Lính Mỹ thường gọi cảnh sát VN hồi đó là White mice nghĩa là chuột trắng vì đồng phục từ áo quần đến găng tay đều màu trắng giống chuột bạch.
Gọi cảnh sát là chuột bạch là vì lính Mỹ không thích cảnh sát VNCH hồi đó. Cũng bởi lính Mỹ thường thích đi bar, party ồn ào mà cảnh sát hồi đó không thích điều này. Họ thường kiểm tra vấn đề say rượu của lính Mỹ ngoài đường cho nên lính Mỹ rất “không ưa” cảnh sát VN và họ gọi cảnh sát VN là Chuột bạch
Theo chia sẻ của anh Kenny Nguyen: https://www.facebook.com/kenny317
Hình ảnh Việt Nam xin phép được đăng 1 phần bài viết của bác Chính Vũ Văn! những chia sẻ rất thật cho ta thấy một phần thời trang Sài Gòn trước năm 1975.
Thời Trang Ngày Ấy.
( Một thời để nhớ và để quên )
Tôi chỉ còn nhớ các kiểu thời trang của các bậc cha chú hay mẹ , các cô và dì thời thập niên 60 qua những hình ảnh mà thôi , vì lúc đó tôi cũng còn nhỏ lắm. Ngày ấy thời trang thật cổ kính với tà áo dài cao cổ và hai tà áo dài phủ xuống ngang quá đầu gối. Phần eo áo được thít chặt hai bên hông .Về sau khoảng năm 63 thì tà áo dài mới được cách tân một chút là không còn cổ cao mà được khoét sâu hơn một chút xuống phần ngực. Theo mốt của bà cố vấn Lệ Xuân. Tóc thì các bà cổ điển thì vẫn để dài ngang quá lưng. Còn các bà tân thời thì đủ kiểu từ mái tóc bồng của nữ diễn viên Catherine Deneuve , Brigit Bardo hay các nữ ca sỹ Sylvie Vartan ,Francois Hardy.
Vui lòng bấm vào hình để xem:
Bác Phạm Duy có viết một câu trong bài Quán Bên Đường như sau : À a a nhớ,nhớ em còn mái tóc “bánh bèo” ..Cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa hình dung ra mái tóc “bánh bèo” của các Mẹ các Chị ngày xưa ra sao nữa. Ngoài áo dài ra còn có các loại jupe dành cho các chị đi làm ở các sở Mỹ hay các hãng ,công ty của người Việt. Dù sao thì đó cũng là thời trang kín đáo của các quý bà quý cô vào thập niên 60. Sang thập niên 70 , chiếc áo dài được phong phú hơn với kiểu gọi áo dài Raglan . Có hàng nút đính ngay giữa thân áo và hai tà áo ngắn hơn kiểu cũ. Ngày đó có tiệm may áo dài rất nổi tiếng ở Sài Gòn. Đó là tiệm may Thiết Lập nằm trên đường Pasteur.
Còn quý ông thì đơn giản hơn với mái tóc uốn bồng lên phía trước giống như cái máy sấy tóc của quý bà !. Có ông điệu đàng hơn thì để đầu theo kiểu ca sỹ nổi danh Elvis Fresley. Còn quần áo thì đơn điệu hơn với áo chemise rộng ,hay áo thun lóng lánh kim tuyến . Quần thì phồng lên phía phần đùi hay hơi bó sát đùi một chút , càng đi xuống càng bó sát với ống quần nhỏ. Chẵng hiểu ngày ấy cha chú mỗi lần cởi ra có cực không ta ? . Với hai ống quần nhỏ xíu xiu kia mỗi lần cởi ra chắc cũng khó khăn chứ chẳng chơi. Giầy thì là giầy da trơn láng màu đen hay nổi hơn nữa thì chơi màu trắng ,bó sát lấy đôi chân và nhọn hoắt phía mũi giầy . Mỗi lần thấy bố tôi xỏ đôi giầy cực lắm dù có dây cột đàng hoàng. Phải có một cái miếng đồi mồi trơn nho nhỏ, mà mỗi lần muốn xỏ vào thì để nó ra sau gót chân và cứ thế ấn chân nhè nhẹ vào đôi giầy thì mới xỏ được.
Rồi tới thập niên 70 thì mọi chuyện ăn mặc thời trang của quý bà quý ông và các quý choai choai như tuổi của tôi thì thay đổi đến chóng mặt. Thường thì thời trang của các thanh niên nam nữ Sài Gòn thời bấy giờ đều lấy theo kiểu mẫu của thời trang Mỹ , nhất là thời trang thanh lịch của Pháp qua các tạp chí Mademoiselle Arge Tendré , Elle hay các tạp chí nhạc trẻ như Salut Les Copains.. Nhất là từ khi xem các hình ảnh từ buổi đại hội nhạc trẻ Woodstock 1968 kéo dài 3 ngày ở Mỹ. Thì tuổi trẻ ở Sài Gòn bắt đầu để tóc dài thòng tới vai đối với nam , còn nữ thì có mốt tóc cắt ngang trán theo kiểu ca sỹ Stone , mà hồi đó hay gọi là cắt tóc kiểu xì – tôn. Về sau hình như vào năm 71,72 gì đó thì có thêm kiểu tóc ngắn giống đàn ông con trai , nên còn gọi là kiểu Demi Garcon ( nửa con trai ). Hoặc kiểu tóc xõa và uốn lượn dài xuống vai như kiểu của nữ ca sỹ Carol King. Hay như của chị…Cathy Huệ. Đó là nữ.
