trả lời xong, cắp đít đi thẳng, không thèm cám ơn một tiếng, thì không cần nhìn, mình cũng biết ngay đó là dân ngoài Bắc vào”. Ngay trong cách nói này của ông cũng cho thấy rằng, văn hóa giao tiếp, ứng xử của người miền Nam… ăn đứt người miền Bắc.

    giao duc mieng nam mien bac (4)

    Đất nước Việt Nam chia thành nhiều vùng miền rõ rệt, có nguồn gốc tại miền Bắc. Sự phân chia này ảnh hưởng rõ ràng đến lối sống và văn hóa mỗi nơi một khác. Ngay cả trong giọng nói, ngôn ngữ giao tiếp từ Bắc vào Nam đều có sự thay đổi, đặc biệt là hai thành phố lớn Hà Nội và Sài Gòn. Gần đây, những clip được tung lên mạng về thói nói tục, chửi bậy của học sinh đã làm dư luận vô cùng phẫn nộ, bức xúc: Khi nữ sinh nói chuyện bằng chân tay, Clip hai nữ sinh hỗn chiến kinh hoàng, Choáng váng với nam sinh Thủ đô chửi tục trước cổng trường. Đây không chỉ đơn thuần là câu chuyện học đường mà còn là câu chuyện của toàn xã hội.

    Bạo lực học đường ở miền Bắc ngày một gia tăng nguy hiểm và có thừa mức độ man rợ…

    giao duc mieng nam mien bac (3)

    Trong cách cư xử với bề trên, hai miền Nam Bắc đều biểu hiện khác nhau. Nếu người miền Bắc nói “ạ” sau mỗi câu hỏi hoặc câu trả lời thì người miền Nam thường đệm “thưa” vào trước, “dạ” vào sau. Từ thuở nhỏ, hầu hết đứa trẻ nào cũng được dạy những lễ nghĩa cơ bản như vậy nhưng theo thời gian, khi con người dần lớn lên thì từ “ạ” của người miền Bắc thường được cắt giảm. Có lẽ bởi “ạ” mang nặng sự nghiêm túc, cứng nhắc và mô phạm, không còn phù hợp trong giao tiếp. Còn người miền Nam vẫn giữ nguyên từ “dạ” hay “thưa” như một lẽ tự nhiên.

    Mặc dù Hà Nội là trung tâm văn hóa nhưng tôi thấy rằng về sự lịch lãm, tinh tế thì người miền Bắc hơn người miền Nam, thế nhưng về văn hóa cư xử trong cộng đồng thì người miền Bắc lại phải học hỏi người miền Nam. Trong các lễ hội, người miền Nam ít cảnh nhốn nháo, xô đẩy hay cố tình làm hại của chung. Họ luôn có ý thức tôn trọng người khác và bảo vệ mình.giao duc mieng nam mien bac (2)

    Về cách sử dụng hai từ “cảm ơn” và “xin lỗi” hai vùng miền cũng khác nhau. Người miền Bắc rất hạn chế trong cách nói hai từ này, người ta chỉ nói như một luật lệ bất thành văn khi con cái nói với bố mẹ, ông bà, người ít tuổi nói với người hơn tuổi mà không biết rằng giao tiếp với cộng đồng cũng rất quan trọng. Nếu đi ngoài đường trên đất Bắc mà bạn bị xe đụng, bị giằng kéo, xô đẩy thì bạn chỉ nhận được những cái trợn tròn mắt, rồi phóng xe qua trước mặt. Nhưng người miền Nam thì khác, họ sẵn sàng nói xin lỗi nếu sai.

    Ở Sài Gòn, chuyện vào siêu thị, cửa hàng… thấy những cô nhân viên cúi gập người chào là điều hết sức bình thường. Thế nhưng ở Hà Nội, bạn sẽ xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó cúi gập người và nói lời cảm ơn – đó là chuyện hiếm thấy trên cả miền Bắc. Nếu đi trên đường mà có điện thoại, người miền Bắc có thể vừa lái xe vừa chửi tục, quát tháo ngay giữa phố để chứng tỏ mình là ai, nhưng người miền Nam thì họ sẽ dừng lại, ghé xe bên lề đường mà nói chuyện. Thanh niên miền Nam nhậu nhẹt về khuya, khi thành phố vắng người, không có cảnh sát giao thông họ vẫn dừng xe khi có đèn đỏ, nhưng miền Bắc thì khác, không cần nhìn ngó trước sau mà sẽ phóng xe đi thẳng.

    Từ ngoài xã hội lại nói về câu chuyện học đường nơi mà các em bộc lộ rõ nét nhất cách ứng xử. Sau giờ tan học, nếu đứng ở một cổng trường cấp III tại miền Bắc sẽ thấy rằng, vừa bước ra khỏi cổng trường học sinh nam thì bỏ “sơ vin”, châm thuốc và bắt đầu “phun châu nhả ngọc” đến kinh hoàng, học sinh nữ thì sẵn sàng cầm dép lên đánh nhau vì những lý do hết sức vớ vẩn.

    Môi trường nào cũng có những bức xúc, học sinh miền Nam có đánh nhau, nhưng mức độ man rợ thì không bằng miền Bắc. Học trò miền Nam chỉ đánh đấm nhau rồi thôi chứ ít khi kèm theo những hành vi xúc phạm như chửi bới thậm tệ, lột áo ngay giữa phố. Cứ thử xem những clip của học sinh Bắc thì biết, đánh nhau không khác gì côn đồ, dẫn đến “đối thủ” chấn thương cả về thể xác cũng như tinh thần.

    Trong môi trường giáo dục, đến trang phục giữa hai miền Nam Bắc cũng khác nhau. Nữ sinh miền Nam có truyền thống mặc áo dài trong mỗi tuần còn miền Bắc thì hầu như không mặc. Thực ra, trong việc bắt học sinh mặc áo dài cũng có cái cớ của những người làm quản lý trong ngành giáo dục. Khi vận trên mình bộ áo dài, một mặt sẽ gây ra sự bất tiện khi hoạt động mạnh, mặt khác các em cũng phải ý thức mình là con gái Việt Nam, cần giữ được nét dịu dàng, dáng yêu đúng lứa tuổi. Vì vậy, nữ sinh cũng ngại ngần mỗi khi có ý định đánh nhau với bạn vì sợ hoen ố lên tà áo trắng, cũng như nhân phẩm của mình. Riêng điều này thôi cũng đã phần nào giảm thiểu được những nóng nảy nhất thời, những hành động bất thường của học sinh.giao duc mieng nam mien bac (1)

    Cách xưng hô trong nhà trường và ngoài xã hội, học trò miền Nam thường xưng hô “cô”, “dì”, “chú”, “bác” với “con”, nghe rất thân mật, tình cảm như người trong gia đình. Vì thế, chả có lý do gì lại đẩy những mâu thuẫn khiến cho tình cảm bị sứt mẻ cả.

    Nguồn: ohay.tv