Category: Thể chế – Chính trị

  • Tại sao Hà Nội là thủ đô của Việt Nam thay vì Sài Gòn?

    Tại sao Hà Nội là thủ đô của Việt Nam thay vì Sài Gòn?

    Vì lý do chính trị, Hà Nội đủ yếu tố để trở thành thủ đô Việt Nam:

    – Có khoảng cách an toàn tối thiểu 120km từ Hà Nội tới bất kỳ biên giới trên bộ hoặc trên biển nào. Trong thời chiến, địch phải đi một quãng đường dài để tiến vào nội địa => an toàn hơn.

    – Trong thời bình, Hà Nội có địa hình bằng phẳng và có đường cao tốc kết nối tới các tỉnh khác trong cả nước => trở thành bộ não cho cả nước.

    Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố duy nhất có thể cạnh tranh với thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, thành phố này chỉ cách bờ biển vài km, dễ trở thành mục tiêu của tàu chiến. Bên cạnh đó, nước biển dâng khiến thành phố bị ngập nhiều lần trong năm. Kinh tế là thứ duy nhất Thành phố Hồ Chí Minh hơn Hà Nội, nhưng kinh tế không phải yếu tố quan trọng nhất để làm thủ đô.

    Huế có nhiều vấn đề về thời tiết và đất đai dẫn tới cuộc sống không thoải mái. Để cân bằng, vua Gia Long đã dời đô từ Hà Nội về đây.

    Hà Nội trở thành thủ đô của đất nước từ năm 1954. Nếu không có lý do xứng đáng, không nên dời đô tới bất kỳ nơi nào khác.

    Đây là bản đồ bố trí các quân khu của Việt Nam.
    Đây là bản đồ bố trí các quân khu của Việt Nam.

    Trong trường hợp bị xâm lược, kẻ địch cần đánh bại ít nhất 1 quân khu từ bất kỳ hướng nào trước khi đối diện Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Trong khi đó, toàn bộ chính phủ sẽ phải di tản nếu bị tàu sân bay tấn công. Một chỉ huy giỏi sẽ biết đâu là nơi phù hợp làm thủ đô trên phương diện quân sự.

    Bổ sung 1:

    Một số bình luận và câu trả lời nói rằng Hà Nội được chọn đơn giản vì miền Bắc thắng cuộc chiến năm 1975, hay Hà Nội gần Trung Quốc hơn Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi không nghĩ thế vì:

    – Hà Nội được chọn làm thủ đô từ năm 1945, khi chính phủ Trung Quốc ngày nay chưa thành lập, thậm chí Trung Hoa Cộng sản Đảng có thể bị đánh bại bởi Quốc dân Đảng Trung Hoa.

    – Từ góc nhìn của một người Á đông, một quốc gia gắn liền với một chủng tộc. Việt Cộng, lực lượng cộng sản tại miền Nam Việt Nam, chủ yếu là người miền Nam. Trong khi đó, cộng đồng người Công giáo chống cộng mạnh mẽ nhất lại chủ yếu là người miền Bắc.

    Bổ sung 2:

    Tôi đặt ra một câu hỏi để phản biện: Tại sao Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) nên là thủ đô của Việt Nam?

    Hi vọng mọi người đưa ra nhiều ưu điểm để Sài Gòn có thể trở thành thủ đô.

    Nguồn: Quora Việt Nam

  • Chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam

    Chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam

    Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc

    1. Dân tộc không phải là một thực tại tự nhiên mà là một thực tại lịch sử. Trước khi có những tập hợp xã hội gọi là dân tộc, đã có rất nhiều tập hợp xã hội khác: gia tộc, công xã, bộ tộc, bộ lạc, lãnh chúa, nhà nước-đô thị, vương quốc, giáo triều v.v… Đến một lúc nào đó dân tộc mới xuất hiện và nó phải tổ hợp được những điều kiện căn bản sau đây để xuất hiện: một lãnh thổ và cộng đồng người hợp nhất chấp nhận sự quản lý của một nhà nước thống nhất gọi được là nhà nước-dân tộc. Cũng có thể kể thêm vào đó các yếu tố ngôn ngữ, tôn giáo, chủng tộc, phong tục, truyền thống … nhưng những nhân tố ấy không phải là quyết định: không thiếu gì dân tộc tự định nghĩa như là sự hợp nhất của rất nhiều chủng tộc, ngôn ngữ, văn hoá khác nhau. Những yếu tố này chỉ có được tầm quan trọng khi nhà nước đã xây dựng xong: nhà nước sẽ sử dụng quyền lực của mình để quy định lãnh thổ và văn hoá, hiến chế… Để trở thành dân tộc theo nghĩa đó, xã hội phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định để lãnh thổ được mở rộng, những hoạt động kinh tế đã vượt qua khỏi được tình trạng tự cung tự cấp theo kiểu bộ lạc hay làng xã để giao lưu với những dân tộc khác. Là một thực tại lịch sử, sự tồn tại của dân tộc là không vĩnh viễn, nhưng ngày nay ý nghĩa của nó vẫn còn khá quan trọng trọng đối với đời sống con người.
    2. Chủ nghĩa dân tộc đã ra đời cùng với sự hình thành của các dân tộc, nó có tác dụng vĩnh viễn hoá các thực tại dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc là một ý thức hệ. Những cái tầm thường và bình thường của đời sống dân tộc đã được tô vẽ thành ra những cái kỳ bí, cao thượng, thần thánh. Các phương thức huyễn hoặc ấy ngày nay không có gì là bí mật: tuy khác nhau và nhiều vẻ, từ cổ xưa cho đến hiện đại, từ hoang đường thần bí cho đến “khoa học”, nhưng tất cả đều dựa trên thủ đoạn lấy một yếu tố nào đó hiện thực hoặc tưởng tượng rồi thổi phồng lên thành cái duy nhất tuyệt đối, bao trùm: thiên thư, khí thiêng sông núi, chủng tộc siêu đẳng, giai cấp tiên tiến, sứ mệnh Lịch sử, v.v…
    chủ nghĩa dân tộc việt nam
    chủ nghĩa dân tộc việt nam

    Sự huyền thoại hoá ấy có thể được tạo ra từ những truyền thuyết trong dân gian, từ những tham vọng lập thuyết của những nhà trí thức, nhưng tất cả những lý lẽ tản mác ấy đều đã được các giai tầng cầm quyền gom góp lại, phát triển thêm để biến thành một thứ ý thức hệ cầm quyền. Đối với một cộng đồng, huyền thoại có thể chỉ là những mơ ước làm cho sang trọng hơn những cái không có gì sang trọng, đối với những nhà trí thức đó có thể là những giả thuyết đưa ra sau một quá trình tìm tòi; nhưng dưới sự thao túng của các ý thức hệ cầm quyền thì các huyền thoại ấy đã được sử dụng theo một mục đích mang tính chất quyền lực: hợp nhất lòng người, tập hợp lực lượng để thống nhất dân tộc hoặc là để đương đầu với những dân tộc khác. Nhưng mặt khác cũng qua đó khẳng định sự độc tôn quyền lực của các nhà nước đối với xã hội: trong phạm vi một dân tộc, khái niệm nhà nước-dân tộc là một phạm trù quản lý, tổ chức, phát triển, nhưng cũng lại là một phạm trù thống trị. Dù dưới hình thức nào thì chủ nghĩa dân tộc bao giờ cũng là sự khuếch đại về sự tối thượng của những giá trị bản vị cục bộ, địa phương, đặc thù: chủ nghĩa dân tộc chính là sự huyễn hoặc hoá về các thực tại dân tộc.

    1. Theo những nhà nghiên cứu phương Tây thì dân tộc – cũng như chủ nghĩa dân tộc – chỉ có thể là sản phẩm của thời hiện đại, manh nha sau thời Trung cổ với sự tan rã của chế độ phong kiến, để phát triển mạnh mẽ sau cuộc cách mạng Pháp 1789. Theo quan niệm đó, sự hình thành của các dân tộc cũng đồng nghĩa với sự hình thành của giai cấp tư sản với nền kinh tế tư bản công nghiệp: các vương triều – mà sau này bị cách mạng đánh đổ – thật sự lại chính là những người đã góp phần thúc đẩy sự hình thành các dân tộc bằng những cuộc mở mang lãnh địa của mình. Được luồng tư tưởng của những nhà Khai sáng tiếp sức chủ nghĩa dân tộc đã tạo ra khí thế để thống nhất đất đai, ngôn ngữ, hành chính, luật pháp, văn hoá. Nhưng đến thế kỷ 19 về sau thì chủ nghĩa dân tộc ấy đã trở thành chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc: quyện chặt vào các ý thức hệ về chủng tộc, địa lý, tôn giáo… nó tạo ra lý luận về chiến tranh giành giật thuộc địa và thống trị các nước chưa phát triển.

    Như vậy phải chăng dân tộc và chủ nghĩa dân tộc đã bắt đầu từ phương Tây với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản? Và phải chăng ở các nước châu Phi, châu Á, nơi chủ nghĩa tư bản chưa phát triển thì cũng chưa có sự hình thành của các dân tộc và cái đi kèm theo nó là chủ nghĩa dân tộc? Ở đây đã có hai vấn đề khác nhau và đối với hai vấn đề này, những nhà nghiên cứu của chúng ta đã không có câu trả lời rõ rệt: không khẳng định hẳn rằng khi những nước châu Phi, châu Á chưa có chủ nghĩa tư bản thì cũng chưa có xu hướng hình thành các dân tộc, nhưng họ lại cho rằng chủ nghĩa dân tộc ở những vùng này chỉ xuất hiện vào thế kỷ 20 với phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân để giành độc lập theo chiều hướng hiện đại hoá.

    Vấn đề dân tộc và chủ nghĩa dân tộc ở ngoài nền văn minh phương Tây vì vậy vẫn còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Nhưng nhìn vào lịch sử những dân tộc châu Á, người ta thấy dân tộc đã hình thành ngay trong thời kỳ trước khi có chủ nghĩa tư bản phát triển: ở đây sự ra đời của một nhà nước thống nhất đã là yếu tố quyết định, chứ không phải chỉ là kinh tế hay lãnh thổ. Theo nghĩa này, dân tộc Trung quốc đã hình thành từ đời Tần Thuỷ Hoàng với chính sách “đại nhất thống”, một mặt be bờ ngặn chặn “rợ” phương Bắc đồng thời đi khai hoá bọn “man” ở phương Nam: chủ nghĩa dân tộc Trung quốc ngay từ đầu đã là chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Nhưng do lẽ là một dân tộc đã biến được văn hoá thành văn minh sớm, đặc biệt đã tạo ra chữ viết thống nhất cùng với ý thức hệ cầm quyền có giá trị phổ biến (Nho giáo) rất thuận lợi cho việc xây dựng nhà nước nên văn minh Trung Hoa đã trở thành mô hình để nhiều nước xung quanh tiếp nhận. Chính là từ nguồn vay mượn tự nguyện này mà nhà nước Nhật bản hình thành vào thế kỷ thứ 7 với sự ra đời của chế độ quân chủ tập quyền, mở đầu với dòng họ Xôga sau đó được tiếp nối với triều đại Taica.

    1. Trường hợp Việt Nam không giống với nước Nhật: nền văn minh Trung Hoa tràn sang Việt Nam không phải qua con đường giao tiếp bình đẳng mà là qua chính sách đồng hoá bằng bạo lực cực kỳ dai dẳng. Để khẳng định sự tồn tại của mình, Việt Nam đã phải chiến đấu không ngừng nghỉ trong suốt hai nghìn năm. Vấn đặt ra ở đây là trong tình hình ấy dân tộc Việt Nam đã hình thành từ lúc nào? Trong sách báo bàn luận về vấn đề này, các khái niệm liên hệ vẫn chưa được biện biệt rạch ròi để có thể trả lời cho chính xác.

    Nước là khái niệm được dùng nhiều nhất để chỉ thị dân tộc, theo ý nghĩa yêu dân tộc cũng là yêu nước. Nhưng phân tích thì thấy nước có rất nhiều nội dung: có thể là một thị tộc (clan), một tộc người (ethnie), một bộ lạc (tribu) hoặc một liên minh bộ lạc. Ngoài ra nước cũng có thể hiểu như một triều đại, như nước của nhà Nguyễn, nước của nhà Lê (nhớ nước đau lòng con quốc quốc). Rõ ràng cùng một chữ nước nhưng nội dung của chúng rất khác nhau: nước-bộ lạc, nước-thị tộc với người đứng đầu là tù trưởng không thể nào đồng nghĩa với nước của một triều đại lãnh đạo bởi một ông vua. Sự biện biệt như trên là rất cần thiết để vấn đề được xác định chặt chẽ hơn: một dân tộc hiểu theo nghĩa một nhà nước-dân tộc không thể nào hình thành được trong thời tiền sử, sơ sử. Triều đại vua Hùng không thể gọi được là một “quốc gia” – dù chỉ là “phôi thai”– và dân tộc Việt Nam chỉ có thể hình thành vào thời kỳ đã giành được độc lập với một nhà nước thống nhất. Vào lúc nào? Nếu thừa nhận định nghĩa về dân tộc đã nói từ dầu thì sẽ rất dễ dàng đồng ý với những ai cho rằng dân tộc Việt Nam đã chỉ hình thành sau năm 939, khi đất nước bước vào giai đoạn tự chủ. Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam cũng đã ra đời vào cái trục thời gian đó và đã mang tính chất rất đặc sắc của chế độ phong kiến Việt Nam.

    Chủ nghĩa dân tộc phong kiến

    1. Chủ nghĩa dân tộc phong kiến Việt Nam đã dồn hết lý lẽ để khẳng định sự độc lập của Việt Nam đối với Trung hoa: thần phục Trung hoa về mặt ngoại giao, văn hoá nhưng được tồn tại riêng biệt về mặt chủ quyền và lãnh thổ. Chúng ta thấy có hai động lực bên trong đã thúc đẩy thành thái độ ấy:
    2. a) Sự cảm nhận không rõ ràng nhưng cũng rất hiển nhiên về thực tại riêng biệt của Việt Nam đối với Trung hoa. Chính sách đô hộ và đồng hoá tuy có là làm biến chất hết sức nặng nề bản sắc của Việt Nam, nhưng bản sắc ấy vẫn được bảo tồn trong tiếng nói, phong tục, thờ cúng của dân gian, trong ký ức của cộng đồng, tất cả đã biểu hiện rất rõ rệt trong những truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc. Chính đây là sức mạnh ngầm bền bĩ đã tạo nên liên tục những làn sóng phản kháng, khởi nghĩa chống xâm lược rất quyết liệt, cuối cùng giành lại được chủ quyền.
    3. b) Việc giành quyền độc lập ấy hoàn toàn không có nghĩa là phục hồi lại được cái mô hình xã hội cũ trước khi bị đô hộ: quá khứ ấy đã chỉ còn là những mảnh rời, những hoài niệm. Một mô hình mới về xây dựng văn hiến do Trung Hoa mang lại trong thời đô hộ đã trở nên một thứ hình mẫu vừa thực tế vừa tiến bộ có thể căn cứ vào đó để xây dựng nhà nước.
    4. Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ mà các sử gia đến thế kỷ 15 mới đưa vào chính sử đã chứng tỏ rằng chủ nghĩa dân tộc Việt Nam chỉ hình thành rõ rệt khi chế độ phong kiến Việt Nam đã xây dựng xong. Tính chất hỗn hợp về văn hoá trong quá trình hình thành dân tộc khi Việt Nam quan hệ với Trung Hoa đã biểu hiện qua truyền thuyết ấy như sau:

    – Thuỷ tổ của Việt Nam là Trung Hoa: Đế Minh, cháu ba đời của Viêm đế Thần nông có hai người con. Một là Đế Lai, sau này trị vì phương Bắc. Một là Lộc Tục, lai với một người con gái phương Nam, được giao cho trị vì nước Xích quỷ ở phương Nam. Lộc Tục đã cướp Âu Cơ làm vợ – bà này vốn là vợ của Đế Lai trong một chuyến đi chơi phương Nam, – sau đó sinh ra trăm con trai, 50 theo Lôc Tục đi về phía biển, 50 theo Âu Cơ lên rừng. Hùng Vương, người con trưởng của 50 người theo mẹ, chính là vị vua đầu tiên của Việt Nam.  Ý nghĩa của mối quan hệ huyền thoại về huyết thống này là rất rõ rệt: người Việt Nam chính là anh em cùng cha khác mẹ với người Trung Hoa.