Còn các ông thì chỉ trừ mấy ông trong các ban nhạc là được phép để dài hay các anh sinh viên . Còn ngoài ra các ông học sinh hay thanh niên vô công rỗi nghề thì không được phép . Mà chỉ được phép để kiểu …húi cua 3 phân ! Bởi vì ông nào tới tuổi đi lính là chắc chắn có cái đầu ngắn húi cua ngay khi vừa mới nhập trại. Còn mấy ông học sinh thì đố mà dám. Nhưng vào những năm 74,75 thì các ông cũng được phép để dài nhưng cũng dài vừa phải thôi , luôn luôn là phải thấy hai cái tai thì mới được chấp nhận. Nên ngày ấy có lúc tụi tôi phải vén tóc hai bên tai lên cho dễ thấy và gọn bớt.
Còn quần áo thì thôi đủ kiểu , các chị các cô các dì thì khỏi nói . Bên Mỹ bên Pháp có kiểu quần áo gì là các “mợ” ở Sài Gòn có cái đó liền. Như những chiếc áo không cổ dài tay và không có túi , với hoa văn chạy trên quần áo giống như dân Hippy bên Mỹ hay quần ống rộng kiểu Patte ( hơi bó sát đùi và loe dần xuống dưới chân) , Cigar Patte ( từ trên xuống dưới hơi phẳng trông như điếu cigar )của Pháp. Thời trang này nam nữ mặc giống nhau , nhưng ở các “mợ” vì thân hình 3 vòng đẫy đà và mũm mĩm nên mặc đẹp hơn ,gợi cảm hơn mấy “cậu” nhiều. Thời ấy đa số mấy “cậu” không hiểu ăn uống ra sao mà đa số ốm nhom ốm nhách. Mặc cái quần bó sát và ống lại rộng nhìn vào thấy “thảm” quá . Đã vậy lại còn mặc áo chemise bó sát người với hai lằn chỉ sau lưng dọc theo hai bên sườn . Nhưng đã là dân chơi thì sợ gì mưa rơi.
Áo chemise nam thì lúc có cầu vai , và có hai túi trên ngực. Quần thì có khi có túi sau và có thêm cái nắp đậy, có khi túi quần nằm xeo xéo giống như túi quần jean. Về sau này có model mặc quần cigar patte với hai ống quần được may gấp ra bên ngoài một gấu quần nổi. Quần này nam nữ đều mặc giống nhau vào cuối năm 74. Tôi còn nhớ một kỷ niệm về ông anh. Cuối năm 74 ông có bồ và đã được hai gia đình chấp thuận sẽ làm đám cưới sau khi ông tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ra. Ông đi may một bộ đồ thật model vừa mới ra lò . Đó là cái áo chemise ca rô màu xanh biển bằng loại vải Cheviot ( loại vải này có pha thêm sợi Nylon mặc rất mát do Việt Nam vừa mới sản xuất và được giới trẻ rất ủng hô. Cái quần cigar patte màu đen với hai gấu quần may nổi ra ngoài ,có hai cái túi sau và có “nắp đậy” đàng hoàng. Ông sắm luôn đôi giày da cũng vừa mới là model mới nhất,nó giống đôi chabo nhưng mũi giày gồ lên như mõm con chó Bull của Mỹ vậy.
Ông ưng ý với bộ đồ vía thật thời trang này của ông lắm. Nên ông mới chỉ mặc một lần đi chơi với người yêu của ông vào cái Tết 75 xong là ông khăn gói lên đường vào trường Võ Bị. Quần áo của tôi thì cũng nhiều ,nhưng hôm bữa tình cờ mở tủ quần áo của ông anh và khám phá ra ông anh “điệu hạnh” của mình có một bộ đồ model mới vừa ra lò mà tôi cũng rất thích. Cùng với đôi giày mới tinh ông xếp gọn gàng phía dưới tủ. Một bữa tôi có hẹn với cô bạn gái cùng đám bạn tính rủ nhau ra Sài Gòn đi dạo phố ngày Thứ Bảy cho thỏa thích. Tôi bèn mượn tạm của ông anh bộ đồ vía này để giựt le với đám bạn bè. Buổi đi chơi thật vui và trọn vẹn nếu chiều Thứ Bảy không đổ cơn mưa thật lớn. Tụi tôi ướt như chuột lột và sau đó đành tan hàng .
Về nhà tôi ngâm bộ đồ ướt và tính giặt sạch sẽ rồi ủi thẳng thớm để trả cho ông anh . Ai dè chưa kịp giặt thì ổng ở đâu lù lù về phép . Chuyện này quá bất ngờ mà tôi xui xẻo không ngờ tới. Nhìn bộ quần áo ngâm trong chậu là ông anh đã hiểu ra thằng em cũng điệu hạnh và xí xọn của mình đã làm gì với nó. Quay qua nhìn đôi giày mới tinh ướt sũng nước đang phơi ở góc phòng là ông lắc đầu ngao ngán. Nhìn mặt ông hình sự lắm ,ông kêu tôi lại và ký cho hai cái lên đầu rồi vò đầu bức tóc lẩm bẩm : Mai Chúa Nhật tao lấy đâu ra bộ quần áo đẹp để đi với người yêu tao hở mi?. Thấy tình hình có vẻ căng thẳng quá nên tôi len lén chuồn lên phòng cho khỏe. Hú vía !.