    – Bờ cõi Việt Nam mà truyền thuyết nói đến vừa bao gồm là toàn bộ xứ Bách Việt đã trở thành Trung Hoa: Tây giáp Ba Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam tiếp cận Hồ Tôn Tinh (Chiêm Thành) và đó chính là toàn bộ miền Giang Nam và Lãnh Nam của Trung quốc cho đến Hoành Sơn của ta.  Tuy vậy khi xác định cụ thể 15 bộ riêng biệt của Việt Nam thì lại rất mơ hồ, tên các “bộ” ấy không thống nhất và điều đáng chú ý lại không bao gồm được toàn thể những nước Bách Việt nói trên mà chỉ là “phạm vi của miền Bắc nước Việt Nam ngày nay cùng với một dải ở miền Nam tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc” . Sự lộn xộn về địa giới này của truyền thuyết –  cùng với huyền thoại về Đế Minh người cháu ba đời của Viêm đế Thần nông nói trên – chỉ cốt chứng minh cho luận điểm: tuy ta ở phía Nam nhưng nguồn gốc của ta vẫn là Trung Hoa, sự khác nhau chỉ là lãnh thổ.  Việt Nam là người đồng chủng lẫn đồng văn với Trung Hoa vì vậy không thể bị xem là Man di, mà phải được tồn tại một cách bình đẳng như một nước chư hầu.

    1. Ý nghĩa hàm hồ của truyền thuyết bị biến thành lịch sử ấy cũng đã biểu hiện trực tiếp và minh bạch trong các phát biểu của hết thế hệ này đến thế hệ khác những nhà Nho:

    – “Người có Bắc Nam, đạo kia không khác. Nhân nhân quân tử đau đau là không có. Nước An nam tuy xa ngoài Ngũ Lĩnh mà tiếng là nước thi thư, những bậc trí mưu tài thức đời nào cũng có” (NguyỄn Trãi)

    – “Nước Đại Việt ở phía Nam Ngũ Lĩnh, là trời đã phân chia giới hạn Nam Bắc. Thuỷ tổ của ta dòng dõi Thần Nông, thế 1à trời đã sinh ra chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương” (Ngô Sĩ Liên).

    – “Khắp dưới gầm trời, suốt cả cõi đất, nơi nào không phải con cháu, dòng dõi của Ngũ đế, Tam vương? Đất phân biệt nhưng dân không phân biệt; truy nguyên cõi gốc mà nói thì loài người cũng chỉ là một mà thôi (…) Vậy thì ở đau cũng chỉ là một tổ, ở đau cũng là một thầy” (TỰ ĐỨc).

    – “Sử chép: Dân Lạc Việt không có lễ phép giá thú thì việc khác cũng có thể biết được. Hơn nữa gần đây, một vài người Giao chỉ còn sót lại, số lượng không bằng một phần trăm dân số trong nước, lại rất đần độn không biết gì, họ như người thời thái cổ. Ngoài ra những người lanh lợi khôn ngoan thì đều là hỗn hoá chủng tộc với người Hán Trung Quốc” (Phan BỘi Châu).

    1. Tất cả những cái gọi là “văn hiến”, “thi thư” mà chế độ phong kiến xây dựng nên cho đất nước suốt một nghìn năm độc lập rút lại không có gì khác hơn là mong được làm Tàu về văn hoá. Một nhà nghiên cứu đã diễn đạt hiện tượng này như sau:

    “Lịch sử của ta là lịch sử chống xâm lược phương Bắc, nhưng khi giành được tự chủ thì phải tiếp thu tổ chức hành chánh có sẵn, lại không có mô hình tổ chức nhà nước, xã hội nào khác ngoài mô hình Trung quốc.Cứ nhìn quan chế luật lệ, cách học hành thi cử cho đến nghi lễ, thể thức giấy tờ của các triều đại, từ Lí, Trần cho đến đời Nguyễn(…) thì đủ rõ văn hoá Hán lớn đến mức nào. Ta chống Trung quốc về mặt nó là kẻ xâm lược, trong tâm lý xã hội dân ta có ghét “chú chiệc”, nhưng đối văn hoá Trung quốc thì vẫn coi là cao hơn, vẫn muốn học tập và mong ta sánh được với họ. Ta vẫn coi chữ Hán là chữ ta, thánh hiền Nho gia là chung cho tất cả.Nho giáo đã được các triều đại độc lập đưa lên địa vị chính thống, nó đi vào cuộc sống, đi vào tâm hồn, từ triều đình đến làng xã, đến gia tộc, gia đình, từ chính trị đến văn hoá. Ý thức hệ chính thống không chỉ tác động đến giai cấp thống trị mà đến toàn bộ xã hội. Cho nên, không nên bỏ qua thực tế là, trong suốt thời kỳ độc lập trước đây, lòng yêu nước, tự hào dân tộc không hướng vào chỗ đoạn tuyệt với, cự tuyệt với Nho giáo mà cố gắng tham gia bình đẳng với Trung quốc Tư văn, trước thánh hiền của Nho giáo” .

    1. Thật ra, trong lĩnh vực văn hoá, không phải là không có hiện tượng khai triển, bàn bạc thêm bớt khía cạnh này nọ để địa phương hoá cái đã tiếp nhận, nhưng những nguyên lý thì không bao giờ dám đụng đến. Ngoài việc phải đánh nhau chí tử để bảo vệ lãnh thổ, nếu có đụng chạm gì về mặt này thì cũng chỉ là những chuyện tiếu lâm kể ra với nhau để chọc quê “người anh em” phương Bắc cho vui thôi. Điều này đã biểu hiện khá ngộ nghĩnh trong nền văn chương “yêu nước” bình dân do các nho sĩ chưa thành đạt sáng tác: đem chữ nghĩa thánh hiền để chơi trò chơi đó. Khác hẳn với sự trịnh trọng của văn chương cung đình, thứ chữ nghĩa được sử dụng trong các truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn… đã được dẫn ra để biếm nhẽ về sự thua kém trí tuệ của các ông sứ hoặc những ông quan Tàu so với các ông trạng Việt Nam. Nhưng điều đó chẳng có thể là bằng cớ nghiêm chỉnh biện minh được cho thái độ tự nâng mình lên hàng đồng chủng lẫn đồng văn của Việt Nam với Trung Hoa: một cách rất tự nhiên, bất cứ người Việt Nam bình thường nào, những người không bị nhiễm thứ văn hoá cầm quyền của chế độ phong kiến, cũng hiểu rằng mình không phải thuộc dòng dõi Trung Hoa và nếu văn hiến của Việt Nam là nương theo mô hình Trung hoa thì đó cũng chỉ là cái mà ta đi học của người, có thể là “cái cần thiết” bù đắp cho cái thiếu, cái mất của ta, nhưng chẳng có gì đáng tự tôn tự phụ cả. Sự lên gân ồn ào ấy thật sự chỉ là tính chất của ý thức hệ cầm quyền: nó là chủ nghĩa dân tộc phong kiến mang tính chất hai mặt của một nước nhỏ bị thống trị lâu đời – bên ngoài là sĩ diện “quốc gia”, nhưng bên trong là sự tự ti trầm trọng về sự trống vắng của nền văn hoá bản địa đã bị vùi dập sau một nghìn năm bị đô hộ.

    Chủ nghĩa dân tộc hiện đại

                   Không phải như những nhà nghiên cứu cho rằng chủ nghĩa dân tộc hiện đại của châu Á đã bắt nguồn cảm hứng từ chủ nghĩa dân tộc của phương Tây, đã sinh thành trong trong quá trình chống chủ nghĩa thực dân để giành độc lập dân tộc, chủ nghĩa dân tộc hiện đại, ở vùng đất này, đã chỉ là sự tiếp nối chủ nghĩa dân tộc phong kiến trong điều kiện lịch sử mới: khẳng định chủ quyền dân tộc với các thế lực ngoại bang, trên cơ sở đó chuyển đổi một nhà nước-dân tộc mang nội dung phong kiến, cổ truyền sang một nhà nước-dân tộc hiện đại mang nội dung công nghiệp hoá và dân chủ hoá.

    1. Ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc mới này đã bắt nguồn từ nhận thức của chính những nhà Nho, sau rất nhiều cố gắng chống thực dân để phục hồi lại vương triều cũ dựa trên ý thức hệ Nho giáo mượn của Trung Hoa. Nhận thức về một đất nước mới, đi theo con đường xây dựng mới chỉ ra đời khi toàn bộ nền “văn hiến” cũ đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trong việc chống lại sự xâm lược của phương Tây: không phải chỉ ở Việt Nam mà còn cả ở Trung Hoa nguồn cội nữa. Nhưng do bản thân nền văn hoá về quyền lực của Việt Nam là một thứ ý thức hệ vay mượn, lệ thuộc thần phục, tự mình không thể phát khởi được những canh tân để tự đổi mới, nên nhận thức về một vận mệnh mới cho đất nước của những nhà Nho Việt Nam vẫn cứ phải chạy theo đuôi Trung Hoa với những nỗ lực canh tân của họ. Nhưng dù vậy, ý chí tự trọng, tự tôn, ý chí khẳng định sự tồn tại tự chủ, độc lập của chủ nghĩa dân tộc phong kiến vẫn hết sức mãnh liệt. Đó chính là động lực thúc đẩy những nhà Nho đến chỗ nhận thức lại, dù là muộn màng, toàn bộ quá khứ theo một hệ thống giá trị khác. Đó là một ý thức tự phê phán đau đớn nhưng cũng rất dũng cảm, sáng suốt. Nó mở đường để đưa dân tộc vào một chân trời, một vận mệnh mới hoàn toàn, một cuộc cách mạng nhẩy vọt về tinh thần chưa từng có: từ giã thân phận một thứ chư hầu của người hàng xóm phương Bắc để tiếp xúc với cả một nhân loại rộng lớn, có những nền văn hiến khác, phức tạp, kỳ lạ hơn nhiều lần.  Tiếng súng đại bác của phương Tây xâm lược ở đây đã đóng vai trò thức tỉnh.
    2. Sự ra đời của một tầng lớp thị dân mới, có điều kiện tiếp xúc với những trào lưu tư tưởng khác nhau của nhân loại, đã đẩy đi rất xa những ý tưởng canh tân của những nhà Nho mở đường.  Chủ nghĩa dân tộc mới cũng đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều: nó đã bị phân hoá thành những ý thức hệ khác nhau với những quan niệm về quyền lực và phương pháp xây dựng khác nhau để hiện đại hoá đất nước: bên cạnh chủ trương duy tân bạo động còn có xu hướng cải cách ôn hoà, bên cạnh chủ nghĩa nghĩa tam dân theo gương nước Trung Hoa dân quốc cũng đã có chủ nghĩa cộng sản theo gương Nga xô viết… Những vấn đề văn hoá của Việt Nam (như lý thuyết về nguồn gốc dân tộc, mối quan hệ về văn hoá với Trung Hoa phong kiến, vấn để bản sắc dân tộc…) mà trước đây chỉ được suy lý trên truyền thuyết và huyền thoại thì nay đã được đem ra xem xét lại dưới ánh sáng của những kiến giải khoa học thực nghiệm tiếp thu được từ phương Tây (khảo cổ, nhân học, lịch sử, xã hội…), tạo ra những trường phái khác nhau với những cuộc tranh luận đưa đến những kết luận gợi mở nhiều hơn là khép lại bằng những kết luận giáo điều. Sự thần phục về tư tưởng đối với những giá trị truyền thống cũng đã được pha loãng khi đứng bên cạnh những lời lẽ cổ xuý cho nhân quyền và dân quyền, cho sự tự do của những cá nhân công dân bình đẳng trước pháp luật…  Tất cả những quan niệm mới mẻ trên đã thông qua sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân mà phổ biến vào xã hội: giống như Trung Hoa hai nghìn năm trước đây, sự thống trị của chủ nghĩa thực dân đã tạo ra cho người Việt Nam những vũ khí tinh thần để chống lại nó. Chỉ có điều khác biệt quan trọng này: thoát khỏi huyền thoại về sự đồng chủng, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam cũng đã thoát khỏi sự thần phục về văn hoá với Trung Hoa, do đó đã càng ngày càng nhận ra bản sắc của mình một cách đầy đủ hơn.
    3. Nhưng cũng chính trong cuộc tranh đấu ấy, những huyền thoại của chủ nghĩa dân tộc hiện đại đã được tạo ra. Cuộc chiến đấu chống xâm lược Trung Hoa đã được đề cao hết mức để tạo ra truyền thống chung nối kết quá khứ với hiện tại: Trung Hoa đã được mô tả như kẻ thù truyền kiếp để nuôi dưỡng lòng yêu nước chống giặc và cũng chính vì vậy mà những gì tích cực tiếp thu được trong thời bị đô hộ để sau này dựng nước có nhiều lúc đã bị làm suy giảm ý nghĩa. Những huyền thoại cũ vẫn được nhắc lại để “giáo dục thanh niên” nhưng đã mất đi nội dung nguyên sơ của nó. Nguồn gốc Viêm Đế Thần Nông của những người sinh ra dân tộc Việt Nam là Lạc Long Quân và Âu Cơ đã bị lờ đi trong việc giảng dạy để chỉ giữ lại sự thanh quý về cái gọi là “con Rồng cháu Tiên”. Sự chia rẽ từ nguồn cội về sự tương khắc của hai thứ vật tổ Rồng, Tiên ấy đã được cố ý không nhắc tới để chỉ giữ lại ý nghĩa “đoàn kết” của cái gọi là “một bọc trăm trứng”. “Niềm tự hào” Việt Nam đã được thổi phồng lên quá đáng khi người ta tìm ra được những vết tích chứng tỏ Việt Nam đã là một thực thể riêng biệt trước khi bị Tàu thống trị. Nền văn hoá Đông sơn của vua Hùng thời Lạc Việt đang còn sống đời sống của những bộ lạc đã được đẩy lên thành một “quốc gia” đã có “văn hiến”: những trống đồng đã được xem như bằng chứng không những để Việt Nam không còn là hậu duệ của Thần Nông mà còn trở thành trung tâm văn hoá của cả vùng Đông Nam Á!  Hơn thế nữa: những di vật đào được của bầy người nguyên thuỷ vào buồi đầu thời đá cũ ở Lạng sơn, Thanh hoá đã là dịp để những nhà viết sử khẳng định “Việt Nam là một trong những quê hương của loài người”, với hàm ý cho rằng người Việt Nam ngày nay cũng chính là người Việt Nam đã ở trên mảnh đất này đã có mấy vạn năm về trước, nối liền nhau một mạch, không thiên di đi đâu cả và cũng chẳng bị ai đến giành đất cả.

    Vẫn còn không ít người vẫn dốc hết sức bình sinh ra ca ngợi sự kỳ diệu của đạo Nho. Nhưng đấy không phải là thứ văn hoá Tàu mà ta học được.  Nho giáo đó chính là cái của ta, gọi là Việt Nho: trước đây ta ở bên Tàu, ta sáng tạo ra Nho giáo, sau đó ta bị Tàu đánh đuổi và chiếm đoạt mất ! Thật hết sức hào hùng nhưng cũng thật là bi thảm: bắt chước dân Do thái dựa vào Cựu ước để phục quốc, chúng ta hãy dựa vào những hoài niệm về Việt Nho ấy để phục hồi lại cái linh hồn dân tộc đã bị lạc mất mấy nghìn năm trước đây! Không ít người chia sẻ cái ý kiến đầy tâm huyết đó. Nhưng cũng không ít người chống lại: không có đạo Nho, Việt Nam vẫn có thể tự hào với những giá trị tinh thần hết sức sau sắc của mình: những hoa văn trên các trống đồng của ta – giả sử là của ta – đã chứa đựng những biểu tượng triết học cực kỳ uyên áo, cần phải được khai triển để khẳng định bản sắc. “Bản sắc” bao giờ cũng là nỗi băn khoăn dai dẳng của những nhà ý thức hệ Việt Nam. Bản sắc là tính đồng nhất của một dân tộc, nó tạo ra cái đặc trưng của dân tộc đó, không ai phủ định được. Nhưng khi bản sắc được đưa lên thành quốc hồn, quốc tuý để cổ vũ cho cái gọi là “niềm tự hào dân tộc” thì bản sắc đã trở thành ý thức hệ.  Tuy vậy, khi phải nói rõ cái bản sắc đáng tự hào ấy là gì thì bàn luận mãi người ta vẫn không thể nào vượt thoát ra mấy sáo ngữ yêu nước thương nòi, nhân ái, cần cù, lạc quan, thiết thực… Và để có được những danh từ ấy, có người đã sử dụng phương pháp so sánh đối lập những phạm trù trừu tượng và giả tạo như Đông/Tây, Nam/Bắc. Ta là Đông cho nên ta thâm trầm, tổng hợp, trực giác, còn họ là Tây nên họ thiên về phân tích, duy lý, duy vật… Ta là Nam cho nên ta là nông nghiệp, ấm áp, tình cảm, lãng mạn, thiên về nữ tính, còn họ là Bắc nên họ là du mục, lạnh lẽo, lý trí, cứng cỏi…Chủ nghĩa địa lý, chủ nghĩa khí hậu, chủ nghĩa chủng tộc ở đây đã góp phần củng cố cho các quan niệm thiên lệch về bản sắc. Đó không phải là lý thuyết tương đối văn hoá trong quan niệm của những nhà nhân loại học: đó là sự đề cao một cách phiến diện về sự độc đáo của những bản vị cục bộ. Thái độ tự nhận tức lại mình, phê phán những tiêu cực lạc hậu trong truyền thống một thời được những nhà Nho duy tân phát khởi và một số nhà nghiên cứu tiếp nối dần dà đã bị gác lại để cổ xuý cho những thứ suy lý về bản sắc theo cung cách đó.  Thiên hướng ca ngợi quá đáng này, nếu đã diễn ra có chừng mực trong giới nghiên cứu độc lập thì lại trở thành sự hô hào hết sức ồn ào trong những cương lĩnh của các thế lực chính trị, nhất là khi các thế lực ấy đã có điều kiện để bước lên vị trí cầm quyền.

    Lược trích từ: http://www.viet-studies.net

  • Bảng tra niên đại các triều Vua trong sử Việt

    BẢNG TRA NIÊN ĐẠI CÁC TRIỀU VUA VIÊT NAM

    (Xếp theo thứ tự Tây lịch, chú ý triều Lê và Mạc có đan xen )

    Niên hiệu Chữ Hán Tây lịch Tên vua
    Đại Đức (Thiên Đức) 大德 544-548 Lý Nam Đế
    Thiên Đức (Đại Đức) 天德 544-548 Lý Nam Đế
    Thái Bình 太平 970-980 Đinh Tiên Hoàng
    Thiên Phúc 天福 980 Đinh Toàn (Đinh Phế Đế)
    Thiên Phúc 天福 980-988 Lê Hoàn
    Hưng Thống 興統 989-993 Lê Hoàn
    Ứng Thiên 應天 994-1005 Lê Hoàn
    Ứng Thiên 應天 1005-1007 Lê Ngọa Triều
    Cảnh Thụy 景瑞 1008-1009 Lê Ngọa Triều
    Thuận Thiên 順天 1010-1028 Lý Thái Tổ
    Thiên Thành 天成 1028-1034 Lý Thái Tông
    Thông Thụy 通瑞 1034-1039 Lý Thái Tông
    Càn Phù Hữu Đạo 乾符有道 1039-1042 Lý Thái Tông
    Minh Đạo 明道 1042-1044 Lý Thái Tông
    Thiên Cảm Thánh Vũ 天感聖武 1044-1049 Lý Thái Tông
    Sùng Hưng Đại Bảo 崇興大寶 1049-1054 Lý Thái Tông
    Long Thụy Thái Bình 龍瑞太平 1054-1058 Lý Thánh Tông
    Chương Thánh Gia Khánh 彰聖嘉慶 1059-1065 Lý Thánh Tông
    Long Chương Thiên Tự 龍彰天嗣 1066-1068 Lý Thánh Tông
    Thiên Huống Bảo Tượng 天貺寶象 1068-1069 Lý Thánh Tông
    Thần Vũ 神武 1069-1072 Lý Thánh Tông
    Thái Ninh 太寧 1072-1076 Lý Nhân Tông
    Anh Vũ Chiêu Thắng 英武昭勝 1076-1084 Lý Nhân Tông
    Quảng Hựu 廣祐 1085-1092 Lý Nhân Tông
    Hội Phong 會豐 1092-1100 Lý Nhân Tông
    Long Phù 龍符 1101-1109 Lý Nhân Tông
    Hội Tường Đại Khánh 會祥大慶 1110-1119 Lý Nhân Tông
    Thiên Phù Duệ Vũ 天符睿武 1120-1126 Lý Nhân Tông
    Thiên Phù Khánh Thọ 天符慶壽 1127 Lý Nhân Tông
    Thiên Thuận 天順 1128-1132 Lý Thần Tông
    Thiên Chương Bảo Tự 天彰寶嗣 1133-1138 Lý Thần Tông
    Thiệu Minh 紹明 1138-1140 Lý Anh Tông
    Đại Định 大定 1140-1162 Lý Anh Tông
    Chính Long Bảo Ứng 政龍寶應 1163-1174 Lý Anh Tông
    Thiên Cảm Chí Bảo 天感至寶 1174-1175 Lý Anh Tông
    Trinh Phù 貞符 1176-1186 Lý Cao Tông
    Thiên Tư Gia Thụy 天資嘉瑞 1186-1202 Lý Cao Tông
    Thiên Gia Bảo Hựu 天嘉寶祐 1202-1205 Lý Cao Tông
    Trị Bình Long Ứng 治平龍應 1205-1210 Lý Cao Tông
    Kiến Gia 建嘉 1211-1224 Lý Huệ Tông
    Thiên Chương Hữu Đạo 天彰有道 1224-1225 Lý Chiêu Hoàng
    Kiến Trung 建中 1225-1232 Trần Thái tông
    Thiên Ứng Chính Bình 天應政平 1232-1251 Trần Thái Tông
    Nguyên Phong 元豐 1251-1258 Trần Thái Tông
    Thiệu Long 紹隆 1258-1272 Trần Thánh Tông
    Bảo Phù 寶符 1273-1278 Trần Thánh Tông
    Thiệu Bảo 紹寶 1279-1285 Trần Nhân Tông
    Trùng Hưng 重興 1285-1293 Trần Nhân Tông
    Hưng Long 興隆 1293-1314 Trần Anh Tông
    Đại Khánh 大慶 1314-1323 Trần Minh Tông
    Khai Thái 開泰 1324-1329 Trần Minh Tông
    Khai Hựu 開祐 1329-1341 Trần Hiến Tông
    Thiệu Phong 紹豐 1341-1357 Trần Dụ Tông
    Đại Trị 大治 1358-1369 Trần Dụ Tông
    Đại Định 大定 1369-1370 Dương Nhật Lễ
    Thiệu Khánh 紹慶 1370-1372 Trần Nghệ Tông
    Long Khánh 隆慶 1372-1377 Trần Duệ Tông
    Xương Phù 昌符 1377-1388 Trần Phế Đế
    Quang Thái 光泰 1388-1398 Trần Thuận Tông
    Kiến Tân 建新 1398-1400 Trần Thiếu Đế
    Thánh Nguyên 聖元 1400 Hồ Quý Ly
    Thiệu Thành 紹成 1401-1402 Hồ Hán Thương
    Khai Đại 開大 1403-1407 Hồ Hán Thương
    Hưng Khánh 興慶 1407-1409 Giản Định Đế (Trần Ngỗi)
    Trùng Quang 重光 1409-1413 Trần Quý Khoáng
    Thuận Thiên 順天 1428-1433 Lê Thái Tổ
    Thiệu Bình 紹平 1434-1439 Lê Thái Tông
    Đại Bảo(Thái Bảo) 大寶 1440-1442 Lê Thái Tông
    Thái Hòa (Đại Hòa) 太 (大) 和 1443-1453 Lê Nhân Tông
    Diên Ninh 延寧 1454-1459 Lê Nhân Tông
    Thiên Hưng 天興 1459-1460 Lê Nghi Dân
    Quang Thuận 光順 1460-1469 Lê Thánh Tông
    Hồng Đức 洪德 1470-1497 Lê Thánh Tông
    Cảnh Thống 景統 1498-1504 Lê Hiến Tông
    Thái Trinh 太貞 1504 Lê Túc Tông
    Đoan Khánh 端慶 1505-1509 Lê Uy Mục
    Hồng Thuận 洪順 1509-1516 Lê Tương Dực
    Quang Thiệu 光紹 1516-1522 Lê Chiêu Tông
    Thống Nguyên 統元 1522-1527 Lê Cung Hoàng
    Minh Đức 明德 1527-1529 Mạc Thái Tổ
    Đại Chính 大正 1530-1540 Mạc Thái tông
    Nguyên Hòa 元和 1533-1548 Lê Trang Tông
    Quảng Hòa 廣和 1541-1546 Mạc Hiến Tông
    Vĩnh Định 永定 1547 Mạc Tuyên Tông
    Cảnh Lịch 景曆 1548-1553 Mạc Tuyên Tông
    Thuận Bình 順平 1548-1556 Lê Trung Tông
    Quang Bảo 光寶 1554-1561 Mạc Tuyên Tông
    Thiên Hựu 天祐 1556-1557 Lê Anh Tông
    Chính Trị 正治 1558-1571 Lê Anh Tông
    Thuần Phúc 淳福 1562-1565 Mạc Mậu Hợp
    Sùng Khang 崇康 1566-1577 Mạc Mậu Hợp
    Hồng Phúc 洪福 1572-1573 Lê Anh Tông
    Gia Thái 嘉泰 1573-1577 Lê Thế Tông
    Diên Thành 延成 1578-1585 Mạc Mậu Hợp
    Quang Hưng 光興 1578-1599 Lê Thế Tông
    Đoan Thái 端泰 1586-1587 Mạc Mậu Hợp
    Hưng Trị 興治 1588-1590 Mạc Mậu Hợp
    Hồng Ninh 洪寧 1591-1592 Mạc Mậu Hợp
    Bảo Định 寶定 1592 Mạc Kính Chỉ
    Vũ An 武安 1592-1593 Mạc Kính Toàn
    Khang Hựu 康佑 1593 Mạc Kính Chỉ
    Càn Thống 乾統 1593-1625 Mạc Kính Cung
    Thận Đức 慎德 1600-1600 Lê Kính Tông
    Hoằng Định 弘定 1600-1619 Lê Kính Tông
    Vĩnh Tộ 永祚 1619-1629 Lê Thần Tông
    Đức Long 德隆 1629-1635 Lê Thần Tông
    Long Thái 隆泰 1618-1625 Mạc Kính Khoan
    Dương Hòa 陽和 1635-1643 Lê Thần Tông
    Thuận Đức 順德 1638-1677 Mạc Kính Vũ
    Phúc Thái 福泰 1643-1649 Lê Chân Tông
    Khánh Đức 慶德 1649-1653 Lê Thần Tông
    Thịnh Đức 盛德 1653-1658 Lê Thần Tông
    Vĩnh Thọ 永壽 1658-1662 Lê Thần Tông
    Vạn Khánh 萬慶 1662 Lê Thần Tông
    Cảnh Trị 景治 1663-1671 Lê Huyền Tông
    Dương Đức 陽德 1672-1674 Lê Gia Tông
    Đức Nguyên 德元 1674-1675 Lê Gia Tông
    Vĩnh Trị 永治 1676-1680 Lê Hy Tông
    Chính Hòa 正和 1680-1705 Lê Hy Tông
    Vĩnh Thịnh 永盛 1705-1720 Lê Dụ Tông
    Bảo Thái 保泰 1720-1729 Lê Dụ Tông
    Vĩnh Khánh 永慶 1729-1732 Lê Đế Duy Phường
    Long Đức 龍德 1732-1735 Lê Thuần Tông
    Vĩnh Hựu 永佑 1735-1740 Lê Ý Tông
    Cảnh Hưng 景興 1740-1786 Lê Hiển Tông
    Thái Đức 泰德 1778-1793 Nguyễn Nhạc
    Chiêu Thống 昭統 1787-1789 Lê Chiêu Thống (Mẫn Đế)
    Quang Trung 光中 1788-1792 Nguyễn Huệ
    Cảnh Thịnh 景盛 1793-1801 Nguyễn Quang Toản
    Bảo Hưng 寶興 1801-1802 Nguyễn Quang Toản
    Gia Long 嘉隆 1802-1819 Nguyễn Thế Tổ
    Minh Mạng 明命 1820-1840 Nguyễn Thánh Tổ
    Thiệu Trị 紹治 1841-1847 Nguyễn Hiến Tổ (Miên Tông)
    Tự Đức 嗣德 1848-1883 Nguyễn Dực Tông
    Dục Đức 育德 1883 Nguyễn Dục Đức
    Hiệp Hòa 協和 1883 Nguyễn Hiệp Hòa
    Kiến Phúc 建福 1883-1884 Nguyễn Giản Tông
    Hàm Nghi 咸宜 1885-1888 Nguyễn Hàm Nghi
    Đồng Khánh 同慶 1886-1888 Nguyễn Cảnh Tông
    Thành Thái 成泰 1889-1907 Nguyễn Thành Thái
    Duy Tân 維新 1907-1916 Nguyễn Duy Tân (Vĩnh San)
    Khải Định 啟定 1916-1925 Nguyễn Hoằng Tông (Bửu Đảo)
    Bảo Đại 保大 1926-1945 Nguyễn Bảo Đại (Vĩnh Thụy)

    BẢNG TRA NIÊN HIỆU CÁC TRIỀU VUA VIỆT NAM

    (Xếp theo vần ABC)