Đó là nói về quần áo . Còn nói về giầy dép thì ôi thôi đủ kiểu. Vào năm 70 khi cái mốt mặc mini jupe mới ra lò được các cô các dì các chị hưởng ứng nồng nhiệt. Cái jupe ngắn cũn cỡn táo bạo này chỉ dài tới ngang đùi . Đã một thời làm cho các bác các chú các anh ngẩn ngơ trông theo , và suýt đụng đít xe đằng trước hay cột đèn trước mặt vì cứ ngoái nhìn cô kia mặc Mini Jupe đi xe Honda vừa mới chạy ngang qua. Bộ đồ sexy làm quý ông lóa mắt một thời này mà đi guốc cao gót nhọn hoắt hay đôi giày chabo sau này thì hết sẩy con bà bẩy. Nói tới cái guốc cao gót thì ông nào ông nấy rùng mình , lỡ làm mấy “mợ” nổi giận tặng cho một cái gót nhọn hoắt lên đầu là đi nhà thương liền . Sợ lắm !. Cuối năm 74 khi cái đôi giầy chabo dành cho phái nữ mới ra đời với đủ màu sắc vào có cái gót cao 10 phân được các “mợ” đón chào nồng nhiệt. Sau đó là các đôi chabo của quý ông cũng ra đời ,nhưng không lòe loẹt như các mợ và chỉ có hai màu đen và màu vàng da bò,. Dĩ nhiên là gót giầy cũng chỉ cao 0,5 phân thôi vì phần đông các quý ông cao ráo chứ không thấp bé!.
Cuối năm 74 có một mốt quần áo mới ra lò và cũng được giới trẻ nam nữ đón nhận. Đó là chiếc áo không cổ ,dài tay và có xẻ hai bên sườn được may bằng vải sô như vải mùng. Nó rất nhẹ và mặc mát mà lại đẹp nữa. Chỉ có một màu trắng duy nhất. Mặc nó với cái quần cigar patte may bằng vải jean thì tuyệt vời. Không hiểu sao trước 75 giới trẻ lại không chuộng quần jean cho lắm . Hay là nghĩ rằng loại quần jean này chỉ dành cho giới chăn bò bên Texas ở nước Mỹ nên không thích chăng?. Đó là model cuối cùng trước khi Sài Gòn bị đứt phim vào ngày 30-4-75.
Trong những hình ảnh được lưu lại của Sài Gòn năm xưa, hình ảnh một thiếu nữ mặc áo dài trắng đi chiếc Velosolex màu đen chạy trên đường phố, có lẽ là hình ảnh đem lại cho tôi nhiều kỷ niệm nhất, nhắc nhở lại một quãng thời gian dài đã xa, mà chính mình cũng đã gắn bó với chiếc xe này.
Tưởng cũng nên có đôi dòng về chiếc Solex của thời Sài Gòn những năm 1960′ s. Ði Solex là cả một nghệ thuật, đòi hỏi sự khéo léo vì phía đầu xe rất nặng. Ấy thế mà những cô gái Sài Gòn vẫn tha thướt trên chiếc Solex trước những cặp mắt mê mẩn của cánh đàn ông.
Vào những năm đầu thập niên 60′ s, hình ảnh những nữ sinh ngồi trên chiếc xe Solex đen bóng có lẽ vẫn luôn là những ấn tượng không thể nào quên của một thế hệ thanh niên thời đó. Solex cũng là biểu hiện của sự sang trọng vì nữ sinh có xe Solex thường thuộc con nhà khá giả. Nói chung, Solex là sự duyên dáng, phô trương kín đáo của người phụ nữ Việt Nam với chiếc áo dài mà vạt sau được gài trên yên xe, không che kín toàn vẹn
Người đẹp & Velo Solex ( ngày nay)Nữ sinh Sài Gòn với chiếc Velo Solex bên phải và chiếc Mobylette bên tráiSolex trên đường phố Sài GònÁo dài, nón lá trên chiếc SolexMột thời VelosolexMột thời Velosolex – Sài gòn 1961Những nhà buôn xe moped thời đó đã tập trung khai thác vào phụ nữ…Ngay từ năm 1956, VeloSoleX đã được phụ nữ sử dụng.
Sản phẩm Velosolex do hai nhà sản xuất Pháp là Maurice Goudard và Marcel Mennesson cho ra đời tại Paris năm 1946, sau khi Thế Chiến Thứ II chấm dứt. Velosolex đơn giản là một chiếc xe đạp với một động cơ treo trên tay lái. Ðộng cơ có một khối kim loại cứng, hình ống, nhám để cọ xát vào lốp bánh xe trước để đẩy bánh xe đi, do vậy bánh xe trước phải luôn luôn bơm hơi căng cứng. Người sử dụng khởi động bằng cách đạp xe cho có trớn vài mét, xong đẩy bộ máy rời “ghi đông” để khối kim loại tròn ép sát với bánh xe.
Xe chỉ chạy với tốc độ từ 15 mph đến 20 mph, và cũng tùy thuộc mặt đường. Xe không thể lên dốc, người sử dụng phải đạp phụ. Mỗi lần trời mưa, bánh xe bám bùn đất, Velosolex trở nên trơn trượt, rất khó khởi động, mặt khác, ổ gắn bu-gi của xe phơi ra ngoài, gặp trời mưa bị ẩm cũng khó nổ máy, do đó Velosolex chỉ dễ sử dụng trên những con đường khô ráo, bằng phẳng.
Bộ máy xe cho phép người lái treo lên tay lái, để bỏ động cơ và đạp Velo giống như bất kỳ chiếc xe đạp nào khác, trong trường hợp xe hết xăng hay máy trục trặc không nổ.
Khi một chiếc Velosolex hết thời, máy móc rệu rã, nó sẵn sàng vứt bỏ cái đầu máy thường ngày vẫn treo trước “ghi-đông” để gia nhập với hàng ngũ xe đạp “bình dân”.
Velosolex dầu sao cũng vang bóng một thời, ra đời từ năm 1946 và chính thức giã từ thế giới, tạm ngừng sản xuất tại Pháp vào năm 1988, chuyển qua Tàu và Hungary nhưng rồi cũng đi vào quá khứ, sau khi đã bán được hơn 7 triệu chiếc.