    Niên hiệu Chữ Hán Tây lịch Tên vua
    Anh Vũ Chiêu Thắng 英武昭勝 1076-1084 Lý Nhân Tông
    Bảo Đại 保大 1926-1945 Nguyễn Bảo Đại (Vĩnh Thụy)
    Bảo Định 寶定 1592 Mạc Kính Chỉ
    Bảo Hưng 寶興 1801-1802 Nguyễn Quang Toản
    Bảo Phù 寶符 1273-1278 Trần Thánh Tông
    Bảo Thái 保泰 1720-1729 Lê Dụ Tông
    Càn Phù Hữu Đạo 乾符有道 1039-1042 Lý Thái Tông
    Càn Thống 乾統 1593-1625 Mạc Kính Cung
    Cảnh Hưng 景興 1740-1786 Lê Hiển Tông
    Cảnh Lịch 景曆 1548-1553 Mạc Tuyên Tông
    Cảnh Thịnh 景盛 1793-1801 Nguyễn Quang Toản
    Cảnh Thống 景統 1498-1504 Lê Hiến Tông
    Cảnh Thụy 景瑞 1008-1009 Lê Ngọa Triều
    Cảnh Trị 景治 1663-1671 Lê Huyền Tông
    Chiêu Thống 昭統 1787-1789 Lê Chiêu Thống (Mẫn Đế)
    Chính Hòa 正和 1680-1705 Lê Hy Tông
    Chính Long Bảo Ứng 政龍寶應 1163-1174 Lý Anh Tông
    Chính Trị 正治 1558-1571 Lê Anh Tông
    Chương Thánh Gia Khánh 彰聖嘉慶 1059-1065 Lý Thánh Tông
    Diên Ninh 延寧 1454-1459 Lê Nhân Tông
    Diên Thành 延成 1578-1585 Mạc Mậu Hợp
    Dục Đức 育德 1883 Nguyễn Dục Đức
    Duy Tân 維新 1907-1916 Nguyễn Duy Tân (Vĩnh San)
    Dương Đức 陽德 1672-1674 Lê Gia Tông
    Dương Hòa 陽和 1635-1643 Lê Thần Tông
    Đại Bảo(Thái Bảo) 大寶 1440-1442 Lê Thái Tông
    Đại Chính 大正 1530-1540 Mạc Thái tông
    Đại Định 大定 1140-1162 Lý Anh Tông
    Đại Định 大定 1369-1370 Dương Nhật Lễ
    Đại Đức (Thiên Đức) 大德 544-548 Lý Nam Đế
    Đại Khánh 大慶 1314-1323 Trần Minh Tông
    Đại Trị 大治 1358-1369 Trần Dụ Tông
    Đoan Khánh 端慶 1505-1509 Lê Uy Mục
    Đoan Thái 端泰 1586-1587 Mạc Mậu Hợp
    Đồng Khánh 同慶 1886-1888 Nguyễn Cảnh Tông
    Đức Long 德隆 1629-1635 Lê Thần Tông
    Đức Nguyên 德元 1674-1675 Lê Gia Tông
    Gia Long 嘉隆 1802-1819 Nguyễn Thế Tổ
    Gia Thái 嘉泰 1573-1577 Lê Thế Tông
    Hàm Nghi 咸宜 1885-1888 Nguyễn Hàm Nghi
    Hiệp Hòa 協和 1883 Nguyễn Hiệp Hòa
    Hoằng Định 弘定 1600-1619 Lê Kính Tông
    Hội Phong 會豐 1092-1100 Lý Nhân Tông
    Hội Tường Đại Khánh 會祥大慶 1110-1119 Lý Nhân Tông
    Hồng Đức 洪德 1470-1497 Lê Thánh Tông
    Hồng Ninh 洪寧 1591-1592 Mạc Mậu Hợp
    Hồng Phúc 洪福 1572-1573 Lê Anh Tông
    Hồng Thuận 洪順 1509-1516 Lê Tương Dực
    Hưng Khánh 興慶 1407-1409 Giản Định Đế
    Hưng Long 興隆 1293-1314 Trần Anh Tông
    Hưng Thống 興統 989-993 Lê Hoàn
    Hưng Trị 興治 1588-1590 Mạc Mậu Hợp
    Khai Đại 開大 1403-1407 Hồ Hán Thương
    Khai Hựu 開祐 1329-1341 Trần Hiến Tông
    Khai Thái 開泰 1324-1329 Trần Minh Tông
    Khang Hựu 康佑 1593 Mạc Kính Chỉ
    Khải Định 啟定 1916-1925 Nguyễn Hoằng Tông
    Khánh Đức 慶德 1649-1653 Lê Thần Tông
    Kiến Gia 建嘉 1211-1224 Lý Huệ Tông
    Kiến Phúc 建福 1883-1884 Nguyễn Giản Tông
    Kiến Tân 建新 1398-1400 Trần Thiếu Đế
    Kiến Trung 建中 1225-1232 Trần Thái tông
    Long Chương Thiên Tự 龍彰天嗣 1066-1068 Lý Thánh Tông
    Long Đức 龍德 1732-1735 Lê Thuần Tông
    Long Khánh 隆慶 1372-1377 Trần Duệ Tông
    Long Phù 龍符 1101-1109 Lý Nhân Tông
    Long Thái 隆泰 1618-1625 Mạc Kính Khoan
    Long Thụy Thái Bình 龍瑞太平 1054-1058 Lý Thánh Tông
    Minh Đạo 明道 1042-1044 Lý Thái Tông
    Minh Đức 明德 1527-1529 Mạc Thái Tổ
    Minh Mạng 明命 1820-1840 Nguyễn Thánh Tổ
    Nguyên Hòa 元和 1533-1548 Lê Trang Tông
    Nguyên Phong 元豐 1251-1258 Trần Thái Tông
    Phúc Thái 福泰 1643-1649 Lê Chân Tông
    Quang Bảo 光寶 1554-1561 Mạc Tuyên Tông
    Quang Hưng 光興 1578-1599 Lê Thế Tông
    Quảng Hòa 廣和 1541-1546 Mạc Hiến Tông
    Quảng Hựu 廣祐 1085-1092 Lý Nhân Tông
    Quang Thái 光泰 1388-1398 Trần Thuận Tông
    Quang Thiệu 光紹 1516-1522 Lê Chiêu Tông
    Quang Thuận 光順 1460-1469 Lê Thánh Tông
    Quang Trung 光中 1788-1792 Nguyễn Huệ
    Sùng Hưng Đại Bảo 崇興大寶 1049-1054 Lý Thái Tông
    Sùng Khang 崇康 1566-1577 Mạc Mậu Hợp
    Tự Đức 嗣德 1848-1883 Nguyễn Dực Tông
    Thái Đức 泰德 1778-1793 Nguyễn Nhạc
    Thái Bình 太平 970-980 Đinh Tiên Hoàng
    Thái Hòa (đúng:Đại Hòa) 太 (大) 和 1443-1453 Lê Nhân Tông
    Thái Ninh 太寧 1072-1076 Lý Nhân Tông
    Thái Trinh 太貞 1504 Lê Túc Tông
    Thánh Nguyên 聖元 1400 Hồ Quý Ly
    Thành Thái 成泰 1889-1907 Nguyễn Thành Thái
    Thận Đức 慎德 1600-1600 Lê Kính Tông
    Thần Vũ 神武 1069-1072 Lý Thánh Tông
    Trị Bình Long Ứng 治平龍應 1205-1210 Lý Cao Tông
    Thiên Cảm Chí Bảo 天感至寶 1174-1175 Lý Anh Tông
    Thiên Cảm Thánh Vũ 天感聖武 1044-1049 Lý Thái Tông
    Thiên Chương Bảo Tự 天彰寶嗣 1133-1138 Lý Thần Tông
    Thiên Chương Hữu Đạo 天彰有道 1224-1225 Lý Chiêu Hoàng
    Thiên Đức (Đại Đức) 天德 544-548 Lý Nam Đế
    Thiên Gia Bảo Hựu 天嘉寶祐 1202-1205 Lý Cao Tông
    Thiên Huống Bảo Tượng 天貺寶象 1068-1069 Lý Thánh Tông
    Thiên Hưng 天興 1459-1460 Lê Nghi Dân
    Thiên Hựu 天祐 1557-1557 Lê Anh Tông
    Thiên Phù Duệ Vũ 天符睿武 1120-1126 Lý Nhân Tông
    Thiên Phù Khánh Thọ 天符慶壽 1127 Lý Nhân Tông
    Thiên Phúc 天福 980-988 Lê Hoàn
    Thiên Phúc 天福 980 Đinh Toàn
    Thiên Tư Gia Thụy 天資嘉瑞 1186-1202 Lý Cao Tông
    Thiên Thành 天成 1028-1034 Lý Thái Tông
    Thiên Thuận 天順 1128-1132 Lý Thần Tông
    Thiên Ứng Chính Bình 天應政平 1232-1251 Trần Thái Tông
    Thịnh Đức 盛德 1653-1658 Lê Thần Tông
    Thiệu Bảo 紹寶 1279-1285 Trần Nhân Tông
    Thiệu Bình 紹平 1434-1439 Lê Thái Tông
    Thiệu Khánh 紹慶 1370-1372 Trần Nghệ Tông
    Thiệu Long 紹隆 1258-1272 Trần Thánh Tông
    Thiệu Minh 紹明 1138-1140 Lý Anh Tông
    Thiệu Phong 紹豐 1341-1357 Trần Dụ Tông
    Thiệu Thành 紹成 1401-1402 Hồ Hán Thương
    Thiệu Trị 紹治 1841-1847 Nguyễn Hiến Tổ (Miên Tông)
    Thông Thụy 通瑞 1034-1039 Lý Thái Tông
    Thống Nguyên 統元 1522-1527 Lê Cung Hoàng
    Thuận Bình 順平 1548-1556 Lê Trung Tông
    Thuận Đức 順德 1638-1677 Mạc Kính Vũ
    Thuận Thiên 順天 1010-1028 Lý Thái Tổ
    Thuận Thiên 順天 1428-1433 Lê Thái Tổ
    Thuần Phúc 淳福 1562-1565 Mạc Mậu Hợp
    Trinh Phù 貞符 1176-1186 Lý Cao Tông
    Trùng Hưng 重興 1285-1293 Trần Nhân Tông
    Trùng Quang 重光 1409-1413 Trần Quý Khoáng
    Ứng Thiên 應天 994-1005 Lê Hoàn
    Ứng Thiên 應天 1005-1007 Lê Ngọa Triều
    Vạn Khánh 萬慶 1662 Lê Thần Tông
    Vĩnh Định 永定 1547 Mạc Tuyên Tông
    Vĩnh Hựu 永佑 1735-1740 Lê Ý Tông
    Vĩnh Khánh 永慶 1729-1732 Lê Đế Duy Phường
    Vĩnh Tộ 永祚 1619-1629 Lê Thần Tông
    Vĩnh Thịnh 永盛 1705-1720 Lê Dụ Tông
    Vĩnh Thọ 永壽 1658-1662 Lê Thần Tông
    Vĩnh Trị 永治 1676-1680 Lê Hy Tông
    Vũ An 武安 1592-1593 Mạc Kính Toàn
    Xương Phù 昌符 1377-1388 Trần Phế Đế

    Ghi chú thêm về giai đoạn chưa có niên hiệu khi mới khôi phục độc lập:

    – 905-930: Họ Khúc (chưa xưng vương)

    – 931-937: Dương Đình Nghệ

    – 938-944: Ngô Quyền

    – 945-950: Dương Tam Kha

    – 951-965: Ngô Xương Văn (Nam Tấn Vương)

    – 966-969: 12 Sứ quân

    (Theo Phan Anh Dũng – VietHanNom 2005)

    *** 

    Chúng tôi đã sửa lại một số niên hiệu (màu xanh)
    theo đính chính của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Nguyên trong
    bài “Nói chuyện quy đổi dương lịch cho các niên hiệu”
    đăng trên 
    Tạp chí Hán Nômsố 3 (112) 2012 (tr.60 – 73)

    Nguồn: http://www.hannom.org.vn

  • KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Thời xưa trang phục thường được phân loại theo cách cắt của cổ áo thành ba dạng: đối lĩnh (tức giao lĩnh), trực lĩnh và bàn lĩnh.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Đối lĩnh (trái), Trực lĩnh (giữa) và Bàn lĩnh (phải). Trích từ ‘Trung Quốc cổ đại nhân vật phục thức dữ họa pháp’.

    – Đối lĩnh, hay giao lĩnh, có cổ cắt vạt chéo cài sang bên phải. Đây là lễ phục trang trọng nhất trong các lễ phục cổ truyền, được mặc trong các lễ tế. Cao cấp hơn cả của loại này là áo cổn ở trong cung, may bằng đoạn thất thể rất quý hiếm, thường được vua, quan mặc trong lễ tế Giao. Tay áo giao lĩnh cắt thụng, khi buông xuống dài bằng gấu áo. Các nước Đồng văn trọng Khổng giáo ở Á châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều có áo này. Dưới thời Nguyễn ở Việt Nam phụ nữ không mặc giao lĩnh. Hiện nay trong nhiều lễ tế đình ở các làng, xã, người mình vẫn mặc áo giao lĩnh.

    – Trực lĩnh, tức là áo có vạt xẻ dọc ở giữa thân trước. Lễ phục trực lĩnh trong cung thời nguyễn dành riêng cho các bà và gọi là áo mệnh phụ. Áo này không được vua quan, nam phái trong triều đình Việt Nam xử dụng. Trong khi đó các nam đạo sĩ Lão giáo bên Trung Quốc lại có mặc áo được cắt y hệt như áo mệnh phụ của phụ nữ Việt. Áo nhật bình của các sư sãi trong nước cũng thuộc dạng trực lĩnh. Lễ phục trực lĩnh cũng may rộng, xẻ bên, và có tay cắt thụng dài bằng gấu. Áo được xẻ vạt bên hông.

    – Bàn lĩnh, tức áo cắt cổ tròn, có hay không có cổ đứng đính liền, vạt cài sang phải. Lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ở nước ta trước đây. Ở trong cung áo này được cả nam lẫn nữ phái xử dụng dưới dạng long bào, phượng bào của vua, hoàng thái hậu, hoàng quý phi; và mãng bào của thân vương, hoàng tử và các quan. Các áo bào này được may bằng gấm thất thể hay ngũ thể quý hiếm, và có cổ tròn không đính cổ đứng. Áo rất rộng, xẻ bên. Tay cắt thụng dài bằng gấu áo. Áo được mặc trong các lễ đại triều, triều yến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Nhưng lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ngày xưa của người Việt, cả ở trong cung lẫn ngoài phố, là bàn lĩnh có cổ đứng, gọi là áo Tấc. Áo cũng cắt rộng, xẻ bên, với tay thụng dài bằng gấu, cài khuy bên phải như áo dài. Áo Tấc rất thông dụng, được mặc trong các lễ yết miếu, từ đường, việc hỷ, cũng như các việc thăm viếng quan trọng.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo Tấc

    Sử sách cận đại của Nguyễn triều ít khi đề cập đến triều phục của quan lại. Thảng hoặc mới có nhắc đến một vài đạo dụ liên quan đến vấn đề này. Thí dụ như dụ năm 1886 của vua Đồng Khánh, hay các đạo dụ 1920 và 1921 của vua Khải Định. Các đạo dụ này thật ra có chủ ý khiển trách các sự cẩu thả trong việc xử dụng triều phục, cũng như tiếm lạm trong mầu sắc trang phục của các quan thời bấy giờ. Thí dụ như thường dân dám mặc áo mầu chính hoàng. Rồi việc quan cấp dưới dám tiếm dụng sắc áo của hoàng tử, hoàng thân. Hay về việc vì công quỹ không đủ để tiếp tục cấp nhung phục cho các quan với các sắc mầu và hoa văn đúng theo lệ cổ, cho nên phải thay bằng các áo tứ linh mầu xanh lá cây cho văn ban và mầu huyền cho võ ban từ chánh nhị phẩm đến tòng tam phẩm (thực ra hai sắc vải này có vẻ đã được dùng để may áo chầu nhiều hơn là may nhung phục).

    Nhưng điều quan trọng là qua các đạo dụ này người ta biết thêm một loại lễ phục nữa trong triều đình, bên cạnh các áo lễ tay rộng (phổ phục) vẫn phổ biến như áo cổn, áo chầu. Đó là nhung phục. Nhung phục cũng được may rộng như phổ phục, với cùng loại vải, hoa văn và mầu sắc với áo chầu của người mặc. Nhưng nhung y có tay áo cắt chẽn như tay áo dài. Nói cách khác, nhung y là áo tấc tay hẹp.

    Áo cổn thuộc dạng giao lĩnh là loại lễ phục cao quý nhất, chỉ dùng trong lễ tế giao. Áo đại triều, hay áo chầu, được mặc trong các dịp đại triều nghi vào các ngày 1 và 15 âm lịch tại điện Thái Hòa. Áo thường triều được xử dụng khi chầu vua trong các ngày 5, 10, 20 và 25 mỗi tháng tại điện Cần Chánh. Nhung phục được ban cho các ấn quan để mặc khi thù tiếp các quý quan (quan Tây), hoặc khi chầu vua ở điện Văn Minh.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Nhung y tòng nhất phẩm võ ban.

    Loại nhung phục cao quý nhất là những áo được vua ngự tứ đặc biệt cho các công thần, được lấy ra từ kho ngự dụng của nhà vua. Áo này thường được trang trí theo dạng cửu long, mà trên thực tế là các con phi giao hay còn được vua Khải Định gọi là rồng bay ngang.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Nhung y ngự tứ.

    Một loại áo chiến tay chẽn nữa, với hai đầu tay được may đáp miếng vải gọi là mã quải, được mặc khi dự lễ ngoài trời như duyệt binh hay tịch điền. Loại áo này khi vua mặc gọi là long trấn. Còn của thân vương, hoàng tử hay các quan thì gọi là mãng lan.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Mãng lan tòng nhị phẩm

    Điều quan trọng nhất khi khảo về trang phục của quan lại triều Nguyễn là việc phân biệt cấp bậc và ban hệ theo mầu sắc và hoa văn của áo.

    Trong tập Bulletin des Amis du Vieux Huế (tháng 7-9 năm 1916), cụ Nguyễn Đôn có viết rõ về mầu sắc của từng cấp bậc triều phục dựa theo lệ vào năm Thiệu Trị ngũ niên (1845). Theo tài liệu này thì mầu sắc áo chầu, tức áo đại triều, của các quan được định rõ như sau:

    Chánh nhất phẩm: Vải đoạn bát ti mầu cổ đồng (古銅), tiếng Pháp là vieux cuivre; dệt hoa văn ngũ thể (năm mầu) cộng thêm chỉ kim tuyến. Vải đoạn tức là satin gấm. Tất cả các loại vải từ đây trở xuống đều dệt bằng tơ tằm.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu chánh nhất phẩm văn ban mầu cổ đồng

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo cổn chánh nhất phẩm võ ban

    Tòng nhất phẩm: Vải đoạn bát ti mầu thiên thanh (天青), tiếng Pháp là pourpre sombre (tím đậm, hay mầu tương); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu tòng nhất phẩm võ ban mầu thiên thanh

    Chánh nhị phẩm: Vải đoạn bát ti mầu cam bích (紺碧), tiếng Pháp là poupre rougeat(tím đỏ); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu chánh nhị phẩm văn ban mầu cam bích

    Tòng nhị phẩm: Vải đoạn bát ti mầu quan lục (官綠), tiếng Pháp là verte (xanh lục); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu tòng nhị phẩm võ ban mầu quan lục

    Chánh tam phẩm: Đoạn bát ti mầu bửu lam (寶藍), tiếng Pháp là bleu foncé (lam đậm); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu chánh tam phẩm võ ban mầu bửu lam

    Tòng tam phẩm: Đoạn bát ti mầu ngọc lam (玉藍), tiếng Pháp là bleu de jade (xanh ngọc bích); dệt hoa văn ngũ thể viền kim tuyến.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu tòng tam phẩm văn ban mầu ngọc lam

    Hai cấp tứ phẩm và ngũ phẩm cả văn lẫn võ ban đều mặc áo chầu may bằng vải trừu (lụa), dệt hoa văn tròn toàn hoa (trong sách viết nhầm là viên giao) mầu ngũ thể với kim tuyến. Áo tứ phẩm mầu quan lục. Áo ngũ phẩm mầu bửu lam. Phân biệt văn võ bằng mão đội đầu.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Hoa bào của chánh, tòng ngũ phẩm

    Chánh và tòng lục phẩm mặc áo bào may bằng loại lụa dệt hoa văn đơn sắc gọi là quang tố trừu, mầu ngọc lam. Nhưng thật ra cho đến thời điểm 1916, sắc áo đại triều của cấp bậc chánh tòng lục phẩm là quan lục. Từ cấp bực này trở xuống ở lễ đại triều phải đeo bổ tử.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo chầu lục phẩm với bổ tử thêu con bạch nhàn (gà lôi trắng)

    Theo sách Khâm định Đại nam hội điển sự lệ thì mầu sắc và chất liệu áo chầu của chánh thất phẩm cũng giống như của lục phẩm, chỉ khác nhau ở bổ tử. Nhưng trên thực tế thì từ trước thời Khải Định các quan từ chánh thất phẩm trở xuống đến cửu phẩm đã không còn được cấp áo đại triều nữa. Tất cả đều chỉ mặc áo giao lĩnh thường triều may bằng vải sa đoạn với bổ tử các cấp.