Chiếc xe Velosolex đầu tiên tôi có, mua năm 1960, sau khi ra đời, đi dạy học vài năm và chuẩn bị lập gia đình, tại một đại lý ở Huế, xe được chở từ Sài Gòn ra. Ở Việt Nam trong thời đó thì những ai có tiền, lương cao mới có thể mua Lambretta hay Vespa, còn khả năng chỉ có khá hơn xe đạp một bậc, thì sử dụng chiếc Velosolex. Thời giá của chiếc xe này vào năm 1960 là $8,500 trong khi lương độc thân của một công chức hạng trung khoảng $6,000. Ở Huế những lúc trời mưa to gió lớn, với những con đường bùn đất, đi xe Velosolex thật ra chẳng sung sướng gì, mà đôi khi còn là một cực hình khi bắt đầu khởi động cho máy nổ.
Khác hẳn với các thành phố lớn như Sài Gòn, Ðà Nẵng, đối với các tỉnh thuộc địa đầu giới tuyến sau khi chia cắt đất nước, hình ảnh chiếc Velosolex vẫn còn là cái gì rất mới lạ, nên khi bạn cỡi xe vào đường làng, phun khói trắng, có thể có những đứa trẻ tò mò chạy theo xem chiếc xe lạ lùng này.
Ba năm sau, nhận tờ giấy động viên trong tay, chiếc Velosolex chung nỗi buồn vui trong ba năm tròn phải từ giã tôi ra đi, để giúp chủ trang trải một số nợ nần.
Năm 1964, sau khi ở quân trường ra, được bổ nhiệm về một đơn vị ở Sài Gòn, thuê nhà ở khu Bình Hòa, trên chuyến xe buýt khởi hành từ rạp hát Thanh Vân-Gia Ðịnh đến Sở Thú – Sài Gòn mỗi ngày, bây giờ lại có thêm một ông chuẩn úy với bộ quân phục làm việc kaki vàng số 2, đội nón “casquette” mới tinh đi về. Ông thiếu tá chỉ huy đơn vị thương tình anh chuẩn úy mới ra trường, phải leo xe buýt mỗi ngày, nên cho mượn tiền, để lại mua một chiếc Velosolex! Chỉ trong vòng bốn năm, vật giá leo thang, năm 1964, cũng chiếc xe ấy đã tăng giá khoảng 30%. Chiếc xe Velo thứ hai này cuối cùng bị đào thải trước đợt xe Honda Dame cũ, đồ thải của Nhật, được nhập vào Việt Nam, ưu tiên cho lính tráng dưới thời ông Không Quân Trần Ðỗ Cung làm tổng cục tiếp tế.
Có thể nói Velosolex thuộc loại xe bình dân, không bì được với các ông bạn người Ðức mạnh mẽ như Goebel, Sachs, hay hai ông bạn người Ý hào hoa và sang trọng hơn, có mặt đồng thời là Lambretta và Vespa. Lambretta được phổ biến đi khắp thế giới qua Pháp, Ðức, Tây Ban Nha, Ấn Ðộ, Ðài Loan, Brazil, Columbia… và có tuổi thọ khá dài. Vespa trông thanh lịch và dễ thương hơn, nên trong bốn năm từ 1947 đến 1950, hãng Piaggio đã bán được hơn 90 nghìn chiếc, nhưng phải chờ khi Audrey Hepburn ôm eo Gregory Peck’s trên chiếc Vespa lạng lách trong thành phố Roma, trong phim Vacances Romaines (Roman Holiday,) ra đời năm 1953, thì chiếc Vespa đã trở thành nổi tiếng, bán hơn 100 nghìn chiếc ngay trong năm đó.
Dáng mảnh khảnh của những chiếc Velosolex màu đen thong dong trên đường phố với cô thiếu nữ mang đôi găng tay trắng, đội nón lá, để tà áo bay bay là hình ảnh dễ thương của Sài Gòn, của một thời sinh viên đẹp đẽ. Những năm về sau khi chiến tranh càng khốc liệt, các loại xe phân khối lớn ồ ạt nhập cảng vào càng nhiều, những xa lộ được mở ra, khi ai cũng mê tốc độ, Velosolex đành chấp nhận số phận bị bỏ lại đằng sau.
Bây giờ người ta đang muốn phục chế lại những chiếc Velosolex, Vespa của ngày xưa không phải để dùng trên đường phố mà như là một vật kỷ niệm ghi dấu một thời.
Cô thiếu nữ với chiếc Velosolex trên đường phố Sài Gòn trong bức ảnh này, được chụp vào năm 1961. Tôi đoán chừng tuổi cô ngày đó khoảng chừng 20 đến 25. Bây giờ đã trên nửa thế kỷ trôi qua, nếu còn đâu trên cõi đời này, cô đã ngoại tuổi thất tuần. Chiếc Velosolex ngày đó chắc không còn tồn tại, nó chỉ là một bóng mờ dĩ vãng như những gì chỉ hiện diện một thời, nhưng có thể còn lưu lại trong trí nhớ của chúng ta mãi mãi.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Một đời ta, ba đời nó” để nói rằng đời người dài nhưng những vật sở hữu thì dễ mất mát hay hư hao. Từ ấu thơ cho đến hôm nay, chúng ta đã dùng bao nhiêu chiếc xe, ở bao nhiêu ngôi nhà, dùng bao nhiêu đôi giày hay bộ quần áo. Nhưng cũng có đôi khi, ngôi nhà, con đường, tấm ảnh hay trang sách còn đó, nhưng “những người muôn năm cũ” đã không còn nữa!
Không thấy thi sĩ nào đem chiếc Velosolex vào thơ, tôi đành mượn đôi lời của nhạc sĩ Ngọc Lễ viết về xe đạp, để tạm thương nhớ một thời Velosolex:
Đầu năm 2015, toàn bộ các gian hàng tại Thương xá Tax sẽ được dẹp bỏ và bàn giao cho đơn vị thi công tòa tháp 40 tầng trên nền đất cũ.
Hình ảnh tòa nhà GMC những năm 1940
Thương xá Tax có một lịch sử lâu đời, từ những năm 80 của thế kỷ 19, là một phần của Sài Gòn xưa hoa lệ. Tòa nhà cùng với những công trình kiến trúc thời Pháp thuộc khác như Chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Thành phố, Nhà hát lớn thành phố… góp phần tạo nên một “Hòn ngọc Viễn Đông”, một “Ville de Sai Gon” tao nhã và sôi động bậc nhất Châu Á thời bấy giờ.
Thương xá Tax ngày ấy được mang tên Les Grands Magazins Charner (GMC) được xây dựng theo phong cách kiến trúc Pháp với những nét chấm phá mang đậm đường nét văn hóa Á Đông. Les Grands Magazins Charner tọa lạc tại vị trí đẹp nhất của trung tâm Sài Gòn, kinh doanh các mặt hàng bazar sang trọng được nhập khẩu chủ yếu từ Anh, Pháp và các nước phương tây nhằm phục vụ cho giới thượng lưu Sài thành và các đại điền chủ Lục tỉnh Nam kỳ vào thời kỳ đó.
Hình ảnh giai đoạn sau khi cải tạo mặt tiềnHình ảnh Thương xá Tax năm 2003
Cửa hàng bách hóa tổng hợp thành phố những năm 1981-1990
Đúng ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6/1978, một lần nữa Thương xá Tax được đổi tên thành Cửa hàng Phục vụ Thiếu nhi Thành phố, với đội ngũ mậu dịch viên khăn quàng đỏ, đánh dấu sự náo nhiệt trở lại của tòa nhà tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh sau một thời gian trầm lắng.
Hình ảnh thiếu nữ với khăn quàng đỏHình ảnh có Tháp đồng hồ cổ kínhHình ảnh tòa nhà Thương xá Tax vào những năm 60 của thế kỷ 20Khung cảnh nhộn nhịp, đông vui tại Thương xá Tax đón xuân Canh Dần năm 2010Hình ảnh Thương xá Tax những năm 1950
Nếu bạn là 8x hoặc đầu 9x mới thì bạn có thể đã từng chơi những trò chơi vô cùng thú vị này rồi. Thời gian trôi qua sẽ không trở lại, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể sống lại những ngày tháng xưa cũ với những trò chơi thủa ấu thơ.
Những bức ảnh gợi nhớ về tuổi thơ thiếu thốn nhưng không thiếu trò chơi.2-5 bé gái ngồi vòng tròn với 10 que tre nhỏ và một quả cà chơi trò đánh chuyền. Mỗi bé gái 7-8 tuổi thời đó đều thuộc làu bài ca Một mốt, một mai, con trai, con hến… Đôi tôi, đôi chị… Ba lá đa, ba lá đề…Hết bàn mười thì chuyền bằng hai tay, chuyền một vòng, hai vòng hoặc ba vòng và tiếp tục hát Đầu quạ, quá giang, sang sông, trồng cây, ăn quả, nhả hột…Trò chơi con quay của các bé trai.Trò đánh sỏi là niềm ưa thích của con gái mỗi giờ ra chơi.Bắn bi luôn là trò cuốn hút tất cả con trai khi còn thơ bé. Trò chơi giúp vận động, quan sát tốt với chiến lợi phẩm là những viên bi vừa bắn trúng của đối phương.Cánh diều tuổi thơ ngày xưa thường được làm từ khung tre, dán giấy vở học sinh, giấy bao xi măng và dính bằng cơm nguội.Những tàu lá cau già cỗi, rụng xuống đất được người dân quê dùng làm quạt mo và trở thành xe kéo của trẻ em thời bấy giờ.Các bạn nhỏ say mê với trò chơi cờ tướng bên vỉa hè.Tiếng cười vang lên giòn tan khi chơi bài.‘Tuổi thơ dữ dội’ của những đứa trẻ chơi bài quẹt nhọ nồi.Những cuốn truyện tranh dù cũ nát vẫn được các thế hệ truyền tay nhau đọc với sự say mê không hề giảm.Ném lon là trò chơi vận động hấp dẫn nhất một thời.Trò chơi ống thụt cò ke được con trai rất yêu thích nhưng lại là nỗi kinh hãi của con gái một thời. Đến mùa cò ke, đám trẻ lại rủ nhau đi hái từng chùm về làm đạn, cho vào ống tre rồi bắn. Cò ke vừa cứng, vừa có nhựa bắn vào rát bỏng tay, khiến con gái cứ nhìn thấy đám con trai cầm ống thụt cò ke là rủ nhau chạy trốn. Trò chơi thú vị nhưng nguy hiểm nay hầu như không còn.Những cây súng làm từ cuống của tàu lá chuối trong trò chơi trận giả luôn khiến trẻ em thời ấy say mê.Chơi bóng nước sau mỗi buổi chiều chăn trâu.Trẻ con thời trước, chỉ đợi đến khi có những cơn mưa rào là lại rủ nhau cởi trần, chạy khắp đường làng, ngõ xóm để tắm mưa.Trò nhảy dây vẫn xuất hiện trong mỗi giờ chơi của trẻ em thôn quê, miền núi.Trò pháo đất chỉ trẻ em vùng nông thôn mới hay chơi. Pháo được làm từ đất sét hoặc đất thịt lấy từ dưới ruộng lên, nặn thành khuôn xong rồi thi nhau cho nổ. Người chiến thắng là người có pháo nổ to, lỗ thủng rộng. Trước có nhiều hội thi pháo đất ở Thái Bình, Hải Dương.Thả diều bên lũy tre làng, trên những triền đêTết dây chun đầy sắc màu, các bạn gái thích mê, còn bạn trai thì chỉ dùng để làm súngRồng rắn lên mâyNhảy dây chunTrên quê mình gọi là “nhấu tìm”, còn mọi người gọi là trò gì nhỉ?Nếu bạn đã từng có một chiếc mặt nạ như thế này, thì tuổi thơ của bạn thật đáng nhớXăm hình cực “hổ báo” là đây, bạn đã từng thử?!Trò chơi ghép hình kinh điển, quá 50% đã từng…tháo ra để ráp cho nhanhĐồng hồ lá chuối kinh điển chưa?!