    Cũng theo Khâm định Đại nam hội điển sự lệ thì áo rộng giao lĩnh thường triều được may bằng vải sa đoạn (sa Bắc), với các mầu lam, lục hay hắc; với cổ mầu bạch tuyết. Nhưng trên thực tế thì áo thường triều của tất cả các quan từ nhất phẩm đến cửu phẩm đều may bằng vải sa đoạn mầu lam. Cấp bậc được phân biệt qua nội dung bổ tử.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Áo thường triều

    Một vài mẫu bổ tử thời cuối Nguyễn triều:

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Bổ tử trên quan phục Văn nhất và nhị phẩm (Tiên Hạc), mẫu Huế [trái] và trên quan phục Văn cửu phẩm (liêu thuần-đa đa) mẫu Bắc[phải]

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Bổ tử trên quan phục Võ thất phẩm (bưu, tức hổ nhỏ) mẫu Huế [trái] và Võ tứ phẩm (hổ) mẫu Bắc [phải]

    Sự khác biệt hoa văn giữa văn và võ ban không thấy chỉ rõ trong tài liệu này. Và cũng không được nhắc đến trong bộ Khâm định Đại nam hội điển sự lệ hay bất cứ một tài liệu nào khác. Nhưng trong bài viết về lễ Nguyên Đán trong cung năm Bính Tuất (1886) thời Đồng Khánh, bác sĩ người Pháp là Hocquart có nhắc đến việc quan văn mặc áo chầu có chim phượng và quan võ mặc áo có trang trí mặt tròn (medaillon). Có lẽ vì từ xa nhìn loáng thoáng không rõ cho nên khi các quan văn đứng chầu với hai tay chắp trước ngực, con phượng trên tay áo rộng được thấy rõ nhất và che phủ các chi tiết khác của áo tứ linh.

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Tượng quan văn đội mão đỉnh tròn với hoa văn tứ linh trên áo

    KHÁI LƯỢC VỀ TRIỀU PHỤC CỦA CÁC QUAN THỜI NGUYỄN

    Tượng quan văn đội mão đỉnh tròn với hoa văn tứ linh trên áo

    Nhưng rõ nhất là chi tiết thấy được trên những tượng quan hầu ở các tôn lăng. Các tượng quan văn đội mão viên phác đầu (đỉnh tròn) đều mặc áo chầu tứ linh. Trong khi các tượng quan võ đội mão phương phác đầu (đỉnh vuông) trên áo có hoa văn ổ tròn.

    Trịnh Bách

  • Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn

    TRANG SỨC CỦA QUYỀN UY VÀ ÂN THƯỞNG

    Hình ảnh các vị vua, hoàng hậu, hoàng tử… triều Nguyễn trên các bức ảnh chụp vào đầu thế kỷ XX thường được thể hiện trong trang phục triều hội, với các “phụ kiện” như cân đai, hia, mão và các món trang sức bằng vàng, ngọc và đá quý rất độc đáo. Tùy theo chất liệu và hình dáng, những món trang sức này được gọi là kim bài, kim khánh, kim bội ngọc bội. Đó không phải là thứ trang sức thông thường của vua chúa, quý tộc hay đình thần, mà là những phục trang thể hiện danh phận, quyền uy và vinh hạnh của người phục sức. Đó còn là những kỷ vật ghi nhận công trạng hay sự ân thưởng của nhà vua đối với những người có công lao với quốc gia và triều đình.

    Kim bài là những chiếc thẻ bài làm bằng vàng hình chữ nhật (8,5cm x 5cm), phía trên tạo hình tựa chiếc khánh, có lỗ để xâu dây đeo. Dưới triều Gia Long (1802 – 1820), triều đình cấp cho các quan trong Cơ Mật viện những chiếc thẻ bài bằng bạc (ngân bài) như một thứ “giấy thông hành” để họ ra vào Đại Nội. Đến năm 1834, vua Minh Mạng (1820 – 1841) bắt đầu cấp các thẻ bài bằng vàng (kim bài) có khắc 4 chữ Hán Cơ Mật đại thần thay cho các ngân bài được cấp trước đây. Với các chức quan không thuộc Cơ Mật viện, thì tùy theo chức tước và phẩm hàm, thẻ bài cấp cho họ có thể làm bằng vàng, bằng bạc mạ vàng hay bằng bạc.

    Kim bài quý nhất là của nhà vua, có khắc dòng chữ Hán Thái bình thiên tử trên nền hoa văn “lưỡng long” và có gắn 10 viên kim cương, bên ngoài có 3 đường viền kết bằng ngọc trai. Ngoài ra, nhà vua còn có kim bài khắc dòng chữ Hán Đại bang duy bình và có gắn 10 viên hồng ngọc.

    Kim khánh cũng được làm bằng vàng, được vua ban cho các tướng lĩnh, quan lại cao cấp vì những công lao của họ đối với triều đại và đất nước. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, kim khánh chỉ được thưởng cho các thành viên hoàng gia và các quan lại có điện hàm đại học sĩ (Tứ trụ).

    Từ năm 1873 trở đi, vua Tự Đức (1848 – 1883) còn ban thưởng kim khánh cho các quan chức cao cấp người Pháp ở Đông Dương để tỏ tình giao hảo. Từ triều Hàm Nghi (1884 – 1885) trở về trước, kim khánh chỉ có 2 hạng: đại hạng kim khánh (kim khánh hạng lớn) và kim khánh (kim khánh hạng thường), đều làm bằng vàng 8,5 tuổi nhưng khác nhau về kích thước, trọng lượng và hoa văn trang trí. Sang triều Đồng Khánh (1885 – 1889), kim khánh được phân thành 4 hạng: đại (hạng lớn), trung (hạng vừa), thứ (hạng dưới trung bình) và tiểu (hạng nhỏ). Đến năm 1900, vua Thành Thái (1889 – 1907) quy định kim khánh chỉ có 3 hạng, đều khắc dòng chữ Hán Thành Thái sắc tứ ở mặt trước, nhưng mặt sau thì phân biệt bởi các dòng chữ Hán: Báo nghĩa thù huân (hạng nhất), Gia thiện sinh năng (hạng hai) và Lao năng khả tưởng (hạng ba). Mỗi kim khánh đều có một chùm tua kết bằng các hạt ngọc trai, mã não và cườm nhiều màu nhập từ Ấn Độ. Đặc biệt, kim khánh của triều Khải Định (1916 – 1925) thường có các chữ Hán Khải Định ân tứ hoặc Ân tứ khắc chìm và được khảm ngọc trai trong lòng chữ. Những kim khánh này được đựng trong những chiếc hộp bằng bạc, chính giữa khắc 4 chữ Hán Khải Định niên tạo và có chữ ký nghệ nhân chế tác kim khánh khắc ở phía dưới. Riêng những kim khánh vua ban cho phái nữ thì các hoa văn hình rồng được thay thế bằng hình chim phụng.

    Kim bội là vật trang sức hoàng gia, chỉ xuất hiện từ năm 1889 trở đi. Kimvàng,  bộiđeo, treo. Kim bội là (vật bằng) vàng để treo, đeo. Kim bội dáng hình thuẫn hoặc hình chữ nhật cách điệu ở 4 góc. Một mặt của kim bội khắc các dòng chữ Hán ghi niên hiệu của vua như: Thành Thái niên tạo, Duy Tân niên tạo…, mặt kia khắc dòng chữ Hán Quỳnh diêu vĩnh hảo. Lúc đầu, vua Thành Thái cho đúc kim bội để thưởng cho những người có công, nhưng về sau kim bội chỉ được ban tặng cho phụ nữ, chủ yếu là các công chúa, để làm vật trang sức và thể hiện danh phận của họ. Do vậy nên dòng chữ Hán Quỳnh diêu vĩnh hảo trên kim bội được thay bằng các dòng chữ Hán: Hoàng trưởng nữ công chúa, Hoàng thứ nữ công chúa, hay Hoàng thứ nữ. Hoa văn trang trí trên kim bội thường là thuộc đề tài hoa thảo hay các dạng hồi văn chữ Thọ, chữ Công liên hoàn.

    Ngọc bội có hình dáng tương tự kim khánh nhưng được làm bằng ngọc quý, chủ yếu là bằng cẩm thạch. Một mặt của ngọc bội khắc chìm dòng chữ Hán thếp vàng Thụ thiên vĩnh mệnh, mặt kia khắc niên hiệu của vị vua đang tại vị như Thiệu Trị trân bửu, Khải Định trân bửu… Thời Nguyễn sơ, ngọc bội được coi là hàm tước danh dự hay quan huy và được ban thưởng cho cả nam lẫn nữ. Từ triều Khải Định trở đi, ngọc bội chỉ còn là một thứ trang sức biểu trưng cho vương gia và quyền quý.

    Việc chế tác kim bài, kim khánh, kim bội, ngọc bội dưới thời Nguyễn do Kim ngân tượng cục thực hiện. Kim ngân tượng cục là quan xưởng do vua Minh Mạng cho lập vào năm 1834 đặt dưới sự cai quản của Sở Nội tạo. Đây là nơi tập trung những người thợ kim hoàn giỏi nhất trong nước, chuyên chế tác các vật dụng bằng vàng, bạc và đá quý để phục vụ cho nhu cầu của hoàng gia và triều đình. Ngoài Kim ngân tượng cục, triều Nguyễn còn cho mở thêm hai tượng cục khác để chế tác các vật dụng có liên quan đến vàng bạc. Đó là Kim mạo tượng ty chuyên chế tạo mũ mão bằng vàng cho vua và hoàng gia và Kim tương tượng ty chuyên chế tạo các vật phẩm có thếp vàng.

    Vua, hoàng gia và đình thần thường đeo kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội trong các dịp quốc lễ, triều hội hay trong những dịp nghinh tiếp quốc khách. Cùng với các bộ triều phục lộng lẫy, những kim bài, kim khánh, kim bội, ngọc bội… của triều Nguyễn là những trang sức không thể thiếu trong trang phục cung đình Huế. Những trang sức ấy đã góp phần tạo dựng nét uy phong và quyền quý của một lớp người từng nắm giữ quyền lực ở Việt Nam một thuở. Để rồi giờ đây, khi buổi hoàng kim của triều Nguyễn đã trở thành quá vãng, những món trang sức ấy lại trở thành những cổ vật vô giá và là niềm mơ ước của những nhà sưu tập có tinh thần hoài cổ.

    Trong những di sản văn hóa do triều Nguyễn để lại, có một loại cổ vật có giá trị lịch sử, mỹ thuật và văn hóa rất cao, được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau, nhưng được gọi chung bằng một cái tên là thẻ bài. Đây là tên dùng để gọi một nhóm vật dụng, chữ Hán tự ghi là bài, nghĩa là “cái bảng, mảnh ván đề chữ làm dấu hiệu để yết thị; chiếc thẻ dùng để làm tin”. Từ tên chung là thẻ bài, tùy theo chất liệu làm nên chiếc thẻ mà có sự phân biệt là: kim bài (bài bằng vàng), ngân bài (bài bằng bạc), mộc bài (bài bằng gỗ), thạch bài (bài bằng đá)…; hay tùy theo công năng của từng chiếc thẻ mà gọi là: bội bài (bài để đeo), tín bài (bài làm tín vật), lệnh bài (bài giao việc)…

    Những thẻ bài này là vật dụng đặc biệt, dùng để ghi công hay để phân biệt danh tính, phẩm hàm, địa vị, chức phận của các hạng quý tộc, quan binh thời Nguyễn. Theo khảo cứu của Đặng Ngọc Oánh trong bài Les distintions honorifiques annamites (B.A.V.H. No.4/1915) và của L. Sogny trong bài Les plaquettes des dignitaires et des mandarins à la Cour d’Annam (B.A.V.H. No.3/1926), thẻ bài gồm hai loại: một loại là những huân chương, huy chương để tưởng thưởng công trạng hay huy chương danh dự của triều đình ban tặng cho các bậc vương công, đại thần, binh sĩ và cả những người nước ngoài phụng sự cho triều Nguyễn. Loại kia là những “phục trang” đặc biệt để phân biệt địa vị, phẩm hàm của những hạng người khác nhau trong xã hội. Ngoài ra, còn có những chiếc thẻ bài có giá trị như giấy thông hành, dùng để ra vào nơi cung cấm, hay được dùng như giấy ủy nhiệm của quan lại cấp trên giao việc cho thuộc hạ.

    Khởi thủy, vua Gia Long (1802 – 1820) cấp cho các quan trong Cơ Mật Viện một ngân bài (bài bằng bạc) để ra vào Đại Nội. Năm 1834, vua Minh Mạng (1820 – 1841) bắt đầu cho làm các thẻ bài bằng vàng, gọi là kim bài, có đề 4 chữ Hán: Cơ Mật Đại Thần để ban cho các quan lại cao cấp được sung vào Cơ Mật Viện. Tùy theo chức tước và phận sự, các thẻ bài do triều Nguyễn ban tặng cho các quan được làm bằng vàng, bằng bạc mạ vàng hay bằng bạc. Từ năm Thành Thái thứ 16 (1906) trở đi, quan lại văn võ từ hàm thất phẩm trở lên nhận thẻ bài làm bằng ngà, từ thất phẩm trở xuống nhận thẻ bài làm bằng sừng trâu. Bài của quân lính phục vụ trong Đại Nội thì làm bằng chì, sau đổi làm bằng gỗ mun.

    Quý nhất trong các loại thẻ bài chính là các kim bài của các bậc đế hậu hay quý tộc cao cấp. Đây là những món đồ trang sức của vua chúa, đồng thời cũng là vật thể hiện địa vị và đẳng cấp của người sở hữu chúng. Ngoài kim bài, vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa và các vương tôn còn đeo kim khánhngọc khánh. Nhà vua còn dùng kim bài, kim khánhngọc khánh như vật phong tặng, quà kỷ niệm hay vật ân thưởng cho quý tộc và quan lại cao cấp trong những dịp đặc biệt.

    Kim bài của các vua triều Nguyễn thường có hình chữ nhật (8,5cm x 5cm), có 4 chữ Hán Thái bình thiên tử bằng vàng chạm nỗi và nạm 10 viên kim cương. Ngoài ra còn có loại kim bài hạng hai, khắc 4 chữ Hán Đại bang duy bình bằng vàng chạm nỗi và nạm 10 hồng ngọc, xung quanh có viền hoa văn hình lưỡng long khắc chìm.

    Kim khánh làm bằng vàng có đính các hạt trân châu, mã não, là thứ huy chương quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, kim khánh chỉ dành riêng cho các thành viên hoàng gia và các quan lại có hàm đại học sĩ. Dưới triều Thiệu Trị (1841 – 1847) và Tự Đức (1848 – 1883) kim khánh gồm hai hạng: đại kim khánhkim khánh. Từ năm 1885 triều đình đổi thành bốn hạng: đại kim khánh có đề 4 chữ Hán Báo nghĩa thù huân; trung kim khánh (hình dáng như đại kim khánh như nhẹ hơn); kim khánh có đề 4 chữ Hán Sanh thiện thượng công tiểu kim khánh có đề 4 chữ Hán Lao năng khả tưởng. Mặt sau các kim khánh thường khắc ghi niên hiệu của triều vua cho chế tác và ban tặng kim khánh. Năm Thành Thái thứ 2 (1900), triều đình bỏ hạng trung kim khánh và thiết lập hệ thống kim khánh mới gồm ba hạng: nhất hạng kim khánh, nhị hạng kim khánh tam hạng kim khánh dùng để trao trặng cho quần thần và cho cả người Pháp. Mặt sau các kim khánh này có khắc các chữ Hán Đại Nam hoàng đế sắc tứ. Đến triều Khải Định (1916 – 1925), kim khánh làm bằng vàng, có đề 4 chữ Khải Định ân tứ, được đựng trong một hộp bạc, chạm trỗ hoa văn lưỡng long triều nhật, chính giữa mặt trong có một ô hình trái xoan đề 4 chữ Hán Khải Định niên tạo và phía dưới có chữ ký nghệ nhân chế tác ở bên trái. Đối với các kim khánh ban cho phái nữ thì xung quanh các Hán tự có trang trí 2 hình chim phụng.

    Ngọc khánh có hình dáng tương tự như kim khánh nhưng được làm bằng ngọc quý, chủ yếu làm bằng cẩm thạch. Mặt trước ngọc khánh thường khắc 4 chữ Hán Thụ thiên vĩnh mệnh. Mặt sau khác niên hiệu của vị vua đang trị vì vào thời điểm ngọc khánh được chế tác hay ban tặng.

    Việc chế tác các kim bài và kim khánh dưới thời Nguyễn được giao cho Kim ngân tượng cục thực hiện. Kim ngân tượng cục do vua Minh Mạng cho lập vào năm 1834, trực thuộc Sở Nội tạo. Đây là nơi trưng tập các thợ thủ công tài giỏi trong cả nước về nghề kim hoàn. Họ được tuyển vào làm việc ở Kim ngân tượng cục này để chuyên chế tác các vật dụng bằng vàng và bạc, cung ứng cho nhu cầu của hoàng gia và triều đình. Ngoài Kim ngân tượng cục, triều Nguyễn còn cho mở thêm hai tượng cục khác, chuyên chế tác các vật dụng liên quan đến vàng bạc. Đó là Kim mạo tượng ty chuyên chế tạo mũ mão bằng vàng cho vua và hoàng gia và Kim tương tượng ty chuyên chế tạo các vật phẩm có thếp vàng.

    Vua, hoàng hậu và các thành viên hoàng gia thường mang kim bài, kim khánh, ngọc khánh… trong các dịp thiết đại triều, trong những lễ lạt quan trọng của triều đình và trong các dịp nghinh đón quốc khách. Riêng vua Khải Định, thì ngoài kim bài, kim khánh ngọc khánh, nhà vua còn đeo thêm các huy chương như Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh… mà chính phủ Pháp trao tặng, nhất là trong các dịp lễ lạt có sự hiện diện của quan lại mẫu quốc.

    165 năm sau ngày nhà Nguyễn cáo chung, phần lớn kim bài, kim khánh, ngọc khánh… của triều Nguyễn đã trở thành cổ vật trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân ở nước ngoài. Trong một bài viết mới công bố gần đây, nhà nghiên cứu Philippe Truong (hiện sống ở Pháp) cho biết: Cách nay hai tháng, trên mạng eBay có đưa ra đấu giá một thẻ bài bằng bạc mạ vàng của An Tĩnh Công, giá bán cuối cùng lên đến 1919 euro. Ngoài ra, trong sưu tập huy chương của đại sứ Ý Antonio Benedetto Spada, hiện đang trưng bày tại bảo tàng Légion d’Honneur (Paris), có trưng bày 8 kim bài, 6 ngân bài và một số bài bằng ngà và sừng, kim khánh, ngân khánh, kim bội và kim tiền thời Nguyễn. Trong số đó, đáng chú ý nhất là kim bài khắc 4 chữ Hán Đại bang duy bình của vua Khải Định làm bằng vàng nạm 10 hồng ngọc, viền hoa văn lưỡng long và kim khánh bằng vàng có đề bốn chữ Hán Khải Định ân tứ, chứa trong một hộp bạc, khắc hoa văn lưỡng long triều nhật, chính giữa có một ô hình trái xoan đề chữ Khải Định niên tạo và chữ ký của nghệ nhân khắc ở phía dưới bên trái.

    Giới khảo cứu và dân chơi cổ ngoạn trong nước hiếm khi có dịp tận mắt chiêm ngưỡng những trân bảo ấy. May mắn lắm cũng chỉ nhìn thấy hình dáng “của hiếm” trong những catalogue in ấn ở ngoại quốc mà thôi. Âu đó cũng là một thiệt thòi cho giới sưu tầm và ưa chuộng cổ vật nước nhà vậy.

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim bài khắc dòng chữ Thái bình thiên tử của vua Khải Định

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn

     

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim bài khắc dòng chữ Đông cung hoàng thái tử của hoàng thái tử Vĩnh Thụy

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim bài khắc dòng chữ An Tĩnh công, triều Khải Định

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim khánh khắc hai chữ Ân tứ, triều Đồng Khán

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim khánh khắc dòng chữ Báo nghĩa thù huân, triều Khải Định

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim khánh khắc dòng chữ Khải Định ân tặng

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim bội khắc dòng chữ Hoàng trưởng nữ công chúa

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Kim bội khắc dòng chữ Hoàng thứ nữ công chúa

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn

     

     

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Ngọc bội khắc dòng chữ Thiệu Trị trân bửu
    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Ngọc bội khắc dòng chữ Khải Định trân bửu

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Chân dung vua Đồng Khánh mặc hoàng bào, đeo ngọc khánh, tay cầm hốt trấn khuê, ngự trên ngai vàng

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Vua Thành Thái mặc long bào, đeo ngọc khánh và kim tiền
    Vua Khải Định mặc trang phục kiểu Âu châu, đội nón, đeo kim bài, ngọc khánh và huy chương (do người Pháp tặng)
    Vua Khải Định mặc trang phục kiểu Âu châu, đội nón, đeo kim bài, ngọc khánh và huy chương (do người Pháp tặng)

    Vua Bảo Đại mặc quốc phục, đeo kim bài và huy chương (do người Pháp tặng)
    Vua Bảo Đại mặc quốc phục, đeo kim bài và huy chương (do người Pháp tặng)

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Hoàng tử Bảo Long mặc quốc phục, đeo kim bài và ngọc khánh

    Kim bài, kim khánh, kim bội và ngọc bội của vua chúa triều Nguyễn
    Hoàng tử Bảo Long mặc quốc phục, đeo kim bài và huy chương (do người Pháp tặng)

    Nguồn : Trần Đức Anh Sơn’s Blog

  • Danh xưng thời quân chủ trong tiếng Anh và tiếng Việt

    Danh xưng thời quân chủ trong tiếng Anh và tiếng Việt

    Cùng tham khảo các danh xưng thời quân chủ trong tiếng Anh và tiếng Việt

    Chế độ quân chủ hoặc quân chủ chế hay còn gọi là Chế độ quân quyền, là một thể chế hình thức chính quyền mà trong đó người đứng đầu nhà nước là nhà vua hoặc nữ hoàng. Xem bài viết: Việt Nam  xưa ở thể chế quân chủ hay phong kiến?
    Tổ chức của chế độ Quân Chủ
    Tổ chức của chế độ Quân Chủ

     

    ĐẾ QUỐC / EMPIRE
    Hoàng đế: Emperor
    Nữ hoàng (đế): Empress Regnant
    Hoàng hậu: Empress Consort
    Hoàng Thái Hậu: Empress Dowager (mẹ hoàng đế)
    Thái Hoàng Hậu: Grand Empress Dowager (bà hoàng đế)
    (Phương Tây theo Công giáo, trọng đạo một vợ một chồng nên không có các danh xưng cho vợ lẽ của hoàng đế như phương Đông. Tuy vậy, “hoàng phi” có thể được dịch là imperial consort. Hoàng phi có thể chỉ chung tất cả các vị phi của hoàng đế.)

    Nếu cha của hoàng đế còn sống sẽ được gọi là:

    Thái thượng Hoàng đế: Grand Emperor / Grand Imperial Sire
    Thái thượng Hoàng hậu: Grand Empress Consort
    (sau khi Thái Thượng Hoàng Đế mất thì Thái Thượng Hoàng Hậu sẽ trở thành Hoàng Thái Hậu)

    Lễ lên ngôi Hoàng thái tử cuối cùng của Việt Nam
    Bảo Long -Hoàng thái tử cuối cùng của Việt Nam

    Con cái:

    Hoàng thái tử: Imperial Crown Prince
    Hoàng tử/Vương gia: Imperial Prince
    Hoàng nữ/Công chúa: Imperial Princess
    VƯƠNG QUỐC / KINGDOM
    Quốc vương: King
    Nữ (Quốc) vương: Queen Regnant
    Vương hậu: Queen Consort
    Vương Thái hậu: Queen Dowager
    (Phương Tây theo Công giáo, trọng đạo một vợ một chồng nên không có các danh xưng cho vợ lẽ của quốc vương như phương Đông. Tuy vậy, “vương phi” có thể được dịch là Royal Consort. Vương phi có thể chỉ chung tất cả các vị phi của quốc vương).
    Thái thượng Vương: Grand King
    Thái thượng Vương hậu: Grand Queen Consort
    Vương thế tử: Crown Prince
    Vương tử/Công tước: Prince/Duke
    Vương nữ/Quận chúa: Princess
    Thái giám: Eunuch
    (Tại những “đế quốc” khi tước vương được dùng để phong cho hoàng tử hoặc người có công thì vợ cả của vương tước cũng chỉ được gọi là vương phi, không thể gọi là vương hậu).

    Hình Ảnh Việt Nam tham khảo từ: Đại Việt Cổ Phong, Viet Garden, Wikipedia
  • Sai sót khi tái dựng trang phục của các vị vua triều Nguyễn

    Sai sót khi tái dựng trang phục của các vị vua triều Nguyễn

    Gần đây có một bộ tranh chân dung của các vua triều Nguyễn được vẽ mới và phổ biến, thu hút được nhiều sự chú ý của người xem. Nếu chỉ thưởng thức các bức vẽ này như những ảnh vui mắt, đầy mầu sắc thì được. Nhưng các tranh này không có giá trị tài liệu và sử liệu về triều phục Việt Nam thời Nguyễn. Tất cả các chi tiết về áo, mão lẫn diện mạo đều do họa sĩ tưởng tượng. Trước hết hãy so sánh các bức ảnh nguyên gốc (bên trái) và các chân dung được họa sĩ phóng tác lại (bên phải).

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Gia Long.

    Vua Gia Long, bên trái là chân dung do người Pháp vẽ ước lệ theo ký ức. Nếu nhà vua mặc áo dài hay áo tấc đen (chỉ có hai loại áo này có cổ xây) thì không đội mão phác đầu (mũ cánh chuồn). Và nếu là mão phác đầu thì trong ảnh này thiếu cánh chuồn. Quan trọng là các vua không đội mũ cánh chuồn. Ảnh bên phải vẽ phỏng theo, với các sáng tác ngộ nghĩnh về trang phục. Vua được cho mặc cổ áo loại chi đó không rõ. Còn cái mão trong chân dung mới vẽ lại (bên phải) hoàn toàn không có trong trang phục cung đình của tất cả các nước trọng Khổng (còn gọi là các nước đồng văn) là Hoa, Nhật, Hàn và Việt, cả về hình dạng đến màu sắc, hoa văn…

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Minh Mạng.

    Vua Minh Mạng, bên trái là chân dung cũng do người Tây phương vẽ lại theo ký ức. Họ muốn vẽ mão xung thiên của hoàng đế, nhưng vì nhớ không rõ nên vẽ thành hình dạng này. Hoa văn rồng trên áo kiểu trên áo cũng không có ở triều đình Á châu nào. Người vẽ phỏng lại tranh bên phải, do không hiểu, nên vẽ lại gần như nguyên bản cái mũ sai lạc đó. Do người Pháp nhớ không rõ cho nên vẽ cái cổ áo bàn lĩnh của hoàng bào to và thành hai tầng. Người họa sĩ Việt tưởng nhầm thành cái vân kiên phủ vai hoàn toàn không có trong triều phục thời Nguyễn ở Việt Nam.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Tự Đức do người Pháp vẽ
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung mới vẽ lại của vua Thiệu Trị (bên trái) và vua Tự Đức (bên phải)

    Vua Thiệu Trị và vua Tự Đức hoàn toàn không để lại hình ảnh gì, ngoài một cái ảnh vẽ ước lệ vua Tự Đức nhìn ngang, trên đầu đội một cái mão đường cân được vẽ phỏng lại không chính xác dựa theo ký ức. Khổ nỗi là tác giả của bộ tranh mới lại cho hai vị hoàng đế này đội mão phác đầu (mũ cánh chuồn) của các quan. Hoàng đế không đội mão phác đầu. Và mão vẽ ở trong hai tranh này cũng không phải là mão phác đầu, vì sai cả hình dạng lẫn các vật trang trí. Bất cứ một họa tiết trang trí nào trên áo, mão triều phục cũng có luật lệ nghiêm ngặt. Dù chỉ là một con giao long nhỏ trên cái cánh chuồn cũng phải làm dựa theo luật định, vì màu sắc của chất liệu làm ra nó cũng ấn định phẩm cấp của người đội.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Hiệp Hòa, bên trái là do con cháu vẽ theo tưởng tượng, bên phải là chân dung mới phóng tác
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Hàm Nghi.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Kiến Phúc (bên phải mới vẽ lại), còn ảnh gốc bên trái thật ra là ảnh vua Duy Tân
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Đồng Khánh do họa sĩ đương thời vẽ trực tiếp, chuẩn xác bên trái và chân dung mới mới phóng tác ở bên phải.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Thành Thái (ảnh gốc bên trái mặc áo long trấn, đầu đội đường cân).

    Đối với bức chân dung vua Thành Thái, người vẽ phóng tác không hiểu biết, cho nên vẽ nhà vua mặc long bào tay rộng, nhưng lại đội đường cân. Đường viền dưới gấu áo của ảnh bên phải không có trong hệ thống triều phục Việt Nam.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Vua Duy Tân ngày tấn phong. Lên ngôi còn bé và gấp quá không kịp làm áo, mão và hia. Bên phải là chân dung mới phóng tác.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Khải Định.
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Chân dung vua Bảo Đại.

    Thật tội cho ba vua Hàm Nghi, Khải Định và Bảo Đại được người vẽ cho mặc áo dài của thái giám. Thái giám trong nội cung mặc áo dài mầu lam hay lục dệt hoa văn chữ thọ và hoa cỡ nhỏ mầu trắng, bạc độc sắc… Tất cả các khăn vấn hay khăn xếp đội đầu ngày xưa của phái nam theo đúng lệ đều mầu đen, chứ không theo màu áo dài như bây giờ. Riêng hoàng đế vấn hay đội khăn vàng hoặc đen tùy trường hợp.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Hoa văn vạn thọ trên áo dài bằng vải đoạn mầu quan lục của vua Bảo Đại.

    Các hoàng đế mặc áo dài gấm, đoạn, sa dệt hay thêu hoa văn trang trí họa tiết vạn thọ. Nền vải chuộng các màu vàng, đen, bửu lam (lam đậm), hay quan lục (xanh nõn chuối) dệt hoa văn thất thể (7 màu). Các quan mặc áo dài với họa tiết dệt bách thọ, tứ thời, tứ tiết, và mầu sắc với hoa văn dệt ngũ thể. Họa tiết hoa văn nhỏ dệt đơn sắc trong các tranh vẽ tưởng tượng ba vị hoàng đế ở đây chỉ dành cho quân hầu và thái giám.

    Hoàng đế khi mặc hoàng bào ngự lễ đại triều thì đội mão xung thiên. Khi ra ngoài duyệt binh, ngự lễ tịch điền, v.v., thì mặc áo long trấn tay chẽn, đội mão Đường cân. Khi mặc áo cổn để tế Giao thì đội miện bình thiên có 24 tua rủ (gọi là châu), 12 phía trước và 12 đằng sau. Với cả ba trang phục này các hoàng đế đều đi hia bằng đoạn đen, thêu nổi rồng mây bằng chỉ kim tuyến vàng và gắn kim sa vàng.

    Khi thiết đại triều hoàng đế cầm trấn khuê làm bằng ngọc mầu trắng mỡ. Các quan lớn cầm hốt ngà và các quan nhỏ cầm hốt gỗ bạch. Không bao giờ có hốt mầu đỏ viết chữ đen như ở các tranh này.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Long bào Đại triều của vua triều Nguyễn (hiện vật gốc ở Bảo tàng Lịch sử TPHCM).

    Cái áo long bào này được các vua Nguyễn mặc truyền nối từ thời Minh Mạng đến Đồng Khánh. Chỗ cột thủy (sọc dọc đa sắc dưới gấu áo) được gấp lên hoặc hạ xuống tùy chiều cao của người mặc và đính vào phía trong áo, không được cắt. Hoàng đế đội mão xung thiên với trang phục này. Tay các loại áo lễ luôn phải dài bằng gấu áo, chứ không ngắn ngang cổ tay như thấy trong các phim truyền hình dài tập Trung Quốc.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Áo bằng sa thâm khoác bên ngoài áo cổn tế Giao của vua triều Nguyễn (hiện vật gốc tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế).
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Áo tế Giao của vua triều Nguyễn (phía sau).
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Long trấn của vua triều Nguyễn (hiện vật gốc tại Bảo tàng Lịch sử TPHCM).
    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Mão Xung thiên Đại triều của vua triều Nguyễn.