Trong album này, có thứ gì mà bạn không biết không?
Nếu biết hết tất cả mọi thứ trong album này ắt hẳn bạn đã có một tuổi thơ đội trời đạp đất đó nha :3
HinhanhVietNam.com đã từng giới thiệu các loại xe máy Sài Gòn trước năm 1975 và xe ba gác cổ. Nay xin mời bạn xem ký ức về xe lam – Một phần không thể thiếu khi nhớ về Sài Gòn xưa!
Xe lam bắt nguồn từ tên gọi của dòng sản phẩm Lambretta của Italia, là một phương tiện giao thông công cộng phổ biến ở Việt Nam từ rất lâu, dành cho người lao động bình dân.
Đây là một loại xe khách hay xe chở hàng có cấu trúc tương tự như xe tuktuk , hiện vẫn là phương tiện giao thông phổ biến tại một số nước trên thế giới như Sudan, Bangladesh, Ấn Độ, Thái Lan…
Xe Lam Sài Gòn xưa
Xe lam là loại xe thùng nhỏ có 3 bánh xe, gồm một cabin cho tài xế ngồi lái phía trước và một thùng xe để chở khách hay chở hàng phía sau. Tên gọi này có nguồn gốc từ các dòng xe 3 bánh Lambretta FD (dung tích xy lanh 123 và 150 cc), FLI (175 cc) và sau đó là Lambro 200, 550 (đều 198 cc) của hãng Innocenti, Italy. Các dòng xe này lần lượt được nhập vào miền Nam Việt Nam từ đầu thập niên 1960 để thay thế xe ngựa thồ vẫn còn được lưu hành vào khoảng thời gian đó.
Các xe này được nhập ở dạng không đóng thùng, và tuỳ công năng chở người hay chở hàng sẽ được đóng thùng sau khi nhập. Bên cạnh đó, một số xe có kiểu dáng tương tự nhưng của các hãng khác (như Vespa…), ít gặp hơn, cũng được gọi là xe lam. Trong số gần 35.000 chiếc Lambro 550 xuất xưởng thì có 17.000 chiếc được xuất sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam.
Giá một chiếc xe lam vào thập niên 60 khoảng 30 cây vàng nhưng đem lại nhiều lợi nhuận cho người chủ xe (theo lời 1 chủ xe: “Chạy một ngày, ăn cả tháng chưa hết”). Đặc biệt, sau khi thống nhất năm 1975, các phương tiện cơ giới khác bị thiếu xăng hoặc thiếu phụ tùng thay thế không sử dụng được, thì xe lam được dùng làm phương tiện phổ biến rẻ tiền và bước vào thời vàng son.
Lúc đó, chỉ riêng thị xã Biên Hòa, có 6 hợp tác xã xe lam với khoảng 1.000 đầu xe đăng ký chở khách chính thức, với hàng triệu lượt khách mỗi năm, vì vậy mà có thời Biên Hòa được ví như là “thủ phủ xe lam”. Sau này, xe được đem ra và phổ biến cả ở miền Bắc Việt Nam, cho đến thế kỷ 21.
Tại Việt Nam, từ năm 2004, sau khi Nghị định 23/2004/NĐ-CP ban hành (Nghị định quy định về niên hạn sử dụng đối với các loại ô tô tải và ô tô chở người tham gia giao thông trên hệ thống đường bộ), xe lam bị hạn chế và từ từ bị cấm hẳn. Xe lam cũng được nói đến trong âm nhạc, như bài Chuyến xe lam chiều của Vinh Sử, có câu:
… Trên chuyến xe lam đông người chiều nay
Nghe từng cô đơn nỗi niềm chua cay
Còn đâu một chuyến xe lam
Ngày nao mộng ước vô vàn
Nay kỷ niệm em một mình mang
Mời các bạn xem loạt ảnh về cuộc sống trên chuyến tàu Sài Gòn – Nha Trang thời chiến tranh của nhiếp ảnh gia Werner Bischof.
Một bé gái ngồi chấp chới ở cửa sổ một toa tàu.Do thiếu không gian, nhiều người phải mắc võng để có chỗ ngả lưng trong cuộc hành trình dài.Phút trầm tư của một thanh niên trẻ tuổiCó khoang chật chội, khách đi tàu phải ngồi ngay trên thành cửa sổ.Người đứng, người ngồi, kẻ nằm võng trên toa tàu chật chội.Cảnh chen chúc ở toa hạng bình dânMột chuyến tàu khởi hành khỏi nhà gaNhân viên trên tàu bê nồi thức ăn chạy trên nóc tàu một cách nhẹ nhàngMột cậu bé đang chuẩn bị bữa trưa cho chuyến hành trình dàiBữa trưa đơn giản được nấu ngay trên tàu.Những người dân sống ven đường tàu tranh thủ bán đồ cho hành khách khi tàu dừng bánh.Bên trong buồng lái tàuPhút xả hơi nhân lúc tàu chưa chạyCảnh tấp nập ở nhà gaVận chuyển đồ lên tàuNhiều đứa trẻ bồng bế nhau theo người lớn lên chuyến tàu đông đúcMột phụ nữ “đánh đu” trên cửa sổ tàu hỏaCảnh mắc võng trên chuyến tàu Sài Gòn – Nha Trang năm 1952. Toa hạng 4
Werner Bischof (1916-1954) là một nhiếp ảnh gia và nhà báo người Thụy Sĩ. Ông chào đời tại Zurich, Thụy Sĩ sau đó theo gia đình chuyển đến Waldshut, Đức năm lên 6 tuổi. Vào năm 1932, Bischof từ bỏ ngành học đào tạo giáo viên để chuyển tới trường đào tạo nghệ thuật Kunstgewerbeschule ở Zurich, nơi ông tốt nghiệp loại ưu vào năm 1936.
Từ năm 1939, Bischof làm việc như một nhiếp ảnh gia độc lập cho nhiều tờ tạp chí. Trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến 1949, ông đã đi tới hầuhết các quốc gia châu Âu, từ Pháp tới Rumani, từ Na Uy đến Hy Lạp. Nhiếp ảnh gia người Thụy Sĩ này cũng là một trong số những thành viên sáng lập tờ tạp chí ảnh Magnum nổi tiếng.
Năm 1951, ông tới Ấn Độ làm việc cho tạp chí Life, rồi tới Nhật Bản và Hàn Quốc. Cũng trong khoảng thời gian này, ông trở thành phóng viên chiến tranh ở Việt Nam, cộng tác với tạp chí Paris Match. Trong khoảng thời gian ở Việt Nam, Bischof đã ghi lại nhiều tư liệu vô cùng quý giá, đặc biệt là bộ ảnh về cuộc sống sinh hoạt trên một chuyến tàu Sài Gòn – Nha Trang năm 1952.
Werner Bischof qua đời vào năm 1954, khi ông chiếc xe ô tô chở ông lao xuống một vách đá khiến cả 3 người trên xe thiệt mạng. Dù cuộc đời ngắn ngủi, nhưng những bức ảnh tư liệu mà phóng viên, nhiếp ảnh gia tài năng này để lại đã trở thành kho tài sản vô cùng quý giá của nhân loại.
Tự hào với siêu thị đầu tiên của Việt Nam ở Sài Gòn !
Siêu thị Nguyễn Du, khu siêu thị đầu tiên ở Sài Gòn và có thể nói là toàn cõi VN mở cửa năm 1967, mang đến cho nhiều gia đình công tư chức ở Sài Gòn những tiện lợi trong chuyện mua sắm mà trước đó không hề có.
Diễn viên điện ảnh Kiều Chinh đến mua hàng tại siêu thị Nguyễn Du trước 1975
Một dịp sát tết, tôi được đến siêu thị với anh trai, thấy nó giống một cửa hàng cực lớn, máy lạnh mát rượi và đầy những thứ lạ lẫm. Khách mua hàng toàn những người lớn ăn bận lịch sự, nam với áo chemise bỏ vào quần, những người lính và nhiều phụ nữ bận áo dài. Do xe đẩy không có nhiều như bây giờ, khách mua hàng toát mồ hôi sắp hàng tính tiền, tay lủ khủ hàng hóa trong những cái túi lưới.
Siêu thị Nguyễn Du được thiết lập ở góc đường Nguyễn Du và Chu Mạnh Trinh, Sài Gòn (hai con đường này nay thuộc quận 1, tên đường không thay đổi cho đến nay) do Tổng cuộc Tiếp tế thành lập. Theo một số tài liệu, năm 1966, ông Trần Đỗ Cung, đứng đầu cơ quan trên được giao nhiệm vụ quân bình thị trường. Ngoài việc cấp bách như giải quyết những việc cần thiết cho đời sống người dân như nhập xe gắn máy, điều hòa việc phân phối thịt heo, gạo, ông dự tính thiết lập tại VN các trung tâm bán lẻ để phục vụ đại chúng, nhất là những người có đồng lương ổn định.
Đầu tháng 2.1967, một phái đoàn do ông Cung cử ra đã đến thăm chợ Mỹ (Commissary) ở đường Hùng Vương, Chợ Lớn để quan sát hoạt động cùng cách tổ chức của cơ sở này. Sau đó một tuần, ông Trần Đỗ Cung cùng một chuyên viên tài chính lên đường đi Philippines theo lời mời của Tập đoàn siêu thị Makati ở thủ đô Manila để nghiên cứu về quản lý, kiểm soát, tổ chức và sản xuất thực phẩm. Họ còn tiếp tục đến Hồng Kông, Singapore để tham quan các siêu thị. Sau đó, tổ chức đào tạo về cách vận hành siêu thị cho nhân viên và tổ chức một khu chợ tết vào tháng 1.1967, vừa để phục vụ việc mua sắm tết vừa tổ chức buôn bán theo hình thức mới để huấn luyện nhân viên của mình.