    Mão xung thiên ở ảnh bên trái được vẽ trực tiếp với đầy đủ các chi tiết chính xác. Mão bên phải là mão phục chế hiện trưng bầy tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội với vài vật trang trí còn sót lại từ mão gốc. Mão gốc có lớp ngoài làm bằng ô sa, trong lót lớp mã vĩ (lông đuôi ngựa). Mão có 31 con rồng vàng; cùng với các viên ngọc đỏ (hỏa tề), trắng (thủy soạn), trân châu, mây vàng và lửa vàng.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Miện Bình thiên của vua triều Nguyễn (phục chế, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội).

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Hia của vua (hiện vật gốc ở Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế). Hia này bị mất hết các hạt kim sa, cũng như lớp vải đoạn lót mầu vàng bên trong.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Vua Khải Định trong trang phục tế Giao (trái). Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương (phải).

    Ảnh bên trái là vua Khải Định mặc tế phục Nam Giao, đầu đội miện, tay cầm trấn khuê. Treo rủ xuống trước bụng là tấm tế tất (phất tất). Ngoài ra còn các phụ kiện khác bị áo che phủ, như các giải ngọc đeo rủ xuống từ thắt lưng hai bên tế tất gọi là tạp bội và tiểu thụ, với 200 viên châu ngọc các loại cùng các phiến ngọc khắc hình khánh, dơi, tiền… Và có thêm một tấm đoạn thêu gọi là thiên thụ treo từ thắt lưng phía sau áo.

    Ảnh bên phải là vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương trong ngày hôn lễ. Nhà vua mặc long bào (hoàng bào), đầu đội mão xung thiên, tay cầm trấn khuê. Hoàng hậu mặc phượng bào (nữ bào) và xiêm, đầu đội mão thất phụng, chân đi hài phượng. Hôm hôn lễ hoàng hậu Nam Phương mặc áo nữ bào mầu hỏa hoàng (da cam), nhưng sau này khi đã sinh được tự quân rồi thì đổi sang mặc áo bào sắc vàng.

    Sai sót khi tái dụng trang phục của các vị vua triều Nguyễn
    Vua Đồng Khánh (trái) và vua Kiến Phúc (phải).

    Ảnh trái là vua Đồng Khánh trong phút thư giãn. Vua mặc áo tấc, đầu vấn lửng sơ sài khăn kiểu chữ nhất theo lối võ ban (khi mặc lễ phục hay vấn khăn, các hoàng đế đều theo quy chế võ ban). Chân đi văn hài. Ảnh phải là vua Kiến Phúc dạo chơi bằng long xa. Vua vấn khăn chữ nhất, mặc long trấn. Một tay cầm cung, tay kia chống súng và kiếm. Sau xe treo cờ tiết mao của Thiên tử…

    Giải thích kỹ như thế nhưng vẫn còn rất qua loa so với các điển lệ phức tạp nhưng chặt chẽ của một hoàng triều. Người ta chỉ cần nhìn mầu áo của một vị quan, hay hình dạng mão, hoa văn bổ tử, để biết cấp bậc của vị quan. Ngay cả đến chất liệu làm trang trí trên một cánh chuồn trên mão và hình dạng cánh chuồn, cũng như chất liệu của các vật trang trí đó cũng đều có quy định phân biệt rõ ràng cho mỗi phẩm cấp. Ngoài ra còn các lệ về cách đeo đai (thắt lưng) cho mỗi loại triều phục, hay cách đeo các loại khánh, bài, bội… cũng phải theo luật lệ nghiêm ngặt.

    Khi muốn phục dựng hay vẽ lại những gì thuộc văn hóa cổ của dân tộc, có ảnh hưởng đến sự hiểu biết của giới trẻ sau này, thì phải kỹ lưỡng, không nên tùy tiện.

     Trịnh Bách

    anhsontranduc.wordpress.com

  • Nước Việt cổ rộng gấp 10 lần bây giờ!

    Nước Việt cổ rộng gấp 10 lần bây giờ!

    Vùng đất phía Bắc của người Bách Việt từng lên đến tận phía Nam sông Dương Tử (hay Trường Giang), tới khu vực Hồ Động Đình (tức tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay). Việc này không chỉ được ghi nhận lại trong các truyền thuyết mà còn nằm trong những chứng tích của lịch sử.

    Truyền thuyết

    Theo Lĩnh Nam Chích Quái thì ông nội của Lạc Long Quân là Đế Minh (cháu 3 đời của Thần Nông) sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế Minh đi tuần thú phương Nam thì gặp và cưới con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Ngay từ tấm bé Lộc Tục đã thể hiện rất thông minh và đoan chính.

    Đế Minh rất ngạc nhiên trước tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục nên muốn chọn làm người nối ngôi, thế nhưng Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh mình là Đế Nghi.

    Cuối cùng Đế Minh quyết định truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc, và cho Lộc Tục làm vua phương Nam, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến. Ông tế cáo trời đất trên Thiên đài rằng: “Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương”.

    Nước Việt cổ rộng gấp 10 lần bây giờ!
    Nước Xích Quỷ được tô màu có diện tích gấp 10 lần nước Việt ngày nay. (Ảnh: Wikipedia)

    Từ đấy phía Bắc sông Dương Tử do Đế Nghi cai quan, phía Nam sông Dương Tử do Lộc Tục cai quản. Lộc Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương, năm 2879 TCN đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, biên giới phía Bắc tới Động Đình Hồ, phía Nam giáp với nước Hồ Tôn, phía Tây giáp với Ba Thục, phía Đông giáp với biển Nam Hải.

    Như vậy theo sự phân chia vào thời đấy thì biên giới phía Bắc của người Việt lên đến Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), bao gồm cà các tỉnh của Trung Quốc ngày nay như Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Tây, Quảng Đông, v.v.

    Nước Việt cổ rộng gấp 10 lần bây giờ!
    Bản đồ nước Việt cổ. (Ảnh: Wikipedia)

    Nếu tính diện tích thì Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 km2.

    Khi vua Kinh Dương Vương mất, con trai là Lạc Long Quân lên nối ngôi, lập ra nhà nước Văn Lang. Khi ấy, biên giới của Bách Việt vẫn được vẹn toàn.

    Nước Việt cổ rộng gấp 10 lần bây giờ!
    Truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ. (Ảnh qua vietbao.vn)

    Trong khi đó, dù hậu nhân sau này đã mở mang bờ cõi về phía Nam, nhưng lại mất đi phần đất phía Bắc, nên diện tích Việt Nam bây giờ là 331.698 km2 (tính cả diện tích trên biển), chỉ bằng khoảng 1/10 so với trước kia.

    Hai Bà Trưng khôi phục giang sơn

    Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 40 SCN đã giành được thắng lợi và lấy lại nguyên vẹn lãnh thổ nước Việt cổ.

    Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng quả cảm của mình đánh đuổi quân Hán đến tận Động Đình Hồ, một nữ tướng là Trần Thiếu Lan đã tử trận tại sông Thẩm Giang. Đây là con sông nối với Hồ Động Đình. Sách thời nhà Nguyễn có ghi chép rằng: “Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê đi sứ sang Trung Quốc, khi qua nơi đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu Lan.”

    Nước Việt cổ rộng gấp 10 lần bây giờ!
    Hình ảnh Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Hán.

    Khi giành được giang sơn, Hai Bà Trưng giao cho nữ tướng Phật Nguyệt chức Tổng trấn khu hồ Động Đình – Trường Sa. Năm 1979, giáo sư Trần Đại Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ phủ phía Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép trận đánh Động Đình Hồ như sau: “Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện. Long nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường giang, hồ Ðộng đình, oán khí bốc lên tới trời”.

    Nước Việt cổ rộng gấp 10 lần bây giờ!

    Giáo sư Trần Đại Sỹ từng tới Trung Quốc để tìm hiểu về lịch sử cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và quân Hán, thấy rất nhiều tỉnh đều thờ Vua Bà, nhiều nhất là tỉnh Hồ Nam (khu vực Động Đình Hồ), nhưng không ai còn nhớ Vua Bà là ai.

    Khi ông đến đến Côn Minh, giáo sư sử học Đoàn Văn ở đây cho hay: “Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ lăng. Nay Bồ lăng nằm trên lãnh thổ Tứ Xuyên, chỗ ngã ba sông Trường giang và Ô giang.”

    Giáo sư Trần Đại Sỹ đến bến Bồ Lăng thuộc huyện Bồ Lăng, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc để tìm hiểu. Tại đây giáo sư được Sở du lịch hướng dẫn đến miếu thờ 3 vị thần, tướng của Vua Bà. Nhưng bản thân họ cũng không biết Vua Bà và 3 vị tướng này cụ thể là ai, chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán, cả vùng đó đều có đạo thờ Vua Bà.

    Miếu thờ có rất nhiều câu đối, nhưng cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc đã hủy gần hết các câu đối này. May mắn là ba câu đối vẫn còn tồn tại tới ngày nay.

    Phía trước cửa miếu có câu đối rằng:

    Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,
    Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.

    Nghĩa là:

    Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu.
    Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
    khí tiết ngút từng mây.

    Phía trong miếu có câu đối:

    Giang thượng tam anh phù nữ chúa,
    Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.

    Nghĩa là:

    Trên sông Trường giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa,
    Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.

    Những tư liệu này cho thấy biên giới người Việt thời Hai Bà Trưng phía bắc tới Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), phía Tây tới tận Ba Thục (tức tỉnh Tứ Xuyên ngày nay).

    Nước Việt cổ rộng gấp 10 lần bây giờ!
    Bản đồ nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng, phía Bắc đến Động Đình Hồ, phía Tây đến Bồ Lăng (Ba Thục).  (Ảnh: Wikipedia)

    Trải qua ngàn năm Bắc thuộc, người Việt dồn dần xuống phía Nam để tránh sự cai trị hà khắc, khiến khu vực phía Bắc người Hoa Hạ ngày càng đông hơn.

    Năm 938, Ngô Quyền lãnh đạo người Bách Việt đánh bại quân Nam Hán, làm chủ lại các vùng đất của nước Việt. Tuy nhiên một dải đất lớn phía Bắc là Nam Hải, Tượng Quận, Quế Lâm đã bị bỏ qua, và diện tích nước Việt nhỏ hơn trước. Sau này dù bờ cõi đã được mở rộng về phía Nam, nhưng diện tích ngày nay chỉ bằng hơn 1/10 so với trước đây.

    Truyền thuyết không cách xa sự thực

    Trong bài viết có tựa đề “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam” trên diễn đàn Lý Học Đông Phương, vốn là bài diễn văn tiếng Pháp của giáo sư Trần Đại Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp – Á, được dịch giả Tăng Hồng Minh đăng tải, giáo sư Trần Đại Sỹ đã nhắc tới nhiều luận điểm khẳng định biên giới cổ của Việt Nam nằm ở hồ Động Đình. Những luận điểm này được đích thân giáo sư Trần Đại Sỹ khảo cứu và viếng thăm thực địa, trong đó nổi bật là:

    1 – Núi Ngũ lĩnh trong truyền thuyết về Đế Minh xác thực nằm ở Trường Sa, Hồ Nam. Ngoài ra tại tỉnh này còn có rất nhiều các di tích được nhắc tới của tộc Việt như: hồ Động Đình, núi Tam Sơn, sông Tương, Thiên đài, Tương đài, cánh đồng Tương.

    2 – Thiên đài mà Đế Minh tế cáo trời là có thật, nằm gần bên bờ Tương Giang. Trên đỉnh này có một ngôi chùa nhỏ, bên trong còn có nhiều chứng tích về Hai Bà Trưng và trận Động Đình. Ngoài ra giáo sư Trần Đại Sỹ còn tìm thấy một tài liệu mang tên “Thiên đài di sự lục” tại thư viện Hồ Nam, trong đó miêu tả rõ rằng Thiên đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh Dương.

    3 – Cánh đồng Tương là nơi mà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hẹn nhau tái hội mỗi năm một lần là có thật. Giáo sư Trần Đại Sỹ kết luận rằng cánh đồng Tương chính là vùng trũng phía Tây Ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động Đình, Nguyên Giang. Phía Nam là Linh Lăng, Hành Giang. Phía Tây là vùng Chiêu Dương, Lãnh Thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác: Tương Giang, Nguyên Giang, Liên Thủy, Thạch Khê Thủy.

    Cùng với một số luận điểm vững chắc khác, giáo sư Trần Đại Sỹ đi đến kết luận rằng:

    Biên giới cổ của nước Việt Nam, với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam, phía Bắc quả tới hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.

    Vậy là diện tích nước Việt cổ thực sự lớn gấp 10 lần ngày nay.

    Trần Hưng

  • Thời còn vua chúa, Việt Nam là “Phong Kiến” hay “Quân Chủ”

    Thời còn vua chúa, Việt Nam là “Phong Kiến” hay “Quân Chủ”

    Phong Kiến và Quân Chủ khác biệt nhau như thế nào ?

    Đừng nói đến sự khác biệt giữa các chế độ Phong Kiến, Quân Chủ Tây Âu và các chế độ Phong Kiến, Quân Chủ Đông Á, vì nó sẽ đi xa quá bài viết nầy. Vã chăng, đã có nhiều tác giả đề cập tới như Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê (Nhà xuất bản Tổng Hợp, TP Hồ Chí Minh. 2006) hay La Féodalité Chinoise của Granet (Editions Imago, Paris. 1981). Đây tôi muốn nói cái chung của các chế độ Phong Kiến và của các chế độ Quân Chủ tại Á Đông.

    Chế độ Phong Kiến ở Trung Quốc được hình thành, theo Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, vào đời Nhà Chu (khoảng 1111 – 221 TCN), để rồi Nhà Tần sau khi thống nhất đất nước, chấm dứt chế độ Phong Kiến.

    Phong Kiến  封  建  là Phong Tước  封  爵  và Kiến Địa  建  地 ,  nghĩa là vua phong tước cho một bầy tôi (một công thần hay anh em, bà con trong họ…) và cho người đó một khu đất để người đó kiến quốc, lập nước. Người đó trở thành một chư hầu của vua. Đó cũng vì đất nước Trung Hoa vào thời ấy đã quá lớn, quá rộng mà phương tiện giao thông lại thô sơ, nên vua phải ban đất cho công thần, con cháu, để làm phên dậu mà cai trị giúp. Đất đai đó là của riêng của các chư hầu. Các chư hầu có quyền bán, tặng, đổi đất đai vì quyền lợi công hay tư, mà không cần phải có lệnh nhà vua. Đó là chưa nói đến chuyện các chư hầu có quyền chiếm hữu nô lệ. Đến đời Nhà Tần (221 -206) thì đường sá đã khá mở mang, rộng hẹp đều có kích thước, nên Tần Thủy Hoàng nhận thấy chế độ Phong Kiến chỉ đem lại hiềm khích, chiến tranh làm khổ nhân dân, nên đã chia lãnh thổ ra làm quận, huyện và phái công chức (quan lại) đi trấn nhiệm để cai quản. Chuyện là như thế, nhưng chế độ Phong Kiến Trung Quốc vẫn tồn tại, nhất là trong những năm 1916-1949, với việc Viên Thế Khải tự tôn làm hoàng đế, để đất nước bị phân tán trong tay các lãnh chúa. Mạnh ai nấy chiếm đất đai, mạnh ai nấy thâu nô lệ, làm như thời Phong Kiến vậy.

    Còn Quân Chủ là chỉ do một người làm chủ, cai quản đất nước, người đó là vua. Vì vua không có thể có mặt khắp nơi trên đất nước, nên vua phái các quan đi trấn nhiệm ở các trấn, phủ, huyện…, để thay mặt vua mà cai quản đất nước và huấn dụ nhân dân. Các quan là những công chức, ăn lương của triều đình, chứ các trấn, phủ, huyện không là của riêng của họ, mà của chung cả đất nước.

    Vậy căn bản của chế độ Phong Kiến là chế độ Quân Chủ, nhưng nhiều chủ có đặc quyền, đặc lợi rất lớn, rồi ganh ghét nhau, đố kị nhau. Mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy chiếm, sinh ra chiến tranh loạn lạc khắp nơi, chỉ làm cho dân khó yên ổn làm ăn, mà phải phục dịch, đầu quân, đói khát, chết chóc. Một chế độ đáng bãi bỏ thật.

    Nước Việt Nam chúng ta có chế độ Phong Kiến không ?