Theo hồi ký của ông Trần Đỗ Cung xuất bản tại Mỹ năm 2011, một kiến trúc sư người Đức tên Meier đã được thuê vẽ họa đồ xây cất siêu thị, phối hợp với Công ty NCR về trang bị, thiết bị bên trong. Ngày 16.10.1967, siêu thị đầu tiên ở VN chính thức ra đời, mở đầu một kỷ nguyên mới cho ngành bán lẻ. Từ cửa vào, khách đi tay không vô siêu thị bằng một cửa quay, tự lấy một giỏ xách hay xe đẩy và đi lựa chọn hàng đã ghi sẵn giá trên kệ. Chọn xong, họ tính tiền ở các quầy thu ngân có máy tính tự động. Siêu thị này có 6 quầy thu ngân ở cửa ra, trong đó có một “quầy hỏa tốc” dành cho những người mua ít hàng. Còn có một lối ra cho người không mua hàng. Cách thức không khác gì siêu thị ngày nay, nhưng khi nó được áp dụng cách nay gần 50 năm thì là một sự ngạc nhiên và kỳ thú đối với khách mua hàng Sài Gòn. Trong hồi ký, tác giả tả không khí lúc đó: “Siêu thị đã hoàn tất trên đường Nguyễn Du, có bãi đậu xe rộng rãi. Ngày khai trương cả đoàn xe Honda, Mobylette và Vespa rầm rập kéo đến chở vợ con hí hửng bước vào ngôi chợ tối tân mới mở cửa, phục dịch khách mua hàng một cách niềm nở và lịch sự”.
Sau khi khai trương hơn một tháng, siêu thị Nguyễn Du tổ chức một sự kiện đánh dấu sự thành công của mình. Khi người khách thứ 100.000 đến đây và đặt tay vào cửa quay, loa phóng thanh phát to: “Hoan nghênh công dân siêu thị thứ 100.000, là anh Lê Văn Sâm…”. Anh được choàng băng kỷ niệm và được ông quản đốc trao tặng giải thưởng trị giá 10.000 đồng.
Siêu thị Nguyễn Du nằm trên diện tích 30.000 m2, ở một khu phố còn vắng vẻ không phù hợp cho việc buôn bán lắm nhưng khi siêu thị được lập ra, số khách hàng lui tới được đánh giá là “ngoài mức tưởng tượng”. Trung bình mỗi ngày có khoảng 2.500 người đến mua sắm và doanh thu mỗi ngày tối đa là 1,5 triệu đồng thời đó.
Trước khi siêu thị được thành lập, trong giới doanh thương Sài Gòn, tuy rất nhanh nhạy với cái mới đã có nhiều ý kiến cho rằng đây là việc làm “không tưởng”. Tuy nhiên, Tổng cuộc Tiếp tế với ý định sẽ thiết lập các chuỗi dây chuyền siêu thị tư nhân đã không chùn bước. Sau khi siêu thị này hình thành ít lâu, họ nhận được nhiều thư tán thưởng và nhiều tư nhân tấp nập gửi đơn đến đề nghị cộng tác thiết lập siêu thị tư nhân dưới hình thức này hay hình thức khác. Đến tháng 12, đã có hai siêu thị tư nhân cỡ nhỏ là An Đông và Đoàn Thị Điểm mở ra. Cái thứ ba ở Biên Hòa được trang bị để mở vào Tết Mậu Thân năm 1968.
Siêu thị này và những siêu thị nhỏ khác ở Sài Gòn và các vùng lân cận hoạt động đến 1975 thì chấm dứt. Sau đó là khoảng thời gian vắng bóng siêu thị cho đến gần 20 năm sau mới xuất hiện trở lại (khoảng 1993). Đến nay nhiều người vẫn cho rằng, siêu thị ở VN bắt đầu quá muộn mà không biết nó đã hình thành từ gần nửa thế kỷ nay và đã được tổ chức hoạt động rất tốt không khác gì các siêu thị bây giờ.
Đi trước cả Bangkok
Sau khi siêu thị Nguyễn Du được thành lập không lâu, ông Cung được SMI (Viện Siêu thị – Super Marketing Institute) mời qua Bangkok (Thái Lan) gặp các nhà buôn Thái để trình bày kinh nghiệm khi hình thành siêu thị đầu tiên này. Như vậy, dù đang trong hoàn cảnh chiến tranh, Sài Gòn đã đi trước Bangkok, một thành phố lớn sống trong hòa bình về việc buôn bán lẻ qua hệ thống siêu thị.
(Trích từ Sài Gòn – Chuyện đời của phố phần 2 do NXB Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM và Phương Nam Book ấn hành)
Xe kéo là một phương tiện di chuyển rất hợp thời trang vào lúc xưa. Xin đọc bài viết về lịch sử của chiếc xe kéo để nắm thêm chi tiết.
Phu kéo xe ở Hà NộiPhu kéo xe ở Hà NộiPhu kéo xe ở SaigonPhu kéo xe ở Hà NộiPhu kéo xe ở Hà NộiPhu kéo xe ở Hà NộiPhu kéo xe ở Hà NộiĐội xe kéo ngày xưaXe kéo ngày xưaXe kéo ngày xưaPhu Xe kéo Sài Gòn xưaXe kéo Sài Gòn xưaXe kéo Sài Gòn xưaXe kéo tại Lạch Tray
Những người đàn bà làm phu kiệu
Những người đàn bà làm phu kiệu Đồ SơnNhững người đàn bà làm phu kiệu Đồ SơnNhững người đàn bà làm phu kiệu Đồ SơnNhững người đàn bà làm phu kiệu Đồ SơnPhu kiệu ngồi nghỉ
Khi chiếm Sài Gòn, người Pháp đã sáng tác ra logo này. Hình ảnh hai con cọp trong logo thể hiện đây là vùng đất hoang sơ. Nhưng dòng chữ Latinh Paulatim Crescam có nghĩa là : “Cứ từ từ, tôi sẽ phát triển”. Hình ảnh con tàu hơi nước ở giữa logo cho biết đây là vùng đất nhiều kênh rạch. Phía trên có vương miện 5 cánh như thông báo Sài Gòn sẽ giao thương với năm châu bốn biển. Logo Sài Gòn 1870 thể hiện cách nhìn hoang sơ và triển vọng Sài Gòn của người Pháp. Hiện nay, TP.HCM dù đã tổ chức các cuộc thi những vẫn chưa tìm được một logo chính thức cho thành phố hôm nay.