    Nước Việt Nam chúng ta, trước các nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và các nền Cộng Hòa, tuy đã ” lập quốc “, tuy đã có những dấu ấn riêng biệt, khác với người Trung Hoa, nhưng chúng ta bị ”  Bắc Thuộc ” trên 1 000 năm, mặc dù có những cuộc nổi dậy của các Bà Triệu, Bà Trưng, hay Lý Bôn. Chính Ngô Quyền, vì tư thù, đánh quân Nam Hán, năm 938, mà đã chấm dứt được ách lệ thuộc nước ta với nước Tàu. Nền tự chủ hoàn toàn của nước ta bắt đầu từ đấy. Nhưng liền sau đó, vì nền tự chủ đang còn phôi thai, rồi lâm vào cảnh gian thần ấu chúa, nên sinh ra cái loạn 12 Sứ Quân. Phải đợi đến năm 1010, Thái Tổ Lý Công Uẩn mới lập ra một quốc gia thực sự, với chính thể Quân Chủ, có kỷ cương, có triều chính, có văn hóa và đặt nền nếp cho nước ta từ đó về sau. Nền Quân Chủ Tự Chủ Việt Nam đã tồn tại từ năm 1010 cho đến năm 1945, và sau đó là các chính thể Cộng Hòa.

    khai dinh che kiem
    Khải Định Niên Chế là thanh kiếm lệnh của vua Bảo Đại.
    .
    Khải Định Niên Chế là thanh kiếm được trao lại cho Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa bởi vua Bảo Đại vào ngày 30/8/1945 trong lễ thoái vị của ông. Việc trao gửi thanh Kiếm (cùng chiếc ấn vàng) đánh dấu sự chấm dứt của triều đại nhà Nguyễn cũng như chế độ Quân chủ ở nước ta.

    Trong các Triều Đại Việt Nam, ta thấy các vua có phong tước cho các công thần hay cho con cháu, nhưng đó chỉ là những phần thưởng danh dự, chứ không có ban đất đai cho ai bao giờ, như trong chế độ Phong Kiến. Lý Thường Kiệt được phong là Việt Quốc Công, Trần Quốc Tuấn được phong là Hưng Đạo Vương, vì các vị có công rất lớn với Quốc Gia. Có chăng, các vị được vua ban cho một mảnh đất nhỏ để xây nhà ở, mà theo điển lễ gọi là Phủ, thế thôi. Sau nầy có các công thần lớn, cũng vậy, như Văn Trinh Công Chu Văn An, Dĩnh Thành Hầu Lê Quý Đôn…

    Dưới triều Nguyễn, đôi khi lấy tên, rồi thêm một vài mỹ tự mà phong cho các công thần, như các cụ Thành Tín Hầu Trần Văn Thành, Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, hay lấy tên huyện, tên phủ mà phong, như hai nhà thơ mà nhiều người biết đến là Tùng Thiện Vương Miên-Thẩm, Tuy Lý Vương Miên-Trinh, hay như Anh Sơn Quận Công Hồng-Phi (sau khi mất, được phong tặng Vĩnh Quốc Công), Gia Hưng Vương Hồng-Hưu… Huyện Tùng Thiện thuộc phủ Vĩnh Tường (Sơn Tây), huyện Tuy Lý thuộc phủ Hàm Thuận (Khánh Hòa), phủ Anh Sơn là một trong sáu phủ của tỉnh Nghệ An, phủ Gia Hưng là một trong bốn phủ của tỉnh Hưng Hoá… Tôi chắc là các hoàng tử Miên-Thẩm, Miên-Trinh, Hồng-Phi, Hồng-Hưu, cả đời chưa bao giờ bước chân đến hai huyện Tùng Thiện, Tuy Lý, hai phủ Anh Sơn, Gia Hưng, nói chi đến chuyện được ban cho đất đai như dưới chế độ Phong Kiến ! Có chăng thì cũng được cho một miếng đất nhỏ để xây phủ. Phải nói ngay, là có những phủ, con cháu phải mua đất lấy, để xây phủ mà thờ Ông Bà, nhất là phủ của các hoàng tử không con. Sau khi mất, con hay cháu của các hoàng tử anh em, xin qua làm con hay cháu kế tự (quá kế) và phải mua đất để xây phủ thờ, như Phủ Vĩnh Quốc Công.

    Cao Thế Dung, tác giả của nhiều cuốn sách viết về sử cận đại Việt Nam, nói chế độ Quân Chủ Việt Nam là chế độ ” Quân Chủ Tôn Quân Tập Truyền “. Có người cho là hơi quá đáng, nhưng thật sự cũng không phải là sai. Lý Thái Tổ, Lê Thái Tổ, Nguyễn Thế Tổ… được tôn lên làm vua, hoặc do đình thần nhà Tiền Lê (1010), hoặc do các tướng kháng Minh (1418), hoặc do quần thần cũ của Chúa Nguyễn (1777)… Ngoài ra các vị vua nối nghiệp được chọn lựa rất kỹ lưỡng, không phải con trưởng là được tự động kế nghiệp vua cha. Thái tử được vua chỉ định thế tập, phải được sự đồng ý của các thái hoàng thái hậu, hoàng thái hậu (nếu còn tại thế), của các hàng tông thất (anh em, bà con ruột thịt với vua), của đình thần. Vì theo quan niệm của người xưa, vua phải hiền, phải có tài, phải có đức thì đất nước mới phồn thịnh, nhân dân mới lạc nghiệp an cư.

    Còn thời ” Trịnh, Nguyễn Phân Tranh “, trên lý thuyết, các chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều là ” tôi thần ” của vua Lê. Nhưng trong thực tế, các chúa Trịnh lấy danh nghĩa vua Lê mà cai trị toàn cõi ” Đàng Ngoài “, các chúa Nguyễn thì không không phụ thuộc trực tiếp hay gián tiếp gì với vua Lê cả. ” Đàng Trong ” được các chúa Nguyễn khai phá, ít nhất cũng từ Phú Yên đến mũi Cá Mâu, phần đất mà lúc trước, không thuộc về Đại Việt do nhà Lê, hay các triều trước cai quản. Thời bấy giờ ” Đàng Ngoài ” và ” Đàng Trong ” được xem như hai quốc gia độc lập riêng biệt. Vậy ” Trịnh, Nguyễn Phân Tranh ” không phải là một chế độ Phong Kiến của Đại Việt.

    Nền Quân Chủ xưa của Việt Nam, bất kỳ dưới triều đại nào, ngay cả trong thời kỳ ” Đàng Trong, Đàng Ngoài ” cũng không hề có cái nạn chiếm hữu nô lệ.

    Lược trích từ bài “Có nên dùng hai chữ ” Quân Chủ ” thay cho hai chữ ” Phong Kiến ” 
    để nói đến lịch sử Việt Nam trước thời thành lập nền Cộng Hoà chăng ?”

    của tác giả Nguyễn Vĩnh-Tráng

  • 3 thành tựu rực rỡ của nước Âu Lạc

    3 thành tựu rực rỡ của nước Âu Lạc

    Nhiều vấn đề của nước Âu Lạc cho đến nay đã được làm sáng tỏ ít nhiều, nhưng vẫn chưa đầy đủ về lịch sử – kinh tế – xã hội của quốc gia cổ đại từ hơn 2.200 năm trước. Để làm sáng tỏ bức tranh toàn cảnh của nước Âu Lạc, cần nêu lên một số thành tựu rực rỡ của quốc gia cổ xưa này.

    Công nghệ luyện đúc đồng phát đạt

    Nền văn hóa khảo cổ học Đông Sơn phân bố khắp lãnh thổ miền Bắc nước ta kéo dài từ suốt thiên niên kỷ thứ nhất TCN đến các năm SCN, mà tiêu chí là công nghệ luyện đúc đồng đạt đến trình độ điêu luyện

    Các trung tâm lớn của văn minh Đông Sơn có nhiều, nhưng những địa danh liên quan đến Thục Phán – Âu Lạc lại nổi trội hơn hết, đó là Đào Thịnh – Yên Bái với sưu tập hiện vật đồ đồng đa dạng, trong đó có thạp đồng Đào Thịnh và nhiều trống đồng Đông Sơn. Đó là Cổ Loa, kinh đô của nước Âu Lạc, lại là địa danh văn minh Đông Sơn xuất sắc vùng hạ lưu sông Hồng phía dưới Việt Trì.

    3 thành tựu rực rỡ của nước Âu Lạc

    Ở Cổ Loa có nhiều trống đồng Đông Sơn thuộc trống loại I Hêgơ, có hàng vạn mũi tên đồng. Cũng tại khu vực Cổ Loa tìm thấy nhiều lưỡi cày đồng. Có lẽ chưa có một địa danh văn minh Đông Sơn nào lại quy tụ nhiều loại hiện vật có giá trị tiêu biểu như ở Cổ Loa.

    Chinh phục đồng bằng sông Hồng

    Việc dời đô về Cổ Loa, bỏ qua Việt Trì – Phú Thọ thời Hùng Vương chứng tỏ rằng, cư dân Việt cổ của nước Âu Lạc đã chinh phục được đồng bằng sông Hồng. Điều lý thú là hàng loạt lưỡi cày đồng tìm thấy ở Cổ Loa, chứng tỏ rằng lúc đó nghề nông làm lúa nước bằng cày (có thể do người kéo hay súc vật kéo) đã phát triển.

    Cây lúa hạt thóc là lương thực chủ đạo của cư dân Âu Lạc, những ruộng lúa ven châu thổ sông Hồng đã chín vàng vào mùa khô là điều chắc chắn. Thời Âu Lạc của An Dương Vương đã khác thời Văn Lang của Hùng Vương về lương thực là rõ ràng. Bởi vì thời Hùng Vương đồng ruộng vùng trung du, những đồng bằng hẹp ven sông, lợi dụng thủy triều lên xuống để làm ruộng…

    Tất nhiên, kết quả là có hạn. Đến thời An Dương Vương, ruộng đất được cày xới, nghề nông dùng cày hiệu quả hàng chục lần hơn nghề nông dùng cuốc thời Hùng Vương, là một tiến bộ vượt bậc. Với nông nghiệp dùng cày, kinh tế thời Âu Lạc đã đạt đến trình độ cao. Đó là thành tựu rực rỡ của Âu Lạc.

    Phát triển đô thị cổ

    Với thành Cổ Loa, lâu nay giới nghiên cứu nói nhiều đến ý nghĩa quân sự của tòa thành này. Nhưng điều mà ít người nói đến Cổ Loa là ở vị thế đô thị cổ của nó.

    Có thể là trung tâm hành chính không phải là đô thị cổ và trung tâm quân sự chưa phải là đô thị cổ. Nhưng Cổ Loa là đô thị cổ đích thực, bởi trình độ kinh tế thời Âu Lạc đã được thể hiện ở Cổ Loa, từ làng mạc vươn tới đô hội, nơi có tất cả mọi ngành nghề, quay về hướng nam, nơi có đồng bằng màu mỡ, có nhiều con sông nối với Cổ Loa, sông Hồng, sông Cầu…

    3 thành tựu rực rỡ của nước Âu Lạc

    Ba hạng mục thành tựu rực rỡ của Âu Lạc như vẫn còn đó trong những gì mà người Việt cổ lưu lại cho con cháu, từ truyền thuyết – di tích – hiện vật đến tâm tưởng của mọi thế hệ con cháu của Âu Lạc.

    Theo hoangthanhthanglong.vn

  • Ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang

    Ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang

    Khoảng thế kỉ VII TCN, các vua Hùng đã dựng nên nhà nước đầu tiên trên lãnh thổ nước ta. Đó là nhà nước Văn Lang. Quốc hiệu Văn Lang có ý nghĩa như thế nào? Đó là câu hỏi mà mỗi người con đất Việt muốn tìm hiểu khi nhìn lại cội nguồn dân tộc.

    Nước Văn Lang năm 500 TCN
    Bản đồ Nước Văn Lang năm 500 TCN

    Hiện tại, ít nhất có ba cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của quốc hiệu Văn Lang:

    Cách thứ nhất cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách Đới Kí của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là “Điêu Đề” cũng không ngoài ý nghĩa này (Điêu nghĩa là chạm, xăm; đề là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra lúc bấy giờ, dân ta không chỉ xăm hình vào trán).

    Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là cũng không ngoài ý nghĩa này ( nghĩa là chạm, xăm; là cái trán. Điêu Đề là xăm hình vào trán. Thực ra lúc bấy giờ, dân ta không chỉ xăm hình vào trán).

    Cách thứ hai cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu nên mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích: hai chữ “tân lang” (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích thứ hai này chính là tính phổ biến và sự trường tồn của tục nhuộm răng và ăn trầu. Tuy nhiên, “tân lang” là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức là sau sự khai sinh của Văn Lang rất nhiều thế kỉ. Vì vậy, cách giải thích này xem ra khó có thể thuyết phục được nhiều người.

    Vì tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu nên mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích: hai chữ (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích thứ hai này chính là tính phổ biến và sự trường tồn của tục nhuộm răng và ăn trầu. Tuy nhiên, là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức là sau sự khai sinh của Văn Lang rất nhiều thế kỉ. Vì vậy, cách giải thích này xem ra khó có thể thuyết phục được nhiều người.

    Cách thứ ba cho rằng: Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu của ngành Ngữ âm học lịch sử. Theo đó thì:

    Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu của ngành . Theo đó thì:
    1. Văn là người, nhóm người, tộc người, cộng đồng người,…
    2. Lang là sông, đồng nghĩa với giang, với xuyên (trong âm Hán – Việt), với khoảng (trong tiếng Lào) và với kông (trong tiếng Khmer).

    Ghép lại, Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.

    Lập luận của những người chủ trương giải thích theo cách thứ ba được củng cố thêm bởi kết quả của hàng loạt những cuộc khai quật khảo cổ dọc theo lưu vực sông Hồng và sông Mã. Bởi lẽ này, cách giải thích thứ ba được nhiều người tán thành nhất.

  • Quốc huy Việt Nam xưa và nay

    Quốc huy Việt Nam xưa và nay

    Quốc huy Việt Nam – một sản phẩm của sáng tác hội hoạ, là biểu tượng cô đọng, súc tích và đầy đủ về đất nước và con người Việt Nam, nó hàm chứa khát vọng tha thiết của một dân tộc yêu chuộng hoà bình và khẳng định chủ quyền thiêng liêng của quốc gia độc lập. Quốc huy của chúng ta thật đẹp về hình thức, hàm súc về nội dung, thật sự không thua kém bất cứ quốc huy nào trên thế giới. Tác giả Quốc huy từ mấy chục năm nay được xác định là của Cố hoạ sĩ Trần Văn Cẩn.

    Mời bạn click vào từng ảnh để xem hình Quốc Huy đầy đủ kích thước!

    Quốc huy Việt Nam XHCN
    Mẫu quốc huy chuẩn

    So sánh với mẫu quốc huy Việt Nam chính thức, các hình quốc huy đã được sử dụng thường có những sai sót như:

    – Hình quốc huy chưa đúng hình tròn. Bố cục thiếu cân đối. Vị trí, tỷ lệ và các hình tượng trong quốc huy chưa chính xác.

    – Vị trí, hình dáng, đường nét các bông lúa, lá lúa, hạt lúa chưa đúng. Hạt lúa lúc tròn, lúc vát nhọn, số lượng hạt lúa khi thừa khi thiếu. Khoảng cách giữa hai đầu các bông lúa lúc xa lúc liền nhau. Các cọng bông lúa kết thành đế quốc huy xòe quá to hoặc bị thu nhỏ, mất cân đối.

    – Chiều ánh sáng ngôi sao của mẫu quốc huy Việt Nam chính thức, chiếu từ bên phải sang, theo bản đồ Việt Nam là ánh sáng ban mai từ biển Đông chiếu vào. Trong hình quốc huy sai, ánh sáng chiếu ngược từ phía tây ở bên trái sang vào buổi chiều, phần bóng ngôi sao in sai thành màu quá đậm hoặc màu đỏ.

    – Bánh xe răng cưa sai hình và chỉ có 5, 7, 9 răng (bánh xe quốc huy chuẩn có 10 răng). Trong bánh xe lại có các vành màu đỏ.

    – Băng đỏ có tên nước về hình dáng, góc độ uốn lượn chưa đúng.

    Quốc huy trên bằng khen của Bộ Nội vụ

    Quốc huy trên huân chương, bằng giải thưởng Nhà nước
    Quốc huy trên huân chương, bằng giải thưởng Nhà nước
    Quốc huy trên trụ sở UBND quận Tây Hồ
    Quốc huy trên trụ sở UBND quận Tây Hồ
    Quốc huy trên trụ sở UBND TP Hà Nội
    Quốc huy trên trụ sở UBND TP Hà Nội
    Quốc huy trên trụ sở Viện KSND tỉnh Quảng Ninh
    Quốc huy trên trụ sở Viện KSND tỉnh Quảng Ninh
    Quốc huy trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
    Quốc huy trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
    Quốc huy trên trụ sở Bộ Ngoại giao
    Quốc huy trên trụ sở Bộ Ngoại giao
    Quốc huy trên trụ sở TAND TP Hà Nội
    Quốc huy trên trụ sở TAND TP Hà Nội